Thứ Năm, 27 tháng 11, 2014

Thiên Đường Dậy Sóng Hoài Nghi







Lê Dọn Bàn
dịch từ "Problems with Heaven (1997)" của Michael Martin





Lời người dịch

Ai ai cũng muốn lên thiên đường, nhưng chẳng ai muốn chết cả [1]

Câu hát đó đập vào tôi ngay lần nghe đầu tiên, cách nay đã rất lâu, nên đến giờ đã quên mất cả tên người hát, và cũng quên cả các phần sau. Một nghịch lý của các tôn giáo phương Tây: Chết và Thiên đường. Phải chết xong đã, mới thấy cánh cửa vào đất Hứa. Thế nên Thiên đường vẫn là một hoài nghi – vì chưa chết nên không thể biết thực hư, nhưng chết rồi, thực hư không thể nói, mà cho cùng, với người chết, biết còn chăng chuyện thực hư. Vậy nên, thiên đường chỉ là để cho người sống bàn bạc, mơ tưởng, và nhất là rao giảng.

Nếu chỉ là giấc mộng đêm của con người như phương Đông nhìn lên trăng, mơ chốn Thiên thai, hay Bồng lai, tiên cảnh, có sáo trúc êm, có dáng hằng tuyệt mỹ, ...nó vô hại, nên thơ, đẹp đẽ, và lại còn đầy hứng cảm nghệ thuật.

Nhưng lớn mạnh hơn mộng đêm, đến những khát khao bản năng của tranh sống ngày, là mộng ngày; ở trong không gian của những hữu hạn nên thèm ước cái không gian khác chứa đầy vô hạn, nghèo khó nên ước giàu sang, xấu xa nên ước đẹp đẽ, khổ đau nên ước hạnh phúc,… mộng ngày là khát khao bản năng nên thường chỉ tìm đến số, đến lượng để thỏa mãn đói khát, bỏ quên hay coi nhẹ giá trị phẩm chất. Thế nên chúng ta nghe kể thiên đường có vô tận những cái này, vô hạn những thứ kia, vô cùng những điều nọ. Mọi thứ đều đong bằng “bao nhiêu là…”. Con người khát quá, thèm quá, muốn quá, tự nhiên đấy thôi. Nhưng những ước ao tự nhiên và thơ ngây đó của con người đã bị những phù thuỷ tôn giáo vẽ vời thành một Thiên đường dẫn dụ. Và bức tranh mới vụng về làm sao, đầu đuôi bất nhất. (Đọc bài này của Michael Martin) Tựa những lời hứa dỗ dành con trẻ, nay thế này, mai thế khác, sau cùng có ai ngắm kỹ lại, với chút suy nghĩ thấy ngay bức tranh Thiên đường rách bươm, vá víu, chắp nối, có rất nhiều lúc vội vàng nên điều hứa sau đã trái nghịch với lời hứa hấp tấp trước. Thiên đường có lẽ chẳng có thể ví được với một bức tranh, tôi có rộng rãi quá chăng? Ở chính phương Tây này, người ta chẳng vẫn gọi nó trần trụi là một cái bánh vẽ trên trời đó sao. Là bánh thì không, nhưng có là tranh đi nữa, nhưng chấp vá, nên có bao giờ thoả được dẫu một chút mộng chân thực con người.

Nhưng vì không thoả, chỉ ôm, thật chặt, nên giấc mộng Thiên đường là một giấc mộng chết người, giáng không biết bao nhiêu tại hoạ cho những kẻ sống ở trần gian.

Chỉ ở Việt Nam, tôi biết – giấc mộng hão ấy khởi mạnh đi từ hội mang tên “hội thừa sai Paris”, trăm phương nghìn kế bền bỉ muốn đem nó sang quê hương chúng ta. Những người truyền thì chân thực quá đỗi nên cuồng tín vô cùng, những người nhận thì khờ dại, khốn khó đáng thương, nên dốc sạch lòng đóng xuống niềm tin, vốn vừa được nâng lên thành một đức hạnh - đức tin, nên bất chấp cả cái chết – vì nếu cái chết biến họ thành thánh [2]- có nghĩa đã ôm chặt một thông hành lên thiên đường, cái chết nào có nghĩa gì với cánh cửa Thiên đường hứa hẹn sắp mở? Bức tranh vá víu ấy đã đủ dán kín, mù mắt để họ chỉ thấy giữa tối đen - chập chờn như thực, những thiên thần nghe kể trong Phúc âm - vẫy cánh chào đón. Hẳn nhiên, còn ai xứng hơn họ nữa? Những người đã “được chọn” và đã có dấu đóng chứng nhận vượt qua thử thách – dấu máu trên thân, dấu cháy của sắt nung đỏ ấn cháy da thịt trên trán.

Và bắt đầu như thế, giấc mộng thiên đường đẩy quê hương chúng ta – vào một thời kỳ không giống thời kỳ nào có trước đó của lịch sử dân tộc: Vũ đài chính trị dậy bão, các triều đại xụp đổ nhanh chóng. Thuở ấy, người phương Tây vào Việt Nam không chỉ thương nhân, giáo sĩ, mà cả gián điệp, quân đội trong ngoài. Khi Gia Long vào Phú xuân, đất nước về một mối, nhưng chưa bao giờ nông dân nổi loạn nhiều như vậy. Hỗn loạn, cùng quẫn và đói khổ, và những kẻ đợi dịp săn mồi đã lâu - với giấc mộng Thiên đường, nên sắt cháy, máu đổ, và lửa đốt, là những bước khởi đầu. Đến khi Văn thân dựng cờ “bình tây sát tả” là gươm vung đã trong vô vọng. Bàng hoàng, sững sờ, trước Nam, sau Bắc, chúng ta mất nước!

Cũng không quên nhắc lại, một giấc mơ thiên đường khác, bản chất là một mô phỏng của thiên đường “linh thiêng” này – thiên đường trần gian [3]– nhưng may mắn là nó đã không thọ, chẳng sống dài lâu, tuy bùng lên rất mạnh, nhưng tàn mau.

Thế nên đã hơn trăm năm qua, hết ngoại xâm, thuộc đia, đến chiến tranh, ly tán,...vẫn chưa nguôi. Lần đó, dân tộc ngã quị, đến nay đứng lên, vẫn như chưa vững chãi.

Và còn giấc mộng Thiên đường trên kia, ở sau cái chết.
Nó chưa chết ở quê hương chúng ta.

Mặc dù ở phương Tây, người ta đã dần từ bỏ, tôi kết thúc với một bài hát khác, quen thuộc hơn:


Tưởng tượng không có thiên đường – Dễ thôi, bạn thử đi,
Dưới chúng ta không hoả ngục – trên chúng ta chỉ trời xanh. [4]

Nhân đọc bài viết này của M. Martin

Lê Dọn Bàn







Thiên đường dậy sóng hoài nghi





Dẫn nhập

Tin có Thiên Đường là phần thiết yếu của các tôn giáo độc thần lớn như đạo Do Thái, đạo Kitô, và đạo Islam. Các nhà thần học nổi tiếng đã viết về nó và các người hữu thần bình thường hy vọng đến chốn ấy sau khi chết. Đáng tiếc, những người có quan điểm vô thần đã không nói gì nhiều về Thiên đường mặc dầu một vài bài viết của họ có nhắc nhở gián tiếp [5]. Thế nhưng, khái niệm về Thiên đường không rõ ràng và không phải là không có vấn đề. Như tôi sẽ trình bày trong những trang sau đây – có những vấn đề nghiêm trọng với khái niệm Thiên đường. Thứ nhất, khái niệm Thiên đường thiếu chặt chẽ, không đồng nhất. Thứ nhì, Không chắc những người theo quan điểm hữu thần có thể xóa được các mâu thuẫn giữa tính chất tuyệt vời của Thiên đường với những phản biện khuôn mẫu bảo vệ Luận chứng về Tà Ác [6] như luận thuyết Bảo vệ Tự do Ý chí [7] Thứ ba, Thiên đường không công bằng và, như thế, nó mâu thuẫn với lòng tốt của Gót [8]

Lý thuyết truyền thống

Lý thuyết truyền thống về Thiên đường có thể khai triển thành những thuật ngữ trong các luận thuyết sau đây [9][9]:

1. Luận thuyết thưởng công (The reward thesis): Mục đích của Thiên đường là để thưởng công cho những người có đời sống và hành vi xứng đáng ở trần gian.

2. Luận thuyết vĩnh cửu (The permanence thesis): Một khi đã ở thiên đường, người ta không rời.

3. Luận thuyết bất phổ quát (The anti-universalism thesis): Có những người sẽ không lên Thiên đường.

4. Luận thuyết ngoại tại cá nhân hiện hữu (The individual external existence thesis: Thiên đường là chốn có ý thức cá nhân.

Tất cả những lý thuyết này, trên nguyên tắc có thể bị chính những người hữu thần đặt vấn nạn và, trong thực tế, đã từng có dăm ba. Lấy thí dụ, một vài người Kitô đã phủ nhận (1) và đã chủ trương Thiên đường là phần thưởng của lòng Gót yêu thương và hoàn toàn không dựa trên công trạng. Có những người Kitô khác đã phủ nhận (3) và đã cãi ngược lại rằng rốt cùng mọi người đều được cứu rỗi và tất cả đều lên thiên đường. Tôi không biết có ai phủ nhận luận đề (2), nhưng chắc chắn có thể giữ luận điểm là một người sau khi lên Thiên đường cũng có thể tạo hành sai trái ở chốn ấy và bị giáng truất, thí dụ xuống Hell (hoả ngục) [10]. Cuối cùng, mặc dù hiếm khi có chuyện phủ nhận (4) trong những tín đồ theo truyền thống hữu thần Tây Âu, nhưng trong những tín đồ các tôn giáo phương Đông [11] và chủ nghĩa phiếm thần, họ cãi rằng Thiên đường gồm có một sự hợp nhất với Gót, qua đó ý thức cá nhân mất đi - là phổ thông.

Lý thuyết về Thiên đường tôi đã lược kê có ít nhất ba biến thái. Trong biến thái phổ thông nhất, linh hồn vô hình, phi vật chất của một người – không phải thân xác – lên Thiên đường chóng vánh sau khi chết. Trong dạng biến thái này, thiên đường được xem như “một chỗ”, nhưng không nằm trong thời gian và không gian.Trong biến thái thứ nhì, xác của người chết lại “sống dậy” chóng vánh sau khi chết, nhưng trong biến dạng ở vài không gian khác – một không gian hoàn toàn cắt đứt với không gian loài người hiện giờ đang sống – và được thưởng công ở đấy [12]. Trong biến thái thứ ba – nhiều học giả tin đây là quan điểm nguyên thuỷ của đạo Kitô – Thiên đường hiện giờ chưa có, nhưng sẽ có trong tương lai với lần Chúa xuống thế thứ nhì (the Second Coming). Lúc ấy, xác chết sẽ “cải tử hoàn sanh” trong dạng sửa đổi và được thưởng công ngay trong không gian chúng ta đang sống đây.

Sự mạch lạc của Thiên đường

Cả ba dạng biến thái của lý thuyết về thiên đường, về mặt nhận thức đều có những vấn đề về khái niệm rất trầm trọng, tác động trên nhận thức về chúng. Lấy dạng nói về linh hồn phi vật chất xét thử. Cứ tưởng tượng dù thô thiển sơ sài đến đâu cũng đã khó - về một thân xác nằm ngoài không gian và thời gian, nó ra làm sao? Rồi linh hồn đó di chuyển từ chỗ này sang chỗ kia ra sao? Linh hồn nhận ra linh hồn khác thế nào? Linh hồn không xác làm gì suốt ngày dài, vì đã giả định là linh hồn không cần ngủ? Khó khăn thành không sao vượt qua được nữa khi gộp nó với ý tưởng thiên đường nằm ngoài không gian và thời gian. Tất cả các khái niệm ý thức chúng ta có – lấy thí dụ - suy nghĩ, sẵn lòng, thèm khát – đều là khái niệm có tính thời gian, chúng cần thì giờ để tạo động và xảy ra ở một thời điểm nào đó. Suy nghĩ và ước muốn phi thời gian là không khái niệm được. Vậy nhưng, trong dạng biến thái này, các linh hồn suy nghĩ và ước muốn phi thời gian tính.

Hai dạng biến thái có xác sống dậy, có lẽ lúc đầu có ít vấn đề hơn dạng hồn không xác, nhưng chúng có những vấn đề của chúng về mặt nhận thức. Có hai vấn đề về nhận thức với ý niệm khi người ta chết, thân thể họ được cải tử hoàn sinh ngay (dù có biến dạng) ở một không gian khác – một không gian hoàn toàn tách biệt với không gian chúng ta, thành ra theo nguyên tắc, không sao có thể từ nơi chúng ta di chuyển đến đó được. Thật khó có nghĩa lý một không gian như thế. Mặt khác, làm sao có thể có hai không gian về vật lý tách biệt nhau? Không gian với nguyên tắc là cắt đứt hết mọi du hành không gian? Mặt khác, nếu không gian có xác dựng dậy, không là không gian vật lý, vậy nó là thứ không gian gì vậy? Thứ nhì, tại sao giả định xác ở không gian khác này là xác của người chết trong không gian chúng ta, hơn là một “bản sao” của người này? Giả định, ông X chết và xác này – chúng ta hãy gọi xác này là B1- đem chôn. Lại cũng giả thử một xác B2 khác dựng dậy ở một không gian khác. Có nền tảng nào để tin rằng B2 là ông X chứ không phải chỉ là một bản sao của ông X? Thế nhưng, chỉ trừ khi nào chúng ta có lý do vững chãi để tin B2 là xác (của ông X) chứ không chỉ là bản sao của ông X, trong biến thái này chúng ta không có được lý do nào để tin thiên đường là phần thưởng cho đời sống trần gian của chúng ta.

Xét dạng biến thái thiên đường hiện giờ chưa có, nhưng sẽ có trong tương lai, khi xác người trong dạng sửa đổi được dựng dậy, nhưng ở cùng không gian như chúng ta biết đây. Ở đây chúng ta không có những vấn đề liên quan đến thuyết thiên đường dạng biến thái thứ hai: thiên đường ở trong không gian vật lý của chúng ta, và chỉ có một xác cho mỗi người chết. Nhưng vẫn còn có những vấn đề. Xác chôn đã thối rữa và các nguyên tử của chúng có thể đã phân tán. Thực vậy, có những nguyên tử trong đám này, tính cho cùng, đã thành ra trong thân xác của những người bây giờ đang sống. Và nếu xác chết hoả táng, cũng đúng như thế. Nhìn những vấn đề như vậy, các nhà triết gia hữu thẫn, chẳng hạn như Peter Van Inwagen [13] đã cãi, dẫu đến một Gót toàn năng cũng không thế dựng dậy một xác thân đã hoàn toàn tan rã. Nhưng xác con người quả thật bị tan rã, và đây là vấn đề.

Van Inwagen đã đề nghị một giải pháp cho vấn đề này thật quái đản đến nỗi, phải như không vì vị thế của ông trong học giới, ý tưởng đó không đáng được nhận xét nghiêm chỉnh [14]. Ông đã đề nghị rằng, dù trái nghịch với những gì chúng ta thấy, thân xác con người không phân rã! Mà đúng ra, Gót bảo quản thân xác (thực) của chúng ta – có lẽ là ngay lúc chết – và đưa thay vào đó là một “bản sao” – bản sao này mới là thân xác chúng ta thấy – hoặc tan rã, hoặc hỏa táng [15] Không may cho ông, đề nghị này lại đưa ra một vài vấn đề liên hệ với dạng biến thái thứ hai. Tại sao phải nên giả định xác tan rữa hay xác hoả thiêu là các bản sao mà không chính các xác được bảo quản mới là bản sao? Thêm nữa, các xác bảo quản ở đâu? Nếu nói rằng chúng được giữ ở một tinh cầu nào xa lắm, hay một không gian khác với của chúng ta, vấn đề khởi lên ngay. Khả năng sau (không gian) đưa ra vấn đề giống dạng biến thái thứ hai. Đề nghị trước (tinh cầu), mở ngỏ khả năng trong tương lai có chứng nghiệm thực nghiệm, cách ấy, thám hiểm không gian có thể, trên nguyên tắc, tìm tinh cầu nơi Gót giữ xác người. [16]

Độc lập với những sự quái đản trong bản chất và những điều ngụ ý đầy vấn đề, còn vài điều hoang mang về những đề nghị của Van Inwagen. Tại sao Gót lại phải đi lòng vòng đến xa xôi như thế với chuyện xem ra là người ta mất đi vào hư không hoàn toàn? Van Inwagen đề nghị rằng nếu thân thể đã không tan rã, hoặc biến mất bí ẩn sau khi chết, điều này chắc sẽ là bằng chứng có một uy quyền siêu nhiên. Tác giả này nói mặc dầu Gót muốn chúng ta tin vào Gót, Ông đã không làm hết tất cả những gì Ông có thể làm được, để đưa ra cho chúng ta những bằng chứng không thể chối cãi. Van Inwagen kết luận bằng câu nói “có lẽ chẳng có gì là khó khăn để nghĩ ra những lý do tốt đẹp cho chính sách như thế (của Gót).” [17]

Có lẽ, quả thực có khó khăn hơn là Van Inwagen đã giả thử. Theodore Drange [18] đã đưa ra một luận chứng rất hùng hồn trình bày rằng – những luận chứng quen thuộc vẫn bào chữa chuyện Gót không đưa các bằng chứng mạnh mẽ ra cho chúng ta tin vào sự hiện hữu của Ông ta – các luận chứng như thế rất yếu. [19] Thí dụ, một người không thể biện hộ – nếu đưa ra bằng chứng hùng hồn sẽ gây trở ngại cho ý chí tự do của người ta, vì tự do chọn lựa thì ngang ngửa với có bằng chứng hùng hồn [20] Trong trường hợp nào đi nữa, nếu đã như có ai thấy xác người không thối rã, hay không mất đi sau khi chết, điều này khó mà có thể nói là bằng chứng không chối cãi được của phe hữu thần chủ trương có Gót, vì trạng thái của những chuyện như vậy tương đồng với nhiều cách giải thích của phái vô thần, thí dụ, một quỉ thần ma quái muốn làm chúng ta bẽ mặt!

Vấn đề về đặc tính siêu phàm kỳ diệu của Thiên đường

Một khía cạnh của thiên đường tôi vẫn chưa xem xét đến, tạo nên những khó khăn cho nỗ lực rất nổi tiếng nhằm giải quyết Vấn nạn về Tà Ác như lý thuyết “Bảo vệ qua Ý chí Tự do” (FWD - Free Will Defense). FWD thông thường được dùng để giải thích số lượng quá lớn những tà ác về diện đạo đức trong thế giới. Tuy vậy, nếu cư dân của thiên đường giả thiết là có ý chí tự do, nhưng sao thiên đường lại cũng giả thiết là sạch trơn, tuyệt không có tà ác về diện đạo đức? Sự hiện hữu của thiên đường ném tấm màn nghi ngờ lên FWD.

Mặc dù giới hữu thần tin các linh hồn phi thể hoặc các con người “sống lại, trong một vài diện nào đó, có khác nhau với những con người trần gian, họ phải tin những đối tượng này có tự do về chọn lựa. Chọn lựa như thế, theo giới hữu thần, là một yếu tính của bản chất con người. Hơn thế nữa, người ta có khuynh hướng nói, bằng vào định nghĩa, hiện hữu ở thiên đường thì tốt đẹp hơn của ở mặt đất. Tốt đẹp hơn như thế nào, trong chiều hướng chính xác nào, thì hoàn toàn mù mờ, nhưng sự tiến bộ chắc chắn phải bao gồm được giải phóng khỏi tất cả, hay ít nhất hầu hết khỏi những khó khăn và tà ác của hiện hữu trần gian. Sau hết, thiên đường giả định là một cực lạc. Nghĩa là nó không còn tử, bệnh, khổ và tàn hại của lão nữa. Giả thiết là sự giải thoát khỏi – hay ít nhất cũng giảm thiểu đến cùng – những xấu ác của hiện hữu trần gian trong đó có các xấu ác về diện đạo đức. Thiên đường khó mà gọi là cực lạc được nếu còn nghĩa là có giết người, tra tấn, hiếp dâm, độc ác, và những thứ tương tự, dẫu có với bất kỳ lượng nào cảm nhận được.

Câu hỏi đặt ra là tại sao thiên đường lại hoàn toàn không còn tà ác đạo đức. Một số trả lời có thể loại ngay. Giả thiết không phải người nào lên thiên đường cũng là thánh cả. Thực thế, ít nhất có trong một vài liệt kê – đến còn không xem tư cách đạo đức của một người có quan hệ với sự cứu rỗi. Thế nên, ít nhất trong một cách diễn giải của đạo Kitô, một người được cứu rỗi bằng lòng tin vào Jesus và không bằng hành động đạo hạnh. Thêm nữa, không rõ ràng là tư cách của mỗi người rồi có chuyển đổi ở thiên đường không. Dẫu người xấu xa không lên thiên đường, người ta có thể giả định là những người đã lên đấy có thể có hành động sai trái lúc ở trên ấy – họ có thể phạm các lỗi lầm đạo đức, sa ngã, bị cám dỗ mua chuộc, và nữa nữa,..Nhưng nếu trên thiên đường họ có ý chí tự do mà lại không làm gì sai trái, người ta phải tự hỏi - tại sao cuộc sống trần gian này lại không theo cũng đồng bộ như thế nhỉ?

Có thể đề nghị một giải thích về sự thiếu vắng tà ác trên thiên đường – là sự thay đổi về khả năng cơ thể, không phải trong cá tính nhân cách. Giả định các hiện hữu phi thể không có khả năng thân xác, thí dụ, để giết người, hiếp dâm và tra tấn. Hơn thế nữa, ngay nếu như những cư dân thiên đường có thân hình, thân thể họ có thể không là đối tượng của cùng những luật vật lý như thân thể trên mặt đất chúng ta. Tuy nhiên, những đề nghị này tạo một vấn đề mới. Vì nếu con người với ý chí tự do có thể hiện hữu trong một thể dạng (không thân hay có thân) như thế, với những kết quả là bớt xấu ác luân lý, nếu thế tại sao con người đã không được tạo với thể dạng này trong đời sống trần gian?

Nhắc lại rằng theo FWD, một thế giới có ý chí tự do là chốn tốt đẹp hơn chốn không có. Lý thuyết FWD đưa ra một giải thích tại sao có quá nhiều xấu ác luân lý: con người xử dụng ý chí tự do và tạo xấu ác. Gót không can thiệp vào những chọn lựa này – vì nếu làm thế sẽ là can thiệp vào ý chí tự do. Tuy nhiên, các triết gia như John Mackie [21] đã thuyết phục rằng có thể có một thế giới, nơi ấy con người tự do, nhưng ấy thế họ lại luôn luôn làm những gì hợp luân lý đạo đức. Bởi vì Gót đã có thể hiện thực được một thế giới như thế nhưng lại không làm, Mackie kết luận FWD thất bại. Phe hữu thần phản bác bằng cách chủ trương, dẫu có thể có một thế giới như thế, nhưng đến ngay Gót cũng không thực hiện được [22]. Thế nhưng, giả định của giới hữu thần về thiên đường đã thừa nhận Mackie có thể gần với cái đúng hơn là các phê phán đối lập. Nếu Gót đã có thể hiện thực một thế giới có ý chí tự do, trong ấy phần thiết yếu là thiên đường, thật khó khăn để thấy tại sao Gót đã không hiện thực một thế giới, với ý chí tự do, có thiên đường trong nó toàn thể.

Một lý do có thể đưa ra về – tại sao có rất ít, hay không có xấu xa về đạo đức trong thiên đường, nhưng có quá nhiều trên mặt đất – có liên hệ với một biện hộ danh tiếng khác đối với biện chứng về tà ác. Bảo vệ bằng Sự tạo lập Linh hồn (SMD - The Soul Making Defense), thuyết này chủ trương cái Xấu Ác là điều kiện cần thiết để tạo cá tính con người! Có lẽ lý do có Xấu Ác trong đời sống trần thế của chúng ta là để tạo ra các chướng ngại cho chúng ta vượt qua – chướng ngại cần thiết cho sự tạo lập linh hồn con người. Một khi linh hồn tạo trong đời này đã xong, không cần có thêm Xấu Ác nữa trên thiên đường, và như thế, Gót xếp đặt những điều để sao con người có ý chí tự do, nhưng không làm điều xấu trên thiên đường. Ít nhất có một vấn đề rất trầm trọng với sự trả miếng này, dù cách nào, Xấu ác không nhất thiết là cần thiết để tạo chướng ngại thử thách, vì còn có Xấu ác trong Tự nhiên. Khổ đau và những kết quả hủy hoại của bệnh tật, rồi sóng thần, bão tố và núi lửa động đất,… quá đủ để tạo chướng ngại. Thế nên, hệ luận là sự không cần thiết đến xấu ác để giải thích là hậu quả của tự do chọn lựa con người.

Tính chất bất công của Thiên đường

Theo quan điểm thông thường về thiên đường, có số người được gửi đến đấy như một sự thưởng công cho điều gì đó họ thực hiện ở đời sống trần gian. Trong một biến thái của quan điểm của phái bất phổ quát đã nhắc trước đây, thiên đường là quà tặng của Gót, hoàn toàn không dựa trên công trạng. Trường hợp nào đi nữa, sự kiện là có người lên thiên đường và có người không, xem không công bằng.

Về biến thái thiên đường là quà tặng, xem ra tuỳ tiện và bất công. Một người cha phát quà – không dựa trên công trạng – cho vài đứa con của ông mà lại không cho vài đứa khác – sẽ phải xem là không công bình và tuỳ tiện. Chắc chắn cũng có thể nói như thế về Gót nếu Ông làm tương tự giống thế. Nhưng cứ giả thử, chúng ta chấp nhận quan điểm lên thiên đường dựa vào công trạng xứng đáng. Nó vẫn xem ra không công bình. Giả thử thiên đường là phần thưởng cho lòng tin, lấy thí dụ, tin Jesus là vị Cứu thế. Hàng triệu người không vì lỗi tự họ, chưa từng nghe danh Jesus, hay ít nhất chưa có cơ hội biết Phúc âm. Không lòng tin của những người này - khó có thể là nền tảng trừng phạt, nghĩa là rút mất phần thường.

Thêm nữa, ngay cả nếu người ta có cơ hội nhưng thất bại không tin, tại sao họ lại phải bị trừng phạt. Nhiều người không tin; phủ nhận thông điệp Phúc âm, vì lý do đúng là có bằng chứng chỉ ra sự khó-có-thể của nhiều chủ thuyết của đạo Kitô: Chúa sống lại, Sinh nở nhưng còn trinh, và hiện thân của Chúa. [23] Ngay nếu như các chủ thuyết này đúng và không phải là khó-có-thể xảy ra theo hướng nhìn các chứng cớ, với người có óc duy lý chắc chắn chứng cớ ấy không lay chuyển được họ. Phải đi vượt quá những gì chứng cớ chỉ ra – nếu là không phản lại các chứng cớ - để chấp nhận Jesus là “con trai” của Gót. Xa hơn nữa, ngay cả khi các người không tin, họ có tính toán sai lầm về các chứng cớ và nó dẫu thực có đưa ra một nền tảng vững chắc để tin tưởng, nhiều người không tin đã thành thực tin là chứng cớ thiếu xót. Tại sao một Gót tốt lành lại giữ quà tặng thiên đường với những người chân thực không tin, họ có thể khiếm khuyết không có được đủ sáng xuốt, kiến thức, hoặc khả năng phân tích để thẩm giá đúng các chứng cớ?

Giả thử, phần thưởng thiên đường không dựa trên đức tin, nhưng trên hành xử đạo đức. Như thế này cũng vẫn bất công. Hàng triệu người đã không có cơ hội biết đến giảng dạy đạo đức của kinh Thánh. Họ không sống theo như tiêu chuẩn của kinh Thánh – không phải lỗi tự họ. Thêm nữa, ngay cả với những người có cơ hội biết kinh Thánh có thể tìm thấy thông điệp đạo đức của nó không thể chấp nhận được trên những nền tảng đạo đức. Gót, như diễn tả trong Cựu ước, thường ác độc và tuỳ tiện, và trong Tân ước, ngay cả Jesus đã chân dung như có một tư cách đạo đức khiếm khuyết [24]. Hơn thế nữa, ngay cả với những người chấp nhận kinh Thánh, câu hỏi là ứng xử nào là xứng đáng được được ban thưởng? Những gì kinh Thánh dạy về đạo đức là đối tượng nhiều cách diễn giải trái ngược nhau. Thế nhưng cho công bằng – làm sao Thiên đàng có thể là một phần thưởng vì tuân theo một tiêu chuẩn đạo đức đúng đắn của Phúc âm – mà nó lại không minh bạch diễn tả?

Mặt khác, phủ nhận thuyết bất phổ quát và bênh vực thuyết phổ quát cũng có những vấn đề của nó. Thiên đường để làm gì nếu cuối cùng rồi ai ai cũng lên hết trên đó? Thế cái gì là ý nghĩa của sự sống trần gian với những đau thương, thử thách và khổ ải của nó? Mặc dù trong trường hợp này (ai cũng lên thiên đường) có lẽ không còn phàn nàn là bất công, người ta có thể phàn nàn về sự vô nghĩa của cuộc sống trần gian [25]. Hiện hữu con người hiển nhiên trở thành phi lý và một bí ẩn sâu xa. Sau rốt, Tại sao chúng ta lại có một đời sống trần gian (như bước trung gian) làm gì nữa nhỉ? Tại sao không bắt đầu đời sống với ngay trạng thái thiên đường cho xong? Nếu phái hữu thần muốn tránh gánh nặng bất công, hay gánh nặng vô bổ phi nghĩa, họ phải nghiêm trọng xét lại lý thuyết của họ về thiên đường.

Kết luận

Sự nương dựa tin cậy của giới hữu thần vào khái niệm Thiên đường nêu lên nhiều vấn đề quan trọng. Trước hết, khái niệm con người hiện hữu trên thiên đường –có thân xác hay không thân xác – là khái niệm hoàn toàn không thể hiểu được. Thứ hai, vẫn còn là một bí mật – làm sao cư dân ở đấy có thể có ý chí tự do và lại giả định họ ít phạm sai trái về đạo đức. Thứ ba, sự hiện hữu của thiên đường như một vương quốc ở đó con người hiện hữu, nhưng lại tương đối không có các tà ác về đạo đức, làm yếu đi sự biện hộ truyền thống dùng ý chí tự do để bào chữa cho luận chứng về Tà ác. Cuối cùng, thuyết bất phổ quát là bất công trong khi thuyết phổ quát xem ra vô bổ.

Michael Martin

Lê Dọn Bàn tạm dịch- bản nháp thứ nhất



Tác giả : Michael Martin (1932 -), Ph.D. (Harvard) - Triết gia, học giả, giáo sư emeritus (hưu trí danh dự), dạy triết học và triết học tôn giáo tại Boston University.

Các chú thích trong bài của tác giả, như trong nguyên văn – bản Anh ngữ - xin đọc nguyên văn ở đây: Michael Martin - Problems with Heaven (1997)

Những chú thích khác của tôi - có phụ ghi là chú thích người dịch - (CTND) – như nhận lỗi, nếu có, về người dịch.


[1] Một bài hát bình dân, rất phổ thông tại Bắc Mỹ - Everybody Wants to Go to Heaven, but Nobody Wants to Die. (CTND)

[2] Cũng nên nhắc lại – Suốt hai nghìn năm lịch sử triết học, tôn giáo nước Tàu, chỉ có một mình Khổng khâu được tôn xưng là thánh. Cao đồ như Nhan Hồi, Tử Cống, hay hậu duệ như Mạnh tử (thình thoảng cũng may mắn được gọi là á thánh) , tất cả chỉ được các nhà nho cung kính gọi là thày, thày Nhan, thày Mạnh. Ngay cả Khổng Khâu cũng thường khi chỉ được gọi là thày – thày Khổng - vì bình sinh, học trò của ông cũng chỉ gọi ông là “thày’ (phu tử).

Từ “thánh” trong văn hoá phương Đông, cao quí và hiếm hoi như thế. Thế nên, trong trường hợp những người có kẻ không biết viết, biết đọc, mà được dạy cho nếu chết vì đạo thì thành “thánh” - thánh tử đạo – martyr - ắt hẳn phải có tác động tinh thần không nhỏ.

Đây là những chiến sĩ trước khi ra trận, biết chắc sẽ không trở lại, nhưng cũng không nghi ngờ gì về sự kiện mình sẽ được gắn huân chương cao quí nhất dưới này –kèm với phần thưởng cao quí nhất - ở trên kia.

Thế nên, không lấy làm lạ, dù đến tận 1988, John Paul II – từ Vatican – phải nhất định thêm 117 tên tuổi nữa vào danh sách “thánh”, họ vốn đã chết từ trăm năm trước trên đất nước VN, để nuôi sống niềm tin vào Thiên đường cho người đang sống mà thôi. (CTND)

[3] Xem Bertrand Rusell - The Practice and Theory of Bolshevism – ông so sánh chủ nghĩa Cộng sản (Marxism-Leninism) như một tôn giáo. Cũng xem thêm bài viết ngắn nhưng quan trọng của ông - Tôn giáo có thể chữa được các khó khăn của chúng ta không? Tôi dịch và giới thiệu – đế thấy ông so sánh Vatican và Kremlin.

Chỉ một cái nhìn vội - chúng ta thấy các cơ quan và tổ chức đi của hai bên đi song song – Vatican/ Kremlin, giáo hoàng/ bí thư thứ nhất, hội đồng các hồng y/ hội đồng trung ương đảng, tống giám mục,/xứ uỷ, giám mục/ tỉnh uỷ, … cuối cùng là các linh mục xã,/xã uỷ, khóm trưởng/trùm đạo,... Các tổ chức quần chúng: Thiếu nhi thánh thể/ thiếu nhi quàng khăn đỏ, đạo binh đức mẹ/đoàn phụ nữ,…tổ chức hành chính: xóm đạo, giáo xứ.Trong quân đội: chính uỷ, linh mục tuyên uý., cho đến cuối cùng mỗi đảng viên có thể coi như một tín đồ, một bên viện dẫn Thánh kinh, bên kia viện dẫn Marx và Engels.

Nên Russell kết luận : “(nếu) nhìn chủ nghĩa Cộng sản như một cái gì rất khác biệt với đạo Kitô. Điều này với tôi là một sai lầm hết sức sâu xa - Chính là những sự tương tự giống nhau giữa đạo Kitô và chủ thuyết Cộng sản làm chúng xung khắc đối kỵ với nhau.” (CTND).

[4] Imagine - John Lennon (the Beatles) : Imagine there's no Heaven - It's easy if you try - No hell below us- Above us only sky,… (CTND)

[5] Thí dụ, Phê bình của Antony Flew về những khái niệm khác nhau của bất tử - có liên hệ với những gì bàn ở đây. Xem Antony Flew, God, Freedom and Immorality, (Buffalo, NY: Prometheus Books, 1984).

[6] Argument from Evil : luận chứng đưa ra – vì sự xấu ác trần gian là thật, như thế nó mâu thuẫn với giả định có một Gót hay làm cho sự hiện hữu của Gót thành khó có thể có thể là đúng thật – Đây là luận chứng của giới vô thần - xưa nhất và mạnh nhất (CTND)

[7] Free Will Defense: Phản biện lại Luận chứng về Tà ác- Tà ác là hậu quả của Tự do về ý chí con người, nên không thể “đổ tội” cho Gót.

[8] Phiên âm từ God – thay vì dịch vì từ Thượng đế - thường dịch - không hoàn toàn đúng nguyên nghĩa của từ God. Xem thêm Russell - Có God hay không? (CTND)

[9] Cf. Jonathan L. Kanvig, "Heaven and Hell," in A Companion to the Philosophy of Religion, ed. Philip L. Quinn and Charles Taliaferro, (Oxford: Blackwell Publishers, 1997), pp. 562-68.

[10] Có thể đề nghị – Satan là một nhân vật trước kia sống ở Thiên đường, sau bị trục xuất vì có những hành vi bất xứng. Tuy nhiên, theo truyện kể truyền thống, Satan không có phần thưởng Thiên đường nhưng chỉ có giáng truất. Thêm nữa, Satan không phải là người, nhưng là thiên thần sa ngã, nên vị này có những khả năng siêu phàm.

[11] Thí dụ Ấn giáo, hữu thần – Tiểu ngã nhập vào Đại ngã (Brahman)

[12] Quan điểm này đã gắn với John Hick. Xem John Hick, "Theology and Verification," The Logic of God, ed. Malcolm L. Diamond and Thomas V. Litzenburg, Jr. (Indianapolis: The Bobbs-Merrill, Company, Inc., 1975), pp. 188 - 208.

[13] Peter van Inwagen (1942-) Giáo sư triết đại học Notre Dame (US). Ông nghiên cứu về Siêu hình, Triết lý luận lý, Triết ly thần học, và lý thuyết bảo vệ Kitô (Christian apologetics) - (CTND)

[14] Giải pháp của ông có thể xem như một biến thái thứ tư của lý thuyết Thiên đường, hoặc khác hơn, như một giải thích không chính thống của biến thái thứ ba.

[15] Peter Van Inwagen, "The Possibility of Resurrection," Philosophy of Religion, ed. Louis Pojman (Wadsworth Pub. 1994), pp. 389-92.

[16] Tuy nhiên, với vũ trụ quá bao la, thất bại đi tìm một tinh cầu như thế không nghiêng về phủ nhận hiện hữu của nó. Lý thuyết mà nói, giả thuyết “ Có một hành tinh nơi ấy Gót bảo trì các xác người đã chết từ địa cầu” là một mệnh đề phi hạn-chế về hiện hữu, và bằng chứng quan sát không chứng minh nó sai.

[17] Ibid., p. 392.

[18] Theodore Michael Drange (1934—) Triết gia về tôn giáo hoc, giáo sư đại học West Virginia University. Là người vô thần, ông có tác phẩm nổi tiếng Nonbelief and Evil: Two Arguments for the Nonexistence of God (1998) - (CTND)

[19] Xem Theodore Drange, "The Argument From Nonbelief," Religious Studies, 29, 1993, pp. 417-432, và "The Arguments From Evil and Nonbelief," 1996,

http://www.infidels.org/library/modern/theodore_drange/aeanb.html

[20] Tác giả muốn nói – nếu Gót đưa ra hai năm rõ mười bằng chứng là có Gót đâu đấy, người ta sẽ không còn dám có ý chí tự do nữa - nói theo triết học, sự hiển nhiên về sự hiện hữu của Gót tỉ lệ nghịch với ý chí tự do con người, vả lại phải “mập mờ ẩn hiện” như vậy để thử thách lòng tin con người, nếu không thì còn gì nữa mà phải dựng nên các tổ chức đông đảo, hùng hậu, đa dạng, khắp nơi,.. để rao giảng, hết chuyện! - (CTND)

[21] John Mackie (CTND)

[22] Xem thêm các bàn luận về những vấn đề này trong - Michael Martin, Atheism: A Philosophical Justification (Temple University Press, 1990), Chapter 15

[23] Xem Michael Martin, The Case Against Christianity (Temple University Press, 1991).

[24] Xem The Case Against Christianity, Chapter 6.

[25] Tôi viết "có lẽ" bởi vì câu hỏi về công bằng cũng còn có thể nêu lên với thuyết phổ quát nữa: Có công bằng không nếu tất cả mọi người đều được cứu rỗi, mặc dù có kẻ đã sống tàn ác không thể tưởng được, trong khi có những người khác lại sống hoàn toàn một đời thánh thiện tuyệt vời?

RẬN CHỦ HỘI THẢO.

Boong



Tại nhà thờ Thái Bò-Hà Nội ngày, tháng, năm. Đã tổ chức cuộc hội thảo về chủ đề: NHỤC ÍT HAY NHỤC NHIỀU? Thành phần gồm có ba nhóm Rận: Nhóm đại diện cho rận Chúa, nhóm rận nội và nhóm rận ngoại; Mỗi nhóm đại diện cho từng vùng khác nhau.

Nhóm thứ nhất ở vùng 2 quả đồi to đùng, nhóm thứ hai ở vùng có một rừng cây rậm rạp, rậm rạp đến nỗi ai vào thì khỏi tìm thấy đường ra, Nhóm thứ ba ở vùng có một cái hang sâu hoắm, nói thật có anh nào chót rơi vào thì khỏi phải tìm đường về với vợ nuôn…ba nhóm rận có một thói quen là cuối tuần bao giờ cũng hội họp, trà đá thuốc lá, kể chuyện hàn huyên, bô lô ba la . Hôm nay chúng lại hội thảo:

- Hôm qua (đại diện nhóm thứ nhất kể), chỗ tao chả hiểu sao, đồi núi rung chuyển, 2 quả đồi chỗ tao, bình thường cứng cáp trơ trơ là thế, thế quái nào mà tối qua cứ trồi lên, thụt xuống, vặn bên nọ, vẹo bên kia, nhóm tao bị trượt dốc mấy phát, tí chết, hết cả hồn!!

- Thế đã là gì (đại diện nhóm thứ hai tiếp), miẹ, trong rừng chỗ nhómtao đêm qua mới thảm, tao nghĩ chắc phải bão cấp 12, thôi thì cây cối cứ gọi là rạp cả xuống, vật bên này, vã bên kia, thỉnh thoảng, chúng tao thấy hàng chục cây như bị ai túm kéo lên ầm ầm, chỉ sợ bị nhổ cả gốc, tao tưởng hôm nay không ngồi được ở đây mà tán phét với bọn mày ấy chứ

- Tao mới nhục (đại diện nhóm thứ ba), đang đêm ngủ ngon, thế đếk nào có một con khủng long to tướng, đầu trọc lốc thò cổ vào, thấy chúng tao, nó chả chào hỏi gì cả, nhổ bãi nước bọt to tướng rồi biến thẳng.

Đại diện cho đám hội thảo rận Nguyễn Quang À tổng kết: NHỤC THÌ CÓ NHỤC-NHƯNG ĐÃ LÀ THÂN RẬN THÌ BIẾT RÚC Ở ĐÂU, CHÚNG TA ĐÀNH PHẢI CHẤP NHẬN VẬY XÔI!
Mọi nhóm rận đều cảm thấy hài lòng với câu kết luận đó VÀ CUỘC HỘI THẢO ĐÃ THÀNH CÔNG TỐT ĐẸP.

Thứ Tư, 26 tháng 11, 2014

NHẬT KÍ TÌM HIỂU THỰC TRẠNG ĐỘC THÂN CỦA NHÂN VẬT LỊCH SỬ HỒ CHÍ MINH




Trần Xuân An



► Đánh giá một con người, căn cứ vào mức độ cống hiến của người ấy cho dân tộc và nhân loại, chứ không phải căn cứ vào sự bình thường hay không bình thường của bộ phận nào đó trong cơ thể. Người xưa thường nói "nhân bất thập toàn". Nhưng điểm tật về chức năng một bộ phận cơ thể của nhân vật lịch sử Hồ Chí Minh và anh chị ruột của Người chỉ minh định thể trạng hiền nhân thuần khiết bẩm sinh của họ, như nhân dân Nam Đàn, Nghệ An ca ngợi: "Nam Đàn sinh Thánh". Hồ Chí Minh là thánh nhân cần thiết phải xuất hiện trong tình hình đấu tranh cận - hiện đại, đặc biệt là đấu tranh về tôn giáo, ý thức hệ, trước các thủ đoạn xuyên tạc, bôi nhọ ngày càng tinh vi, thâm độc.

Bài viết này góp phần vào việc phê bình trong tinh thần dân chủ đối với cuốn "Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh" và phê phán tiểu thuyết "Đỉnh cao chói lọi" của nhà văn sa-đích Dương Thu Hương.

► Trong bài viết, khi phân tích tư liệu sấm kí "Nam Đàn sinh Thánh", tôi có đề cập đến giai đoạn lịch sử từ khoảng cuối thế kỉ mười bảy (XVII) đến khoảng cuối thế kỉ mười chín (XIX). Trong quãng thời gian lịch sử này, công lao của các chúa Nguyễn và những thành tựu nội trị, phương cách đối phó trước thách đố do tình thế chung của vương triều Nguyễn vẫn được khẳng định, đề cao, mặc dù tôi không viết thành câu chữ (bởi đã viết nhiều lần ở những bài khác, sách khác). Nhưng cũng không phải công lao, thành tựu và phương cách đối phó cùng tư thế đứng trước thách đố của thời thế ấy không ở trong bối cảnh "Đàng Trong - Đàng Ngoài" tại nước ta, và càng không phải ở ngoài toàn cảnh thế giới trước hiểm họa "truyền đạo" đi đôi với "tìm đất" của thực dân Phương Tây, Âu Mỹ...




1.

Nhật kí ngày 12-01 HB9 (2009)
Cuộc sống độc thân trọn đời của nhân vật lịch sử Hồ Chí Minh, từ mấy mươi năm trước, không một ai trên đất nước Việt Nam không biết. Cũng như vậy, nhiều người trên thế giới đã biết đến, như lâu nay chúng ta từng tiếp xúc với nhạc sĩ thiên tài Trịnh Công Sơn. Và lòng ngưỡng mộ trong nước, ngoài nước về Hồ Chí Minh không vì thế mà suy giảm hay tăng lên. Nhưng trong thời gian gần đây, nhất là khi cuốn “Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh” tung ra trên mạng toàn cầu, kế đến là xuất hiện tiểu thuyết “Đỉnh cao chói lọi” của Dương Thu Hương với bản điện tử và bản in giấy, vấn đề trở nên ồn ào đáng lưu ý.

Tôi không muốn viết một điều gì về sử học, về người thật, việc thật, nếu không có đầy đủ tư liệu gốc, tư liệu khả tín trong tay. Những trang viết suy diễn, dựa vào những gì “nghe nói”, nghe kể”, chỉ tổ làm mất uy tín của người cầm bút mà thôi.

Trước đây, tôi đã từng đọc và suy ngẫm nhiều về một khổ thơ của Nguyễn Đình Thi, vốn được ông viết từ 1950, trước chiến thắng Điện Biên Phủ, và đã tái bản nhiều lần:

“Nơi đây sống một người tóc bạc

Người không con mà có triệu con

Nhân dân ta gọi Người là Bác

Cả đời Người là của nước non”

(“Quê hương Việt Bắc” - 1950)

Gần đây, tôi cũng tìm được trên một trang thông tin điện tử văn bản lá thư Hồ Chí Minh gửi bác sĩ Vũ Đình Tụng, bộ trưởng Bộ Thương binh – Cựu binh (từ 1947 đến 1959). Xin lưu ý rằng, đây là lá thư gửi cho một bác sĩ y khoa, tín đồ Thiên Chúa giáo, nguyên giám đốc Nha Y tế Bắc Bộ trước 1945 (lưu dung). Văn bản này chắc vẫn còn đươc lưu trữ; và hiện nay, hẳn rất thuận lợi để giám định khoa học thực nghiệm lá thư ấy (bản thủ bút). Nó là một văn bản thuộc loại tư liệu gốc, có giá trị khả tín cao nhất, chỉ sau những hồ sơ theo dõi sức khỏe của Hồ Chí Minh. Nhưng rất đáng tiếc là tôi chỉ được biết qua bản sao nguyên văn (1) hoặc lời dẫn như sau:

“Cuộc đời Bác còn có gì đặc biệt? Trong thư gửi bác sĩ Vũ Đình Tụng, Bác đã tự nhận là người không có gia đình và không có con nhưng “gia đình tôi là Việt Nam, con cái tôi là các thanh niên Việt Nam”” (1).

Những thông tin đó không có gì mới. Như đã nói, toàn dân và thế giới đều biết. Vấn đề là từ chỗ chúng ta hoàn toàn tin tưởng, nay bỗng thấy nên kiểm tra lại sự tin tưởng của chúng ta, trước những cuốn sách chứa đựng những điều trái ngược, mặc dù chúng cũng cũ mèm nhưng gây nhiều chấn động bởi phương tiện truyền thông hiện đại.

Tôi lại tiếp tục tìm kiếm, và tìm thấy những bài sấm kí quá quen thuộc, đã khắc vào trí nhớ tôi từ gần 30 năm trước, hồi tôi còn dạy học ở một vùng rừng khai hoang. Chúng thuộc loại tư liệu dân gian, sấm kí (không thuộc loại sử liệu có giá trị khả tín cao) rất phổ biến ở Nghệ An và trên toàn quốc:

“Đụn Sơn phân giái (:giới)

Bò Đái thất thanh

Thủy đáo Lam Thành

Nam Đàn sinh (:sanh) Thánh”


(dịch nghĩa:

Núi Đụn nứt hai [: chia ranh giới]

Bò Đái mất tiếng

Nước lụt đến Lam Thành

Nam Đàn sinh ra thánh nhân).

Thử tìm hiểu lại bài sấm kí này, trước hết, về hiện tượng thiên nhiên được miêu tả.

Theo báo điện tử Vĩnh Phúc (bài của Mai Hiên): “Núi Đụn chính là núi Hùng Sơn ở phía tây huyện Nam Đàn. Năm 722, Mai Thúc Loan (tức là vua Mai Hắc Đế) xây dựng kho quân lương ở trên núi để chống giặc Đường nên gọi là Núi Đụn. Khe Bò Đái (tên gọi trong dân gian) chảy từ vách đá dựng đứng ở Rú Kia (còn gọi là Cơ Sơn), nước chảy ồ ồ và tung bọt trắng xóa. Trong một trận động đất, núi Đụn bị phân đôi, khe Bò Đái cũng bị rạn nứt, nước chảy nhưng bị thẩm thấu lan toả nhiều vào lòng đất đá nên không phát ra tiếng ồ ồ như trước” (2).





Xem bản đồ và thông tin ở cuối bài


Bây giờ, chúng ta thử ngẫm nghĩ các từ ngữ, hình ảnh.

“Phân giái” còn có dị âm là phân giới và ở một dị bản là phân giải. Chữ giớicó âm khác là giái, giái hợp vần với chữ đái ở câu dưới hơn. Còn “phân giải”, nghĩa đen là tách ra, tan rã, nhưng trong Hán văn cũng như trong tiếng Việt đều dùng với nghĩa là phân trần, giải thích, hòa giải; riêng trong ngành hóa học, dùng với nghĩa phân tích, hóa phân (3). “Thất thanh” (trong tiếng Việt) còn có nghĩa là tiếng kêu thảng thốt, kinh ngạc, đến mức kêu không thành tiếng, như trước một trận động đất dữ dội chẳng hạn.

Lam Thành là tên khác của núi Hùng Sơn. Nhiều dị bản không có câu thứ 3 này, nhưng theo tôi, câu thứ 3 này vừa hợp với thể thơ (4 câu), vừa miêu tả thêm về lưu lượng và dung lượng của nguồn nước lũ lụt phi thường.

Hình ảnh thơ nổi bật và tạo ngay ấn tượng cho người đọc là các biểu tượng âm dương (sông núi); dùng hình tượng núi non, suối khe để miêu tả sinh thực khí (linh vật linga, yoni; nõn [nõ], nường) của trời đất.

Địa danh “Bò Đái” (chữ Nôm) lại là cách so sánh ngầm (ẩn dụ) có tính cụ tượng, trực quan sinh động. Trong ngữ cảnh này, người đọc nhận ra hình tượng Bò thần Nandin [Nandi], biểu tượng của thần Hủy diệt và Sáng tạo Shiva (Isana): quyền lực và sinh nở, trong tôn giáo Bà La Môn (tiền thân của tôn giáo Hindu [Ấn Độ giáo]).

Cả cụm hình tượng ở 3 câu 1, 2 và 3 vừa thể hiện sự thiêng liêng (thánh hóa) vừa cho người đọc cảm nhận trần tục (thậm chí vật hóa), để đi đến câu kết (câu 4), thể hiện hiện tượng siêu phàm: “Nam Đàn sinh Thánh” — thánh nhân thường được hiểu là thuần khiết tuyệt đối (không vợ không chồng). Đây là một cách tôn vinh theo phong cách sấm kí, ngôn ngữ dân dã.

Nếu không chấp nhận cách giải mã nghệ thuật này, sẽ không hiểu vì sao lại sử dụng địa danh “Bò Đái” trong khi nó có tên khác trang nhã hơn: Vũ Nguyên; và cả câu 2 có thể là: “Nguồn Vũ” thất thanh hay Vũ bộc thất thanh.

Thử đọc cả câu 1, câu 2 theo cách đó:

“Hùng Sơn [Hùng Lĩnh?] phân cốc,

Vũ bộc thất thanh”

(Núi Hùng chia hang,

Thác Vũ mất tiếng).

“Bò Đái” rõ ràng có chức năng nghê thuật là một nhãn từ (nhãn tự: chữ mắt)! Xin nhớ là “Đại Nam nhất thống chí” đã ghi rõ là suối Vũ Nguyên còn có tên thường gọi là khe Bò Đái, và nguyên văn trong sách: “Ngạn ngữ có câu: “Bò Đái thất thanh’” (4). Đó là một câu không phải thuộc loại đã bị thay đổi, sửa chữa.

Ngoài ra, việc không dùng địa danh Hùng Sơn (hay Hùng Lĩnh?) mà dùng địa danh núi Đụn (đụn thóc, gạo…: quân lương thời Mai Hắc Đế [gốc Chăm?]), trong ngữ cảnh nhất định này, còn gợi cho người đọc ý niệm ước muốn phồn thực, với nghĩa cụ thể là thực phẩm dồi dào (không chỉ sinh con đẻ cháu đông đúc mà còn no ấm).

Thánh nhân (thuần khiết) ra đời từ ước vọng ấm no, hạnh phúc, sum vầy. Phải là bậc thánh nhân (thuần khiết) như thế mới cứu được đất nước, lo được cho nhân dân như ước vọng ấy. Phải chăng đó là ý tưởng xuyên suốt và bao trùm bài tứ tuyệt tứ ngôn sấm kí dân dã trên (vốn xuất hiện vài ba trăm năm trước đây)?

Là con người, cho dù là Phật, Chúa, Tiên, Thánh, tất cả đều được sinh ra từ sinh thực khí (linga [nõn / nõ] - yoni [nường], riêng yoni [nường] bao gồm cả hai bầu sữa của người mẹ). Vì vậy, khi thánh thiêng hóa, vật thiêng hóa sinh thực khí, đồng nhất hóa sinh thực khí với núi non, sông suối quê hương, là đã tôn vinh, tôn vinh trong niềm ước vọng, về một Thánh nhân sẽ ra đời, cứu dân, cứu nước hay tế độ chúng sinh.

Điểm cuối, xin minh định rằng, nguyên văn bài sấm kí dân dã trên đúng y như thế. Chính vì sững sờ bởi địa danh “Bò Đái”, được dùng như nhãn từ, nên tôi thử đưa ra một cách giải mã dựa trên tín ngưỡng tôn thờ sinh thực khí thánh thiêng hóa của người Chăm (theo đạo Bà La Môn [Hindu, Ấn Độ]) và ở nhiều vùng khác tại Bắc Bộ, Trung Bộ nước ta (hiện vẫn còn tín ngưỡng nõn nường thánh thiêng hóa hoặc đang ảnh hưởng như một nếp văn hóa vô thức). Đây chỉ là một cách giải mã thử nghiệm, nếu có gì sơ suất, xin niệm tình lượng thứ.

Tôi thấy mình nên ngừng lại, nhưng rồi không thể không tìm hiểu thêm.

Cũng từ báo điện tử Vĩnh Phúc: “Theo thuyết phong thuỷ trong dân gian ở vùng Nam Đàn vẫn truyền tụng câu: “Bạch tượng uyển hồ, Hồ trung nhất huyệt, nhất đại đế vương” (nghĩa là ở trên con voi trắng trong xứ Ao Hồ có một huyệt đạo, phát làm vua một đời)” (2).

Liệu tác giả Mai Hiên viết và chép đã đúng chưa? Tôi giở sách để tra cứu.

Theo “Đại Nam nhất thống chí” (tập 2, sđd.), ở Nghệ An có một gò đất gọi là Gò Hồ. Phải chăng Uyển Hồ chính là Gò Hồ này? Uyển, theo chữ Hán, là khu vườn hoặc là nơi có cây cối xanh tốt; “Uyển Hồ” là địa danh theo kết cấu tiếng Việt, như Thành Vinh, Thành Hà Nội, Thành Huế? Vì không có bản chữ Hán trên tay để mở từ điển tra lại mặt chữ, tôi nghĩ, chắc hẳn không phải “uyển”, mà là “uyên”: vực sâu; Uyên Hồ (kết cấu theo Hán ngữ): xứ Hồ có vực sâu (vì bài báo vừa dẫn đã đưa ra câu dịch nghĩa, trong đó có địa danh là Ao Hồ)? Nhưng chắc chắn hơn, “bạch tượng uyển hồ” (con voi trắng – hồ nước ở khu đất tươi tốt) chỉ là tên gọi một dạng thế đất tốt để làm huyệt mộ, theo thuật địa lí - phong thủy?

Nhưng điều cần chú ý hơn là câu cuối: “Nhất đại đế vương”. Theo ngữ nghĩa, câu nói theo thuyết phong thủy này không nhằm nói đến chế độ dân chủ. Chế độ dân chủ không theo lệ phong kiến cha truyền, con nối. Chắc hẳn câu sấm chỉ nói đến vị thánh thuần khiết (không vợ con) của Nam Đàn: Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Quay lại với bài sấm, như bài báo “Lời sấm đất Nam Đàn” trên Trang thông tin huyện Nam Đàn, Nghệ An (5), câu thứ 4 của bài sấm vừa được đề cập ở phần trên là “Song Ngư thủy biển (:thiển)”, về sau được các nhà nho cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX sửa lại là “Nam Đàn sinh Thánh”.

Theo đó, chúng ta có thể thấy rằng, cả bài sấm đã được phân tích ở trên và câu nói theo thuyết phong thủy vừa bàn đến, đều nhắm đến Nguyễn Ái Quốc (chủ tịch Hồ Chí Minh về sau). Ngay Phan Bội Châu cũng nghĩ như vậy.

Thực ra, tôi không bao giờ mê tín vào loại sấm kí, phong thủy ở góc độ huyền bí. Nếu thuật phong thủy vẫn còn có giá trị là ở phương diện thẩm mĩ, nó có thể giúp ta chọn được cuộc đất đẹp, thì sấm kí còn có giá trị chăng là ở chỗ phán đoán được xu thế thời đại, gồm xu thế chính trị, kinh tế, quân sự, mà thường một người ưu thời mẫn thế có thể tổng hợp thông tin, đưa ra lời ước đoán khá chính xác (tuyệt nhiên không có chút nào huyền bí trong đó). Trong trường hợp bài sấm cũng như câu nói theo thuyết phong thủy trên, chúng ta còn rút ra được một lượng thông tin là sự ghi nhận thực tại nhãn tiền chứa đựng trong chúng nữa. Nói giản đơn hơn, người ta thấy Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh thuần khiết (không vợ không con) nên người ta sửa chữa sấm kí, câu nói theo thuyết phong thủy lại cho phù hợp. Thế thôi. Ngoài ra, cũng có người dựa vào sự đồng âm Hán – Việt, cho rằng sau khi ông Nguyễn Sinh Khiêm cải táng di cốt mẹ là bà Hoàng Thị Loan ở xứ Gò Hồ này, nên Nguyễn Ái Quốc (già Thu) lấy họ Hồ; còn tên ghép Chí Minh là để nhớ ơn Hầu Chí Minh, khi bị giam tù tại Trung Quốc (1942-1943); nhưng có thể đây chỉ là sự suy diễn hoặc ngẫu nhiên, tuy hợp lí hơn giả thuyết nguyên gốc họ Hồ làng Quỳnh Đôi trong tiểu thuyết “Búp sen xanh” của nhà văn Sơn Tùng.

Ở đề mục này, tôi muốn khai thác bài sấm kí và câu nói theo thuyết phong thủy trên về phương diện ghi nhận sự thật về Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh theo cách sửa chữa câu chữ cho phù hợp như vừa trình bày.

Rốt lại, với tư liệu thuộc loại cần tra cứu kĩ, vốn có trong trí nhớ và trên mạng toàn cầu, đáng tin cậy nhất vẫn là hai tư liệu dưới đây:

1) Tư liệu gốc: Thư Hồ Chí Minh gửi bác sĩ Vũ Đình Tụng (1). Cần tìm ra bản gốc ở Bảo tàng Cách mạng Việt Nam và tiến hành giám định thực nghiệm văn bản này.

2) Tư liệu thứ cấp: Khổ thơ Nguyễn Đình Thi, viết năm 1950, đã xuất bản và tái bản nhiều lần.

Tìm hiểu (không thể nói là nghiên cứu) với những tư liệu như vậy, thật không yên tâm chút nào. Thế mà có người dám viết bừa đến mấy trăm trang sách, không viện dẫn được một nguồn tư liệu nào! Thật đáng sợ.



Nhật kí ngày 10-02 HB9 (2009):

Sau Tết Nguyên đán vừa rồi, nhân đọc một mẩu tin về Lễ hội Vua đen Mai Hắc Đế (Mai Thúc Loan), tôi lại giở sách để suy ngẫm thêm và suy ngẫm trên cơ sở tư liệu chứ không phải suy diễn kiểu bá vơ như Dương Thu Hương hay ghi chép sơ khởi những “nghe nói”, “nghe kể” của GS. Nguyễn Đăng Mạnh.

“Đại Việt sử kí toàn thư” ghi:

“Nhâm tuất, [722], (Đường, Huyền Tông, Long Cơ, Khai Nguyên năm thứ 10). [...] Mai Thúc Loan chiếm giữ châu, xưng là Hắc đế, bên ngoài liên kết với người Lâm Ấp, Chân Lạp, số quân nói là 30 vạn” (6).

“Đại Nam nhất thống chí” do Quốc sử quán triều Nguyễn ghi nhận:

“Đền Mai Hắc đế: ở địa phận xã Hương Lãm, huyện Nam Đường. Thần họ Mai, tên Thúc Loan, mặt sắt, mình đen, hình dáng hùng vĩ, nhiều người tin tưởng vui theo. Bấy giờ nước ta thuộc nhà Đường, khoảng niên hiệu Khai Nguyên, Quang Sở Khách làm đô hộ An Nam, chính lệnh tham bạo, dân không chịu nổi, nhiều người phải trốn vào rừng làm việc trộm cướp. Thúc Loan bèn dấy quân ở Hoan Châu, những người trộm cướp ở các quận đều hàng phục, bèn liên kết với các nước Lâm Ấp và Chân Lạp, số quân có đến 30 vạn, chiếm cứ Giao Châu mà xưng đế, đóng ở thành Vạn Yên (Sa Nam). Nhà Đường sai nội thị là Dương Tư Húc đem quân sang đánh, vua bèn rút quân đến đóng ở núi Hùng Sơn. Khi mất, táng ở phía nam núi đất, người địa phương lập đền thờ” (7).

Một lần nữa, tôi thử tìm kiếm trên mạng toàn cầu qua Google:

Đây rồi, báo điện tử Sài Gòn Giải Phóng: Người đọc Lương Thị Thu Cúc (Bình Định) đặt câu hỏi (trích): “Tại sao có các địa danh nôm na như: khe Bò Đái?”.

Nhà nghiên cứu Lê Trung Hoa trả lời: “Một trong những đặc điểm của các địa danh do người bình dân đặt là tính nguyên sơ, dân dã.

[…]

Còn Bò Đái là tên khe núi tại huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, được ghi nhận trong Sổ tay địa danh Việt Nam của Đinh Xuân Vịnh (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002). Bò Đái là một địa danh thuần Việt nhưng gốc Tày, Nùng, nguyên dạng là Bó Đảy. Bó: nguồn nước, Đảy: nứa tép. Bó Đảy là nguồn nước có nhiều cây nứa tép (Hoàng Văn Ma, Địa danh vùng Tày Nùng trong Những vấn đề ngôn ngữ học, Viện Ngôn ngữ học xuất bản, 2002, tr.202-213).

Như vậy, vì Bó Đảy gần âm với Bò Đái, người Kinh đã dùng từ tổ có sẵn trong tiếng Việt để phiên âm” (8).

Tôi không đồng ý với nội dung trả lời này.

Địa danh phần lớn đều có dấu vết văn hóa, gồm cả văn hóa vô thức. Cũng cần lưu ý là có nhiều nền văn hóa, nguồn văn hóa đan xen, chồng lớp lên nhau (Việt cổ – Tày Nùng – Chăm – Kh’Mer…). Cơ sở cổ sử thời Vua đen Mai Hắc Đế cho thấy là vùng đất Nam Đàn (Nghệ An) có sự giao lưu văn hóa giữa Việt cổ và Lâm Ấp (Chăm-pa), Chân Lạp (Kh’Mer).

Dẫu sao, sự ổn định lâu đời của địa danh Bò Đái, không những trên cửa miệng người dân mà cả trong sử sách, cũng là sự lựa chọn của người Việt địa phương.

Phải chăng sự lựa chọn này cũng do văn hóa vô thức (nõn nường, linga - yoni, Shiva – Bò thần Nandin) chi phối? Hoặc giả, nguyên do trực tiếp chỉ là ấn tượng trực quan sinh động của khe nước chảy mạnh từ vách núi, trông như con bò đang đứng đái mà thôi, chứ chẳng phải có nguồn gốc địa danh Tày Nùng gì cả.

Vấn đề là ngữ nghĩa của địa danh thuần Việt Bò Đái và hình tượng so sánh con bò đang đứng đái, trong một bài sấm kí nghiêm túc, nói về sự đản sanh của một vị thánh. Thật sự không ai dám đùa bỡn với sự đản sanh đó. Đành rằng có một số địa danh có thể được đặt ra với sự tinh nghịch dân dã, nhưng khi đưa vào bài sấm kí nghiêm túc mà không dùng tên chữ “Vũ Nguyên” (Nguồn Vũ), lại dùng “Bò Đái”, hẳn có một dụng ý nhất định.

Nội dung cả bài sấm kí 4 câu là nói đến sự rung chuyển long trời lở đất của thế cuộc, là cơn trở dạ dữ dội của non sông đất nước Nam Đàn và của nguyên khí âm - dương vũ trụ khi sinh nở ra vị thánh nhân. Toàn cảnh gợi đến Shiva (hiện thân là Bò thần Nandin), vị thần Hủy Diệt và Sáng Tạo.



Nhưng hiện tượng long trời lở đất, cơn trở dạ của non sông đất nước Nam Đàn và của nguyên khí âm – dương vũ trụ ấy đã diễn ra từ vài ba trăm năm trước ngày Nguyễn Sinh Cung (Hồ Chí Minh) được sinh ra đời vào năm 1890. Cuốn“Nghệ An ký” của Hoàng giáp Bùi Dương Lịch, người Hà Tĩnh, viết vào cuối thế kỷ 18 (5), sách “Đại Nam nhất thống chí” (4) và bài báo “Lời sấm đất Nam Đàn” trên Trang thông tin huyện Nam Đàn, Nghệ An (5) cho chúng ta biết điều đó. Nguyên văn từ bài báo: “Cách ngày nay khoảng trên dưới 300 năm, núi bỗng nhiên nứt ra làm đôi, vết nứt dài đến mấy trăm mét và sâu đến dăm, bảy chục mét” và “khe Bò Đái mất tiếng đã từ lâu, cách ngày nay ít nhất cũng trên 200 năm”. Bài báo “Lời sấm đất Nam Đàn”cho biết thêm: “Còn 2 câu sau “Thủy đáo Lam Thành, Song Ngư thủy thiển” thì cũng đã rõ. Vào thời Tự Đức, nước lũ sông Lam đã cuốn mất làng Triều Khẩu thuộc huyện Hưng Nguyên và nước sông Lam đã chảy đến chân núi Lam Thành (rú Thành), còn 2 đảo Ngư là hòn Son và hòn Mực ở Cửa Hội thì nước ở đây ngày một cạn dần, bãi bồi nổi lên trước ngày một lớn và rộng ra” (9).



Theo đó, người đọc chúng ta nhận thấy từ thời điểm hiện tượng long trời lở đất, cơn trở dạ của non sông đất nước và của nguyên khí âm – dương vũ trụ ấy đã diễn ra cho đến khi Nguyễn Sinh Cung chào đời cũng khoảng 200 năm (lúc núi Đụn nứt đôi), khoảng 100 năm (lúc khe Bò Đái tắt tiếng), khoảng 50 năm (trận bão lụt khủng khiếp). Đây là thời gian sấm kí, huyền thoại nhưng cũng là thời gian lịch sử. Nếu lấy 1890 trừ đi 200 hoặc 100 hoặc 50, chúng ta sẽ áng chừng được thời điểm diễn ra hiện tượng long trời lở đất của thế cuộc, cơn trở dạ của non sông đất nước, nguyên khí vũ trụ khởi đầu từ cuối thế kỉ mười bảy (XVII), cuối thế kỉ mười tám (XVIII) và giữa thế kỉ mười chín (XIX)…



Đó là các thời đoạn nào trong lịch sử nước ta và thế giới? Ở nước ta, ấy là thời đoạn diễn ra Trịnh – Nguyễn phân tranh và phong trào Tây Sơn, đồng thời cũng là quãng lịch sử Thiên Chúa giáo và thực dân Pháp thực sự can dự vào diễn biến cùng những biến cố trên đất nước, đặc biệt là sự phân liệt “lương – giáo”, mầm mống của vết thương Bến Hải chia cắt Tổ quốc về sau... Trên thế giới, phải chăng đó là thời đoạn chủ nghĩa thực dân Phương Tây đã và đang tiến hành “truyền đạo” kết hợp với “tìm đất” như nhận định của Trần Trọng Kim, tác giả “Việt Nam sử lược”.

Thời gian cưu mang, trở dạ rồi sinh nở ra một thánh nhân, theo sấm kí – huyền thoại – lịch sử là thế đó.

Bây giờ, chúng ta quay lại với hình tượng Shiva (hiện thân là Bò thần Nandin), vị thần Hủy Diệt và Sáng Tạo.

Vấn đề khốc liệt từ cách giải mã này là đưa đến sự mâu thuẫn văn hóa trong tiếp nhận của người đọc. Có biết bao nhiêu phong tục, tập quán, nếu người thuộc nền văn hóa X, không thể hiểu nổi văn hóa Z; và ngược lại. Nhưng nếu chúng ta thấy được linga - yoni, nõn - nường vốn là biểu tượng nguyên sơ, hồn nhiên tối cổ đã được biểu trưng hóa thành âm - dương (Kinh Dịch) rồi trừu tượng hóa thành quy luật mâu thuẫn - thống nhất (biện chứng pháp), sẽ hóa giải được sự xung khắc khốc liệt vừa nói, và tìm ra mẫu số chung của nhân loại. Mẫu số chung của nhân loại còn thể hiện ở tín ngưỡng vật tổ (totem): Bò thần (Ấn), Chó ngao (Anh), Gà trống (Pháp), Chim Lạc, Rồng - Tiên (Việt - Kinh)…

Nếu với nhãn quan văn hóa khác, chúng ta còn thấy trong thiền học cũng có những công án có cách diễn đạt phá chấp khốc liệt như vậy, chẳng hạn, khi được hỏi “Phật tính” là gì, câu trả lời là “càn thỉ quyết” (que cứt khô) (10).

Tuy vậy, tôi vẫn trích dẫn câu trả lời của nhà nghiên cứu Lê Trung Hoa trên báo điện tử SGGP. (30/08/2006) để tham khảo thêm, dè chừng sự giải mã khiên cưỡng bài sấm kí có địa danh ấy.

Nhân đây, cũng xin nói thêm ít dòng về “Nam Đàn sinh (sanh) Thánh”. Dẫu sao, bài sấm kí này cũng mang phong cách dân gian, xuất hiện và định hình trong bối cảnh tư tưởng tôn giáo, tín ngưỡng chiếm ưu thế.

Hồ Chí Minh (Nguyễn Sinh Cung, Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc) lại là một lãnh tụ cộng sản, cho dù là một lãnh tụ cộng sản Việt Nam, Châu Á, vốn xuất thân từ một gia đình Nho học (”kính quỷ thần nhi viễn chi”: tôn kính quỷ thần nhưng nên xa lánh quỷ thần). Là người cộng sản, Hồ Chí Minh dĩ nhiên phê phán “chủ nghĩa khổ hạnh kiểu thầy tu” (cụm từ như một thuật ngữ), mà đề cao lối sống bình thường, có vợ có chồng nhưng mẫu mực. Là người xuất thân từ gia đình nhà nho, chắc hẳn đối với Hồ Chí Minh việc có con nối dõi tông đường là không thể xem nhẹ (“bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”: tội bất hiếu có ba loại, mà không có con nối dõi là tội lớn nhất) (11). Truyền thống lịch sử Việt Nam cũng không có minh chủ, lãnh tụ nào không vợ con (ngoại trừ Phạm Sư Ôn, một tu sĩ Phật giáo thời cuối Trần, đầu Hồ). Nhiều lãnh tụ cộng sản khác cũng vào sinh ra tử nhưng đều lập gia đình riêng, mặc dù có thể thời gian sống với vợ con không nhiều. Chính Hồ Chí Minh cũng tự nhận khuyết điểm của mình là không lấy vợ (và khuyết điểm thứ hai là nghiện thuốc lá), có nghĩa là Hồ Chí Minh không bao giờ đề cao lối sống trọn đời độc thân. Khi xem việc không lấy vợ là khuyết điểm thứ nhất của đời mình, Hồ Chí Minh tự biết bản thân Người, riêng về khía cạnh này, không phải là điển hình lí tưởng (hình tượng chuẩn mẫu) theo nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa và Nho giáo.

Từ những chứng cứ đó, chúng ta nên hiểu thánh nhân ở bài sấm kí trên làthánh nhân bẩm sinh.

Cuối cùng, tôi tự tạm thời kết luận với một sự yên tâm đáng kể:

ANH HÙNG DÂN TỘC HỒ CHÍ MINHCÓ MỘT ĐỜI SỐNG RIÊNG TƯ GIẢN DỊ VỚI THỂ TRẠNG HIỀN NHÂN THUẦN KHIẾTBẨM SINH,KHÔNG THỂ NGHI NGỜ.

Đó là điều tôi muốn thể hiện ở những trang nhật kí này. Dẫu sao, đây chưa phải là một bài nghiên cứu như những bài thuộc thể loại này, tôi từng viết.



Trần Xuân An

15: — 16:31, 10-02 HB9



(Có sửa chữa một ít chữ, bổ sung vài dòng và viết thêm đoạn cuối, : 8:20 — 9:19& 15:40, 11-02 HB9; 8:10, 12-02 HB9; 8:46, 13-02 HB9 )

Viết nhân ngày Lễ hội Vua đen Mai Hắc Đế tại Nam Đàn, Nghệ An năm nay, Rằm tháng Giêng, Kỉ sửu HB9.

SÁU (06) CỨ LIỆU CHÍNH CỦA BÀI VIẾT NÀY:

1. "Tôi không có gia đình, cũng không có con cái"

2. "Người không con mà có triệu con"

3. "Nam Đàn sinh Thánh"

4. "Nhất đại đế vương"

5. Hồ Chí Minh thừa nhận việc không có vợ con là khuyết điểm thứ nhất của cuộc đời Người. Nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa và Nho giáo không đề cao "chủ nghĩa độc thân", "chủ nghĩa khổ hạnh kiểu thầy tu".

6. Anh chị ruột của Bác Hồ (bà Nguyễn Thị Thanh, ông Nguyễn Sinh Khiêm) cũng không có chồng, có vợ và con cháu ruột. Đó là sự thật tuyệt đối đến mức 100%.

TRONG ĐÓ, BỐN (04) CỨ LIỆU 1, 2, 5 & 6 LÀ CĂN BẢN



Chú thích:

(1) Nguyên văn lá thư được viết với ngôn từ ngoại giao, tôn giáo vận (gọi bác sĩ Vũ Đình Tụng bằng “ngài”…). Tôi nhấn mạnh câu cần lưu ý:

"Gửi bác sĩ Vũ Ðình Tụng,

Thưa ngài,

Tôi được báo cáo rằng: Con giai ngài đã oanh liệt hy sinh cho Tổ Quốc.

Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột.

Nhưng cháu và anh em thanh niên khác dũng cảm hy sinh để giữ gìn đất nước. Thế là họ đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi. Họ chết cho Tổ Quốc sống mãi; vật chất họ mất nhưng tinh thần họ vẫn luôn luôn sống với non sông Việt Nam.

Họ là con thảo của Ðức Chúa, họ đã thực hiện cái khẩu hiệu: Thượng đế và Tổ Quốc. Những thanh niên đó là anh hùng dân tộc. Ðồng bào và Tổ Quốc sẽ không bao giờ quên ơn họ.

Ngài đã đem món của quý báu nhất là con của mình, sẵn sàng hiến cho Tổ Quốc. Từ đây chắc ngài sẽ thêm ra sức giúp việc kháng chiến để bảo vệ nước nhà thì linh hồn cháu ở trên trời cũng bằng lòng và sung sướng.

Tôi thay mặt Chính phủ cảm ơn ngài, và gửi ngài lời chào thân ái và quyết thắng.

Tháng 1 năm 1947

Hồ Chí Minh

Nguồn: http://hodovietnam.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=474&Itemid=30
& các nguồn khác: Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, Lãnh đạo – net, Tuổi Trẻ online…

http://fpe.hnue.edu.vn/index.php?Showpost=1190

http://lanhdao.net/vn/hautruong/chinhkhachvn/120707/index.aspx

(2) Nguồn: tác giả Mai Hiên, bài “Lịch sử và huyền thoại mộ bà Hoàng Thị Loan”, báo Vĩnh Phúc, 07:41:13, 15/05/2008.

http : // baovinhphuc . com . vn / front-end / index. Php ?type= ARTICLE & fuseaction = DISPLAY_ SINGLE_ ARTICLE & article_ id= 6790& website_id =1&channe l_id= 401 & parent_ channel _id= 412 & hide_ channel =0

Đại Nam nhất thống chí, bản dịch, tập 2, Nxb. Thuận Hóa, 1992, tr. 156 và 158 xác định: núi Hùng Lĩnh chính là nơi có vệ Vạn An, còn dấu vết lũy cũ của Mai Hắc Đế và miếu thờ ông, và rào Gang (Găng?) được ghi là sông Cương; nên chắc chắn Hùng Lĩnh chính là núi Đụn. Cũng sách này, ghi rõ núi Hùng Sơn chính là núi Lam Thành hay còn có tên khác là núi Đồng Trụ, núi Tuyên Nghĩa, núi Nghĩa Liệt.

Đại Nam nhất thống chí, bản dịch, tập 2, Nxb. Thuận Hóa, 1992, tr.157:

“Núi Đại Huệ: ở cách huyện Nam Đường [Nam Đàn – TXA. chua thêm] 54 dặm về phía đông, hình núi như quả chuông úp, trên đỉnh có động Thăng Thiên, trong động có chùa Đại Tuệ, bên tả có suối, bên hữu có giếng, sườn núi cây chè xanh tốt, hồ Nộn và sông Lam bao quanh, thuyền ghe xuôi ngược trong khoảng sáng sớm mù chiều, thật là một danh thắng trong tỉnh Nghệ An”.

Đại Nam nhất thống chí, bản dịch, tập 2, Nxb. Thuận Hóa, 1992, tr.165-166:

“Gò Hồ: ở cách huyện Nam Đường [Nam Đàn – TXA. chua thêm] 56 dặm về phía đông, phía tây liền với các núi Kim Bồn và Xuân Lâm, phía nam liền với các núi Hùng Lĩnh [núi Đụn – TXA. chua thêm] và Vân Đồn, ngoài núi thì sông Lam làm hào tự nhiên; phía bắc liền với các núi Thanh Thủy, ngoài núi khe suối quanh co. Tấn quốc nhà Lê là Nguyễn Cảnh Hoan đóng quân ở đây để chống cự với tướng Mạc là Nguyễn Quyện, dấu vết lũy cũ vẫn còn.

Lưu ý 2 câu in đậm: "Núi Đại Huệ: ở cách huyện Nam Đường [Nam Đàn – TXA. chua thêm] 54 dặm về phía đông..." và “Gò Hồ: ở cách huyện Nam Đường [Nam Đàn – TXA. chua thêm] 56 dặm về phía đông...". Như vậy, Núi Đại Huệ và Gò Hồ rất gần nhau (cách nhau 02 dặm ta, tức là 425 m x 02 = 850 m, chưa tới một cây số ngàn [01 km]) hoặc cùng thuộc một vùng. Liệu núi Đại Huệ và Gò Hồ đều thuộc xứ Ao Hồ chăng?

(3) Đào Duy Anh, “Từ điển Hán - Việt”, Nxb. KHXH. tái bản, 2001, tr. 105.

(4) Quốc sử quán triều Nguyễn, ĐNNTC., tập 2, bản dịch Phạm Trọng Điềm, Đào Duy Anh hiệu đính, Nxb. Thuận Hóa, 1992, tr. 171: “Suối Vũ Nguyên: tuc gọi là khe Bò Đái, đổ xuống từ ngọn Cơ Sơn trong dãy núi Thiên Nhận [Nhẫn – TXA. chua thêm] thuộc huyện Thanh Chương, ở đây vách đá cheo leo hàng vài ba mươi trượng, rồi chảy vào sông Lam; dưới suối có vực; tiếng nước xối xuống nghe như tiếng sấm; ít lâu nay đất cát bồi lấp, vực thành bãi phẳng, không nghe tiếng suối nữa. Ngạn ngữ có câu:’Bò Đái thất thanh’ là thế”.

(5) Không thấy đề tên tác giả bài báo (Google search):

http://www.Namdan.gov.vn/Chiti%E1%BA%Bfttint%E1%BB%A9c/tabid/10852/ArticleId/406/tid/10841/Default.aspx

(6) Trích nguyên văn từ “Đại Việt sử kí toàn thư”, bản in nội các quan bản (1697), bản dịch (3 tập), tập 1, Nxb. Văn hoá – Thông tin, 2003., tr. 269 (NK. [ngoại kỉ], q. [quyển] V, [tờ] 4b.

(7) Trích nguyên văn: Quốc sử quán triều Nguyễn, “Đại Nam nhất thống chí”, tập 2, bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Đào Duy Anh hiệu đính, Nxb. Thuận Hoá, 1992, tr. 188 – 189.

(8) Nguồn: Sài Gòn Giải Phóng: Cập nhật ngày 30/08/2006 lúc 11:20′ (GMT+7).

http://www.sggp.org.vn/bandocdatcauhoi/2006/8/59058/

(9) Về câu sấm thứ 3, tham khảo thêm vào triều Thiệu Trị (chứ không phải triều Tự Đức): “Đại Nam thực lục”, kỉ III (Thiệu Trị), ghi nhận vào năm 1842: “Nghệ An có bão lớn (bão nổi từ canh 2 đêm, đến sáng rõ mới dứt). Nước biển dâng lên quá mức thường 13 - 14 thước [ta]. Có 40.753 hộ nhà cửa bị đổ nát, 696 chiếc thuyền buôn và thuyền đánh cá bị chìm đắm, 5.240 người dân bị chết bẹp hoặc chết đuối. Đặc biệt những dân ven biển ở các hạt Đông Thành, An Thành và Chân Lộc càng bị hại nhiều hơn (hạt An Thành có thôn hơn 300 người, chỉ còn sống hơn 10 người) (ĐNTL., kỉ III, tập sáu, bản dịch Viện Sử học, Nxb. Giáo Dục tái bản, 2007, tr. 397). Năm 1842 cũng là thời điểm thực dân Pháp bắt đầu gây hấn để thực hiện ý định xâm lược nước ta, mặc dù đến 1847 chúng mới nổ súng gây hấn, rồi 1858 mới thực sự đổ quân viễn chinh, tiến hành xâm lược.



(10) Vô vị chân nhân: càn thỉ quyết = Chân-nhân-không-ngôi-thứ (bổn lai diện mục, Phật tính) là que hay cọc còn dính phân khô. Đây là lời của thiền sư Lâm Tế, một trong các vị tổ của Thiền tông. Xem: Daisetz Teitaro Suzuki, "Thiền luận", Trúc Thiên dịch, 3 quyền, quyển thượng, Nxb. TP.HCM., 1992, tr. 24.



Đây chỉ là một cách nói trong các công án thiền, lúc thiền sư gợi ý, truy vấn cho các thiền sinh giác ngộ, theo tôn chỉ "trực chỉ chân tâm, kiến tánh thành Phật". Nếu ở bên ngoài văn cảnh và khung cảnh ấy, chắc hẳn là cách nói loạn ngôn, báng bổ. Nói chung, mỗi hình tượng, ngôn từ đều phải được hiểu trong một không-thời-gian và ngữ cảnh thuộc một văn bản cụ thể.



Trong tập thơ “Nhật ký trong tù”, Hồ Chí Minh cũng đã có lần gây “sốc” cho người đọc bằng thủ pháp nghệ thuật dung tục hóa: dung tục hóa khát vọng tự do, một giá trị thiêng liêng, cao quý nhất, để làm nổi rõ một mặt khác của tự do, ấy là tính cụ thể, bình thường, thậm chí là tầm thường, dơ bẩn nhưng vô cùng cần thiết: “đi đồng” (đi tiêu). Qua đó, Hồ Chí Minh cũng không tự thần thánh hóa mình:


Một hữu tự do, chân thống khổ

Xuất cung dã bị nhân chế tài

Khai lung chi thời đỗ bất thống

Đỗ thống chi thời lung bất khai

(Hạn chế)

Đau khổ chi bằng mất tự do

Đến buồn đi ỉa cũng không cho

Cửa tù khi mở không đau bụng

Đau bụng lại không mở cửa tù.

(Bị hạn chế -- Nam Trân dịch)

(11) Anh chị ruột của Bác Hồ (bà Nguyễn Thị Thanh, ông Nguyễn Sinh Khiêm) cũng không có chồng, có vợ và con cháu ruột. Đó là sự thật tuyệt đối đến mức 100%. Theo suy luận của tôi, chắc hẳn hai người này cũng là thánh nhân thuần khiết bẩm sinh. Đây là một chứng cứ bổ trợ để chứng minh cho thể trạng thánh nhân thuần khiết bẩm sinh của Bác Hồ. Ở đây, tôi cũng chỉ nhấn mạnh đến yếu tố gien thể chất, không đề cập đến tác nhân môi trường xã hội trong việc hình thành tính cách, tư tưởng.

TXA.







Phụ đính

MỘT ÍT THÔNG TIN ĐỂ XÁC ĐỊNH VỊ TRÍ ĐỊA LÍ
CỦA NÚI ĐỤN, KHE BÒ ĐÁI & NÚI LAM THÀNH

(ĐỐI CHIẾU VỚI 3 BẢN ĐỒ)



“… Núi Đụn nằm trong phạm vi 2 xã Đông Liệt (nay là xã Nam Thái) và Khả Lãm (nay là xã Nam Thượng), ở phía tây – bắc huyện, cạnh đường quốc lộ 46 Vinh – Đô lương, cách huyện lỵ Nam Đàn khoảng 3 km. Núi cao khoảng 300m, sườn núi dốc thoai thoải, cây cối xưa kia nhiều, nay không còn mấy. Núi có rào Gang vòng ở phía Bắc và sông Lam vòng ở phía Nam…”.

“… Khe Bò Đái, còn gọi là khe Ồ Ồ, hay suối Võ Nguyên chảy từ vách đá dựng đứng ở rú Kia (Cơ Sơn) ở làng Chi Cơ (kẻ Kia) thuộc xã Võ Nguyên xuống trên một chiều dài vài chục trượng, rộng trên vài chục thước ta, nước chảy từ trên núi dốc xuống đất, tung tóe trắng xóa, trông giống con bò cái đang đái, tiếng khe chảy ồ ồ, ngoài mươi dặm còn nghe thấy. Ngày nay khe Bò Đái vẫn còn chảy, nhưng tiếng không còn vang vọng ra xa nữa; tiếng vang vọng mất đi từ khi núi Đụn nứt đôi, hình thành một cái vực thẳm ở giữa…”.

(“Lời sấm đất Nam Đàn”, Trang thông tin huyện Nam Đàn, Nghệ An)





Bản đồ huyện Nam Đàn, Nghệ An

Bấm vào đây: Núi Đụn & Khe Bò Đái (xã Nam Thái và xã Nam Thượng)

Ao Hồ:

Nguồn ảnh: Tuổi Trẻ trực tuyến

“… Trở về với Nam Đàn yêu thương, theo núi Đụn, dòng Lam, ta sẽ về với Nam Thượng, đây là một xã còn nhiều khó khăn vất vả của huyện Nam Đàn. Trước kia xã chia làm hai thôn, đó là thôn Chi Cơ có tên Nôm là Kẻ Kia thuộc xã Võ Nguyên (nay là HTX. Đại Đồng) với 340 hộ, 1800 khẩu và thôn Khả Lãmthuộc xã Hương Lãm, tổng Xuân Liễu (nay là HTX. Hùng Sơn) với số hộ là 145, 750 khẩu. Hai thôn ở ven bờ sông Lam, đối diện qua suối Vũ Nguyên, tục gọi là khe Bò Đái. Tuy đất không rộng, người không đông (cả xã có 535 hộ, 2600 nhân khẩu), mặc dù còn nhiều khó khăn song Nam Thượng luôn tự hào với truyền thống hiếu học, giàu nghĩa khí, trọng nghĩa nhân…”.

“… do dòng sông ngăn cách nên trường phải học ở hai phân hiệu Đại Đồng và Hùng Sơn…”.

(Đinh Xuân Khang
http://giaoan.violet.vn/uploads/resources/508/108448/preview. swf
Trích báo cáo truyền thống “Kỷ niệm 65 năm ngày thành lập Trường PTCS.
Nam Thượng [9-1947 – 9-2007] và khánh thành trường cao tầng”)



Bản đồ huyện Hưng Nguyên, Nghệ An

Bấm vào đây: Núi Lam Thành (rú Thành) thuộc xã Hưng Lam và xã Hưng Phú

Nguồn ảnh: Du lịch đất Nghệ trực tuyến

Núi Lam Thành (còn gọi là núi Hùng Sơn, núi Nghĩa Liệt, Đồng Trụ Sơn) thuộc địa phận hai xã Hưng Phú và Hưng Lam (Hưng Nguyên, Nghệ An), nhân dân địa phương thường gọi rú Thành - là ngọn núi cao nằm sát bên bờ sông Lam. Trước đây trên núi có nhiều cây xanh, động thực vật sinh sống. Dưới chân núi là xóm làng trù phú, đồng ruộng màu mỡ. Tất cả hoà quyện vào nhau như một bức tranh thuỷ mặc.

(Linh Nga, “Di tích núi Lam Thành…”, Trang thông tin điện tử TP.Vinh, 22/11/2008

http://www.vinhcity.gov.vn/news/?url=detail&id=11267&language=1)



THAM KHẢO THÊM: XỨ AO HỒ [GÒ HỒ (?)]

"... Có một điều ngẫu nhiên đã diễn ra trong lịch sử là tháng 3 năm Nhâm Ngọ (1942) khi hài cốt bà Hoàng Thị Loan được đưa lên cát táng trên núi Động Tranh thấp thuộc dãy núi Đại Huệ ở xã Hữu Biệt (nay là Nam Giang) huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, thì tháng 8 năm 1942, ông già Thu ở căn cứ cách mạng, tỉnh Cao Bằng lần đầu tiên lấy tên là Hồ Chí Minh rồi đi sang Trung Quốc để liên lạc với các lực lượng cách mạng của người Việt Nam và lực lượng của đồng minh. Và từ đó Hồ Chí Minh là biểu tượng vô cùng cao đẹp, là lãnh tụ tối cao và anh linh của dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống nhất tổ quốc, xây dựng một đất nước Việt Nam hòa bình, độc lập, tự do, dân chủ, văn minh, cường thịnh...".

(Trần Minh Siêu, "Huyền thoại huyệt đạo bà Hoàng Thị Loan trên núi Động Tranh", (Chương II), Nhà xuất bản Nghệ An, 2003). Google search.

"... Tháng 8/1941, Nguyễn Sinh Khiêm thoát khỏi nhà tù đế quốc đã đi khắp các dãy núi thuộc hai huyện Nam Đàn, Hưng Nguyên tìm nơi cát táng mẹ. Cuối cùng ông quyết định chọn mỏm núi Động Tranh thấp là nơi hội tụ đủ các tiêu chí về linh địa làm huyệt đạo. Tháng 3/1942, ông dẫn hai người cháu thân tín lên sườn núi Động Tranh thấp đào 9 cái huyệt ở những nơi ông đã đánh dấu. Ông dặn là khi đào xuống gặp phải hòn đá lớn thì dừng lại. Một đêm khuya ông bí mật mang hài cốt mẹ từ vườn nhà làng Sen đếnĐộng Tranh thấp thắp hương khấn vái xin phép thổ thần xứ Ao Hồ rồi đặt hài cốt mẹ vào một cái huyệt và lấp lại. Sau đó ông tiếp tục lấp bằng phẳng số huyệt đã đào. Vì vậy mọi người, kể cả hai người cháu thân tín cũng không biết ông táng mẹ ở đâu...".

(Mai Hiên, bài đã dẫn, báo điện tử Vĩnh Phúc)



Vị trí huyện Nam Đàn: số 6, huyện Hưng Nguyên: số 7

Nguồn ảnh: Web Yeu-xu-nghe -- Google search

Lưu ý: Về địa danh và địa giới, qua nhiều thời kì, có ít nhiều thay đổi và không cố định. Dẫu sao những tư liệu về địa lí trên đây (chuẩn xác và chưa được chuẩn xác) cũng cho chúng ta một ý niệm tương đối để hình dung. BÀI VIẾT NÀY KHÔNG ĐI SÂU VÀO LĨNH VỰC ĐỊA LÍ.



TP.HCM., ngày 18 -- 25-02 HB9 ( 2009 )

--- Trần Xuân An.

25-02 HB9 ( 2009 )



------- Hết ------





Ngoài lề bài viết

(vì bài đã quá dài)

MỞ RỘNG THÊM Ở NGOÀI LỀ BÀI VIẾT (25 & 27-02 HB9 [ 2009 ]):

Lo ngại rằng, sẽ có một số độc giả bất bình, thậm chí phẫn nộ, do mâu thuẫn văn hóa trong tâm lí tiếp nhận, bởi tính chất khốc liệt trong việc giải mã nhãn từ “Bò Đái” (*), tôi bổ sung thêm một bài thơ của chính nhà thơ Hồ Chí Minh:

Trong tập thơ “Nhật ký trong tù”, Hồ Chí Minh cũng đã có lần gây “sốc” cho người đọc bằng thủ pháp nghệ thuật dung tục hóa: dung tục hóa khát vọng tự do, một giá trị thiêng liêng, cao quý nhất, để làm nổi rõ một mặt khác của tự do, ấy là tính cụ thể, bình thường, thậm chí là tầm thường, dơ bẩn nhưng vô cùng cần thiết: “đi đại tiện” (đi tiêu) ” 出 恭 ” (”đi rón rén”) [từ lệch nghĩa]. Qua đó, Hồ Chí Minh cũng không tự thần thánh hóa mình:
限 制
沒 有 自 由 真 痛 苦
出 恭 也 被 人 制 裁
開 籠 之 時 肚 不 痛
肚 痛 之 時 籠 不 開

(Tư liệu Hán – Nôm – Từ điển trực tuyến Việt – Hán – Nôm: NKTT., bài 116 http : // sager – pc . cs . nyu . edu / ~ huesoft / tulieu / ntnk . htm )

Hạn chế
Một hữu tự do, chân thống khổ
“Xuất cung” dã bị nhân chế tài
Khai lung chi thời đỗ bất thống
Đỗ thống chi thời lung bất khai


Bị giới hạn, ngăn cấm
Mất tự do vốn có, khổ đau thật sự
“Đi một cách cung kính” [:“đi rón rén”] mà cũng bị người ta ngăn cấm
Mở lồng [:lao tù], ấy lúc bụng không đau
Đau bụng, ấy khi lao tù không mở


(WebTgTXA. tạm dịch nghĩa)

Bị hạn chế
Đau khổ chi bằng mất tự do
Đến buồn đi ỉa cũng không cho
Cửa tù khi mở không đau bụng
Đau bụng lại không mở cửa tù.


(Nam Trân dịch vần)

Chắc chắn bản dịch của nhà thơ Nam Trân đã được chính tác giả Hồ Chí Minh đọc duyệt. Bản dịch này đã được đưa vào chương trình ngữ văn các trường phổ thông và đại học từ thuở sinh thời Bác Hồ đến nay.

Và không chỉ một lần, nhà thơ Hồ Chí Minh còn gây “sốc” ở một bài khác, khi Người sử dụng thủ pháp tả thực, tự nhiên chủ nghĩa kết hợp với biểu tượng hóa, có ý nghĩa khái quát cao: “Ngồi trên hố xí đợi ban mai” (“Xí khanh thượng toạ đãi triều [:triêu] lai” 廁 坑 上 坐 待 朝 來 “Ngồi trên hố xí đợi hừng đông đến” [bài 34: “Sơ đáo Thiên Bảo ngục”, nguồn bản chữ Hán: tlđd.; dịch vần: Nguyễn Huệ Chi]).

17:20, 25-02 HB9 & 26-02 HB9

(*) 27-02 HB9: Nhắc lại tổng thể hình tượng bài sấm kí: Nhãn từ chứa đựng ẩn dụ “Bò Đái” trong cụm hình tượng miêu tả những hiện tượng thiên nhiên dữ dội như động đất, núi Đụn nứt hai, suối thác Vũ Nguyên tắt tiếng, lũ lụt dâng lên đến rú Thành dẫn đến sự đản sanh thánh nhân trong bài sấm kí “Nam Đàn sanh Thánh”. Tổng thể cụm hình tượng khiến chúng ta không thể giải mã nếu không vận dụng hình tượng Thần Shiva (hiện thân là Bò thần Nandin). Đó là Vị Thần Hủy diệt và Sáng tạo, biểu tượng của Trời — Đất, nguyên khí vũ trụ âm [-] — dương [+]. Chính vị thần Shiva này đã đản sanh ra thánh nhân. Tôi không đồng nhất Thần Shiva với thánh nhân Hồ Chí Minh và anh chị ruột của Người.

Trong bài viết, tôi cũng đã xem những hiện tượng thiên nhiên dữ dội kể trên như các ẩn dụ về lịch sử.

Như vậy, bài sấm kí đã giải thích, tiên đoán về sự vận động, chuyển biến của địa lí và lịch sử bằng động lực siêu nhiên, thần bí và nhãn quan duy tâm, huyền học, tôn giáo Bà La Môn (tiền thân của Hindu).

Cố nhiên sấm kí không thuộc lĩnh vực nào khác ngoài huyền học!

Dẫu thế, trong bài viết, tôi cũng đã bày tỏ là không tin tưởng vào những yếu tố thần bí của sấm kí, mà chỉ thu nhặt lấy cái lõi ghi nhận hiện thực — lịch sử từ cuối thế kỉ XVII đến cuối thế kỉ XIX và Hồ Chí Minh (thánh nhân thuần khiết bẩm sinh) — chứa đựng trong chúng.

Bài sấm kí này cùng một câu theo thuyết phong thủy trong bài viết là hai tư liệu không căn bản, lại quá phức tạp, nhưng cũng khá cần thiết. Vì tính chất phức tạp của chúng, tôi phải phân tích, rút tỉa lượng thông tin, nên những câu chữ viết về chúng chiếm một tỉ lệ đáng kể. Do đó, nếu không lưu ý khi đọc (bảng liệt kê màu vàng), chúng ta sẽ dễ bị lệch trọng tâm chủ đề ▪



Trần Xuân An

Web chinh (main web):
http://tranxuanan.writer.googlepages.com
& Cac web khac (others):
http://www.tranxuanan-writer.blogspot.com
http://c.1asphost.com/TrXuanAn/web_index.htm
Email:
tranxuanan.writer@gmail.com
tranxuanan_vn@yahoo.com
Nha (house):
71B Pham Van Hai
Phuong 3, quan Tan Binh, TP.HCM.
Dien thoai (phone): (08) 3 8453955 & 0908 803 908

Cái chết, Phật giáo và chủ nghĩa hiện sinh trong nhạc Trịnh Công Sơn






John C. Schafer



Đôi nét về tác giả

John C. Schafer là giáo sư emeritus, khoa Anh ngữ, Đại học Humboldt, Hoa Kỳ. Ông đã dạy Anh ngữ tại Việt Nam theo Chương trình Tình nguyện Quốc tế (1968-1970) và Chương trình Fullbright (1971-1973, 2001).

Trích yếu

Đã có rất nhiều lời giải thích về sự nổi tiếng của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn qua những đề tài như: ca từ đầy chất thơ, khác với dòng nhạc tiền chiến, mang chủ đề phản chiến, cả việc ông đã khám phá ra những tiếng hát nữ tài năng, và còn nhiều điều khác nữa. Nhưng chủ đề Phật giáo trong những bài hát của ông lại rất ít khi được nhắc đến, phải chăng, đây là điều những học giả Việt Nam cho là hiển nhiên. Bài viết này nói đến chủ đề Phật giáo trong nhạc Trịnh và chứng minh rằng chủ đề này góp phần vào việc giải thích hiện tượng Trịnh Công Sơn. Ngoài ra, bài viết này cũng đề cập đến chủ nghĩa hiện sinh Âu châu, là điều mà tác giả bài viết cho rằng đã thu hút Trịnh Công Sơn nhưng không có ảnh hưởng lớn đến những sáng tác của ông.

Trong thời gian chiến tranh (ở Việt Nam), tôi dạy Anh ngữ tại miền Nam Việt Nam và trở thành một người hâm mộ ca/nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Vào những năm cuối thập niên 1960 và đầu 1970, ở các thành thị miền Nam, mọi người, đặc biệt giới sinh viên, đều nghe và hát nhạc Trịnh – họ hát những bài hát như “Gia tài của mẹ”, “Tình ca người mất trí”, và “Đại bác ru đêm”. [1] Với những người trẻ mà tôi đã được biết trong cuộc chiến, các bài hát này là “thánh ca”, chúng thể hiện lòng khát khao hoà bình và tình yêu quê hương của họ.

Sau năm 1975, Trịnh Công Sơn ở lại Việt Nam, và tiếp tục sáng tác. Đã có một thời, chính quyền cộng sản e ngại ông: họ không chấp nhận thái độ phản chiến của ông, vì ông lên tiếng chống lại mọi hình thức chiến tranh kể cả chiến tranh kháng chiến của họ. Hiện nay, những bài hát phản chiến của ông vẫn không được cho hát và phổ biến tại Việt Nam. [2] Ngày 1 tháng 4 năm 2001, ông qua đời; tôi có dịp ở Việt Nam và khi được chứng kiến tình cảm và sự tiếc thương của mọi người trước sự ra đi của ông, tôi bắt đầu quan tâm đến những lý do vì sao ông lại quá nổi tiếng như vậy. Tôi nghiên cứu về những điều này trong một bài viết khác. [3] Riêng trong bài viết này, tôi chú trọng hơn về triết lý sống của Trịnh Công Sơn.

Những người biết nhạc Trịnh Công Sơn có thể sẽ khó chấp nhận cụm từ “triết lý sống.” Nhiều sáng tác của ông mang những hình ảnh siêu thực, ca từ lạ và không theo quy tắc. Có thể, chúng ta sẽ phải hỏi rằng, làm sao những sáng tác như vậy lại được coi là những lý luận triết học? Mặc dù các bài hát của ông có những đặc điểm vừa nêu trên, tôi vẫn nghĩ rằng, trước sau như một, chúng mang một triết lý khá kiên định. Trịnh Công Sơn đã từng theo học triết học tại một trường trung học của Pháp ở Sài Gòn, và ông từng nói rằng ông “vốn thích triết học và vì thế [ông] muốn đưa triết học vào ca khúc của minh, một thứ triết học nhẹ nhàng mà ai ai cũng có thể hiểu được.” [4] Trong bài viết này, tôi sẽ miêu tả cái triết lý “nhẹ nhàng” đó và sẽ chứng minh rằng triết lý này chính là triết lý Phật Giáo, và cũng phần nào liên hệ đến chủ nghĩa hiện sinh Âu châu, một triết lý đã mê hoặc Trịnh Công Sơn và giới trí thức miền Nam trong những năm cuối thập niên 1950, đầu thập niên 1960.


“Triết lý nhẹ nhàng” của Trịnh Công Sơn

Triết lý của Trịnh Công Sơn, qua những sáng tác của ông, dựa trên nhận thức rằng cuộc sống tuy có những niềm vui, nhưng cũng đầy những u buồn. Trong bài “Gọi tên bốn mùa”, ông thốt lên rằng “Tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người.” Trong bài này và một số bài khác, ông miêu tả tuổi trẻ, nhất là những năm tháng của tuổi đôi mươi, là thời gian đặc biệt buồn bã của cuộc đời. Trong bài “Nhìn những mùa thu đi”, ông hát:


Nhìn những mùa thu đi
Tay trơn buồn ôm nuối tiếc
Nghe gió lạnh về đêm
Hai mươi sầu dâng mắt biếc
Thương cho người rồi lạnh lùng riêng


Đời sống đầy u buồn vì nó tạm bợ. Tất cả - chim trời, hoa lá, niềm vui, những cuộc tình, và chính đời sống mỗi con người – chỉ là những điều tạm bợ, phù du như sương mù. Trong bài “Ở trọ”, Trịnh Công Sơn nhấn mạnh rằng, vạn vật chỉ là kẻ ở trọ nơi cõi trần:


Con chim ở đậu cành tre
Con cá ở trọ trong khe nước nguồn
Tôi nay ở trọ trần gian
Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời


Trong một số bài hát của Trịnh Công Sơn, tình yêu chính là nơi nương náu quyến rũ của con người ở cõi thế u buồn này. Nhưng vì tình yêu, cũng như vạn vật, chỉ là tạm bợ nên tình yêu không phải là nơi nương náu vững vàng cho mỗi người. Tình yêu tuyệt đẹp nhưng phù du, là chủ đề được tìm thấy trong nhiều bài hát của Trịnh Công Sơn. Ví dụ, trong bài “Đóa hoa vô thường”, ông hát về những giai đoạn của một cuộc tình – niềm vui khi tình yêu chớm nở và sau đó là một kết cuộc buồn không thể tránh khỏi:


Từ đó ta nằm đau
Ôi núi cũng như đèo
Một chút vô thường theo
Từng phút cao giờ sâu
Từ đó ta ngồi mê
Để thấy trên đường xa
Một chuyến xe tựa như
Vừa đến nơi chia lìa


Hoàng Phủ Ngọc Tường, một người bạn của Trịnh Công Sơn, cho rằng các bài tình ca của Trịnh Công Sơn là những lời khẳng định siêu hình rằng những chia lìa, tan vỡ của những cuộc tình không phải là những chướng ngại trên đường đời vốn cơ bản là vui. Theo Hoàng Phủ Ngọc Tường, những bài hát đó là “bài kinh cầu bên vực thẳm.” [5] Nhà thơ Xuân Diệu đã từng nói, “Yêu là chết ở trong lòng một ít”; đây là câu thơ mà tất cả những sinh viên đại học tôi dạy hồi chiến tranh đều biết. [6] Sự chia lìa không tránh được trong tình ca Trịnh Công Sơn là những cái chết, là sự chuẩn bị chuyến ra đi cuối cùng khỏi kiếp này của người tình và của chính mình. Chúng gợi nhắc ta về cõi tạm. Trong những bài hát của Trịnh Công Sơn, cái chết, chuyến ra đi cuối cùng, không bao giờ là điều xa xôi. Trong một số bài hát, ông nói đến cái chết của chính mình, [7] như trong bài “Bên đời hiu quạnh”:


Một lần nằm mơ tôi thấy tôi qua đời
Dù thật lệ rơi lòng không buồn mấy
Giật mình tỉnh ra ồ nắng lên rồi


Trong các bài khác, ông nói đến cái chết một cách mơ hồ hơn – như là hành trình về “nơi cuối trời.” [8] Dù bằng hình ảnh nào đi nữa, nhạc Trịnh Công Sơn luôn hướng đến sự vĩnh hằng, như trong bài hát với tựa đề “Lời thiên thu gọi”:


Về chân núi thăm nấm mồ
Giữa đường trưa có tôi bơ vơ
Chợt tôi thấy thiên thu
Là một đường không bến bờ

Và trong bài “Còn có bao ngày”, ông hát:


Đêm ta nằm nghe tiếng trăm năm
Gọi thì thầm, gọi thì thầm, gọi thì thầm


Triết lý nhẹ nhàng của Trịnh Công Sơn còn bao gồm cả vũ trụ học. Có hai thế giới: một thế giới thực, là “trần gian” hay “nhân gian”, và một thế giới phi thực, là “thiên thu”, “đất muôn đời”, “thiên đàng” hay “vườn địa đàng”. Nhưng thế giới thực luôn hoà lẫn với cái thế giới phi thực, cho nên thế giới của nhạc Trịnh Công Sơn là nơi mà Bùi Vĩnh Phúc gọi là thế giới “nhoè nhạt” hay “lai”,[9] là chốn giữa thực và siêu thực; một thế giới mà trong bài “Đời cho ta thế”, Trịnh Công Sơn đã hát rằng “Không xa trời và cũng không xa phận người”. Cái mờ ảo giữa thực và phi thực, có thể được coi là cõi mờ ảo giữa sự sống và sự chết, giữa thực thể trần gian và chốn vĩnh hằng bao trùm khắp và là sự pha trộn của những hình ảnh đối lập quan trọng nhất trong nhạc Trịnh Công Sơn.

Nhưng còn có những mờ ảo khác, thường trong cùng một dòng. Theo Cao Huy Thuần, nhạc Trịnh Công Sơn thường có một thoáng của cái này trong cái kia và ngược lại: “Một chút xuôi trong ngược. Trăm năm trong xuân thì. Chân như trong hạt lệ.” [10] Nhiều câu chữ có cấu trúc song song, một hệ thống thường được dùng để trung hoà những điều đối nghịch, lại được Trịnh Công Sơn dùng đến, không phải để phân biệt và đối lập các giá trị và phạm trù, mà ngược lại, để làm nhoè và mờ đi, một nghệ thuật Cao Huy Thuần gọi là “đối hợp.” [11] Ví dụ: “Tình không xa nhưng không thật gần”, “Không xa đời và cũng không xa mộ người”, và “Một phố hồng, một phố hư không”. [12]

Tuy cấu trúc không song song, nhưng có những câu nhạc của Trịnh Công Sơn hiển nhiên không muốn phân biệt chất lượng cũng như phạm trù: “Có chút lệ nhoà trong phút hôn nhau” và “Tình ngỡ đã phôi pha nhưng tình vẫn còn đầy”. [13]

Nhạc Trịnh Công Sơn cho ta hình ảnh một người đi xuyên suốt một thế giới nửa hư nửa thực. Người ấy mệt mỏi và buồn bã. Dù biết ơn cuộc đời này, đặc biệt là tình yêu, ông [14] vẫn không hoàn toàn thuộc về chốn nhân gian này; trong một số bài hát, ông nhắc đến mình như kẻ lưu đày. [15] Vậy con người này sẽ đi về đâu? Và ông đang ra đi, hay đang trở về? Ông ra đi từ trần gian này, hay đang trở về từ một chốn nào khác? Kẻ lữ hành đó không thể trả lời những câu hỏi này. Trong bài “Có một ngày như thế”, ông hát:


Có một ngày… có một ngày như thế
Anh đi… Anh đi đâu?… về đâu?


Và trong bài “Tiến thoái lưỡng nan” ông hát:


Tiến thoái lưỡng nan
Đi về lận đận
Ngày xưa lận đận
Không biết về đâu
Về đâu cuối ngõ?
Về đâu cuối trời?
Xa xăm tôi ngồi
Tôi tìm lại tôi


Trong nhiều bài khác, ông lại hát lên nỗi nhớ nhà:


Nhiều đêm muốn quay về ngồi yên dưới mái nhà

“Lời thiên thu gọi”

Một lần chợt nghe quê quán tôi xưa
Giọng người gọi tôi nghe tiếng rất nhu mì

“Bên đời hiu quạnh”

Nhiều khi bỗng như trẻ nhớ nhà
Từ những phố kia tôi về

“Đêm thấy ta là thác đổ”

Nhưng khi nhắc đến “nhà”, “quê nhà” và “quê quán”, vậy ông đang nhắc đến quê quán của mình, hay đang nói nơi yên nghỉ cuối cùng của mình – cái chết, sự vĩnh hằng? Về điểm này, ông có vẻ cũng không rõ – như trong bài “Tiến thoái lưỡng nan”, rằng ông đang đi về “cuối ngõ” nơi quê nhà hay về “cuối trời” của cõi vĩnh hằng. Trong bài hát “Một cõi đi về” [16] rất nổi tiếng của ông, Trịnh Công Sơn viết “Chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà”, và vì vậy người nhạc sĩ cứ mãi loanh quanh:


Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
Rọi xuống trăm năm một cõi đi về


Những ảnh hưởng của Phật giáo

Như hầu hết các triết lý khác, “triết lý nhẹ nhàng” của nhạc Trịnh Công Sơn để lại cho chúng ta rất nhiều thắc mắc. Tuy vậy, triết lý của Trịnh Công Sơn và những sáng tác của ông, thật ra không khó hiểu như khi vừa tiếp cận, một khi chúng ta nhìn chúng từ tư tưởng Phật giáo. Hiển nhiên, biết thêm về cuộc đời của người nhạc sĩ này cũng phần nào giúp chúng ta hiểu thêm.

Trịnh Công Sơn đã trải qua thời thơ ấu gắn liền với cuộc chiến thứ nhất và trưởng thành trong thời gian xảy ra cuộc chiến thứ hai ở Đông Dương; một trải nghiệm chắc chắn đã giúp ông thấy rằng thế giới này ngập tràn những khổ đau và sự sống rất mong manh. Cha ông tham gia kháng chiến và đã bị bỏ tù ở Buôn Ma Thuột; năm 1949, khi mới lên mười, Trịnh Công Sơn đã phải sống với cha ông một năm trong Lao Thừa Phủ. Năm năm sau, cha ông qua đời trong một tai nạn xe trên đường từ Quảng Trị về nhà ở Huế. [17] Trong một cuộc trả lời phỏng vấn, Trịnh Công Sơn có lần đã nói rằng từ những năm của thời thơ ấu mãi đến tận bây giờ (1998), với ông, cái chết vẫn luôn là “ám ảnh lớn nhất” và cho rằng “biên giới giữa cái chết và cái sống hình như chỉ là một sợi tóc mong manh.” [18] Nhiều tác giả khác đã viết rất nhiều bài về thời thơ ấu và những trải nghiệm chiến tranh của ông, [19] nên ở đây, tôi sẽ chỉ tập trung nói về những ảnh hưởng của Phật giáo và chủ nghĩa hiện sinh.

Sau khi ông qua đời, trong rất nhiều những bài viết về Trịnh Công Sơn, người ta thường nhắc qua về ảnh hưởng của Phật giáo trong các sáng tác của ông. [20] Những người say mê Trịnh Công Sơn thường không đi sâu vào những ảnh hưởng này, theo tôi, là vì trong một nền văn hoá vốn đã quá thấm nhuần tư tưởng Phật giáo như ở Việt Nam, những người viết về Trịnh Công Sơn tự thấy không cần thiết phải đi sâu vào chủ đề này thêm nữa. Tuy vậy, trong những lần trả lời phỏng vấn, chính Trịnh Công Sơn thỉnh thoảng đã nhắc đến những ảnh hưởng của Huế, quê hương ông, và của Phật giáo. “Huế và đạo Phật ảnh hưởng sâu đậm trên tình cảm thời thơ ấu của tôi”, ông đã nói với một người phỏng vấn ông như vậy. [21] Huế và Phật giáo gắn kết với tâm hồn của Trịnh Công Sơn cũng như nhiều người Việt Nam khác. Huế là đất của Phật giáo với rất nhiều chùa chiền. Tháng 5 năm 1963, khi những đại diện của vị Tổng thống theo đạo Công giáo Ngô Đình Diệm cấm Phật tử treo cờ mừng lễ Phật đản lần thứ 2527, nhiều người đã tập trung biểu tình hoà bình gần Đài phát thanh Huế. Một sĩ quan cảnh sát đã ra lệnh cho bắn vào đám đông biểu tình, giết chết một phụ nữ và tám trẻ em. Sự kiện này đã làm tăng những cuộc biểu tình của Phật tử và phần nào là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của chính quyền Ngô Đình Diệm. Huế cũng được biết đến với nhiều khu lăng tẩm vua chúa nằm ở những vùng yên lắng ở ngoại ô thành phố. Khi được hỏi về những ảnh hưởng của Huế, Trịnh Công Sơn đã nhắc đến những lăng tẩm – những cơn mưa dầm, và con đường mang tên “Âm hồn” ở Huế! Trịnh Công Sơn nói, “Tất cả những bài hát của tôi đều viết về Huế”; điều này cho thấy quê quán phần nào là nguyên nhân của nỗi buồn và ám ảnh về cái chết mà mọi người tìm thấy trong những bài hát của ông. [22]

Trong bài viết năm 2001 trên tờ Nguyệt san Giác Ngộ, Trịnh Công Sơn đã nói trực tiếp về những ảnh hưởng của Phật giáo đến cuộc đời và những sáng tác của ông:


Tôi là một Phật tử ở trong một gia đình có tôn giáo chính là Phật giáo. Từ những ngày còn trẻ, tôi đã học kinh và thuộc kinh Phật. Thuở bé tôi hay đến chùa vì thích sự yên tĩnh. Có những năm tháng nằm bệnh, đêm nào mẹ tôi cũng nhờ một thầy đến nhà tụng kinh cầu an và tôi thường đi vào giấc ngủ êm đềm giữa những câu kinh đó. Có thể vì một tuổi trẻ đã có cơ duyên đi qua những cổng nhà Phật nên trong vô thức, bên cạnh những di sản văn hoá Đông Tây góp nhặt được, còn có lời kinh kệ vô tình nằm ở đấy. [23]

Nhưng bằng chứng về những ảnh hưởng của Phật Giáo xuất hiện rõ nhất trong các bài hát của ông. Chân lý trước tiên của Phật giáo là “Đời là bể khổ.” [24] Một chân lý khác là tính tạm bợ của cõi nhân gian, đã được diễn đạt rõ ràng và thi vị trong Kim cương kinh (Kim cương bát nhã ba la mật kinh), một trong những bộ kinh quan trọng nhất của Phật giáo:


Tất cả các pháp hữu vi
Như cơn mộng, như ảo ảnh, như bọt nước, như bóng
Như sương mai, như ánh chớp
Nên nhìn nhận chúng như thế. [25]


Cả hai chân lý này – rằng đời sống là khổ đau và không có điều gì là vĩnh cửu – là hai điều chúng ta sẽ thấy được lặp đi lặp lại nhiều lần trong nhạc Trịnh Công Sơn. Hai điều này liên quan chặt chẽ với nhau: con người khổ đau vì không có điều gì vĩnh cửu. Peter Harvey cho rằng Phật giáo “chẳng những không khước từ hạnh phúc tồn tại ở cõi trần mà còn cung cấp nhiều cách để đạt thêm hạnh phúc nữa, nhưng cũng nhấn mạnh rằng, tất cả mọi hình thái của hạnh phúc đều không vĩnh cửu (trừ cõi niết bàn). Sớm muộn gì, những niềm hạnh phúc này rồi sẽ tuột khỏi tay của mỗi con người, và để lại những dư vị của mất mát và khao khát.” [26] Những “dư vị của mất mát và khao khát” đó rất rõ trong nhạc Trịnh Công Sơn, là bằng chứng cho thấy ông đã trăn trở để chấp nhận một chân lý khác rằng con đường để chấm dứt khổ đau là hãy bớt đi những si mê với cõi đời này. Điều này, Trịnh Công Sơn biết ông sẽ khó làm được, vì ông đã hát trong bài “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui” rằng “Đã yêu cuộc đời này bằng trái tim của tôi”. Điều này không có nghĩa rằng Trịnh Công Sơn cảm thấy mâu thuẫn giữa niềm tin vào Phật giáo và tình yêu của ông với cuộc đời. Ông đã từng nói, “Với tôi, Phật giáo là một triết học làm cho ta yêu đời hơn chứ không phải làm cho ta lãng quên cuộc sống”. [27] Nhưng Phật giáo cũng dạy về sự quan trọng của việc không quyến luyến, không bám víu vào những vui thú của cuộc đời. Trong một số bài hát, chúng ta thấy Trịnh Công Sơn đã trăn trở nhưng chưa thôi quyến luyến cuộc đời; trong những bài ông viết sau này – ví dụ như bài “Như một lời chia tay” [28] , ông sáng tác năm 1991, và bài “Tôi ơi đừng tuyệt vọng”, sáng tác năm 1992 – ông dường như đã sẵn sàng hơn để từ bỏ cõi này.

Cuộc sống là khổ đau. Mọi cái chỉ là tạm thời. Những quan niệm Phật giáo này đã thâm nhập vào sáng tác của Trịnh Công Sơn. Một quan niệm Phật giáo nữa, mà Trịnh Công Sơn không coi quan trọng bằng hai quan niệm trên, là thuyết luân hồi, rằng muôn vật sẽ được tái sinh làm kiếp khác, tuỳ theo nghiệp của họ ở cõi này. Trong những bài hát của mình, Trịnh Công Sơn như muốn nhắc đến một câu rất phổ thông trong Phật giáo: “Hiện tại là chiếc bóng của quá khứ, tương lai là chiếc bóng của hiện tại.” [29] Cao Huy Thuần nói rằng “Trịnh Công Sơn như vừa đứng ở hiện tại vừa linh cảm cùng trong một lúc quá khứ và tương lai. Anh như thấy tiền kiếp réo tên và cái chết vẫy gọi.” [30]

Trong bài “Cát bụi”, ông tự hỏi:

Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai tôi về làm cát bụi?


Trong những bài hát khác, những ám chỉ về sự tái sinh phần nào đó gián tiếp hơn:

Những ngày ngồi rủ tóc âm u
Nghe tiền thân về chào tiếng lạ

“Cỏ xót xa đưa”

Ta thấy em trong tiền kiếp với cọng buồn cỏ khô
Ta thấy em đang ngồi khóc khi rừng chiều đổ mưa

“Rừng xưa đã khép”

Có những ai xa đời quay về lại
Về lại nơi cuối trời
Làm mây trôi

“Phôi Pha”

Quan niệm của Phật giáo về kiếp luân hồi giúp giải thích tại sao Trịnh Công Sơn thường không bao giờ nói đến sự ra đi mà lại không nhắc đến sự quay trở về, và ông luôn xoá nhoà sự khác biệt giữa hai hành động này, như trong bài “Phôi pha” ở trên. [31] Nếu cái chết là kết tủa của tái sinh, thì khi một người ra đi, cũng là lúc người đó đang trở về. Nhìn sự sống và cái chết từ khía cạnh này cũng giống như khi ta nhìn nước trong một dòng sông, và tự hỏi liệu ta nên nói nó đang trôi đi hay đang đến, một điều mà Trịnh Công Sơn đã nắm bắt được trong bài “Gần như niềm tuyệt vọng”:

Những ngàn xưa trôi đến bây giờ
Sông ra đi hay mới bước về


Khi nói về cái chết, Trịnh Công Sơn thường hay xoá nhoà giữa đi và về, vì trong Phật giáo, cuộc hành trình từ cái sống đến cái chết ví như dòng nước; nó là một quá trình luân chuyển nhẹ nhàng, khác với triết học Tây phương, nơi, như René Muller nói, “từ sống đến chết là một sự gián đoạn cay độc.” Và ông nói thêm rằng, điều này cũng đúng với ngay cả “những tín đồ Thiên Chúa vốn có niềm tin vào đời sau và sự sống muôn đời.” [32] Phật giáo dạy ta về cái chết với một thái độ khác. Các Phật tử tin rằng “không có một cá thể, một linh hồn hay một cái tôi vĩnh cửu nào ngoài quá trình biến chuyển không ngừng của tinh thần và vật chất, cái tạo nên sự tồn tại của chúng ta.” [33] Tuy vậy, theo lời dạy của Phật, một chút gì đó trong một sinh vật khi chết đi sẽ được tồn tại trong sinh vật đó sau khi tái sinh. Harvey giải thích như sau:


Mỗi con người trước tái sinh không giống và cũng không khác con người sau tái sinh. “Con người đó sẽ không giữ hoàn toàn bản tính cũ và cũng không khác hoàn toàn bản tính cũ.” [34] Không có một thực thể nào đi từ kiếp này đến kiếp khác mà không thay đổi, nhưng cái chết của một thực thể này dẫn đến cái sống của một thực thể khác, giống như thắp một ngọn nến này đến một ngọn nến khác.[35] … Người “kiếp trước” và người “kiếp sau” kết nối với nhau bởi dòng xoáy của ý thức và luật nhân quả, nên đặc tính của một kiếp này bắt nguồn từ những đặc tính của “kiếp khác”. [36]

Nếu con người trong vòng sinh-tử-tái sinh giữ được một số khía cạnh của tiền kiếp khi tái sinh, thì quá trình này có cả sự ra đi và sự trở về - “một cõi đi về”, như Trịnh Công Sơn đã đặt cho tựa đề một bài hát rất nổi tiếng của ông.

Trong bài “Ngẫu nhiên”, Trịnh Công Sơn cho rằng không thể phân tách giữa ra đi và trở về; ở đây, chúng ta có lẽ cũng thấy quan niệm của Phật giáo là con người không thể biết được vòng tái sinh bắt đầu từ đâu và bao giờ sẽ kết thúc:


Không có đâu em này, không có cái chết đầu tiên
Và có đâu bao giờ, đâu có cái chết sau cùng

Bởi vì không có sự khởi đầu hay kết thúc rõ ràng của vòng tái sinh, nên cũng rất khó phân biệt giữa ra đi và trở về. Vua Trần Nhân Tông (1279-1293), một Phật tử, đã viết bài thơ trong di chúc:



Hết thảy pháp không sinh
Hết thảy pháp không diệt
Nếu hay hiểu như vậy
Chư Phật thường trước mặt
Đến đi sao có đây [37]


Một giá trị Phật giáo sau cùng trong những sáng tác của Trịnh Công Sơn là những ca từ khó hiểu và phi lôgic. Hiển nhiên, bài hát không phải là lý luận của lý trí, mà là tiếng thổn thức của tấm lòng. Bằng việc không giải thích những ý nghĩa đơn giản, Trịnh Công Sơn để cho người nghe tự diễn đạt theo ý của riêng họ, và từ đó đồng hành với ông trong việc tạo ra ý nghĩa. Sự thiếu mạch lạc có chủ ý cũng phản ánh một xu hướng hiện đại chủ nghĩa bằng cách xa lạ hoá ngôn từ để làm nghệ thuật mới và tươi mát. Nhưng sự cố ý tối nghĩa của Trịnh Công Sơn, theo tôi, cũng là một cách truyền tải quan niệm Phật giáo rằng con người không thể tìm tới sự tịnh an của tâm hồn bằng lý lẽ, và sự giác ngộ nằm ngoài biên giới của ngôn ngữ và logic, như nhà sư Ấn Độ Bồ Ðề Ðạt Ma đã truyền vào Trung Hoa ở thế kỷ thứ sáu:


Giáo ngoại biệt truyền
Bất lập văn tự
Trực chỉ chơn tâm,
Kiến tánh thành Phật

(Truyền riêng ngoài giáo
Chẳng lập văn tự
Chỉ thẳng tâm người
Thấy tánh thành Phật). [38]


Mục đích vượt khỏi giới hạn của ngôn ngữ có thể là lời giải thích tại sao Trịnh Công Sơn đã hoà trộn những phản đề như ra đi và trở về, gần và xa, lạnh nhạt và nồng nàn – như việc Trịnh Công Sơn luôn khẳng định rằng luôn có một thoáng của cái này trong cái kia và ngược lại. Giống như các Thiền sư, Trịnh Công Sơn có thể phủ nhận tuyết màu trắng và quạ màu đen chỉ để nói lên rằng, để được giác ngộ, con người phải “thoát khỏi những phản đề của ‘có’ và ‘không’” và tìm cách để hài hoà những đối nghịch. [39] Theo lời Phật dạy, để giác ngộ, con người phải biết cưỡng lại xu hướng thỏa mãn với những nhị nguyên đơn giản. Trí năng của con người luôn muốn chống lại, phân biệt và phân loại, nhưng chúng ta phải vượt qua được xu hướng này để đạt đến “tánh không.” Để giúp con người đạt đến trạng thái này, các thiền sư dùng phương pháp “minh hoạ bằng phép phủ định,” một phương pháp được tìm thấy trong rất nhiều bộ kinh, luận và công án của đạo Phật. [40] Sư Long Thọ, một trong những luận sư vĩ đại nhất của Phật giáo Đại Thừa Ma-ha-diễn-na (có nghĩa là “cỗ xe lớn”, là một trong hai trường phái lớn nhất của đạo Phật - ND), nói đến trạng thái này trong cuốn Trung luận của ông, một kinh văn rất quan trọng của Ma-ha-diễn-na, bắt đầu như sau:


Không sinh cũng không diệt
Không thường cũng không đoạn
Không nhất cũng không dị
Không lai cũng không khứ


Chang Chen-chi giải thích rằng đa số những công án Thiền đều dựa theo phương pháp “minh hoạ bằng phép phủ định.” [41] Điển hình là một ví dụ nổi tiếng của công án về việc lắng nghe âm thanh khi vỗ bằng một bàn tay – một âm thanh không hẳn là âm thanh nhưng cũng không (hoàn toàn) không là âm thanh. Những bài hát của Trịnh Công Sơn phần nào có hơi hướng như một công án vì chúng cho thấy sự ảnh hưởng của “minh hoạ bằng phép phủ định” này hay phương pháp “không-không.” Trong rất nhiều bài hát, chúng ta thấy phương pháp này được sử dụng trong một hay hai câu hát; tuy nhiên, trong bài “Đời cho ta thế” và “Bay đi thầm lặng”, hơn một nửa những câu hát phá vỡ những cấu trúc đối lập dễ dãi. Cả ba đoạn trong bài “Đời cho ta thế” đều bắt đầu và kết thúc với những câu hát “minh hoạ qua phép phủ định”. Đây là những câu hát trong đoạn thứ hai:


Không xa người và cũng không xa mặt trời…
Không xa tình đầy và cũng không xa lạc loài…
Không xa tình và cũng không xa thù hận
Không xa nồng nàn và cũng không xa lạnh lùng

Bản tiếng Việt © 2007 talawas

[1]Xem phần phụ lục 1 để biết thêm về danh sách và ngày xuất bản của tất cả các bài hát được trích dẫn trong bài viết này. Để tìm những lời bài hát và thông tin khác về những bài hát của Trịnh Công Sơn (ngày xuất bản, tên tập nhạc và những chi tiết khác), xem trang web: trang web của Trịnh Công Sơn-forum.org, http://TCS-home.org/songs; Kho sưu tập tư liệu về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, dưới mục “Kho sưu tập” tại http://www.hoiquanhoingo.com.vn và trang web của VNEnterprise.com, http://www.vnenterprise.com. Để biết thêm về các bản nhạc cũng như lời bài hát, xem Trịnh Công Sơn: Tuyển tập những bài ca không năm tháng (TPHCM: Âm nhạc, 1998).
[2]Tuy nhiên, nhà cầm quyền đã gặp khó khăn trong việc thẩm định xem những bài hát nào trong những sáng tác trước năm 1975 của Trịnh Công Sơn là phản chiến. Năm 2003, khi phỏng vấn Lê Nam, giám đốc phòng băng đĩa của phòng Nghệ thuật Trình diễn Thành phố Hồ Chí Minh, thuộc Bộ Văn hoá Thông tin, ông ta cho rằng vấn đề nằm ở những bài hát trong tập nhạc Ca khúc da vàng (1966/1967) vì những sáng tác này “nội dung phản chiến được nêu lên rất chung chung, không phân biệt chiến tranh phi nghĩa và chính nghĩa.” Xem bài “Cái gì đã thuộc về nguyên tắc thì không có ngoại lệ” của Thu Hà, báo Tuổi trẻ, ngày 18 tháng 4, 2003, http://www.tuoitre.com.vn. Quả vậy, bài hát nào của Trịnh Công Sơn được và không được phép trình diễn tại Việt Nam vẫn là một điều mập mờ. Nhà cầm quyền thường lẫn lộn giữa những ca khúc của ông, bài hát được sáng tác trước năm 1975, và trong số đó, bài nào nằm trong tập Ca khúc da vàng. Một điều không rõ ràng nữa là tất cả hay chỉ một số những bài hát trong tập nhạc này bị cấm. Theo Cao Minh Hiền và Dạ Ly, “Đối với dòng Ca khúc da vàng của Trịnh Công Sơn cho đến bây giờ vẫn rất ‘mập mờ’ trong viêc cho hay không cho các ca sĩ hát.” Xem “Chuyện ca khúc… duyệt và không duyệt!”, Thanh Niên Online, 7 tháng 5, 2004, http://www2.thanhnien.com.vn
[3]Xem “The Trịnh Công Sơn Phenomenon”, John Schafer. Journal of Asian Studies, số sắp ra.
[4]Trịnh Công Sơn, “Để bắt đầu một hồi ức”, Âm nhạc, tháng 1 1997; in lại trong cuốn Trịnh Công Sơn: Một người thơ ca một cõi đi về (Hà Nội: Âm Nhạc, 2001), trang 201-202, do Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha, và Đoàn Tử Huyến biên tập.
[5]Trịnh Công Sơn và cây đàn lya của hoàng tử bé (HCMC: Trẻ, 2004), 84.
[6]Câu thơ này từ bài thơ “Yêu” của Xuân Diệu, lần đầu tiên xuất bản trong tập Thơ Thơ năm 1938. Xem Tuyển tập Xuân Diệu: Thơ (Hà Nội: Văn Học, 1986), trang 72.
[7]Ngoài bài “Bên đời hiu quạnh”, những bài hát khác mà Trịnh Công Sơn nói đến cái chết của chính ông gồm có bài “Ngẫu nhiên” và “Phúc âm buồn”.
[8]Ví dụ, xem: “Cỏ xót xa đưa”, “Như một lời chia tay”, “Ở trọ”, “Phôi pha”, và “Về nơi cuối trời”.
[9]Xem Trịnh Công Sơn: Ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật của Bùi Vĩnh Phúc (Gardena, CA: Văn Mới, 2005), trang 131. Những người khác cũng đồng ý. Cao Huy Thuần cho rằng “Với Trịnh Công Sơn, cõi khác và cõi này không tách rời nhau rõ rệt.” Cao Huy Thuần nói điều này trong phần giới thiệu những bài hát của Trịnh Công Sơn tại “Đêm hoài niệm Trịnh Công Sơn”, Paris, 26 tháng 5, 2001.
[10]Cao Huy Thuần, “Buồn bã với những môi hôn”, trong Trịnh Công Sơn cát bụi lộng lẫy, Trần Thuỳ Mai, Dương Phước Thu, và Ngô Minh (Huế: Thuận Hoá, 2001), trang 102.
[11]Ibid.
[12]Từ bài “Như một lời chia tay”, “Đời cho ta thế”, và “Có nghe đời nghiêng”, theo thứ tự như trên.
[13]Từ bài “Bay đi thầm lặng” và “Tình nhớ”, theo thứ tự như trên.
[14]Tôi dùng đại từ giống đực vì tôi tin những bài hát của Trịnh Công Sơn là những thông điệp cá nhân của ông. Tuy nhiên, những buồn bã của thân phận ông và thân phận của kiếp người rất gần gũi với nhau: chúng luôn bổ túc cho nhau.
[15]Ví dụ, xem “Dã tràng ca”, “Phúc âm buồn”, “Tình xót xa vừa” và “Vết lăn trầm”.
[16]Lời của bài hát này nằm ở phần phụ lục B.
[17]Xem Trịnh Công Sơn: Một nhạc sĩ thiên tài của Bửu Ý (TPHCM: Trẻ, 2003), 16-17.
[18]Cuộc phỏng vấn này, với Văn Cầm Hải, xảy ra năm 1998. Nó được in lại dưới tựa “Kiếp sau tôi vẫn là người nghệ sĩ” trong cuốn Trịnh Công Sơn: Một người thi ca của Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha và Đoàn Tử Huyến, trang 207-208.
[19]Xem Trịnh Công Sơn: Một nhạc sĩ thiên tài của Bửu Ý, Trịnh Công Sơn và cây đàn lya của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Có một thời như thế của Nguyễn Đắc Xuân (TPHCM: Văn Học, 2003); Về một quãng đời Trịnh Công Sơn của Nguyễn Thanh Ty. Tôi cũng nói đến những năm tháng chiến tranh và những bài hát phản chiến của Sơn trong bài “The Trịnh Công Sơn Phenomenon,” Journal of Asian Studies (sắp ra).
[20]Những bài viết này xuất hiện trong nhiều tập sưu tầm. Ví dụ, xem Cát bụi lộng lẫy của Trần Thuỳ Mai, Dương Phước Thu, và Ngô Minh; Trịnh Công Sơn: Một người thơ ca của Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha và Đoàn Tử Huyến.
[21]Buổi phỏng vấn [không rõ ngày tháng] này được in lại với tựa đề “Chữ tài chữ mệnh cũng là bể dâu” trong cuốn Trịnh Công Sơn: Một người thơ ca của Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha và Đoàn Tử Huyến, trang 221.
[22]Bài “Kiếp sau tôi vẫn là người nghệ sĩ” của Văn Cầm Hải trong cuốn Trịnh Công Sơn: Một người thơ ca do Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha và Đoàn Tử Huyến biên tập.
[23]Trịnh Công Sơn, Nguyệt San Giác Ngộ, tháng 4, 2001. Được in lại với tựa đề “Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: “Phải biết sống trong mỗi sát na của hiện tại”, trong cuốn Trịnh Công Sơn: Rơi lệ ru người do Lê Minh Quốc biên tập (Hà Nội: Phụ Nữ, 2004), trang 202-204.
[24]Từ này trong cổ ngữ Ấn Độ là duhkha, Thích Thiên Ân dịch là “khổ đau, đau đớn, buồn rầu, bất mãn; những trạng thái của Luân hồi.” (Luân hồi là “bể của sinh và tử; là bánh xe của sự tồn tại; thế giới luân chuyển hiện hữu.”) Xem Zen Philosophy của Thích Thiên Ân (Emeryville, CA: Dharma Publishing, 1975), 175, 177.
[25]Thích Thiên Ân dịch, Zen Philosophy, 137.
[26]Peter Harvey, An Introduction to Buddhism (Cambridge: Cambridge University Press, 1990), 48.
[27]Trịnh Công Sơn, “Phải biết sống hết mình,” trong cuốn Trịnh Công Sơn: Rơi lệ ru người(xem chú thích số 24), Lê Minh Quốc biên tập, trang 203.
[28]Lời bài hát này nằm ở phần phụ lục C.
[29]Xem Thích Thiên Ân, Zen Philosophy, 54.
[30]Cao Huy Thuần, (Xem chú thích 9).
[31]Trịnh Công Sơn nói về sự ra đi và trở về trong nhiều bài hát, trong đó có bài “Biển nhớ”, “Có nghe đời nghiêng”, “Cỏ xót xa đưa”, “Lặng lẽ nơi này”, “Lời thiên thu gọi”, “Rừng xưa đã khép”, và “Một cõi đi về”.
[32]Xem René Muller, Beyond Marginality: Constructing a Self in the Twilight of Western Culture (Westport, CT: Praeger, 1998), 121.
[33]Xem Thích Thiên Ân, Zen Philosophy, 84.
[34]Harvey trích dẫn từ Di Lan Đà Vấn Đạo, một đoạn đối thoại giữa Di Lan Đà, một vị vua Hy Lạp cai trị đế quốc Ấn – Hy Lạp vào những năm cuối thế kỷ thứ hai trước Công nguyên, và một vị sư tên Na Tiên. Di Lan Đà Vấn Đạo là một quyển quan trọng của tín lý Phật giáo, đặc biệt là nhánh Theravada (Tiểu thừa). Để biết thêm về giáo lý Phật liên quan đến vấn đề tái sinh, xem thêm Thích Thiên Ân, “The Matter of Soul in Buddhism,” trong cuốn Zen Philosophy, 165-170. Giải thích về tái sinh, Thích Thiên Ân cũng nói đến Di Lan Đà Vấn Đạo và hình ảnh ngọn đèn.
[35]Harvey, Introduction to Buddhism, 58.
[36]Harvey trích dẫn Di Lan Đà Vấn Đạo, phần 71, như là nguồn gốc của hình ảnh này (58).
[37]Thích Thiên Ân dịch, Zen Philosophy, 108.
[38]Xem Thích Thiên Ân, Zen Philosophy, 17.
[39]Daisetz Teitaro Suzuki, An Introduction to Zen Buddhism (New York: Grove Press, 1964), 52, 69.
[40]Xem Chang Chen-chi, The Practice of Zen (New York: Harper and Brothers, 1959), 128. Thích Thiên Ân cũng nói đến phương pháp này, mà ông gọi là “phương pháp không-không” trong Buddhism and Zen in Vietnam (Rutland, VT:Charles Tuttle, 1975), 34, 219n6; 257–258n6.
[41]Xem Chang Chen-chi, The Practice of Zen, 128.


Nguồn: Journal of Vietnamese Studies (Tạp chí Việt Học), số 1, tập 2, mùa đông 2007, published by The University of California Press