Tác giả: BS Bùi Mộng Hùng
.
Chính vào những giai đoạn xáo trộn biến động như hiện nay, con người phân vân trước cuộc sống bao nhiêu thì nhu cầu xét lại gốc rễ nguồn căn làm cơ sở cho hành vi ứng xử của mình, của xã hội lại càng bức thiết bấy nhiêu.
Phật giáo là một trong số không nhiều lắm truyền thống đã làm gốc làm rễ văn hoá cho nảy nở nhiều nền văn minh của một bộ phận rộng lớn nhân loại. Trong chính lúc dân tộc Việt Nam ta bước vào một giai đoạn quyết định cho vận mạng của mình, xét lại một yếu tố căn bản của truyền thống dân tộc như Phật giáo trước thách thức của thời đại là một việc không tránh né được.
Bài này (I) phác hoạ nét trội của cuộc khủng hoảng văn hoá thời đại, (II) xét vài điểm đặc trưng của giáo lý nhà Phật đặc biệt thích nghi với xu hướng đòi hỏi của thời đại. Và cuối cùng (III) nêu lên vài điều căn bản để cho Phật giáo khai triển trí tuệ và tri thức tích lũy suốt hai nghìn năm, góp phần vào công cuộc xây dựng một nền văn hoá cho hiện đại.
I. Thời đại con người trơ vơ thân phận làm người
Các hệ tri thức, xưa nay vững tin rằng mình nắm chân lý, truyền bá niềm tin của mình tự bao đời. Và cũng tự bao đời đã là những ngọn đuốc soi đường cho con người hết thế hệ này đến thế hệ khác trông theo mà an tâm sống với mình, với người, với thiên nhiên. Những niềm tin ấy bấy lâu nay tưởng đâu là chân lý vĩnh hằng, đến khi vấp vào hiện đại bỗng nhiên lung lay đến tận gốc rễ, nếu không là hoàn toàn sụp đổ.
Khởi điểm không phải mới gần đây. Những dấu hiệu đầu tiên xuất hiện từ thời Phục hưng, thế kỷ thứ XV, XVI, đưa dần tới sự hình thành của khoa học, của tư duy ngày nay.
Có người cho rằng là phát minh này hay phát minh nọ làm cho khoa học mâu thuẫn với các hệ tôn giáo, với tư tưởng cổ truyền. Không hẳn như vậy. Vì lẽ rằng không một phát minh khoa học nào có khả năng giải đáp các câu hỏi căn bản của tôn giáo nêu lên, mà ngược lại tín ngưỡng có thể tiếp thu chẳng mấy gì khó khăn bất cứ phát minh khoa học nào vào trong hệ tư tưởng của mình.
Sự xung khắc cơ bản thật ra nằm trong tinh thần nghi ngờ có hệ thống, không tin theo một thuyết nào nếu nó chưa trải qua thẩm định của thực nghiệm. Theo tinh thần thực nghiệm này thì không có giáo lý nào, hệ tư tưởng nào nắm chân lý vĩnh hằng. Chúng chỉ có giá trị của những giả thuyết, nghĩa là giá trị còn khi chúng còn vận hành còn biểu thị được các hiện tượng, các dữ kiện theo tiến trình mà giả thuyết đề ra. Gặp trường hợp ngược lại, một khi đã không phù hợp nổi với dữ kiện được quan sát nghiêm túc và có phương pháp thì chính giả thuyết phải tự đặt lại vấn đề và chuyển đổi sao cho phù hợp được với dữ kiện.
Quan điểm đổi thay vì suốt nhiều thế kỷ vừa qua, các xã hội loài người không ngừng chuyển biến mạnh. Đến gốc rễ. Đảo lộn cả nhận thức. Các vấn đề thời đại không ngớt nổi lên, cật vấn tri thức con người. Riêng một cuộc cách mạng công nghiệp thế kỷ thứ 19 cũng đã đủ thay đổi hoàn toàn bộ mặt hoàn cầu.
Truyền thống bao lâu tin rằng chính là tri thức, đạo lý soi sáng và điều khiển hoạt động của con người. Nhưng hiện thực đã chẳng giản đơn một chiều theo lối nhìn đó, vì thế mà làm lung lay cơ sở các niềm tin truyền thống : Tư duy và đạo lý hướng dẫn hoạt động của con người thật, nhưng ngược lại hoạt động sản xuất chính là một nhân tố quy định tư duy, đạo lý trong xã hội loài người.
Từ địa vị đứng trên cao siêu mà hướng dẫn, đạo lý rơi xuống ngang tầm với con người, giữa xã hội. Các giá trị “chân”, “thiện”, “mỹ” không còn được quy định do uy tín của một Chân lý bên ngoài, một cá nhân vĩ đại nào, mà thực ra là bởi xã hội, như một tổng thể trong vận động không ngừng chuyển biến của nó.
Dù muốn dù không, con người buộc phải tìm quy tắc hướng dẫn đời sống của mình không đâu ngoài cộng đồng con người, ngoài xã hội.
Trong chiều hướng đó, nhà tư tưởng lớn thế kỷ thứ 19 Hegel quay lại nhìn lịch sử như một giòng tiến hoá. Ý nghĩa của sự tiến triển, của vận động lịch sử chỉ sẽ biểu lộ tại nơi điểm tận cùng của lịch sử.
Marx tiếp nối theo, tin rằng đấu tranh giai cấp là động cơ của giòng lịch sử ấy và cho đó là một phát hiện căn bản của mình tìm ra. Con người làm ra lịch sử, và có khả năng gia tốc lịch sử bằng cách tác động theo chiều hướng của động cơ. Cách nhìn của Marx là một yếu tố gây niềm hy vọng lớn cho một phần nhân loại: lịch sử có ý nghĩa và sẽ tất nhiên đi đến điểm tận cùng của nó. Hành động trong hướng đi của lịch sử là hành động vô cùng ý nghĩa của những con người ý thức được sự thật lịch sử.
Rồi, trong vòng mấy thập kỷ của thế kỷ hai mươi này, con người bừng mắt phát hiện ra rằng những tiến trình do chính mình phát động có tác động gần như không giới hạn vào thế giới thiên nhiên, vào thế giới con người: Làm chủ được nguyên tử lực, con người có thừa năng lực làm nổ tung quả địa cầu.
Uy lực tác động của con người vào thế giới loài người, vào thế giới thiên nhiên chưa bao giờ đạt mức độ khủng khiếp như hiện nay.
Trong khi đó, khoa học càng hiểu thiên nhiên thêm sâu sắc bao nhiêu thì con người lại càng ý thức rõ rệt rằng giải đáp khoa học chỉ là đáp từ cho những câu hỏi của chính mình đặt ra và những giải đáp đó lệ thuộc vào cách đặt câu hỏi. Đi tìm hiểu thiên nhiên – không phải là mình mà cũng chẳng phải do mình tạo ra – rốt cuộc con người gặp lại những cấu trúc, những mô hình do mình tạo nên, nghĩa là gặp lại chính mình.
Và cũng bắt đầu nhận ra rằng không thể giáo điều tin vào tính tất định của khoa học mà không xét kỹ độ chính xác trong mỗi trường hợp cá biệt. Khoa dự đoán khí tượng đã nghiêm túc chứng minh rằng bướm vỗ cánh ở Bắc Kinh hôm nay có thể gây giông tố tại Nữu Ước tháng sau. Các sự kiện gần đây lại càng cho thấm thía tính tất định lịch sử thật ra chẳng nghiêm ngặt gì hơn chuyện nắng mưa.
Tất định lịch sử không còn, tự do của cá nhân bỗng nới rộng ra thêm. Mỗi người có thể tự nhủ rằng cánh bướm mình vỗ lên có khả năng lái lịch sử chệch qua hướng khác. Nhưng khi ấy chợt nổi lên, không giải đáp, câu hỏi ý nghĩa hướng đi lịch sử là gì ?
Dù muốn dù không, một lúc nào đó trong đời sống, con người thời đại cũng bị thực tại xô đẩy, buộc quay về đối diện với thân phận làm người của mình. Và lúc ấy rùng mình nhận ra rằng, về căn bản, cung cách ứng xử của mình chẳng mấy khác người thời trung cổ. Bạo tàn man rợ khác nào khi xưa.
Chỉ có điều khác là con người thời đại nắm trong tay những phương tiện sinh sát sánh tày Thượng đế. Đem các phương tiện ấy ra sử dụng lại có phương pháp tổ chức theo kiểu đại công nghiệp – máy móc lạnh lùng – nhưng hữu hiệu biết là chừng nào.
Trong khắc khoải tự vấn trước mênh mang cuộc sống, con người thời đại thấy mình nhỏ bé, chẳng khác gì con người trung cổ. Nhưng, quay đi quay lại chỉ mình với mình. Không nơi nương tựa, thiếu ngọn đuốc soi đường mà người trung cổ sẵn có, chỉ việc tuân theo.
II. Con đường Như Lai
1. Một giáo lý nhân bản, một quan điểm “ động ” trong nhận định
Đối tượng của lời Phật dạy không ai khác là con người, trần trụi với thân phận làm người. Câu hỏi trung tâm của giáo lý nhà Phật là một vấn nạn thẳng thừng không chút nhân nhượng: “Con người kia ! anh là gì?”
Con người không khỏi cũng có lúc trầm ngâm trước giòng sông, nước luân lưu chảy để ngậm ngùi rằng ta đứng đấy mà mọi việc trước mắt biến chuyển không ngừng. Điều mà ai ai cũng nhận ra dễ dàng. Nhưng thường không suy xét xa hơn, và, nếu có thì cũng ngừng ở nhận định: ta nhìn, ta tư duy vậy ta hiện hữu (je pense, donc je suis).
Cách nhìn theo đức Phật không phủ định tính hiện hữu của “cái ta”, trong phút giây quan sát giòng sông. Chỉ nhắc nhở rằng, nếu không ngừng nước chảy qua cầu thì nào có khác chi giòng nước, người đứng trên cầu ngắm giòng sông cũng bao ý niệm nổi lên, trôi đi, dư âm vang vọng, tâm tư không ngừng chuyển đổi…
Nhà Phật quan niệm giòng sông, người đứng ngắm là những nhân tố ứng tác qua lại với nhau trong một quan hệ động. Một tiến trình trong đó các ứng tác không ngừng miên man chuyển biến. Thuật ngữ nhà Phật gọi đó là “vô ngã”, “vạn pháp vô ngã” mọi sự việc đều vô ngã. Và dùng thuật ngữ “không” để chỉ bản tính không ngừng biến chuyển của sự vật, “vạn pháp giai không”. Đem cái nghĩa thông thường của từ “không” gán cho thuật ngữ đồng âm làm sai lạc ý nghĩa quan điểm nhà Phật. Hiện thực luôn luôn biến động, nhưng nào phải vì vậy mà hư không!
Cảm nhận trung thực từng giây từng phút tiến trình của các quan hệ không ngừng chuyển đổi, tiếp theo đó mà liên tục đáp ứng, hồn nhiên và hài hoà, không bị lăng kính ảo tưởng làm cho méo mó lệch lạc, đó là một đặc tính của Phật. Và vì thế Phật còn có danh hiệu là Như Lai.
Tiến trình chuyển biến của sự việc, Phật giáo quan niệm là không do ngẫu nhiên. Nó có nguyên nhân và điều kiện. Nguyên nhân như là hạt giống, nảy nở ra được hay bị thui chột đi còn tuỳ ảnh hưởng điều biến của những điều kiện kèm theo. Thuật ngữ gọi đó là “nhân duyên”.
2. Một giáo lý cho hành động, nơi đây và ngay bây giờ
Là một nhân tố ứng tác có ý thức, con người trong giây phút hiện thực là một điểm động cuốn theo giòng thác tiến trình mà khởi điểm bắt đầu khi nào chẳng rõ, bao giờ tới điểm tận cùng cũng chẳng hay. Lặn hụp trong giòng đời, dù cho thu mình với thái độ thụ động hay tích cực xông xáo, con người bề gì cũng ý thức tiếp thu ảnh hưởng cùng tác động vào tiến trình cuộc sống, nghĩa là hành động, là gieo nhân, tạo nên duyên.
Nói cho đúng, ý thức của con người có ban cho hắn được chút phần tự do. Trong chọn lựa hành động và khởi điểm của nó. Nhưng trong một tiến trình, khi đã phát động rồi, hành động tác động vào môi trường như thế nào, phản hồi lại ra sao phần lớn vượt ngoài ý chí của con người cá nhân. Con người ấy, trong giây phút hiện thực là một điểm động, là hệ quả của hành động bản thân, của tác động môi trường bao quanh, của các thế hệ sinh trước. Ngược lại, với hành động do mình khởi xướng, cá nhân ấy cũng tác động vào thế giới này, vào thế hệ mai sau…
Thuật ngữ “nghiệp” của nhà Phật dùng để chỉ tác động và hệ quả của hành động có ý thức của con người. Con người cá nhân tạo ra “biệt nghiệp” riêng của chính mình, nhưng cũng tác động vào và chịu ảnh hưởng “cộng nghiệp” chung của cả xã hội của loài người. Khái niệm “nghiệp” đặt vai trò và vị trí của mỗi cá nhân trong vũ trụ, trong giòng tiến hoá của sinh vật, trong nhân loại hôm qua, ngày nay và mai sau.
Qua hành động – mà không ai tránh né được – cái “nghiệp” ràng buộc theo quy luật nhân duyên mỗi cá nhân với toàn thể loài người, toàn thể sinh vật. Từ mối liên đới đó, hệ giáo lý Bắc tông khai triển ra khái niệm “bồ tát nguyện”. Còn sinh vật trôi nổi trong vòng khổ đau thì bồ tát còn nguyện theo nâng đỡ. Vì nghĩ cho cùng, liên đới nhân duyên ràng buộc với nhau, làm sao có thể quan niệm một mình một chốn niết bàn thảnh thơi được.
Con người là ứng tác có ý thức trong tiến trình không ngừng chuyển biến, hành động của hắn nếu mà liên tục hài hoà được với cuộc sống chỉ có thể là hành động thích ứng nơi đây và ngay bây giờ, nghĩa là một sáng tạo không ngừng
Chính vì vậy mà giáo lý Phật giáo không thể không là lý thuyết, phương pháp, kỹ thuật cho hành động trong hướng đó.
Chính căn cứ vào hành động, vào “nghiệp” mà đạo Phật đưa con người từ tối tăm trật vuột nắm bắt ảo ảnh – thuật ngữ gọi là “vô minh” – đến trí tuệ hoà hợp hồn nhiên con người vào tiến trình cuộc sống, vào vũ trụ. Chính vì vậy mà cho rằng đạo Phật yếm thế, trốn đời là lầm to.
3. Một con đường giải phóng trí tuệ soi sáng hành động
Chính vì có ý thức mà con người khó hồn nhiên ứng tác hoà hợp theo nhịp biến đổi của tiến trình cuộc sống. Lúc thì phản ứng bất cập, khi thì lại thái quá. Hoặc bo bo ôm cái khối kinh nghiệm quá khứ quên mất rằng bản chất hiện tại là một trạng thái mới lạ, vì vậy mà hành động trong hiện tại luôn luôn là một sáng tạo. Hoặc không muốn nhìn vào hiện tại, quay hết tâm trí phóng vào một cái chưa có mà mình gọi là tương lai, để rồi dập mặt dập mũi vào cái hiện tại không sao tránh né được. Nhà thơ than :
Yêu là chết trong lòng một ít
Cho thì nhiều nhưng chẳng nhận bao nhiêu…
Yêu nhau thắm thiết, niềm vui lớn. Nhưng chính vì yêu mà kẻ cho, người nhận, cả hai người yêu nhau không bao giờ được hoàn toàn vừa lòng. Nhà Phật không phủ nhận những niềm vui trong cuộc sống, chỉ nhắc nhở rằng bên cái vui, quan hệ trong tiến trình cuộc sống, các ứng tác có ý thức luôn luôn vấp vào những điều làm cho họ chẳng bao giờ được hoàn toàn mãn nguyện. Thuật ngữ nhà Phật gọi những khổ đau, những tiềm lực làm cho con người bất mãn trong cuộc sống là “khổ”. Đó chỉ là một nhận định duy thực.
Nhận định thế, để khẳng định ngay rằng có con đường vượt “khổ”, đem lại an lành. Con đường bỏ rơi ảo tưởng, hài hoà quan hệ ứng tác của con người trong tiến trình không ngừng biến động của cuộc sống. Đó là “đạo” mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã bản thân thể nghiệm. Và khẳng định rằng đã là người, thì không phân biệt trai gái, sang hèn, màu da sắc tộc, bất cứ ai ai cũng đều tiềm tàng đầy đủ khả năng của đức Phật, con người đã rốt ráo thể hiện “đạo” ấy.
Phật chỉ nhắn nhủ mỗi người chúng ta chính mình thể nghiệm. Không một ai có thể làm thay mình được, đức Phật cũng chỉ là người chỉ đường.
Mỗi cá nhân là một trường hợp duy nhất, con đường cũng phải thích nghi với tính duy nhất của mỗi người. Nhà Phật hằng hà phương tiện.
Nguyên tắc chung, chúng ta gặp ngay trong câu Phật tử thường chúc nhau được “thân tâm an lạc”. Phương pháp nhà Phật chú trọng cả thể xác lẫn tâm thần, đến tác động qua lại vòng tròn của chúng. Thân an lặng thì lòng cũng yên, tâm yên tĩnh thì thân thêm thư dãn thoải mái. Cứ thế mà thân tâm liên tục ảnh hưởng lẫn nhau đưa đến trạng thái tĩnh lặng, thuận lợi để quán xét, ý thức tinh tường những gì đang sảy ra trong mình, xung quanh mình.
Chính sự ý thức rõ rệt những gò bó trong thân xác, những thể thức dục vọng nổi lên rồi tan đi trong thâm tâm là cơ sở để chủ động thư dãn toàn thân, để cho dục vọng không bị đè nén mà nhạt thưa dần. Lửa lụi tàn vì củi không còn. Cứ như thế mà các nhân tố tạo thiên kiến, thành kiến rơi rụng. Mâu thuẫn tan dần, tự do nội tâm phát triển. Thân và tâm ung dung tự tại sẵn sàng tập trung vào hiện tượng bên trong, bên ngoài, để tiếp nhận và phản ứng hồn nhiên, thích nghi, không lệch lạc.
Khi ảo tưởng hoàn toàn rơi rụng hết, sự thích ứng lúc ấy hài hoà với tiến trình cuộc sống. Một trạng thái siêu việt các cặp đối lập ta – người, chủ – khách, tri thức – hành động, thiện – ác, luân hồi – niết bàn… thời gian trong đó là hiện tại, vĩnh hằng.
Đó là ý nghĩa lời Long Thọ bồ tát (150? – 250?) khẳng định “Niết bàn là luân hồi, luân hồi là niết bàn ” (Nagarjuna, Madhyamika – Karika, XXV, 19). Đó là lý do nhà Nho thấm nhuần tinh thần Thiền tông Vương Dương Minh (1472 – 1529) xướng thuyết “tri hành hợp nhất”.
Chỉ có bậc hoàn toàn giác ngộ mới hợp nhất được tri và hành, siêu việt được đối lập biết và làm. Nhưng, cuộc sống luôn luôn đặt chúng ta trước một chọn lựa để hành động. Thế nào cho phải, đó là vấn đề. Giáo lý nhà Phật đề nghị các phương thức giúp cho mỗi người chúng ta sáng suốt nhận thức và hành động. Mấy câu kinh Pháp Cú rất nhiều người thuộc nằm lòng nhắc nhở điều ấy :
Chư ác mạc tác
Chư thiện phụng hành
Thanh tịnh kỳ ý
Thị chư Phật ngôn
(Không làm điều ác, Làm mọi việc lành, Thanh tịnh tâm ý, Ấy lời chư Phật)
Phân biệt phải, quấy, đạo Phật không đặt nơi một uy quyền ngoài con người. Lúc chọn lựa hành động bao giờ chẳng chỉ có mình với mình. Cái “lương tr ” do tâm ý thanh tịnh trong sáng là bảo đảm duy nhất cho tính đúng đắn của chọn lựa ấy. Tất cả giáo lý nhà Phật, lý thuyết, và thực hành chỉ nhằm sao cho tâm ý người hành đạo tĩnh lặng trong sáng trong sóng gió bão lửa của cuộc sống.
Con người thời đại đã đạt tri thức vô cùng cao xa, nhưng lương tri không tương xứng. Tạo một “lương tri khác” là tiềm năng quý báu mà giáo lý nhà Phật có khả năng góp vào công cuộc xây dựng nền văn hoá một thời đại khắc khoải đi tìm lương tri cho chính mình. Với vốn liếng Phật giáo tích lũy trên hai mươi thế kỷ tri thức lý thuyết và thực hành.
Phần hai:
III. Chí khí ngất trời xanh
1. Xác định chức năng
Sức sống của một giáo lý tuỳ thuộc những người đang sống và thể hiện nó. Phật giáo phát huy được tiềm năng của minh khi nào những người đang sống lời Phật dạy xác định được chức năng xã hội của giáo lý mình thể hiện.
Trên căn bản giáo lý nhà Phật không có gì đối chọi với tinh thần khoa học. Nhưng Phật giáo không phải là khoa học. Chức năng khác, cách chứng thực cũng khác. Sự thực khoa học chứng qua thực nghiệm. Hoàn toàn khác từ tinh thần, lý thuyết, đến thực hiện với thể nghiệm “đạo”. Sự thực thể nghiệm là một sự thực chủ quan, bản chất khác với sự thực khoa học.
Khoa học thay đổi bộ mặt toàn cầu. Tuy nhiên, trong hiện trạng ngày nay khoa học không thể và cũng không có tham vọng đề nghị một cái nhìn tổng hợp toàn diện cuộc sống.
Giáo lý nhà Phật đề nghị một nhận thức tổng thể cuộc sống, là một triết học. Chính vì không phải là khoa học mà Phật giáo làm được cái việc ngoài chức năng của khoa học: đem lại ý nghĩa cho hoạt động thường ngày, cho cuộc sống mỗi con người.
Có triết lý của mình, nhưng khác với các hệ triết học nhà Phật còn một kho kinh nghiệm phong phú về phương thức, kỹ thuật sử dụng những động tác thân xác đơn giản, hô hấp, đi, đứng, ngồi, nằm… để thể hiện triết lý của mình trong thân xác, trong cuộc sống hàng ngày, trong mỗi người. Đề nghị một hành trình thể hiện chứ không chỉ duy nhất là một hệ tư tưởng thuần lý, một bộ phận giáo lý nhà Phật có những nét hấp dẫn đối với tinh thần thời đại.
Là một tôn giáo, có đầy đủ nghi lễ, nhưng người Phật tử không phải đặt lòng tin vào một uy lực cao siêu nào ngoài con người, ngoài bản thân mình.
Có biết mình, biết người, cộng đồng Phật tử mới bỏ rơi được mặc cảm tự ti và tự tôn, không hao tổn tâm thần năng lực vào những cuộc tranh biện sân si, xác định vị trí và chức năng của giáo lý nhà Phật so với khoa học, với các hệ triết học, các tôn giáo khác. Khi ấy mới an nhiên đem tinh thần Như Lai thể hiện ra trong nếp sống hàng ngày, trong muôn mặt của cuộc sống. Và góp phần vào công cuộc chuyển hoá nền văn hoá thời đại.
2. Sống thời đại
Muốn được vậy phải đau cái đau thời đại, khổ cái khổ thời đại, dằn vặt với các vấn đề thời đại. Tóm lại phải sống thời đại.
Truyền thống hai mươi lăm thế kỷ của đạo Phật là một ốc đảo để ẩn náu, an tâm cho những ai mệt mỏi, khiếp sợ trước các chấn động của một thời đại đang oằn oại chuyển tiếp. Cái nguy lớn của Phật giáo chính là đó: mặt quay về quá khứ, day lưng với thời đại, mãn nguyện với việc làm nơi ẩn náu cho những người trốn sống thời đại. Và chỉ có thế mà thôi, ngoài ra không còn chi khác.
Nay chính là lúc cần chí khí ngất trời xanh của những người đem đạo vào đời trong những thời điểm khác thường. Khi tinh thần Phật thấm nhuần vào Trung quốc, nở ra Thiền tông, các tổ như ngài Lâm Tế (? – 867 ?) nói đạo bằng câu chữ hàng ngày của người nông dân cho người thời đại bừng mắt nhận ra đâu là tinh thần Như Lai.
Khi văn hoá đất Việt hưng lên với một dân tộc độc lập, đời Lý thiền sư Quảng Nghiêm (1121- 1190) nhắn nhủ “Nam nhi tự hữu xung thiên khí , Hưu hướng Như Lai hành xứ hành” (Làm trai chí khí xông trời thẳm, Thôi đi, bỏ lối học đòi Như Lai).
Đời Trần, ta gặp thần thái thanh thoát ấy nơi Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Tung (1230 – 1291), thầy của tổ sáng lập ra phái thiền Việt Nam Trúc Lâm, Điều Ngự giác hoàng Trần Nhân Tông (1258 – 1308). Trong một bữa tiệc của thái hậu mà cũng là em ruột thượng sĩ thiết đãi, Tuệ Trung gặp thịt cứ ăn. Thái hậu lấy làm lạ hỏi : “Anh tu thiền mà ăn thịt thành Phật sao được?” Thượng sĩ cười đáp : “Phật là Phật, anh là anh. Anh chả cần làm Phật, Phật chả cần làm anh.”
Thời Phật, thời tổ, thời Lý – Trần đã qua, và không bao giờ trở lại, thời đại là của bây giờ. Tinh thần đức Phật chỉ có giá trị qua cọ sát với thực tại. Có lăn vào giải quyết những vấn đề cụ thể đang đặt ra cho con người, mới nảy ra cái nhìn “như lai” sự việc hôm nay. Mới bật ra lời lẽ đi vào con tim người đang mò mẫm tìm đường.
Phải thông giáo lý nhà Phật, đã đành. Công trình xuất bản kinh tạng Pali dịch qua tiếng Việt của hoà thượng Minh Châu, dự án dịch và xuất bản hệ tam tạng sanskrit của Giáo hội Phật giáo Việt Nam là một bước tiến cho ai ai cũng có thể tiếp cận những tư liệu gốc một cách trực tiếp. Nhưng, có soi qua gương mặt người mới nhận rõ ra mặt mình, có đem tư tưởng nhiều ít sáo mòn của mình đọ với các luồng tư tưởng hiện hành mới sáng lên sức sống của tư tưởng Phật, nơi đây và ngay bây giờ.
Công cuộc ấy còn bỏ ngỏ.
Thời nào cũng phải thích nghi phương pháp tu dưỡng cho thời đại mình. Không biết tự bao giờ phật tử Việt Nam chào nhau bằng câu “A Di Đà Phật”. Chỉ biết chắc chắn rằng chẳng phải do ngẫu nhiên. Có gì khắc khoải cho con người bằng khi phải mặt đối mặt với thân phận làm người. Cái ý phải tin vào sức mình, không ai, kể cả đức Phật có thể làm thay cho được tiềm tàng trong lời Phật dạy. Nhưng cũng ý đó bắt con người phải đối diện với chính mình. Tịnh độ tông khéo léo tránh né điểm khó này bằng thuyết “tha lực”, nhờ sức của người khác, nhờ Phật A Di Đà dẫn vào đất an lành.
Phương tiện phần nào dễ dãi ấy có còn thích nghi với tinh thần nghi ngờ thành hệ thống của con người ngày nay hay chăng ? Dù muốn dù không, vấn đề phương cách “hành đạo” cho con người hiện đại cũng đặt ra.
Những phương tiện hay nhất thường tìm thấy không đâu ngoài đời sống hàng ngày, ngoài nghề nghiệp. Người võ sĩ Nhật samourai, kè kè lưỡi kiếm, theo nghề chém giết. Phật giáo nhập sâu vào văn hoá thì người samourai học và thể hiện Thiền không đâu ngoài đường kiếm. Khi đó người ấy đi vào giữa lằn đao, mưa đạn với cái an nhiên của kẻ siêu việt cái sống và cái chết, lưỡi kiếm uy lực như sấm sét.
Phương pháp hành đạo ngày nay là những gì ? Để cho con người tất bật của thời đại thể hiện được tinh thần Như Lai, hồn nhiên mà thích nghi vào tiến trình cuộc sống ?
Những tầm nhìn thanh thoát về các vấn đề thời đại đang đặt ra, một nghệ thuật sống an lành đi vào muôn mặt của cuộc sống thường ngày, những phương pháp tu dưỡng thích nghi với mọi lớp người trong xã hội hiện đại, đó là thách thức mà thực tại đặt ra cho trí tuệ cộng đồng Phật tử. Giải đáp chính là phần Phật giáo góp vào nền văn hoá thời đại.————
III. Chí khí ngất trời xanh
1. Xác định chức năng
Sức sống của một giáo lý tuỳ thuộc những người đang sống và thể hiện nó. Phật giáo phát huy được tiềm năng của minh khi nào những người đang sống lời Phật dạy xác định được chức năng xã hội của giáo lý mình thể hiện.
Trên căn bản giáo lý nhà Phật không có gì đối chọi với tinh thần khoa học. Nhưng Phật giáo không phải là khoa học. Chức năng khác, cách chứng thực cũng khác. Sự thực khoa học chứng qua thực nghiệm. Hoàn toàn khác từ tinh thần, lý thuyết, đến thực hiện với thể nghiệm “đạo”. Sự thực thể nghiệm là một sự thực chủ quan, bản chất khác với sự thực khoa học.
Khoa học thay đổi bộ mặt toàn cầu. Tuy nhiên, trong hiện trạng ngày nay khoa học không thể và cũng không có tham vọng đề nghị một cái nhìn tổng hợp toàn diện cuộc sống.
Giáo lý nhà Phật đề nghị một nhận thức tổng thể cuộc sống, là một triết học. Chính vì không phải là khoa học mà Phật giáo làm được cái việc ngoài chức năng của khoa học: đem lại ý nghĩa cho hoạt động thường ngày, cho cuộc sống mỗi con người.
Có triết lý của mình, nhưng khác với các hệ triết học nhà Phật còn một kho kinh nghiệm phong phú về phương thức, kỹ thuật sử dụng những động tác thân xác đơn giản, hô hấp, đi, đứng, ngồi, nằm… để thể hiện triết lý của mình trong thân xác, trong cuộc sống hàng ngày, trong mỗi người. Đề nghị một hành trình thể hiện chứ không chỉ duy nhất là một hệ tư tưởng thuần lý, một bộ phận giáo lý nhà Phật có những nét hấp dẫn đối với tinh thần thời đại.
Là một tôn giáo, có đầy đủ nghi lễ, nhưng người Phật tử không phải đặt lòng tin vào một uy lực cao siêu nào ngoài con người, ngoài bản thân mình.
Có biết mình, biết người, cộng đồng Phật tử mới bỏ rơi được mặc cảm tự ti và tự tôn, không hao tổn tâm thần năng lực vào những cuộc tranh biện sân si, xác định vị trí và chức năng của giáo lý nhà Phật so với khoa học, với các hệ triết học, các tôn giáo khác. Khi ấy mới an nhiên đem tinh thần Như Lai thể hiện ra trong nếp sống hàng ngày, trong muôn mặt của cuộc sống. Và góp phần vào công cuộc chuyển hoá nền văn hoá thời đại.
2. Sống thời đại
Muốn được vậy phải đau cái đau thời đại, khổ cái khổ thời đại, dằn vặt với các vấn đề thời đại. Tóm lại phải sống thời đại.
Truyền thống hai mươi lăm thế kỷ của đạo Phật là một ốc đảo để ẩn náu, an tâm cho những ai mệt mỏi, khiếp sợ trước các chấn động của một thời đại đang oằn oại chuyển tiếp. Cái nguy lớn của Phật giáo chính là đó: mặt quay về quá khứ, day lưng với thời đại, mãn nguyện với việc làm nơi ẩn náu cho những người trốn sống thời đại. Và chỉ có thế mà thôi, ngoài ra không còn chi khác.
Nay chính là lúc cần chí khí ngất trời xanh của những người đem đạo vào đời trong những thời điểm khác thường. Khi tinh thần Phật thấm nhuần vào Trung quốc, nở ra Thiền tông, các tổ như ngài Lâm Tế (? – 867 ?) nói đạo bằng câu chữ hàng ngày của người nông dân cho người thời đại bừng mắt nhận ra đâu là tinh thần Như Lai.
Khi văn hoá đất Việt hưng lên với một dân tộc độc lập, đời Lý thiền sư Quảng Nghiêm (1121- 1190) nhắn nhủ “Nam nhi tự hữu xung thiên khí , Hưu hướng Như Lai hành xứ hành” (Làm trai chí khí xông trời thẳm, Thôi đi, bỏ lối học đòi Như Lai).
Đời Trần, ta gặp thần thái thanh thoát ấy nơi Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Tung (1230 – 1291), thầy của tổ sáng lập ra phái thiền Việt Nam Trúc Lâm, Điều Ngự giác hoàng Trần Nhân Tông (1258 – 1308). Trong một bữa tiệc của thái hậu mà cũng là em ruột thượng sĩ thiết đãi, Tuệ Trung gặp thịt cứ ăn. Thái hậu lấy làm lạ hỏi : “Anh tu thiền mà ăn thịt thành Phật sao được?” Thượng sĩ cười đáp : “Phật là Phật, anh là anh. Anh chả cần làm Phật, Phật chả cần làm anh.”
Thời Phật, thời tổ, thời Lý – Trần đã qua, và không bao giờ trở lại, thời đại là của bây giờ. Tinh thần đức Phật chỉ có giá trị qua cọ sát với thực tại. Có lăn vào giải quyết những vấn đề cụ thể đang đặt ra cho con người, mới nảy ra cái nhìn “như lai” sự việc hôm nay. Mới bật ra lời lẽ đi vào con tim người đang mò mẫm tìm đường.
Phải thông giáo lý nhà Phật, đã đành. Công trình xuất bản kinh tạng Pali dịch qua tiếng Việt của hoà thượng Minh Châu, dự án dịch và xuất bản hệ tam tạng sanskrit của Giáo hội Phật giáo Việt Nam là một bước tiến cho ai ai cũng có thể tiếp cận những tư liệu gốc một cách trực tiếp. Nhưng, có soi qua gương mặt người mới nhận rõ ra mặt mình, có đem tư tưởng nhiều ít sáo mòn của mình đọ với các luồng tư tưởng hiện hành mới sáng lên sức sống của tư tưởng Phật, nơi đây và ngay bây giờ.
Công cuộc ấy còn bỏ ngỏ.
Thời nào cũng phải thích nghi phương pháp tu dưỡng cho thời đại mình. Không biết tự bao giờ phật tử Việt Nam chào nhau bằng câu “A Di Đà Phật”. Chỉ biết chắc chắn rằng chẳng phải do ngẫu nhiên. Có gì khắc khoải cho con người bằng khi phải mặt đối mặt với thân phận làm người. Cái ý phải tin vào sức mình, không ai, kể cả đức Phật có thể làm thay cho được tiềm tàng trong lời Phật dạy. Nhưng cũng ý đó bắt con người phải đối diện với chính mình. Tịnh độ tông khéo léo tránh né điểm khó này bằng thuyết “tha lực”, nhờ sức của người khác, nhờ Phật A Di Đà dẫn vào đất an lành.
Phương tiện phần nào dễ dãi ấy có còn thích nghi với tinh thần nghi ngờ thành hệ thống của con người ngày nay hay chăng ? Dù muốn dù không, vấn đề phương cách “hành đạo” cho con người hiện đại cũng đặt ra.
Những phương tiện hay nhất thường tìm thấy không đâu ngoài đời sống hàng ngày, ngoài nghề nghiệp. Người võ sĩ Nhật samourai, kè kè lưỡi kiếm, theo nghề chém giết. Phật giáo nhập sâu vào văn hoá thì người samourai học và thể hiện Thiền không đâu ngoài đường kiếm. Khi đó người ấy đi vào giữa lằn đao, mưa đạn với cái an nhiên của kẻ siêu việt cái sống và cái chết, lưỡi kiếm uy lực như sấm sét.
Phương pháp hành đạo ngày nay là những gì ? Để cho con người tất bật của thời đại thể hiện được tinh thần Như Lai, hồn nhiên mà thích nghi vào tiến trình cuộc sống ?
Những tầm nhìn thanh thoát về các vấn đề thời đại đang đặt ra, một nghệ thuật sống an lành đi vào muôn mặt của cuộc sống thường ngày, những phương pháp tu dưỡng thích nghi với mọi lớp người trong xã hội hiện đại, đó là thách thức mà thực tại đặt ra cho trí tuệ cộng đồng Phật tử. Giải đáp chính là phần Phật giáo góp vào nền văn hoá thời đại.————
Bình luận (7)
Hiểu sai Mác. Quá đề cáo Phật
Hiểu sai Mác. Quá đề cáo Phật
Thứ bảy, 21/02/2009 08:49′ AM – Hồ Bá Thâm hobatham@…
“Marx tiếp nối theo, tin rằng đấu tranh giai cấp là động cơ của giòng lịch sử ấy và cho đó là một phát hiện căn bản của mình tìm ra. Con người làm ra lịch sử, và có khả năng gia tốc lịch sử bằng cách tác động theo chiều hướng của động cơ.” Nhận định này không chính xác, không đúng về phát hiện căn bản của chủ nghĩa Mác. Trong một bức thư, khi trả lời Mác đã nói rằng phát hiện về đấu tranh giaí cấp là của các nhà tư tưởng tư sản. Phát hiện căn bản của Mác là về vai trò của nền sản xuất xã hội và quy luật khách quan của lịch sử cũng như vai trò của con người trong quá trình đó. Vấn đề gíai cấp cũng là từ đó mà ra chứ không phải ngược lại. Hiểu khác đi là xuyên tạc Mác. “Con người làm ra lịch sử, và có khả năng gia tốc lịch sử bằng cách tác động theo chiều hướng của động cơ. Cách nhìn của Marx là một yếu tố gây niềm hy vọng lớn cho một phần nhân loại: lịch sử có ý nghĩa và sẽ tất nhiên đi đến điểm tận cùng của nó. Hành động trong hướng đi của lịch sử là hành động vô cùng ý nghĩa của những con người ý thức được sự thật lịch sử. Rồi, trong vòng mấy thập kỷ của thế kỷ hai mươi này, con người bừng mắt phát hiện ra rằng những tiến trình do chính mình phát động có tác động gần như không giới hạn vào thế giới thiên nhiên, vào thế giới con người: Làm chủ được nguyên tử lực, con người có thừa năng lực làm nổ tung quả địa cầu”. Hơn nữa đoạn tiếp theo này mà tác giả bài viết trên với ý nói rằng con người chỉ làm theo động cơ (lờ đi việc PHẢI TUÂN THEO quy luật) và quy hậu quả lịch sử ngày nay cho lý thưyết của Mác là càng không đúng, KHÔNG CÓ CÁI NHÌN TOÀN DIỆN SỰ THẬT LỊCH SỬ và xuyên tạc nốt.
Chính tôi thấy rõ tác dụng tích cực nhất định của tư tưởng Phật giáo. Nhưng việc quá tuyệt đối hóa tư tưởng Phật giáo như tác giả bài viết trên trên thì, như PHẬT DẠY LÀ KHÔNG TỰ BIẾT (GIỚI HẠN) CỦA MÌNH.
Chúng ta bình tĩnh và xem lại
Thứ hai, 02/03/2009 06:17′ AM – Đạo Trường hoahongblackrose@…
Qua bài của Bs Bùi Mạnh Hùng và phần tham luận của Ts Thâm tôi xin tham gia một số ý kiến sau : 1/ Bs Bùi Mộng Hùng không xuyên tạc, Mà chỉ là có thể chưa hiểu Triết Mác như Ts Hồ Bá Thâm đã hiểu mà thôi.
Nhưng trong cuộc sống tôi lại thấy có nhiều cảm nhận phong phú như vậy đó. Có nhiều cảm nhận về triết Phật của Bs Hùng cũng không giống tôi. Và rất nhiều người ( nếu nói chính xác thì đa số người ) hiểu về Triết Mác như vậy.
Một ví dụ tôi thấy nhiều người hiểu như sau : Triết Mác cho rằng Vật chất có trước ý thức có sau, kinh tế quyết định chính trị tư tưởng và suy luận cuối cùng là Cộng sản là những người có quan điểm sống tiền bạc quyết định đạo đức !. Tôi biết Ts Thâm nghe chuyện này sẽ rất không vui chút nào, thật là quá đáng phải không ? Nhưng thôi, cuộc sống là như vậy đó ! Hãy cẩn thận khi chỉ có vài người hiểu Triết Mác đúng đắn như Ts Thâm, dù rằng đó là hiểu biết đúng đắn nhất. Một triết lý đúng đắn sẽ là vô nghĩa khi không được số đông hiểu đúng và chấp nhận.
2/ Bài của Bs Hùng có mục đích là bàn luận về Triết Phật và Phật giáo. Cho nên chúng ta sẽ không lạ khi thấy đa số nội dung là dành cho Phật giáo. Những triết lý và những tư tưởng khác đương nhiên là sẽ chỉ phớt qua. Nhất là Triết học Mác thì rất phổ biến tại VN, người ta đã nghe và hiểu nhiều hơn nhiều triết khác trong đó có triết Phật. Bài luận của Bs Hùng nêu ra những tư tưởng trong triết Phật và những ý nghĩa thực tiễn của nó. Khối lượng kiến thức khá phong phú , qua đó người đọc tự thấy cái sâu rộng và hay đẹp của nó chứ không phải là ca ngợi xuông Triết Phật. Cho nên tôi thấy Ts Thâm dùng từ ” Quá đề cao Phật ” là không đúng. Tôi thấy bài của Bs Hùng chỉ toát ra được phần nào về năng lực của triết Phật mà thôi. Nếu Ts Thâm muốn cho mọi người hiểu đúng và hiểu đẹp về triết Mác thì xin Ts có bài viết về Triết Mác cho phong phú, ý nghĩa, dễ hiểu.
3/ Phật dạy là ” PHẢI BIẾT GIỚI HẠN CỦA MÌNH ” . cho nên Bs Hùng đã biết giới hạn của Bs Hùng rồi đấy chứ. Bs Hùng đâu có khoe là ” Tôi sáng suốt nhất, Tôi Trí tuệ nhất, tôi nhân bản nhất, tôi dũng cảm nhất …. tôi.. tôi … ” ? mà Bs Hùng chỉ nêu ra được những tư tưởng của đức Phật và người đọc cảm nhận cái hay của triết Phật mà thôi. Triết Phật là một phương tiện, cho nên giá trị và chức năng, hiệu quả của phương tiện phụ thuộc vào trình độ và khả năng áp dụng của người sử dụng nó . ” Phải biết giới hạn của mình” là câu dạy người sử dụng công cụ chứ không phải câu đánh giá hiệu quả và chức năng của công cụ.
Tiến sỹ Thâm đang quen sử dụng triết Mác, Mọi người từ trước đến nay không thấy có công trình sử dụng triết Phật trong Quản lý kinh tế và quản lý xã hội. Từ đó Chúng ta nhận định là triết Phật không có vai trò về kinh tế và xã hội LÀ LẦM TO. Tôi xin nhấn mạnh một nhận định của Bs Hùng ở đây. Điều đó có nghĩa Bs Hùng cũng như tôi tham luận để mọi người thấy thêm vai trò to lớn của triết Phật trong cuộc sống. Hiện tại tôi thấy TS Thâm đánh giá vai trò của triết Phật về kinh tế xã hội cũng giống như các nhà khoa học tự nhiên đánh giá về triết này 20 năm về trước. Tôi tin rằng nếu Ts Thâm tạm gác triết Mác ra khỏi tư tưởng để toàn tâm toàn ý nghiên cứu về triết Phật thì đã có cái nhìn về triết Phật như những nhà khoa học tự nhiên hiện nay. Hoặc, Ts Thâm và những nhà triết gia Mácxít làm hoàn thiện triết Mác thì sẽ thành triết Phật dưới dạng trình bày hiện đại mà không hay, rồi đặt cho nó cái tên khác như ” phương pháp luận duy vật nhân văn ” chẳng hạn. Đối với tôi thì không sao, Tôi là người đạt ý quên lời.
4/ Có lẽ Ts Thâm thấy lạ là tại sao Tôi lại Vừa dùng triết Mác vừa dùng triết Phật ?
Vài dòng tâm sự ở đây : khi nghiên cứu về triết Mác tôi thấy bản chất của triết Mác không mâu thuẫn với triết Phật mà chỉ là cụ thể và đơn giản hoá triết Phật mà thôi. Triết Mác sẽ có nhiều điều dễ hiểu hơn , nhưng lại có nhiều điều dễ hiểu sai hơn triết Phật. Như thế, trước một vấn đề cần giải quyết thì đầu tiên tôi dùng triết Mác để xác định cho nhanh những vấn đề trọng tâm cần giải quyết. Khi tìm biện pháp và thực hiện giải quyết những trọng tâm thì tôi lại dùng triết Phật để suy nghĩ chi li tỉ mỉ và toàn cảnh hơn, bảo đảm vấn đề kỹ thuật và đạo đức .
bình lặng và suy ngẫm
Thứ hai, 02/03/2009 10:58′ PM – Ngọc Chung svcoltech@…
Chung đồng ý với ý kiến bác Đạo Trường. Và Chung cũng có ý kiến bản thân thế này.Thưa Tiến sỹ Thâm, đối với tiến sỹ và những người nghiên cứu lý luận Mác, tiến sỹ có những sự hiểu đúng đắn, sâu sắc lý luận Mác. Nhưng đối với những người khác, đại bộ phận dân chúng mấy người hiểu được cho đúng, cho sâu như tiến sỹ. Ngược lại, giáo lý nhà phật (rộng hơn cả lý luận Mác – cảm nghĩ riêng của Chung thôi) lại dễ dàng truyền tải, dễ thấm nhuần trong dân chúng.
Đạo Phật hướng con người ta thoát khỏi vô minh, mê muội (nghĩa đen là ngu dốt, kém hiểu biết), cũng giống giống lý luận Mác. Đạo phật cũng có cả một kho lý luận làm cột chống, không những vậy đạo phật còn rất cụ thể trong đời sống, cái gì nên, không nên rất rõ ràng. Với lý luận Mác, Chung và rất nhiều người khác khó tìm được cái cụ thể đó.
Tiến sỹ nghiên cứu lý luận Mác rất sâu. Vậy sao vội kết luận BS Hùng xuyên tạc, tuyệt đối hóa tư tưởng Phật. Một kết luận không nên chút nào. Liệu rằng Tiến sỹ đã thấu đáo.
*********************************
Có phải quá ít người hiểu Mác hay không?
Thứ hai, 23/03/2009 09:35′ AM – Hồ Bá Thâm hobatham@…
Trao đổi trên tinh thần xây dựng là quá trình cùng nhau tăng thêm hiểu biết va càng học hỏi để càng đúng hơn. Cho nên tôi rất cảm ơn Đạo Trường và bạn đọc đặt ra nhiều điều cần trao đổi lại để nhiểu nhau hơn. Tất nhiên, có 2 cách trình bày: một là trình bày phổ cập để mọi người hiểu, để vận dụng ngay; hai là trình bày để xây dựng học thuyết mới, thì khái quát hơn, như là một cách đặt vấn đề thôi. Hơn nữa mỗi học thuyết có một miền phát sáng riêng, chỉ so sánh được khi trên cùng một vấn đề, một miền đối tượng.Sau đây chỉ xin cung cấp một thông tin sốt dẻo, liên quan tới cách một và vấn đề có phải quá ít người hiểu Mác hay không?
Hiện nay thử hỏi có một học thuyết nào làm rõ một cách sâu sắc, hệ thống, triệt để quá trình tiến hóa của xã hội loài người, phân tích về sự vận đồng, biến đổi, phát triển, thay thế nhau của các chế độ kinh tế xã hội hay hình thái kinh tế -xã hội, nhất là về hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa, như chủ nghĩa Mác?. Đó cũng là phát hiện lý luận quan trọng nhất và rất thực tế của Mác (Marx). Nhận xét này không riêng gì từ phía các nhà mácxít.
Không nói đâu xa, gần đây khi khủng hoảng kinh tế toàn cầu từ chủ nghĩa tư bản phát triển nhất thì hầu như cả phương Tậy lại đổ xô đi đọc bộ tư bản của Mác. Chỉ xin lấy một vài ví dụ.
Dưới đầu đề trên, báo “Nhân đạo” (Le Humanite) của Pháp vừa đăng bài viết khẳng định những bài học của Karl Marx về “Tư bản” đang trở nên hữu ích cho thế giới trong cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay. Với tư cách một nhà sử học Anh, Eric Hobsbawn nhận xét một cách hài hước: “Chính là những người tư bản, chứ không phải ai khác, đã tái phát hiện Marx”. Cũng như George Soros, một nhà tài chính và nhà chính trị ủng hộ kinh tế thị trường mới đây thừa nhận: Tôi đang đọc Marx. Có nhiều điều thú vị trong những gì ông đã nói”. Có vẻ như việc tư tưởng Marx đang trở lại là điều nghịch lý chăng? Điều đó có lạ lùng không? “Không, nó hoàn toàn không có gì gây ngạc nhiên khi các nhà tư bản thông minh, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính toàn cầu nghiên cứu lại tư tưởng của Marx kể từ khi họ nhận ra một cách đau đớn về một thực tế rằng bản chất và sự bất ổn định của nền kinh tế tư bản nằm ở chỗ họ điều hành nó”.
Hobsbawn khẳng định. Đó là quy luật của hệ thống, là sự chi phối của giai cấp tư sản mà Marx và Angel đã miêu tả trong “Tuyên ngôn Cộng sản” năm 1848, khá lâu trước khi Marx viết bộ “Tư bản”. Bộ “Tư bản” ra đời vào thời điểm được đánh dấu bằng một cuộc cách mạng trong sản xuất, một hệ thống xã hội đầy những biến động và bất ổn không ngừng. Marx có thể giúp chúng ta tìm ra lối thoát khỏi cuộc khủng hoảng không? Như nhà kinh tế Jean-Marie Harribey quan sát, nếu một ai đó có thể đưa ra danh sách ấn tượng những ấn phẩm phục vụ cho lợi ích của tư bản thì chắc chắn họ sẽ rút ra những phê phán của Marx về chủ nghĩa tư bản để tìm lối ra xuyên qua hệ thống của họ. Vì vậy Harribey chú thích thêm rằng: Từ “Thời báo tài chính” (The Financial Times) đến “Tạp chí Phố Wall” (Wall Street Journal) và cả “Nhà kinh tế” (The Economist), “Điện tín” (Daily Telegraph) của Luân Đôn đều tuyên bố rằng ngày 13-10-2008 sẽ được ghi vào lịch sử như là một ngày mà hệ thống tư bản nước Anh thừa nhận đang thất bại, những nhà bình luận buộc phải thừa nhận rằng “luật bất khả xâm phạm của thị trường đã chứng minh rằng nó không thể đảm bảo sự cân bằng, ổn định, thịnh vượng và bình đẳng” và rằng “trên tất cả, Marx đã rất sáng suốt”. “Cần nhanh chóng nghiên cứu lại tư tưởng của Marx, những tư tưởng đôi khi chỉ trích dẫn bằng những câu nói nổi tiếng”, nhà báo Patrice Bolton, người đã tập hợp tư liệu của Marx cho tờ Le Magazine Litteraire, nhấn mạnh.
Tư tưởng của Marx có giá trị còn hơn cả một nguồn tư liệu để giải mã tiến trình toàn cầu hóa, “tiến trình có một phần trách nhiệm trong việc thất nghiệp hàng loạt, tăng bất công giữa các quốc gia cũng như bất công giữa các giai cấp xã hội bên trong mỗi quốc gia”. Đừng quên sự nối tiếp nhau của những bong bóng đầu cơ đã và đang tạo ra sự bần cùng hóa. Trong bối cảnh như vậy, bỏ qua những điểm khác nhau trong lịch sử thường cho rằng thật viễn vông khi áp đặt trực tiếp bối cảnh lịch sử của thế kỷ này vào thế kỷ tiếp theo, Karl Marx đang hồi sinh.
Marx đã thật sự nỗ lực giải mã lịch sử, kinh tế, sản xuất, sự tiêu thụ, giá trị, tư bản, lực lượng lao động, đấu tranh giai cấp, và cũng như sự khai thác, sự chuyển nhượng, tư nhân hóa, khả năng giải phóng và vượt lên sự thống trị vào nhiều thời điểm khác nhau trong một chuỗi những mâu thuẫn phát sinh liên tục để khắc họa chính xác bản chất đặc trưng của một phương thức sản xuất ở bất kỳ thời điểm nào trong lịch sử nhân loại. Bằng cách tiếp cận mâu thuẫn có thể giúp dễ hiểu tại sao tư bản tài chính toàn cầu hiện nay đang đẩy lập luận về lợi nhuận đi đến chỗ bùng nổ và tại sao chủ nghĩa tư bản, như nhà kinh tế chủ nghĩa cộng sản Paul Boccara nhận định, là chủ nghĩa tư bản theo luật số mũ, một hệ thống mà đặt tiền bạc lên trên hết để làm ra nhiều tiền hơn cho dù tổn hại đến cuộc sống của nhân dân, một hệ thống không thể đảo ngược, nó cũng không được mong đợi trở lại “chủ nghĩa tư bản thời cũ”.
Trong một bài báo đăng trên Le Monde Diplomatique, nhà triết học Lucien Seve nhấn mạnh rằng, nếu cuộc khủng hoảng bùng nổ trong quả cầu tín dụng thì khả năng tàn phá của nó nằm ở chỗ sự phân phối giá trị thặng dư không công bằng giữa tư bản và người lao động đang ngày càng tăng lên. Và ông cũng nhắc nhở sự sáng suốt của Marx đang rọi sáng cho chúng ta rằng: “Tất cả các phương tiện nhằm mục đích phát triển sản xuất đã được chuyển thành những công cụ của sự thống trị và khai thác của các nhà sản xuất”, và rằng “sự tích lũy của những người giàu có ở một cực là sự tích lũy tỷ lệ thuận với sự nghèo đói ở một cực khác”. Từ đó, Seve nhận định: Những giả thuyết về các cuộc khủng hoảng tài chính và thương mại đều bắt nguồn từ đó. (www.tuyengiao.vn).
Đáng chú ý nhất là những cảnh báo
Thứ hai, 23/03/2009 03:58′ PM – Hồ Bá Thâm hobatham@…
Trong nhận xét trao đổi trước, tôi chỉ lưu ý một điểm BS Bùi Mộng Hùng mà hiểu không đúng Mác và gây hiểu lầm từ đó. Còn lần này xin thu họach, bình luận một vài điểm chính yêu của bài viết: 1- Không thể không thấy bài viết của BS Bùi Mộng Hùng về nội dung nhân văn của Phật giáo mà tôi cho là cần phát huy: “ Con người là ứng tác có ý thức trong tiến trình không ngừng chuyển biến, hành động của hắn nếu mà liên tục hài hoà được với cuộc sống chỉ có thể là hành động thích ứng nơi đây và ngay bây giờ, nghĩa là một sáng tạo không ngừng”. “Nguyên tắc chung, chúng ta gặp ngay trong câu Phật tử thường chúc nhau được “thân tâm an lạc”. Phương pháp nhà Phật chú trọng cả thể xác lẫn tâm thần, đến tác động qua lại vòng tròn của chúng. Thân an lặng thì lòng cũng yên, tâm yên tĩnh thì thân thêm thư dãn thoải mái. Cứ thế mà thân tâm liên tục ảnh hưởng lẫn nhau đưa đến trạng thái tĩnh lặng, thuận lợi để quán xét, ý thức tinh tường những gì đang sảy ra trong mình, xung quanh mình”. Và cũng rátt đúng khi nhận xét rằng: “Truyền thống bao lâu tin rằng chính là tri thức, đạo lý soi sáng và điều khiển hoạt động của con người. Nhưng hiện thực đã chẳng giản đơn một chiều theo lối nhìn đó, vì thế mà làm lung lay cơ sở các niềm tin truyền thống: Tư duy và đạo lý hướng dẫn hoạt động của con người thật, nhưng ngược lại hoạt động sản xuất chính là một nhân tố quy định tư duy, đạo lý trong xã hội loài người. Dù muốn dù không, con người buộc phải tìm quy tắc hướng dẫn đời sống của mình không đâu ngoài cộng đồng con người, ngoài xã hội. ”
2-Nhưng quan trọng hơn là BS Bùi Mộng Hùng cảnh báo Phật giáo phải tư thay đổi để cùng vói thời đại ngày càng nhập thế hữu ích.
2.1. Trước hết tránh hiểu sai lạc: “Nhà Phật quan niệm dòng sông, người đứng ngắm là những nhân tố ứng tác qua lại với nhau trong một quan hệ động. Một tiến trình trong đó các ứng tác không ngừng miên man chuyển biến. Thuật ngữ nhà Phật gọi đó là “vô ngã”, “vạn pháp vô ngã” mọi sự việc đều vô ngã. Và dùng thuật ngữ “không” để chỉ bản tính không ngừng biến chuyển của sự vật, “vạn pháp giai không”. Đem cái nghĩa thông thường của từ “không” gán cho thuật ngữ đồng âm làm sai lạc ý nghĩa quan điểm nhà Phật. Hiện thực luôn luôn biến động, nhưng nào phải vì vậy mà hư không!”
2.2. Tránh cái nguy lớn là đừng chui vào ốc đảo, quay lưng lại hiện tại và thế gian:”Truyền thống hai mươi lăm thế kỷ của đạo Phật là một ốc đảo để ẩn náu, an tâm cho những ai mệt mỏi, khiếp sợ trước các chấn động của một thời đại đang oằn oại chuyển tiếp.Cái nguy lớn của Phật giáo chính là đó: mặt quay về quá khứ, day lưng với thời đại, mãn nguyện với việc làm nơi ẩn náu cho những người trốn sống thời đại. Và chỉ có thế mà thôi, ngoài ra không còn chi khác…y chính là lúc cần chí khí ngất trời xanh của những người đem đạo vào đời trong những thời điểm khác thường. Thời Phật, thời tổ, thời Lý – Trần đã qua, và không bao giờ trở lại, thời đại là của bây giờ.
2.3. Công cuộc ấy còn bỏ ngỏ. “Tinh thần đức Phật chỉ có giá trị qua cọ sát với thực tại. Có lăn vào giải quyết những vấn đề cụ thể đang đặt ra cho con người, mới nảy ra cái nhìn “như lai” sự việc hôm nay. Mới bật ra lời lẽ đi vào con tim người đang mò mẫm tìm đường. Có gì khắc khoải cho con người bằng khi phải mặt đối mặt với thân phận làm người. Cái ý phải tin vào sức mình, không ai, kể cả đức Phật có thể làm thay cho được tiềm tàng trong lời Phật dạy. Nhưng cũng ý đó bắt con người phải đối diện với chính mình…Nhưng, có soi qua gương mặt người mới nhận rõ ra mặt mình, có đem tư tưởng nhiều ít sáo mòn của mình đọ với các luồng tư tưởng hiện hành mới sáng lên sức sống của tư tưởng Phật, nơi đây và ngay bây giờ. Công cuộc ấy còn bỏ ngỏ. Phương pháp hành đạo ngày nay là những gì ? Để cho con người tất bật của thời đại thể hiện được tinh thần Như Lai, hồn nhiên mà thích nghi vào tiến trình cuộc sống ?
2.4. Cần một lương tri khác. Nhưng làm sao để có lương trí ấy? phải chăng chỉ cần tu dưỡng?
Những tầm nhìn thanh thoát về các vấn đề thời đại đang đặt ra, một nghệ thuật sống an lành đi vào muôn mặt của cuộc sống thường ngày, những phương pháp tu dưỡng thích nghi với mọi lớp người trong xã hội hiện đại, đó là thách thức mà thực tại đặt ra cho trí tuệ cộng đồng Phật tử. Giải đáp chính là phần Phật giáo góp vào nền văn hoá thời đại…Phân biệt phải, quấy, đạo Phật không đặt nơi một uy quyền ngoài con người. Lúc chọn lựa hành động bao giờ chẳng chỉ có mình với mình. Cái “lương tri do tâm ý thanh tịnh trong sáng là bảo đảm duy nhất cho tính đúng đắn của chọn lựa ấy. Tất cả giáo lý nhà Phật, lý thuyết, và thực hành chỉ nhằm sao cho tâm ý người hành đạo tĩnh lặng trong sáng trong sóng gió bão lửa của cuộc sống… Con người thời đại đã đạt tri thức vô cùng cao xa, nhưng lương tri không tương xứng. Tạo một “lương tri khác” là tiềm năng quý báu mà giáo lý nhà Phật có khả năng góp vào công cuộc xây dựng nền văn hoá một thời đại khắc khoải đi tìm lương tri cho chính mình. Với vốn liếng Phật giáo tích lũy trên hai mươi thế kỷ tri thức lý thuyết và thực hành”..
Đúng, nhưng phải chăng chỉ như thế 1à đủ cho MỘT LƯƠNG TRI của thời đại? Và là đúng, đủ, thuyết phục khi cho rằng: “không một phát minh khoa học nào có khả năng giải đáp các câu hỏi căn bản của tôn giáo nêu lên, mà ngược lại tín ngưỡng có thể tiếp thu chẳng mấy gì khó khăn bất cứ phát minh khoa học nào vào trong hệ tư tưởng của mình”?
Cuối cùng xin cảm ơn BS Bùi Mộng Hùng!
Có phải quá ít người hiểu Mác hay không?- Đúng, Chắc chắn là như thế
Thứ sáu, 27/03/2009 12:59′ PM – Đạo Trường hoahongblackrose@…
Có quá ít người hiểu Triết Mác, cũng như cũng còn quá ít người hiểu triết Phật. Mặc dù trong thực tế ta thấy rất nhiều người đã đọc và đã phải học Triết Mác. Và hậu quả là sụp đổ hệ thống XHCN và ngày nay khủng hoảng xảy ra thì mới có những ý kiến cần xem lại Triết Mác từ phía các nhà trí thức tư sản. Nhiều Phật tử, nhiều chùa và nhiều nhà triết học cũng không hiểu triết Phật dù họ đọc kinh Phật hàng ngày hoặc họ có đầu tư nghiên cứu. Nhưng Đạo Phật bao trùm trong nó đạo học và khoa học – rất phức tạp . Muốn hiểu triết Phật không thể chỉ ngồi đọc và suy lý mà phải trải nghiệm, còn phải tu theo đạo. TS Thâm chắc chắn không hiểu triết Phật, do ông chỉ đọc mà suy nghĩ mà thôi, và ông cũng đang tưởng là mình đã hiểu. Do Đó chúng tôi mới có những ý kiến thêm về triết Phật và đạo Phật. Nhưng những ý kiến của chúng tôi đã trình bày chỉ đạt mức tương đối và nhắm vào những người chưa hiểu triết Phật chứ không phải là những người theo đạo Phật . Nhiều khi chúng tôi loay hoay không biết trình bày ra sao vì một ý niệm phát ra được cấu tạo bởi rất nhiều quan hệ , nhiều kiến thức và rất mới lạ cho những người chưa biết.
Nhìn vào thực tế VN thì càng thấy rõ : quá ít người hiểu triết Mác. Chính vì vậy mọi chuyện cứ rối tinh lên : các nhà giáo dục thì không hiểu giáo dục là gì, các nhà văn hoá cũng lúng túng vấn đề văn hoá, các nhà kinh tế cũng vậy. Đe dọa Khủng hoảng nhiều mặt, đủ hội nghị, dư bàn bạc mà không thấy được một hướng thoát nào cho sáng sủa.
Tôi thấy nguyên nhân mọi người không hiểu triết Mác vì họ đã đọc và học Triết Mác rất thụ động. Không ai dám lật lại xem các tiền đề của triết Mác thực sự đúng hay sai mà là chấp nhận mặc khải. Tôi có đọc nhiều bài nghiên cứu triết Mác thì thấy rằng đó không phải là công trình nghiên cứu mà là bài viết ca ngợi sáo mòn mà thôi.Triết Mác bị biến thành tôn giáo ( Bởi vậy tôi biết Mác buồn lắm). Nhiều người vỗ ngực là triết gia Mác-xit và tham gia giải quyết vấn đề cụ thể nóng bỏng trong xã hội kém cỏi và không hiệu quả – làm giảm giá trị triết Mác. Phê bình triết Mác cũng khó khăn, rất dễ bị không cho đăng bởi vậy ít những lời đóng góp tâm huyết.
Nhiều người dạy triết Phật hoặc phê bình triết Phật quá ấu trĩ, ấu trĩ đến mức chúng tôi không buồn tham luận nữa. Nói ra như vậy để Ts Thâm thấy rằng chúng tôi rất tôn trọng TS.
Mến gửi Ts Thâm lời chào trân trọng.
—————–
http://chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/song_thoi_dai_va_tinh_than_duc_phat/2/default.aspx
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét