Bài viết đây xem như một món quà - Phạm Ngọc Thái "Nhà thơ của tự do" gửi biếu Đại hội IX - HNVVN - Về chân dung văn học nói chung và... tầm vóc chân dung nhà thơ của nền văn hiến Thăng Long, nói riêng. Cuộc thách đấu của Phạm Ngọc Thái lấy ý nghĩa và giá trị đối với cả nền thi ca của nước nhà... trường cửu tới mai sau.
Nội dung thách đấu gồm hai phần:
1. Phạm Ngọc Thái thách 50 nhà thơ đương đại của HNVVN
2. Thách phản biện tập sách "Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại", Nxb Văn hoá Thông tin 2014
Trước khi nói cụ thể về hai mục thách đấu trên - Xin bàn đến:
MỘT NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG VIỆC THẨM ĐỊNH THƠ HAY
Muốn thẩm định cho xác đáng một tác phẩm thi ca, phải thông qua việc đánh giá số bài thơ hay, khá hay, hoặc sâu sắc có được trong tác phẩm thi ca đó. Nhưng muốn đánh giá được thế nào mới là một bài "thơ hay" thực sự của thi đàn trong nền văn học nước nhà? - Nguyên tắc trước hết phải nhận định bài thơ đó có khả năng tồn tại trường cửu với tháng năm, sống lâu dài với nghìn năm văn hiến Thăng Long hay không? Nếu bài thơ hoặc tác phẩm thi ca mà không có khả năng sống trường cửu với đời, chỉ để làm văn nghệ cổ động phong trào nhất thời, hoặc phục vụ mục đích chính trị - Thì đó là loại thơ rồi sẽ ra... "rác".
Trước khi nói cụ thể về hai mục thách đấu trên - Xin bàn đến:
MỘT NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG VIỆC THẨM ĐỊNH THƠ HAY
Muốn thẩm định cho xác đáng một tác phẩm thi ca, phải thông qua việc đánh giá số bài thơ hay, khá hay, hoặc sâu sắc có được trong tác phẩm thi ca đó. Nhưng muốn đánh giá được thế nào mới là một bài "thơ hay" thực sự của thi đàn trong nền văn học nước nhà? - Nguyên tắc trước hết phải nhận định bài thơ đó có khả năng tồn tại trường cửu với tháng năm, sống lâu dài với nghìn năm văn hiến Thăng Long hay không? Nếu bài thơ hoặc tác phẩm thi ca mà không có khả năng sống trường cửu với đời, chỉ để làm văn nghệ cổ động phong trào nhất thời, hoặc phục vụ mục đích chính trị - Thì đó là loại thơ rồi sẽ ra... "rác".
Cũng như muốn xác định tầm vóc chân dung một thi nhân, trước hết phải xác định thi phẩm của anh ta có khả năng tồn tại hay không? Bởi vì, thơ đã không thể tồn tại, dù có vì ý nghĩa gì?... trước sau cũng vứt đi. Đã là thơ vứt đi, thử hỏi lấy cớ gì để xác định chân dung nhà thơ đó trong nền văn hiến Thăng Long? cho nên một bài thơ, một tác phẩm thi ca dù thể loại nào, trường phái nào, cách tân đến mấy mà không có khả năng sống lâu dài với tháng năm, thì không thể coi thi phẩm ấy có một giá trị đích thực được. Tức là không thể đánh giá hay xếp hạng chân dung thi nhân đó, khi thơ của anh ta không có khả năng tồn tại.
MINH HOẠ ĐÔI NÉT VỀ HÀN MẶC TỬ:
Về thi pháp để tạo nên những bài thơ hay của Hàn Mặc Tử không giống như Xuân Diệu, Huy Cận và các nhà thơ khác trong phong trào "thơ mới" thời tiền chiến? Hầu hết đều theo khuynh hướng thơ lãng mạn thuần túy. Với Hàn Mặc Tử, nếu kể các bài thơ hay của ông như: Mùa xuân chín, Bẽn lẽn và Đây thôn Vỹ Dạ... là bài thơ điển hình, thi nhân đã sử dụng hài hoà thi pháp của dòng thơ tượng trưng hiện đại Pháp. Theo thuyết "tương ứng cảm quan" do Charles Baudelaire (1821-1867), nhà thơ bậc thầy của trường phái thơ tượng trưng châu Âu lúc đó chủ xướng. Nghĩa là: những hình ảnh, biểu tượng để tượng trưng đều dựa vào cảm thụ của các giác quan, hay từ trong tâm linh - gọi là cảm quan. Cho nên thỉnh thoảng vẫn xen những ngôn ngữ mơ hồ và... ảo. Như Chế Lan Viên đã viết:
Anh phải đi từ bờ bên này sang bờ bên kia đấy
Bờ bên kia hư ảo - bờ thơ
(trích Di cảo)
Tuy nhiên, trong thơ ca không phải bài thơ hay nào ngày một, ngày hai cũng đánh giá ngay được. Như bài "Đây thôn Vỹ Dạ" của Hàn Mặc Tử, thuộc trong ít bài thơ hay nhất thế kỷ XX, thế mà phải gần năm mươi năm sau kể từ khi nó ra đời, mới được thi đàn ngợi ca để trở thành bài thơ nổi tiếng. Thậm chí cả trong Thi Nhân Việt Nam của nhà nghiên cứu bình luận thi ca danh giá Hoài Thanh, khi trích đăng một số bài thơ tiêu biểu của Hàn Mặc Tử, ông lại chưa phát hiện ra được... nên để sót không đăng bài thơ tình hay nhất đó của thi nhân.
Theo tôi, Hàn Mặc Tử là nhà thơ lớn nhất thời tiền chiến với ba bài thơ hay nổi tiếng như đã nói trên. Nhưng với tuyển thơ trên trăm bài thi nhân đã để lại cho nền văn học nước nhà, nhất là những tập "Mật đắng - Máu cuồng và hồn điên" - Thiên tài Hàn Mặc Tử thăng hoa để sáng tác ra những vần thơ, trang thơ kiệt xuất. Hoài Thanh từng có nhận định trong Thi Nhân Việt Nam, rằng:
"Hàn Mặc Tử đi trong trăng, há miệng cho máu tung ra làm biển cả, cho hồn văng ra và rú lên những tiếng ghê người... Một tác phẩm như thế, ta không có thể nói hay hay dở; nó đã ra ngoài vòng nhân gian; nhân gian không có quyền phê phán. Ta chỉ biết trong văn thơ cổ kim không có gì kinh dị hơn".
Lại nói về giai đoạn phong trào "thơ mới" thời tiền chiến - Đã được văn đàn nhận định như là thời kỳ phục hưng của thi ca Việt. Xuất hiện hàng loạt các nhà thơ lớn: Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính... cùng nhiều bậc thi nhân xuất sắc khác như Bích Khê, Yến Lan, Vũ Hoàng Chương, Quách Tấn, Nguyễn Nhược Pháp v.v... Những thi nhân ấy đã để lại cho nền văn hiến Thăng Long cả một kho tàng thi ca viết vào giai đoạn trước cách mạng, muôn màu và đầy hương sắc.
LỜI VỀ XUÂN DIỆU:
Tuyển tập thơ Xuân Diệu cũng tới vài ba trăm bài, gồm hai mảng thơ: Mảng thơ tình trước cách mạng, như tập Thơ thơ, Gửi hương cho gió, khoảng trên dưới 70 bài. Tất cả còn lại là mảng thơ thi nhân đã sáng tác vào thời kỳ sau cách mạng. Nhưng sở dĩ Xuân Diệu được xác định là một thi nhân lớn, chủ yếu lại chính nhờ vào mấy chục bài thơ tình mà ông đã sáng tác từ trước cách mạng ấy. Chỉ với hai tập Thơ thơ, Gửi hương cho gió... viết trước cách mạng đó thôi, đã có thể nói rằng: Chúng ta đã có một nhà thơ chiếm một vị trí đặc biệt trong thơ tình của Việt Nam. Như Thế Lữ trước kia đã từng nói về ông rằng: Chúng ta đã có một Xuân Diệu!
Mấy trăm bài thơ Xuân Diệu viết sau cách mạng, có bài thơ "biển" là đứng được với thời gian. Hầu hết thơ viết sau cách mạng của ông thuộc loại thơ của một thời. Có lẽ vào giây phút chót cuộc đời, Xuân Diệu cũng đã nhận ra điều đó, cho nên trong bài "Giã từ" cuối cùng ông đã viết để lại rằng:
Nếu để cho tôi được giã từ
Kính chào cõi thực để vào hư
Trong hơi thở chót dâng trời đất
Xuống đến suối vàng vẫn ngất ngư.
Hai tập Thơ thơ, Gửi hương cho gió ấy, là thơ tồn tại!
HUY CẬN:
Cũng như Xuân Diệu - Huy Cận được xác định vào hàng các nhà thơ lớn của nền văn học, chủ yếu nhờ tập "Lửa thiêng" mà thi nhân đã sáng tác trước cách mạng. Ông nổi tiếng với Tràng Giang, một bài thơ tuyệt hay!... và bài Ngậm ngùi được xem là mẫu mực của thể thơ lục bát. Mặc dù sau cách mạng Huy Cận cũng đã viết hàng trăm các bài thơ khác... cũng chỉ là thơ của một thời. Bài thơ đáng nói nhất của Huy Cận viết vào giai đoạn sau cách mạng, là bài "các vị La hán chùa Tây Phương". Bài thơ khá dài, 15 đoạn 60 câu. Nó nói về kiếp khổ hạnh thời xưa cũ, thông qua gương mặt các vị La Hán ấy. Hình tượng thơ sinh động, sâu sắc và tương đối khúc triết. Giọng thơ nhuần nhụy, dễ nghe. Có sức thuyết phục bởi ý tưởng thơ thấm đẫm được nỗi đau đời. Cái đoạn kiếp luân hồi chốn trần gian. Bài thơ có khả năng đứng được với thời gian. Chỉ tiếc là... tuy thơ nói về nỗi khổ hạnh nơi trần thế, nhưng đến cuối bài, tác giả có phần nắn theo khuynh hướng chính trị. Nó mang tính khẩu hiệu: cái mới tất cả là "hảo hảo", tốt tốt hết? Chủ nghĩa nhân văn của tình thơ vì thế giảm đi phần nào. Sự sung mãn của bài thơ cũng yếu đi. Như hai đoạn thơ kết này chẳng hạn:
Các vị La Hán chùa Tây Phương
Hôm nay xã hội đã lên đường
Tôi nhìn mặt tượng dường tươi lại
Xua bóng hoàng hôn, tản khói sương.
Cha ông yêu mến thời xưa cũ
Trần trụi đau thương bỗng hoá gần
Những bước mất đi trong thớ gỗ
Về đây tươi lại dặm đường xuân.
Theo tôi, giá như thi nhân không dùng hai đoạn kết ấy, bài thơ Các Vị La Hán Chùa Tây Phương vẫn đủ sự viên mãn mà lại còn hay hơn.
Tóm lại, Thơ viết trước cách mạng của Huy Cận với tập Lửa thiêng thuộc loại thơ tồn tại!
Nếu tôi có dẫn giải thêm về Chế Lan Viên và Nguyễn Bính thì cũng tương tự như vậy.
CHẾ LAN VIÊN:
Nói tới Chế Lan Viên người ta nghĩ ngay đến Điêu tàn, thơ viết trước cách mạng. Là tập thơ đầu tay được sáng tác khi thi nhân mới chỉ ở vào tuổi thiếu niên. Hoài Thanh đã từng nhận xét trong Thi Nhân Việt Nam:
"Quyển Điêu tàn đã đột ngột xuất hiện ra giữa làng thơ Việt Nam như một niềm kinh dị... Nó dựng lên một thế giới... cái thế giới lạ lùng và rùng rợn ấy, ai có ngờ ở trong tâm trí một cậu bé mười lăm mười sáu tuổi. Cậu bé ấy đã khiến bao người ngạc nhiên. Giữa đồng bằng văn học Việt Nam ở nửa thế kỷ hai mươi, nó đứng sững như một cái tháp Chàm, chắc chắn và lẻ loi, bí mật".
Đồng thời - tầm vóc Chế Lan Viên cao lên còn nhờ vào cả một khối Di cảo thơ đồ sộ tới năm sáu trăm bài viết tự do. không theo một yêu cầu nào về mặt chính trị, cũng không để cổ động cho một phong trào văn hoá, văn nghệ nào. Nghĩa là, những bài trong Di cảo đó thi nhân sáng tác theo nhu cầu cảm xúc tự thân. Không ít bài còn ở dạng dang dở trong bản thảo, được xuất bản sau khi thi nhân đã qua đời.
Như đã nói, thơ Chế Lan Viên là loại thơ triết lý. Những trang Di cảo thơ đó Người hoàn toàn sáng tác tự do, tự do tung phá... sâu sắc tính nhân văn. Thậm chí kể cả những bài mang tính phản biện về mặt chính trị cũng rất quí. Nhiều bài đặc sắc. Nhờ có khối Di cảo thơ đồ sộ này, tầm vóc chân dung thi nhân lớn của Chế Lan Viên cao lên nhiều.
Như thế có thể nói: Trong tuyển thơ Chế Lan Viên có hai mảng viết hoàn toàn tự do - Hai mảng tự do đó đã được thăng hoa, phát tiết... tạo nên một tầm vóc thi nhân lớn, sừng sững - Chính là Điêu tàn và Di cảo thơ! Hai loại tác phẩm thi ca ấy sẽ còn sống mãi với non sông và nền văn học nước nhà. Đó là "thơ tồn tại"!
Tuy nhiên, riêng về Chế Lan Viên - Vì thơ có tính triết lý cao, nên trong mảng thơ sáng tác sau cách mạng, với những áng thi ca thấm đẫm màu sắc triết học, nhất là những bài về chủ đề Tổ quốc - Nhân dân... vẫn được đời ngưỡng mộ.
NGUYỄN BÍNH:
Nói đến Nguyễn Bính người ta nhớ nhiều những bài thơ trong tập: Lỡ bước sang ngang (1940), Tâm hồn tôi (1940), Hương cố nhân (1941), Mười hai bến nước (1942)... với các bài như: Mưa xuân, Lỡ bước sang ngang, Cô hái mơ, cô lái đò, Viếng hồn trinh nữ, Chân quê, Những bóng người trên sân ga, v.v... Và một số bài thơ lẻ, thi nhân đã viết trước cách mạng - Thí dụ bài Một trời quan tái:
Bờ bên kia hư ảo - bờ thơ
(trích Di cảo)
Tuy nhiên, trong thơ ca không phải bài thơ hay nào ngày một, ngày hai cũng đánh giá ngay được. Như bài "Đây thôn Vỹ Dạ" của Hàn Mặc Tử, thuộc trong ít bài thơ hay nhất thế kỷ XX, thế mà phải gần năm mươi năm sau kể từ khi nó ra đời, mới được thi đàn ngợi ca để trở thành bài thơ nổi tiếng. Thậm chí cả trong Thi Nhân Việt Nam của nhà nghiên cứu bình luận thi ca danh giá Hoài Thanh, khi trích đăng một số bài thơ tiêu biểu của Hàn Mặc Tử, ông lại chưa phát hiện ra được... nên để sót không đăng bài thơ tình hay nhất đó của thi nhân.
Theo tôi, Hàn Mặc Tử là nhà thơ lớn nhất thời tiền chiến với ba bài thơ hay nổi tiếng như đã nói trên. Nhưng với tuyển thơ trên trăm bài thi nhân đã để lại cho nền văn học nước nhà, nhất là những tập "Mật đắng - Máu cuồng và hồn điên" - Thiên tài Hàn Mặc Tử thăng hoa để sáng tác ra những vần thơ, trang thơ kiệt xuất. Hoài Thanh từng có nhận định trong Thi Nhân Việt Nam, rằng:
"Hàn Mặc Tử đi trong trăng, há miệng cho máu tung ra làm biển cả, cho hồn văng ra và rú lên những tiếng ghê người... Một tác phẩm như thế, ta không có thể nói hay hay dở; nó đã ra ngoài vòng nhân gian; nhân gian không có quyền phê phán. Ta chỉ biết trong văn thơ cổ kim không có gì kinh dị hơn".
Lại nói về giai đoạn phong trào "thơ mới" thời tiền chiến - Đã được văn đàn nhận định như là thời kỳ phục hưng của thi ca Việt. Xuất hiện hàng loạt các nhà thơ lớn: Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính... cùng nhiều bậc thi nhân xuất sắc khác như Bích Khê, Yến Lan, Vũ Hoàng Chương, Quách Tấn, Nguyễn Nhược Pháp v.v... Những thi nhân ấy đã để lại cho nền văn hiến Thăng Long cả một kho tàng thi ca viết vào giai đoạn trước cách mạng, muôn màu và đầy hương sắc.
LỜI VỀ XUÂN DIỆU:
Tuyển tập thơ Xuân Diệu cũng tới vài ba trăm bài, gồm hai mảng thơ: Mảng thơ tình trước cách mạng, như tập Thơ thơ, Gửi hương cho gió, khoảng trên dưới 70 bài. Tất cả còn lại là mảng thơ thi nhân đã sáng tác vào thời kỳ sau cách mạng. Nhưng sở dĩ Xuân Diệu được xác định là một thi nhân lớn, chủ yếu lại chính nhờ vào mấy chục bài thơ tình mà ông đã sáng tác từ trước cách mạng ấy. Chỉ với hai tập Thơ thơ, Gửi hương cho gió... viết trước cách mạng đó thôi, đã có thể nói rằng: Chúng ta đã có một nhà thơ chiếm một vị trí đặc biệt trong thơ tình của Việt Nam. Như Thế Lữ trước kia đã từng nói về ông rằng: Chúng ta đã có một Xuân Diệu!
Mấy trăm bài thơ Xuân Diệu viết sau cách mạng, có bài thơ "biển" là đứng được với thời gian. Hầu hết thơ viết sau cách mạng của ông thuộc loại thơ của một thời. Có lẽ vào giây phút chót cuộc đời, Xuân Diệu cũng đã nhận ra điều đó, cho nên trong bài "Giã từ" cuối cùng ông đã viết để lại rằng:
Nếu để cho tôi được giã từ
Kính chào cõi thực để vào hư
Trong hơi thở chót dâng trời đất
Xuống đến suối vàng vẫn ngất ngư.
Hai tập Thơ thơ, Gửi hương cho gió ấy, là thơ tồn tại!
HUY CẬN:
Cũng như Xuân Diệu - Huy Cận được xác định vào hàng các nhà thơ lớn của nền văn học, chủ yếu nhờ tập "Lửa thiêng" mà thi nhân đã sáng tác trước cách mạng. Ông nổi tiếng với Tràng Giang, một bài thơ tuyệt hay!... và bài Ngậm ngùi được xem là mẫu mực của thể thơ lục bát. Mặc dù sau cách mạng Huy Cận cũng đã viết hàng trăm các bài thơ khác... cũng chỉ là thơ của một thời. Bài thơ đáng nói nhất của Huy Cận viết vào giai đoạn sau cách mạng, là bài "các vị La hán chùa Tây Phương". Bài thơ khá dài, 15 đoạn 60 câu. Nó nói về kiếp khổ hạnh thời xưa cũ, thông qua gương mặt các vị La Hán ấy. Hình tượng thơ sinh động, sâu sắc và tương đối khúc triết. Giọng thơ nhuần nhụy, dễ nghe. Có sức thuyết phục bởi ý tưởng thơ thấm đẫm được nỗi đau đời. Cái đoạn kiếp luân hồi chốn trần gian. Bài thơ có khả năng đứng được với thời gian. Chỉ tiếc là... tuy thơ nói về nỗi khổ hạnh nơi trần thế, nhưng đến cuối bài, tác giả có phần nắn theo khuynh hướng chính trị. Nó mang tính khẩu hiệu: cái mới tất cả là "hảo hảo", tốt tốt hết? Chủ nghĩa nhân văn của tình thơ vì thế giảm đi phần nào. Sự sung mãn của bài thơ cũng yếu đi. Như hai đoạn thơ kết này chẳng hạn:
Các vị La Hán chùa Tây Phương
Hôm nay xã hội đã lên đường
Tôi nhìn mặt tượng dường tươi lại
Xua bóng hoàng hôn, tản khói sương.
Cha ông yêu mến thời xưa cũ
Trần trụi đau thương bỗng hoá gần
Những bước mất đi trong thớ gỗ
Về đây tươi lại dặm đường xuân.
Theo tôi, giá như thi nhân không dùng hai đoạn kết ấy, bài thơ Các Vị La Hán Chùa Tây Phương vẫn đủ sự viên mãn mà lại còn hay hơn.
Tóm lại, Thơ viết trước cách mạng của Huy Cận với tập Lửa thiêng thuộc loại thơ tồn tại!
Nếu tôi có dẫn giải thêm về Chế Lan Viên và Nguyễn Bính thì cũng tương tự như vậy.
CHẾ LAN VIÊN:
Nói tới Chế Lan Viên người ta nghĩ ngay đến Điêu tàn, thơ viết trước cách mạng. Là tập thơ đầu tay được sáng tác khi thi nhân mới chỉ ở vào tuổi thiếu niên. Hoài Thanh đã từng nhận xét trong Thi Nhân Việt Nam:
"Quyển Điêu tàn đã đột ngột xuất hiện ra giữa làng thơ Việt Nam như một niềm kinh dị... Nó dựng lên một thế giới... cái thế giới lạ lùng và rùng rợn ấy, ai có ngờ ở trong tâm trí một cậu bé mười lăm mười sáu tuổi. Cậu bé ấy đã khiến bao người ngạc nhiên. Giữa đồng bằng văn học Việt Nam ở nửa thế kỷ hai mươi, nó đứng sững như một cái tháp Chàm, chắc chắn và lẻ loi, bí mật".
Đồng thời - tầm vóc Chế Lan Viên cao lên còn nhờ vào cả một khối Di cảo thơ đồ sộ tới năm sáu trăm bài viết tự do. không theo một yêu cầu nào về mặt chính trị, cũng không để cổ động cho một phong trào văn hoá, văn nghệ nào. Nghĩa là, những bài trong Di cảo đó thi nhân sáng tác theo nhu cầu cảm xúc tự thân. Không ít bài còn ở dạng dang dở trong bản thảo, được xuất bản sau khi thi nhân đã qua đời.
Như đã nói, thơ Chế Lan Viên là loại thơ triết lý. Những trang Di cảo thơ đó Người hoàn toàn sáng tác tự do, tự do tung phá... sâu sắc tính nhân văn. Thậm chí kể cả những bài mang tính phản biện về mặt chính trị cũng rất quí. Nhiều bài đặc sắc. Nhờ có khối Di cảo thơ đồ sộ này, tầm vóc chân dung thi nhân lớn của Chế Lan Viên cao lên nhiều.
Như thế có thể nói: Trong tuyển thơ Chế Lan Viên có hai mảng viết hoàn toàn tự do - Hai mảng tự do đó đã được thăng hoa, phát tiết... tạo nên một tầm vóc thi nhân lớn, sừng sững - Chính là Điêu tàn và Di cảo thơ! Hai loại tác phẩm thi ca ấy sẽ còn sống mãi với non sông và nền văn học nước nhà. Đó là "thơ tồn tại"!
Tuy nhiên, riêng về Chế Lan Viên - Vì thơ có tính triết lý cao, nên trong mảng thơ sáng tác sau cách mạng, với những áng thi ca thấm đẫm màu sắc triết học, nhất là những bài về chủ đề Tổ quốc - Nhân dân... vẫn được đời ngưỡng mộ.
NGUYỄN BÍNH:
Nói đến Nguyễn Bính người ta nhớ nhiều những bài thơ trong tập: Lỡ bước sang ngang (1940), Tâm hồn tôi (1940), Hương cố nhân (1941), Mười hai bến nước (1942)... với các bài như: Mưa xuân, Lỡ bước sang ngang, Cô hái mơ, cô lái đò, Viếng hồn trinh nữ, Chân quê, Những bóng người trên sân ga, v.v... Và một số bài thơ lẻ, thi nhân đã viết trước cách mạng - Thí dụ bài Một trời quan tái:
Chiều lại buồn rồi, em vẫn xa
Lá rừng thu đổ, nắng sông tà
Chênh vênh quán rượu mờ sương khói
Váng vất thôn sâu quạnh tiếng gà.
........
Chiều nay thương nhớ nhất chiều nay
Thoáng bóng em trong cốc rượu đầy
Tôi uống cả em và uống cả
Một trời quan tái, mấy cho say!
Hay là Đường rừng chiều:
... Chim nào kêu mỏi ngàn cây
Ngẩn ngơ đôi chiếc ngựa gầy dong xe
Đồi sim dan díu nương chè
Trắng phau khói núi, xanh lè áo ai...
Những bài thơ ấy, những trang thơ ấy đời sẽ còn nhớ mãi. Thơ sau cách mạng Nguyễn Bính viết cũng nhiều, nhưng người ta cũng đã quên nhiều.
BÍCH KHÊ:
Tuy chưa phải là nhà thơ lớn nhưng Bích Khê đã thuộc vào bậc tài danh thời tiền chiến. Cùng với tập "Tinh hoa" - "Tinh huyết" của thi nhân được nhiều người biết đến. Hoài Thanh đã từng khen trong Thi Nhân Việt Nam:
"Tôi đã gặp trong Tinh huyết những câu thơ hay vào bực nhất trong thơ Việt Nam:
Lá rừng thu đổ, nắng sông tà
Chênh vênh quán rượu mờ sương khói
Váng vất thôn sâu quạnh tiếng gà.
........
Chiều nay thương nhớ nhất chiều nay
Thoáng bóng em trong cốc rượu đầy
Tôi uống cả em và uống cả
Một trời quan tái, mấy cho say!
Hay là Đường rừng chiều:
... Chim nào kêu mỏi ngàn cây
Ngẩn ngơ đôi chiếc ngựa gầy dong xe
Đồi sim dan díu nương chè
Trắng phau khói núi, xanh lè áo ai...
Những bài thơ ấy, những trang thơ ấy đời sẽ còn nhớ mãi. Thơ sau cách mạng Nguyễn Bính viết cũng nhiều, nhưng người ta cũng đã quên nhiều.
BÍCH KHÊ:
Tuy chưa phải là nhà thơ lớn nhưng Bích Khê đã thuộc vào bậc tài danh thời tiền chiến. Cùng với tập "Tinh hoa" - "Tinh huyết" của thi nhân được nhiều người biết đến. Hoài Thanh đã từng khen trong Thi Nhân Việt Nam:
"Tôi đã gặp trong Tinh huyết những câu thơ hay vào bực nhất trong thơ Việt Nam:
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông".
Đặc biệt với bài “Tranh lõa thể” nổi tiếng, Hàn Mặc Tử ca ngợi hết lời: "Thi sĩ Bích Khê là người có đôi mắt rất mơ, rất mộng, rất ảo. Nhìn vào thực tế thì sự thực sẽ thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại thấy xô sang địa hạt huyền diệu... ".
Cũng giống Hàn Mặc Tử, thơ Bích Khê đậm màu sắc của dòng thơ tượng trưng Pháp như Baudelaire, Verlaine. Thi ca của ông huyền ảo đến mức mà chính Hoài Thanh đã nói: "Thơ Bích Khê mới đọc đôi ba lần thì cũng như chưa đọc". Người các thời gọi ông là "Thi sĩ của thần linh".
Mỗi khi nhắc về thời tiền chiến, các nhà lý luận phê bình văn học vẫn tìm tòi, nghiên cứu thế giới tâm linh cũng như ngôn ngữ nghệ thuật thơ ông.
SƠ QUA VỀ CÁC NHÀ THƠ HNVVN ĐƯƠNG ĐẠI
Tôi từng nói với nhà viết "Chân dung và đối thoại" Trần đăng Khoa rằng: “Các nhà thơ đương đại của HNVVN có chân dung thấp nhất trong lịch sử thơ ca!”
Nếu thời tiền chiến được coi là giai đoạn phục hưng của thơ ca Việt Nam, đã ra đời hàng loạt các nhà thơ lớn và nhiều bậc thi nhân tài danh, như đã nói - Thì, chân dung các nhà thơ đương đại của HNVVN ngày nay, có lẽ thuộc vào loại thấp kém nhất so với các thời kỳ của cả nghìn năm văn hiến Thăng Long?
Khoảng nửa thế kỷ trở lại đây không có được một nhà thơ lớn nào, đã đành. Cả một Hội nhà văn Việt Nam đương đại có đến mấy trăm nhà thơ, mà nhìn đi nhìn lại vẫn không thấy một chân dung nào khả dĩ, có thể chọn được một tập thơ lưu lại cho đời? Phần lớn thơ của họ, như người ta thường nói là "thơ mậu dịch quốc doanh". Thơ làm phong trào, hay phục vụ chủ trương chính sách, rồi thì... sẽ ra "rác". Thảng cũng có được nhà thơ có một đôi bài kha khá - chứ thơ hay thực sự của thi đàn như các thi nhân mà tôi đã dẫn giải trên, thì... không có. Hầu như chân dung các nhà thơ có tên tuổi của đương đại, kể cả ông Chủ tịch Hội nhà văn Hữu Thỉnh, chủ yếu do được thổi lên, sơn son thếp vàng.
Phần này tôi sẽ dẫn giải chi tiết sau - Giờ xin trở lại với hai nội dung thách đấu đã nói trên.
I- PHẠM NGỌC THÁI THÁCH 50 NHÀ THƠ ĐƯƠNG ĐẠI CỦA HNVVN
Tùy ý do Hữu Thỉnh Chủ tịch Hôị nhà văn tuyển lựa. Mỗi người chọn lấy một bài thơ hay nhất của mình.
Thí dụ - Hữu Thỉnh có thể chọn “Thơ viết ở biển”, ” Sang thu”, hay “Năm anh em trên một chiếc xe tăng”...
(Mở ngoặc nói thêm về các trường ca của Hữu Thỉnh, như "Đường tới thành phố" hay "Trường ca biển"... viết còn dông dài, dặm lời nghĩa ít, tầm vóc làng nhàng. Viết để phô trong phong trào thơ ca văn nghệ, chính trị. Các loại trường ca này không thể tồn tại được với thời gian. Không lưu được vào nền văn học nước nhà. Cho nên với ý nghĩa của văn hiến Thăng Long, nó không có giá trị).
- Vũ Quần Phương có thể chọn bài "Đợi" hay nhất của ông ta - Bằng Việt, Chủ tịch Hội đồng thơ HNVVN đương thời, chọn với “Bếp lửa” hoặc “Nghĩ lại về Pautôpxky”... là bài thơ tình hay nhất của Bằng Việt - Thanh Nhàn thì chọn “Hương thầm” v.v...
Nghĩa là, 50 nhà thơ với 50 bài thơ hay nhất, cao nhất của HNVVN đương đại - Một mình Phạm Ngọc Thái, tôi cũng sẽ chọn đủ 50 bài thơ hay nhất của tôi đã xuất bản.
Tất cả tổng cộng 100 bài.
a/. BAN GIÁM KHẢO ĐỂ BÌNH LUẬN VÀ ĐÁNH GIÁ:
Tôi giành cho Hữu Thỉnh Chủ tịch Hội nhà văn tuỳ chọn ban giám khảo, phán xét đối với cuộc thách đấu này. Thí dụ: Vũ Quần Phương, được Hội nhà văn coi là nhà bình thơ số 1 ở đương thời; hay nhà viết Chân dung và đối thoại Trần đăng Khoa... muốn chọn ai cũng được - Một mình Phạm Ngọc Thái chơi tay vo, không cần ai giúp.
Với những người viết bài phân tích, bình luận, thẩm định thơ hoặc phản biện tác phẩm - phải ghi rõ "chính danh". Chủ tịch Hữu Thỉnh cũng phải chịu trách nhiệm về cái danh đó. Không được bịa ra một cái tên tào lao, rồi phân tích lý luận vớ vẩn, xiên xẹo, thậm chí là nhận thức thi ca còn dốt nát mà vẫn bình láo... cũng chẳng ai biết là "ai"?
b/. ĐĂNG THƠ:
100 bài thơ đó (Phạm Ngọc Thái 50 bài - 50 nhà thơ của Hội nhà văn 50 bài), có thể đăng trên Tuần báo Văn nghệ hiện do nhà văn Khuất Quang Thụy làm tổng biên tập. Tạp chí thơ, Tạp chí Văn, hay trên vanvn.net của Hội. Còn bài viết của các tác giả đánh giá hay phản biện... có thể đăng trên mọi phương tiện truyền thông. Từ báo chí đến các trang mạng Việt trong nước và hải ngoại khắp toàn cầu.
c/. ĐẶT GIẢI THÁCH ĐẤU:
- Nếu 50 bài thơ của 50 nhà thơ HNVVN thắng được 50 bài thơ của Phạm Ngọc Thái - Nghĩa là tầm vóc, chân dung thơ của Hội nhà văn cao hơn thơ tôi:
Phạm Ngọc Thái sẽ mất cho HNVVN hai mươi triệu đồng (20.000.000đ)
- Nhưng nếu thơ của 50 nhà thơ Hội nhà văn lại thấp kém hơn thơ Phạm Ngọc Thái, thì: Hữu Thỉnh với cương vị Chủ tịch Hội sẽ phải chi cho tôi năm mươi triệu đồng (50.000.000đ) - Vì một mình Phạm Ngọc Thái chấp cả 50 nhà thơ của Hội nhà văn cơ mà.
* Tôi xin lưu ý những người trong ban giám khảo là phải bình cụ thể vào bài thơ hay, chỉ ra số bài thơ hay, thơ sâu sắc... có trong tập, trong các tác phẩm của tác giả. Không được lý thuyết suông, triết lý kiểu sách vở tràn lan, vô tội vạ... mà đánh giá chẳng ra cái trò gì ??? Giá trị của một bài thơ thực sự hay lưu lại được cho nền văn hiến Thăng Long là vô giá trong cuộc đời của một nhà thơ. Huống hồ cả một tập thơ hay và... một đời thơ lớn. Không biết thì dựa cột mà nghe, còn muốn bình thì phải bình cho xác đáng - Bài nào hay? Hay như thế nầo? Vì sao bài thơ đó có khả năng tồn tại trường cửu?... Vị nào không biết bình mà vẫn cố tình - khi đó tôi có quyền phản biện, chỉ ra sự sai sót, yếu kém. Bài viết chẳng những không có giá trị, hoặc cố tình bình bậy - Không phải chỉ người viết, cả ông Chủ tịch Hữu Thỉnh cũng phải chịu trách nhiệm.
Tôi từng viết bài luận bàn về chân dung nhà thơ Hữu Thỉnh, nhiều lần đem thơ dở, bình thường, để lấy đủ các thứ giải thưởng quốc gia, quốc tế. Nay xin tóm lược lại cho ngắn gọn, làm dẫn chứng về việc bình phẩm thơ ca như đã nói trên - Tít đề như sau:
"THƯƠNG LƯỢNG VỚI THỜI GIAN" MỘT TẬP THƠ DỞ. NHIỀU BÀI VIẾT HỎNG.
Ông Chủ tịch Hội nhà văn đem ra để lấy giải thưởng lớn
Hữu Thỉnh làm nhiều bài thơ còn ẩu. Tư duy bừa rồi tìm những từ hay, hình ảnh hoa hoét... ghép lại. Có bài mới đọc lên cứ tưởng?... Cũng thấy là lạ, nhưng gấp sách lại nghĩ, nghĩa thơ chỉ màng màng như một lớp sương khói, hoặc một ý tưởng không rõ ràng. Tôi có thể nêu các kiểu làm thơ tạp-pí-lù ra đây, đến vài chục bài trong tập thơ trên năm mươi bài của ông.
Thí dụ bài "Bóng mát":
Tôi như cây biết giấu lá vào đâu
Giữa gió bụi cõi người
Nếu giấu lá thì còn đâu bóng mát
Bóng mát mà không che nổi chính tôi.
Mới đọc thì có vẻ nỗi đời, nỗi người, nỗi trần ai đây? nhưng ngẫm kỹ thì bài thơ rất lung bung. "gió bụi cõi người" nghe cũng đoạn trường đấy chứ? nhưng gắn với hình ảnh "lá" ở câu trên - "lá" kia biểu tượng cho cái gì của anh ta? Cũng chẳng rõ. Nếu nó đã làm thành bóng mát thì tại sao lại phải dấu? Ta lại xem câu kết:
Bóng mát mà không che nổi chính tôi
Tại sao có bóng mát rồi mà lại không che nổi chính anh ta? - Thế là, tất cả vẫn mới chỉ là một mớ ý nghĩ còn mơ hồ, lộn xộn, thậm chí hình ảnh đá nhau, chưa định hình để lập được thành tứ và nghĩa. Hữu Thỉnh vơ hết vào làm thành một bài cho xuất bản. Chẳng cần biết để nó diễn đạt cái gì? Bài thơ trở thành vô... nghĩa.
Thơ Hữu Thỉnh nhiều bài bất cần tính lô-gich trong tư duy triết lý, dù chỉ là một bài thơ ngắn vài câu. Thí dụ một bài thơ khác:
Đôi luống thời gian/ Ai ải mùi đời/
Hì hục câu thơ/ Gieo chỗ không người/
Tấm chăn ngôn từ/ Dầy sao không ấm/
Thi nhân dậy chưa/ Gà đang chuyển sớm.
( Mồ hôi đón ngõ )
Đọc lên cũng đã thấy cái thời gian ai ải mùi đời kia... chắc là thời gian như cuộc đời thum thủm toàn phân tro chăng? Mấy từ "ai ải mùi..." mà tác giả sử dụng cốt chỉ để thơ cho có vẻ hình tượng "kêu" đấy thôi. Nhưng đó là cách sử dụng bất kể ý nghĩa. Sau đó tự nhiên chuyển sang ý thi nhân làm thơ gieo vào chỗ không người... rồi đến gà qué báo sáng, thế là hết thơ! Cũng chẳng biết "cái thời gian ai ải mùi đời" kia với người thi nhân làm thơ nó có quan hệ với nhau thế nào? Nó được đưa vào trong bài thơ để nói lên ý nghĩa gì? cũng đã được thêm một bài. Hữu Thỉnh làm thơ rất nhiều bài đại loại nham nhúa như thế!
Cũng có khi chỉ do một ý tưởng nào đó chợt vụt đến, thoáng qua mà tác giả vội ghi lại. Đáng lý nó mới chỉ là tư liệu trong một bản nháp. Nhưng Hữu Thỉnh đã sử dụng ngón nghề của một tay thơ chuyên nghiệp, thêm dăm ba chữ mắm muối vào đó hoặc tìm đại vài hình ảnh cho có vẻ kêu kêu. Bất cần hình ảnh đó ý nghĩa có hợp với bài thơ không, xào xáo nó lên... lại được thêm một bài thơ nữa. Gộp nó lại thành tập lấy giải thưởng văn chương.
Ví dụ bài "Những người đi lại phía tôi":
Những người đi lại phía tôi
Bao nhiêu bóng mát một lời lá bay
Mặc ai xô dạt mỗi ngày
Múc đau lòng giếng vẫn đầy sao hôm.
Hình ảnh thì cũng có vẻ hoa mỹ, nỗi mình, nỗi đời. Nhưng bài thơ nói gì nhỉ? Nếu kết lại thì hình như là... vô nghĩa. Nó "vô nghĩa" bởi vì nó tư duy theo kiểu vơ váo và lắp ghép nhằng. Tôi xin phân tích hình ảnh "bao nhiêu bóng mát" kia là gì? Có phải bao nhiêu người đang đi lại phía nhà thơ đã đem cho ông ta bóng mát chăng? Nếu thế thì cũng có tính nhân văn đấy chứ? nhưng liền ngay sau đó lại là hình ảnh:
... một lời lá bay
Chả lẽ để đáp lại "những bóng mát" mà người đời đã đem lại cho ông, tức là những danh lợi mà ông đã được hưởng, ông chỉ đáp lại cho họ, cho cộng đồng "một lời lá bay" ư? Nghĩa là, tao cũng chả cần phải trả cho chúng mày nhiều. Một đôi lời ve vuốt suông hay chút bổng lộc gì đó cỏn con thôi, sau đó ông thoảng qua như... lá bay! Và ông cứ ung dung hưởng "những bóng mát" mà người đời mang lại cho ông. Bởi vì ngay câu thơ thứ ba viết:
Mặc ai xô dạt mỗi ngày...
Thể theo sự liên kết trong tư duy bài thơ: Ông cứ mặc cho cuộc sống những kẻ đã mang lại bóng mát cho ông bị xô dạt, chìm nổi. Ông mặc xác tất cả. Rồi bài thơ kết:
Múc đau lòng giếng vẫn đầy sao hôm
Hình ảnh "múc đau lòng giếng" có vẻ ghê, nhưng để nói cái gì? Ta giả sử nếu cái giếng kia biểu thị cho đời. Ông cứ việc múc đau lòng đời. Tức là ông cứ việc vơ vét, hưởng thụ những lợi lộc của đời mang lại... cho đến cuối đời ông. Bởi vì hình ảnh "sao hôm" sẽ biểu thị cái nửa đời chiều của ông mà: "vẫn đầy sao hôm" là vậy.
Còn nếu ta giả sử, hình ảnh "cái giếng" kia để chỉ bản thân nhà thơ! Ông múc đau ông. Nghĩa là ông sẵn sàng hy sinh bản thân cho hạnh phúc của mọi người - Thì sao câu thơ trên ông lại viết: "Mặc ai xô dạt mỗi ngày"??? Thế là bài thơ trở thành khập khiễng, ý thơ phi lý. Hình ảnh như những cánh hoa giấy đẹp nhưng lung tung. Bài thơ này cũng chỉ là một bài... thơ rác.
Có lẽ không phải là Hữu Thỉnh không biết cái hạn chế trong sáng tác thơ của mình?... và cũng không phải là không biết sự thấp kém của tập thơ "Thương lượng với thời gian"? Cho nên cũng đã có lúc ông tự thú.Ta hãy đọc bài "Người làm mùa" thì rõ:
Những gié vàng lại tụ hội vàng tươi
Mùa hoàn hảo? Thiên nhiên bầy kiệt tác
Sao với ta vẫn chỉ vài nét phác
Tẩy xoá hoài người vẽ mãi chưa xong?
Ý muốn liên hệ với "mùa thi ca" của ông ta đây! Đã biết thơ mình mới chỉ là những nét phác, nhạt nhẽo, nông cạn. Còn với mình thì "tẩy xoá" mãi vẫn không viết nổi một bài thơ hay - Thế mà vì lòng tham, ông Chủ tịch đã 05 lần lấy giải thưởng quốc gia. Lần này vẫn mang ra lấy tiếp cái giải thưởng Hồ Chí Minh kèm với mấy trăm triệu đồng cơ đấy!
Tôi lại ví dụ thêm bài nữa. Bài "Vô thanh":
Tôi ngồi nhặt sỏi đếm buồn
Gió đi tìm khói chon von mấy đồi
Mây kia ham sự nhất thời
Bao nhiêu oan nghiệt mắt người ngước lên.
Thực ra bài thơ mới chỉ là mấy sự lắp ghép ý chợt đến ở dạng bản thảo. Tư duy nửa chừng chưa ra đâu vào đâu, nên chưa nói được cái gì? Đây cũng đích thị là một bài thơ để... loè đời! Cái ngón nghề mà Hữu Thỉnh tìm ra trong quá trình sáng tác thơ của mình chính là thủ thuật rất xảo ấy. Đã thành sở trường trong quá trình làm thơ của ông.
Đấy là tôi mới ví dụ một số bài thơ ngắn cho dễ đọc. Để bạn đọc khỏi nhàm chán, chỉ xin ví dụ thêm một bài thơ dài hơn, nhưng cũng viết ẩu làm nhàm như thế. Đó là bài "Lời mẹ" - Nói về mẹ thường là những bài thơ rất máu thịt, da diết. Nhưng “Lời mẹ” của Hữu Thỉnh, phải nói thơ viết hồ đồ đến mức độ... hơi nhăng nhít. Bài thơ chia làm ba khúc. Mỗi khúc 8 câu. Tổng cộng toàn bài 24 câu.
Khúc I- Khúc đầu tiên này thì nó còn kể lể có chuyện một tý. Tuy cũng chỉ viết nôm na tung hứng bừa đi thôi, chẳng có gì gọi là chắt lọc hay nghệ thuật tinh tuý. Nhưng thôi, ta chấp nhận như thế, tạm gọi là cũng được:
Mẹ đã sinh ra tôi/ Đặt tên cho tôi nữa/
Một cái tên nõn nà/ Hồn nhiên như sói nhỏ/
Cái cối và cái chày/ Con mèo và con cún/
Yêu mấy vẫn chưa vừa/ Thoắt trở thành người lớn.
Mấy câu sau là tác giả đã nhặt nhạnh bừa đi rồi đấy, ghép lại thành một khúc. Chưa thể gọi là ăn nhập với nghĩa trong cả bài. Ta cứ đọc tiếp sẽ thấy. Đến khúc thứ hai, thứ ba mới thật là thứ thơ... hô khẩu hiệu. Mà đây là khẩu hiệu rất sáo rỗng, nhạt nhẽo. Nhưng tác giả không phải chỉ hô khẩu hiệu một lần đâu? Hai khúc thơ, mỗi khúc 8 câu, chỉ có hai câu đầu là khác, còn sáu câu sau lặp lại y hệt nhau. Ý tứ vơ váo. Chợt nghĩ được cái gì là đưa luôn vào. Cứ như là viết đại cho xong. Đọc chối không chịu nổi. Để bạn đọc thấy rõ xin chép lại cả hai khúc sau ra đây:
Khúc II -
Tôi bước ra ngoài ngõ/ Gió thổi. Nước triều lên.../
Đi hoài không gặp tiên/ Đành quay về hỏi mẹ/
Hãy yêu lấy con người/ Dù trăm cay nghìn đắng/
Đến với ai gặp nạn/ Xong rồi, chơi với cây!
Khúc III-
Đi hoài không gặp tiên/ Đành quay về hỏi mẹ/
Hãy yêu lấy con người/ Dù trăm cay nghìn đắng/
Đến với ai gặp nạn/ Xong rồi, chơi với cây!
Khúc III-
Tôi lại bước dưới trời/ Không tiếc mòn tuổi trẻ/...
(6 câu sau giống hệt ở khúc hai)
Đi hoài không gặp tiên/ Đành quay về hỏi mẹ/
Hãy yêu lấy con người/ Dù trăm cay nghìn đắng/
Đến với ai gặp nạn/ Xong rồi, chơi với cây!
Xin phân tích một chút ở câu thơ cuối khúc - Sao lại kết "Xong rồi chơi với cây"? Nếu là những người chán sự thế, chán chốn quan trường đi ở ẩn như Nguyễn Khuyến chẳng hạn? hay như thi sĩ Tản Đà chán chốn hồng trần tìm đường lên núi "tu tiên" đã đành?... Đằng này Hữu Thỉnh còm ham danh lợi thế cơ mà? Đọc thơ ta có thể hiểu:
- Mẹ từng dặn anh ta rằng: con người nó hay lừa lọc, gian xảo lắm. Tốt thì ít mà xấu thì nhiều. Đừng nên "chơi" với con người mà chỉ nên chơi... với cây thôi!
Nhưng mẹ lại cũng dặn anh ta:
(6 câu sau giống hệt ở khúc hai)
Đi hoài không gặp tiên/ Đành quay về hỏi mẹ/
Hãy yêu lấy con người/ Dù trăm cay nghìn đắng/
Đến với ai gặp nạn/ Xong rồi, chơi với cây!
Xin phân tích một chút ở câu thơ cuối khúc - Sao lại kết "Xong rồi chơi với cây"? Nếu là những người chán sự thế, chán chốn quan trường đi ở ẩn như Nguyễn Khuyến chẳng hạn? hay như thi sĩ Tản Đà chán chốn hồng trần tìm đường lên núi "tu tiên" đã đành?... Đằng này Hữu Thỉnh còm ham danh lợi thế cơ mà? Đọc thơ ta có thể hiểu:
- Mẹ từng dặn anh ta rằng: con người nó hay lừa lọc, gian xảo lắm. Tốt thì ít mà xấu thì nhiều. Đừng nên "chơi" với con người mà chỉ nên chơi... với cây thôi!
Nhưng mẹ lại cũng dặn anh ta:
- Phải làm một con người cao thượng. Con người tuy xấu thế đấy, nhưng lúc họ gặp nạn... thì phải đến cứu vớt họ (như ở câu thơ trên đó đã viết "Đến với ai gặp nạn") - Xong rồi lại về..."chơi với cây"!
Đây là một bài thơ viết cẩu thả. Cái đoạn lặp đi lặp lại dài đến 6 câu, nào có hay gì? có nghệ thuật thi ca gì cho cam? chỉ là cách nói đạo lý sáo rỗng.
Câu thơ: Đi hoài không gặp tiên/ - Hình ảnh ấy chắc Hữu Thỉnh chợt nhớ về chuyện cổ tích: Có cô bé hoặc cậu bé nghèo khổ đã mơ thấy ông tiên hay bà tiên hiện về. Thế là bê luôn vào thơ. Mà lại là bài thơ nói về nỗi đời, đoạn trường người lớn hẳn hoi. Một bài viết về mẹ thuộc dạng nhàm chán nhất, nhì... đối với một nhà thơ chuyên nghiệp mà tôi từng được đọc.
Thế đấy! Thơ ông Chủ tịch đã lãnh đạo Hội nhà văn đến ba khoá của chúng ta hôm nay là thế đấy?
Nói dài, bình thêm làm gì nữa cho bạn đọc càng nhàm chán. Quá đủ để nhìn nhận về tập thơ "Thương lượng với thời gian" còn rất thấp.
- Không phải là không có lý - Trong lần ông được giải quốc gia đầu tiên với tập trường ca "Đường vào thành phố", đã bị nhà thơ Xuân Diệu phê phán ngay trên báo Văn nghệ là dở vô cùng. Là không biết làm thơ. Là tào lao chi khươn...
- Cũng không phải là không có lý - Trong lần thứ hai ông ăn giải Hội nhà văn với tập thơ "Thư mùa đông", đã bị nhà văn Tô Hoài viết bài chê bai rằng: “Thơ Hữu Thỉnh chỉ là một gánh chè chai đồng nát”.
MẤY BÀI THƠ CHƯA HAY CỦA ÔNG CHỦ TỊCH ĐƯỢC HỘI NHÀ VĂN THỔI PHỒNG THÀNH THƠ HAY
Có người sẽ bảo: Cứ cho rằng cả đời thơ Hữu Thỉnh quá nhiều là những thơ tạp, câu cú lắp ghép nhiều khi còn bừa. Nhưng ông ta cũng có mấy bài thơ được gọi là hay đấy chứ? như các bài "Thơ viết ở biển" hoặc "Sang thu" chẳng hạn.
Xin thưa: Hữu Thỉnh không có một bài thơ nào thực sự là thơ hay của thi đàn.
Rất nhiều các bài thơ Hữu Thỉnh đều không hoàn tứ, hoàn nghĩa. Không đứng được với thời gian. Song cũng có đôi bài thơ được đánh giá là khá. Đó chính là hai bài thơ vừa nói trên. Nhưng kể cả hai bài thơ đó, vẫn không có bài thơ nào đủ sự viên mãn, hoàn bích để đậu thành thơ hay - Chưa muốn nói rằng: thực ra bài "Thơ viết ở biển" mà nhiều người khen là bài thơ hay nhất của Hữu Thỉnh, lại chính là bài thơ viết... hỏng. Nếu đem phân tích nó sẽ lộ ra những yếu điểm rất non yếu của một quá trình tư duy sáng tác.
1/. "THƠ VIẾT Ở BIỂN" -
Bài thơ chứa rất nhiều khuyết tật? Trước hết nói về hình ảnh hai câu thơ hay nhất bài:
Gió không phải là roi mà vách núi phải mòn
Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím
Người ta nói "nước chảy đá mòn" chứ không ai nói "gió thổi núi mòn"? Hình ảnh thơ dùng không đúng nghĩa nên tính lô-gích của ý thơ bị kém đi.
Còn đối với câu thơ dưới: ví "em" là "chiều" đã nhuộm tím cả anh? Nghe chừng hình tượng ví von này còn gượng gạo. Tại sao em lại là "chiều"? "chiều" - không có ý nghĩa gì đối với người phụ nữ. Sự liên kết hình ảnh thơ với đời sống chưa chính xác, cũng không ổn. Mặc dù hai câu đó đọc lên người ta vẫn hiểu... nhưng về phương diện sáng tác thi ca, nhất là đối với một nhà thơ chuyên nghiệp, sử dụng hình tượng như thế là... dùng bừa.
Mấy hình ảnh thơ đầu thì hay:
Anh xa em / Trăng cũng lẻ / Mặt trời cũng lẻ
Nhưng đến hai câu sau:
Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn
Nếu chỉ thuần tuý tả về biển để nói về nỗi cô đơn, thì hai câu thơ này khá. Bởi vì, biển mênh mông như thế mà chỉ thiếu một cánh buồm bé nhỏ đã trở nên quạnh vắng, hiu hắt. Nhưng "biển" và "cánh buồm" trong bài thơ Hữu Thỉnh còn để làm biểu tượng về người con trai và người con gái. Trong văn học người ta thường ví: "em là biển cả mênh mông", "tình em biển cả", hay "trên biển cả tình em... anh như cánh buồm gặp gió bay ra xa khơi" v. v... Ít khi người ta dùng hình ảnh biển để biểu tượng cho người con trai như trong bài thơ Hữu Thỉnh? Mà khi hình ảnh "biển dài rộng" đã là "anh" - thì hiển nhiên "cánh buồm" phải là em!
Nghĩa là, Hữu Thỉnh ví: "anh như biển cả - còn em như... cánh buồm ???” Sự ví von lộn ngược thơ như thế hơi buồn cười, khập khiễng.
Giờ ta suy xét về đoạn thơ kết:
Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến
Vì sóng đã làm anh / Nghiêng ngả / Vì em...
Cảm xúc viết thơ đến đây của Hữu Thỉnh bị bí, thơ hơi quẩn. Vì là một bài thơ viết ở biển, nên tác giả mới lấy hình tượng "sóng" để gắn vào đó một cái nỗi tình? nhưng hình ảnh:
Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến...
Như phân tích ở đoạn trên - "biển", tác giả đã sử dụng làm biểu tượng về người con trai, mà sóng cũng chính là biển - tức là "anh" rồi! Thành ra nghĩa ở câu này sẽ là:
Anh đã làm anh nghiêng ngả vì em???...
Hữu Thỉnh hay mắc một thứ bệnh tư duy trong thơ nhiều khi suy xét không kỹ, sử dụng tùy tiện, thấy nó cứ có vẻ đẹp là dùng. Hơn nữa hình tượng "... đã làm anh nghiêng ngả vì em" - Nỗi thơ chưa được đẩy tới tột cùng, cho nên không viên mãn. Bài thơ kết bị đuối.
Tóm lại: về phương diện tư duy nghệ thuật thi ca - "Thơ viết ở biển" của Hữu Thỉnh là bài thơ viết... hỏng.
2/. ĐÔI NÉT VỀ "SANG THU" -
"Sang thu" cũng là một trong đôi bài thơ được đánh giá là xuất sắc nhất của Hữu Thỉnh. Tác giả tả về cảnh một buổi vào thu ở làng quê, hình như đó là vào lúc trời gần tối sau một cơn mưa, mặc dù:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Nhưng:
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.
Tác giả cũng chỉ mới dừng lại ở dạng một bài thơ miêu tả thuần tuý cảnh vật thiên nhiên, dù sự tả đó khéo và có hương sắc. Nào là:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Rồi:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Cả đến khi kết, bài thơ vẫn chỉ lẩn quẩn ở những câu tả cảnh đó:
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi
Tức là tác giả mới cam cảm về một khung cảnh thiên nhiên, rồi lấy những sự vật xung quanh mà vẽ nó ra. Tuy sự tả có gợi... nhưng cảm xúc thơ vẫn còn nông ở bên ngoài, chưa có tư duy trong. Chẳng qua nó được lấy vào sách giáo khoa cho trẻ con học, rồi thi cử... học sinh phải tán cho hay lên - Rất có hại cho việc nhận thức thơ ca bị lệch lạc của học trò.
Trong nền văn hiến của nghìn năm Thăng Long, xưa nay chưa từng có bài thơ nào chỉ tả cảnh suông, nỗi đời và tình người chứa trong cảnh không có hoặc nhạt nhẽo... mà lại được gọi là thơ hay? Xin ví dụ vài bài thơ tả cảnh đặc sắc của các thi nhân xưa:
* "MÙA XUÂN CHÍN" CỦA HÀN MẶC TỬ - Cũng chỉ là tả cảnh mùa xuân, nhưng nỗi lòng cô quạnh về tình duyên... vì bệnh tật mà thi nhân không được hưởng. Đứng trước cảnh đời chứa chan hạnh phúc của bao thôn nữ... quấn quít với nỗi nhớ làng quê da diết trong hồi ức của Người:
Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
- Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
Nỗi tình trong cảnh thơ chứa chất... đã đẩy nghĩa thơ đi đến sự viên mãn tột cùng, mới tạo thành một áng thi ca hoàn bích để lại cho thế gian.
* "THU ĐIẾU" CỦA NGUYỄN KHUYẾN - Viết về một đêm thu ngồi thuyền câu cá. Cảnh tình hiu hắt với lòng người ẩn sĩ cô liêu, khi ông chán nơi quan trường trở về nương náu chốn thôn hương. Ta thấy hình ảnh thơ ôm bọc đời sống bên trong rung động. Nhất là trong hai câu kết:
Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo...
Một tâm trạng khắc khoải, chênh vênh trong đêm thu. Thơ như có thần. Sâu sắc vậy nên Thu điếu mới trở thành bài thơ hay.
* "QUA ĐÈO NGANG" CỦA BÀ HUYỆN THANH QUAN - Tức là một bài thơ tả cảnh Đèo Ngang, nhưng chứa đầy nỗi lòng của người nữ sỹ:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Cũng là mượn cảnh vật để mô tả... nhưng đã trở thành biểu tượng về nỗi nước, tình nhà của Bà Huyện Thanh Quan. Cuối cùng tác giả lại trở về với cõi lòng da diết giữa chốn đèo Ngang hoang vu, hạ một câu kết tuyệt bút:
Một mảnh tình riêng ta với ta
Ý tình trong thơ đã bộc lộ tâm can, cõi lòng sâu xa nhất của người đi xa. Giọng điệu, hình ảnh thơ sống động, điển hình đến mức hoàn bích. Cho nên nó mới sống mãi với nền văn học nước nhà.
Trở lại với bài thơ Hữu Thỉnh: Đọc “Sang thu” muốn cảm nhận ra một nỗi đời, hoặc một ý tình trắc ẩn nào đó... dù của nhà thơ hay nhân tình thế thái, là không có? Bài thơ không đủ sự viên mãn cần thiết để được coi là một bài thơ hay?
3/. "NĂM ANH EM TRÊN MỘT CHIẾC XE TĂNG"
- Một bài thơ viết theo kiểu hùng tráng của một thời. Giọng điệu từa tựa như đồng ca, hò vè. Nghệ thuật ngôn ngữ thi ca bình thường. Qua thời gian thì nó cũng sẽ nằm yên trong đống bụi phủ mà thôi.
Tôi không muốn nhắc lại bài thơ "Hỏi" ở đây - Những năm qua Hữu Thỉnh bị văn đàn đàm tiếu rất nhiều, tố cáo đã đạo bài thơ Hỏi đó từ bản dịch bài "Thượng đế tạo ra mặt trời" của nữ văn sĩ người Đức Christa Reinig?
Kết luận: Mai sau hầu hết thơ Hữu Thỉnh, kể cả những tập thơ được giải thưởng quốc gia hay quốc tế... sẽ theo Hữu Thỉnh xuống mồ. May ra có vài ba tình thơ đứng lại được trong những năm tháng nào đó, nhưng cũng nhạt nhòa. Nếu đã không có nổi một tập thơ tồn tại đối với nền văn học, thì khi ấy không biết nên xếp chân dung ông Chủ tịch Hội nhà văn Hữu Thỉnh thuộc loại nhà thơ nào?
II- THÁCH PHẢN BIỆN LẠI TẬP SÁCH "PHẠM NGỌC THÁI CHÂN DUNG NHÀ THƠ LỚN THỜI ĐẠI"
Trong tập "Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại" dày 372 trang sách, gồm hai phần:
a/. PHẦN 1: Thơ - Với tên đề "Bầu trời thơ tình hay và lạ". Cả thảy có 120 bài thuộc những bài thơ tình hay, khá hay hoặc đặc sắc nhất, được chọn ra từ trong các tập thơ đã xuất bản của đời tác giả.
b/. PHẦN 2: Bình luận "Thế giới thi ca Phạm Ngọc Thái" với những bài viết của nhiều tác giả là các văn nghệ sĩ, nhà giáo, hay những độc giả hâm mộ. Phần này hơn 200 trang, gồm 35 bài... vừa là các bài bình thơ hay, khá hay, hoặc sâu sắc điển hình - Cùng với tiểu luận chân dung. Như bài "Phạm Ngọc Thái một nhà thơ tình lớn của dân tộc", do nhà bình luận văn học Nguyễn Đình Chúc viết. Bài Phạm Ngọc Thái người hai lần thi sĩ; Phạm Ngọc Thái với chùm thơ hay về tình yêu và đàn bà; những tình thơ áo trắng; Mấy nét tình sử về bài thơ Người đàn bà trắng; Phạm Ngọc Thái và một kỳ tác thi ca v.v...
Quí vị có thể tham khảo bài tổng hợp và đánh giá thơ hay của anh Trần Tứ Đức - nguyên Cán bộ Viện ngôn ngữ và văn hoá dân gian, nhan đề:
"Phạm Ngọc Thái với 3 tuyệt tác - 20 tình thơ hay hoặc khá hay"
Đã đăng trên nhiều trang mạng trong nước và thế giới. Mở đọc qua đôi link sau:
Trong nước:
http://www.nhuygialai.com/2014/03/pham-ngoc-thai-voi-3-tuyet-tac-20-tinh.html
Hải ngoại:
http://www.chinhluanvn.com/2014/03/pham-ngoc-thai-voi-3-tuyet-tac-20-tinh.html
Trong lời giới thiệu tập sách "Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại" ấy, cô giáo Nguyễn Thị Hoàng - Giảng viên trường Đại học Sư phạm đã viết:
" Theo đánh giá với một bình diện rất rộng trên văn đàn mạng: Phạm Ngọc Thái là một trong những nhà thơ lớn của nền văn học nước nhà.... Phạm Ngọc Thái không chỉ sáng tác được nhiều thơ tình hay. Thơ về nỗi đời nhân gian, kiếp người của ông, không ít bài cũng đạt sự viên mãn để tạo thành những thi phẩm súc tích. Có bài đến hoàn bích như " Làm ma em vợ "; mang tính hiện thực điển hình như "Nỗi trăn trở người đi tìm vàng"; hoặc những bài thơ đời sâu sắc khác không kém phần hay:
Cô quét lá đêm hồ, Em bán xoài, Khóc Hàn Mặc Tử, Em bé cầu bơ, Chiều hoàng hôn, Cỏ hoang...
Đúng như sự đánh giá trên văn đàn: Thi ca Phạm Ngọc Thái dù là thơ tình hay thơ đời, những bài đạt độ viên mãn về ý tưởng nhân văn cũng như ngôn ngữ nghệ thuật là rất nhiều. Mức độ hay của mỗi bài khác nhau, song những tình thi đó đều có thể làm rung cảm trái tim ta. Chưa từng có thi nhân nào sáng tác được nhiều thơ tình hay đến thế ! Rồi mai sau ông sẽ có cả trăm bài thơ tình đứng trường cửu với đời và nền văn hiến Thăng Long ".
TRỞ LẠI VỚI PHẦN THÁCH ĐẤU:
Người nào phản biện trên cơ sở những bài bình thơ, hoặc hoàn bích đến độ tuyệt tác, hoặc thơ hay, khá hay, thơ sâu sắc - cùng các tiểu luận về chân dung tác giả... đã đăng trong tác phẩm - Nghĩa là phủ định tập sách và... phủ định tầm vóc nhà thơ lớn.
Nhân đây cũng xin khẳng định: Theo nhận định của tôi - Hội nhà văn Việt nam đương đại, kể từ Hữu Thỉnh đến các nhà thơ khác... hiện không có nhà thơ lớn!
- Nếu bài viết phản biện của vị nào đó của Hội nhà văn đánh giá xác đáng - Phạm Ngọc Thái chấp nhận mất cho người đó và Hội nhà văn hai mươi triệu đồng (20.000.000đ).
- Nhưng nếu bài viết sai... do kiến thức thẩm định thi ca còn non kém, hoặc không biết nhìn thơ mà cứ cố tình bình bừa, bình láo - Tôi sẽ phản biện lại: sai ở đâu? Thấp kém thế nào? nghĩa là sẽ vạch rõ cho vị đó thấy sự ngu muội về thơ, không đủ khả năng thẩm định tác phẩm thi ca - Khi ấy, không phải chỉ vị đó... mà chính Hữu Thỉnh Chủ tịch Hội nhà văn cũng phải chịu trách nhiệm chi trả cho Phạm Ngọc Thái hai mươi triệu đồng (20.000.000đ).
Đã gọi là cuộc thách đấu thì tất cả hai bên ai tham gia, giữa Phạm Ngọc Thái và Hội nhà văn đều phải có luật! Ai thấy đủ gan thì trao đổi, bàn luận với Hữu Thỉnh để vào... "cuộc chơi"?
Phạm Ngọc Thái thách đấu cả Hội nhà văn Việt Nam đương đại.
Viết tại đất nghìn năm văn hiến Thăng Long
Tháng 7-2015
PHẠM NGỌC THÁI
http://tranmygiong.blogtiengviet.net/2015/07/07/ph_m_ng_c_thai_thach_u_c_h_i_nha_v_n_vi_
PHẠM NGỌC THÁI
http://tranmygiong.blogtiengviet.net/2015/07/07/ph_m_ng_c_thai_thach_u_c_h_i_nha_v_n_vi_
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét