Thứ Sáu, 27 tháng 2, 2015

Những kẻ chửi những người ca ngợi ông Võ Nguyên Giáp là ... Ai?




Con chiên chửi Võ Nguyên Giáp chỉ vì ông tướng đã đánh đuổi thực dân Pháp (mẫu quốc của Chiên Việt) ra khỏi bờ cõi VN làm chiên nhà ta mồ côi mất mẹ nên hận mãi muôn đời. 


Kính thưa quý vị:

Văn phong (lời văn, dữ kiện được sử dụng, và cách lý luận) cho công luận biết trình độ trí tuệ, kiến thức, và sự lương thiện của người viết.

1. Hai ông Trần Quang Diệu (TQD) và Giác Hạnh (GH) là người yêu nước (có thân cộng hay không là quyền tự do chinh trị của hai ông ấy), chống Đạo Ca Tô vì nó là một tập đoàn chinh trị và thực dân ma giáo, bịp bợm đội lớp tôn giáo, gây đau thương không những cho Việt Nam yêu quý của chúng ta mà trên toàn thế giới nhất là ở Châu Mỹ La Tinh nơi nó toa rập với bọn cầm quyền bóc lột dân chúng. Với những dữ kiện hai ông TQD và GH đưa ra, bọn nô lệ tin đồ Ca Tô Việt quá khích và cuồng tín ( vì NGU) bẻ không được nên câm miệng như hến. Để trả thù, bọn nó chửi hai ông TQD và GH một cách thậm tệ. Không biết phản biện và chỉ biết chửi là NGU và HÈN. Hai ông Trần Tiên Long và Cao Hữu Tâm tiêu biểu cho con người có cái DŨNG trong suy tư, thấy rõ cái phi lý quái đản trong giáo điều và cái bất lương trong hành động của Đạo Ki Tô nên đã bỏ đạo và trinh bày rõ ràng lý do tại sao. Bọn tin đồ Ca Tô Việt quá khích bẻ cũng không được nên cũng làm thinh. 

2. Tôi muốn biết nếu bọn Ca Tô Việt quá khích chống VC đến mức độ muốn giết hết VC và khuyến khích Trung Cộng giết hết VC, thì tại sao bọn nó câm như hến khi chủ và hoàng đế của chúng nó trơ trẽn bắt tay với lãnh tụ VC, thiết lập bang giao với VC? 

3. Chúng ta phải nhớ một dữ kiện là VNG là người có học thức có thể có một cuộc sống thoải mái sống làm nô lệ trí thức dưới chế độ Thực Dân Pháp, nhưng ông không hèn nên bỏ cuộc sống an nhàn để kháng chiến, chống Pháp. Chửi VNG vì nướng quân, vì chỉ huy cuộc chiến là cố vấn Tàu, và vì bị đì xuống làm chủ kế hoạch đẻ trong khi quên sự yêu nước của VNG và sự phản đối công khai của VNG về vấn đề Bauxite là không công bình trong việc phán xét. Sự kiện VNG vẫn được dân chúng tưởng nhớ là một việc mừng cho dân tộc vì hình bóng VNG đi đôi với kháng chiến chống ngoại xâm, rất ích lợi cho việc chống Tàu hiện đại của những phần tử can đảm yêu nước ở VN trong một tình thế khó khăn.

4. Kẻ thù của chúng ta trước sau vẫn là ngoại bang xâm lăng, chớ không phải là người Việt khác tôn giáo và chinh trị. Tôi mong những tín đồ Ca Tô Việt chân chính, không quá khích, và biết suy nghĩ, đồng ý như thế và sẽ hợp lực với dân tộc chống Tàu khi chiến tranh Việt-Tàu công khai bùng nổ không biết lúc nào. 

5. Cộng Đồng người Việt ở hải ngoại có kế hoạch gì chưa khi Tàu công khai đánh Việt Nam, hay là chúng ta quá bận trong việc chụp mũ nhau là VC và VG? Việc quan trọng thực sự không phải lằn ranh "Quốc-Cộng" vớ vẩn giả tạo mà là có yêu nước chống Tàu hay không? Có tôn trọng Sự Thật hay sống trong hoang tưởng? Có để quyền lợi dân tộc trên quyền lợi cá nhân và bè nhóm? 

Sử dụng ngôn từ lằn ranh "Quốc-Cộng" là dốt, là lỗi thời. Nên sử dụng lằn ranh "Dân Chủ-Độc Tài" vì có những đảng phái "chống cộng" nhưng không dân chủ, rất độc tài, ngụy biện, thanh toán, ám sát ngầm đối lập, và có mơ mộng làm chủ VN một mình, không dung tha đối lập trong thời đại "Hậu VC" Chúng nó có khác gì VC đâu? Chúng ta phải đề phòng chúng nó và chỉ ủng hộ những đảng phái, liên minh dân chủ thật sự. 

Trân trọng,

Wissai
canngon.blogspot.com

TÌM HIỂU CÂU " ĐÓI GIỖ CHA, NO BA NGÀY TẾT"




Viên Như


Đây là câu tục ngữ được nhiều người giải thích. Câu tục ngữ này được các nhà sưu tầm đi điền dã ghi lại, rồi căn cứ vào câu này để đưa ra nhiều giải thích khác nhau. Trước hết phải ghi nhận rằng họ đã làm một công việc chuyên nghiệp. Tuy nhiên vì căn cứ vào chữ nghĩa của câu tục ngữ ấy mà giải thích nên chi mỗi người giải thích mỗi cách, ai cũng có cái lý của mình cả.
Do câu này truyền miệng lâu ngày nên trong quá trình sử dụng nó đã rơi rụng mất một số từ trước khi các nhà nghiên cứu ghi lại, vì vậy ta thấy câu “Đói giỗ cha, no ba ngày tết” là một câu không đầy đủ, ngoài chủ ngữ được hiểu ngầm thì câu trên chỉ có hai vị ngữ, có nghĩa là hai câu độc lập, như thế nó có phải một câu đâu mà căn cứ vào đó để bình. Theo tôi ai cũng hiểu đây là câu so sánh, vế trước so sánh với vế sau, nhưng lâu ngày rơi mất từ so sánh, như thế ta cần viết lại cho đúng từ so sánh. Vậy từ ấy là gì? Ta có 3 từ:
1- Hơn “Đói giỗ cha hơn no ba ngày tết”. 
2- Thua hay không bằng “Đói giỗ cha thua no ba ngày tết”.
3- Bằng “Đói giỗ cha bằng no ba ngày tết” và câu đầy đủ của nó phải là. “Đói ngày giỗ cha bằng no ba ngày tết”.
Theo tôi câu 3 là hợp lý hơn cả. Trong tục ngữ cũng có câu so sánh tương tự. “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”.
Phân tích câu “Đói ngày giỗ cha bằng no ba ngày tết”.
Ta có: ‘Đói’ so sánh với “No” –“Giỗ cha” so sánh với ‘ba ngày tết”
Với từ ‘bằng” ta hiểu rằng “đói” bằng với “no”, “giỗ cha bằng ngày tết”.
Nhưng giỗ cha mỗi năm chỉ có một ngày, trong khi đó tết đến ba ngày. Một bằng ba thì rõ rằng giỗ cha quan trọng hơn ba ngày tết.
Còn từ “đói” ở đây có nghĩa là tối thiểu, có nghĩa là ăn ít nhất trong ngày giỗ cha cũng bằng no ba ngày tết. Ở đây người ta dùng biện pháp so sánh dùng cái tối đa để nâng cao cái tối thiểu. Ta có thể hiểu như sau: Ngày giỗ cha là ngày quan trọng, phải tổ chức long trọng, đầy đủ, nó đầy đủ đến mức chỉ cần ăn uống tối thiểu thôi cũng bằng no ba ngày tết. Bởi vì người Việt trọng hiếu đạo, hiếu đến mức Cha chết cư tang ba năm, chưa cưới vợ thì phải chờ mãn tang đủ biết hiếu đạo quan trọng đến chừng nào.
Ở những câu tục ngữ so sánh như thế này thì nếu từ so sánh là ‘bằng” thì vế trước bao giờ cũng quan trọng hơn vế sau. Tuy ý nghĩa của các từ ở vế trước luôn ít hơn về số lượng so với vế sau nhưng lại cho rằng ‘bằng”. Ít mà bằng nhiều, nhỏ mà bằng lớn thì rõ ràng đây chỉ là một cách so sánh nhằm nâng tính quan trọng của vế trước, câu “Một miếng khi đói bằng một gói khi no” cũng là một minh chứng cho điều này. Có như thế mới thành tục ngữ chứ nếu nói sao hiểu vậy thì người xưa sáng tác ra để làm gì.
Ngược lại, nếu câu tục ngữ mà từ so sánh là “không bằng” thì vế sau quan trọng hơn vế trước, như câu „ Cha chết không lo bằng gái to trong nhà”. Cha chết là chuyện đã rồi, còn chuyện gái to, gái lớn trong nhà là một mối lo thường trực, chưa biết chuyện gì xảy ra.
Cuối năm thấy thiên hạ bình câu này cũng góp một phần bình phẩm cho vui./.

Những ngày cùng tuổi




Đã định viết bài thơ đón xuân
mùa đông đóng băng
giấc mơ cài khóa
em không về sau trận lá rụng mùa
chừng như xuân vừa qua đó
parabol chiều cong ảo giác
biến thiên nỗi buồn cực đại
những ngày cùng tuổi lô nhô


Đã định viết câu thơ ngợi ca xuân
nụ non chối từ tách mầm nứt hạt
xác thối động tình
nụ non bưng mặt khóc
câu thơ sơ sinh đã tử nạn trong chiếc bong bóng bay tít trên cao
những ngày cùng tuổi không về

Đã định viết khúc biệt từ xuân
nhưng hình như xuân đã qua lâu rồi
khi mưa chưa kịp tới
những ngày cùng tuổi dắt díu nhau lưu vong
ngày xuân ngập trong cơn mù nhiệt đới
không nắng không mưa
buồn như ngày lá chết
tôi ngồi bên thềm ủ rủ đợi bóng
những ngày cùng tuổi đã qua.

26.2.15
Phương Uy

Đến tổng thống Mỹ cũng ‘lĩnh đạn’ vì nụ hôn má phụ nữ



Tác giả: Anh Tú (theo theo RT và CNN)



Trong chuyến thăm Myanmar hối giữa tháng 11 năm ngoái, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã thăm bà Aung San Suu Kyi – một nhà bất đồng chính kiến tại Myanmar. Báo Nga nhấn mạnh chi tiết ông Obama ôm bà Aung và mô tả đó là “một cái ôm vụng về”. Đồng thời chi tiết ông Obama thì thầm vào tai bà Aung cũng được mô tả bằng từ “ướt át”.

Họ không quên nói rằng bà Aung đã góa chồng từ 15 năm nay nên hành động của ông Obama không được “phải phép” cho lắm. Báo Nga cũng kể lại đây không phải lần đầu tiên ông Obama tỏ ra quá thân mật với góa phụ Myanmar vì 2 năm trước đó, khi gặp bà Aung thì Tổng thống Mỹ cũng hôn nhẹ vào má bà này.

Trong các vụ ông Obama hôn nhẹ vào má bà Aung San Suu Kyi trước đây, báo Nga không mổ xẻ nhiều vì quan hệ Nga – Mỹ khi đó không căng thẳng. Nhưng đến cuối năm 2014, quan hệ hai nước đã rất xấu do khủng hoảng Ukraine dẫn đến đối đầu Đông Tây. Việc báo Nga châm biếm nụ hôn của ông Obama với bà Aung chỉ là cách để trả đũa việc báo chí Mỹ chơi xấu Tổng thống Nga Vladimir Putin.

Vài ngày trước khi ông Obama tới Myanmar thì báo chí Mỹ thi nhau châm biếm việc ông Putin cởi áo khoác cho bà Bành Lệ Viên – phu nhân của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình khi dự hội nghị APEC tại Bắc Kinh. Báo chí Mỹ cho rằng một người đã ly dị vợ như ông Putin thì không nên có cử chỉ quá thân mật với vợ của nguyên thủ quốc gia khác.

Thật ra trước đây, ông Putin cũng từng nhường áo khoác cho bà thủ tướng Đức Angela Merkel nhưng báo chí phương Tây khi ấy không mổ xẻ nhiều. Thời điểm ông Putin khoác áo cho bà Merkel, quan hệ Đông Tây chưa căng thẳng nên hành động đó còn được coi là ga lăng.
Có thể thấy, tùy vào thời điểm và tùy vào thái độ mà một hành động có thể bị đánh giá khác nhau, đặc biệt với các nhân vật nổi tiếng.
————
http://motthegioi.vn/quoc-te/thi-su-quoc-te/den-tong-thong-my-cung-linh-dan-vi-nu-hon-ma-phu-nu-158397.html

MỘT HIỆN TƯỢNG ĐÁNG LO NGẠI


Đào Tiến Thi

Vào những dịp cuối năm và đầu năm, tôi thường có những việc phải về quê, nhân đó mà chứng kiến hoặc nghe kể biết bao cảnh “xuống” (theo cách nói của Tản Đà) của xã hội làng quê truyền thống. Ngoài những sự tranh giành, chém giết mà báo chí thường nêu, tôi thấy hiện tượng này mới thực sự đáng lo ngại: ĂN NHẬU và VUI TRÀN CUNG MÂY (tạm gọi như vậy) đến phát sợ. Có thể kể một số biểu hiện sau:

1. Đám ma, đám cưới, khao thọ, giỗ chạp mỗi ngày một to, thủ tục mỗi ngày một rườm rà và thêm những biến tướng mới. Ví dụ: đám ma kéo dài thêm thời gian quàn thi thể người chết để làm được nhiều các trò cúng tế; đám cưới thì cưới hai lần cho những người sinh vào các năm Đinh, Nhâm, Quý, để tránh phải đi “hai lần đò”[1],…

2. Ngày càng có thêm các cuộc gặp gỡ để ăn nhậu: hội đồng niên, hội đồng ngũ, hội những gia đình ba con, năm con,… Có gia đình riêng mùa cưới hỏi giỗ chạp năm nay đã phải bán đi 7 tạ thóc để chi cho việc đi ăn cỗ.

3. Lượng rượu, bia uống mỗi ngày một nhiều. Kiểu uống “nhâm nhi” của các cụ xưa gần như không còn nữa. Thay vào đó là kiểu “nốc” rượu: nốc chúc nhau tại mâm rồi lại mỗi người lần lượt cầm cái chén đi chúc các mâm, đều uống theo cách “nốc” một phát/ một chén rồi bắt tay - cái tay dính lem nhem thức ăn. Chúc một vòng, rồi lại vòng nữa, vòng nữa…

4. Số người bệnh ung thư và bệnh tâm thần mỗi ngày một nhiều. Cũng có một số người cảm thấy nguyên nhân từ rượu nhưng điều đó cũng chẳng ảnh hưởng gì đến các cuộc vui tràn cung mây.

5. Trong mâm rượu người ta gần như không nói chuyện chính trị - xã hội như ngày trước, mà chỉ nói những chuyện lên chức lên “lon”, chuyện về các “con” xe, “con” di động,... Rồi thì thơ phú tuôn ra rào rào trong các cuộc gặp gỡ này.

Những hiện tượng trên diễn ra một cách tự phát. Một số người cũng thấy “chướng” vì vừa tốn kém tiền của và thời giờ lại vừa lố bịch. Nhưng chẳng ai “dại” mà chống lại dòng nước lũ này. Có người chê trách nhà khác là xa hoa, rởm đời, nhưng đến lượt nhà mình lại làm như vậy, có khi còn hơn.

Những điều kể trên, trước mắt, nó làm người dân hoang tưởng rằng cuộc sống đang “nở hoa”, đang ngày càng thịnh vượng, từ đó quên đi các chuyện bức xúc, vô lý, khổ đau có thật. Và nhất là nó làm người ta bận rộn, đam mê việc làng đến quên đi việc nước. Dân quê vốn thiết thực. Đầu óc họ còn lúc nào mà để ý chuyện biển đảo của đất nước đang ngày càng bị đe doạ nữa. Còn về lâu dài, nó làm cho con người Việt Nam dần dần mất gốc và bại hoại cả thể xác lẫn tinh thần. Đến thời điểm nào đó, nhà cầm quyền Bắc Kinh có thể thò tay mà nhúp nước Việt Nam dễ dàng.

Điều lạ là những việc như thế ngày trước (thời bao cấp, thời nguyên vẹn tính chất XHCN) chính quyền, đoàn thể can thiệp rất sát sao. Chính quyền thậm chí còn cấm ăn uống trong các đám cưới. Đám nào cố tình, có khi dân quân đến tịch thu cả rượu thịt đã bày ra mâm. Nhưng ngày nay, chính quyền, trong khi vẫn rất hà khắc trước những hành động đấu tranh của nhân dân, thì các hiện tượng xuống cấp văn hoá trên lại được buông, được làm ngơ, được coi là “bình thường”.

Quan niệm sai? Sự vô trách nhiệm? Hay còn có gì đó thuộc bề sâu của vấn đề còn ẩn khuất?

Xin kể thêm mấy câu chuyện để chúng ta cùng suy nghĩ.

Mới đây trong một cuộc liên hoan, tôi ngồi cùng một vị cựu quan chức, người ta hỏi sao ông ngoài bảy mươi mà trông lại tráng kiện hơn trước, thì ông ấy nói rằng, do ông tập pháp luân công (PLC). Khi ngà ngà say, ông ấy bảo: “Các vị biết vì sao Trung Quốc nó cấm PLC không? Là vì PLC làm cho con người khoẻ mạnh, cường tráng, tinh thần minh mẫn. Người ta sẽ rủ nhau theo hết PLC. Tập Cận Bình có lần nói rằng “PLC tranh hết quần chúng của Đảng là vì thế”.

Tôi được nghe mấy năm vừa qua, có rất nhiều phóng viên các báo đi Trường Sa. Mục đích chuyến đi tất nhiên là tìm hiểu, thăm hỏi, động viên chiến sỹ giữ gìn biển đảo. Tuy nhiên, cảm giác của nhiều phóng viên khi về lại là sự thất vọng. Thất vọng vì cảnh thiếu thốn và cả tinh thần thiếu tin tưởng của các chiến sỹ quân đội ta. Và dư âm để lại cho nhiều phóng viên sau chuyến đi là: ta không thể đấu với Trung Quốc được!

Mới đây TP. Hà Nội chủ trương cho bắn pháo hoa thường xuyên trên cầu Nhật Tân chứ không chỉ bắn vào những ngày lễ trọng đại của đất nước. Khi Dư luận phản đối thì một vị quan chức – ông Phan Đăng Long, Phó trưởng Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội giải thích: “Biết đâu, những người nghèo họ cũng khao khát được xem bắn pháo hoa, những lúc thưởng thức bắn pháo hoa giúp họ quên đi cái nghèo, cái khó, những cái vất vả luôn đeo bám cuộc sống của họ bấy lâu nay”.

Cả sự vui vẻ nhố nhăng lẫn sự chán nản, thất vọng đều làm tiêu mòn nguyên khí quốc gia. Những người cầm quyền ấu trĩ, dốt nát hay thờ ơ vô trách nhiệm, hay thậm chí chủ tâm cứ để mọi sự tự phát phát triển để dân chúng dần dần mất gốc và bại hoại cả thể xác lẫn tinh thần cho dễ cai quản, lèo lái? Tôi chưa kết luận là cái nào. Nhưng dù thế nào thì hậu quả của nó cũng là có hại vô cùng. Và cái nguy hại mang vẻ rất riêng của nó là: một quá trình mất nước từ từ khiến đa số không quan tâm.

Các triều đại phong kiến xưa cũng như các nước đế quốc trong thời kỳ tìm đất thực dân, nhìn chung, họ khuất phục các dân tộc khác bằng vũ lực, sau đó mới nô dịch bằng văn hoá, tinh thần; tuy nhiên lịch sử cũng cho thấy nó có thể diễn ra bằng một số con đường khác. Nhà thơ Inrasara (Việt Nam nhìn từ huyền thoại ít được biết đến, Tạp chí Nghiên cứu và phát triển số 3 – 4/2015) cho rằng quá trình mở cõi của người Việt về phía Nam được tiến hành bằng cả hai phương thức: bằng gươm và bằng mỹ nhân. Ngoài Huyền Trân công chúa, về sau còn có các công chúa khác như Ngọc Khoa, Ngọc Vạn tiếp bước “mượn màu son phấn đền nợ Ô, Ly”, góp phần hoàn tất quá trình Nam tiến của người Việt. Nhưng rõ ràng người Việt chỉ thực hiện được điều này bởi có những ông vua Chăm ham sắc (và coi thường nhân dân) đến độ đánh đổi cả lãnh thổ quốc gia. Sự đồi bại về văn hoá và tinh thần của người Việt Nam hôm nay, thiết nghĩ là đã vô hình tạo điều kiện để nhà cầm quyền Bắc Kinh thôn tính bằng sức mạnh mềm.

Để phân tích tìm ra nguyên nhân và hậu quả các hiện tượng trên cần có sự khảo sát, nghiên cứu kĩ hơn. Tuy nhiên, một điều có quy luật là: Nước mất nhưng văn hoá, tinh thần còn thì vẫn có điều kiện để khôi phục độc lập. Nhưng mất văn hoá, mất tinh thần dân tộc là mất gốc, dù hiện tại chưa mất nước nhưng lại tiềm ẩn nguy cơ mất nước rất cao.

ĐTT

(24-2-2015)


[1] Thời xưa, những người tin thuyết số mệnh cho rằng “Trai Đinh, Nhâm, Quý thì tài/ Gái Đinh, Nhâm, Quý phải hai lần đò”. (Hai lần đò: hai lần lấy chồng). Để hoá giải điều này, khi cưới, người ta tổ chức hai lần đưa rước dâu, trong đó một lần mang ý nghĩa tượng trưng (chắc là để đánh lừa quỷ thần). Nếu chỉ có thế thì cũng không đáng trách lắm, chỉ hơi mệt cho thủ tục đưa rước dâu. Tuy nhiên ngày nay, nhiều cặp hôn nhân làm hai lần đám cưới và đưa rước râu ở hai lần cách xa nhau, tức cả hai lần đều là thật một trăm phần trăm. Như thế sự ngu muội đã đến cực điểm.

( Nguồn: Internet)

Thứ Năm, 26 tháng 2, 2015

Ba Tàu Tự Sự 40 Năm Hải Ngoại Được Mất Những Gì?




Arjen Nguyen


Không biết xuất phát từ đâu và từ bao giờ, người VN gọi chúng ta là “Ba Tàu”, là “thằng chệt” với hàm ý phân biệt đối xử và miệt thị. Có lẽ họ còn hận cha ông chúng ta ngày xưa đã đặt ách thống trị cả ngàn năm lên đất nước này. Và cũng có thể họ ghen tức với sự thành công của chúng ta tại miền Nam trước đây.

Dù cho ngày nay hai nước có 16 chữ vàng để vuốt ve nhau, dù cho người ta hát lên những bài ca hữu nghị núi liền núi sông liền sông để ca ngợi nhau, dưới mắt người dân VN, chúng ta vẫn là là “Chệt Ba Tàu ăn rau sình bụng”

Hoa Kiều Saigon chúng ta ở Chợ Lớn từng có một thời hoàng kim, từng có tiếng tăm lẫy lừng trước ngày 30.4.1975. Ngày xưa cha ông chúng ta qua đây để chạy loạn và cũng để kiếm sống. Đất nước VN đã nối tiếp bao thế hệ chúng ta kể từ những người di cư đầu tiên vào thế kỷ thứ 3 trước công nguyên. Người Hoa Chợ Lớn của chúng ta chỉ mới định cư từ thế kỷ 19 khi người Pháp tuyển mộ hàng loạt phu đồn điền. Năm 1949 khi Tưởng Giới Thạch thua ở lục địa, một số người Hoa chúng ta di cư sang VN chẳng khác gì những người Mỹ gốc việt ra đi năm 1975.





Ảnh minh họa

Cha ông chúng ta tha phương cầu thực đến đây lấy sức làm phu, bán mồ hôi cho chủ đồn điền để kiếm sống, hay oằn vai với gánh ve chai trên lưng, và cũng từ gánh ve chai đó mà hôm nay thế hệ chúng ta đã thành đạt trên đất nước này. Dù chúng ta nói tiếng Việt rành hơn là tiếng mẹ đẻ nhưng chúng ta vẫn luôn tự hào và hãnh diện rằng ta là người Trung Hoa vì tổ quốc Trung Hoa chúng ta đã vươn lên hàng đầu thế giới về nhiều mặt.

Đất nước chúng ta có rất nhiều điểm giống với VN. Cũng da vàng mũi tẹt cũng văn hóa Á Đông, cũng tương đồng về tập quán tín ngưỡng, giống nhau về thể chế chính trị và ta cũng có một bộ phận không chấp nhận CS sống riêng biệt ở ĐàiLoan.

► NGƯỜI VIỆT Ở MỸ cũng bỏ nước ra đi như chúng ta, nhưng có điều lạ là trong số họ có những nhóm người rất ồn ào không hề tự hào về đất nước họ dù rằng VN ngày nay đang được cả thế giới khen ngợi. Họ đến Mỹ cũng y như cha ông chúng ta ngày xưa chỉ với bộ quần áo trên người, nhưng họ sướng hơn cha ông chúng ta rất nhiều vì nước Mỹ có những chính sách an sinh xã hội rất tốt cho nên họ không phải quảy trên lưng gánh ve chai. Tuy nhiên họ không dám cam đảm như chúng ta để nhận rằng họ bỏ nước ra đi vì nạn đói kém sau chiến tranh ở VN mà họ cho rằng họ bỏ nước ra đi không phải vì đói mà vì tị nạn CS, nói như thế nó mới chính trị, nó mới sang. Thừa nhận chạy trốn đói tha phương cầu thực thì quá tầm thường.

Phải chăng cuộc sống tốt ở Mỹ đã làm thay đổi nhân cách của họ. Phải chăng không phải quảy gánh ve chai, không phải lo mưu sinh cho nên họ mới có thì giờ tụ tập nhau lại để cùng nhau đốt lửa hận thù. Họ chống lại đất nước họ thậm tệ, họ không muốn nước họ giàu lên, họ chống lại bất cứ điều gì làm cho nước họ phát triển và thật khó hiểu là họ còn muốn nước chúng ta phải xâm lăng nước họ cho dân họ lầm than thì họ mới hả dạ.



Người Tàu Chung sức làm một chảo cơm chiên lớn nhất thế giới
đón chào năm mới tại Costa Rica


Cha ông chúng ta tha phương cầu thực rồi định cư ở VN vì đây là đất lành, chúng ta lập ra những bang hội để giúp nhau, sự đoàn kết giúp chúng ta tồn tại và giàu có. Chúng ta ra sức làm ăn cần mẫn để phát triển và hướng đến tương lai con cháu, chúng ta đã thành công nhưng bao đời nay chúng ta vẫn luôn mơ về tổ quốc.

Phải nói rằng thời cực thịnh của chúng ta là thời trước 30.4.1975. Chúng ta cám ơn chế độ VNCH, chế độ mà những người Việt chống cộng ở Mỹ đang tôn vinh. Chế độ này đã giúp cho chúng ta ăn nên làm ra và nắm giữ một tỷ lệ rất quan trọng của nền kinh tế. Nhờ chế độ này mà từ gánh ve chai của tiền nhân, chúng ta đã nắm giữ và kiểm soát hầu như toàn bộ các vị trí quan trọng của nền kinh tế miền Nam VN đặc biết trong 3 lãnh vực, sản xuất, phân phối, và tín dụng. Đến cuối năm 1974, chúng ta đã kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện…và gần như đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ, và 90% xuất nhập cảng. Ỏ miền Nam VN Hoa kiều chúng ta gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả thị trường. Người Việt cứ khen rằng chúng ta giỏi thương mại nhưng không hẳn thế. Chính cái chế độ VNCH đã quá ưu đãi chúng ta và trong chế độ này bất cứ điều gì chúng ta cũng có thể mua được bằng tiền.

► TRƯỚC 30/4/1975 CHÚNG TA MUA ĐỨT suốt mọi thời kỳ cái ghế quận trưởng quận 5 là cái chức quyền lực cai quản vùng Chợ Lớn. Chúng ta mua thông tin từ các bộ, từ các tướng lãnh quân đội, từ các tỉnh trưởng, quận trưởng, tiểu khu trưởng để nắm thời cơ. Chúng ta mua đứt những gói thầu béo bở , thâu tóm vật liệu chiến tranh, và hầu hết những mặt hàng thiết yếu của nền kinh tế.

Chính vì vậy Chợ Lớn, thủ phủ Hoa Kiều tại VN của chúng ta là nơi kiểm soát nền kinh tế miền Nam. Những ông cán bộ nằm vùng CS cư trú trong địa bàn Chợ Lớn an toàn hơn bất cứ nơi nào ở SaiGon. Ngô Đình Diệm cũng chọn Chợ Lớn để ẩn náu khi bị quân đảo chính truy lùng.

Trong những ví dụ cho sinh viên kinh tế, những người giảng dạy thường nêu hình ảnh một con đường có 2 tiệm tạp hóa, một của người VN và một của người Tàu. Một thời gian sau, tiệm của người VN chết trước, cuối cùng chỉ còn tiệm của người Tàu. Người ta lý giải rằng, nếu một thùng dầu lửa mua 20 đồng người VN chỉ bán 20 đồng rưỡi thì người Tàu bán có 20 đồng xem như không có lãi. Dĩ nhiên người VN chẳng thể hiểu được tại sao và phải dẹp tiệm. Chẳng phải chúng ta có vốn liếng, chẳng phải chúng ta có tài giảm chi phí. Bí quyết nằm ở chỗ chúng ta đục một lỗ kim ở đáy thùng rôì rút bớt ra nửa lít thế thôi. Sau khi tiệm người VN đóng cửa thì chúng ta bán 21 đồng thậm chí 22 đồng mà vẫn chẳng có ai phàn nàn.



Phố Tàu tại Washington DC

► NGƯỜI VIỆT KHÔNG THỂ CẠNH TRANH thương mại với chúng ta vì chúng ta đoàn kết, vì chúng ta thừa khả năng làm hàng nhái, hàng giả, thừa ma giáo trong thương trường. vì thế mới có câu nói của người Việt là “Hồng Kông bên hông Chợ Lớn”. Và điều quyết định nhất là chúng ta có cái ô dù rất lớn của chế độ VNCH. Những ông vua lúa gạo, vua sắt thép, những ông trùm hàng quân tiếp vụ đều là người Tàu chúng ta. Chúng ta có khả năng biến hóa giá cả bất cứ mặt hàng nào, chỉ cần một tin đồn chúng ta có thể giải quyết xong hàng tồn kho một sớm một chiều. Chúng ta có khả năng tích trữ rất lớn những mặt hàng khan hiếm để tung ra thị trường khi cần.

Khi ông tướng râu kẽm Nguyễn Cao Kỳ nhậm chức Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương ông đã nhận ra mối đe dọa từ khả năng thống trị và lũng đoạn của chúng ta về thương mại, ông ra lệnh tử hình ông Tạ Vinh, một tay trùm lúa gạo người Tàu để răn đe, nhưng một ông Tạ Vinh chết chằng ảnh hưởng gì đến Chợ Lớn, một mình ông Kỳ chẳng thể đội đã vá trời, với đồng tiền chúng ta vẫn phây phây tồn tại.

► NẾU NÓI ĐẾN THÙ HẬN thì phải nói dân Chợ Lớn chúng ta cùng chung mối thù với những người Việt đang chống cộng tại Mỹ. Ngày xưa, chúng ta có thể mua được ông bộ trưởng, chúng ta có thể mua đứt cái ghế quận trưởng có thể làm mưa làm gió thương trường ở miền Nam nhưng chúng ta vẫn phải cay đắng bóp bụng đóng thuế đều đặn cho các ông giải phóng nằm vùng mà không thể báo cho cảnh sát và cũng không có cách nào khác, không thể làm gì được nếu muốn yên thân.

Sau 30.4.1975 họ mở chiến dịch đánh tư sản mại bản mà nạn nhân hầu hết là Hoa kiều Chợ Lớn. Với chế độ này chúng ta chỉ biết tích trữ vàng bạc chờ thời cơ tuy nhiên thời hoàng kim của chúng ta đã thực sự chấm dứt rồi. Năm 1979 khi Trung Quốc tấn công VN, một bầu không khí nặng nề bao trùm cộng đồng Hoa kiều chúng ta. Tất cả những viên chức có chút chức vụ trong chính quyền đều bị phế truất, Hoa kiều bị phân biệt đối xử và giám sát nghiêm ngặt. Vào những năm này, VN chưa mở cửa thị trường với thế giới nên chúng ta không thể phát huy sở trường của mình là thương mại. Họ cài cắm những cán bộ Hoa vận vào cộng đồng chúng ta để giám sát. Hoa kiều và Thiên Chúa Giáo là hai đối tượng không thể kết nạp đảng.

Trong các tháng 3, 4 năm 1978, khoảng 30.000 doanh nghiệp lớn nhỏ của Hoa kiều bị quốc hữu hóa. Vị thế kinh tế của đa số tư sản Hoa kiều bị hủy bỏ, nhà nước thắt chặt kiểm soát nền kinh tế.

Áp lực nặng nề lên người Hoa chúng ta đến nỗi nhiều người đã sống mấy đời ở VN phải bỏ lại tài sản để về Trung Hoa làm lại từ đầu. 250 ngàn người Hoa đã chạy sang TQ năm 1979 qua biên giới phía Bắc chúng ta gọi sự kiện này là nạn kiều.

Họ cảnh giác với chúng ta là lẽ đương nhiên vì dòng máu Trung Hoa vẫn chảy trong huyết quản chúng ta,nếu xung đột lan rộng giữa nước chúng ta và VN thì chúng ta là mối nguy hiểm tiềm tàng. Những người Việt chống cộng ở Mỹ thường hay nói rằng VN khiếp nhược trước Trung Cộng, là tay sai của người Tàu. Họ chẳng hiểu tí gì về chúng ta, chẳng hiểu gì về chính dân tộc của họ, họ chẳng hiểu tí gì về CS đối tượng mà họ đang chống.

So với chế độ VNCH trước đây, trong chế độ CSVN Hoa Kiều chúng ta như những con hổ bị vặn hết nanh, con cua bị bẻ hết càng. Tinh thần dân tộc chủ nghĩa của người Việt rất ghê sợ, nếu có chủ trương của chính quyền để kích động bài Hoa thì chắc chắn chúng ta không còn đất sống. Những người lãnh đạo VN hiểu rất rõ vũ khí từ tinh thần yêu nước của dân tộc VN. Họ đã sử dụng vũ khí đó đánh bại người Mỹ mà họ gọi là chiến tranh nhân dân.

► THÁI ĐỘ MỀM DẺO CỦA CHÍNH QUYỀN VN đối với những tranh chấp căng thẳng với chúng ta ở biển Đông nằm trong sách lược ngoại giao rất khôn ngoan của họ. Họ tự tin vì đằng sau họ là cả một dân tộc anh hùng.

Những nhà lãnh đạo Trung quốc hiểu rõ và rất e ngại một khi tinh thần dân tộc ở VN được phát động thì làn sóng bài Hoa sẽ không thể ngăn cản được và mối nguy hiểm cho Hoa Kiều sẽ gấp nhiều lần năm 1979. Thế nên mới có chuyện các nhà lãnh đạo hai nước gặp nhau để giảm nhiệt làn sóng chống Trung Quốc trong nước. Những người Mỹ gốc Việt chống cộng hiểu rõ điều này cho nên họ luôn tìm cách kích động bài Hoa để gây xáo trộn trong nước gây khó khăn cho chính quyền, thỏa mãn khát vọng trả thù..

Những năm tháng VN gọi Trung Quốc là “bọn bành trướng Bắc Kinh” là những năm tháng khổ nạn cho Hoa Kiều chúng ta. Chúng ta phải cố giấu đi cái gốc gác của mình. Con cháu chúng ta mang họ Tàu bị kỳ thị, công chức bị sa thải, bị phân biệt đối xử, hàng hóa chúng ta bị tẩy chay.

Xưa nay người Việt vẫn không ưa thích người Tàu vì nhiều lý do như ta đã biết. Chính yếu tố này được những người Việt chống cộng ở Mỹ khai thác để kích động lòng dân. Họ kích động dân không phải họ yêu nước mà chống chúng ta. Họ chỉ muốn làm khó cho nhà cầm quyền VN, càng gây rối được họ càng thỏa mãn. Họ nói chính quyền VN cho chúng ta vào khai thác Bô Xít ở Tây Nguyên là mắc bẫy âm mưu người Tàu, sau này ta sẽ sinh con đẻ cái rồi thôn tính VN. Họ nói cho chúng ta trúng được những gói thầu lớn vì chính quyền VN là tay sai người Tàu, khiếp nhược Tàu, phải dành ưu ái cho người Tàu v.v… Họ đánh lừa và kích động được rất nhiều người Việt yêu nước hải ngoại bằng chiêu bài này.

Nếu là người Hoa sống ở VN ai cũng thấm thía rằng những nhà lãnh đạo VN luôn xem chúng ta là đối tượng cảnh giác số 1. Mỹ tuy đã gây biết bao thảm họa chiến tranh trên đất nước VN, Trung Quốc bỏ biết bao của cải để yểm trợ VN trong cuộc chiến này. Thế nhưng nhân dân và những nhà lãnh đạo VN ngày nay chẳng ai còn xem Mỹ là kẻ thù mà ngược lại, TQ lại bị xem là mối đe dọa nguy hiểm, là kẻ thù tiềm tàng số 1.

Những chính sách của VN về ngoại giao và quốc phòng đã cho thấy càng ngày họ càng xích gần đến Mỹ và cảnh giác cao độ với chúng ta. Chợ Lớn ngày nay không còn thời hoàng kim cũ, hàng hóa xuất xứ từ TQ bị kỳ thị, dù có tốt đến đâu vẫn bị xem là hàng kém chất lượng chỉ được giới bình dân sử dụng vì giá rẻ.

Chúng ta đang sống khá bình đẳng với người Việt trong nước nhưng chúng ta vẫn có cảm giác rằng chúng ta là công dân loại 2 vì họ vẫn cảnh giác chúng ta, không tin tưởng chúng ta, vẫn không xếp chúng ta vào các chức vụ quan trọng, không cho chúng ta làm việc trong những ngành liên quan đến an ninh quốc phòng. Tuyệt đối không có dây mơ rễ má huyết thống người Tàu khi làm trong những lãnh vực bí mật quốc gia. Còn nhớ những năm chiến tranh, khi họ còn nhận viện trợ của chúng ta nhưng Miền Bắc họ không bao giờ cho người Hoa chúng ta đi nghĩa vụ quân sự. Bởi vì họ không muốn có người Tàu tham gia cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của riêng họ và lý do lớn nhất là vì họ rất cảnh giác với chúng ta. Thế mà những người Việt chống cộng cứ rêu rao rằng VN đang khiếp nhược và phục tùng TQ. Nói được như thế vì họ không phải là người Tàu để có thể hiểu và thấm thía nỗi niềm cư dân loại 2 như chúng ta và họ cũng không phải là người Việt để có những cảm xúc tự hào của người Việt.

Họ luôn nói rằng chế độ CS ở VN là lệ thuộc là tay sai Tàu, là bán nước cho Tàu, là nhu nhược v.v… nhưng họ không biết hoặc cố tình bịt mắt để không thấy rằng chính những người CS luôn tìm cách loại trừ những tàn tích văn hóa, ngôn ngữ ảnh hưởng từ người Tàu chúng ta. Họ giảm thiểu đến mức có thể để hạn chế tối đa những từ ngữ Hán Việt làm cho nó thuần Việt, bình dân, trong sáng và dễ hiểu. Họ không nói “quốc gia“ mà họ gọi là “nhà nước”; họ nói “nhà máy nước Saigon” chứ không nói “Saigon thủy cục“ như những người VNCH.

Những từ ngữ dịch từ nước ngoài như sofware chẳng hạn họ dịch là “phần mềm” chứ không dịch là “nhu liệu” như những người Việt hải ngoại thích dùng từ Hán Việt. Họ dùng từ “làm sáng tỏ” chứ không dùng từ “bạch hóa” họ dùng từ “người cao tuổi” chứ không nói “niên trưởng” .

Họ nói máy bay chứ không nói phi cơ, họ nói xe bọc thép chứ không nói thiết vận xa v.v … Bất cứ từ ngữ nào nếu Việt hóa được là họ làm, không như những người Việt chống cộng ở Mỹ cứ cho rằng sử dụng càng nhiều ngôn ngữ Hán Việt mới thể hiện ta là người có học.

Những người chống cộng luôn chê Việt Cộng là dốt nát vì không biết sử dụng những từ Hán Việt mà họ cho rẳng như thế mới có học, mới sang. Họ đâu biết rằng chính mình mới là đầu óc bã đậu. Họ đâu biết rằng chính những người CS đang cố bóc ra những tàn tích văn hóa ngôn ngữ ngoại bang. bảo tồn bản sắc đặc thù của dân tộc họ. Chính những người chống cộng mới là người vọng ngoại và tôn vinh chúng ta.

Như vậy chúng ta có thể thấy tinh thần dân tộc của những người CS mới là đáng sợ. Những người chống cộng ở Mỹ đối với chúng ta rất tầm thường nhưng họ lại là bạn ta vì cùng chung với chúng ta một kẻ thù. Họ biểu tình chống TQ nhưng mặt trái là họ chống chính đất nước mình. Họ chẳng có gì đáng sợ cho chúng ta, ngược lại ta cần khuyến khích họ. Họ bài hàng Việt, chống hàng Việt nhưng chẳng bao giờ họ chống hàng hóa chúng ta, có chống cũng chỉ giới hạn ở cái mồm hô khẩu hiệu. Nếu có xung đột cần đến nội công ngoại kích thì chính họ là lực lượng chúng ta cần.

Chế độ VNCH là ân nhân của chúng ta, là bệ phóng cho chúng ta một thời, chế độ này tạo ra thời hoàng kim của Hoa Kiều Chợ Lớn. Chế độ này chết đi kéo theo sự chết thảm của chúng ta. Nguyên nhân tận cùng cũng là bởi những người CSVN. Chúng ta hận họ nhưng chúng ta không cô độc vì chúng ta có bạn là chính những ngưởi Việt chống cộng ở Mỹ cũng hận họ như chúng ta. Với người Tàu chúng ta, họ là bạn, là đồng minh.

Chúng ta đang ở VN, chống lại nhà cầm quyền là điều dại dột, dường như chẳng có Hoa Kiều thứ thiệt nào chơi dại chống lại nhà cầm quyền, chỉ những anh VN chống cộng ngựa non háu đá hay những anh chẳng hiểu gì về CS mới dại dột tự dẫn mình vào tù.

Còn nhớ những năm đầu sau chiến tranh, chúng ta treo hình Mao Trạch Đông và cờ Trung Quốc ở Chợ Lớn, chúng ta chống lại việc nhập quốc tịch VN ngỡ rằng người Tàu chúng ta đã giúp họ làm nên chiến thắng thì người Hoa Chợ lớn cũng phải có những ưu tiên và được nể nang, nhưng chúng ta đã lầm to. Chính lầm lẫn đó đã dẫn đến sự kiện “nạn kiều”.

► NGƯỜI VIỆT CHỐNG CỘNG Ở MỸ ĐANG LÀM THAY NHỮNG GÌ CHÚNG TA MONG MỎI. Giả dụ rằng tương lai VN có nghèo đi bởi những người Việt chống cộng này cố vận động, thỉnh nguyện Mỹ ngưng giao thương với nước họ thành công thì cái công làm nghèo đất nước của họ sẽ rất đáng được chúng ta ghi nhận, đáng được chúng ta vinh danh và biết ơn. Một nước VN hùng mạnh sẽ là trở ngại lớn nhất chúng ta vấp phải trên con đường Nam tiến.



Biểu tình chống Trần Trường - Chống báo Người Việt - Chống báo Việt Weekly ....

Người Việt chống cộng ở Mỹ tự hào rằng họ có một thủ phủ người Việt ở Mỹ như thủ Phủ Hoa Kiều Chợ Lớn một thời. Nhưng không bao giờ họ có được sức mạnh như chúng ta vì ngoài việc chống cộng họ còn bận chống nhau suốt 37 năm rồi. Chính họ làm tổn thương và suy yếu lẫn nhau. Họ không thể có những bang hội đoàn kết giúp nhau tạo sức mạnh như chúng ta mà chỉ có những hội đoàn chỉ chú tâm việc phô trương thanh thế và đầy ảo vọng. Họ thích được phô truơng, thích được khen, được nịnh mà thiếu trầm trọng cái thực chất. Thậm chí họ ảo tưởng họ đang sở hữu một quyền lực khả dĩ có thể làm thay đổi chế độ chính trị ở VN. Họ tâng bốc nhau, vinh danh nhau, gắn lon cho nhau và tự xem đó là … quân lực của họ.

Họ chưa bao giờ là một thế lực, chưa bao giờ là một tổ chức có quy củ và kỷ luật có thể gây áp lực gì với chính quyền VN, nhưng ít ra họ với ta là bạn, Chế độ VNCH của họ với ta là ân nhân, ta với họ có chung những mất mát và hận thù.

Điểm duy nhất chúng ta hoàn toàn khác biệt với họ là chúng ta không có khái niệm về “người Tàu Quốc Gia” và “người Tàu Cộng Sản” dù rằng nước ta có hoàn cảnh chẳng khác họ bao nhiêu. Chúng ta chỉ có một tổ quốc Trung Hoa vĩ đại và đó chính là niềm tự hào của dân tộc chúng ta .

Arjen Nguyen

LẠI THÊM MỘT VỤ ĐẠO THƠ



Mai Văn Hoan

QTXM- Tôi nghe nhà thơ Mai Văn Hoan kể về việc thơ anh Hoàng Bình Trọng bị ăn cắp, rồi được giải thưởng, được tuyển vào tập thơ viết về chiến tranh chống Mỹ của NXB Thanh Niên mà uất ức không ngủ được. Liền bấm máy cho Mai Văn Hoan bảo hãy viết để đưa ngay việc này lên mạng. Nhà văn Hoàng Bình Trọng năm nay U80 rồi, phải bảo vệ tác phẩm của anh đến cùng. Mời bạn đọc cùng sẻ chia câu chuyện

Bài thơ Về với mẹ in trong tập Những miền ký ức của nhà thơ Hoàng Bình Trọng, NXB Văn học – 2002. Lời bình của tôi về bài thơ Về với mẹ được đăng ở báo Quân đội Nhân dân ct, ra ngày 02-8-2007. Mới đây, tôi lại thấy bài thơ này xuất hiện ở trang 64, trong tuyển tập Bài ca bất tử, do NXB Thanh Niên ấn hành, năm 2014, nhưng tên tác giả được đổi thành Phạm Lễ Hùng và câu “Chẳng bao giờ mẹ xa cách chúng con” gần cuối bài bị lược bỏ.

Tôi hết sức ngạc nhiên, bèn điện hỏi nhà văn Hoàng Bình Trọng (hiện đang nghỉ hưu tại Quảng Hòa, Quảng Trạch, Quảng Bình). Nhà văn Hoàng Bình Trọng vô cùng bức xúc: “Cái thằng Phạm Lế Hùng nào đó nó ăn cắp thơ tớ, cậu ạ! Tớ đang định viết thư cho ông Giám đốc NXB Thanh Niên và Ban biên tập làm rõ chuyện này. Nghe đâu họ còn tặng giải cho bài thơ mà hắn ta ăn cắp của tớ nữa”. Tôi nói đùa an ủi anh: “Bị ăn cắp như thế thì cũng đáng mừng. Vì những người trong Ban biên tập và Chấm giải đã đã khẳng định sự “bất tử” của bài thơ Về với mẹ. Chỉ đáng buồn là những người trong Ban biên tập và Chấm giải không chịu khó truy tìm xem tác giả bài thơ Về với mẹ có phải của Phạm Lễ Hùng không. Mà với những bài thơ hay như Về với mẹ thì sự truy tìm đâu có khó.

Tôi đề nghị Ban Giám đốc NXB Thanh Niên phải đứng ra làm rõ vụ việc ăn cắp trắng trợn này; trả lại tên tác giả của bài thơ Về với mẹ; tước bỏ giải thưởng của kẻ mạo danh và truy tố trước pháp luật về tội ăn cắp bản quyền. Có như vậy may ra mới phần nào ngăn chặn được vấn nạn đạo thơ đang lâylan như một nạn dịch trên văn đàn nước ta hiên nay.

Để độc giả hiểu thêm về sự vụ đạo thơ trắng trợn này, xin các bạn vào mạng internet và gõ Google, sẽ nhận được thông tin sau đây:

Đến với bài thơ hay: Về với mẹ ( QĐND - Thứ Năm, 02/08/2007, 19:55 (GMT+7)



Về với mẹ


Không về ư? Ai bảo không về?
Bốn chúng con hôm nay đều có mặt
Thằng cả: Hương Điền, thằng hai: Ấp Bắc
Thằng ba: Đồng Xoài, thằng út: Núi Thành

Chúng con về tất cả vẫn đầu xanh
Như buổi ra đi vẫn thích làm nũng mẹ
Vẫn thích giọng ầu ơ... như hồi tấm bé.
Chúng con vui, sao mẹ lại buồn?

Mẹ dọn bàn thờ, mẹ đốt lò hương
Mẹ vái lạy. Trời ơi! Sao lại thế?
Đúng đạo lý con phụng thờ cha mẹ
Can cớ gì mẹ cúng thờ con?

Ôi thời gian! Sắt đá vậy thời gian
Không cho mẹ quên nỗi đau se thắt,
Thuở chúng con ngực găm đạn giặc
Không đau bằng nghe mẹ nức hôm nay.

Mấy chục năm rồi, đau ngày một, ngày hai
Đừng khóc nữa, mẹ ơi! Đừng khóc nữa!
Chúng con biết quay về khi mẹ hiền đợi cửa
Trong khói hương, trong gió lay rèm...

Chúng con về đủ mặt bốn anh em
Dù có phải ngăn sông, cách núi
Dù thân thể đã pha hòa gió bụi
Hồn vẫn về... mẫu tử tình thâm.
Chẳng bao giờ mẹ xa cách chúng con

Đừng khóc nữa
Mẹ ơi
Đừng khóc nữa!

(Rút trong tập Những miền ký ức,NXB Văn học - 2002)


Lời bình của nhà thơ Mai Văn Hoan:

Về với mẹ là một bài thơ viết về đề tài thương binh-liệt sĩ của Hoàng Bình Trọng. Điều làm cho Về với mẹ gây được sự chú ý là bởi tác giả đã hóa thân, nhập thân một cách rất tự nhiên vào linh hồn những người con hy sinh vì Tổ quốc trở về an ủi mẹ. Đó là cách thể hiện khá độc đáo, góp phần tạo nên sự khác biệt giữa Về với mẹ và những bài thơ cùng viết về một đề tài.



Hoàng Bình Trọng đã chọn được chất giọng tâm tình vừa chân thật vừa sâu lắng. Chất giọng đó rất phù hợp với tình cảm của bốn đứa con đối với người mẹ đã phải gánh chịu sự mất mát quá lớn. Cả bốn đứa con của mẹ đều nằm lại ở chiến trường trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước: Thằng cả: Hương Điền, thằng hai: Ấp Bắc/Thằng ba: Đồng Xoài, thằng út Núi Thành... Và mặc dù chiến tranh trôi qua đã mấy chục năm rồi nhưng khi trở về thăm mẹ tất cả các anh tóc vẫn đang xanh. Bởi vì cuộc đời của các anh đã dừng lại “mãi mãi tuổi hai mươi”. Điều làm cho các anh hết sức ngạc

nhiên là: Chúng con vui sao mẹ lại buồn?/Mẹ dọn bàn thờ,mẹ đốt lòhương/Mẹ vái lạy. Trời ơi! Sao lại thế? Và các anh thắc mắc: Đúng đạo lý con phụng thờ cha mẹ/Can cớ gì mẹ cúng thờ con? Bằng cách đặt liên tiếp những câu hỏi tu từ kết hợp với những câu cảm, Hoàng Bình Trọng đã diễn tả khá tinh tế tâm trạng của bốn người con trước những cử chỉ lạ lùng của mẹ. Phải hóa thân, phải nhập thân đến mức nào tác giả mới viết được những

câu: Ôi thời gian!Sắt đá vậy thời gian/Không cho mẹ quên nỗi đau se thắt/Thuở chúng con ngực găm đạn giặc/Không đau bằng nghe mẹ nức hôm nay... Và cũng phải hiểu tình thương của các anh đối với mẹ đến mức nào tác giả mới có cách so sánh đầy bất ngờ như vậy.



Thời gian lưu giữ mái tóc xanh của các anh nhưng thời gian cũng không thể nào làm nỗi đau của mẹ nguôi ngoai: Mấy chục năm rồi, đâu ngày một ngày hai/Đừng khóc nữa, mẹ ơi!Đừng khóc nữa!Chúng con biết quay về khi mẹ hiền đợi cửa/Trong khói hương, trong gió lay rèm... Lời an ủi của các anh mới cảm động biết bao! Nghe được những lời an ủi này chắc lòng mẹ sẽ nhẹ đi đôi chút. Tôi cho rằng đó là những câu thơ được viết bằng tâm linh. Nếu không có sự giao cảm với hương hồn những người con hysinh vì Tổ quốc,

Hoàng Bình Trọng khó lòng viết được những câu thơ xúc động và sâu lắng như vậy.

MVH

Thứ Tư, 25 tháng 2, 2015

Vài hình ảnh gian hàng Chợ hoa tết Ất Mùi

Năm nay, mấy thằng em một hai lôi ra bán chợ hoa. Không từ chối được bởi người ta phải chạy đôn chạy đáo mới tìm được một lô để bán tết, còn mình thì được lo tất tật chỉ việc đóng tiền là xong. Âu cũng là cái duyên nên gặp Hòa, anh chàng họa sĩ miệt Đồng Tháp lưu lạc về Tây ninh sinh sống lại có thêm nghề tay trái là Viết Thư Pháp. Thế là lần đầu chợ hoa Tây ninh có một ông đồ. Chủ nhân gian hàng vốn bị mang tiếng là quái nhân nên gian hàng cũng quái dị. Chuyện quái dị nhất không phải là có ông đồ, hay có chim chóc mà là ở cái bảng giá niêm yết ở mỗi chậu khiến lắm người bực mình. Giá 50.000 đ chỉ ghi 5k, 200.000 đ ghi 20k...làm nhiều người cứ bảo sao rẻ quá. Mấy chú nhóc niềm tin ngây thơ nghĩ là thật nhưng buồn cười nhất là mấy bà mấy ông cũng tin là rẻ nên móc túi mua ngay. Khi chủ nhân trả lời hơn gấp 10 lần số tiền thì tỏ ra bực bội. Thôi thì chỉ biết cười trừ bởi con người vốn là vậy. Cứ bị hút ngay vào mà không kịp suy nghĩ xem cái giá chưa bằng tiền một cái chậu. an ủi là có nhiều cô cậu thanh niên chẳng tin đoán ra ngay cái giá của chủ nhân muốn bán. 5k ai cũng cho K là ngàn bởi đó là qui ước mới đây của việc mua bán qua mạng. Có anh bị hố, chất vấn chủ nhân sao ghi kỳ vậy. Chủ nhân cũng chỉ biết trả lời  k là o chứ không phải là ngàn. 
Có lắm điều buồn vui khi chợ hoa năm nay ẩm nhưng cái được nhất là đêm nào cũng say tửu lượng lại tăng đột ngột. Chẳng phải ham hố gì nhưng bạn bè cứ tụ lại mà vui. Cũng cám ơn, nếu không có rượu thì chắc chẳng thể nào ngủ qua đêm được dưới màn trời chiếu đất và sương lạnh của những ngày cuối năm.







Thứ Ba, 24 tháng 2, 2015

YÊU NGƯỜI NGÓNG NÚI





Bạn cũ ngồi than thở, nói ghét Sài Gòn lắm, chán Sài Gòn lắm, trời ơi, thèm ngồi giữa rơm rạ quê nhà lắm, nhớ Bé Năm Bé Chín lắm. Lần nào gặp nhau thì cũng nói nội dung đó, có lúc người nghe bực quá bèn hỏi vặt vẹo, nhớ sao không về. Bạn tròn mắt, về sao được, con cái học hành ở đây, công việc ở đây, miếng ăn ở đây.

Nghĩ, thương thành phố, thấy thành phố sao giống cô vợ dại dột, sống với anh chồng thẳng thừng tôi không yêu cô, nhưng rồi đến bữa cơm, anh ta lại về nhà với vẻ mặt quạu đeo, đói meo, vợ vẫn mỉm cười dọn lên những món ăn ngon nhất mà cô có. Vừa ăn chồng vừa nói tôi không yêu cô. Ăn no anh chồng vẫn nói tôi không yêu cô. Cô nàng mù quáng chỉ thản nhiên mỉm cười, lo toan nấu nướng cho bữa chiều, bữa tối.

Bằng cách đó, thành phố yêu anh. Phố cũng không cần anh đáp lại tình yêu, không cần tìm cách xóa sạch đi quá khứ, bởi cũng chẳng cách nào người ta quên bỏ được thời thơ ấu, mối tình đầu. Của rạ của rơm, của khói đốt đồng, vườn cau, rặng bần… bên mé rạch. Lũ cá rúc vào những cái vũng nước quánh đi dưới nắng. Bầy chim trao trảo lao xao kêu quanh quầy chuối chín cây. Ai đó cất tiếng gọi trẻ con về bữa cơm chiều, chén đũa khua trong cái mùi thơm quặn của nồi kho quẹt. Xao động đến từng chi tiết nhỏ.

Quê luôn ngọt như vị đường mía ngày xưa anh hay lén má giở nắp hủ lấy ngón tay chấm mút. Cả cái nghèo ngày đó cũng chẳng đến nỗi quắt quay, không có bánh kẹo ngon thì cây trái đã sẵn giành. Không có đồ chơi đẹp nhưng đã có thiên đường đồng bãi cho trẻ con chạy nhảy. Cho đến ngày anh đi khỏi, quê vẫn chưa làm anh tổn thương, hờn giận chút nào.

Nên trong anh còn nguyên vùng ký ức ngọt ngào và đằm thắm, mộng mị và êm đềm. Thành phố biết hết, nhưng thành phố không buồn tủi, dù nó chật và ngột ngạt, bức bối trong khoảng không nhỏ hẹp mịt mù khói bụi. Yêu anh, chấp nhận anh nghĩa là phố chấp nhận mình sẽ mất thêm một phần duyên dáng ít ỏi còn lại. Thêm rác, thêm bụi, thêm một chỗ ngồi, thêm một hơi thở…Chật chội hơn, ồn ả hơn, chen chúc hơn. Những ngày Tết, phố đẹp, thanh thản và nhàn tản nhất, thì anh lại không nhìn thấy, anh đã hớn hở sum vầy với quê.

Đón anh trở lại, vẫn là một nhan sắc mệt mỏi nhưng khao khát sống và yêu. Những lúc anh chán chường, thành phố xấu xí ngồi vỉa hè nướng những củ khoai thơm, trồng vài bụi chuối, hàng cau, qua một quán cafe nào, thấy bày biện những khung dệt chiếu, chiếc xuồng con, cái gàu dai, cây rơm nhỏ… Đôi lúc ở một góc đường, anh gặp bầy cào cào, chim sẻ thắt bằng lá dừa non. Đôi lúc ngang qua ngã tư, có bà già đầu đội khăn rằn xách cái bị bàng luống cuống trước dòng xe xuôi ngược. Không có tham vọng biến mình thành một chốn quê, nhưng thành phố đủ rộng lượng để anh công khai sự hoài nhớ của mình.

Và hồn nhiên sống như một người vọng núi kia núi nọ. Hàng me trút lá bên đường khiến anh nhớ mấy cây me già ở quê, giờ chắc thôi ra trái. Ánh đèn đường làm anh nhớ ngọn đuốc lá dừa cháy rập rờn những khuya tan hát ra về. Qua cầu anh nhớ sông quê. Cái kẹp tóc của cô vợ phố làm anh nhớ những mái tóc thả dài xuống tận thắt lưng xưa. Nhìn nhan sắc này để nhớ về một nhan sắc khác.

Mà anh thì cũng không chắc là miền nhớ còn nguyên nỗi quay quắt trong lòng. Anh có thật sự nhớ hay chỉ là cảm giác mặc cảm mình đã phụ rẫy, đã chạy trốn mà anh buột miệng nói nhớ cho quê đỡ tủi, cho mình đỡ thấy áy náy, như một niềm an ủi gửi lại nơi chân trần xối nắng. Má anh, Bé Ba Bé Sáu vẫn còn ở đó, mà anh bảo là không nhớ thì anh tệ. Anh có thật sự nhớ hay chỉ muốn giữ một lời hứa vu vơ hồi thẹn thò nhón ngón tay cô em nào ở bên rào, “làm gì làm tôi cũng không quên em đâu. Thiệt, tui thề…”. Có phải vì hình bóng quê quá sống động trong trẻo nên anh không thể yêu thành phố?

Bởi thành phố có gì đáng yêu đâu, ngay cả lúc dịu dàng nền nả nhất, thành phố lúc nửa đêm cũng không ngọt ngào như hoa nắng rụng lẫn trong hoa dừa rụng. Có lẽ thành phố xấu xí từ trước khi anh tới, và sau đó vì yêu anh mà xấu xí hơn. Những con đường nghẹn vì người đông. Những dòng sông nghẹn vì rác rưỡi. Những ngọn gió nghẹn vì khói bụi. Những ban mai nghẹn trong tiếng còi xe. Bầu trời nghẹn vì những khối nhà cứng nhắc và khô khốc. Va chạm và cãi vã. Chen chúc và cáu kỉnh.

Anh không thể yêu một cô vợ chỉ biết nấu ăn và giặt giũ, anh tìm kiếm một tâm hồn. Nhưng thành phố đã bày tỏ ngay khi anh mới gặp lần đầu, một tâm hồn rộng lượng, bao dung. Yêu cho đi mà không đòi hỏi nhận lại.

Đó chẳng phải là một vẻ đẹp sao, không đáng yêu, không đáng được đáp lời sao?

Thơ vui về phái yếu



Những người đàn ông các anh có bao nhiêu điều to lớn
(Xuân Quỳnh)



Những người đàn ông các anh có bao nhiêu điều to lớn
Vượt qua ô cửa cỏn con, vǎn phòng hẹp hàng ngày
Các anh nghĩ ra tàu ngầm, tên lửa, máy bay
Tới thǎm dò những hành tinh mới lạ

Tài sản của các anh là những tinh cầu, là vũ trụ
Các anh biết mỏ dầu, mỏ bạc ở nơi đâu
Chính phục đại dương bằng các con tàu
Đi tới tương lai trên con đường ngắn nhất

Mỗi các anh là một nhà chính khách
Các anh quan tâm đến chuyện mất còn của các quốc gia.
Biết bao điều quan trọng được đề ra
Những hiệp ước xoay vần thế giới

Chúng tôi chỉ là những người đàn bà bình thường không tên tuổi
Quen việc nhỏ nhoi bếp núc hàng ngày
Cuộc sống ngặt nghèo phải tính sao đây
Gạo, bánh, củi dầu chia thế nào cho đủ
Đầu óc linh tinh toàn nghĩ về chợ búa
Những quả cà, mớ tép, rau dưa

Đối với Nít và Kǎng, những siêu nhân nay và xưa
Xin thú thực: chúng tôi thờ ơ hạng nhất
Chúng tôi còn phải xếp hàng mua thịt
Sắm cho con đôi dép tới trường

Chúng tôi quan tâm đến xà phòng, đến thuốc đánh rǎng
Lo đan áo cho chồng con khỏi rét...
Chúng tôi là những người đàn bà bình thường trên trái đất.
Quen với việc nhỏ nhoi bếp núc hàng ngày

Chúng tôi chẳng có tàu ngầm, tên lửa, máy bay
Càng không có hạt nhân nguyên tử
Chúng tôi chỉ có chậu có nồi có lửa
Có tình yêu và có lời ru

Những con cò con vạc từ xưa
Vẫn lặn lội bờ sông bắt tép
Cuộc sống vẫn ngàn đời nối tiếp
Như trǎng lên, như hoa nở mỗi ngày...

Nếu không có ví dụ chúng tôi đây
Liệu cuộc sống có còn là cuộc sống
Ai sẽ mang lại cho các anh vui buồn hạnh phúc
Mở lòng đón các anh sau thất bại nhọc nhằn

Thử nghĩ xem thế giới chỉ đàn ông
Các anh sẽ không còn biết yêu biết ghét
Các anh không đánh nhau nhưng cũng chẳng làm nên gì hết
Thế giới sẽ già nua và sẽ lụi tàn

Ai sẽ là người sinh ra những đứa con
Để tiếp tục giống nòi và dạy chúng biết yêu, biết hát.
Buổi sớm mai ướm bước chân mình lên vết chân trên cát
Bà mẹ đã cho ra đời những Phù Đổng Thiên Vương
Dẫu là nguyên thủ quốc gia hay là những anh hùng
Là bác học... hay là ai đi nữa
Vẫn là con của một người phụ nữ
Một người đàn bà bình thường, không ai biết tuổi tên

Anh thân yêu, người vĩ đại của em
Anh là mặt trời, em chỉ là hạt muối
Một chút mặn giữa đại dương vời vợi,
Lời rong rêu chưa ai biết bao giờ

Em chỉ là ngọn cỏ dưới chân qua
Là hạt bụi vô tình trên áo
Nhưng nếu sáng nay em chẳng đong được gạo
Chắc chắn buổi chiều anh không có cơm ǎn.

Vài đoạn thơ vui nhân dịp ngày xuân
Đùa một chút xin các anh đừng giận
Thú thực là chúng tôi cũng không sống được
Nếu không có các anh, thế giới chỉ đàn bà.