Các thể loại tiêu biểu trong thơ Đường
Ngoài việc các câu 3,4 and 5,6 phải đối, thời bấy giờ các nhà thơ còn đưa ra các thể loại đặc thù, được coi như là những "xảo thuật" để chứng tỏ người viết giỏi về từ ngữ và tạo thêm sự gay cấn cho người họa . Dưới đây là một vài thể loại tiểu biểu thường thấy trong thơ Đường Luật.
1) Thủ Nhất Thanh:
Là thể thơ trong đó từ đứng đầu các câu đều giống nhau. Ví dụ:
Mừng đón xuân về, muôn sắc hoa
Mừng xuân, xuân mới, mới thêm ra
Mừng nghe nhựa sống, như còn trẻ
Mừng thấy đời tươi, chửa muốn già
Mừng khỏe đôi chân, đi đứng vững
Mừng tinh cặp mắt ngắm nhìn xa
Mừng nhau tuổi Thọ tăng tăng mãi
Mừng được trường xuân hưởng thái hòa
2) Thủ Vĩ Ngâm:
Là thể thơ trong đó câu đầu (thủ) và câu cuối (vĩ) giống nhau.. Ví dụ:
Sông Hương da diết một chiều xưa
Mới đó mà nay đã mấy mùa
Nỗi nhớ xôn xao vờn gió thoảng
Niềm thương rạo rực quyện mây thưa
Chiều tà bóng ngả phai phai nắng
Đêm vắng trăng mờ lất phất mưa
Núi Ngự trông xa lầu vọng nguyệt
Sông Hương da diết một chiều xưa
(Bến Tương Tư - Gia Phong)
3) Vĩ Tam Thanh:
Là thể thơ trong đó ba từ cuối trong mỗi câu có cùng cách phát âm. Ví dụ:
Ta nghe gà gáy tẻ tè te
Bóng ác vừa lên hé hẻ hè
Cây một chồi cao von vót vót
Hoa năm sắc nở lỏe lòe loe
Chim tình bè lứa kia kìa kỉa
Ong nghĩa vua tôi nhé nhẻ nhè
Danh lợi mặc người ti tí tỉ
Ngủ trưa chửa dậy khỏe khòe khoe
4) Tiệt Hạ: Là thể thơ câu nào cũng bỏ lửng như bị ngắt bớt ở cuối câu nhưng ý nghĩa rõ rệt, người đọc có thể hiểu được.. Ví dụ:
Thác bức rèm châu chợt thấy mà…!
Chẳng hay người ngọc có hay đà …!
Nét thu dợn sóng hình như thể …
Cung nguyệt quang mây nhác ngỡ là …
Khuôn khổ ra chiều người ở chốn …
Nết na xem phải thói con nhà …
Dở dang nhắn gửi xin thời hãy …
Tình ngắn tình dài chút nữa ta …
5) Song Điệp: Là thể thơ mỗi câu đều có cặp điệp từ ở đầu hoặc cuối câu.. Ví dụ:
Vất vất vơ vơ, cũng nực cười
Căm căm cúi cúi có hơn ai
Nay còn chị chị anh anh đó
Mai đã ông ông mụ mụ rồi
Có có không không, lo hết kiếp
Khôn khôn dại dại, chết xong đời
Chi bằng láo láo lơ lơ vậy
Ngủ ngủ ăn ăn nói chuyện chơi
(Chuyện Đời – Nguyễn Công Trứ)
6) Thuận nghịch: Là thể thơ khi đọc xuôi hay đọc ngược đều có ý nghĩa và hợp vận. Ví dụ:
Đọc xuôi:
Xa cách quê làng lại ghé thăm
Xác xơ vàng úa cỏ nghiêng nằm
Nhà hiên mái dột Bìm giăng kín
Ngỏ trước thềm loang Dậu phủ dăm
Tha thướt bóng Dừa hàng nối thẳng
Ngã nghiêng cành Trúc dãy liền tâm
Tà chiều quyện khói mờ thôn xóm
Xa vọng khoan hò ai hát ngâm …
Đọc ngược từ dưới trở lên:
Ngâm hát ai hò khoan vọng xa
Xóm thôn mờ khói quyện chiều tà
Tâm liền dãy Trúc cành nghiêng ngã
Thẳng nối hàng Dừa bóng thướt tha
Dăm phủ Dậu loang thềm trước ngỏ
Kín giăng Bìm dột mái hiên nhà
Nằm nghiêng cỏ úa vàng xơ xác
Thăm ghé lại làng quê cách xa …
(Trường Tương Tư)
***Sau đó bỏ hai chữ đầu mỗi câu đọc xuôi và bỏ hai chữ cuối mỗi câu đọc ngược sẽ trở thành thơ Ngũ Ngôn . Nếu tiếp tục bỏ bớt 1 hoặc 2 chữ đầu hoặc cuối nữa, sẽ có những bài Tứ Ngôn hay Tam Ngôn Bát Cú. Nói tóm lại, một bài thơ làm theo thể Thuận Nghịch, nếu được chọn từ một cách khéo léo, sẽ đọc thành 8 bài Bát Cú! Đó là điểm độc đáo của Thể Thuận Nghịch!***
7) Liên Hoàn: Là thể thơ gồm nhiều bài Bát Cú liên kết với nhau, trong đó phần kết thúc của bài trên được lấy làm phần mở đầu cho bài kế tiếp. Ví dụ:
Bao năm cách biệt Huế yêu ơi
Viễn xứ chiều buông nhạt tiếng cười
Vọng cảnh thương tình ngày lẻ bạn
Nhìn người luyến nghĩa buổi chung đôi
Sông Hương liễu rũ ôm tình nước
Núi Ngự thông reo trãi mộng đời
Cố quận sương mờ giăng chắn lối
Bùi ngùi lữ khách đếm sầu rơi
Sầu rơi cảnh vật nhuộm cô liêu
Rặng núi xa xa phủ ráng chiều
Ẩn hiện trời cao mây ảm đạm
Hoà lòng biển vắng sóng đìu hiu
Âm ba cuốc vọng lời kinh khổ
Réo rắt quyên ca điệu sáo diều
Đất lạ phong trần đời lữ thứ
Phiêu bồng vẫn giữ trọn lời yêu
Lời yêu thuở ấy tự tình trao
Ước hẹn tơ duyên thắm chỉ đào
Cứ tưởng men nồng hoà nhật nguyệt
Nào ngờ rượu đắng tách trăng sao
Cung đàn lổi nhịp dòng châu ứa
Tiếng hát buông lơi suối lệ trào
Mấy độ thu tàn mơ ảo giác
Tâm đầu ý hợp mộng hư hao
Hư hao một cõi vẫn hoài trông
Cách biệt sơn khê luống nghẹn lòng
Khắc khoải người chờ nơi chốn ấy
Bàng hoàng kẻ đợi giữa tầng không
Cô phòng héo hắt thân nhi nữ
Gối chiếc tàn phai phận má hồng
Một thuở xa người sang xứ lạ
Hồn hoang chất chứa những ngày đông
(Vọng Cảnh Thương Tình Liên Hoàn Khúc - Vân Hạc)
8) Lưỡng Đầu Xà Nghịch Thiệt: Là thể thơ trong đó hai chữ cuối câu là cách nói lái của hai chữ đầu câu hay ngược lại. Ví dụ:
Cai mô chả thấy hỡ cô Mai
Hồi bút hôm qua, nay hút bồi
Niếu đổ tường che vang nổ điếu
Thôi liên, cù cứa, hẹn Thiên Lôi
Vái sơ ông Địa cho vơ sái
Ngồi ráp bàn tiên lại ngáp rồi
Tánh thích đi tìm bao tích thánh
Đồi thanh, cảnh phật cũng đành thôi
(Cai Mô Cô Mai - Chu Hà)
Ngoài việc các câu 3,4 and 5,6 phải đối, thời bấy giờ các nhà thơ còn đưa ra các thể loại đặc thù, được coi như là những "xảo thuật" để chứng tỏ người viết giỏi về từ ngữ và tạo thêm sự gay cấn cho người họa . Dưới đây là một vài thể loại tiểu biểu thường thấy trong thơ Đường Luật.
1) Thủ Nhất Thanh:
Là thể thơ trong đó từ đứng đầu các câu đều giống nhau. Ví dụ:
Mừng đón xuân về, muôn sắc hoa
Mừng xuân, xuân mới, mới thêm ra
Mừng nghe nhựa sống, như còn trẻ
Mừng thấy đời tươi, chửa muốn già
Mừng khỏe đôi chân, đi đứng vững
Mừng tinh cặp mắt ngắm nhìn xa
Mừng nhau tuổi Thọ tăng tăng mãi
Mừng được trường xuân hưởng thái hòa
2) Thủ Vĩ Ngâm:
Là thể thơ trong đó câu đầu (thủ) và câu cuối (vĩ) giống nhau.. Ví dụ:
Sông Hương da diết một chiều xưa
Mới đó mà nay đã mấy mùa
Nỗi nhớ xôn xao vờn gió thoảng
Niềm thương rạo rực quyện mây thưa
Chiều tà bóng ngả phai phai nắng
Đêm vắng trăng mờ lất phất mưa
Núi Ngự trông xa lầu vọng nguyệt
Sông Hương da diết một chiều xưa
(Bến Tương Tư - Gia Phong)
3) Vĩ Tam Thanh:
Là thể thơ trong đó ba từ cuối trong mỗi câu có cùng cách phát âm. Ví dụ:
Ta nghe gà gáy tẻ tè te
Bóng ác vừa lên hé hẻ hè
Cây một chồi cao von vót vót
Hoa năm sắc nở lỏe lòe loe
Chim tình bè lứa kia kìa kỉa
Ong nghĩa vua tôi nhé nhẻ nhè
Danh lợi mặc người ti tí tỉ
Ngủ trưa chửa dậy khỏe khòe khoe
4) Tiệt Hạ: Là thể thơ câu nào cũng bỏ lửng như bị ngắt bớt ở cuối câu nhưng ý nghĩa rõ rệt, người đọc có thể hiểu được.. Ví dụ:
Thác bức rèm châu chợt thấy mà…!
Chẳng hay người ngọc có hay đà …!
Nét thu dợn sóng hình như thể …
Cung nguyệt quang mây nhác ngỡ là …
Khuôn khổ ra chiều người ở chốn …
Nết na xem phải thói con nhà …
Dở dang nhắn gửi xin thời hãy …
Tình ngắn tình dài chút nữa ta …
5) Song Điệp: Là thể thơ mỗi câu đều có cặp điệp từ ở đầu hoặc cuối câu.. Ví dụ:
Vất vất vơ vơ, cũng nực cười
Căm căm cúi cúi có hơn ai
Nay còn chị chị anh anh đó
Mai đã ông ông mụ mụ rồi
Có có không không, lo hết kiếp
Khôn khôn dại dại, chết xong đời
Chi bằng láo láo lơ lơ vậy
Ngủ ngủ ăn ăn nói chuyện chơi
(Chuyện Đời – Nguyễn Công Trứ)
6) Thuận nghịch: Là thể thơ khi đọc xuôi hay đọc ngược đều có ý nghĩa và hợp vận. Ví dụ:
Đọc xuôi:
Xa cách quê làng lại ghé thăm
Xác xơ vàng úa cỏ nghiêng nằm
Nhà hiên mái dột Bìm giăng kín
Ngỏ trước thềm loang Dậu phủ dăm
Tha thướt bóng Dừa hàng nối thẳng
Ngã nghiêng cành Trúc dãy liền tâm
Tà chiều quyện khói mờ thôn xóm
Xa vọng khoan hò ai hát ngâm …
Đọc ngược từ dưới trở lên:
Ngâm hát ai hò khoan vọng xa
Xóm thôn mờ khói quyện chiều tà
Tâm liền dãy Trúc cành nghiêng ngã
Thẳng nối hàng Dừa bóng thướt tha
Dăm phủ Dậu loang thềm trước ngỏ
Kín giăng Bìm dột mái hiên nhà
Nằm nghiêng cỏ úa vàng xơ xác
Thăm ghé lại làng quê cách xa …
(Trường Tương Tư)
***Sau đó bỏ hai chữ đầu mỗi câu đọc xuôi và bỏ hai chữ cuối mỗi câu đọc ngược sẽ trở thành thơ Ngũ Ngôn . Nếu tiếp tục bỏ bớt 1 hoặc 2 chữ đầu hoặc cuối nữa, sẽ có những bài Tứ Ngôn hay Tam Ngôn Bát Cú. Nói tóm lại, một bài thơ làm theo thể Thuận Nghịch, nếu được chọn từ một cách khéo léo, sẽ đọc thành 8 bài Bát Cú! Đó là điểm độc đáo của Thể Thuận Nghịch!***
7) Liên Hoàn: Là thể thơ gồm nhiều bài Bát Cú liên kết với nhau, trong đó phần kết thúc của bài trên được lấy làm phần mở đầu cho bài kế tiếp. Ví dụ:
Bao năm cách biệt Huế yêu ơi
Viễn xứ chiều buông nhạt tiếng cười
Vọng cảnh thương tình ngày lẻ bạn
Nhìn người luyến nghĩa buổi chung đôi
Sông Hương liễu rũ ôm tình nước
Núi Ngự thông reo trãi mộng đời
Cố quận sương mờ giăng chắn lối
Bùi ngùi lữ khách đếm sầu rơi
Sầu rơi cảnh vật nhuộm cô liêu
Rặng núi xa xa phủ ráng chiều
Ẩn hiện trời cao mây ảm đạm
Hoà lòng biển vắng sóng đìu hiu
Âm ba cuốc vọng lời kinh khổ
Réo rắt quyên ca điệu sáo diều
Đất lạ phong trần đời lữ thứ
Phiêu bồng vẫn giữ trọn lời yêu
Lời yêu thuở ấy tự tình trao
Ước hẹn tơ duyên thắm chỉ đào
Cứ tưởng men nồng hoà nhật nguyệt
Nào ngờ rượu đắng tách trăng sao
Cung đàn lổi nhịp dòng châu ứa
Tiếng hát buông lơi suối lệ trào
Mấy độ thu tàn mơ ảo giác
Tâm đầu ý hợp mộng hư hao
Hư hao một cõi vẫn hoài trông
Cách biệt sơn khê luống nghẹn lòng
Khắc khoải người chờ nơi chốn ấy
Bàng hoàng kẻ đợi giữa tầng không
Cô phòng héo hắt thân nhi nữ
Gối chiếc tàn phai phận má hồng
Một thuở xa người sang xứ lạ
Hồn hoang chất chứa những ngày đông
(Vọng Cảnh Thương Tình Liên Hoàn Khúc - Vân Hạc)
8) Lưỡng Đầu Xà Nghịch Thiệt: Là thể thơ trong đó hai chữ cuối câu là cách nói lái của hai chữ đầu câu hay ngược lại. Ví dụ:
Cai mô chả thấy hỡ cô Mai
Hồi bút hôm qua, nay hút bồi
Niếu đổ tường che vang nổ điếu
Thôi liên, cù cứa, hẹn Thiên Lôi
Vái sơ ông Địa cho vơ sái
Ngồi ráp bàn tiên lại ngáp rồi
Tánh thích đi tìm bao tích thánh
Đồi thanh, cảnh phật cũng đành thôi
(Cai Mô Cô Mai - Chu Hà)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét