Thứ Ba, 23 tháng 2, 2016

Đem Phật vào tâm




HT. THÍCH TRÍ QUẢNG


Trên bước đường tu, chúng ta thường phạm sai lầm, lo tu bên ngoài mà quên mất Phật trong tâm mình; trong khi Phật dạy rằng chúng ta có Phật tánh, ai tu cũng thành Phật. Nhưng vì chúng ta làm sai ý Phật, nên không đạt kết quả tốt đẹp.


Thật vậy, tu hành nhưng cứ phóng tâm ra ngoài, khiến lòng mình trống vắng và làm bên ngoài nhiều thì phiền não nhân đó phát sinh, rồi đổ thừa là tu đổ nghiệp. Nghiệp đổ là do sai lầm của chính mình. Nhưng nếu đem Phật vào tâm mình được, bấy giờ tâm mình đã có Phật, sẽ hiện được tướng Phật bên ngoài. Đó là ý quan trọng mà Phật tử cần ghi nhớ.

Ngài Thiên Thai có kinh nghiệm tu hành, ngài chuyên lạy Phật để đem Phật vào tâm. Lúc ấy, tâm nghĩ đến Phật, miệng niệm Phật và thân lạy Phật. Như vậy là tập trung ba nghiệp thân, khẩu, ý hướng về Phật. Từ tâm nghĩ đến Phật liên tục, lâu ngày, nghĩa là Phật ở trong tâm, thì nhìn đâu cũng thấy Phật.

Riêng thầy tu Pháp Hoa, thể nghiệm pháp quán tưởng Phật lâu ngày, nên thấy Phật và thân tâm được thanh tịnh, giải thoát. Còn tu mà chưa thấy Phật, chỉ thấy tượng Phật, thì chưa được kết quả. Chúng ta nhìn tượng Phật, nhưng phải thấy Phật và thấy bằng tâm. Thầy áp dụng pháp này, nhắm mắt nhìn Phật là nhìn bằng tâm, mình vẫn thấy Phật thì biết là Phật vô tâm rồi. Nhắm mắt không thấy Phật là Phật chưa vô tâm.

Và nhắm mắt thấy Phật, trong chiêm bao cũng thấy Phật, thì bước qua giai đoạn ba, nhìn đâu cũng thấy Phật, nhìn trời, mây, cây cỏ, hoa lá cho đến nhìn đá cũng thấy Phật, vì thấy bằng tâm. Mắt nhìn cây thấy cây, nhưng tâm nghĩ đến Phật, nên thấy cây là Phật. Trên thực tế, một số người cho biết họ gặp nguy hiểm, nhưng hết lòng nghĩ về Phật, nên thấy Đức Quan Âm hiện. Hai người ở cũng một chỗ, nhưng người thấy Phật, người không thấy. Theo thầy, người thấy Phật là thấy bằng niềm tin, bằng tâm. Người thấy bằng mắt chỉ thấy trời biển, không thấy Phật. Thấy bằng tâm thì thấy Quan Âm hiện.

Ban đầu thân lạy Phật, miệng niệm Phật và tâm nghĩ đến Phật, phải nỗ lực thực tập cho thân, khẩu, ý thuần thục như vậy là đưa Phật vào lòng, việc tu hành mới có kết quả tốt đẹp, còn tu hình thức không quan trọng bằng.

Thầy thấy hai bà tay lần chuỗi, nhưng miệng nói huyên thuyên đủ thứ chuyện. Làm như vậy là tập thói quen của tay, là chỉ tu cái tay thôi, không tu miệng và không tu tâm; vì miệng nói bậy, tâm nghĩ ác, chắc chắn bị đọa.

Đầu tiên tập cái thân trước, vì lấy thân để cột tâm, lần chuỗi để chú tâm vô đó, việc chính là tập trung cái tâm, không phải cái tay. Lạy Phật, vì đối trước tượng Phật trang nghiêm, chúng ta dễ tập trung. Người tâm tán loạn, không ngồi thiền được, nên bắt buộc miệng niệm Phật, thân lạy Phật. Vì vậy, phải mượn miệng đọc kinh, tai nghe kinh, tâm chú ý vô kinh được. Còn không có gì để tập trung thì tâm phóng dật.

Phật giáo Đại thừa đặt ra mõ chuông để đại chúng tụng cho đúng nhịp và để mọi người chú tâm vô đọc theo. Sợ chúng phóng tâm, người ta đánh tiếng chuông cảnh giác. Thí dụ tụng ba biến chú Đại bi, đến biến thứ ba, đánh tiếng chuông để báo cho chúng biết chuyển sang đoạn khác.

Không phải thân thường tụng kinh là quan trọng. Nghĩ thân lạy Phật để Phật phò hộ, chưa chắc được. Hoặc tụng kinh để Phật nghe, cũng không đúng, vì Phật nói cho chúng ta tu, chẳng lẽ ta đọc để trả bài cho Phật hay sao.

Tụng kinh là phương tiện, cốt yếu là để lời Phật dạy đưa vô tâm mình, đó là lấy điều kiện tu bên ngoài để cột tâm lại và khi tâm chúng ta thanh tịnh thì nhìn đâu cũng thấy Phật. Kinh Hoa nghiêm dạy rằng không có gì không phải Phật mới là Phật. Phật này là Pháp thân Tỳ Lô Giá Na, là cốt lõi của đạo Phật.

Tu hành, nếu tâm chúng ta lúc nào cũng tập trung, nhắm mắt thấy Phật và ngủ cũng thấy Phật, như vậy, biết mình đã tiến được một bước. Còn tay lần chuỗi, miệng nói đủ thứ và nghĩ không tốt là phá pháp. Hoặc tay lần chuỗi, miệng niệm Phật, nhưng tâm không tập trung vô Phật là sai.

Phật chưa vào tâm mình, thì thân xác hoại, công phu này cũng bỏ. Bồ-tát Phổ Hiền dạy rằng tất cả đều phải bỏ lại khi thân tứ đại hoại diệt, chỉ có tâm đi theo mà thôi. Vì vậy, cốt lõi của tu hành phải thực tập chuyển hóa tâm theo hướng thánh thiện.

Người tu được tâm thanh tịnh, nhìn đâu cũng thấy Phật là họ đã hiện hảo tướng, tức có thân dễ thương. Hiểu được lý này, nếu tu hành mà không ai thương, phải tự biết mình sai. Đã không biết mình sai, lại còn nghĩ ác rằng người ta phá mình, không cho mình tu.

Khi tâm tốt, là tâm có Phật rồi, tâm sẽ có bốn phản ứng. Nếu tâm chưa có bốn đức tướng này là chưa tu.

Phật có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp và tâm Phật là tâm từ, bi, hỷ, xả. Chúng ta tự xét coi tâm mình có bốn tâm từ, bi, hỷ, xả chưa. Coi tâm từ của mình có chưa và tâm từ nếu có thì mở rộng đến mức nào, dung chứa được bao nhiêu chúng sanh.
Tu thật là tâm mở rộng, tu sai thì càng tu, tâm càng hẹp lại, không dung chứa được ai. Người thật tu còn phạm sai lầm, thí dụ tu Thiền thì thấy Thiền là đúng, các pháp tu khác sai, như vậy là tâm mình đã thu hẹp. Trong khi tâm Phật mở rộng vô biên, không còn biên giới. Thầy thực tập pháp này bằng cách quán tâm. Ban đầu, mình nhìn bạn đồng tu, thấy ai cũng tốt, nhưng trải qua một thời gian, tu sai thì ghét người, khó chịu với pháp tu của người. Thật vậy, Phật dạy nếu thấy có người mình không bằng lòng là phải biết tâm mình đã xấu rồi, nhưng đa số người không chấp nhận như vậy là sai.

Thầy thấy người tu thường chấp pháp, chấp luật, nên thấy người sai phạm thì họ không bằng lòng và người thực hành pháp khác thì họ chê bai. Thật tu mà đã sai từ căn bản này, nghĩa là tâm từ của mình thu hẹp lại, không dung chứa được ai.

Theo thầy, làm như vậy là tự tiêu diệt Phật pháp. Phật pháp tồn tại nhờ cả đạo tràng, một mình thầy không có nghĩa gì. Nhiều người đến được với thầy, vì tâm thầy mở ra, bao dung được tất cả.

Đầu tiên, quý vị tập mở rộng lòng mình với những người bạn đồng tu một pháp môn với mình, không làm được như vậy là hỏng. Sau đó, mở rộng tâm thêm nữa là dung tất cả mọi người tu không cùng pháp môn, nhưng cũng là Phật tử, cũng tu pháp Phật. Phật có 84.000 pháp môn khác nhau, nhưng Phật dạy rằng ai tu theo pháp Phật, cuối cùng cũng thành Phật. Người tu giỏi tới trước, người kém, nhưng đã trồng căn lành, kết duyên với đạo, mai kia họ cũng tới bến giác.

Phật dạy những gì thích hợp với người, giúp họ thực tập và gặt hái được thành quả. Nếu dạy pháp không thích hợp, tác hại hơn là có lợi. Ban đầu, Phật dạy Thiền Tứ niệm xứ để giúp cho người thoát khổ. Đến hội Pháp Hoa, Phật nói các ông đã đắc La-hán, hết khổ, thì phải hành Bồ-tát đạo, cứu giúp người, mới thành Phật. Nghĩa là từng chặng đường tu có các pháp khác nhau.

Ngài Trí Giả thấy tất cả người tu đều tốt, cần được giúp đỡ, dù họ tốt hay xấu với mình. Đối với người xấu, càng thương họ nhiều hơn, đó là tâm từ của Phật. Tại sao lại thương người xấu nhiều hơn. Phật quán tưởng, thấy người xấu hại người tốt là họ tự hại họ, vì họ sẽ bị quả báo, người lành không bị quả báo. Còn mình lành mà bị hại, coi chừng mình ác thật. Phật dạy rằng hại người lành giống như ngược gió tung bụi, hay gieo gió phải gặt bão.





Nếu mình tốt thật, họ xấu với mình, họ phải bị quả báo chứ. Thí dụ, thầy được nhiều người thương, nhưng bị người xấu hại, thì nhiều người sẽ bênh vực thầy. Nếu bị hại mà người hùa theo, như vậy thầy có tốt thật hay không.


Một người cố chấp, dù tu thật, cũng bị hại. Chẳng hạn vô xứ Hồi giáo mà truyền bá tôn giáo khác với niềm tin của họ, chắc chắn sẽ bị phỉ báng và sát hại, đó là điều tự nhiên. Người phạm sai lầm như vậy, phải chết, rồi được tổ chức nào đó phong là thánh tử đạo. Tu hành, quý vị nên cẩn thận điều này, đừng thí mạng vô ích.

Trên bước đường tu, khi tâm mình mở được, lòng từ bao dung tất cả mọi người, vì lợi ích cho số đông, thì ai cũng thương mình, chấp nhận mình, ủng hộ mình; như vậy, chắc chắn là mình làm đúng. Thật vậy, nhờ tâm Phật mà chúng ta đã có và mở tâm ra, giúp người thương mình và cả người hủy báng mình, thì mình nhìn cuộc đời nhẹ nhàng, thanh thản, không còn thắc mắc, lo buồn. Ở mặt nào, chúng ta tu được, khiến người cảm mến và họ hợp tác, giúp ta làm được một số việc một cách dễ dàng. Riêng thầy, xây dựng được ngôi trường này là nhờ sự ủng hộ của Tăng Ni, Phật tử.

Thành công việc lớn nhỏ nào, chúng ta cũng phải ghi ơn, nhớ ơn và trả ơn những người hợp tác, hy sinh cho mình, lòng mình không bao giờ quên. Vì vậy, Phật dạy người tu luôn nhớ nghĩ đến bốn trọng ơn và hành Bồ-tát đạo là trả được bốn ơn lớn này.

Thể hiện lý này, kinh Pháp hoa dạy rằng khi thành tựu quả vị Phật, chúng ta nghĩ đến người có liên hệ với ta, họ sanh ở đâu, làm gì, để có điều kiện thì ta đến cứu giúp họ. Đức Phật nói rằng chín mươi kiếp trước, Kiều Trần Như làm vua, tiền thân Phật làm tiên nhân. Kiều Trần Như là ông vua ác ghét người tu, nên ra lệnh móc mắt, chặt tay Phật. Nhưng tâm từ của Đức Phật rộng lớn vô cùng, Ngài quán tưởng những người thân và người thù đều bình đẳng, cho nên Ngài phát nguyện khi thành Phật, Ngài sẽ tìm độ trước tiên những người thù nghịch Ngài. Tại sao Phật nghĩ như vậy. Vì Phật đang thực hiện hạnh nhẫn nhục cao nhất, nếu không có người hành hạ, làm sao Ngài thể hiện sức chịu đựng cao nhất.

Tu hành theo Phật, ban đầu bị chửi mắng, chúng ta cảm thấy hơi nặng lòng, nhưng về sau, thấy bình thường là biết tâm mình tốt rồi. Bước thứ hai, bị đánh đập, chúng ta vẫn cười được, là sức nhẫn của chúng ta cao hơn. Và bước thứ ba, bị sát hại, lòng chúng ta vẫn thanh thản là đã đạt được nhẫn nhục Ba-la-mật.

Phật quán sát thấy ông vua hung ác giúp Ngài thành tựu nhẫn lực Ba-la-mật, đó là việc khó mà ít ai dám hy sinh làm việc ác này với Ngài, vì ai cũng sợ bị quả báo. Bố thí, cúng dường là việc dễ làm, nhưng sát hại, chửi mắng người tu là việc khó làm. Đối với người thật tu, cần có người sát hại để họ thành tựu pháp nhẫn nhục.

Riêng chúng ta, đối với người ân, mình quý, nhưng với người ác, càng quý hơn. Tuy nhiên, vì mình chưa đủ đạo lực để đạt tới hạnh này, nên dễ nổi nóng là bị đọa. Lịch sử cho thấy điều này. Sáu mươi kiếp trước, Xá Lợi Phất phát tâm tu Bồ-tát đạo, phát nguyện bố thí Ba-la-mật, ai xin gì, ngài cũng cho, nhưng vì ngài chưa đạt tới đạo lực như Phật mà phát nguyện như vậy, rất nguy hiểm. Thật vậy, khi người Bà-la-môn xin mắt, ngài móc mắt cho. Trong lòng ngài nghĩ rằng mình đã phát nguyện như vậy, không cho không được, là tâm còn so đo, tính toán, chưa phải tới chỗ này. Ngài đành bằng lòng cho Bà-la-môn khoét mắt. Vì chưa giải thoát thực sự, nên ngài cảm thấy đau và bực tức, ngài liền thề rằng không hành Bồ-tát đạo nữa, nghĩa là trở lại lòng vị kỷ.

Có đạo hữu đến thăm, thầy hỏi anh còn bố thí không. Anh nói không đi bố thí nữa, vì nó xấu quá. Anh này phát tâm bố thí, cho người dân tộc quà và nhờ họ dẫn đường đi ra, thì họ lại đòi tiền. Anh nói quà mình cho thì họ lấy, mà nhờ chút xíu lại đòi tiền. Thầy nói đạo hữu tức, coi chừng bị đọa, vì mất tâm Đại thừa. Lúc trước có tâm tốt, thích bố thí, nhưng bị chút xíu như vậy mà không bố thí nữa là mất Bồ-đề tâm.

Vì vậy, điều quan trọng Phật tử phải nhớ, làm sao mở tâm mình từng bước, không phải mở một lượt, mở một lượt sẽ không đủ sức chịu đựng nổi. Ban đầu bố thí, vì chúng ta chưa đắc đạo, Phật khuyên rằng những gì người cần, chúng ta không cần, chúng ta cho họ. Người tham thì không cần cũng không cho. Và khá hơn, những gì mình cần, nhưng người cần, sử dụng có lợi hơn mình, thì nên cho. Thứ ba là mình rất cần, nhưng vì tu hạnh bố thí cao, nên sẵn sàng buông hết, để coi lòng cố chấp của mình vào việc giữ của có còn hay không. Vì nếu không buông được, thì cận tử nghiệp đến, tâm sẽ bị kẹt vào vật, không đi được. Quý vị nên quán tưởng như Phổ Hiền Bồ-tát dạy rằng những gì đáng quý trên thế gian còn đem theo được thì nên giữ, những gì của trần gian chúng ta bỏ, vì biết sớm muộn gì cũng phải bỏ, không giữ mãi được.

Tâm từ của quý vị mở rộng đến bao nhiêu, chúng sanh theo tâm từ đó mà đến với quý vị bấy nhiêu. Thực tế cho thấy có người tu, nhưng không ai đến với họ, vì họ cố chấp, không ai ở được với họ, vì họ quá tốt, nên khó tánh. Thí dụ đơn giản như người quá sạch thì người ở dơ không ở chung được. Người ta thường nói nước trong không có cá, người tốt không có bạn. Đó là người cố chấp, không làm được gì.

Nhưng tâm từ mở rộng bao dung, nên có người hỏi làm vậy được không, thầy nói "Cũng được”, nghĩa là chưa được, nhưng… cũng được. Thí dụ nhà tôn nóng, nhưng tu cũng được, vì không được thì cũng phải được thôi, chứ còn cách gì khác. Nếu chúng ta cứ đòi hỏi phải như vầy, như vầy là sai, vì đòi khác không được.

Vì vậy, tầm nhìn theo Phật phải thoáng, phải mở rộng. Theo Pháp hoa, Phật dạy nhìn 84.000 pháp môn đều tốt, thực hành pháp Phật đều là Phật tử. Ý thức sâu sắc lý này, đầu tiên, thầy quan hệ được với chư Tăng Phật giáo Nam truyền một cách dễ dàng. Thầy qua Campuchia, Thái Lan, Lào, các vị Hòa thượng đều tử tế với thầy, vì thầy nhìn các ngài tốt và các ngài cũng nhìn lại thầy tốt, đó là nhờ tâm thầy bao dung. Còn cố chấp, kỳ thị các pháp khác ở ngay trong đất nước của chúng ta mà nghĩ rằng mình tu theo Bắc tông mới đúng, người khác theo Nam tông, hay Khất sĩ không được. Kỳ thị như vậy là tâm ích kỷ, mặc áo Phật, nhưng không có tâm Phật thì hoàn toàn sai lầm.

Đệ tử Phật phải có tâm từ, bao dung, làm lợi ích cho nhiều người. Thể hiện tinh thần này, khi bố thí, Phật giáo chúng ta phát quà không phân biệt tôn giáo, phát quà bình đẳng cho những người khó khăn. Làm như vậy, chúng ta thể hiện tâm Phật là tâm không phân biệt.

Và khi không có tâm phân biệt hệ phái khác, chúng ta tập mở rộng tầm nhìn hơn nữa qua các tôn giáo khác. Riêng thầy, thầy nhìn người tu Hòa Hảo trước, vì nghĩ rằng đạo Phật giáo Hòa Hảo và Phật giáo chúng ta là một, vì họ cũng có chữ Phật giáo, nên không kỳ thị họ. Và đi xa hơn, nhận thấy kinh Hòa Hảo cũng có nhiều ý tưởng mà mình chấp nhận được. Theo kinh nghiệm của thầy, khi có những hiểu biết tốt về người Hòa Hảo, mình nói chuyện, họ dễ nghe. Gần đây, có một người đạo Cao Đài tặng thầy kinh Pháp hoa biên soạn theo họ và nói rằng để thầy xem có phù hợp không. Nghĩa là tâm thầy mở rộng đến người theo đạo Cao Đài, nên họ cũng đến được với thầy, khiến lòng thầy cũng thấy vui, dù họ không phải đạo Phật. Trao đổi với thầy, ông nói đạo Cao Đài cũng thờ Phật Thích Ca, như vậy, mình và họ có chỗ gần nhau. Thầy nói với vị này rằng chân lý là một, nhưng mỗi người có một cách tu riêng; tuy nhiên, trăm sông đều đổ về biển, nghĩa là các pháp môn tu khác nhau, các tôn giáo khác nhau, nhưng ngộ đạo, chứng đạo là một.

Vì vậy, đầu tiên, tâm chúng ta mở bung ra, bao được một tín ngưỡng. Phật nói tâm mở được đến đâu thì người tới với ta đến đó. Đóng kín tâm lại, coi chừng bị cô đơn. Để biết tâm mình đạt đến mức độ nào, hãy coi bên ngoài, thấy người đến với mình bao nhiêu là tự biết tâm mình rộng hay hẹp.

Và kế tiếp, chúng ta tập mở tâm bi. Điển hình là Bồ-tát Quan Âm, nơi nào có người khổ thì ngài đến. Đáng lẽ Đức Quan Âm ở Cực lạc, nhưng Ngài phát tâm đại bi mở rộng đến Ta-bà, vì người ở Ta-bà quá khổ. Phật dạy chúng sanh có khổ, người mới phát tâm thương, không khổ làm sao thương. Thầy để ý thấy khi nghe đồng bào bị bão lụt khổ, Phật tử liền sẵn lòng cho quà và đi cứu trợ.

Riêng chúng ta ban đầu mới phát tâm Bồ-đề, tu tâm bi đầu tiên, mình thương người thân trước, là cha mẹ, vợ con, anh em, bạn bè. Nhưng cũng có người mà cha mẹ, vợ con gần họ nhất, là nội quyến thuộc, họ cũng không thương được, thì họ thương ai. Hoặc có điều dở nữa, tuy là anh em, lại tranh giành của cải, đến giết nhau, vì lòng tham quá lớn khiến mất cả tình anh em.

Có người đến thưa với thầy rằng mẹ của họ xấu lắm, thương người anh mà không thương họ. Khi thầy gặp bà mẹ, thầy hỏi tại sao thương đứa con này, không thương đứa kia. Bà nói con thương nó chứ, vì thuở nhỏ, nó mê gái đến bỏ học, nên bây giờ khổ. Thầy lắng lòng thanh tịnh, thấy khách quan rằng hai mẹ con đều sai lầm. Bà mẹ cũng thương đứa con hư hỏng, nhưng không có cách dạy dỗ, giúp nó nên người, mà trở thành hư hỏng, rồi oán hận mẹ. Phật tử phải nhớ sanh con thì có trách nhiệm nuôi dạy nó. Còn đứa con phải thấy tại mình hư hỏng, bỏ học và tại mình si mê, nên khổ, không phải tại cha mẹ.

Phật tử nên lắng lòng suy nghĩ để hóa giải tất cả những gì không tốt với tất cả người xung quanh là cha mẹ, anh em, vợ con cho đến bạn bè, đó là việc tương đối dễ, lòng bi bắt đầu mở ra tới đâu thì cưu mang giúp đỡ đến đó, nhưng phải có chút trí khôn, không phải giúp là giúp hết.

Có anh đạo Thiên Chúa quý trọng thầy và thưa rằng muốn giúp người em, nhưng cho nó bao nhiêu tiền, nó cũng làm tiêu hết, cũng nghèo khổ. Thầy nói anh theo Chúa, nghĩ rằng Chúa phạt nó, nhưng theo Phật, là tại nghiệp, nghèo là nghiệp.

Người Việt Nam có câu rất hay rằng giúp ngặt, không giúp nghèo. Nghĩa là người gặp hoàn cảnh khó khăn, gọi là ngặt, chúng ta giúp đỡ để họ vượt qua trở ngại, có cuộc sống tốt hơn, nhưng không thể giúp người xóa bỏ được cái nghèo, vì đó là nghiệp của họ. Tuy nhiên, nếu muốn giúp cũng có thể được, nhưng chuyển được nghiệp của người phải từ từ và cũng không đơn giản. Tùy theo nghiệp của họ mà mình chuyển hóa. Thí dụ không đưa tiền cho người đánh bạc. Đối với người mắc nghiệp này, chúng ta giúp bằng cách tìm việc cho họ có thu nhập đủ sống thôi, họ không thể lên được. Còn nghĩ cho họ nhiều tiền để họ làm ăn giàu có, họ lại tiếp tục cờ bạc, vì đó là cái nghiệp của họ mà, tất nhiên, họ không trả được tiền cho mình, rồi sanh ra oán hận, đó là lỗi tại mình. Có trí tuệ, biết rõ cái nghiệp của họ, ta không cho tiền, mà giúp đỡ, tạo điều kiện cho họ cải thiện cuộc sống.

Thầy thấy có người tốt cho tiền để bạn về chùa công quả, vì người này muốn công quả, nhưng không có thì giờ, không có tiền để sống nếu công quả. Khi được giúp như vậy là đã tạo được công việc cho người sống lương thiện và họ cũng thực hiện được ước nguyện công quả. Nhờ có trí tuệ và xử sự tốt, một thời gian sau, anh này phát tâm quy y, trở thành người tốt; nói cách khác, là tạo điều kiện cho người trồng căn lành ở Tam bảo và họ sẽ tiếp tục tu.

Tóm lại, thể hiện lời Phật dạy trong cuộc sống, trí tuệ khai sáng và tâm từ, tâm bi sanh ra là hạnh Bồ-tát được thực hiện từ trong tâm cho đến trải ra ngoài hành động. Tu như vậy, tuy chỉ có Phật và mình biết, nhưng trải qua thời gian sống đúng Chánh pháp, từng bước, không phạm sai lầm, hành giả thăng hoa, tức tâm an lạc và cuộc sống tốt đẹp hơn.

Thứ Hai, 22 tháng 2, 2016

CÓ NHỮNG QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI CÁ NHÂN Ở PHƯƠNG ĐÔNG KHÔNG?




NGUYỄN KIẾN GIANG



I.

Xin bắt đầu bài này bằng một kỷ niệm nhỏ nhưng thật sâu lắng đối với tôi. Hồi đó, cách đây chừng hai mươi lăm năm, sống trong cảnh cô đơn ở một góc núi hiu quạnh, đọc lại tập Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi, lòng xúc động lạ thường. Dường như có một sức mạnh cảm thông vào đó nhấc mình lên thật cao, nhìn thấy sâu hơn, rộng hơn cả một “vùng cô đơn” của con người, và lòng cảm thấy đỡ cô đơn hơn... Nhắc lại kỷ niệm nhỏ ấy, tôi muốn nói rằng trong những khoảnh khắc như thế, cái Tôi của một tác giả lớn sống cách đây năm trăm năm (thời thường được gọi là Trung đại) có thể bằng cách nào đó “nhập” với cái Tôi của người đọc tưởng như có thể hòa chung.

Tôi bỗng hiểu ra một điều: cái Tôi hóa ra không phải là một sản phẩm hiện đại, nó là biểu hiện của ý thức về con người cá nhân và với tư cách đó, có lẽ nó đã xuất hiện từ lâu lắm rồi. Về sau này, khi đọc những công trình tâm lý học, đặc biệt là phân tâm học, tôi lại càng thấy như thế. Ðối với C. G. Jung chẳng hạn, ý thức về con người cá nhân - cái Tôi - xuất hiện rất sớm, khi con người thoát ra khỏi “vô thức tập thể” của một cộng đồng bầy đàn, và cuộc vật lộn của ý thức cá nhân để thoát ra khỏi “vô thức tập thể” ấy vẫn còn kéo dài cho đến tận bây giờ.

Như vậy không có vấn đề “có cái Tôi” hay “không có cái Tôi” trong lịch sử triết học và văn học của các nước phương Tây cũng như của các nước phương Ðông. Cái Tôi - ý thức về con người cá nhân của từng cá nhân - bao giờ cũng tồn tại. Xin nói trước đi một chút: ngay cả những phái triết học hay tôn giáo chủ trương “vô ngã” hay “diệt ngã”, mà Phật giáo là một ví dụ, trước khi làm cho các tu sĩ và tín đồ đạt tới chỗ đó, cũng từng khẳng định và phân tích cái “ngã” một cách thật chi li, đến mắc ngày nay một số nhà tâm lý học phải đi tìm trong văn học Phật giáo những lý giải và phân tích về cái Tôi, cái Siêu Tôi để bồi bổ cho những nhận thức của tâm lý học hiện đại trong lĩnh vực này.[1]

Dù rằng vấn đề đó đã được giải quyết, nhưng cần phải nhắc lại, vì cho đến nay, khi thảo luận về các vấn đề văn hóa, có người vẫn phân biệt “con người cá nhân” thời nay và “con người cộng đồng” thời xưa, hoặc phân biệt “con người cá nhân” ở phương Tây và “con người cộng đồng” ở phương Ðông hiện nay. Về một mặt nào đó, sự phân biệt ấy không sai lắm (nếu xét về mục tiêu tồn tại và hoạt động sống của con người). Nhưng sự phân biệt ấy có cái sai căn bản là phủ nhận sự tồn tại của “con người cá nhân” trong suốt chiều dài lịch sử ở bất cứ phương trời nào.

II.

Xin đi sát hơn một chút vào vấn đề đang bàn: khái niệm “con người cá nhân” ở phương Ðông.

Trước hết, ngay cả khái niệm “phương Ðông”, theo tôi, vẫn là một khái niệm chưa thật chuẩn xác về thời gian và không gian. Phương Ðông là gì, ở đâu? Có lẽ để tiện bàn hơn, ta có thể nói tới một vùng không gian chịu ảnh hưởng của mấy nền triết học lớn thời cổ ở châu á: Nho, Lão và Phật. Khoanh lại như vậy rồi, vẫn chưa nói hết tính phức hợp của chính những triết học lớn ấy. Những quan hệ tương tác, giao thoa, hỗn hợp của chúng, những tiến triển theo thời gian và không gian của chúng - quả thật là những điều không dễ gì phân tích và nhất là khái quát. Không, cái gọi là “văn hóa phương Ðông” hay “văn minh phương Ðông”, hay nói hẹp hơn, khái niệm con người ở phương Ðông, là những tập hợp vô cùng lớn và rất không thuần nhất. Trong lịch sử tư tưởng ở vùng này, đã diễn ra biết bao cuộc tranh luận giữa các triết học ấy và ngay trong bản thân mỗi dòng triết học. Tôi thật vô cùng khiếp sợ khi đứng trước những đống sách báo có liên quan tới vấn đề này, mà những gì tôi thấy được (chưa nói đến đọc được) cũng vô cùng nhỏ bé so với nững gì đã có, đang có. Nhiều lắm mỗi chúng ta cũng chỉ có thể nắm bắt một vài mảng, một vài mảnh nào đó mà thôi. Có lẽ đó là điều mà mỗi người nghiên cứu phương Ðông đều cảm nhận rất rõ, và hẳn đều phải tự nhủ mình tránh tình trạng “thấy rừng không thấy cây” hoặc chỉ “nhìn thấy một vài cây mà không thấy rừng”.

Chỉ lấy một ví dụ: ta thường nói tới “Văn hóa Trung Quốc” và ảnh hưởng của nó đối với các nước chung quanh cũng như đối với nước ta. Trong suy nghĩ của không ít người - trong đó có tôi -, một thời gian dài, khái niệm đó gần như đồng nhất với Nho giáo (hiện nay cũng có nguy cơ đó, khi một số người đề cao Nho giáo như nền tảng tinh thần của quá trình hiện đại hóa ở các nước Ðông Á). Trên thực tế, văn hóa Trung Quốc là một khái niệm rộng lớn hơn nhiều, mà Nho giáo chỉ là một bộ phận (tất nhiên là một bộ phận chủ đạo). Mới đây, trên tạp chí Vostok (Nga), số 3 năm 1992, nhà nghiên cứu M. E. Kharkova công bố một bài viết rất có giá trị: “Tính đa dạng văn hóa tộc người của Trung Quốc thời cổ”. Tác giả nhấn mạnh: vào thời Hán (thế kỷ II trước CN - thế kỷ II sau C.N.), nền văn hóa Trung Quốc là một tập hợp của một vài truyền thống văn hóa tộc người lúc đầu khác nhau, trong đó có hai “chất nền” chủ đạo: “trung tâm” và “phương nam” - thừa hưởng hai truyền thống văn hóa lớn của nước Chu và nước Sở Về đại thể, truyền thống văn hóa Chu kết tinh ở Khổng giáo, còn truyền thống văn hóa Sở kết tinh ở Lão giáo. Văn hóa Hán chính là sự tổng hợp của hai “chất nền” văn hóa vừa độc lập vừa giao nhau này.

Hai “chất nền” văn hóa nói trên mang những định hướng khác nhau và đối lập nhau.

Thứ nhất, về những quan niệm vũ trụ, truyền thống văn hóa Chu (“chất nền” trung tâm) có mấy đặc điểm: Phân bố không gian theo bốn phần, có trung tâm ở chính giữa; đối lập trung tâm với ngoại vi như văn minh với dã man. Ðó là mô hình thế giới “theo chiều ngang”. Trong bốn phương, phương Nam được coi là thiêng liêng (chưa rõ nguyên nhân), còn phương Tây thì được coi là “xứ sở tăm tối”. Trong khi đó, truyền thống văn hóa Sở lại cấu trúc không gian theo “trục Ðông - Tây”, và phương Tây được coi là thiêng liêng (vừa là xứ sở của cái chết, vừa là nguồn bất tử).

Thứ hai, quan niệm vũ trụ có liên quan mật thiết với những quan niệm tôn giáo. Văn hóa Sở thờ cúng Thánh Mẫu (Tây Vương Mẫu) gắn liền với tư tưởng về sự bất tử, do đó mang tính chất huyền thoại. Còn văn hóa Chu thờ quyền lực tối cao của Thánh Vương, tạo ra nền tảng cho lý thuyết về “nước” (quốc gia) sẽ được Khổng giáo phát triển về sau này thành khái niệm “lễ” (sách Lễ ký). Từ đó, tâm thức của hai truyền thống văn hóa ấy cũng khác nhau. Truyền thống Chu chú trọng tới hoạt động tạo dựng tích cực và nhằm thiết lập trật tự trong thiên hạ, biểu hiện trước hết ở những nghi lễ cũng như ở những công trình xây dựng đô thị không chỉ mang ý nghĩa thực tiễn mà còn mang ý nghĩa phương thuật - nghi lễ.

Thứ ba, về các quan hệ “con người - xã hội”, văn hóa Chu đặt quyền lợi xã hội lên trên, và các cá nhân chủ yếu được xem xét về mặt sinh hoạt xã hội của nó - từ đó mà đề cao đạo đức, còn những vấn đề bản thể của con người (sống và chết, chẳng hạn) thì nằm ngoài sự chú ý của Khổng giáo. Trái lại, “chất nền” phương Nam lấy việc hướng vào bên trong con người là chính. Nó tập trung vào việc thỏa mãn những nhu cầu tinh thần của cá nhân và giải quyết những vấn đề của cá nhân (phải chăng vì thế mà một số nhà nghiên cứu phương Tây cũng như Phùng Hữu Lan, nhà triết học nổi tiếng của Trung Quốc đầu thế kỷ XX, đã nói tới một thứ “chủ nghĩa cá nhân” nào đó, bắt nguồn từ chất nền văn hóa này?). Lý tưởng tuyệt đối của nó là “tính tự nhiên” của tất cả những gì hiện có. Tất cả những gì có liên quan với văn minh bị coi như sự vi phạm bản chất ban đầu của từng cá nhân cũng như của cả cộng đồng. ý niệm về bất tử là cái mà nó luôn luôn theo đuổi. (Chính ý niệm này về sau được Ðạo giáo - như một thứ tôn giáo không có liên quan mấy với triết học Lão Tử - tiếp nhận và biến thành cơ sở của nó).

Thứ tư, hai “chất nền” này có những thái độ ngược nhau đối với đời sống thầm kín (tính dục) của con người và đối với phụ nữ. Văn hóa phương Nam vun xới sự quí trọng phụ nữ, vì phụ nữ đẻ ra sự sống mới và gần gũi với thiên nhiên hơn đàn ông. Nhiều huyền thoại của nó kể về các quan hệ tính dục giữa người đàn ông trần tục với người đàn bà tiên thánh. ý nghĩa của quan hệ tính dục rất được coi trọng trong sự hòa hợp âm - dương. Cái “dâm” được hiểu như một nghệ thuật (thuật) hay một học thuyết (kinh), và được coi như một thứ “đạo” và trong thứ “đạo” này người phụ nữ đóng vai trò chủ động. Văn hóa tính dục được hoàn thiện, và về mặt này không có hạn chế đạo đức nào, tự do tính dục được hoàn toàn thừa nhận cho cả nam lẫn nữ. Trong khi đó, hành vi tính dục lại được văn hóa “trung tâm” khoác cho một ý nghĩa thiêng liêng, như sự bắt chước Trời và Ðất giao nhau, nhưng khác với phương Nam, các quan hệ này mang ý nghĩa xã hội quan trọng, vì nó hướng tới sự duy trì trật tự thế giới cũng như bảo đảm sự yên ổn vủa quốc gia. Không phải Khổng giáo coi các quan hệ đó chỉ có những mục đích thực dụng (để sinh con đẻ cái, nối dõi), hay chỉ như một thứ “nghĩa vụ” của người dân, nhưng rõ ràng nó đã vạch ra những giới hạn nào đó (đàn ông không thể có quan hệ tính dục ngoài gia đình, đó là để củng cố đạo đức gia đình và xã hội; phải kìm hãm mọi xúc cảm trong quan hệ với đàn bà). Ðối với đàn bà, Khổng giáo có sự đánh giá hai mặt: một mặt, coi người đàn bà là người giữ tổ ấm gia đình, là mẹ và người giáo dục con cái, người nội trợ và người giúp chồng về sự nghiệp; mặt khác, họ bị coi như kẻ mang những sức mạnh hỗn loạn có hại. Vì thế Khổng giáo yêu cầu phải tuân theo đạo lý trong quan hệ với phụ nữ, không để bị lôi cuốn về mặt tình cảm (những xúc cảm tính dục bị coi như bản năng thú vật).

Cuối cùng là sự khác nhau giữa hai “chất nền” văn hóa ấy về ngôn từ, văn tự và thi ca. ở văn hóa “trung tâm”, ngôn từ được coi là có sức mạnh thần diệu, nhất là khi nó mang hình thức văn tự. Ngôn từ thuộc về “lễ” và dùng ngôn từ là thực hành một “nghi lễ”. Quan niệm về thi ca (thi) của Khổng giáo cũng bắt nguồn từ đó (thinói lên chí của người quân tử). Văn chương không chỉ là giãi bày những gì mỗi cá nhân trải qua, mà phải thể hiện “chí” của cộng đồng. (Truyền thống cá nhân hóa văn chương trữ tình chỉ được khẳng định vào thế kỷ III sau CN). Trong khi đó văn hóa phương Nam coi trọng tính phi ngôn từ, vì không thể dùng lời mà truyền thụ tri thức và xúc cảm được (Ðạo khả đạo phi thường Ðạo: Ðạo mà ta có thể gọi được, không phải là Ðạo). Không phải ngẫu nhiên mà toàn bộ triết lý của văn hóa phương Nam này chỉ được gói gọn vào vài trăn câu Ðạo đức kinh và Nam Hoa kinh. Hiểu thế giới không phải bằng ngôn từ lôgic mà phải bằng trực giác cảm tính.

Tất cả những phân tích vừa nói đúng đến đâu, điều đó có thể còn tranh cãi. Có một điều khá chắc chắn: cái mà ta thường gọi là “văn hóa” hay”văn minh Trung Quốc” thật ra là một tập hợp lưỡng nguyên, và khi nói tới ảnh hưởng của nó đối với văn minh Cổ đại hoặc Trung đại ở nước ta, phải tính đến toàn bộ tập hợp ấy, không chỉ chú trọng tới Khổng giáo. Theo tôi, cả Khổng giáo lẫn Lão giáo (xin phân biệt với Ðạo giáo về sau) có tác động sâu sắc ngang nhau đối với văn hóa Việt Nam ngày xưa. Mức độ ảnh hưởng của từng trào lưu có thể khác nhau đối với từng thời kỳ và từng tác giả, nhưng nhìn chung là thế.

Và đó là điều cần chú ý khi bàn về khái niệm con người cá nhân trong văn học cổ.

III.

Như đã biết, ngoài Khổng giáo và Lão giáo ra, Phật giáo cũng góp phần rất sâu sắc vào quan niệm về con người cá nhân ở phương Ðông. Ðến nay, có lẽ có ít ai cho rằng Phật giáo không có quan niệm riêng về con người cá nhân. Ðúng, Phật giáo là một tôn giáo (thật ra là một triết học) chủ trương đi tới Vô Ngã (Anatman). Triết lý về Vô Ngã là một trong những lý thuyết trung tâm của Phật giáo. Ðối với nó, mọi sự vật đều mang ba đặc trưng cơ bản: Tạm thời (Anitya, vô thường), Ðau khổ (Duhkha) và Vô Ngã (Anatman), mà đặc trưng thứ ba là quan trọng nhất và cuối cùng. Triết lý Vô Ngã phủ nhận sự tồn tại của một cái Ngã cá nhân, coi cái tôi chỉ là một nhân cách kinh nghiệm, hay nói theo thuật ngữ Phật giáo, là một tập hợp (ngũ uẩn) tạm thời, không thường hằng, do đó, đau khổ. Ngã không thể là bất tử, mà là một tồn tại ước lệ, là kết quả của kinh nghiệm thường ngày. Tất cả những nỗ lực của giới tu hành và tín đồ Phật giáo đều nhằm tới cái đích xóa bỏ Ngã, xóa bỏ những nguyên nhân và điều kiện đem lại đau khổ và sự tồn tại tạm thời của con người, để đạt tới trạng thái Vô Ngã, đồng thời cũng là trạng thái Giải thoát. Walpola Rahula, một Phật tử và một nhà nghiên cứu Phật giáo có uy tín, phân tích rất rõ về điều đó: “Chỉ duy nhất có Phật giáo trong lịch sử tư tưởng loài người đã đứng lên phủ nhận sự tồn tại của một Linh hồn như vậy của Ngã. Theo lời Phật giảng, ý tưởng về Ngã là một sai lầm và tưởng tượng, không hề phù hợp chút nào với hiện thực và đó la nguyên nhân gây ra những ý nghĩ nguy hiểm về “cái tôi” và “của tôi”, những ham muốn vị kỷ và vô độ, những ràng buộc, những căm ghét ác tâm, những ý niệm kiêu căng và những xú ố, dơ bẩn và những điều khác. Nó là nguồn gốc rối loạn của thế giới...”[2].

Nhưng chính vì đi tới Vô Ngã mà Phật giáo, như đã nói, phân tích rất kỹ về Ngã. Không ai cảm thấy rõ hơn Phật về sức mạnh tự bảo vệ và tự duy trì của Ngã. Cũng không ai cảm thấy rõ hơn Phật về sự “khủng khiếp” của một người bình thường khi bỗng nhiên thấy mình không còn Ngã (“ta sẽ không còn nữa, ta sẽ không có nữa”). Một người bình thường chỉ cần nghĩ rằng: “Thế là ta sẽ bị tiêu tan, ta sẽ bị hủy diệt, ta sẽ không còn nữa”, là anh ta hoảng hốt, rên rỉ, đấm vào ngực khóc lóc và trở nên đờ đẫn. Song đối với người theo Phật giáo, một quá trình “biện chứng” diễn ra trong tâm thức anh ta, không thể tránh được, như một nghịch lý: càng hướng tới Vô Ngã thì ý thức về Ngã càng mạnh. Ðó là cái Phật giáo gọi là “Ngã ngã sở” như một phản ứng mạnh mẽ đối với Vô Ngã (“Lìa ta thì chúng sinh đều không, lìa cái của ta thì các pháp đều không cả” - Tăng Triệu, hoặc “Ngã chấp” (chấp trước vào cái ta). Hoặc “Ngã ái” (yêu cái ta). Nói cách khác, trước khi đạt tới Vô Ngã, ý thức về Ngã được khẳng định hơn bao giờ hết. và cho đến khi đạt tới Vô Ngã, ý thức về Ngã vẫn không tiêu vong, nó chỉ đổi dấu, từ dấu + chuyển sang dấu -. Bởi vì khi Ngã bị trừ diệt cũng là khi Ngã được giải thoát. Mục đích cuối cùng của Ngã đã đạt được, ở cõi Vô Ngã. Không phải không có căn cứ khi có người nói rằng đạo Phật chính là đạo “cá nhân chủ nghĩa” nhất, tất nhiên không phải là hiểu theo nghĩa xấu, mà là hiểu theo nghĩa mục tiêu cuối cùng của người theo Phật giáo là giải thoát cho cái Tôi. (Theo lý thuyết Phật giáo, chỉ khi nào hóa thành Phật mới có khả năng cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh, nghĩa là đem lại lợi ích cho đồng loại (các bồ tát), còn chừng nào chưa đạt tới đó thì sự giải thoát chỉ là riêng (các a la hán). ở đây chúng ta không thảo luận về nội dung đích thực của Ngã là gì đối với Phật giáo vì Phật giáo không thừa nhận Ngã và cho rằng chỉ khi nào một người không nhìn thấy Ngã, không có ý thức về Ngã, tức là cái không hề có ấy, chỉ khi đó mới tự giải thoát. ở đây tôi chỉ muốn đứng về mặt khoa học để tìm hiểu cơ chế đi từ Ngã đến Vô Ngã, biến cái có thành cái không có. Dù cho cái có ấy là “giả” đi nữa, thì trong đời sống hiện thực nó vẫn tồn tại.

Vì vậy, dù Phật giáo có phủ nhận Ngã, tức là phủ nhận con người cá nhân, thì con người cá nhân vẫn tồn tại như một tiền đề và như một cứu cánh. Phải chăng chính vì thế mà có một sự hòa nhập giữa Nho giáo và Phật giáo trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cũng như Việt Nam? Ðó là một câu hỏi khá lý thú đặt ra về mặt học thuật. Mà câu trả lời có thể tìm thấy ở Trúc lâm tông chỉ nguyên thanh, ở đó Ngô Thì Nhậm thực hiện thật xuất sắc phương châm “Khu Thích dĩ nhập Nho” (Ðưa đạo Phật vào đạo Nho).

IV.

Một cái nhìn lướt nhanh - và vì lướt nhanh, không thể không sơ lược - như được thể hiện trên đây liệu có đủ căn cứ để nói tới những khái niệm về con người cá nhân ở phương Ðông ngày xưa? Ý thức về con người cá nhân, dù để khẳng định nó hay để phủ định nó, hay để không khẳng định cũng không phủ định nó, là một điều hiển nhiên ở phương Ðông hay ở phương Tây, hay ở một chân trời nào khác. Ðiều quan trọng hơn nằm ở chỗ khác: không có một quan niệm đồng nhất và thống nhất về con người cá nhân, mà có nhiều quan niệm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Chỉ lấy ba trào lưu lớn nhất của triết học phương Ðông, ta thấy quan niệm về con người cá nhân của Nho, Lão và Phật đã hết sức khác nhau rồi. Với những gì đã trình bày, tôi tưởng rằng đó cũng là một điều hiển nhiên.

Vậy thì, những quan niệm về con người cá nhân của phương Ðông có cái gì giống nhau không? Có thể nói tới một mẫu số chung nào đó của chúng không? Những câu hỏi ấy được đặt ra là vì, theo tôi, người ta thường đem so sánh, đối chiếu những quan niệm đó với những quan niệm được gọi là của phương Tây. Thật ra, nếu xem xét kỹ các trào lưu triết học và tôn giáo của phương Ðông và phương Tây, có thể thấy những điểm giống nhau nào đó mà không hẳn trái ngược nhau. Bởi vì trong tiến tình vận động của tư tưởng loài người, nếu xét từ những thời xa xưa nhất, thì phương Ðông và phương Tây có không ít những điểm giống nhau (chưa nói tới những trào lưu này có khi cùng có một nguồn gốc chung nào đó. (Mới đây, một vài nhà nghiên cứu đã chứng minh rằng Kitô giáo là một nhánh có cùng một nguồn gốc với các tôn giáo phương Ðông, nếu đó là sự thật thì cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả). Bất cứ ở đâu, ý thức con người (tức là từ khi con người có ý thức) cũng đều có những đối tượng giống nhau: cuộc sống con người (cá nhân và cộng đồng), vũ trụ và nhận thức, hay nói theo Phùng Hữu Lan, nhân sinh luận, vũ trụ luận và tri thức luận. Và vì cuộc sống con người và nhận thức của nó, cũng như vũ trụ xung quanh con người, thật ra không có gì khác nhau căn bản giữa các vùng trên trái đất, nên không thể không có những điểm tương đồng, tất nhiên đó là những tương đồng trong những khác biệt, gắn liền với những khác biệt. Vai trò của các bậc hiền triết mà Platon thời cổ Hy Lạp đặc biệt đề cao về căn bản cũng chẳng khác gì mấy vai trò của những thánh nhân (theo quan niệm Nho giáo), hay của những bậc Ðại giác (theo quan niệm Phật giáo). Cơ chế tâm lý của một người điên ở châu Phi hay của một người điên ở châu Âu, chẳng hạn, cũng không có gì khác nhau lắm dưới ánh sáng của tâm bệnh học. Ðiều đó giải thích rất rõ hiện tượng người phương Tây đi tìm những nguồn nhận thức ở người phương Ðông (đang thịnh hành hiện nay) cũng như người phương Ðông đi tìm những kho tri thức khoa học - kỹ thuật phương Tây (cũng rất thịnh hành hiện nay). Nhân đây, xin phép được bác bỏ thái độ tự cao tự đại của một số “nhà tư tưởng” nào đó ở một số nước Ðông Á, coi những giá trị phương Ðông cao hơn những giá trị phương Tây trong khi chính họ đang học và học rất nhiều ở phương Tây trong tiến trình hiện đại hóa đất nước mình. Khuynh hướng “tự tôn khu vực” này chẳng hứa hẹn điều gì hay ho cả, nó chỉ góp phần tạo ra và đẩy sâu hơn những khác biệt trên thể giới ngày càng được cảm thấy rất bé nhỏ này.

Chỉ nhìn vào khuynh hướng của một trào lưu nào đó ở phương Ðông và của một trào lưu nào đó của phương Tây, rồi khái quát hóa thành những bản chất riêng của tư tưởng mỗi khu vực, đem đối lập chúng với nhau, kiểu như phương Tây “chủ biệt”, phương Ðông “chủ toàn”, đó quả là một việc làm thiếu suy nghĩ đầy đủ. Bởi vì những khác biệt ấy cũng có ngay bên trong mỗi khu vực, thậm chí mỗi nước. Về điều này, Phùng Hữu Lan có một sự phân tích rất hay: “Nhiều người bảo rằng triết học Trung Quốc là triết học thế gian... Nhưng đấy chỉ là cái nhìn sơ sài về vấn đề. Ta không thể hiểu triết học Trung Quốc một cách giản đơn như vậy. Trong bản chất truyền thống thì triết học Trung Quốc không hoàn toàn thuộc về triết học thế gian hay xuất thế gian. Nó thuộc về cả hai. Một đạo học gia đời Tống đã nêu rõ đặc tính triết học Trung Quốc như sau: “Nhật dụng thường hành nào xa cách - Tiên thiên vị hoạch vội đến ngay”. Chính trong mục đích ấy mà triết học Trung Quốc nhắm tới. Với tinh thần ấy, nó vừa rất lý tưởng đồng thời cũng rất hiện thực và hoàn toàn thực dụng, mặc dầu không thiển cận”.[3]

Người viết những dòng này đã đi lạc vấn đề rồi chăng? Không. Tôi chỉ muốn nói rằng, đừng nên đem đối lập một cách tuyệt đối giữa phương Tây và phương Ðông (để tự ti hay tự tôn, như trong lịch sử đã có nhiều ví dụ). Những khác biệt là có thật, nhưng chỉ có ý nghĩa tương đối. Và chỉ với ý nghĩa đó, chúng ta có thể và nên bàn tới những khác biệt, ở đây là những khác biệt về con người cá nhân ở một thời kỳ phát triển lịch sử nào đó.

Những điểm chung (hay mẫu số chung) của những quan niệm về con người cá nhân ở phương Ðông là những gì? Một cách thật sơ lược, có thể nêu lên mấy điểm sau đây:

Thứ nhất, con người cá nhân ở phương Ðông không tìm cách đối lập với tự nhiên, ngược lại, cố gắng hòa với tự nhiên. ở phương Ðông, không có một Ðấng sáng tạo, một Chúa tể thế giới, tương tự Ðức Chúa Trời của Kitô giáo ở phương Tây. Ta không đọc thấy ở Nho giáo, Lão giáo hay Phật giáo một Ðấng sáng thế nào như thế cả. Khái niệm Trời, để từ đó mà có sự đề xướng “theo mệnh trời”, trong Nho giáo chẳng hạn, không được nhân cách hóa thành một Ðấng sáng thế. Trời là một khái niệm siêu hình, chỉ những sức mạnh nằm bên ngoài và vượt ra khỏi những sức mạnh ý chí của con người. Theo Mạnh tử, “biết Trời” tức biết ta là “dân Trời” (thiên dân) để làm điều nhân, đạt tới sự cao cả của con người. Còn trong Lão giáo, con người phải sống theo Ðạo, ứng xử tốt nhất của con người là “vô vi” (không phải với nghĩa không làm gì, mà chỉ có nghĩa là làm ít đi, là hành động không giả tạo và bị cưỡng chế vì giả tạo và cưỡng chế là trái với tự nhiên). Phật giáo không bàn về Thượng đế, chỉ bàn tới Chân lý cuối cùng, về sự giác ngộ chân lý đó, hòa mình với chân lý đó. Thế giới chứa đầy mọi sinh linh, mà đối với mỗi sinh linh ta đều phải tôn trọng, phải thông cảm, nên cũng không thể có sự chống lại vũ trụ hay làm chủ vũ trụ. Nói chung, khác với các thuyết lấy con người làm trung tâm (anthropocentrisme), các triết học phương Ðông coi con người chỉ là một bộ phận của vũ trụ, của tự nhiên và phải hòa chung vào tự nhiên.

Quan niệm về con người và tự nhiên ấy có một ưu điểm rất lớn: sự tôn trọng tự nhiên như vốn có. Ngày nay, ở phương Tây, phái sinh thái học và giới khoa học nói chung đang tiến tới quan niệm ấy trên cơ sở những dữ kiện và phân tích khoa học (có thể coi đó là trở lại với quan niệm phương Ðông nhưng trên một cơ sở khoa học - duy lý tỉnh táo hơn).

Thứ hai, con người cá nhân ở phương Ðông trong các quan hệ với xã hội không phải chỉ hướng theo một vec-tơ đặt xã hội lên trên cá nhân, như có người tưởng. (Thoạt nhìn là như thế, nhưng đi sâu hơn, không hoàn toàn như thế). Ðúng là Nho giáo chủ trương đặt cá nhân vào những mối lệ thuộc vào các quan hệ xã hội rộng lớn hoưn, nhưng Nho giáo không bao trùm toàn bộ tư tưởng phương Ðông. Và ngay trong Nho giáo, cá nhân không bị triệt tiêu bởi lợi ích của cộng đồng, của xã hội. Nho giáo đề xướng một tôn ti trật tự chặt chẽ, tương ứng với tổ chức xã hội Trung Quốc thời cổ. Qui định vị trí của mỗi cá nhân và xác định thứ bậc giữa các cá nhân. Nhưng ở đây, cần thấy rõ ràng Nho giáo đề cao sự rèn luyện cá nhân (tu thân) như một tiền đề để cá nhân làm đúng vị trí của mình. Nghĩa là cá nhân càng tự giác bao nhiêu về vị trí của mình thì càng phải tu thân bấy nhiêu để giữ đúng vị trí ấy. Ở đây, những quan hệ cá nhân - xã hội theo hướng cá nhân phục vụ (và phục tùng) xã hội, “cá nhân cho xã hội”, không dựa trên sự cưỡng chế, mà dựa vào sự tự giác của cá nhân. Tất nhiên, về mặt chính trị và xã hội, có những bó buộc rất chặt chẽ, bởi vì chế độ chuyên chế thì ở đâu cũng vậy. Nói theo Marx, nguyên tắc cao nhất của chế độ chuyên chế là triệt tiêu con người với tư cách cá nhân. Nhưng xét về mặt ý thức con người, thì cá nhân không phải là đối tượng triệt tiêu, trái lại, là đối tượng giáo hóa, đối tượng “lễ” hóa. Trong lịch sử phương Ðông (đặc biệt ở các nước chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, không hiếm những tấm gương tự nguyện hy sinh cá nhân cho những lợi ích xã hội. Không cần phải “vua bảo chết, thần chết”, mà chính thần dân nhiều khi chịu chết một cách tự nguyện vì vua. Vì theo quan niệm Nho giáo, vua là “con trời”, là “cha của thiên hạ”. Chết vì vua không phải là chết cho cá nhân nhà vua, mà chết cho lý tưởng xã hội kết tinh ở ngôi vua.

Nhưng, như đã nói trên, mối quan hệ cá nhân - xã hội không chỉ đi theo vec-tơ ấy. Còn có một vec-tơ ngược hẳn lại, mà Lão giáo là tiêu biểu. Thật ra, Lão tử là người kế thừa những tư tưởng “vị ngã” cực đoan của Dương Chu, người được Mạnh tử tóm tặt nhân sinh quan một cách ngắn gọn: “Dương Chu chủ vị ngã. Nhổ một sợi lông mà lợi cho thiên hạ cũng không làm”. Tư tưởng “khinh vật trọng sinh” ấy thấm rất sâu vào những tác giả theo phái này. Chính tư tưởng này qui định nhân sinh quan “lánh đời” để giữ mình và tránh điều hại. Nhưng người theo tư tưởng này thường thích ở ẩn (nơi sơn lâm cùng cốc), trốn xã hội, và như vậy là để tránh mọi nổi khổ của nhân thế. Có lẽ thời đại xuất hiện của phái này đầy rẫy những mối hiểm nguy bất trắc cho con người có học muốn “giúp nước phò vua”, chí ít tình trạng xã hội nhiễu nhương cũng làm cho họ chán ngán. Và họ chủ trương “vị ngã” bằng cách rút lui khỏi thế sự. Nhưng sự rút lui về cá nhân mình theo lối tách rời mọi quan hệ xã hội, như cuộc sống cho thấy, là không thể thực hiện được, là ảo tưởng. Cũng ảo tưởng như quan niệm nhập thế tuyệt đối của Nho giáo. Con người, dù ở thời đại nào, bao giờ cũng phải tạo được một sự cân bằng tâm thần (équilibre psychique) để có thể tồn tại bình thường. Không ai cứ “ra” mãi. Cũng không ai cứ “về” mãi được. Chính vì thế, con người cá nhân phương Ðông luôn luôn đi tìm sự cân bằng ấy. Một vài nhà nghiên cứu đưa ra một nhận định có cơ sở: các nhà nho thời xưa, khi ra phò vua giúp nước thì theo Nho, khi bất lực chán chường thì theo Lão. Có lẽ nói như thế này thì đúng hơn: hai tâm thế ngược nhau này luôn luôn tồn tại ở mỗi con người, khi thì cái này trội hơn cái kia, khi thì ngược lại. Cả hai nằm trong một thể thống nhất của con người cá nhân, biến hóa rất linh động có khi trong cùng một thời điểm, thậm chí trong cùng một khoảnh khắc. Có như thế mới giải thích được tại sao ở cùng một tác giả, ngay giữa lúc tham dự triều chính hết sức bận rộn, cũng tìm được một phút “rút lui” về bản thân mình. Phải chăng có thể thấy được hai thứ tâm thế ấy xen kẽ nhau trong bài thơ “Ðề điểu hô nhân đồ” (Ðề bức hoạ “Chim núi gọi người”) của Nguyễn Trãi (xin tạm dịch dưới đây)?

Vắng vẻ rừng sâu chim gọi người,
Ngắm tranh tưởng thấy thực trên đời,
Lui triều trưa rỗi treo lên cửa
Vườn cũ xuân về mộng đó thôi

Hay bài “Ðề Ðông sơn tự” cũng của ông:

Nỗi lòng canh cánh chữ quân thân
Lỗi hẹn nguyền xưa thẹn suối rừng
Ba mươi năm lẻ đời trong mộng
Mấy tiếng chim kêu đánh thức lòng[4]

Chừng nào đó, Phật giáo cũng đóng một vai trò gần giống như Lão giáo đối với sự cân bằng tâm thần của con người cá nhân phương Ðông ngày xưa.

Thứ ba, quan niệm con người cá nhân ở phương Ðông đặc biệt nhấn mạnh đời sống tâm linh của chủ thể. Nhận thức của con người về chính bản thân mình không chỉ là nhận thức về những hoạt động sống (đời sống hiện hữu) mà cả về hoạt động tâm linh suy tưởng. Vấn đề không chỉ là coi trọng mặt tinh thần của đời sống, như trau dồi cho mình những đức tính cần thiết. Con người cá nhân phương Ðông ở chiều sâu nhất của nó là con người hướng thượng, hướng thiện, hướng tới cái thiêng liêng và siêu việt. Ðó có thể là “mệnh”, là “đạo”, là “vô thượng”... tùy theo quan niệm của mỗi trào lưu tư tưởng lớn, có khi là tất cả những cái đó, nhưng bao giờ đó cũng là mối ưu tư lớn nhất của con người cá nhân phương Ðông. ở phương Ðông, hình như vấn đề “ý nghĩa cuộc sống” ít được đặt ra (như hiện nay ở phương Tây người ta thường nói tới một biến đổi lớn: từ “xã hội tiêu dùng” sang “xã hội tìm ý nghĩa cuộc sống”). Không phải ở phương Ðông người ta không quen đặt ra những câu hỏi trừu tượng mang tính bản thể luận, như có người nhận xét, mà là vì vấn đề đó đã được giải quyết từ xa xưa, giải quyết đến một chiều sâu ý thức mà sau này không cần phải đặt ra nữa. Con người cá nhân phưong Ðông tỏ ra ít băn khoăn về những nguyên ủy và cứu cánh của cuộc đời con người, của vũ trụ..., mà đó chính là lý do khiến một số người phương Tây nói tới chủ nghĩa thực dụng của con người phưoưng Ðông. Thật ra, đó chỉ là nhìn bề ngoài, nhìn vào một khoảnh khắc mà chưa phải nhìn tận chiều sâu và nhìn vào cái thường hằng của con người phương Ðông. Có thể trong một số thời điểm nào đó, mặt “thực dụng” nổi trội lên khi con người phải đương đầu với những nhu cầu sống tối thiểu của mình (khi đó mặt “đời sống hiện hữu” không thể không được đặt lên hàng đầu), nhưng chỉ cần trở lại bình lặng một chút trong cuộc sống cá nhân và cộng đồng thì mặt “tâm linh” lại nổi lên mạnh mẽ, bùng cháy như một ngọn lửa khó dập tắt.

Còn có thể nêu lên những nét khác nữa của con người cá nhân phương Ðông, nhưng theo tôi, đó là những nét đậm nhất, sâu nhất. Tôi không nói rằng những nét đó chỉ thấy có ở con người cá nhân phương Ðông; những nét đó từng là, đang là và sẽ là của mọi con người cá nhân trên thế giới. Nhưng rõ ràng chúng biểu hiện khá rõ, khá vững bền ở phương Ðông. Tôi cũng không nói rằng, với những nét đó, con người cá nhân phương Ðông “cao hơn” con người cá nhân phương Tây, như có người đang cố chứng minh. Xét trong toàn bộ tiến trình lịch sử loài người, “cao hơn” hay “thấp hơn” là những phạm trù rất tương đối. Chẳng hạn, nếu xét trên các bình diện phát triển khoa học - kỹ thuật, kinh doanh, dân chủ v.v... thì với những nét nói trên, không thể nói tới trình độ cao hơn của người phương Ðông được. Mỗi khu vực, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, nói rộng ra, mỗi nền văn minh đếu có những ưu thế và những chỗ yếu của nó: “cao hơn” về mặt này thường đi đôi với “thấp hơn” về mặt khác.

V.

Xin nói đôi lời về “bóng dáng” con người cá nhân phương Ðông trong văn học nước ta ngày xưa. Tuy văn học phản chiếu những quan niệm triết học, thậm chí có những trường hợp “văn - sử - triết bất phân” như người ta nói, nhưng văn học bất cứ thời nào cũng không phải là triết học, sử học. Nghệ thuật là thế, nó có một bản chất độc lập khác thường. Mọi việc gán cho văn học những quan niệm triết học một cách đơn giản đều sai lầm, cũng giống như mọi ý định rút những quan niệm triết học từ các tác phẩm văn học. Ðiều này chỉ đúng về căn bản đối với thứ văn chương thù tạc, ca tụng, mà người ta có thể đọc thấy rất rõ ở đó thứ triết lý “khuôn phép” (conformisme). Và chắc các bạn dễ dàng đồng ý với tôi rằng thói khuôn phép chưa bao giờ là một quan niệm triết học cả.

Tác phẩm văn học là một cơ thể sống được cá tính hóa ở mức cao nhất và khó lòng làm những thao tác phân tích theo sơ đồ. Dù sao, bằng cách này hay cách khác, cũng có thể nắm bắt được “bóng dáng” của những quan niệm triết học nào đó qua các tác phẩm văn học một thời nào đó, ở một địa bàn nào đó. Những quan niệm về con người cá nhân phương Ðông ít hay nhiều cũng ẩn hiện trong những tác phẩm văn học Trung đại ở nước ta và có lẽ không chỉ ở đó. Cả ngày nay nữa, trong tác phẩm này hay tác phẩm khác, vẫn có thể thấy được ảnh hưởng sâu và bền của những quan niệm đó.

Nhưng một lần nữa, xin đặc biệt nhấn mạnh: không thể qui con người cá nhân phương Ðông thành một số đặc trưng đơn giản và thuần nhất. Không, chúng ta cần tránh lối làm quen thuộc là lập ra một sơ đồ khái quát về con người cá nhân phương Ðông, từ sơ đồ “không có con người cá nhân” đến sơ đồ “có một khuôn mẫu cá nhân” cứng nhắc, thậm chí đến những tên gọi có vẻ hấp dẫn nhưng thiếu căn cứ như “chủ nghĩa cá nhân tiểu nông”, hay “cái tôi nhà Nho” với những định ngữ “cô đơn”, “tách ra khỏi cuộc sống xã hội”, “đứng bên ngoài”, “tiêu cực”, thậm chí “phản động”, v.v…

Trong bài này, nếu có đụng tới một số quan niệm nào đó về con người cá nhân phương Ðông, thì đó không phải là để lập ra một “sơ đồ” khép kín, mà như các bạn thấy, chính là để gợi mở, xới xáo ra một số vấn đề với tất cả những mâu thuẫn, những phóng chiếu vô cùng phức tạp của chúng. (Còn làm được điều đó đến đâu lại là chuyện khác, không chỉ vì “lực bất tòng tâm” mà cũng rất có thể lại rơi vào những sai lầm mình muốn tránh.

Một điều tôi cảm thấy rất rõ: những tác phẩm văn học lớn ngày xưa cho đến tận ngày nay vẫn còn làm mình rung động. Cái kỷ niệm nhỏ mà tôi có nhắc tới khi mở đầu bài này có sức âm vang đến tận hôm nay và chắc chắn đến tận cả khi mình không còn trên mặt đất này nữa.

Tháng năm 1995



Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 1 năm 1996, sau đó được in vào sưu tập Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1997. Phiên bản điện tử: talawas.org




[1] Xin xem Luong Can Liem: Bouddisme et psychiastrie (Phật giáo và tâm bệnh học), L’Harmattan, Paris, 1992.


[2] Walpola Rahula, Lời Phật dạy, Nxb Mũi Cà Mau, 1994, tr. 108.


[3] Phùng Hữu Lan, Ðại cương triết học sử Trung Quốc (tài liệu của Ðại học Sư phạm Huế), 1966, tr. 23-24


[4] Xem Nguyễn Trãi Toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977, tr. 330-331.

Thứ Bảy, 20 tháng 2, 2016

SỰ THẬT VỀ QUAN HỆ VIỆT NAM & TRUNG QUỐC TRONG 30 NĂM QUA (hết)

PHẦN THỨ TƯ

TRUNG QUỐC VỚI NƯỚC VIỆT NAM HOÀN TOÀN
GIẢI PHÓNG VÀ THỐNG NHẤT
(TỪ THÁNG 5 NĂM 1975 CHO ĐẾN NAY)


I. TRUNG QUỐC SAU THẤT BẠI CỦA MỸ Ở VIỆT NAM

Dư luận chung trên thế giới cho thấy rằng thất bại của Mỹ ở Việt Nam đã có tác động rõ rệt đến tình hình quốc tế.

Nếu thắng lợi của cuộc Cách Mạng Tháng Tám và kháng chiến của nhân dân Việt Nam mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ, thì thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam chứng minh trước toàn thể thế giới sự phá sản hoàn toàn của chủ nghĩa thực dân mới là không tránh khỏi.

Ngày nay, các lực lượng cách mạng đã lớn mạnh và có lợi thế hơn bao giờ hết. Đế quốc Mỹ không thể đóng vai sen đầm quốc tế bất cứ nơi đâu mà không bị trừng phạt, không thể xâm chiếm một tấc đất của bất kỳ nước xã hội chủ nghĩa nào, không thể đẩy lùi phong trào giải phóng dân tộc và ngăn chặn con đường phát triển của các nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa đế quốc càng ngày càng lún sâu vào cuộc khủng hoảng toàn diện không phương cứu chữa. Chúng đang đứng trước những khó khăn chồng chất về nhiều mặt, đang phải đương đầu với cuộc tiến công rộng lớn và mạnh mẽ của ba dòng thác cách mạng trên thế giới, ở ngay cả ở dinh lũy tưởng chừng như rất kiên cố của chúng ở Châu Á và châu Mỹ la tinh.

Mặc dầu đã tung vào Việt Nam một đội quân viễn chinh gồm 60 vạn tên làm nòng cốt cho hơn một triệu quân ngụy, đã ném xuống Việt Nam 7 triệu 85 vạn tấn bom và chi tiêu 352 tỷ dô la, đế quốc Mỹ xâm lược vẫn không khuất phục được nhân dân Việt Nam, đế quốc Mỹ phải điều chỉnh chiến lược trên thế giới, ở châu Á nhất là Đông Nam Á, cho phù hợp với tình hình mới. Chúng đẩy mạnh các cấu kết với các thế lực phản động, đặc biệt là các thế lực phản bội trong phong trào cọng sản và công nhân quốc tế, chủ yếu là với tập đoàn phản động Bắc Kinh, hòng chia rẽ, phá hoại hệ thống xã hội chủ nghĩa và phong trào cách mạng thế giới.



Về phần những người cầm quyền Trung Quốc, xuất phát từ lợ ích dân tộc, họ có giúp Việt Nam khi nhân dân Việt Nam chiến đấu chống Mỹ, nhưng cũng xuất phát từ lợi ích dân tộc, họ không muốn Việt Nam thắng Mỹ và trở nên mạnh, mà chỉ muốn Việt Nam yếu, lệ thuộc Trung Quốc.

Họ muốn Việt Nam bị chia cắt lâu dài, nhưng nhân dân Việt Nam đã đánh cho “Mỹ cút, ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền nam và thống nhất nước nhà.

Họ lợi dụng xương máu của nhân dân Việt Nam để buôn bán với Mỹ, nhưng sự câu kết của họ với Mỹ không ngăn được nhân dân Việt Nam giành thắng lợi hoàn toàn và dựng nên nước Cọng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

Họ muốn chia rẽ Việt Nam với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác, nhưng nhân dân Việt nam đã giữ vững đường lối độc lập, tự chủ của mình, tăng cường đoàn kết với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác.

Không những các thỏa thuận giữ họ với chính quyền Nixon, những mưu đồ chiến lược của họ đã bị thất bại, mà một nước Việt nam độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa, có đường lối cách mạng Max – Lenin chân chính, độc lập, tự chủ và có uy tín chính trị trên thế giới sẽ là cản trở nghiêm trọng cho mưu đồ bành trướng và bá quyền của họ ở Đông dương và Đông nam châu Á. Thắng lợi lịch sử của nhân dân Việt nam không chỉ là thất bại lớn của đế quốc Mỹ xâm lược, mà cũng là thất bại lớn của bọn bành trướng Bắc kinh.

Vào những năm cuối đời và cái chết của Chủ tịch Mao Trạch Đông, cuộc khủng hoảng của Trung quốc tiếp tục diễn ra gay gắt, với những cuộc thanh trừng tàn bạo để tranh giành quyền bính. Trong 20 năm liền, nền kinh tế và tình hình chính trị, xã hội của Trung quốc đã bị thụt lùi và hỗn loạn vì cuộc “đại nhảy vọt” và cuộc “đại cách mạng văn hóa”, đòi hỏi phải được cấp bách ổn định và cải thiện. Mặc khác, sự yếu kém về quân sự và kinh tế của Trung quốc không cho phép những người cầm quyền ở Bắc kinh thực hiện mưu đồ như họ mong muốn. Cho nên, về đối nội, họ lấy tư tưởng đại dân tộc để tập hợp các phe phái và động viên nhân dân Trung quốc nhằm thực hiện kế hoạch “bốn hiện đại hóa”. Về đối ngoại, họ dấn sâu vào con đường phản động, lợi dụng lúc chủ nghĩa đế quốc bị khủng hoảng về kinh tế và chính trị nghiêm trọng, và lúc Mỹ phải điều chỉnh chiến lược toàn cầu, để câu kết với chủ nghĩa đế quốc, chống Liên Xô, chống phong trào cách mạng thế giới, kiếm nhiều vốn và kỹ thuật của phương Tây cho kế hoạch “bốn hiện đại hóa”. Khẩu hiệu “chống bá quyền” của họ chỉ là chiêu bài để che đậy chiến lược phản cách mạng và chính sách bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn của họ.

Họ hằn học nhìn thắng lợi của nhân dân Việt Nam, cho nên, từ khi nhân dân Việt Nam giành được toàn thắng, họ càng ngày càng công khai và điên cuồng thực hành một chính sách thù địch toàn diện và có hệ thống chống nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.




Đây là một văn kiện tuyệt mật của Quân ủy trung ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc do Lê Xuân Thành, sinh ngày 20-3-1949 tại Quảng Đông Trung Quốc cung khai.

Thành là công an của Trung Quốc, trú quán tại 165 đường Hồng Ký, khu Tuyên Vũ, thành phố Bắc Kinh. Tháng 3 năm 1973 chạy sang Việt Nam làm gián điệp. Ngày 30-3-1973 bị bắt ở xã Ngư Thủy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Trong văn kiện đó có một đoạn như sau:

"...Nước ta và nhân dân Việt Nam có mối hận thù dân tộc hàng nghìn năm nay.

... Chúng ta không được coi họ là đồng chí chân chính của mình, đem tất cả vốn liếng của ta trao cho họ. Ngược lại chúng ta phải tìm mọi cách làm cho nước họ ở trong tình trạng không mạnh, không yếu mới có thể buộc họ ở trong tình trạng hiện nay.

... Vẽ bề ngoài chúng ta đối xử với họ như đồng chí của mình, nhưng trên tinh thần ta phải chuẩn bị họ trở thành kẻ thù của chúng ta..."

II. ĐIÊN CUỒNG CHỐNG VIỆT NAM

NHƯNG CÒN CỐ GIẤU MẶT

1. Thông qua bè lũ Pôn Pốt – Lêng Xa-ry tiến hành cuộc chiến trnh biên giới chống Việt Nam ở phía tây nam Việt Nam.

Ngay từ giữa những năm 1960, những người lãnh đạo Trung Quốc đã mưu tính nắm trọn vấn đề Campuchia, trước mắt nhằm phá hoại Mặt trận đoàn kết các nước Đông Dương, làm yếu cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, có thể đàm phán với Mỹ và lâu dài nắm bắt Campuchia lệ thuộc và trở thành một bàn đạp của Trung Quốc để bành trướng xuống Đông Dương và Đông nam Châu Á. Sau ngày 17 tháng 4 năm 1975, nước Campuchia hoàn toàn thoát khỏi ách thống trị của bè lũ Lon non, tay sai của Mỹ, họ dùng bọn tay sai Pôn Pốt – Lêng-xa-ry chiếm quyền lãnh đạo đảng Cọng sản Campuchia, gạt quốc trưởng Xihanuc và những người thân cận của ông ta, để xây dựng nên một chế độ phát xít diệt chủng có một không hai trong lịch sử loài người và thông qua chế độ đó hoàn toàn kiểm soát nước Campuchia, biến Campuchia thành một nước chư hầu kiểu mới và căn cứ quân sự của họ để tiến đánh Việt Nam từ phía tây nam.

Họ đã đổ tiền, vũ khí và dụng cụ chiến tranh các loại và đưa hàng vạn cố vấn Trung Quốc vào campuchia để thành lập hàng chục sư đoàn mới gồm đủ bộ binh, thiết giáp, pháo binh, xây dựng thêm hoặc mở rộng nhiều căn cứ hải quân, không quân, hệ thống kho hậu cần.

Dưới sự đạo diễn của Bắc Kinh, tập đoàn cầm quyền phản động Phnông Pênh lúc đó tiến hành một chiến dịch tuyên truyền rộng khắp vu khống Việt Nam “xâm lược Campuchia”, “âm mưu ép Campuchia vào liên bang Đông Dương do Việt Nam khống chế”, ráo riết hô hào chiến tranh chống Việt Nam. Chúng đã phá hoại cuộc đàm phám giữa hai nước nhằm giải quyết vấn đề biên giới để có cớ duy trì một tình hình ngày càng căng thẳng ở vùng biên giới Việt Nam – Campuchia. Ngay từ tháng 4 năm 1975, chúng đã đưa quân lấn chiếm, bắn phá nhiều điểm trên lãnh thổ Việt Nam và từ đó ngày càng gây thêm nhiều vụ xung đột ở biên giới, đột kích nhiều đồn biên phòng, làng xóm Việt Nam, làm cho tình hình biên giới không ổn định, ngăn cản nhân dân Việt nam khôi phục và xây dựng kinh tế. Từ những cuộc khiêu khích vũ trang, chúng tiến đến gây ra một cuộc chiến tranh biên giới chống nước Việt Nam từ tháng 4 năm 1977 suốt dọc hơn 1.000 km với những cuộc tiến công qui mô, huy động hàng vạn bộ binh có xe tăng, trọng pháo yểm trợ, có khi vào sâu lãnh thổ Việt Nam hơn 30 km, giết hại dã ma dân thường, tàn phá nhà cửa, hoa màu, gây nên biết bao tội ác không thể dung thứ được.




Chỉ thị của Kiều Ủy trung ương Trung Quốc về công tác đối với người Hoa ở Việt Nam năm 1996.

Có đoạn viết :

‘..... Phải lấy tư tưởng Mao Trạch Đông giáo dục Hoa kiều ở Việt Nam.

Báo Tân Việt Hoa phải trở thành trận địa tuyên truyền tư tưởng Mao Trạch Đông.

Hoa kiều nhất định phải có “chủ nghĩa nước lớn”. Các đồng chí phải chủ động quan hệ chặt chẽ với đại sứ quán để đại sứ quán giúp đỡ được tốt hơn”.

2. Dùng vấn đề người Hoa để chống đối Việt Nam từ bên trong

Ở Việt Nam có khoảng 1 triệu 20 vạn người Hoa sinh sống; gần một triệu người ở miền Nam và trên 20 vạn người ở miền Bắc, năm 1955, Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Cọng Sản Trung Quốc đã thỏa thuận là người Hoa ở miền Bắc là do Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo và dần dần chuyển thành công dân Việt Nam. Trong 20 năm qua, người Hoa ở miền bắc được hưởng quyền lợi và làm nghĩa vụ như công dân Việt Nam. Còn người Hoa ở miền nam, từ năm 1956 dưới chính quyền Ngô Đình Diệm, đã vào quốc tịch Việt Nam để được hưởng nhiều điều kiện dễ dàng trong việc làm ăn sinh sống.

Sau khi giải phóng hoàn toàn miền nam, Chính phủ và nhân dân Việt Nam tiếp tục nghiêm chỉnh thực hiện sự thỏa thuận năm 1955 giữa hai đảng về người Hoa ở miền bắc, đồng thời tôn trọng thực tế lịch sử về người Việt gốc Hoa ở miền nam, coi người Hoa ở cả hai miền là một bộ phận trong cộng đồng trong dân tộc Việt Nam. Số ít người mang căn cước Đài Loan, Hồng Kông hoặc quốc tịch nước khác và số Hoa kiều bị bọn Pôn Pốt – Lêng xa ry xua đuổi và tỵ nạn ở miền nam Việt nam thì được coi là ngoại kiều.

Ngược lại, những người cầm quyền Trung Quốc xuyên tạc sự thỏa thuận năm 1955 giữa hai đảng, phủ nhận thực tế lịch sử về những người Việt gốc Hoa ờ miền nam Việt Nam, coi tất cả kiều dân ở hai miền là kiều dân Trung Quốc để đòi quyền lãnh đạo những người ấy. Trên thực tế, họ lập các tổ chức phản động và mạng lưới gián điệp người Hoa trên đất Việt Nam. Các tổ chức gọi là “Hoa kiều hòa bình liên hiệp hội”, “Hoa kiều tiến bộ”, “Hoa kiều cứu vong hội”, “Đoàn thanh niên chủ nghĩa Mac – Lenin”, “Hội học sinh Hoa kiều yêu nước”, “Mặt trận thống nhất Hoa kiều”..,v.v.. do Bắc Kinh thành lập và chỉ huy, đã hoạt động chống lại các chính sách của chính quyền, chống lệnh đăng ký nghĩa vụ quân sự, chống việc đi xây dựng vùng kinh tế mới, kích động tâm lý huyết thống trong người Việt gốc Hoa, khơi lên phong trào đòi trở lại quốc tịch Trung Quốc. Họ in tiền giả, đầu cơ tích trữ, nâng giá hàng nhằm phá kế hoạch ổn định và phát triển kinh tế của các cơ quan Nhà nước ở miền Nam Việt Nam, Với những thủ đoạn đó, những người cầm quyền Bắc Kinh đã gây thêm khó khăn cho nhân dân miền Nam Việt Nam vốn đã gặp biết bao khó khăn do 30 năm chiến tranh của đế quốc để lại, khiến cho nhiều người về sau bỏ nước ra đi tìm một nơi mà họ cho là dễ làm ăn hơn. Bắc Kinh đã dùng người Hoa làm công cụ gây rối loạn về chính trị, kinh tế, xã hội ở Việt Nam như họ đã làm ở một số nước Đông Nam châu Á và Nam Á.

3. Dùng vấn đề viện trợ để nâng thêm sức ép

Năm 1973. những người lãnh đạo Trung Quốc đã long trọng hứa sẽ viện trợ cho Việt Nam ít nhất trong 5 năm liền ở mức kim ngạch năm 1973.

Năm 1975, khi chào mừng nhân dân Việt Nam giải phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam, những người lãnh đạo Trung Quốc cũng nói “sẽ tiếp tục làm tròn nghĩa vụ quốc tế của mình, kiên quyết ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa nhằm củng cố thành quả thắng lợi, thống nhất và xây dựng Tổ Quốc của nhân dân Việt nam”. Thật ra đây chỉ là lời tuyên bố giả dối để che dấu sự hằn học của họ đối với sự thắng lợi lịch sử của nhân dân Việt Nam đang làm nức lòng tất cả những lực lượng cách mạng và tiến bộ trên toàn thế giới, che giấu những kế hoạch đen tối của họ nhằm chống lại Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

Trên thực tế, họ không ủng hộ nhân dân Việt Nam xây dựng lại đất nước trong giai đoạn mới.

Nếu những năm 1960 -1970, những người lãnh đạo Trung Quốc giảm viện trợ đối với Việt Nam vì họ không tán thành Việt Nam thương lượng với Mỹ để kéo Mỹ xuống thang chiến tranh, và nếu những năm 1971 -1972 họ tăng viện trợ đối với Việt Nam cao nhất so với các năm trước, vì họ muốn lợi dụng vấn đề Việt Nam để thương lượng với Mỹ, thì đến năm 1975, vì bị thất bại ở miền Nam Việt Nam, họ lại dùng viện trợ để gây sức ép đối với Việt Nam. Họ khước từ những yêu cầu viện trợ mới của Việt Nam. Về phần viện trợ cũ đã thỏa thuận từ trong chiến tranh và chưa giao hết, họ vin cớ này cớ khác để dây dưa, trong đó có những công trình đang làm dở, có những công trình rất quan trọng đối với công cuộc hòa bình xây dựng đất nước Việt nam. Rõ ràng viện trợ của những người lãnh đạo Trung Quốc không phải là “vô tư” như họ thường khoe khoang, mà chỉ là công cụ của chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn, Viện trợ của Bắc Kinh chỉ là “cái gậy và củ cà rốt”..

Những thủ đoạn nói trên của Bắc Kinh nhằm chống Việt Nam là những đòn thâm độc, quyết liệt, nhưng đều đã thất bại: bộ mặt phát xít diệt chủng của Pôn Pốt – lêng xa ry bị nhân dân Campuchia và cả của loài người tiến bộ lên án; kế hoạch dùng người Hoa phá Việt Nam từ bên trong bị phá sản; mưu đồ gây sức ép bằng viện trợ và các thủ đoạn khác không lay chuyển được đường lối độc lập, tự chủ của Việt Nam, không khuất phục được nhân dân Việt Nam.



III. ĐIÊN CUỒNG CHỐNG VIỆT NAM MỘT CÁCH CÔNG KHAI

Giấu mặt chống Việt Nam không đạt kết quả mong muốn, những người cầm quyền Trung Quốc quay ra công khai chống Việt Nam bằng mọi thủ đoạn, kể cả bằng đe dọa vũ lực và dùng vũ lực.

1. Cái gọi là vấn đề “nạn kiều”

Đầu năm 1978, những người cầm quyền Trung Quốc dựng lên cái gọi là vấn đề “nạn kiều” để mở đầu một chiến dịch quy mô, công khai chống Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

Sự thật là chính các tổ chức bí mật người Hoa, mạng lưới gián điệp của sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội được sự chỉ đạo hàng ngày, hàng giờ của bộ máy tuyên truyền Bắc Kinh, bằng những sự bịa đặt trắng trợn, những luận điệu vu cáo Việt Nam “xua đuổi, bài xích, khủng bố người Hoa”, bằng những thủ đoạn lừa gạt, mua chuộc, dụ dỗ, dọa nạt, đã gây nên trong quần chúng người Hoa đang làm ăn yên ổn ở Việt Nam một tâm trạng hoang mang, lo sợ chiến tranh sắp nổ ra, một tâm lý nghi ngờ, thậm chí thù ghét người Việt Nam, khiến họ ồ ạt kéo đi Trung Quốc. Bọn tay chân của Trung Quốc tổ chức cho những người đó vượt biên giới trái phép rồi lại chặn họ lại, gây ra ùn tắc ở biên giới Việt – Trung để dễ bề kích động họ chống lại và hành hung những nhà chức trách Việt Nam ở địa phương, Lúc dòng người Hoa ùn ùn kéo đi Trung Quốc, Bắc Kinh lại trắng trợn đưa hai tàu sang Việt Nam đón “nạn kiều”, mặc dầu họ không nêu trước vấn đề đó với Chính phủ Việt Nam. Chỉ trong mấy tháng đầu, 17 vạn người Hoa đã rời Việt Nam đi Trung Quốc. Cái gọi là vấn đề “nạn kiều” chỉ là một sự cưỡng bức người Hoa ở Việt Nam ồ ạt di cư đi Trung Quốc mà thủ phạm chính là tập đoàn phản động trong giới cầm quyền Bắc Kinh, một sự lừa gạt và một sự phản bội của họ nhằm gây xáo trộn về chính trị, xã hội, kinh tế ở Việt Nam, hòng khuất phục nhân dân Việt Nam, đồng thời kích động dư luận Trung Quốc, chuẩn bị sẵn sàng “đạo quân thứ năm” cho việc tiến hành xâm lược Việt Nam trong bước sau.






Một thư của sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội xúi giục người Hoa ở Đà nẵng chống Việt Nam, tịch thu được của can phạm Hàng Phú Quang bị bắt tháng 7 năm 1978.

Dòng chữ đầu của góc bên phải là “Thư của sứ quán”. Trích một số đoạn:

1. Toàn thể Hoa kiều tại miền Trung, Nam, Bắc Việt Nam phải đoàn kết, nhất trí để đối phó với hoàn cảnh ác liệt.

2. Phải chú ý theo dõi chỉ thị qua Đài phát thanh của Tổ quốc.

3. Hoa kiều về nước thì phải đợi chỉ thị, chờ nhân viên ngoại giao đến có chỉ thị rõ ràng để lo liệu. Sau đó tuần tự lên tàu về nước.

4. Không nghe chính quyền địa phương lừa gạt ghi là người Việt gốc Hoa làm thủ tục xuất cảnh về Trung Quốc. Vì như vậy thì sẽ bị tổn thất nặng nề về động sản và bất động sản của tư nhân*. Phải chờ nhân viên ngoại giao của ta chỉ dẫn cách điền vào đơn (hai bên chính phủ đã bàn) để tài sản công tư khỏi bị tổn thất.

5. Đề phòng số phần tử xấu tung tin đồn ly gián làm dao động ý chí của Hoa kiều.

Vốn là người làm ăn sinh sống lâu đời ở Việt Nam, thông thạo địa hình, phong tục, tập quán, có nhiều cơ sở quen thuộc cũ, có nhiều khả năng nắm được nhiều tin tức, tình hình, những người Hoa ở Việt Nam đi Trung Quốc đã được bọn bành trướng Bắc Kinh chọn lựa để đưa vào những “sư đoàn sơn cước” chuyên đánh rừng núi, thọc sâu vào hậu phương, hoặc những đơn vị đi trước mở đường, hoặc những đơn vị thám báo, dẫn đường, bắt cóc, ám sát, phá hoại cầu cống, kho tàng của Việt Nam. Nhiều tên trong bọn chúng đã bị bắt trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam từ ngày 17 tháng 2 năm 1979.

Trước quyết tâm của nhân dân Việt Nam giữ vững chủ quyền của mình, những người cầm quyền Bắc Kinh buộc phải rút lui hai chiếc tàu đi đón “nạn kiều” về nước, ngồi vào đám phán với phía Việt Nam về việc giải quyết vấn đề người Hoa. Nhưng trong đàm phán, họ vẫn giữ thái độ nước lớn, ngang ngược áp đặt quan điểm vô lý của họ, bất chấp chủ quyền của nước Cọng hòa xả hội chủ nghĩa Việt Nam và luật pháp quốc tế. Chính họ đã cố tình phá hoại cuộc đàm phán đó để tiếp tục dùng vấn đề người Hoa chống Việt Nam.

2. Cắt viện trợ, rút chuyên gia

Trong lúc bọn bành trướng Bắc Kinh ráo riết dụ dỗ, cưỡng ép người Hoa ở Việt Nam đi Trung Quốc, họ dùng cái gậy “viện trợ” để đồng thời đánh Việt Nam về kinh tế. Chỉ trong hơn một tháng, bất chấp luật pháp và tập quán quốc tế, họ đơn phương tuyên bố chấm dứt toàn bộ viện trợ kinh tế và kỹ thuật cho Việt Nam, gọi về nước tất cả các chuyên gia và cán bộ kỹ thuật Trung Quốc đang công tác ở Việt Nam. Đây là một đòn cực kỳ thâm độc, đưa ra đúng lúc nhân dân Việt Nam đang phải hàn gắn những vết thương chiến tranh, đồng thời vừa phải đối phó với cuộc chiến tranh biên giới ở phía tây nam, khắc phục những khó khăn kinh tế do việc gần 20 vạn người Hoa đột nhiên bỏ ruộng đồng, nhà máy đi Trung Quốc, vừa phải đối phó với những thiệt hại nghiêm trọng do những trận bão, lụt nặng nề nhất ở Việt Nam trong hàng trăm năm qua gây ra.

Đi đôi với việc cắt viện trợ, rút chuyên gia, tạp đoàn phản động trong giới cầm quyền Trung Quốc còn ngang nhiên vận động các nước, các tổ chức quốc tế ngưng viện trợ cho công cuộc xây dựng lại Việt Nam. Lòng dạ họ xấu xa, thâm độc đến thế là cùng!

Họ đẩy mạnh việc vu cáo Việt Nam để vừa che đậy ý đồ bành trướng của họ ở Đông nam châu Á, vừa cản trở quan hệ bình thường giữa Việt Nam và các nước thuộc tổ chức ASEAN, kêu gọi các nước đó lập “mặt trân chung với Trung Quốc” chống Việt Nam. Với cuộc vận động đó, họ hy vọng trên thực tế sẽ thực hiện được chính sách bao vây về kinh tế, cô lập về chính trị, tiến công về quân sự, như bọn đế quốc và thực dân vẫn làm bấy lâu nay với một số nước. Đây là một hành động thô bạo không những xâm phạm độc lập, chủ quyền của Việt Nam, mà còn can thiệp vào công việc của các nước khác và các tổ chức quốc tế.

3. Duy trì tình hình căng thẳng ờ biên giới Việt Nam

Song song với việc hoạt động phá hoại kinh tế, chính trị, những người cầm quyền Trung Quốc ráo riết tăng cường sức ép quân sự đối với nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam từ mọi phía.

Ở phía bắc, họ đưa quân ra vùng biên giới Việt – Trung, tăng cường những vụ khiêu khích vũ trang lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam, xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Tạo nên tình hình thường xuyên căng thẳng ở vùng biên giới. Nếu số vụ khiêu khích lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam của họ năm 1975 là 234 vụ, gấp rưỡi năm 1974, thì năm 1978 tăng vọt lên 2.175 vụ, gấp mười lần.

Ở phía tây nam, theo mệnh lệnh của Bắc Kinh, bè lũ diệt chủng Pôn Pốt-lêng xa ry khước từ các đề nghị của Việt Nam về việc hai bên thành lập một khu phi quân sự ở vùng biên giới, ca1chly quân độ của mình và ký một hiệp ước hữu nghị không xâm lược lẫn nhau, không can thiệp vào nội bộ của nhau, để kiếm cớ duy trì cuộc chiến tranh biên giới chống Việt Nam, đồng thời chuẩn bị những cuộc phiêu lưu quân sự qui mô lớn sau này.

Ở phía tây, những người cầm quyền Trung Quốc bất chấp luật pháp quốc tế, ngày càng tăng cường gây sức ép đối với nước Cộng hòa dân chủ nhân dân dân Lào, một nước nhỏ hơn Trung Quốc luôn luôn theo đuổi theo chính sách hòa bình, hữu nghị cới các nước láng giềng. Họ nuôi dưỡng bọn tàn quân của lực lượng đặc biệt Mèo do CIA tổ chức và chỉ huy trước đây, thông qua đạo quân làm đường của họ để tìm cách can thiệp sâu vào các tỉnh Bắc Lào, vu cáo Việt Nam “thôn tính” Lào, chia rẽ Lào với Việt Nam, đưa nhiều sư đoàn quân áp sát biên giới Lào – Trung. Mục tiêu của họ là để tăng thêm sự uy hiếp Việt Nam về quân sự từ phía tây, đồng thời làm suy yếu và khống chế từng bước Lào.

4. Tấn công Việt Nam từ hai hướng

Những mưu đồ trên đây rất thâm độc và có thể gây khó khăn cho nhân dân Việt Nam, nhưng đều đã thất bại, cho nên cuối năm 1978 và đầu năm 1979, những người vầm quyền Trung Quốc phải tính đến việc tấn công quân sự nước chxh từ hai hướng.

Ở phía tây nam, theo kế hoạch của Bắc Kinh, sau khi tập trung 19 sư đoàn bộ binh (trong tổng số 23 sư đoàn bộ binh) đếnsát biên giới Việt Nam, ngày 22 tháng 12 nă, 1978, bè lũ Pôn pốt – lêng xa ry đã xử dụng những sư đoàn tinh nhuệ nhất của chúng, có xe tăng và pháo binh yểm trợ, đánh vào khu vực Bến Sỏi thuộc tỉnh Tây Ninh (cách Sài gòn 100 km, với ý đồ đánh chiếm chớp nhoáng thị xã Tây Ninh, mở đường tiến sâu vào miền Nam Việt Nam, đồng thời làm yếu Việt Nam để quân Trung Quốc đánh vào Việt Nam từ phía bắc.

Thực hiện quyền tự vệ chính đáng của mình, nhân dân Việt Nam đã làm thất bại hoàn toàn kế hoạch quân sự đó. Đồng thời, quân và dân Campuchia dưới sự lãnh đạo của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, được sự giúp đỡ và ủng hộ của nhân dân Việt Nam, đã vươn lên đập tan chế độ diệt chủng tàn bạo Pôn pốt – lêng xa ry và cái gọi là “chính phủ Campuchia dân chủ”, và ngày 10 tháng 1 năm 1979 lập nên chế độ Cọng hòa nhân dân Campuchia, thật sự đại diện cho nhân dân Campuchia.

Ở phía bắc, những người cầm quyền Trung Quốc đã huy động 60 vạn quân, gồm nhiều quân đoàn và sư đoàn độc lập, nhiều đơn vị binh chủng kỹ thuật với gần 800 xe tăng, hàng ngàn khẩu pháo, hàng trăm máy bay các loại của hầu hết các quân khu của Trung Quốc, điên cuồng phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam ngày 17 tháng 2 năm 1979 trên toàn tuyến biên giới dài hơn 1000 km. Quân của bọn phản động Trung Quốc đi đến đâu là tàn sát dân thường, kể cả phụ nữ, trẻ sơ sinh, phá hủy triệt để các bản làng, chùa chiền, nhà thờ, trường học, vườn trẻ, bệnh viện, nông trường, lâm trường v.v.. Chúng đã hành động với sự man rợ của một đạo quân ăn cướp thời trung cổ kết hợp với những thủ đoạn tinh vi của các đội quân xâm lược của đế quốc ngày nay.

Để lừa gạt dư luận Trung Quốc và dư luận thế giới, những người cầm quyền Bắc Kinh đã tuyên bố rằng đấy chỉ là một cuộc “phản kích để tự vệ” bằng những đơn vị biên phòng. Sự thật đây là một cuộc chiến tranh xâm lược toàn diện bằng lực lượng chính quy của hầu hết các quân khu của Trung Quốc, có chuẩn bị kỹ càng về các mặt, từ việc xây dựng những công trình quân sự, đường sá, hầm hào, sân bay dọc biên giới Việt – Trung đến việc vu cáo Việt Nam, phá hoại tình hữu nghị Việt – Trung , kích động tư tưởng đại dân tộc trong nhân dân Trung Quốc hòng biện bach và che dấu hành động xâm lược của họ. Về mặt đối ngoại, họ cũng chuẩn bị chu đáo, đặc biệt là họ đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược sau khi Phó thủ tướng Đặng Tiểu Bình đi thăm Mỹ và Nhật Bản về, thực tế là sau khi tranh thủ được sự đồng tình của Mỹ và Nhật. Mục tiêu đầy tham vọng của họ là: tiêu diệt một bộ phận lực lượng vũ trang của Việt Nam, phá hoại tiềm lực quốc phòng và kinh tế, chiếm đất đai của Việt Nam, kích động bạo loạn.

Hai cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam mà những người cầm quyền Trung Quốc gây ra từ hai hướng là bước leo thang cao nhất trong cả một quá trình hành động tội ác chống độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân Việt Nam từ trước đến nay nhằm làm yếu, thôn tính và khuất phục Việt Nam. Trái với mọi tính toán của Bắc Kinh, cuộc chiến tranh xâm lược của họ đã thất bại thảm hại, đã bị toàn thế giới lên án và một bộ phân nhân dân Trung Quốc phản đối. Ngày 5 tháng 3 năm 1979 họ đã buộc phải tuyên bố rút quân, và sau đó đã phải nhận ngồi đàm phán với phía Việt Nam.

5. Tiếp tục chống Việt Nam bằng nhiều thủ đoạn

Những người cầm quyền Trung Quốc đã tuyên bố rút quân về bên kia biên giới, nhưng thực tế cho đến nay quân của họ tiếp tục chiếm đóng hơn mười điểm trên lãnh thổ Việt Nam, xây dựng thêm công sự ở các nơi đó, vi phạm trắng trợn đường biên giới do lịch sử để lại mà cả hai bên đã thỏa thuận tôn trọng.

Suốt dọc biên giới Việt – Trung, họ tiếp tục bố trí nhiều quân đoàn có pháo binh và thiết giáp yểm trợ, tăng cường các phương tiện chiến tranh, ra sức xây dựng các công trình quân sự, thường xuyên diễn tập quân sự, tung các đội thám báo, biệt kích xâm nhập nhiều khu vực của Việt Nam. Không ngày nào họ không gây ra những vụ khiêu khích vũ trang, nổ súng, gài mìn, bắn giết nhân dân địa phương. Có nơi, họ cho bắn súng cối hạng nặng suốt ngày, có nơi họ cho một tiểu đoàn quân chính qui tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam hơn 4 km, bắn giết dân thường, đốt phá nhà cửa và phá hoại hoa màu. Có nơi từng tốp máy bay Trung Quốc bay sâu vào vùng trời Việt Nam từ 8 đến 10 km. Họ bí mật đẩy trở lại Việt Nam những người Hoa đã bị họ cưỡng bức di cư sang Trung Quốc. Những hành động có tính toán đó cùng với những thủ đoạn khác của họ nhằm duy trì tình hình căng thẳng ở vùng biên giới, xâm phạm độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tiếp tục uy hiếp an ninh của nước Việt Nam. Những người cầm quyền Trung Quốc còn nhiều lần đe dọa “cho Việt Nam một bài học thứ hai”, thậm chí “nhiều bài học nữa”. Trên danh nghĩa nào, và dựa vào luật pháp nào mà những người cầm quyền Bắc Kinh có quyền cho Việt Nam và dạy Việt Nam bài học? Việt Nam và Trung Quốc là những nước độc lập, có chủ quyền. Hiến chương Liên hiệp quốc, công pháp quốc tế cũng như tập quán quốc tế tuyệt đối không cho phép Trung Quốc làm bất cứ điều gì phương hại đến độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam cũng như của bất kỳ nước nào khác. Phải chăng vì Trung Quốc nước rộng, người đông mà bọn bành trướng Trung Quốc tự cho phép làm ra luật, đe dọa, khuất phục các mước nhỏ hơn, ít người hơn?

Những người cầm quyền Trung Quốc đã nhận ngồi vào đàm phán với phía Việt Nam để bàn những biện pháp cấp bách bảo đảm hòa bình và an ninh ở vùng biên giới và các vấn đề thuộc quan hệ giữa hai nước. Nhưng ở vòng một tiến hành ở Hà Nội, cũng như vòng hai tiến hành tại Bắc Kinh, phía Trung Quốc vẫn lẫn tránh những đề nghị hợp lý hợp tình của phía Việt Nam, từ chối bản đề nghị của phía Việt Nam về những biện pháp cấp bách nhằm chấm dứt các hoạt động khiêu khích vũ trang và đảm bảo hòa bình, ổn định ở vùng biên giới hai nước, tiền đề cấp thiết cho việc tiếp tục giải quyết các vấn đề khác thuộc quan hệ giữa hai nước. Mặt khác, họ đặt điều kiện tiên quyết là Việt Nam phải từ bỏ đường lối độc lập, tự chủ cũa mình đối với các quần đảo

Hoàng Sa và Trường Sa thì họ mới đi vào bàn bạc các vấn đề khác. Đây là thái độ bá quyền nước lớn: họ đến đàm phán không phải vì bàn bạc một cách bình đẳng và xây dựng nhằm giải quyết các vấn đề tranh chấp, mà buộc phải đối phương phải chấp nhận lập trường của mình. Việc những người cầm quyền Trung Quốc đòi Việt Nam rút quân khỏi Campuchia và Lào, thậm chí nêu ra “nguyên tắc chống bá quyền” chẳng qua là để che giấu việc họ đưa quân xâm lược Việt Nam, uy hiếp nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và can thiệp vào công việc nội bộ của nước Cộng hòa Campuchia, che giấu bộ mặt bá quyền bỉ ổi của họ nhằm thôn tính ba nước Đông Dương, dùng Đông Dương làm bàn đạp bành trướng xuống Đông nam châu Á.

Gần đây, những người cầm quyền Trung Quốc giương cao chiêu bài “nhân quyền” của tổng thống Mỹ Carter, lợi dụng vấn đề người Việt Nam đi ra nước ngoài làm một vũ khí mới để chống Việt Nam. Những người Việt Nam đi ra nước ngoài phần lớn là những nhà buôn giàu có và những sĩ quan trước đây sống nhờ Mỹ và chế độ bù nhìn Saigon, những người Hoa do Bắc Kinh dụ dỗ, cưỡng ép ra đi; một số là những người trước đây sống trong xã hội tiêu thụ kiểu Mỹ và nay không chịu nổi những khó khăn do cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc Mỹ và sự phá hoại của bọn bành trướng Bắc Kinh gây ra.

Chính phủ Việt Nam vốn có chính sách nhân đạo, tôn trọng nhân quyền, không những đối xử nhân đạo vớn những người Việt Nam đã hợp tác với kẻ thù trong thời gian chiến tranh, mà còn khoan hồng cả đối với những binh sĩ của các đội quân xâm lược bị bắt trong 30 năm qua. Chính phủ Việt Nam hiểu rõ nguyên nhân và hậu quả của vấn đề những người Việt Nam đi ra nước ngoài, đồng thời rất thông cảm các khó khăn của các nước láng giềng trước dòng người di cư đó. Chính vì thế, từ tháng 1 năm 1979, Chính phủ Việt Nam đã tuyên bố cho phép những người có nguyện vọng ra nước ngoài để sum họp gia đình hoặc làm ăn sinh sống được xuất cảnh Một cách hợp pháp sau khi đã làm đầy đủ các thủ tục cần thiết. Mặt khác, các cơ quan có trách nhiệm của Việt Nam đã cùng cơ quan Cao ủy Liên hiệp quốc về vấn đề người tỵ nạn thỏa thuận một chương trình 7 điểm được công bố Ngày 30 tháng 5 năm 1979, nhằm tạo điều kiện dễ dàng cho những người nói trên ra đi một cách có trật tự và an toàn, đồng thời làm giảm bớt khó khăn cho các nước Đông nam châu Á.

Song Bắc Kinh và Washington đều huy động bộ máy tuyên truyền khổng lồ và mọi phương tiện chính trị, kinh tế, tài chính của họ, lợi dụng khía cạnh nhân đạo của vấn đề, sử dụng mọi thủ đoạn gian dối, xuyên tạc, kích động để bóp mép sự thật về vấn đề những người Việt Nam đi ra nước ngoài, phát động một chiến dịch qui mô và cực kỳ ghê tởm chống Việt Nam.

Nhưng thủ phạm đích thực của dòng người “di tản” là ai?

Người ta chưa quên rằng Mỹ đã tiến hành một cuộc chiến tranh xâm lược có tính chất hủy diệt chống Việt Nam. Và khi phải rút đội quân viễn chinh của họ, họ để lại ở miền Nam Việt Nam một đất nước tàn phá, một nền kinh tế tê liệt, với trên 3 triệu người thất nghiệp, trên một triệu người bị tàn phế. 80 vạn trẻ em mồ côi, trên 60 vạn gái điếm, trên 1 triệu thanh niên nghiện ma túy. v.v..

Còn những người cầm quyền Bắc Kinh thì sao? Chính họ đã trắng trợn gây ra cái gọi là “nạn kiều”, cưỡng ép, dụ dỗ người Hoa bỏ nhà bỏ cửa, ruộng đồng, nhà máy để đi Trung Quốc, dùng những tổ chức của Cục tình báo Hoa Nam để quấy rối về chính trị, đầu cơ, tích trữ, nâng giá hàng, in bạc giả, nhằm phá hoại nền kinh tế của Việt Nam, chồng chất thêm khó khăn cho người dân miền Nam Việt Nam. Trong lúc các cơ quan có trách nhiệm của Việt Nam đang cùng Cơ quan Cao ủy Liên hiệp quốc về vấn đề người tỵ nạn tỏ chức việc ra đi có trật tự và an toàn, những người cầm quyền Bắc Kinh cho tai sai tổ chức việc ra đi bất hợp pháp, để kêu la rằng Việt Nam “xuất cảng nạn dân”, mặc dầu chính họ cho hàng ngàn người Trung Quốc hàng ngày sang Hong kong để từ đó đi các nước Đông nam châu Á, và hoàn toàn không đếm xỉa đến số phận 26.000 Hoa kiều bị bọn Pôn Pốt – lêng-xa-ry trục xuất khỏi Campuchia. Rất tiếc rằng có những chính phủ, tổ chức vì không hiểu sự thật ở Việt Nam, hoặc vì muốn lấy lòng những người cầm quyền Trung Quốc để buôn bán làm ăn, đã phụ họa với chiến dịch kích động và vu cáo của Bắc Kinh !

Chính những kẻ cướp lại đang la làng, những kẻ chà đạp lên nhân quyền và luật pháp quốc tế lại đang giương cao chiêu bài “nhân đạo” để thực hiện mục đích chính trị đen tối của họ. Mục đích của Bắc Kinh là xóa nhòa những tội ác tày trời của họ ở Campuchia và trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, che đậy việc họ kích động người Hoa ở Việt Nam ra đi và “xuất cảng” hàng chục vạn người Trung Quốc ra nước ngoài, gây khó khăn cho các nước ASEAN, chia rẽ các nước ASEAN với Việt Nam, đánh lạc hướng về nguy cơ của chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc và vai trò của “đạo quân thứ năm” người Hoa ở Đông nam châu Á.

Nhưng đối với những người có lương tri, sự thật vẫn là sự thật. Hiện nay, ngày càng có nhiều người thấy được thủ đoạn bẩn thỉu của giới cầm quyền phản động Bắc Kinh, tỏ ra thông cảm với những khó khăn và hoan nghênh lập trường đúng đắn của nước Cọng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Các thế lực đế quốc và phản động, chủ yếu là Washington và Bắc Kinh, đã thất bại trong âm mưu biến Hội nghị quốc tế ở Geneve tháng 7 vừa qua về vấn đề người Đông dương đi ra nước ngoài thành một diễn đàn để vu cáo chống Việt Nam. Những đề nghị của Đoàn đại biểu Chính phủ Cọng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tỏ rõ thái độ xây dựng và hợp tác trong việc giải quyết vấn đề những người di cư, đã được sự đồng tình rộng rãi của đại biểu nhiều nước tôn trọng sự thật và công lý, và đã góp phần quan trọng vào thành công của Hội nghị là đặt được nền tảng của một giãi pháp cho vấn đề như ông Tổng thư ký Liên hợp quốc K.Van hem đã kết luận. Nhưng thực tế còn nhiều khó khăn và phức tạp do những hoạt động phá hoại của các thế lực đế quốc và phản động, trước hết là của Washington và Bắc Kinh. Hiện nay, trong lúc Bắc Kinh lớn tiếng đe dọa chiến tranh, trắng trợn đòi “chủ quyền” đối với hai quần đảo Trường sa và Hoàng sa, đế quốc Mỹ đưa hạm đội 7 vào hoạt động ngoài khơi Việt Nam không những để khuyến khích những người ra đi bất hợp pháp, mà còn để phối hợp với Bắc Kinh trong những âm mưu đen tối của họ ở khu vực biển Đông và Đông nam châu Á.

---o0o---

Trong 5 năm qua, bằng những thủ đoạn quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao trực tiếp và gián tiếp, tinh vi và trắng trợn, giấu mặt và công khai, những người cầm quyền Trung Quốc đã không ngừng phá hoại công cuộc xây dựng của nước Cọng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, họ càng thất bại thì càng điên cuồng chống Việt Nam hòng khuất phục nhân dân Việt Nam.

Đây là sự phản bội thứ ba của những người lãnh đạo Trung Quốc đối với nhân dân Việt Nam.




PHẦN THỨ NĂM

CHÍNH SÁCH BÀNH TRƯỚNG CỦA BẮC KINH MỐI ĐE DỌA
ĐỐI VỚI ĐỘC LẬP DÂN TỘC HÒA BÌNH
VÀ ỔN ĐỊNH Ở ĐÔNG NAM CHÂU Á

I

Việt Nam và Trung Hoa là hai nước láng giềng gần gũi, nhân dân hai nước luôn luôn gắn bó, giúp đỡ, cổ vũ lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, vì lợi ích cách mạng của nhân dân mỗi nước. Nhân dân Việt Nam đã ủng hộ nhân dân Trung Hoa về chính trị và tinh thần, có lúc đã phối hợp chiến đấu cùng với nhân dân Trung Hoa trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nhân dân Trung Hoa, mặc dầu còn có nhiều khó khăn, nhất là trong những năm đầu của nước Cọng hòa nhân dân Trung Hoa, đã dành sự giúp đỡ to lớn cho nhân dân Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống bọn đế quốc xâm lược.

Nhân dân Việt Nam rất quý trọng và luôn luôn giữ gìn, vun đắp cho mối tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Hoa đời đời bền vững. Nhân dân Việt Nam không hề xâm phạm độc lập, chủ quyền, lãnh thổ của nhân dân Trung Hoa, không hề can thiệp vào công việc nội bộ của Trung Hoa. Đối với những vấn đề bất đồng về quan điểm hoặc những hành động sai trái do những người lãnh đạo Trung Hoa gây ra đối với Việt Nam, phía Việt Nam đã cố gắng và bền bỉ tìm cách giải quyết bằng con đường thảo luận nội bộ giữa hai bên.

Mặc dầu những người lãnh đạo Trung Hoa đang tâm phá hoại tình hữu nghị truyền thống giữa nhân dân hai nước, nhân dân Việt Nam không bao giờ quên sự giúp đỡ to lớn mà nhân dân Trung Hoa đã dành cho nhân dân Việt Nam và rất mong muốn tình hữu nghị anh em giữa nhân dân hai nước sớm được khôi phục. Trong các cuộc đàm phán để giải quyết những vấn đề trong quan hệ giữa hai nước, phía Việt Nam luôn luôn xuất phát từ lòng mong muốn thiết tha đó của nhân dân Việt Nam. Lập trường trước sau như một của nước Cọng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là sớm khôi phục quan hệ bình thường giữa nước Cọng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cọng hòa nhân dân Trung Hoa trên những nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau vì lợi ích của mỗi nước và vì lợi ích của hòa bình, ôn định ở Đông nam châu Á và trên thế giới.

II



Tóm lại, trong 30 năm qua, những người cầm quyền Trung Hoa đã ba lần phản bội nhân dân Việt Nam:


Tại Hội nghị Geneve năm 1954, họ đã bán rẻ lợi ích dân tộc của nhân dân Việt Nam, không những để bảo đảm cho nước họ một vành đai an ninh ở phía nam, mà còn chuẩn bị địa bàn cho việc thực hiện mưu đồ bành trướng ở Đông Dương và Đông nam châu Á. Họ muốn duy trì tình trạng Việt Nam bị chia cắt lâu dài, hòng làm cho Việt Nam suy yếu và phải phụ thuộc vào Trung Hoa.


Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam, khi chế độ Ngô Đình Diệm bị sụp đổ thì họ bật đèn xanh cho Mỹ ném bom miền Bắc Việt Nam, đồng thời đưa quân Mỹ trực tiếp xâm lược miền Nam Việt Nam. Khi Việt Nam muốn ngồi vào thương lượng với Mỹ để phối hợp ba mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao thì họ ngăn cản. Khi nhân dân Việt Nam đang trên đà đi tới thắng lợi hoàn toàn thì họ bắt tay với chính quyền Nixon, dùng xương máu của nhân dân Việt Nam để đưa nước Cọng hòa nhân dân Trung Hoa lên địa vị “siêu cường thứ ba” và đổi chác lấy việc giải quyết vấn đề Đài Loan.


Sau khi nhân dân Việt Nam giải phóng hoàn toàn miền Nam khỏi ách thống trị thực dân mới của đế quốc Mỹ và thống nhất nước nhà, họ đã dùng mọi thủ đoạn chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao để làm suy yếu nước Cọng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hòng khuất phục nhân dân Việt Nam, tiến đến dùng lực lượng quân sự của bè lũ tay sai Pôn Pốt – Lêng xa ry xâm lược Việt Nam ở phía tây nam và lực lượng quân sự của Trung Hoa trực tiếp xâm lược Việt Nam ở phía bắc, giết hại nhân dân Việt Nam, phá hoại nghiêm trọng các cơ sở kinh tế, văn hóa của Việt Nam ở các vùng có chiến sự.

Ba lần họ phản bội Việt Nam, lần sau độc ác, bẩn thỉu hơn lần trước!

Đối với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia, những người cầm quyền Trung Hoa cũng đã phản bội độc ác và bẩn thỉu. Họ đã hy sinh lợi ích dân tộc của nhân dân Lào và nhân dân Campuchia tại Hội nghị Geneve năm 1954, Trong thời kỳ sau Geneve, họ ngăn cản nhân dân Lào và nhân dân Campuchia đấu tranh cho độc lập dân tộc, hòa bình, trung lập. Khi nhân dân Campuchia hoàn toàn giải phóng đất nước ngày 17 tháng 4 năm 1975, họ đã dùng bọn tay sai Pôn Pốt – Lêng xa ry để thực hiện chính sách diệt chủng, biến nước Campuchia thày một nước chư hầu kiểu mới, một căn cứ quân sự để từ đó tiến công nước Cọng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở phía tây nam. Đối với nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, họ phá hoại công cuộc xây dựng hòa bình của nhân dân Lào, trang bị và giúp đỡ các lực lượng phản động ở Lào gây rối loạn, đưa nhiều sư đoàn áp sát biên giới Lào – Trung, hòng ép nhân dân Lào đi vào quỹ đạo của Bắc Kinh. Họ chia rẽ ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia, hòng làm suy yếu và thôn timh1 từng nước.

Để che giấu bộ mặt phản bội của họ, những người cầm quyền Bắc Kinh thường hay nhắc đến việc Trung Hoa viện trợ cho nước Việt Nam, thậm chí khoe rằng quân đội của họ đã “chiến đấu ở Điện Biên Phủ”, v.v.. Nhân dân Trung Hoa đã dành một phần thành quả lao động của mình để giúp đỡ nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, xây dựng đất nước, đó là điều mà nhân dân Việt Nam, trong bất cứ tình huống nào, mãi mãi không bao giờ quên. Đối với nhân dân Việt Nam, đó là biểu hiện cao đẹp của mối tình đoàn kết chiến đấu của những người cùng chung cảnh ngộ, nhưng đối với tập đoàn phản động trong giới cầm quyền Bắc Kinh đó là một công cụ chính trị để thực hiện chính sách bành trướng của họ ở Việt Nam cũng như trên toàn bán đảo Đông Dương. Thực tế đã chỉ rõ họ đã xử dụng viện trợ đó khi thì như “một củ cà rốt”, khi thì như “một cái gậy”, tùy theo yêu cầu chính trị từng lúc của họ.

Vả lại, không chỉ có vấn đề Trung Hoa giúp đỡ Việt Nam.

Những người lãnh đạo Trung Hoa đã nhiều lần nói rằng nói đến cám ơn thì nhân dân Trung Hoa phải cám ơn nhân dân Việt Nam. Nhân dân Việt Nam đã hi sinh nhiều, cống hiến nhiều đối với nhân dân Trung Hoa. Nhân dân Trung Hoa phải cám ơn và có nghĩa vụ giúp đỡ, ủng hộ nhân dân Việt Nam. Nhân dân hai nước giúp đỡ lẫn nhau.

Về việc Tổng thống Nixon đi thăm Trung Hoa năm 1972, Chủ tịch Mao Trạch Đông đã nói với những người lãnh đạo Việt Nam tháng 6 năm 1973 như sau:

“Thành thực mà nói, nhân dân Trung Hoa, Đảng cọng sản Trung Hoa và nhân dân thế giới phải cám ơn nhân dân Việt Nam đã đánh thắng Mỹ. Các đồng chí chiến thắng mới buộc Nixon phải đi Bắc Kinh”.

Về việc nước Cọng hòa nhân dân Trung Hoa vào Liên Hợp Quốc năm 1971, Thủ tướng Chu Ân Lai đã nói trong cuộc hội đàm với các nhà lãnh đạo Việt Nam tháng 11 năm 1971:

“Cống hiến của Việt Nam rất lớn. Chúng ta gắn bó với nhau”.

Lịch sử - và trước hết là quân đội viễn chinh Pháp – đã trả lời rõ ràng câu hỏi: ai đã chiến đấu và chiến thắng ở Điện Biên Phủ năm 1954? Điều cần nói thêm là trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Chính phủ Trung Quốc có phái một số cố vấn sang Việt nam, và trong những năm 1960 Bắc kinh có đưa sang Việt Nam một lực lượng gọi là “bộ đội hậu cần” để giúp Việt Nam sửa những đoạn đường sắt và đường bộ giáp Trung Quốc bị bom Mỹ phá hỏng và làm một số đường mới ở vùng biên giới hai nước . Nhưng mặt chủ yếu họ làm là điều tra tình hình các mặt, thâm nhập những vùng có các dân tộc thiểu số và tuyên truyền “cách mạng văn hóa”. Phần lớn những gián điệp và “bộ đội sơn cước” mà phía Việt Nam đã bắt được trong tháng 2, tháng 3 vừa qua chính là những tên “bộ đội làm đường” Trung Quốc trước đây.

Từ sự phản bội ở Hội nghị Giơ ne vơ năm 1954, việc lợi dụng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cưu nước của nhân dân Việt Nam đến việc dựng lên chế độ diệt chủng Pôn Pốt – Lêng xa ry, vũ trang xâm lược Việt Nam và uy hiếp xâm lược Lào, tất cả đều do:


- một tư tưởng chỉ đạo 

chủ nghĩa đại dân tộc


- một chính sách 

ích kỷ dân tộc


- một mục tiêu chiến lược 

chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc và chủ nghĩa bá quyền nước lớn


Cụ thể là họ mưu toan thôn tính Việt Nam và toàn bộ Đông Dương, lấy đó làm bàn đạp tiến xuống Đông Nam châu Á và từng bước triển khai chiến lược toàn cầu của họ.

Để đạt mục tiêu và bành trướng bá quyền của họ-những người cầm quyền Bắc Kinh đã nâng lừa dối và bịp bợm thành một quốc sách, một thủ đoạn chiến lược. Về phương diện này, từ chỗ là những người học trò của Gơ ben 1, họ đã trở thành người thầy của Gơ ben. Họ gán cho người khác những điều mà họ muốn làm. Họ đổ vấy cho người khác những điều mà chính họ làm. Họ dựng đứng sự việc, xuyên tạc tài liệu, bóp méo lịch sử. Họ đổi trắng thay đen, đảo ngược phải trái và cứ thế mà tuyên truyền bằng bộ máy thông tin khổng lồ và mọi phương tiện khác. Họ giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa xã hội nhưng lại chống chủ nghĩa xã hội. Họ hò hét chống chủ nghĩa đế quốc nhưng chính họ bắt tay với đế quốc Mỹ. Họ kêu la phải chống hai siêu cường nhưng lại cấu kết với đế quốc Mỹ để chống Liên Xô. Họ nói chống chủ nghĩa bá quyền, nhưng chính họ mưu toan thực hiện chủ nghĩa bá quyền ở Đông Dương và Đông nam châu Á. Họ đưa quân xâm lược nước Cọng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam nhưng lại vu cáo Việt Nam “xâm lược” Trung Quốc. Họ tỏ vẻ “bảo vệ nhân quyền”, quan tâm đến “những người Đông Dương di tản”, nhưng chính họ đã giất hại hàng triệu người Trung Quốc trong cuộc “đại cách mạng văn hóa”, đã xúi dục hơn 20 vạn người Hoa bỏ Việt Nam đi Trung Quốc. Đối với những người cầm quyền Bắc Kinh, luận điệu của họ là chân lý, lợi ích của họ là đạo lý.”Quan châu được đốt đèn, dân đen không được nổi lửa”, câu nói đó của những người nông dân Trung Quốc dùng trước đây để chỉ trích sự áp bức của bọn bạo chúa phong kiến đã trở thành phương châm của những người cầm quyền Bắc Kinh hiện nay nhằm thực hiện tham vọng bành trướng và bá quyền của họ.

1. Gơ-ben là Bộ trưởng tuyên truyền của Hit le. (BT)

Hiện nay những người lãnh đạo Trung Quốc đang ra sức nêu cao ngọn cờ đại dân tộc để tập hợp các phe phái, thực hiện kế hoạch “bốn hiện đại hóa”. Về đối ngoại, họ ra sức thực hiện chính sách bành trướng ở Đông Dương và Đông nam châu Á, cấu kết với chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động khác, trước hết là với Mỹ, chống Liên Xô và cách mạng thế giới, với hy vọng tranh thủ được nhiều vốn và kỹ thuật hiện đại của phương tây, phục vụ cho “bốn hiện đại hóa”. Và mưu đồ bành trướng và bá quyền của họ.

Một Trung Quốc bị đầu độc bởi tư tưởng đại dân tộc, chủ nghĩa bành trướng và bá quyền của những người cầm quyền, bất kể phát triển theo con đường nào, không phải chỉ đe dọa độc lập dân tộc, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương, Đông nam châu Á và Nam Á, đe dọa hòa bình, ổn định ở khu vực này, mà còn đe dọa lợi ích nhiều mặt của các nước khác, kể cả các nước, vì lợi ích trước mắt, đang phụ họa với người cầm quyền Trung Quốc chống Việt Nam, Lào và Cam pu chia. Một số người thức thời trong các nhà chính trị và kinh doanh phương tây mới cảnh cáo chính phủ họ về hậu quả nặng nề có thể xảy ra khi đất nước Trung Quốc lại lâm vào một cuộc khủng hoảng chính trị nội bộ mới, nhưng họ chưa nói tới những hậu quả còn nặng nề gấp bội đối với lợi ích của các nước trên thế giới, do chính sách bành trướng của những người lãnh đạo Trung Quốc gây ra.

Trong hàng nghìn năm qua, nước Việt Nam đã bị các hoàng đế Trung Quốc xâm lược hàng chục lần, nhân dân Việt Nam hiểu rõ những ý đồ đen tối của những người lãnh đạo Trung Quốc, cho nên không một phút nào là không cảnh giác đối với họ. Thậm chí trong lúc đế quốc Mỹ đẩy cuộc chiến tranh xâm lược lên đến đỉnh cao nhất , nhân dân Việt Nam đứng trước những khó khăn chồng chất, nhưng đã thẳng thắn khước từ những đề nghị của những người lãnh đạo Trung Quốc đưa sang Việt Nam 20 vạn quân và số ô-tô cần thiết để đảm nhiệm việc vận chuyển quân sự từ miền Bắc vào miền Nam Việt Nam . Nhân dân Việt Nam luôn luôn giữ vững đường lới độc lập, tự chủ của mình không gì lay chuyển được, bất chấp sức ép dù là che giấu hay công khai, gián tiếp hay là trực tiếp, của những người cầm quyền Trung Quốc.

III

Mặc dầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam tháng 2 năm 1979 đã thất bại thảm hại cả về quân sự và chính trị, những người lãnh đạo Trung Quốc vẫn theo đuổi chính sách điên cuồng chống Việt Nam bằng mọi thủ đoạn. Phía Trung Quốc vẫn giữ thái độ nước lớn trong cuộc đàm phán về những vấn đề thuộc quan hệ giữa hai nước, vẫn ngang ngược đe dọa “cho Việt Nam một bài học nữa”. Đồng thời họ tìm cách khôi phục chế độ diệt chủng Pôn-Pốt – Lêng Xa ry đã bị nhân dân Cam pu chia lật đổ hoàn toàn, đe dọa xâm lược nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, nhằm duy trì sự uy hiếp từ mọi phía đối với Việt Nam.

“Không có gì quí hơn độc lập, tự do”. Nhân dân Việt Nam kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững đường lối độc lập, tự chủ và đoàn kết quốc tế đúng đắn của mình, quyết đập tan mọi hành động xâm lược của bất kỳ thế lực phản động nào, quyết làm thất bại mọi mưu đồ bành trướng nhằm khuất phục nhân dân Việt Nam.

Nhân dân Việt Nam có chính nghĩa, lại có sức mạnh vô địch của khối đoàn kết toàn dân, kết hợp với sức mạnh của ba dòng thác cách mạng vĩ đại đã và đang đẩy lùi từng bước các âm mưu can thiệp, nô dịch và xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dấn cũ và mới, chủ nghĩa bành trướng, và chủ nghĩa bá quyền, ngày càng làm thay đổi bản đồ châu Á, châu Phi, và châu Mỹ La tinh. Bọn bành trướng Bắc Kinh, nếu không sớm rút ra những kết luận cần thiết từ sự thất bại từ chính sách chống Việt Nam vừa qua, thì nhất định sẽ chuốt lấy những thất bại mới nặng nề hơn. Trong thời đại ngày nay, các nước lớn nhỏ đều là bộ phận của một tổng thể duy nhất của xã hội loài người. Bọn bành trướng Bắc Kinh không thể đụng đến Việt Nam mà không khiêu khích cả loài người , không thách thức cả hệ thống xã hội chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc và mặt trận nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa, các nước độc lập dân tộc và nhân dân yêu chuộng hòa bình và chính nghĩa trên thế giới đã và sẽ đứng về phía nhân dân Việt Nam.

Bằng chính sách bịp bợm “thân xa đánh gần” của các hoàng đế Trung Quốc và nhiều thủ đoạn xảo quyệt khác, những người cầm quyền Trung Quốc có thể còn che giấu được bộ mặt bành trướng của họ trong một thời gian. Nhưng sớm muộn nhân dân các nước ở Đông nam châu Á sẽ hiểu rằng chính sách thù địch của Bắc Kinh chống Việt Nam đe dọa độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ không phải chỉ của riêng Việt Nam, mà của cả các nước trong khu vực. Mọi người chắc chưa quên rằng Bắc Kinh đã dùng “đạo quân thứ năm” người Hoa để gây rối loạn về chính trị, kinh tế ở nhiều nước thuộc Đông nam châu Á trước khi áp dụng ở Việt Nam. Hiện nay trong lúc họ tập trung cố gắng để chống Việt Nam, họ chẳng đang can thiệp một cách thô bạo vào công việc nội bộ của nhiều nước khác ở châu Á đó sao ?

Những người cọng sản chân chính ở Trung Quốc, nhân dân Trung Quốc trong ba mươi năm tồn tại của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, đã luôn luôn bị các tập đoàn thống trị lừa ối, sớm muộn sẽ nhận ra chân lý và sẽ đứng về phía nhân dân Việt Nam, sẽ ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.



Cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam chống chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn của tập đoàn phản động trong giới cầm quyền Bắc Kinh để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của mình, góp phần bảo vệ hòa bình và ổn định ở Đông nam châu Á và trên thế giới tuy lâu dài, gian khổ, nhưng nhất định sẽ thắng lợi vẻ vang.

Nước Việt Nam ngày nay sẽ đứng vững và tiếp tục phát triển trước mọi mưu ma chước quỷ của những người cầm quyền Bắc Kinh, và cũng như nước Việt Nam bốn nghìn năm qua đã đứng vững và phát triển trước những cuộc xâm lược liên tiếp của các hoàng đế Trung Quốc.



Nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc nhất định sẽ sống trong hòa bình, hữu nghị và hợp tác, hợp với nguyện vọng của nhân dân hai nước và hợp với lợi ích của hòa bình ở Đông nam châu Á và trên thế giới.

Tháng 10 năm 1979

(HẾT)