" Cả cuộc đời ba không có gì để lại cho các con ngoài số vốn kiến thức mà ba mẹ tảo tần nuôi các con ăn học.Mong các con trở thành những người hữu ích cho xã hội" ( trích từ TT "Vững Niềm Tin")
Thứ Tư, 5 tháng 11, 2014
TIẾT LỘ CỦA MỘT CỰU CHIẾN BINH MỸ: CIA TỪNG THỦ TIÊU LÍNH MỸ TẠI VIỆT NAM
Châu Minh Linh
Bìa cuốn sách của cựu binh Trent C.Young
Những ngày dài Một cuốn sách của cựu chiến binh Trent C.Young xuất bản gần đây kể rằng CIA đã bí mật thủ tiêu hàng trăm lính Mỹ đào ngũ hoặc vắng mặt không phép hồi năm 1973. Có nhiều ý kiến ngờ vực vào tính xác thực của cuốn sách nhưng tác giả quả quyết rằng đó là sự thật.
"Từ nhiều năm nay tôi biết rằng câu chuyện này phải được kể lại... Đây là chuyện về một chiến dịch bí mật ở Nam Việt Namsau khi cuộc chiến chính thức kết thúc (khi Mỹ rút quân)". Cựu chiến binh T.Young, 52 tuổi, giới thiệu về cuốn sách có tựa Và chuyện là như thế... lúc trời vừa hửng sáng (And that the way it was... By Dawn's Early Light) của mình. Cuốn sách dày 324 trang, kể việc Young cùng với 14 người khác được Cơ quan tình báo trung ương Mỹ (CIA) giao nhiệm vụ trừng phạt "những kẻ phản bội tổ quốc".
Young kể nhóm của mình gồm 15 người thuộc nhiều đơn vị quân đội khác nhau tại Mỹ và Đông Nam Á, được triệu tập để thực hiện chiến dịch vào tháng 6.1973. Nhóm không biết tên nhau và chỉ làm việc chung trong 21 ngày. Họ truy tìm tất cả những lính Mỹ đào ngũ hoặc vắng mặt không phép tại Sài Gòn và vùng phụ cận để giết. "Anh ta rất trẻ, khoảng chừng 23 tuổi. Màu da anh ta bị ánh nắng Đông Nam Á làm sạm đen... Tôi chăm chú theo dõi khi anh ta từ biệt một phụ nữ trẻ và con cô ta... Tôi thấy trên ngón tay anh ta có nhẫn cưới... Máu tôi sôi lên khi chàng trai trẻ đi ngang qua. "Đứng im!", tôi gằn giọng: "Tôi là trung sĩ Young"... Rồi tôi ngửi thấy mùi chết chóc bay trong không khí khi khẽ nhấn cò khẩu AR-15"... Đó là vụ Young hạ sát một lính Mỹ trẻ tuổi "trong một ngày nóng nực và ẩm ướt ở trung tâm Sài Gòn" hồi tháng 6.1973. Anh lính "vắng mặt không phép" này gục xuống trước sự chứng kiến của người phụ nữ trẻ và đứa bé. Sau đó, xe jeep tới hốt xác chở đi và Young đọc được một vài dòng chữ trên tấm thẻ bài: Wilson, Marvin Lee, E-3... Có cả thảy 963 lính Mỹ vì lý do nào đó không muốn tham gia cuộc chiến và muốn ở lại Việt Nam đã bị nhóm của Young thủ tiêu. Họ chết rất đau đớn dưới tay của những người cùng quân ngũ. Số bị giết được đưa đến chôn tập trung trong một hố trũng cách sân bay Tân Sơn Nhất chừng 13 km.
"Bạn bè không thèm nhìn mặt tôi sau khi đọc. Nhưng nấm mồ còn đó, nó chỉ cách sân bay quân sự cũ ở Tân Sơn Nhất có 8 dặm (khoảng 13 km)", Young nói với hãng tin BBC. Ông ta khẳng định câu chuyện hoàn toàn có thật nhưng để không bị buộc tội giết người và tránh vướng vào chuyện kiện tụng nên ông đã viết ở phần lời tựa cuốn sách rằng độc giả hãy coi đó là điều giả tưởng. Young giải thích mục đích của chiến dịch mà CIA thực hiện: "Lúc đó chiến tranh khắc nghiệt nhưng Việt Nam là một đất nước quyến rũ. Nhiều lính Mỹ đã yêu và lập gia đình với các cô gái Việt. Nhưng Chính phủ Mỹ không muốn họ trở về cùng vợ, gia đình và cũng không muốn thông tin mật sau này rơi vào tay quân giải phóng".
Young kể sau khi rời Việt Nam vào năm 1973, ông đã làm cảnh sát rồi gia nhập quân đội nhưng luôn bị ám ảnh bởi quá khứ kinh hoàng nên không trụ được lâu. Ông cũng sợ bị CIA quay trở lại thanh toán, nhưng lại nói rằng mình có nấm mồ ở Sài Gòn làm bùa hộ mệnh. Young cho biết mình viết cuối sách để giải thích cho mẹ, vợ và con của những người lính xấu số: "Làm sao họ có thể hiểu khi mà hôm nay người thân còn đó mà ngày mai đã đi đâu mất rồi. Nhiều con lai Mỹ nay đã ở tuổi 30 và họ cần biết điều gì đã xảy ra với cha mình". (Theo BBC và cuốn And that the way it was... By Dawn's Early Light)
CIA BUÔN BÁN THUỐC PHIỆN
Mặc dù nhận được một khoản tài chính khổng lồ từ ngân sách quốc gia (hiện nay là 40 tỉ USD), CIA vẫn còn rất nhiều nguồn thu nhập khác để chi cho những hoạt động chống phá chính phủ các nước và chi cho bộ máy nhân viên của mình. Một trong những nguồn thu đó là buôn bán ma túy.
Ngoài thì chống nhưng trong thì buôn lậu
Tháng 4/1998, Celerino Castillo, điệp viên cấp cao kỳ cựu của Cơ quan Chống buôn bán thuốc phiện (DEA) đã cung cấp một thông tin cho Ủy ban Tình báo của Thượng nghị viện Mỹ một tin gây chấn động. Điệp viên này nói rằng, chính ông từng tận mắt chứng kiến sự đồng lõa thô thiển của các đồng nghiệp trong việc buôn bán và vận chuyển thuốc phiện vào nước Mỹ.
Castillo là một trong những mật vụ hàng đầu của DEA hoạt động ở Trung và Nam Mỹ từ năm 1984 đến năm 1990, sau đó trở thành người đứng đầu của DEA trong cuộc chiến chống lại chính quyền El Salvado. Khi còn làm việc, hàng ngày ông thường tiếp xúc trực tiếp với nhân viên “hợp đồng” của CIA và bận rộn với cuộc chiến chống nạn buôn thuốc phiện từ Colombia vào Mỹ. Trong quá trình điều tra, ông đã phát hiện ra rằng, người tiếp tay cho hoạt động mà ông đang phòng chống lại chính là CIA.
Sau khi đã thu thập một số lượng chứng cứ về những hoạt động bất hợp pháp của CIA, Castillo đã tố cáo cơ quan này. Tuy nhiên, ông đã thất vọng với các sếp trên của mình ởWashington sau khi họ từ chối phanh phui sự việc. Cuối cùng, Castillo đã quyết không giữ yên lặng đối với một vấn đề nghiêm trọng như vậy.
Sở dĩ CIA nhúng tay vào buôn bán thuốc phiện là nhằm tăng ngân sách để chi cho tổ chức Contra có trụ sở ở Nicaragua, với nhiệm vụ lật đổ chính phủ phái tả ở El Salvado. Trước đó, Quốc hội Mỹ đã không ủng hộ CIA làm chuyện này. Do vậy mà CIA không được nhận khoản ngân sách để chi cho hoạt động trên. Điều này buộc cựu Giám đốc CIA là Bill Casey phải tìm một nguồn tài chính khác.
Chịu trách nhiệm cho việc tìm kiếm thêm nguồn tài chính là Đại tá Oliver North, ở Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ. North đã tận dụng triệt để những lợi thế của CIA để kiếm thêm nguồn tài chính cho tổ chức này, nhờ vậy mà ông đã được phong tước là “Enterprise”.
Các hoạt động buôn bán ma túy của North không được mọi người biết đến trong nhiều năm liền, mãi cho tới khi có một loạt các bài viết được đăng tải trên tờ San Jose Mercury News vào tháng 8/1996. Tờ báo gọi hành động này là “Liên minh của những bóng đen” và khẳng định nguyên nhân bùng nổ nạn sử dụng ma túy ở Los Angeles trong suốt những năm 80 của thế kỷ trước là do ông trùm buôn thuốc phiện người Nicaragua gây ra. Tên này có mối liên hệ thân thiết với lực lượng Contra - “con đẻ” của CIA.
San Jose Mercury News cũng tố cáo rằng, chính CIA đã thông đồng với những kẻ buôn thuốc phiện này nên hành động của bọn chúng mới trót lọt. Các bài viết của phóng viên nổi tiếng Gary Webb đã gây ra một cú sốc trên toàn nước Mỹ, buộc các quan chức Mỹ phải vào cuộc.
Để phủ định cho những hành động bất chính của mình, CIA đã lập nên một nhóm phóng viên đồng minh để chống lại nhà báo Gary Webb và tờ báo của ông. Trong vòng một năm, Webb đã bị làm lung lay tinh thần và biên tập của tờ báo này đã phải rút lại các bài phóng sự đã đăng và đẩy Gary Webb vào tình thế tiến thoái lưỡng nan.
CIA đã rêu rao rằng, Webb không có “chứng thực” trong bài viết. Cuối cùng, Webb đã bị đẩy đến làm việc ở một căn phòng đen tối và nhỏ bé của tờ báo để mọi người lãng quên ông đi. Do bị khinh bỉ quá mức, Webb đã từ chức và đến làm việc cho Quốc hội Mỹ. Hai năm sau đó, CIA đã thừa nhận rằng, nhà báo Webb đã hoàn toàn viết đúng sự thật khi cơ quan tình báo này bị buộc phải tiết lộ một sự dàn xếp “bí mật” với Bộ Tư pháp Mỹ. Sự thỏa thuận này đảm bảo rằng, những người buôn bán ma túy được coi như những “con cưng” hay những “nhân viên hợp đồng” của CIA và họ sẽ không bị truy tố trước pháp luật. Điều luật này có nguồn gốc từ năm 1954 khi Bộ Tư pháp Mỹ chấp thuận cho CIA tự do quyết định nếu bất kỳ một hoạt động bất hợp pháp nào của cơ quan này bị truy tố.
Đây không phải là lần đầu tiên CIA dính líu đến buôn ma túy. Nhiều người còn nói rằng, CIA buôn thuốc phiện có tính chuyên nghiệp. Trước khi CIA được thành lập vào năm 1947, tiền thân của tổ chức này là Văn phòng Cục Chiến lược (OSS) cũng đã có những hoạt động bất chính. Điều này bắt đầu từ một hợp đồng giữa Allen Dulles (người sau đó đã trở thành Giám đốc của CIA) và một số tên phát xít sát nhân của nhóm Nazi SS. Khi ấy, những tên này đang cố gắng thoát khỏi bị xử là tội phạm chiến tranh sau khi Thế chiến II kết thúc.
Tướng Karl Wolff đã nắm giữ một loạt các cuộc gặp bí mật với Dulles, người đứng đầu của OSS ở Thụy Sĩ. Hai nhân vật này đã thẳng thắn đưa ra một thỏa thuận - trực tiếp chống lại những sắc lệnh được Tổng thống Rooservelt phê chuẩn. Điều này đã giúp cho nhóm phát xít Nazi SS thoát khỏi bị truy tố, đổi lại, những tên này phải đồng ý làm việc bí mật cho CIA để chống lại Nga trong thời kỳ Chiến tranh lạnh.
Khi OSS không có tiền để tài trợ cho mạng lưới bí mật này, Dulles đã chấp nhận cho những tên phát xít này tạo ra nguồn tài chính từ những kho nha phiến khổng lồ, số vàng cướp bóc được và hàng loạt ngân khố Anh giả của tổ chức này. Những sản phẩm này đã được đưa sang Áo vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh và đã được giấu kín. Sau đó chúng đã được bán trên thị trường đen và chiến lợi phẩm này đã được sử dụng để cung cấp tài chính cho mạng lưới Nazi SS-OSS. Thủ đoạn này đã thành công đến nỗi mà sau đó nó đã trở thành một phương pháp có sức hấp dẫn mạnh mẽ bảo đảm cho hoạt động ngầm của CIA ít bị phát hiện và hiệu quả.
Buôn bán ma túy ở Đông Nam Á
Trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam, CIA cũng đã tung ra hàng loạt các hoạt động bất hợp pháp. Cơ quan tình báo này và các thuộc hạ của mình là người Việt đã tất bật rao bán một khối lượng khổng lồ hêrôin lấy từ khu vực Tam giác vàng. Trước đó, thực dân Pháp đã kiểm soát hoạt động buôn bán thuốc phiện ở đây. Sau Thế chiến II, thực dân Pháp đã đồng ý cho các thành viên của thế giới tội ác quản lý hoạt động buôn bán thuốc phiện dưới danh nghĩa là Cục Tình báo quân sự Pháp 2eme. Đây là kế hoạch tuyệt mật với tên gọi là Operation X. Thuốc phiện thô đã được người dân tộc Mông của Việt Nam trồng, sau đó được đưa đến Sài Gòn, tại đây chúng được chuyển giao cho những tên cướp Bình Xuyên để phân phối cho toàn thành phố.
Vào giai đoạn này, các thành viên của thế giới tội ác Corsican đã đảm nhiệm một phần của công việc là chuyển chúng tới Marseilles của Pháp bằng đường biển và sau đó là đưa sang Mỹ. Con đường buôn lậu này sau đó đã trở nên nổi tiếng với tên gọi là “French Connection”. Đại tá hải quân Sanvani của 2eme đã giám sát toàn bộ hoạt động này.
Sau sự thất bại ê chề của thực dân Pháp ở Điện Biên Phủ năm 1954, Pháp bắt đầu rút quân khỏi Đông Dương. Nhân sự kiện này, CIA đã phái đặc vụ cấp cao Edward Lansdale tới Sài Gòn. Trước đó một năm, trong cuộc điều tra tìm kiếm sự thật ở Đông Dương, Lansdale đã biết được sự tồn tại của Operation X. Khi CIA nhảy vào, đã có các cuộc thanh toán lẫn nhau giữa bè phái của 2eme với các thuộc hạ của Lansdale, và Giám đốc CIA thời đó là Allen Dulles đã theo dõi rất sát sao sự việc này. Các cuộc chiến công khai đã diễn ra trên các đường phố và Lansdale đã không dưới một lần cận kề với cái chết. Tuy nhiên, sau đó thực dân Pháp đã rút lui hoàn toàn, Mỹ đã nhảy vào và hoạt động buôn bán thuốc phiện bắt đầu phát triển nhanh chóng.
Ngay cả sau khi cuộc chiến tranh ở Việt Nam kết thúc, CIA vẫn còn gặt hái được những khoản lợi nhuận khổng lồ nhờ vận chuyển hêrôin từ Tam giác vàng đến các nơi trên thế giới. Sự thật này chỉ được biết đến sau khi Đại tá Bo Gritz tiết lộ vào những năm cuối của thập niên 80.
Nổi tiếng là người gan dạ, Gritz là một huyền thoại trong Lực lượng đặc biệt của Mỹ. Năm 1989, Gritz đã cùng với hai người khác đến vùng xa xôi hẻo lánh Shanland, nằm ở phía bắc Myanmar. Người dân ở vùng Shanland sống dưới quyền cai trị của Tổng tư lệnh Khun Sa. Khun Sa có 10.000 quân lính điều hành hoạt động kinh doanh ở Tam giác vàng. Khun Sa từng nói với Gritz trong cuộc gặp mặt rằng, Chính phủ Mỹ đã mua toàn bộ số lượng thuốc phiện mà họ sản xuất ra hàng năm. Năm 1989, Mỹ mua 900 tấn nhưng đến năm 1992 là 3.000 tấn. Vô cùng sốc với hành động này, Gritz đã sắp xếp để quay trở lại gặp Khun Sa 5 tháng sau đó. Lần này, ông đã thu lại cuộc nói chuyện với Tổng tư lệnh xảo trá này. Khun Sa đã tiết lộ rằng, quan chức Chính phủ Mỹ (thực ra là người của CIA) mà ông đã có bản hợp đồng là Richard Armitage, trợ lý của Bộ Quốc phòng Mỹ.
Những hoạt động ngầm của CIA ở Trung và Nam Mỹ
CIA còn tham gia vào một số hoạt động bất chính ở Trung và Nam Mỹ. Trước đây, Đại tá Manuel Noriega của Panama đã thừa nhận là “con cưng” của CIA. Vào năm 1975, ông đã từng tham gia chương trình hoạt động đen tối của CIA có tên Operation Watch-Tower. Nhân viên của hoạt động này có nhiệm vụ chở một khối lượng lớn côcain bằng tàu từ Botaga và Colombia tới Panama và Mỹ để tiêu thụ. Hoạt động này được chỉ đạo bởi những nhân vật xuất sắc của CIA là Edwin Wilson và Frank Terpil. Ngoài ra, hoạt động này còn được hỗ trợ bởi nhân viên của Cơ quan Mật vụ tình báo nước ngoài của Israel là Mossad. Hai phái đoàn của Watch-Tower do Đại tá Edward P. Cutolo, sĩ quan chỉ huy của Tổ lực lượng đặc biệt số 10 có trụ sở ở Fort Denvens, thuộc bang Massachusetts chỉ huy.
Tháng 3 và tháng 4/1976, Cutolo và những nhân viên của mình đã bí mật đột nhập vào Colombia nơi mà họ đã đặt 3 chiếc máy bay điện tử có thể soi sáng đường đi. Chúng được trang bị để cho phép nhân viên lái máy bay của CIA an toàn tìm ra đường của mình từ Botaga tới Panama. Trong vòng 51 ngày, 70 chuyến bay đã bay dọc theo con đường này. Tất cả đã tống đầy côcain. Chúng đã hạ cánh an toàn ở sân bay Albrook Air của Panama. Sau đó được bốc dỡ đến nơi tuyệt mật với sự giám sát của Đại tá Manuel Noriega, mật vụ Edwin Wilson của CIA và Mossad người Israel.
Wilson sau đó đã nói với Đại tá Cutolo rằng, Watch-Tower phải duy trì bí mật kẻo không nó sẽ trở thành rắc rối khi Chính phủ Mỹ biết. Ông nói thêm: “Có những hoạt động tương tự đang được thực hiện ở mọi nơi trên thế giới bao gồm cả Tam giác vàng ở Đông Nam Á và ở Pakistan. Lợi nhuận từ buôn bán narcotic đã được rửa tiền thông qua hàng loạt các ngân hàng ở Panama, Thụy Sĩ và Mỹ”. Với nguồn thu nhập này, CIA đã tài trợ cho những lực lượng quân sự để chống lại chủ nghĩa cộng sản ở nhiều nước.
Do ngày càng nghi ngờ và muốn biết rõ sự thật nên Cutolo bắt đầu điều tra tất cả các hoạt động trên. Lo ngại nguy hiểm đến tính mạng của mình, Cutolo đã chuẩn bị và ký một bản khai có tuyên thệ chi tiết những phái đoàn khác nhau mà ông chỉ huy. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, Cutolo đã bị ám sát. Bốn nhân viên cao cấp khác của Lực lượng đặc biệt, những người thân cận với Cutolo, tin rằng Cutolo đã bị giết hại bởi vì ông đang làm rõ những quan chức cấp cao của Mỹ có dính líu đến phái đoàn Watch-Tower. Tiếp bước Cutolo, bốn nhân viên này tiếp tục điều tra sự việc trên. Nhưng từng người một, họ đã chết trong những hoàn cảnh bí ẩn.
Bất chấp sự chấm dứt của cuộc Chiến tranh lạnh và sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu, buôn bán thuốc phiện của CIA vẫn tiếp tục tăng trưởng và phát triển. Nhiều người cho rằng, CIA vẫn nhúng bàn tay của mình vào các hoạt động phi pháp nhằm gây quỹ để chống lại chủ nghĩa cộng sản
Hồng Minh ( Tổng hợp )
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét