Thứ Bảy, 17 tháng 10, 2020

Đọc Đạo đức kinh của Lão Tử qua lăng kính phương Tây

 

Có một vật hỗn độn mà thành trước cả trời đất. Nó yên lặng, vô hình, đứng một mình mà không thay đổi vĩnh cửu, vân hành khắp vũ trụ không ngừng, có thể coi nó nó là mẹ của vạn vật trong thiên hạ. Ta không biết tên nó là gì, tạm đặt tên cho nó là đạo.
Theo Bản dịch Đạo đức kinh bằng 
tiếng Anh của Stan Rosenthal.
1. Có một vật hỗn độn mà thành trước cả trời đất. Nó yên lặng, vô hình, đứng một mình mà không thay đổi vĩnh cửu, vân hành khắp vũ trụ không ngừng, có thể coi nó nó là mẹ của vạn vật trong thiên hạ. Ta không biết tên nó là gì, tạm đặt tên cho nó là đạo.
2. Đạo trời không tranh mà khéo thắng, không nói mà khéo đáp, không gọi mà vạn vật tự tới, bình thản vô tâm mà khéo mưu tính mọi việc. Lưới trời lồng lộng, thưa mà khó lọt.
3. Lời nói chân thật thì không hoa mỹ, lời nói hoa mĩ thì không chân thật. Người thiện thì không cần phải biện giải [vì hành vi tốt rồi], người nào phải biện giải cho mình là người “không thiện”. Người biết thì không nói, người nói là người không biết.
4. Người ta sinh ra thì mềm yếu mà khi chết thì cứng đơ. Thảo mộc sinh ra thì mềm dịu mà khi chết đi thì lại khô cứng. Cho nên cứng mạnh là cùng loài với chết, mềm yếu là cùng loài với sống. Vì vậy binh mạnh thì không thắng, cây cứng thì bị chặt. Cứng mạnh thì phải ở dưới, mềm yếu lại được ở trên.
5. Mạnh mẽ về dám làm [tức quả cảm, cương cường] thì chết, mạnh mẽ về không dám làm [tức thận trọng, nhu nhược] thì sống. Hai cái đó cùng là mạnh mẽ, mà một cái thì được lợi, một cái lại bị hại; ai mà biết được tại sao trời lại ghét cái đó [quả cảm, cương cường]?
6. Người nào hứa một cách dễ dàng quá thì khó tin được, người nào cho việc gì cũng dễ làm thì sẽ gặp nhiều cái khó. Cho nên người hiểu đạo coi việc gì cũng khó mà rốt cuộc không gặp cái gì khó.Cái có từ cái không mà ra. Không có nghĩa là không có gì cả nhưng phải có cái gì thì mới có cái không có.
7. Cái gì an định thì dễ nắm, giòn thì dễ vỡ, nhỏ thì dễ phân tán. Ngăn ngừa sự tình từ khi chưa manh nha, trị loạn từ khi chưa thành hình.
8. Cây lớn một ôm, khởi sinh từ một cái mầm nhỏ; đài cao chín tầng khởi đầu từ một sọt đất, đi xa ngàn dặm bắt đầu từ một bước chân.Người ta làm việc , thường gần tới lúc thành công thì lại thất bại, vì không cẩn thận như lúc ban đầu, dè sau như trước thì không hỏng việc.
9. Người hiểu đạo trị thiên hạ theo chính sách vô vi, giữ thái độ điềm đạm. Xem cái nhỏ cũng như cái lớn, cái ít như nhiều, lấy đức báo oán. Giải quyết việc khó từ khi còn dễ, thực hành việc lớn từ khi còn nhỏ [vì việc khó trong thiên hạ khởi từ chỗ dễ, việc lớn khởi từ nhỏ]. Cho nên thánh nhân trước sau không làm việc gì lớn mà thực hiện được việc lớn.
10. Đạo lớn bị bỏ rồi mới có nhân nghĩa, mưu trí xuất hiện rồi mới có trá ngụy, gia đình bất hòa rồi mới sinh ra hiếu từ, nước nhà rối loạn rồi mới có tôi trung.
11. Trời đất bất nhân, coi vạn vật như chó rơm; thánh nhân bất nhân, coi trăm họ như chó rơm [Luật thiên nhiên không có tình thương của con người, cứ thản nhiên, vô tâm với vạn vật, mùa xuân tươi tốt, mùa đông điêu tàn…]. Khoảng giữa trời đất như cái ống hơi; hư không mà không kiệt, càng chuyển động hơi lại càng ra. Càng nói nhiều lại càng khốn cùng, không bằng giữ sự hư tĩnh.
12. Muốn cho vật gì thu rút lại thì tất hãy mở rộng nó ra đã. Muốn cho ai yếu đi thì tất hãy làm cho họ mạnh lên đã. Muốn phế bỏ ai thì tất hãy đề cử họ lên đã. Muốn cướp lấy vật gì thì tất hãy cho đã. Hiểu như vậy là sâu kín mà sáng suốt. Vì nhu nhược thắng được cương cường.
13. Ngũ sắc làm cho người ta mờ mắt; ngũ âm làm cho người ta ù tai; ngũ vị làm cho người ta tê lưỡi, ruỗi ngựa săn bắn làm cho lòng người ta mê muội, vàng bạc làm cho hành vi người ta đồi bại. Cho nên bậc đắc đạo cầu no bụng mà ko cầu vui mắt, bỏ cái xa xỉ, đa dục mà chọn cái chất phác, vô dục. Bậc đắc đạo bận áo vải thô mà ôm ngọc quý trong lòng.
14. Trời đất trường cửu. Sở dĩ trời đất trường cửu được là vì không sống riêng cho mình, nên mới trường sinh được.Vì vậy thánh nhân [người đắc đạo] đặt thân mình ở sau mà thân lại được ở trước, đặt thân mình ra ngoài mà thân mới còn được. Như vậy chẳng phải vì thánh nhân không tự tư mà thành được việc riêng của mình ư?
15. Người quân tử gặp thời thì mặc áo gấm mà ngồi xe ngựa, không gặp thời thì mặc áo vải thô mà đi chân đất.
16. Không trọng người hiền để dân không tranh, không quý của hiếm để dân không trộm cắp,không phô bày cái gì gợi ham muốn, để lòng dân không loạn.Chính trị của thánh nhân là làm cho dân lòng thì hư tĩnh, bụng thì no, không ham muốn, không tranh giành, xương cốt thì mạnh.Khiến cho dân không biết, không muốn mà bọn mưu trí thì không dám hành động. Theo chính sách vô vi thì mọi việc đều trị.
17. Không học thì không phải lo. Càng theo học thì mỗi ngày dục vọng, “hữu vi” càng tăng, theo đạo thì mỗi ngày dục vọng càng giảm, vô vi càng tăng.
18. Ta có ba vật báu mà ta ôm giữ cẩn thận, một là lòng nhân ái, hai là tính tiết kiệm, ba là không dám đứng trước thiên hạ.
19. Vì nhân ái mà sinh ra dũng cảm, vì tiết kiệm mà sinh ra sung túc, rộng rãi, vì không dám đứng trước thiên hạ mà làm chủ được thiên hạ. Nếu không nhân ái mà mong được dũng cảm, không tiết kiệm mà mong được rộng rãi, không chịu đứng sau mà tranh đứng trước người thì tất hỏng việc. Trời muốn cứu ai thì cho người đó lòng nhân ái để tự bảo vệ, lấy lòng nhân ái mà giúp người đó.
20. Người sáng suốt nghe đạo thì gắng sức mà thi hành, người bình thường nghe đạo thì nửa tin nửa ngờ, người tăm tối nghe đạo thì cười rộ. Nếu không cười thì đạo đâu còn là đạo nữa?
21. Nước là vật cực mềm mà lại thắng được vật cực cứng là đá [nước chảy đá mòn]. Nước là vật cực kì mềm mại, nó luôn tìm chỗ thấp mà tới [khiêm nhường], ngày đêm chảy không ngừng, bốc lên thì thành mưa, chảy xuống thì thành sông rạch, thấm vào lòng đất để nuôi vạn vật. Tự nó không ngừng biến đổi, lại sinh ra mọi loài. Nó không tranh với ai, lựa chỗ thấp mà tới, gặp cái gì cản thì nó uốn khúc mà tránh đi, cho nên đâu nó cũng tới được.
22. Vật gì bén nhọn thì dễ gẫy. Ráng giữ cho chậu đầy hoài, chẳng bằng thôi đi; con dao cố mài cho bén nhọn thì lại không bén lâu. Vàng ngọc đầy nhà, làm sao mà giữ nổi? Giàu sang mà kiêu căng là tự rước họa vào thân.
23. Ba mươi nan hoa cùng quy vào một cái bánh, nhưng chính nhờ khoảng trống không trong cái bánh mà xe mới dùng được. Nhồi đất sét để làm chén bát, nhưng chính nhờ cái khoảng trống không ở trong mà chén bát mới dùng được. Đục cửa, cửa sổ để làm nhà, chính nhờ cái trống không đó mà nhà mới dùng được. Vậy ta tưởng cái “có” [bánh, chén bát, nhà] có lợi cho ta mà thực ra cái “không” mới làm cho cái “có” hữu ích.
24. Người đời được vinh hay bị nhục thì lòng sinh ra rối loạn, sợ vạ lớn thì sinh ra rối loạn. Tại sao vinh, nhục thì lại sinh ra rối loạn? Là vì vinh thì được tôn, nhục thì bị hèn; được thì lòng rối loạn [mừng rỡ mà!]; mất thì lòng rối loạn [rầu rĩ mà!]; cho nên mới bảo là vinh, nhục sinh ra rối loạn. Vậy phải làm sao? Chúng ta sỡ dĩ sợ vạ lớn là vì chúng ta có cái thân. Nếu chúng ta quên cái thân mình đi, thì còn sợ gì lòng sinh ra rối loạn nữa?! Cho nên kẻ nào coi trọng sự hy sinh thân mình cho thiên hạ, thì có thể tin cậy vào kẻ đó được.
25. Ai có thể đang đục mà lắng xuống để từ từ trong ra? Ai có thể đang hư tĩnh mà phát động để lần lần sinh động lên? Người nào giữ được đạo ấy thì không tự mãn, không cố chấp, cũng không tự ái. Vì vậy nên mới có thể bỏ cái qua cái cũ mà chấp nhận cái mới được.
26. Kẻ đứng một chân thì không thể đứng được lâu, kẻ xoạc chân ra thì không thể đi được, kẻ tự biểu hiện mình thì không bao giờ chói lọi, kẻ tự kể công thì không có công, kẻ tự phụ thì chẳng khuyên bảo được ai, kẻ vẽ rắn thêm chân thì không trường cửu. Thái độ đó được ví như đồ ăn thừa, những ung nhọt ai ai cũng ghét.
27. Ai cũng cho cái đẹp là đẹp do đó mà phát sinh ra quan niệm cái xấu; ai cũng cho cái thiện là thiện do đó mà phát sinh ra quan niệm về cái ác. Tại sao con người thích cái đẹp mà lại không thích cái xấu? Là vì “có” và “không” sinh ra lẫn nhau, “dễ” và “khó” tạo nên lẫn nhau, cao thấp dựa vào nhau mà tồn tại…
28. Kẻ biết người là người khôn, kẻ tự biết mình là người sáng suốt. Thắng được người là có sức mạnh, thắng được mình là kiên cường. Kẻ biết thế nào là đủ là người giàu; kẻ gắng sức là người có chí. Kẻ nào ko rời bỏ những điều trên thì sẽ được lâu dài, chết mà không mất là trường thọ.
29. Hồn nhiên, vô tư, vô dục như đứa trẻ mới sanh là có đức dày, ai cũng yêu quý, muốn đạt như vậy không phải là dễ. Đứa trẻ mới sinh độc trùng ko chích, mãnh thú không ăn thịt, ác điểu ko vồ. Xương yếu gân mềm mà tay nắm rất chặt, suốt ngày gào hét mà giọng ko khản, như vậy là khí cực hòa.
30. Dứt thánh hiền, bỏ mưu trí dân lợi gấp trăm; dứt nhân bỏ nghĩa, dân lại hiếu từ; dứt trí xảo bỏ lợi, không có trộm giặc.Ba cái đó (thánh trí, nhân nghĩa, xảo lợi) vì là cái văn vẻ bề ngoài không đủ để trị dân nên phải bỏ; khiến cho dân quy về điều này: ngoài thì mộc mạc, trong thì giữ sự giản phác, giảm tư tâm bớt dục vọng mới là tích cực.
31. Dạ (giọng kính trọng) khác với ơi (giọng xem thường) bao nhiêu? Thiện với ác khác nhau như thế nào? Cái mọi người sợ ta không thể không không sợ. Việc học rộng lớn thay, không sao hết được.
32. Mọi người hớn hở như hường bữa tiệc lớn, như mùa xuân lên đài; riêng ta điềm tĩnh, không lộ chút tình ý gì như đứa trẻ chưa biết cười, rũ rượi mà đi như không có nhà để về. Mọi người có thừa, riêng ta như thiếu thốn, lòng ta ngu muội, đần độn thay! Mọi người đều có chỗ để dùng, riêng ta ngoan cố mà bỉ lậu. Riêng ta khác người mà quý mẹ của muôn loài (tức đạo).
33. Vạn vật tuần hoàn, âm cực dương sinh, lúc sinh lúc tử, trăng tròn trăng khuyết. Vạn vật biến đổi rồi trở lại cái bản thể của nó (trở về với đạo). Từ xưa đến nay, đạo tồn tại hoài, nó sáng tạo ra vạn vật. Chúng ta do đâu biết được bản chất vạn vật? Đó là do đạo.
34. Thánh nhân ôm giữ lấy đạo làm phép tắc cho thiên hạ. Không tự biểu hiện cho nên mới sáng tỏ, không tự cho là phải nên mới chói lọi, không tự kể công nên mới là có công, không tự phụ cho nên mới hơn người. Chỉ vì không tranh với ai nên không ai tranh với mình được.
35. Người xưa bảo: “Cong (chịu khuất phục) thì sẽ được bảo toàn”, đâu phải hư ngôn! Nên chân thành giữ vẹn cái đạo mà về với nó. Trong trời đất có bốn cái lớn mà người là một. Người bắt chước trời, trời bắt chước đạo, đạo bắt chước tự nhiên.
36. Ít nói thì hợp với đạo. Cho nên gió lốc không thể thổi suốt buổi sáng, mưa rào không suốt ngày. Ai làm nên những cái ấy? Chính là do trời đất. Trời đất còn không thể lâu được, huống hồ là con người?
37. Vì binh khí là vật bất tường (chẳng lành, gây họa), ai cũng ghét cho nên người giữ đạo không dùng binh khí. Bất đắc dĩ phải dùng đến nó, mà dùng đến thì điềm đạm là hơn cả. Thắng cũng không cho là hay, nếu cho là hay tức là thích giết người. Kẻ nào thích giết người thì không trị được thiên hạ.
38. Việc lành thì trọng bên trái, việc dữ thì trọng bên phải. Giết hại nhiều người thì nên lấy lòng bi ai mà khóc, chiến thắng thì nên lấy tang lễ mà xử.
16/10/2020
Theo http://redsvn.net/

Thứ Ba, 6 tháng 10, 2020

Đặc điểm, ý nghĩa và ảnh hưởng của tiết thu phân

 

Tiết thu phân là một định nghĩa được bắt nguồn từ Trung Quốc và là một trong hai mươi tư tiết khí của nông lịch. Việc dựa vào những tiết khí này giúp con người hiểu rõ được đặc điểm của thời tiết, từ đó lựa chọn được loại cây trồng và hoa màu phù hợp. Trồng đúng loại cây và hoa màu phù hợp sẽ giúp mang lại hiệu quả năng suất cao hơn và không bị mất mùa. Để hiểu rõ hơn về đặc điểm cũng như ý nghĩa của tiết thu phân thì các bạn hãy cùng chúng tôi tìm hiểu dưới bài viết này nhé.
I. Tiết thu phân là gì
Tiết thu phân là một tiết khí nằm trong hai mươi tư tiết khí nông lịch của người Việt Nam xưa, đây là lịch có bắt nguồn từ Trung Quốc và lưu truyền về nước ta. Tiết thu phân là tiết khí có sự khởi đầu bằng điểm giữa của mùa. Theo khoa học phương Tây thì thời điểm bắt đầu của thu phân chính là tại Bắc bán cầu. Đây được xem là thời điểm có sự liên quan đến vị trí của các hành tinh nằm trong quỹ đạo xoay quanh mặt trời theo thuật ngữ của thiên văn học các nước Phương Tây. Tiết thu phân chính là lúc kinh độ mặt trời bằng đúng 180 độ.
Khái niệm thu phân được hiểu theo nghĩa như sau “phân” có nghĩa là ranh giới, phân chia hai điểm có vị trí bằng nhau hoặc hai vật cân đối, ví dụ như là đường phân giác là đường thẳng chia đôi một góc thành hai góc bằng nhau. Còn “thu” thì mang nghĩa là mùa thu. Vì vậy mà tiết thu phân chính là một tiết khí, khoảng thời gian nằm giữa mùa thu.
II. Đặc điểm và ngày bắt đầu tiết thu phân
1. Ngày bắt đầu tiết thu phân
Theo như cách tính của nông lịch và người xưa, thì tiết thu phân là khoảng thời gian thường bắt đầu từ ngày 23 hoặc 24 tháng 9 và sẽ kết thúc vào ngày 8 tháng 10 theo dương lịch. Đây chính là thời điểm có liên quan trực tiếp đến vị trí của các hành tinh xoay quanh quỹ đạo mặt trời. Vào ngày đầu tiên bắt đầu tiết khi thu phân thì mặt trời sẽ nằm ở vị trí xích kinh 180 độ. Trong tiết khí thu phân, nếu bạn quan sát kỹ thì sẽ thấy mặt trời mọc chính xác ở phía Đông và lặn chính xác ở phía Tây, đây là điểm rất đặc biệt trong tiết thu phân.
Trong suốt quãng thời gian diễn tiết khí thu phân, thì trước và sau thời điểm này khoảng 3 tháng thì mặt trời dường như có xu hướng mọc và lặn mỗi ngày sẽ nhích dần về phía Nam và đến vị trí xích đạo.
2. Đặc điểm của tiết thu phân
Ngày đầu tiên diễn ra tiết thu phân vào đúng 12 giờ thì tiếp tuyến của xích đạo sẽ tạo ra một góc 90 độ với mặt trời. Để giải thích hiện tượng này thì các nhà khoa học đã chứng minh là do trái đất chuyển động theo quỹ đạo xoay quanh mặt trời. Như vậy, vào thời điểm này sẽ không có một nửa cầu nào nghiêng về phía mặt trời cả. Vì vậy mà lượng ánh sáng, lượng nhiệt độ cũng như lượng thời gian chiếu sáng ở cả hai nửa cầu sẽ tương đương và bằng nhau. So với các tiết khí khác thì cũng sẽ không có sự chênh lệch giữa thời gian ban ngày và thời gian ban đêm. Nếu như nửa cầu Bắc đang là trong tiết thu phân thì đối với nửa cầu Nam sẽ là thời điểm giữa mùa xuân.
Trong tiết thu phân, do sự dịch chuyển của mặt trời về phía Nam, vì thế mà nửa cầu Bắc vẫn tiếp tục giảm lượng ánh sáng, nhiệt độ, hơi nước. Cùng với đó thì lượng nhiệt độ mà trái đất tích lũy được cũng sẽ được phân tán ra để nhằm tạo nên sự cân bằng trong giới môi trường. Vì sự giảm mạnh các yếu tố tự nhiên trong thời kỳ này mà việc quang hợp của các loài thực vật sẽ bị giảm sút đáng kể, sự sống của muôn loài sẽ được chuyển sang trạng thái tiềm ẩn và đợi chờ cơ hội để phát triển.
III. Ý nghĩa của tiết thu phân trong phong thủy
Thời gian diễn ra thu phân rơi vào khoảng tháng 8 âm lịch, đây là tháng thuộc chi Dậu, khí Kim cực vượng. Bản chất của khí Kim chính là lạnh lùng và sát phạt chính vì vậy mà ở giai đoạn này sự sống của muôn loài đều bị kìm hãm và tiềm ẩn, chờ đợi để chuyển sang giai đoạn phát triển mới. Đây cũng là thời điểm mà con người dễ mắc phải các bệnh cảm lạnh, phong hàn, dễ mắc phải các bệnh về đường hô hấp và sức khỏe cũng bị giảm sút đáng kể.
Đối với những người sinh ra trong tiết Thu phân do tính chất vượng Kim nên tính tình thường lạnh lùng, cứng rắn, quyết đoán, thông minh, cương trực, rất thông minh, nhanh nhẹn. Hoặc nhiều người còn có cách sống cô độc, ít giao du bên ngoài, thích một mình, rất ít bạn bè, tâm lý còn có xu hướng độc đoán và hơi bảo thủ…
Đối với những người đang mắc bệnh và cần bổ sung thêm khí Kim thì bước sang thời điểm thu phân thì sức khỏe sẽ được cải thiện đáng kể, tinh thần phấn chấn, trong người khỏe mạnh, thông minh, năng động, hoạt bát.
Con người trở nên năng động và khỏe mạnh hơn vào thu phân
Con người trở nên năng động và khỏe mạnh hơn vào thu phân
Theo bát quái đồ thì thu phân nằm trong cung Dậu, thuộc phương vị chính tây, ứng với quẻ Đoài là con gái út trong gia đình có tính tình vui vẻ, hoạt bát, thông minh và chăm chỉ. Ngoài ra thì tháng 8 cũng thuộc quẻ Quán, mặc dù âm khí phát triển khá mạnh nhưng đây vẫn là quẻ tốt, mang lại nhiều may mắn và cát lành cho gia đình.
IV. Ảnh hưởng của tiết thu phân
Tiết thu phân diễn ra vào thời điểm gần cuối năm, mang đặc điểm lạnh lùng và nghiêm khắc đối với muôn loài. Cũng giống như các tiết khí khác trong năm thì tiết thu phân cũng sẽ tạo ra những ảnh hưởng nhất định đến với các loài động và thực vật trong tự nhiên. Để hiểu rõ hơn về những ảnh hưởng của tiết thu phân thì hãy cùng theo dõi phần nội dung dưới đây nhé.
1. Ảnh hưởng của thu phân đến con người
Từ xa xưa con người đã biết dựa vào các tiết khí trong nông lịch để phục vụ các mục đích canh tác và trồng trọt. Khi thu phân đến là thời điểm mà nhiều người nông dân thu hoạch các loại lương thực và ngũ cốc. Bên cạnh đó thì cũng có nhiều người tranh thủ canh tác để trồng trọt các loại hoa màu và rau vụ đông. Trước đây khi kỹ thuật nông nghiệp chưa phát triển và chưa có nhiều giống cây trồng phù hợp với mùa này thì người nông dân sẽ không làm ruộng nữa, vì vậy mà mới được gọi là tiết nông nhàn.
Ngoài ra thì đối với những người chăn nuôi gia súc, gia cầm thì vào thu phân người ta sẽ phải tiến hành tổng vệ sinh và dọn dẹp lại khu vực chăn nuôi và tiến hành phòng dịch cho vật nuôi. Bởi đây là thời điểm mà các loại bệnh dịch và virus rất dễ bùng phát và lây lan, nếu không có biện pháp phòng tránh sẽ khiến các loài vật nuôi bị nhiễm bệnh và chết.
Cùng với sự thay đổi của giới tự nhiên thì các nguồn năng lượng, ngũ hành, âm dương cũng sẽ có chuyển biến đáng kể. Để bảo vệ sức khỏe vào thời điểm thu phân thì con người nên điều dưỡng cơ thể, mặc ấm cho toàn thể, tránh tắm nước lạnh vào đêm lạnh. Để sức khỏe được bảo vệ thì cũng như thay đổi chế độ ăn uống, nên thêm vào các loại thực phẩm có tính nhiệt, cay nóng để tránh khí lạnh và phong hàn. Uống nước ấm để bảo vệ cơ thể.
2. Ảnh hưởng của tiết thu phân đến động vật
Vào thời điểm thu phân thì cũng tạo ra rất nhiều ảnh hưởng đến với giới động vật. Các loài động vật bắt buộc phải thay đổi để có thể thích nghi được với hoàn cảnh và môi trường sinh tồn mới. Một số loài động vật như chim, nai, hươu… sẽ buộc phải đi di trú xuống vùng đất phía Nam ở gần xích đạo.
Đây sẽ là vùng đất có nhiều nguồn thức ăn và nguồn nước dồi dào hơn cho toàn bầy đàn của chúng. Hơn nữa thì những vùng đất ở phía Nam sẽ có nhiệt độ cao hơn so với các vùng đất ở phía Bắc khi mùa đông đến. Đợi đến khi mùa đông đi qua, mùa xuân trở về thì những loài động vật trên sẽ quay trở lại để tiếp tục sinh sống và sinh nở con mới.
Một số loại động vật khác khi thu phân đến thì chúng sẽ đi trú đông. Các loài như rắn, ếch, chuột… sẽ không di chuyển nhiều mà tìm một chiếc hang kín đáo, ấm áp để trú ẩn. Chúng sẽ dự trữ năng lượng và đồ ăn cần thiết và ngủ đông đến mãi tiết Thanh Minh mới ra khỏi hang.
Ngoài ra đối với các loài động vật còn lại như cá thì chúng sẽ hạn chế đi tìm thức ăn vào tiết thu phân. Năng lượng mà chúng đã dự trữ sẵn sẽ giúp chúng tiếp tục duy trì sự sống mà không cần phải đi kiếm ăn trong suốt thời gian dài.
3. Ảnh hưởng của thu phân đến thực vật
Khi tiết thu phân diễn ra thì nhiều loài thực vật (đặc biệt nhất phải kể đến khu vực ôn đới) có phần lá sẽ chuyển sang màu vàng và rụng hết để nhằm hạn chế quá trình thoát hơi nước. Đối với điều kiện sinh trưởng bị giảm hầu hết các nguồn dưỡng chất như ánh sáng, độ ẩm hay nhiệt độ… Thì những chiếc lá sẽ không thể thực hiện quá trình quang hợp hay tạo các hợp chất hữu cơ cho sự sinh trưởng của cây được nữa. Lúc này phần lá sẽ trở thành gánh nặng khiến cây bị hao tổn nhiều hơi nước cũng như các chất dinh dưỡng nuôi cây. Vì vậy mà hiện tượng lá bị vàng và rụng hết là hoàn cảnh bắt buộc để thực vật thích nghi với điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Đợi đến khi mùa đông đến thì chúng sẽ đâm chồi và lên lá mới để thực hiện quá trình quang hợp tốt hơn.
Còn đối với các loài cây xương rồng thì chúng sẽ biến đổi các lá thành gai nhọn để hạn chế quá trình thoát hơi nước và đảm bảo chất dinh dưỡng cho cây. Một số loài thực vật dạng cũ sẽ tích lũy chất dinh dưỡng ở trong thân cây và phần rễ để duy trì sự phát triển và tồn tại của cây trong suốt thời gian thu phân. Tất cả các loài thực vật vào thời điểm này sẽ chuyển sang tình trạng tiềm ẩn và đợi sinh sôi phát triển mạnh mẽ vào mùa xuân.Xương rồng mọc gai để hạn chế thoát hơi nước
V. Những lễ hội nổi bật nhất vào tiết thu phân
Ở Việt Nam khi bắt đầu tiết thu phân cũng là thời điểm gần cuối năm, thời tiết lúc này cũng rất đẹp, mát mẻ, thoải mái. Chính vì vậy mà có rất nhiều lễ hội nổi tiếng được thực hiện trong dịp thu phân này. Ở nước ta lễ hội nổi bật nhất của tiết thu phân phải kể đến chính là ngày tết Trung thu. Đây là một trong những ngày lễ quan trọng để mọi người trong gia đình có thể vui vẻ quây quần bên nhau cùng thưởng trăng đẹp.
Cùng với đó thì trên thế giới cũng có tổ chức rất nhiều lễ hội để chào đón tiết khí thu phân này. Ở đất nước Nhật Bản thì ngày bắt đầu tiết thu phân được xem là ngày lễ chính thức của quốc gia này. Đây là dịp lễ để tất cả các gia đình có thể đi tảo mộ tổ tiên, sau đó đoàn tụ ấm cúng và ăn uống cùng với gia đình. Đây là dịp lễ để mọi người nghỉ ngơi và quan tâm đến nhau nhiều hơn.
Đối với các nước Âu Mỹ thì khi thu phân bắt đầu cũng chính mùa của các lễ hội dịp cuối năm. Tại Anh có tổ chức lễ hội “ngày trăng thu hoạch” đây được xem là một lễ hội thu hoạch truyền thống của người dân nước Anh. Lễ hội được tổ chức với mong muốn vụ mùa sang năm sẽ được bội thu hơn nữa.
Như vậy, trong bài viết trên chúng tôi đã cung cấp đến các bạn những thông tin vô cùng bổ ích liên quan đến đặc điểm cũng như ý nghĩa của tiết thu phân. Hy vọng sau khi tham khảo bài viết trên các bạn sẽ có thêm nhiều hiểu biết cũng như kinh nghiệm liên quan đến vấn đề này, từ đó biết chăm sóc sức khỏe vào thời điểm giao mùa này.
Phạm Thị Hạnh

Thứ Bảy, 3 tháng 10, 2020

 

CHỮ VÀ NGHĨA TRONG BÁT PHỞ.

Nguyễn Xuân Quang.


PHỞ

Ai cũng biết Phở là món ăn Quốc Hồn Quốc Túy của Việt Nam và sau năm 1975 đã trở thành món ăn quốc tế. Khắp nơi trên thế giới ngay cả ở vùng không có người Việt cũng có Phở.

Đã có rất nhiều tác giả viết về nhiều khía cạnh khác nhau của Phở với đủ loại văn: văn xuôi, văn vần, thơ, ca, câu đối. Tôi cũng đã viết một truyện ngắn Pho về Phở vùng hải đảo Caribe (xem truyện này).

Bài này tôi viết về một đề tài chưa ai viết. Đó là Chữ và Nghĩa Trong Tô Phở. Tôi cố gắng truy tìm, tầm nguyên nghĩa ngữ các từ liên hệ tới Phở. Hy vọng giúp người đọc sau khi đọc xong tìm được một tô phở ngon đúng ý nghĩa của nó.

.Phở

Phở nghĩa là gì?

Từ Phở được giải nghĩa khác nhau tùy theo môn phái tin vào nguồn gốc món Phở.

Có nhiều tranh cãi, bất đồng về nguồn gốc ra đời của Phở nên nghĩa của Phở cũng còn tranh cãi.

Có ít nhất ba trường phái.

-Môn phái theo Tàu cho rằng từ phở phát từ nguồn món ngưu nhục phấn, món ăn nấu bằng thịt bò với bún làm bằng bột gạo của Tầu. Tiếng Quảng Đông phấn thành phẳn, phảnh rồi thành phở.

-Môn phái theo Tây cho rằng Phở là do tiếng Pháp ngữ Feu, lửa.

Tác giả Nguyễn Phát (amthucviahe.com) viết theo lời kể của ông Võ Văn Côn nguyên là Chef Bếp Việt của Vua Bảo Đại thì vào năm 1910, nhiều thanh niên Việt Nam đi lính Pháp. Họ phải sang mẫu quốc để phục vụ một thời gian, trong số đó có một người từng làm phụ bếp cho Toàn quyền Saigon tên Huỳnh. Đơn vị ông Huỳnh đóng quân ở Marseille và ông được giữ chức Bếp trưởng của binh đoàn toàn lính người An Nam. Sáng nào ông Huỳnh cũng ra lệnh đốt bếp lò thật sớm bằng cách hô to: “Feu! Feu!” có nghĩa là nổi lửa lên ! để nấu súp thịt bò cho binh sĩ ăn điểm tâm với bánh mì khô. Thấy binh sĩ người Việt bỏ ăn sáng hơi nhiều vì chán món súp bò của Pháp nên ông Huỳnh bèn nghĩ ra một món mới. Ông dùng gia vị bằng hương liệu Á châu và thay bánh mì bằng “bánh tài phảnh” mua của người Tàu ở Khu Chinois. Món ăn được hưởng ứng nhiệt liệt và ngay cả người Pháp cũng ăn và gọi là món Feu.

Khi hồi hương một vài cựu quân nhân Pháp gốc Việt này nấu món Feu thành Phở bán.

Ở Dalat năm 1930 có phở Gare xe lửa là tiêm Phở Bò đầu tiên của Dalat do con đầu bếp Huỳnh làm chủ. Tên Tô Xe lửa (Tô lớn) phát xuất từ đây mà ra. Phở Gare Dalat sau 1960 dời về Phú Nhuận Saigon lấy tên là Phở Bắc Huỳnh. Ở Quận Cam, Little Saigon Nam Cali trước đây cũng có tiệm phở cùng tên.

Ngày trước bị ành hưởng Tây có người dịch phở là pot-au-feu nhưng món này là một món hầm thịt bò với rau quả.

-Môn phái theo Ta dựa vào tên nôm.

Tác giả Vương Trung Hiếu (facebook.com/notes/vương-trung-hiếu/nguồn-gốc-của-phở) chứng minh hai nguồn gốc Tầu Tây ở trên cho là không vững. Ông dựa vào chữ nôm phở: “Theo những tự điển mà chúng tôi tham khảo, từ phở xuất hiện trong phở lở gồm có ba chữ (𡂄 và 㗞 đều thuộc bộ khẩu; , thuộc bộ hiệt); còn từ phở trong bánh phở  có một chữ (, thuộc bộ Nhật, âm Hán Việt là phổ); riêng từ phở với nghĩa là món phở thì gồm hai chữ Hán ghép lại: mễ phả .

…..

Bây giờ, xét về ngôn ngữ, chúng ta xem thử những chữ Nôm phở (𡂄, 㗞, 頗, 普) có liên quan gì với chữ Hán phấn  trong ngưu nhục phấn 牛肉粉 không, đặc biệt là chữ phở trong món phở? Xin thưa, chẳng có liên quan gì cả.

…..

Tóm lại, chữ Nôm phở hay phở bò cho thấy rằng người Việt xưa rất chủ động trong cách dùng từ, mục đích nhằm khẳng định rằng “phở” là một món ăn hoàn toàn Việt Nam, chẳng dính dáng gì tới ngưu nhục phấn 牛肉粉 của Trung Quốc.

Vậy phở có nguồn gốc từ đâu?

Chúng tôi ủng hộ quan điểm cho rằng phở có nguồn gốc từ món xáo trâu rất phổ biến ở miền bắc, đặc biệt là ở Hà Nội vào đầu thế kỷ 20”.

Như vậy theo môn phái Ta này phở có nguồn gốc từ món xáo trâu của Việt Nam.

Vậy thì cũng nên biết thêm xáo hay sáo có nghĩa gì? Xáo, sáo có gốc Sa- liên hệ với Phạn ngữ -sara, saras, nước. Các cô gái Tây phương được đặt tên Sarah có nghĩa là Nước, nữ thần Nước, Mẹ Nước mang nghĩa tạo hóa, sinh tạo. Nước là mẹ sự sống. Serum là huyết thanh…

Việt ngữ sa như sa mù (sương và mây), sả liên hệ với nước như sả nước, sối sả, chim sả… Chim sả là chim bói cá, thằng chài, phí thúy “nào lên rừng đào mỏ, nào xuống biển mò châu, nào hố bẫy hươu nai, nào lưới dò chim sả” (Nguyễn Trãi, Bình Ngô Đại Cáo). Theo s = ch = tr, sả = trả. Chim trả là chim sả:

Con chim tra trả, ai vay mà trả,

Bụi gai sưng, ai vả mà sưng.

Đấy người dưng, đây cũng người dưng,

Cớ chi nước mắt cứ rưng rưng nhỏ hoài.

(Hò Miền Nam).

Cỏ sả (lemon grass) dùng đun nước làm trà, tắm gội và dùng làm hương vị nấu ăn. Chim sáo liên hệ với nước nên có câu ‘con sáo sang sông’, ‘chẻ tre bện sáo cho dầy’ (sáo là một dụng cụ bắt cá liên hệ với nước), sáo đen là chim biểu tượng của nước (Bồ Nông là Ông Bồ Cắt)…

Món ăn nấu có nhiều nước như canh gọi là xáo (sáo): xáo vịt, xáo măng, trăm voi không được bát nước sáo. Món chiên với dầu mỡ có nước nhưng ít gọi là xào. Xáo với xào khác biệt ở chỗ có nhiều hay ít nước. Xào với xáo vì thế hay xào xáo với nhau! Gạo nấu với nhiều nước gọi là cháo. Theo s = g (sối = gội) ta có sáo = gạo, làm hàng sáo là làm nghề gạo. Gạo vốn là cây lúa dại mọc dưới nước. Lúa sạ là lúa nước, mọc ngoi lên theo mực nước dâng cao hàng ngày…

Như thế ta có ít nhất ba nguồn gốc của phở. Phở là phấn (phẳn, phảnh), là Feu và là Phố.

Chắc ai cũng cho mình có lý cả. Biết theo ai?

Theo lối ba phải thì có lẽ là cả ba gộp lại!

Nước Lèo

Phần nước phở gọi là nước lèo có nghĩa là nước béo nấu bằng xương. Theo biến âm kiểu lêu bêu, lều bều, lang bang (l = b), ta có lèo = béo. Ta cũng có từ lèo bèo. Qua câu ‘bụng lèo bèo những mỡ’ là bụng béo xệ, ta có lèo = béo. Rõ hơn qua câu ‘cái bụng như thùng nước lèo’ chỉ bụng to béo xệ giống như bụng con heo Việt Nam đầy mỡ ba chỉ mà người Mỹ gọi là Vietnamese pot-bellied pig. Trong Từ Điển Nguồn Gốc Tiếng Việt, tác giả Nguyễn Hy Vọng cũng xác thực: lèo (mỡ lèo, nước lèo giống như nước béo, nước mỡ. Thái p-lèo, miếng, lát mỡ; p-lèo mú, mỡ heo.

Như thế nước lèo của phở là nước béo, nước mỡ nấu bằng xương tủy bò. Về sau dùng rộng nghĩa ra gọi là nước dùng. Nhưng lưu ý nước lèo không nên dùng để gọi nước nước nấu món chay.

Bánh phở

Như đã nói ở trên bánh phở làm bằng bột gạo, Hán Việt là phấn, Quảng Đông là phẳn, phảnh. Anh ngữ là rice noodle.

Phần Thịt

-Phở Bò.

.Bò

Bò ruột thịt với Gael ngữ , Pháp ngữ boeuf, Latin bos, Hy Lạp ngữ bous. Phạn ngữ go, bò. Theo g=c, Phạn ngữ go = cow (bò cái) /cao/ đọc thêm hơi vào thành châu, trâu (nghĩa lệch), trong khi đó buffalo có bu- = bò (nghĩa lệch). Nhật ngữ gyu có gốc Phạn go là bò. Wagyu là thịt bò Nhật, người Nhật cổ gọi là người Wa.

.Nạc

Là phần thịt không có xương (hết nạc vạc tới xương) và không có mỡ. Thịt nạc là thịt đi kèm với xương có sơ, có sợi, có thớ (cơ vân) (dùng làm ruốc thịt, thịt chà bông). Thịt nạc bò cắt trái thớ ăn rất dai. Nạc biến âm với nạt (nuộc nạt), lạt (dây tre có thớ, sơ dùng để cột).

Anh ngữ nạc là lean có một nghĩa là gầy. Việt ngữ có câu gầy xác, gầy xơ.

.Chín

Hán Việt thục, Anh ngữ well done.

Chín có một nghĩa là nấu chín (cooked) là do nấu bằng lửa và cũng có nghĩa là không sống, không còn xanh đã chín (ripen) của hạt hay quả do lửa trời, do nắng.

Theo qui luật từ đôi đồng nghĩa của Nguyễn Xuân Quang chín rục ta có chín = rục. Theo r = th như rụt = thụt; rồi = thôi, r Việt = th Mường như răng = thang, ta có rục = Hán Việt thục (chín).

Chin ngược với tái, Hán Việt gọi là sinh (sống) (xem Tái).

Ăn phở chín thì phải là chín nạm mới ngon vì thịt có những đường gân, mỡ (xem dưới), hơn là ăn chín nạc toàn sơ thấy miếng thịt xác xơ trong miệng như sơ lạt tre.

.Tái

Tái là thịt chín một phần, Hán Việt sinh, Pháp ngữ saignant, Anh ngữ rare.

Tái là mầu nhợt nhạt, xanh mét không có máu, thiếu máu như tái xanh, tái mét, tai tái khi sợ, bị lạnh hay bị thiếu máu, Thịt bò sống đỏ máu khi đổ nước sôi lên chín phần mặt làm mầu đỏ máu phai đi thành mầu tái nhưng phần dưới vẫn còn máu nên Pháp ngữ gọi là saignant và thịt còn sống (chưa chín) nên Hán Việt là sinh.

Phần nước máu của thịt trụng nước sôi gọi là tái nước huyết, những người thiếu máu thường ăn vì cho là bổ máu.

.Nạm

Nạm là thịt vùng bên sườn (flank) dưới bụng

Nạm chia ra nạm sườn (dính vào xương sườn), nạm bụng, nạm bụng sau phía mông. Thịt có thớ và có đường gân, mỡ.

Việt ngữ nạm có một nghĩa là khảm, cẩn như nạm bạc, nạm vàng.Những dải gân-mỡ trắng trông như được cẩn, nạm vào miếng thịt.

Để dễ nhớ nên gọi là thịt nạm gân-mỡ.

Gầu Anh ngữ brisket point.

Gầu là phần thịt ngực dưới hay ứcnhìn từ trước là phần giữa hai chân trước. Anh ngữ gọi là brisket point. Người Bắc Âu gọi là gristle hay cartilage (sụn), Cổ ngữ Anh brushk, tough (dai).

Thịt gầu gồm hai lớp mặt và lớp dưới. Vì bò không có xương đòn gánh (quai xanh) thịt gầu phải chống đỡ khoảng 60% trọng lượng thân thể khi con vật đứng và di động. Vì thế gầu có một lượng mô liên kết (connective tissue) đáng kể.

Gầu thường cứng dai vì có nhiều thớ sợi giao (collagen). Collagen là thành phần chính của mô liên kết. Tùy theo độ khoáng hóa (mineralization), mô collagen có thể cứng (xương), mềm dẻo (compliant) như gân hay từ cứng tới mềm dẻo (sụn). Collagen thủy phân hóa (hydrolyzed) thành gelatin. Tên collagen phát xuất từ Hy Lạp ngữ kolla có một nghĩa là chất keo (glue). Việt ngữ cồn (dán) ruột thịt với Kol-. Nấu chất collagen trong da và gân thú vật để làm chất keo a giao (các họa sĩ dùng a giao tráng khung vải để vẽ tranh sơn dầu). Nấu xương, sừng, mai rùa làm cao (cao hổ cốt, cao ban long, cao qui bản) .

Tùy theo thành phần chất giao, cao của collagen và cách nấu với độ keo hóa (gelatinize) của collagen thịt gầu sẽ cứng, dai, mềm hay dòn. Gầu có một lớp mỡ mũ phủ ở trên (fat cap) nên trông giống nửa nạc nửa mỡ. Mỡ này giúp cho gầu không bị khô khi nướng và thêm vị ngậy béo.

Hàng phở gọi là mỡ gầu là gọi chung cả phần gầu và phần mỡ. Mỡ gầu đi chung với chất giao, mô liên kết nên là thứ mỡ dòn, ngậy, bùi và không hoi mùi mỡ nước bò. Hán Việt gọi là võng du. Tục ngữ có câu ‘Thứ nhất mỡ nầm, thứ nhì mỡ cối thứ ba mỡ gầu’.

Gầu cần phải nấu trong nước để thủy phân hóa collagen thành chất giao, cao.

Như vậy một miếng gầu ngon tùy vào thành phần của mô liên kết, vào lượng chất collagen, phải chọn thứ mềm như gân, dòn như sụn non có mũ mỡ béo ngậy, phải biết cách nấu đúng độ keo hóa, cao hóa (nấu lâu quá hóa dai), phải biết cắt vừa độ mỏng và phải có nước dùng ngon húp chung. Ăn vào thấy mềm dòn, dẻo như gân, sần sật như sụn non và béo, ngậy, thơm mùi mỡ gầu, vị ngọt, đậm đà của nước phở.

Hiểu rõ như vậy, thưởng thức một miếng gầu tuyệt cú mèo rồi thì ta sẽ hiểu nghĩa của từ gầu.

Ta có gầu là chất giao, chất cao, chất collagen. Theo biến âm g = c như gài = cài ta thấy gầu = cao = keo = cồn = kolla = collagen… Dân gian chẳng biết gì về mô liên kết, collagen nhưng thấy thứ thịt khi nấu nhừ có chất keo, cao thì gọi là gào, gầu.

Kiểm chứng thêm ta có từ gầu (dandruff) với nghĩa các vẩy trắng tróc ra ở da đầu. Một trong những yếu tố tạo ra gầu đầu là do chất dầu, sáp (sebum) do các tuyến chất này (sebaceous glands) tiết ra, khô lại, tróc ra thành các vẩy mỏng (flake, pellicule). Dân gian gọi là gầu đầu có thể nhầm chất dầu, sáp với chất keo của da đầu.

.Gân

Hán Việt cân, Anh ngữ tendon, ligaments.

Gân là dây, sợi, đường, vân như gân thịt xương, gân máu, gân gỗ…

Gân thịt xương là sợi dây chất collagen cột các bắp thịt vào xương hay xương vào xương… Theo g = c như gài = cài, ta có gân = Hán Việt cân.

Anh ngữ tendon có ten-, dây ví dụ:

.toenia, tenia, sán, sán sơ mít, lải, lãi, liên hệ với Hy Lạp ngữ tainia, băng, dây cột, Pháp ngữ cổ tenie, dây cột, dải băng cột đầu tóc, với Latin linea, lineus có nghĩa gốc là dải, dây làm bằng sợi cây gai. Toenia là loại ký sinh trùng ruột có hình dài và dẹp như dây, dải. Theo l = d = t, con lải, con lãi = con dải, con dây vì vậy Anh ngữ phổ thông gọi là tapeworm. Con lãi thân như dây, dải có đốt, các đoạn trông như sợi dây sên, dây xích (chain, Pháp ngữ chaine) nên gọi là con sên (khác với con ốc sên) con sán, hay sán sơ mít. Sán ruột thịt với sên.

.tennis, quần vợt là môn thể thao lúc mới đầu đánh quả banh qua một dải dây (sau là cái lưới) ở giữa sân.

.tentacle, vòi, tua.

.Sách

Hán Việt bách diệp, Anh ngữ Bible tripe, omasum, manyplies.

Sách là ngăn thứ ba trong bốn ngăn của dạ dầy loài nhai lại, Anh ngữ là Bible tripe, omasum, manyplies có nhiều nếp, phiến như trang giấy nên gọi là sách.

Sách thời sử xanh gồm nhiều thẻ tre trên viết chữ giống như những trang sách. Các thẻ này cũng gọi là sách.

Tiếng Anglo-Saxon bóc là vở, có nghĩa gốc là cây beech, tấm vỏ cây này dùng để viết, liên hệ với gốc Phạn ngữ bhag, bóc ra.

Điểm lý thú là từ bóc của Anglo-Saxon giống từ Việt ngữ bóc lấy vỏ cây làm vở, sách.

Theo b = v, có bo- của bóc, book = vở. Nguyên thủy vở làm bằng vỏ cây, lớp bọc của cây. Vở = vỏ. Book liên hệ với bhurgja, loại cây birch (cây phong), vỏ cây dùng làm giấy và với Phạn ngữ pusta, book.

Hán Việt sách còn có nghĩa là hàng rào hàm nghĩa bao, bọc, vây quanh. Với nghĩa này sách liên hệ với book /búc/ là bọc và vở có một nghĩa là vỏ, bao. Ta có từ vợ (chồng) ruột thịt với vỏ, lớp bọc, lớp áo, với vớ, bao chân, người Bắc gọi là bít tất có một nghĩa là bịt túc (che đậy chân). Vợ ruột thịt với vờ, xác bọc ngoài, con vờ phù du lột xác nên có câu xác như vờ. Vợ ruột thịt với vở nguyên thủy làm bằng vỏ cây… Như thế vợ là người có vỏ bao, có vớ bọc, có vờ, xác bọc thân, có vở, áo cây, nói chung lại vợ là người có túi, có nang, có Nường trong khi chồng có chông, có chống (gậy), có cọc…, có .

Sách gọi là lá sách chứ không gọi là tờ sách hay trang sách, Tại sao? Gọi lá sách là gọi theo các nhà nho, theo Hán Việt bách diệp, trăm lá.

Lá sách phải nấu thế nào khi ăn dòn chứ không dai như… quai guốc (một phần của túi bao từ loài nhai lại).

.Vè dòn.

Vè là vành như vè xe biến âm với wheel, bánh xe. Vè dòn là thịt vành nạm (skirt flank). Có hai loại vè dòn và vè dai, mềm.

.Ngầu pín.

Quảng Đông: ngầu pín, Hán Việt ngưu tiên, Anh ngữ bull pizzle.

Tiên ở đây không phải là người ở trên núi: ông tiên, bà tiên, nàng tiên. Hán Việt còn có những chữ tiên có nghĩa là nêu (cọc), mốc, roi… Cọc là cược, c…c. Vì thế tiên cũng có nghĩa là chim. Dân gian hay ngôn ngữ trẻ em gọi bộ phận sinh dục nam là chim. Qua từ đôi đồng nghĩa chim chóc ta có từ chim = chóc = cọc, cược (h câm). Thái ngữ nok = cọc là chim. Tiên có một nghĩa là chim trong ngôn ngữ của người Khả (Khmu) nói cùng hệ ngôn ngữ Môn Khmer với người Việt (Bình Nguyên Lộc, Nguồn Gốc Mã Lai của Dân Tộc Việt Nam, ông gọi là Khả Lá Vàng). Phở ngầu pín là phở cọc bò, nói cho thanh lịch là Phở chim bò.

Phở ngầu pín là món lôi hút mấy ông cần mà ngại xin toa bác sĩ viết cho Viagra thích ăn. Họa hoằn mới thấy một vài dương nữ ăn phở chim bò.

.Nước béo

Nước mỡ trên mặt nồi nước phở. Qua từ đôi hay từ láy béo bở ta có béo = bở. Thành tố láy ‘bở’ ở đây không phải là bở có nghĩa là dễ rời ra (khoai bở) mà chính là Pháp ngữ ‘beurre’. Bơ là một chất béo nên láy với béo. Bơ chính là Việt ngữ ‘bồ’ có nghĩa là chất béo như thấy trong các từ đôi bồ hòn, bồ hôi, bồ hóng, bồ kết… Theo b=m, ta có bồ hôi = mồ hôi, bồ hóng = mồ hóng… mồ chính là mỡ. Bồ hòn là “hòn bơ”, “hòn mỡ”, quả bơ, quả mỡ, thứ quả dùng làm xà phòng, Pháp ngữ gọi cây bồ hòn là ‘savonier’, Anh ngữ là ‘soapberry tree’; bồ hôi, mồ hôi do tuyến nhờn như dầu mỡ ở da tiết ra (có người có mồ hôi dầu) chính là ‘bơ hôi’, ‘mỡ hôi’; bồ hóng, mồ hóng là chất như dầu đen do khói đọng lại; bồ kết là quả ‘kết’ bơ, mỡ, dầu dùng gội đầu.

Nước béo là nước bơ, nước mỡ.

.Xí quách

Tiếng Quảng Đông xí quách là trư cốt, xương heo hầm làm nước lèo, sau nói rộng ra gọi chung cho xương hầm của tất cả các loài động vật khác.

Giang hồ gọi là món ‘cải mả’, ‘bốc mộ’ là món ưa chuộng của những người khoái gậm xương, mút tủy.

-Phờ Gà.

Dùng gà đi bộ hay gà trống thiến. Cái ngon chính của phở gà là cách luộc gà.

.Gà

Việt ngữ gà, Mường ngữ ca biến âm với cà, Hán Việt kê (chuyện con cà con kê, chuyện cà kê).

Gà trống với trống là chống (que nâng đỡ), chông (cọc nhọn), trống là đực, nọc (heo nọc là heo đực). Que, chống, chông, nọc, cọc (“Quân tử có thương thì đóng cọc, Xin đừng mân mó nhựa ra tay”, hay “Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không”, Hồ Xuân Hương). Con cọc là con cock, coq (Pháp ngữ) con cược, con c…c. Từ cock vì thế còn có nghĩa là bộ phận sinh dục nam.

Ta có từ đôi đồng nghĩa gà qué với gà = qué. Qué biến âm mẹ con với que. Theo qu = c= k (quộn = cuộn, quẽo quẹt = kẽo kẹt), con gà là con qué, con que, con ke. Ke có một nghĩa chỉ bộ phận sinh dục nam (Alexandre de Rhode, Từ Điển Việt-Bồ-La). Cổ ngữ Việt ké cũng có nghĩa là gà như “trói thúc ké” là trói ghịt cánh gà. Ké ruột thịt với kê (Hán Việt). Tóm lại con cock, con coq (Pháp ngữ) là con cọc, con c…c, con que, con qué, con ké, con nọc (đực, trống).

Có người thích ăn phở gà trống thiến mập béo nhiều mỡ.

Gà biến âm với ga- của gallinaceae, gallinae, loài gà, Latin gallina, gà mái, gallus, gà trống, Tây Ban Nha ngữ gallina, gà mái, gallo, gà trống, gallito, gà con, Bồ Đào Nha ngữ galinha, gà mái, galo, gà trống….

. Nước mắm Gừng.

Gà ăn riêng thường chấm nước mắm gừng.

Gừng là loại củ có hình sừng hươu nhiều nhánh (staghorn). Theo g = s như gội = sối, ông gầm = ông sấm, ta có gừng = sừng. Anh ngữ ginger, gừng có gốc Phạn ngữ çriđgavera, gừng, theo nghĩa đen có nghĩa là ‘hình sừng”, có çriđga, sừng và vera, vóc, dáng (çringa có çing- = sừng và vera = vóc). Ginger có ging- = gừng. Gừng và ginger ruột thịt với Phạn ngữ çriđga, çira, sừng.

Hán Việt Khương là sừng. Theo kh = s như khẽ = sẽ, khít = sít, khoang = soang = xoang ta có khương = sừng.

CÁC THỨ ĂN KÈM KHÁC.

Rau:

Giá

Đậu nha, bean sprouts.

Đậu nha là mầm đậu. Mầm đậu khi mới nhú ra mầu trắng trông như răng mới mọc nên gọi là nha (răng). Khi mọc dài ra giống răng voi (ngà voi). Theo biến âm kiểu nhà = gia, ta có nha (mầm đậu) = giá.

Nhìn kỹ ta thấy quả đúng giá trông giống ngà voi tí hon.

Có người ăn giá sống nhưng có người không thích vị tanh tanh của hạt đậu thích ăn giá trụng.

-Húng

Húng là hương (thơm). Húng lìu là hương liệu, vật liệu có mùi thơm. Lạc rang (đậu phụng, phọng rang) húng lìu.

Rau húng là rau thơm có:

./Rau mùi

Rau mùi là rau có mùi thơm. Mùi ta (coriander, cilandro) (khác với mùi Tây) còn gọi là ngò rí là một thứ rau thơm. Rau mùi ruột thịt với Phạn ngữ bhida, coriander, có bid- = mùi Trung Nam gọi là rau ngò.

./Húng quế

Húng quế ăn phở thường dùng húng quế mầu tím cay nồng. Anh Mỹ gọi là húng quế Thái (Thailand basil). Húng quế được chọn ăn với phở bò vì tính cay nồng mạnh che lấp đi mùi oi của thịt bò, mỡ bò và cũng hòa hợp với vị cay cay của quế trong nước lèo. Ở những nơi không có quế, hùng quế rất hữu ích trong phở bò.

Người Bắc còn gọi là húng chó vì ăn với tiết canh chó.

./Ngò gai

Lá có gai còn gọi là mùi Tây, thường ăn với phở gà vì mùi thơm nhẹ nhàng hơn húng quế. Có một loại húng quế chanh (lemon basil) có mùi thơm chanh ta có thể dùng ăn phở gà thay lá chanh.

-Tương đỏ, tương ớt.

Tương ớt ăn phở nổi tiếng là tương ớt hiệu Sri Racha làm bằng ớt hiểm (Scuds bird’s-eye chillies) của ông David Tran (Trần Đức) hãng thực phẩm Huy Fong (Huy Phong lấy theo tên con tầu rời Việt Nam năm 1979). Tên Sri Racha gần với tên tỉnh Si Racha, Thái Lan, là nơi cũng có món tương ớt nổi tiếng trong vùng (dĩ nhiên không có thương hiệu nào trùng tên với tương Con Gà của Hãng Huy Fong).

-Tương đen, tương phở.

Tiếng Quảng Đông Hoisin jiang có hoisin là Hải Tiên (Đồ Biển Tươi, fresh sea foods) và jiang, tương, nước chấm.

Tương đen hoisin lúc đầu làm với hải sản, đường mía, tỏi, dấm và ngũ vị hương, có khi làm với mắm ruốc. Về sau bỏ hải sản đi nhưng vẫn giữ tên hải tiên hoisin. Thật ra không phải làm ra để dùng cho đồ biển, ở nam Trung Quốc nguyên thủy dùng để xào và chấm các món thịt. Hoisin dùng trong thịt vịt Bắc Kinh, cuốn thịt heo, gà bằm (moo shu pork, chicken) và rồi người Việt miền nam dùng ăn phở.

Người Bắc chê dân Nam ăn phở với tương đen cho là làm mất hương vị phở Bắc chính cống Bà Lang Trọc. Dân Nam ăn phở với tương đen cũng có lý do. Phở miền Bắc xứ lạnh dùng rất nhiều hương liệu phở có những thứ ăn vào làm nóng người lên. Nếu ăn phở Bắc loại này ở miền Nam trời nóng ăn xong vã mồ hôi hột. Phở Nam vì thế ít hương liệu nồng nực nhiều khi phải dí mũi vào tô phở mới ngửi thấy mùi phở. Trong khi phở Bắc ở đầu đường đã ngửi thấy mùi phở. Vì vậy phở Nam phải ăn với tương đen có ngũ vị hươngtiểu hồi hương (fennel)… có những thứ có trong hương liệu phở [có hoa hồi (star anises), tiểu hồi hương, quế, thảo quả, hạt mùi, đinh hương] thay cho sự gia giảm hương liệu trong nước phở. Ở hải ngoại có nơi người Việt nấu phở bằng cách chế biến từ ngũ vị hương. Một điểm lợi nữa là người ăn có thể điều chỉnh hương vị phở theo ý mình thích. Trường hợp này cũng giống như ăn kèm với húng quế như đã nói ở trên. Dân di cư 54 vào Nam ăn phở Bắc nấu kiểu Nam trong đất Nam ăn kèm với tương đen và rau quế ít nhiều tùy theo nhiệt kế mỗi ngày ở trời miền Nam nóng bức, chẳng có gì là đáng chê. Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài.

…..

Hiểu rõ chữ và nghĩa của các từ trong bát phở rồi thì khi ta gọi một tô phở loại nào nhìn vào bát phở là ta biết ngay có thật sự là thứ phở ta đã gọi không, là ta biết ngay tiệm phở đó có chuyên nghiệp, có ngon không, là ta biết ngay là phở thứ thiệt hay là phở phét, phở fake (fake có một nghĩa là phét, fake = phét, fake news là tin nói phét, phét lác, tin nói láo, láo phét)…

Đi tới đâu tôi cũng cố tìm nếm món phở. Ở tất cả những ngóc ngách thế giới mỗi khi thấy chữ Phở tôi đều ghé vào. Chờ ăn đủ 100 thứ phở thế giới sẽ viết một bài 100 Vị Phở Thế Giới.

Chủ Nhật, 27 tháng 9, 2020

TÌNH YÊU THẬT SỰ

 

Đừng kể về quá khứ
đừng nói đến tương lai
bởi với anh em mãi là hiện tại
người đàn bà nồng cay
Hãy gieo hạt mầm từ máu tim hoang dại
cho tình đâm lộc nẩy chồi
bén duyên rồi ta hãy dưỡng nuôi
yêu thương này bằng bản năng và trí tuệ
Bản năng như là nắng
trí tuệ như là mưa
nhận hay cho biết mấy là vừa
hãy để đam mê xin được lần thừa
Tình cao tỏa bóng đời ta dựa
hạnh phúc trong lành dưới tán lá xanh...

Thứ Bảy, 26 tháng 9, 2020

TRANG TỬ TÂM ĐẮC- YUZAN -LỜI GIỚI THIỆU

 



Sách Trang Tử, còn có tên là Nam hoa kinh của Trang Chu không chỉ là
bộ kinh điển của bách gia chư tử, mà còn là bộ sách hội tụ tinh hoa của triết
học và văn hóa Trung Quốc.
Lỗ Tấn, cha đẻ của nền văn học hiện đại Trung Quốc, từng nhận xét về
Trang Tử như sau: "Bao la vạn khoảnh, biến hóa khôn lường, trong hết thảy
các nhà chư tử cuối đời Chu, không nhà nào có thể vượt qua Trang Tử vậy".
Hồi còn là Nghiên cứu sinh tại Đại học Nam Kinh, tôi từng nghe Giáo sư mỹ
học Phan Tri Thường nói: "Nếu nội trong một đêm, mọi sách vở về văn hóa
Trung Quốc biến mất khỏi mặt đất, trước sự kiện này có một học giả được
báo trước, đồng thời cho phép ông ta chọn mười đầu sách kinh điển nhất để
lưu lại, thế thì trong mười đầu sách ấy sẽ có Luận ngữ của Khổng Tử, Đạo
đức kinh của Lão Tử, Nam hoa kinh của Trang Tử,
Đàn kinh của Huệ Năng, Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần,... Nhưng
nếu chỉ được phép chọn một đầu sách duy nhất, thì chỉ có thể chọn Nam hoa
kinh, vì còn Trang Tử thì còn có thể trùng kiến lại văn hóa Trung Quốc, mất
Trang Tử đồng nghĩa với việc văn hóa Trung Quốc diệt vong. Bởi vì triết học
nhập thế của Khổng Tử ở đời thường dễ có, triết lý Thiền tông vẫn có thể sản
sinh nếu có sự gặp gỡ giữa Phật giáo và tư tưởng của Đạo gia, nhưng triết học
ngoạn thế của Trang Tử thì thực không dễ có".
Từ những điều trên đây có thể thấy rõ tầm quan trọng cũng như sức ảnh
hưởng to lớn của Trang Tử đối với văn hóa Trung Quốc, thậm chí đối với cả
nền văn hóa Đông Á nói chung. Văn nhân Trung Quốc xưa đối với việc xuất
sĩ làm quan, trọng tư tưởng nhập thế của Khổng Tử; đối với việc tu tâm
dưỡng tính, thường ký thác nơi quan điểm xuất thế của Đạo gia. Cuộc đời
con người ta ắt cần đến công danh, nhưng công danh không phải là tất cả;
 
ngoài công danh, con người ta bất cứ lúc nào cũng phải đối mặt với vô vàn
vấn đề to lớn, như sống chết, tự do, bất tử,… Chìa khóa để vượt qua tất cả
những điều này, theo chúng tôi có lẽ không thể tìm ở đâu khác ngoài Trang
Tử.
Giáo sư Vu Đan là một trong những học giả nổi danh ở mảng văn hóa
truyền thống Trung Quốc, những bài giảng của bà về Nam hoa kinh của 

Trang Tử và Luận ngữ của Khổng Tử phát trên Đài truyền hình Trung ương
Trung Quốc luôn chiếm được rất nhiều cảm tình của người xem.
Chúng tôi trân trọng giới thiệu đến độc giả Việt Nam và tin rằng quý độc
giả sẽ tìm thấy rất nhiều điều tâm đắc sau khi đọc xong quyển sách này.
Nguyễn Đình Phức

Thứ Hai, 21 tháng 9, 2020

ƯU ĐÀM HOA

 Rừng em có âm u

rừng em có lắm sương mù hay không?

để tôi đốt đuốc vào trong
thăm cô tiên nữ chữa chồng động hoa
Thiên nhai ở cõi a tu la
ưu đàm có tỏa tình ra dương trần...?