Thứ Sáu, 28 tháng 2, 2014

Em thân yêu sẽ không bao giờ biết




Em thân yêu sẽ không bao giờ biết
Những vết khắc trên báng súng của tôi
Mỗi vết khắc, đó là một mạng người
Của kẻ thù bàn tay tôi giết chết

Tôi biết chứ, em muốn tôi mỉm cười
Bên mọi người, chân thành và nồng nhiệt
Không tàn nhẫn, không hận thù cay nghiệt
Nhưng chiến tranh là như vậy, em ơi

Từ ngực áo quân thù tôi vừa giết
Tôi tìm thấy bức ảnh của một người
Một cô gái, nhìn tôi, nhoẻn miệng cười
Giống em quá, người tôi yêu tha thiết...

Họ yêu nhau, như đôi ta, hẳn vậy
Nụ cười ấy đã khiến tôi hiểu ra
Họ chẳng phải loài súc sinh, dơ dáy
Mà cũng là con người, như chúng ta

Những vết khắc lạnh lùng trên báng súng
Quá đớn đau với họ, và với tôi
Mỗi vết khắc, một niềm đau không lời
Sâu đến tận cùng trái tim tỉnh thức

Những vết khắc thấm đẫm niềm thù ghét
Như là những dòng nhật k‎ý chơi vơi
Ghi mọi điều đã xảy đến với tôi
Trừ một điều, đó chính là cái chết

Nếu kẻ thù khắc đời tôi trên báng súng
Thì xin đừng thù oán họ, em ơi
Chỉ tình yêu là điều duy nhất đúng
Cầu xin em, hãy mãi mãi yêu tôi...



Reds Blog

Tâm sự của một người Việt giữa đất nước Ukraina đổ nát





Nếu ai đã từng đến Kiev trong quá khứ và nay có dịp trở lại, thì sẽ không thể nào nhận ra được thủ đô Kiev cổ kính, hoa lệ của Ukraine- nay không khác gì bãi chiến trường, do bạo loạn từ các cuộc biểu tình gây ra.

Hồ Sĩ Trúc - Từ Ukraine

Tình hình Kiev thực sự đã đi vào hỗn loạn và nằm bên bờ vực nội chiến. Hiện tại các tổ chức cực đoan và các băng đảng tội phạm trỗi dậy hoạt động mạnh mẽ dưới nhiều chiêu bài khác nhau. Họ lợi dụng sự lơi lỏng của hệ thống luật pháp đang bị tê liệt nên đích ngắm của chúng là tấn công vào các hệ thống cửa hàng, nhà băng và người nước ngoài.

Sáng 20.2, sau khi viết những dòng thông báo, dặn dò những người bạn, người thân, đồng hương của mình ở Kiev trên trang facebook, tôi vội vã vơ chiếc áo khoác lên người, cùng vợ xuống đường mua thực phẩm tích trữ. Cô con gái 9 tuổi nhìn bố mẹ và nói tiếng Việt trọ trẹ: “Bố mẹ cẩn thận không bị chúng bắn chết đấy, con không thích sống mồ côi đâu...”. Tôi dặn con: “Không thấy bố mẹ về thì chạy xuống nhà bác Bắc ở tầng 3 nhờ bác nuôi nhé...”.

Lời thoại ngắn gọn của cha con tôi có cả những ý trêu đùa, nhưng thực sự đã ám ảnh tôi, nhất là khi chúng tôi đang sống trong vùng trời Kiev ngùn ngụt bạo lực. Với con gái tôi, cô bé vẫn còn có chút lo sợ, khi sáng nay đến lớp được cô giáo kể rằng có một học sinh lớp 11 đã bị bắn vào đầu lúc ra khỏi nhà để đi học.

Đêm hôm trước có tin nhóm “đầu trọc” rất đông tập trung ở Ủy ban quận Dexnhian và sáng nay có 3 người bị giết – tôi nghe một người dân kể lại trong nỗi sợ hãi... Thế mới hiểu được sống trong hòa bình sung sướng biết chừng nào. Mình từng trải qua chiến tranh, đội mũ rơm đến trường, ăn rau lang, rau má thay cơm, chui hầm khi máy bay Mỹ gầm rú. Thời sang Liên Xô đến tận nơi vùng chiến sự ở vùng Karabak, rồi nhìn pháo bắn vào Nhà Trắng ở Nga, nhìn thấy bom đạn chết chóc bao lần nên quý lắm những phút giây bình yên.

Đã hơn một tháng qua Ukraine trong tình trạng bất ổn, chìm đắm trong khủng hoảng và bạo lực, nhưng hiện tại nguy hiểm hơn bao giờ hết. Ngày 20.2, chính quyền đã phải dùng loa để khuyến cáo người dân không được ra khỏi nhà, nhưng đến hôm nay (21.2), họ đã cho phép người dân ra đường, sử dụng tàu điện ngầm và đến một số nơi công cộng khác. Tuy nhiên, những con đường vẫn vắng ngắt, tiếng súng vẫn vang lên và nỗi ám ảnh chết chóc vẫn còn đè nặng lên tâm trí của người dân Kiev.

Trên các phương tiện thông tin đại chúng ở Kiev, số người thiệt mạng trong các cuộc bạo loạn, nổ súng đến ngày 21.2 đã lên đến 100 người, gần 600 người bị thương và 400 người trong số đó đã nhập viện điều trị.

Nhịp sống thật căng thẳng, đi ra đường nhìn nét mặt lo âu tột độ trên những gương mặt vốn hồn hậu của người dân Kiev mà thương. Từ trước đó, tất cả mọi người đổ ra đường, ra chợ, vào siêu thị, trẻ già lớn bé tay xách nách mang mua thực phẩm dự trữ đề phòng tình hình xấu đi. Đặc biệt người xếp hàng dài rồng rắn rút tiền trong ngân hàng bởi có lẽ người ta sợ như thời Liên Xô tan vỡ, khi Nhà nước tan rã thì tiền gửi trong đó cũng mất tiêu.

Sáng 20.2, những người Việt chúng tôi vẫn đi chợ bán hàng, dọn hàng ra được một lúc thì dân Tây chạy nháo nhác thông báo: “Chúng nó nổi loạn đánh nhau ở Metro Darnhitxa và đang kéo về vùng này”. Thế là như ong vỡ tổ! Tây, ta, Tàu và vô số dân cư của các nước khác… mọi người rào rào đóng cửa hàng chạy nhanh về nhà. Thật khốn khổ đúng là "chạy như chạy giặc".

Đến hôm nay thì không còn ai dám mở hàng ở chợ. Tất cả cộng đồng người Việt đều ở trong nhà và nghe ngóng tin tức từ Đài Truyền hình Ukraine.

Tại thủ đô Kiev, có khoảng trên dưới 1.000 người Việt sinh sống. Cuộc sống của mọi người vốn bình yên xưa nay giờ xáo trộn dữ dội, mọi người nháo nhác gọi hỏi tin nhau.

Phần lớn trong chúng tôi đến Kiev từ thời Liên Xô cũ. Chúng tôi sống ở hai bờ con sông Danube. Phía bên kia bờ sông là Đại sứ quán Việt Nam và những du học sinh Việt Nam đang theo học tại các trường đại học ở Kiev. Nơi đó cũng có Quảng trường Độc Lập, nơi người biểu tình chống Chính phủ Ukraine đang cố thủ và gây ra những cuộc bạo loạn. Còn bên này bờ sông Danube, là khoảng 500 người Việt sinh sống và buôn bán ở khu chợ Troeshina. Nhiều người Việt sống ở bờ bên này, nhưng có con theo học ở bờ sông bên kia, đang phải sống trong tâm trạng như “ngồi trên đống lửa”. Bởi, con cái họ đang bị mắc kẹt trong các trường đại học khi biểu tình ập đến và đến nay vẫn chưa có lối thoát để trở về. Nhiều nguồn tin ở Kiev còn cho rằng, có những trường sinh viên còn tấn công cả cảnh sát, khiến tình hình trở nên cực kỳ nghiêm trọng.

Thật lo lắng cho vận mệnh đất nước xinh đẹp này, bởi chúng tôi đã sinh sống ở đây hơn 25 năm, bao vui buồn sướng khổ cả một thời thanh xuân cũng có cả ở đây, một thế hệ thứ hai sinh ra và lớn lên được học hành thành đạt cũng ở đây, đã xem đây là quê hương thứ hai của mình sau đất mẹ Việt Nam. Thủ đô Kiev là một trong những thành phố đẹp của Ukraine và thế giới, thế mà bây giờ tại trung tâm như một bãi chiến trường ngổn ngang, đường phố bị cậy phá hết gạch đá để làm vũ khí, những con đường cổ làm bằng đá xanh có từ hàng trăm năm trước cũng bị những kẻ quá khích phá không thương tiếc. Các cửa hàng, cửa hiệu, các công sở của chính quyền bị đốt cháy đập nát nhìn thật thê thảm, họ chẳng tiếc gì những công sức của tiền nhân. Chúng tôi -những con dân Việt Nam đang sống ở Kiev - Ukraine hy vọng Chính phủ và phe đối lập hãy đặt lợi ích của người dân và vận mệnh dân tộc lên trên để đưa Ukraine thoát ra khỏi bờ vực thẳm chiến tranh tương tàn, đưa Ukraine thoát khỏi khủng hoảng - trở lại cuộc sống thanh bình vốn có như màu xanh bầu trời cùng màu vàng bát ngát của đồng lúa mỳ trên lá cờ Tổ quốc.

Theo DÂN VIỆT

______________________________

Mỹ đã bơm tiền để gây bạo loạn ở Ukraina như thế nào?





Các nhóm cực đoan và phe đối lập đã nhận được từ đại sứ quán Mỹ 20 triệu USD/tuần để cấp cho các phần tử bạo loạn và bảo đảm hậu cần cho phong trào biểu tình (Maidan).





Các cơ quan bảo vệ pháp luật Ukraine đã xác định được những kẻ đặt hàng giết hại một số người tham gia biểu tình ủng hộ liên kết với châu Âu (Euromaidan), cũng như khám phá các cách thức và các nguồn tiền chi cho việc làm leo thang đối đầu đường phố nhằm lật đổ chính quyền bằng bạo lực, một nguồn thạo tin giấu tên trong Cơ quan An ninh Ukraine SBU tiết lộ.

Theo nguồn tin, từ những ngày đầu đối kháng bạo lực, các nhân viên công lực đã điều tra tổ chức “Pravyi sektor”. Tổ chức này được thành lập sau xung đột nội bộ giữa Tập hợp Xã hội-dân tộc và Liên minh toàn Ukraine cực đoan Trizub mang tên S. Bandera.

Trong quá trình điều tra, đã xác định được rằng, các tổ chức này được tài trợ bởi hàng loạt “các tổ chức thân Ukraine” các loại do tình báo các nước NATO thành lập từ thời Liên Xô.

Nguồn tin cho hay, các tổ chức “từ thiện” này ngay từ đầu nổ ra biểu tình Euromaidan ủng hộ liên kết với EU đã bắt đầu lập ra một trung tâm điều phối bí mật, thu hút các chuyên gia phương Tây sừng sỏ chuyên vạch chiến lược “cách mạng màu sắc”. Họ được giao nhiệm vụ hoạch định chiến lược hành động cho các nhóm chiến đấu. Trong quá trình điều tra đã xác định được rằng, chính trung tâm này đã ra lệnh giết những người biểu tình trong quá trình xô xát bạo lực trên phố Grushevsky. Cái chết của họ phải có tác dụng kích động leo thang xung đột và thúc đẩy đám đông phẫn nộ tấn công cảnh sát.

Ngay từ ngày đầu Euromaidan, mỗi trưởng nhóm chống đối tích cực đều nhận được tiền thưởng. Mỗi chiến binh tích cực nhận được 200 USD/ngày và thêm 500 USD nếu nhóm có hơn 10 người.

Các điều phối viên nhận được từ 2.000 USD cho mỗi ngày bạo loạn đông người với điều kiện, nhóm chiến binh thuộc quyền thực hiện các hành động tấn công trực tiếp vào các nhân viên công lực.

Các điều tra viên cũng xác định được rằng, tiền được gửi đến đại sứ quán Mỹ ở Kiev qua kênh ngoại giao. Đến lượt mình, đại sứ quán Mỹ chuyển tiền đến các văn phòng trung ương của liên minh toàn Ukraine “Svoboda” và liên minh toàn Ukraine “Batkivshchyna” (Tổ quốc). Số tiền là khoảng 20 triệu USD một tuần. Tiếp đó, các khoản tiền này được phân cấp để yểm trợ Euromaidan (duy trì hệ thống bảo đảm hậu cần, hối lộ và mua chuộc các quan chức, nhân viên công lực, trả tiền cho báo chí, chi phí cho tuyên truyền…), cũng như trả tiền hàng ngày cho các chiến binh tích cực. Về phần mình, các thủ lĩnh lực lượng đối lập và các nhóm cực đoan nhận được tiền gửi thẳng vào tài khoản riêng trong ngân hàng.

Cuộc lục soát do SBU tiến hành tại các phòng của bộ chỉ huy trung ương của tổ chức “Batkivshchyna” đã cho thấy điều đó. Khi tiến hành lục soát, các nhân viên công lực đã thu giữ từ phòng làm việc của Oleksandr Turchynov (Phó chủ tịch thứ nhất đảng Batkivshchyna) 17 triệu USD tiền mặt. Ngoài ra, trong các máy chủ của đảng này bị nhân viên SBU thu giữ có những thông tin về việc phân chia tiền chi trả cho việc bảo đảm hậu cần cho Maidan và tiến hành thanh toán với các chiến binh của nhóm “Pravyi sektor” và các nhóm cực đoan khác.

Cũng đã xác định được rằng, Mỹ đã bảo đảm sẽ giúp các thủ lĩnh các tổ chức cực đoan cánh hữu di tản khẩn cấp khỏi lãnh thổ Ukraine một khi “cách mạng” thất bại, cấp chỗ ở và tiền bạc ở bất kỳ nước EU nào tùy họ chọn. Và thủ lĩnh nhóm khiêu khích chính trị “Avtomaidan” là Sergei Koba đã vận dụng những bảo đảm này. Tính đến hiện tại, các lực lượng bảo vệ pháp luật Ukraine đang tìm hiểu nơi trú ẩn chính xác của tên này, nguồn tin trong SBU cho biết.

Theo thông tin đăng trên các nguồn công khai, việc kêu gọi, huy động các phần tử cực đoan để tham gia vào hoạt động bạo loạn đông người ngày 19/1/2014 đã được thực hiện qua mạng xã hội “V kontakte”, trên trang của nhóm “Pravyi sektor”.

Để tạo ra hình ảnh giống như thật về một “sự phản đối tư tưởng của nhân dân”, các phần tử cực đoan đã yêu cầu người dân ủng hộ tài chính cho chúng.

Chúng ghi rõ số tài khoản ngân hàng “Privatbank” 5168 7553 1093 5578, chủ tài khoản là Okunev Sergei Igorevich (sinh ngày 19.6.1973, công dân Liên bang Nga, đăng ký tại địa chỉ: tỉnh Dnepropetrovsk, thành phố Dneprodzerzhinsk, phố Shcherbitsky, 65, căn hộ 6).

Hệ thống dịch vụ chuyển tiền Western Union hoặc Moneygram cũng được sử dụng để gửi tiền cho Tarasenko Andrei Ivanovich (người Kiev, sinh ngày 17.11.1982)

Trong 10 ngày gần đây, các khoản gửi vô danh 50, 100, 500 hryvna đã được gửi vào tài khoản trên bằng hệ thống “Privat24” chủ yếu từ các thành phố Ternopol và Kiev. Tiền cũng được gửi từ những người ủng hộ nhóm “Pravyi sektor” ở Ukraine và nước ngoài (Pháp, Czech…).

Ngoài ra, trên trang của “Pravyi sektor” trên mạng xã hội “V kontakte” cũng liệt kê các số tài khoản để chuyển tiền đến công ty cổ phần “Raiffeisen Bank Aval” có ghi tên chủ tài khoản là Surovetsky Yuri Igorevich (3166505873): bằng hryvna 262095533782, bằng USD 262072533786, bằng euro 262082533789.

Trên các nguồn công khai cũng đăng tải thông tin cá nhân của tất cả các thủ lĩnh và thành viên các nhóm cực đoan tham gia bạo loạn đường phố ở Kiev và các thành phố khác.

Theo VIETNAMDEFENCE.COM / VREMIA.UA

______________________________

Sự thật nghiệt ngã về 'thiên đường Bắc Âu'





Cả thế giới đã nhầm? Hay nói cách khác là chúng ta đã bị lừa khi “tin sái cổ” vào một xã hội giàu có, hạnh phúc như một thiên đường của các nước thuộc khu vực Scandinavi hay còn gọi là Bắc Âu.





Những ngày gần đây, cả châu Âu đang sôi sục với một bài báo đăng trên tờ The Guardian (Anh) với tiêu đề: “Vùng đất tăm tối hay sự thật nghiệt ngã về sự thần kỳ của Bắc Âu”. (>>http://www.theguardian.com/world/2014/jan/27/scandinavian-miracle-brutal-truth-denmark-norway-sweden) Bài báo đã vạch ra một bộ mặt hoàn toàn khác và những sự thật khá “sốc”, trái ngược hẳn với những hình dung bấy lâu nay của cả thế giới về các quốc gia nằm trên bán đảo này. Bài báo của The Guardian sau đó được tờ Courrier International (Pháp) trích dẫn với dòng tựa: Sự thật về “huyền thoại Bắc Âu” và ngay sau đó, một cuộc tranh luật gay gắt đã nổ ra. Tác giả bài báo đã nhận được sự phản ứng dữ dội của “nạn nhân”, kèm với đó là những lời giải thích cho rằng góc nhìn của tác giả quá hạn hẹp và nhiều chỗ không chính xác.

Dường như để “khiêu khích” hay chọc tức các nước Bắc Âu, bài báo của The Guardian mở đầu bằng đoạn: Ở Đan Mạch, các chương trình truyền hình toàn là rác rưởi, đàn ông Phần Lan là những kẻ chỉ biết say sưa và Thụy Điển là thể là một mô hình dân chủ để các nước khác cần phải học tập.

Tiếp theo đó, bài báo đã vạch ra những “vùng đất tối” của từng quốc gia Bắc Âu. Đối với Đan Mạch, tờ báo chỉ ra nhiều vấn đề mà nước này đang gặp phải. Theo thống kê của tổ chức OECD người Đan Mạch làm việc ít giờ hơn mỗi năm so với hầu hết các phần còn lại của thế giới, đồng thời năng suất cũng rất...vớ vẩn. Để có tiền chi tiêu và duy trì cuộc sống, hơn một nửa trong số các hộ gia đình Đan Mạch thừa nhận họ đang phải đi vay nợ, kể cả vay từ các tổ chức tín dụng đen với lãi suất cắt cổ. Chính vì thế, mà theo thống kê, nợ các hộ gia đình người Đan Mạch đang thuộc hàng cao nhất thế giới, với mức gấp 4 lần người Ý, vượt xa ngưỡng mà Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) phải cảnh báo.

Người Đan Mạch hiện đang phải đóng nhiều thuế nhất trong khi mức tiền lương trung bình của họ chỉ cao thứ 6 thế giới. Trong một số cuộc khảo sát gần đây, Đan Mạch được xếp là quốc gia hạnh phúc nhất trên thế giới, nhưng có một thực tế là người dân nước này tiêu thụ thuốc chống trầm cảm nhiều thứ hai thế giới, sau Iceland.

Có lẽ bí mật “bẩn” nhất của Đan Mạch là quốc gia này đốt nhiều than không kém bất kỳ một nước phát triển nào mặc dù theo một báo cáo của Quỹ bảo vệ thiên nhiên quốc tế năm 2012, họ có “hệ số sinh thái bình quân đầu người” lớn thứ tư thế giới.

Chưa hết, nền kinh tế Đan Mạch cũng đang lao dốc. Theo báo chí của chính nước này, thì trong 10 năm qua, số người sống dưới ngưỡng nghèo khổ đã tăng gấp đôi. Bên cạnh đó là nạn nhập cư ào ạt, tình trạng an ninh không đảm báo, và đặc biệt là chủ nghĩa dân tộc cực đoan đang dâng cao.

Đến với Phần Lan, The Guardian cho hay, nước này hiện xếp thứ ba thế giới về sở hữu vũ khí cá nhân (sau Mỹ và Yemen). Theo thống kê, nạn giết người ở Phần Lan nhiều nhất các nước Tây Âu, cao gấp 2 lần nước Anh. Tỷ lệ người tự tử nước này cũng dẫn đầu các nước trong vùng Scandinavi. Đó là chưa kể nạn rượu chè be bét, tình trạng mất an ninh nghiêm trọng. Rượu bây giờ là nguyên nhân tử vong hàng đầu cho nam giới Phần Lan. Các trường đại học Phần Lan cũng mất dần sức hút so với trước kia bởi tình trạng mất an ninh này. Đáng chú ý nhất là vào năm 2008, một nam sinh đã sát hại đến 10 người bạn của mình.

Về phần Na Uy, tờ báo chú ý đến nạn bài ngoại đang rất trầm trọng. Làn sóng bài Hồi Giáo cũng luôn âm ĩ trong xã hội. Về kinh tế, nước này giàu có chủ yếu dựa vào dầu hỏa. Thế nhưng, mặt trái của nền kinh tế dầu hỏa đó là nạn tham nhũng.

Đối với Thụy Điển, tờ The Guardian cho rằng, người Thụy Điển sống quá vị thân vị kỉ, chỉ biết có mình. Åke Daun, nhà dân tộc học nổi tiếng nhất của Thụy Điển đã từng thừa nhận trong cuốn sách mới nhất của mình rằng: "Người Thụy Điển không "mạnh mẽ" như công dân của một số người khác".

Hiện nay, tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên nước này hiện cao hơn mức bình quân của Liên Hiệp Châu Âu. Cũng giống như những gì đang xảy ra tại Na Uy và Đan Mạch, chủ nghĩa dân tộc cực đoan (cánh hữu) đang phát triển và ngày càng trầm trọng. Cách đây vài năm, Viện nghiên cứu ý kiến công chúng Thụy Điển đã tiến hành một cuộc khảo sát trong giới trẻ nước này bằng việc đề nghị họ “mô tả đồng bào của mình”. Kết quả là 7 tính từ được lựa chọn nhiều nhất là: ghen tị, khó tính, cần cù, thương người, yên tĩnh, trung thực, và bài ngoại.

Chưa hết, nước này tuy xưng là trung lập, nhưng lại là một cường quốc xuất khẩu vũ khí nhiều nhất thế giới. Tác giả bài báo trên The Guardian cho rằng Thụy Điển sẽ tiếp tục phát triển kinh tế mạnh nhờ vào thương hiệu đặc trưng của “chủ nghĩa độc tài hiện”, trong đó chính phủ nước này ngày càng có thiên hướng kiềm chế các quyền tự do , ngăn chặn sự bất đồng chính kiến và cắt đứt liên kết giữa vợ và chồng, con cái và cha mẹ, người già và trẻ em của họ.

Theo INFONET

Sức hấp dẫn của văn xuôi phi hư cấu





Trong thời đại thông tin và toàn cầu hóa, văn xuôi phi hư cấu (Non-fiction) ngày càng có vai trò to lớn và có tác động quan trọng tới độc giả không chỉ trong lĩnh vực báo chí mà cả trong lĩnh vực văn học. Có thể nói lịch sử văn học giao thoa với lịch sử báo chí là ở thể loại này.





Không phải ngẫu nhiên mà hàng loạt tác phẩm hồi ký của các tướng lĩnh như Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Trà; hồi ký của các nhà hoạt động chính trị như B. Clinton, B. Obama; nhật ký của Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc được xuất bản với số lượng lớn.

Trong văn bản phi hư cấu, người trần thuật luôn là người chứng kiến câu chuyện được kể lại. Đó không phải là câu chuyện được tưởng tượng mà là những sự kiện, biến cố có thật, có thể được kiểm chứng một cách khách quan.

Những sự việc và con người ở đây đều phải được xác định rõ ràng về địa chỉ. Sức hấp dẫn mà văn xuôi phi hư cấu đem lại chính là sức hấp dẫn của sự thật. Vì vậy mà người viết văn phi hư cấu thường có tư chất của người nghiên cứu đi tìm sự thật.

Điều chính yếu làm nên giá trị, phẩm chất và ưu thế của văn phi hư cấu là tính chính xác và trung thực của nó. Sự kiện đã xảy ra khi nào? Ở nơi chốn nào? Ai đã tham gia vào sự kiện đó? Trong tất cả những trường hợp này, người đọc đòi hỏi câu trả lời cặn kẽ và rõ nghĩa, dù đó là con số, ngày tháng, lời khẳng định hay phủ định.

Văn bản phi hư cấu giống như những mảnh tranh ghép, được xây dựng từ những bức chân dung nhân vật, những bức tranh miêu tả cảnh quan đời người và sân khấu chính trị – xã hội, những suy niệm và trầm tư thế sự…

Mở một văn bản phi hư cấu ra, độc giả có niềm tin rằng đây là cuộc đời tự nó lên tiếng và người trần thuật không can thiệp làm méo mó bản chất của sự kiện.

Nhưng đồng thời, độc giả cũng chờ đợi cuộc gặp gỡ với một người trần thuật sâu sắc và tinh tường, có năng lực phán xét thông minh và nhạy bén. Nếu không, bức tranh sự kiện có thể trở nên xanh xao, thiếu máu và tác giả có thể bị trách cứ là ngây thơ, ngờ nghệch, thụ động trước đời sống.

Những thể loại phi hư cấu được phổ biến rộng rãi trên báo chí trước khi in thành sách là ký sự, phóng sự, hồi ký, bút ký, nhật ký, tạp bút… Nhiệm vụ của ký sự là trình bày và giải thích những sự kiện mới và đặc biệt quan trọng nhưng lúc đầu chưa được công chúng chú ý thích đáng.

Ký sự luôn ở vùng giáp ranh giữa báo chí và văn học, cho phép văn học nhanh chóng hưởng ứng những đề tài và vấn đề thời sự của xã hội và con người.

Ký sự đa dạng về nội dung, nó liên quan đến những vấn đề chính trị, kinh tế, khoa học và văn hóa, miêu tả những hiện tượng trong đời sống xã hội, thiên nhiên và môi trường, những câu chuyện ở chiến trường và pháp đình, những điển hình tiêu biểu cho các nhóm lợi ích và nghề nghiệp khác nhau…

Phóng sự có đặc điểm là tính kịp thời, sự dồn nén thông tin và văn phong năng động. Là một thể loại phi hư cấu, phóng sự còn mang yếu tố chính luận: câu chuyện kể về các sự kiện được xen kẽ với những suy nghĩ và bình luận ngoại đề của tác giả.

Đối tượng của phóng sự thường là những tình huống cực đoan: tai nạn, thảm họa, những sự kiện ở các điểm nóng, chẳng hạn ở vùng chiến sự, thiên tai…

Hồi ký là một dạng văn phi hư cấu, một dạng văn học tư liệu, đồng thời cũng là hình thức văn xuôi tự thuật. Đó là sự trần thuật về những sự kiện và hiện tượng trong đời sống xã hội, chính trị, văn hóa, nghệ thuật mà tác giả là người chứng kiến hay tác nhân của lịch sử, với những nhân vật mà người ấy tiếp xúc.

Ở Việt Nam, hồi ký của các nhà văn được chú ý: Cát bụi chân ai và Chiều chiều của Tô Hoài, Ta đã làm chi đời ta của Vũ Hoàng Chương, Những nhân vật ấy đã sống với tôi của Nguyên Hồng, Từ bến sông Thương của Anh Thơ, Hồi ký của Nguyễn Hiến Lê, Hồi ký song đôi của Huy Cận… Ngoài ra còn có hồi ký của một số nhà hoạt động nghệ thuật như Phạm Duy, Trần Văn Khê…

Trong văn học Việt Nam cũng như thế giới đã từng xuất hiện không ít trường hợp những tác phẩm phi hư cấu là đề tài tranh luận của giới sáng tác và phê bình, khi nó viết về những con người và sự kiện có thật nhưng đưa ra những nhận xét chủ quan và tùy tiện làm tổn thương không chỉ nhân vật mà cả niềm tin của độc giả.

Điều này đặt ra một trong những vấn đề cốt lõi của thể loại phi hư cấu, đó là sự ràng buộc đạo đức của người viết và giới hạn can thiệp của người này vào cuộc đời riêng tư của người khác.

Theo DOANH NHÂN SÀI GÒN

Văn chương mạng và những dấu hỏi...Văn học





Từ sự xuất hiện một số tác phẩm văn chương trên internet và sự ra đời của khái niệm "văn học mạng", gần đây có một số ý kiến dự đoán rằng, "văn học mạng" sẽ là xu thế tất yếu của văn học Việt Nam hiện đại. Tuy nhiên, từ diễn biến của các hiện tượng "văn học mạng" có thể thấy, cơ sở bảo đảm cho dự đoán ấy vẫn còn rất xa vời.





Ở Việt Nam, thành quả đầu tiên của "văn học mạng" mới chỉ dừng lại ở phạm vi lý luận, phê bình văn học. Internet đã góp phần kết nối môi trường học thuật trên thế giới với Việt Nam, và giúp các nhà phê bình, lý luận văn học có thể tiếp cận, tiếp nhận, trực tiếp đánh giá các trường phái, lý thuyết, lý luận phê bình văn học, nghệ thuật đang thịnh hành trên thế giới. Ðã qua thời kỳ các nhà phê bình, lý luận văn học Việt Nam phải trăn trở vì chỉ được tiếp nhận các lý thuyết nghiên cứu, phê bình một cách muộn mằn. Hiện tại, giới lý luận, phê bình đã có thể so sánh, có cái nhìn toàn diện hơn về lý luận, phê bình văn học của các nước khác, cũng như nhận định các khuynh hướng có thể ra đời của văn học nước nhà và thế giới ở tương lai gần. Khi chưa có điều kiện xuất bản, đã có một số công trình dịch thuật lý luận văn học được một số nhà nghiên cứu, phê bình đăng tải trên internet và giúp người yêu văn học tiếp xúc với tư liệu. Cũng từ đó, dường như không ít nhà phê bình văn học đã tìm được "công cụ" còn thiếu cho công việc của họ, đó là internet. Với một số người, internet là nơi họ đối thoại về phê bình văn học cũng như kiểm định suy nghĩ của mình với "người đọc lý tưởng" khác và "lý luận, phê bình văn học mạng" dường như đã bắt đầu định hình hướng đi? Tuy nhiên, không phải nhà phê bình nào cũng giữ được sự tỉnh táo và luôn ước muốn truy cầu các giá trị chân - thiện - mỹ. Vì có nhà phê bình viết tiểu luận như chỉ để khoe kiến thức, áp đặt những giá trị không thể có cho tác phẩm mà họ tiếp cận. Thậm chí để chứng minh cho lý thuyết, quan điểm mà mình theo đuổi, có người sẵn sàng xuyên tạc tác phẩm theo chiều hướng có lợi cho bài viết. Rồi tác giả khác lại sử dụng phê bình để tán dương tác phẩm phi giá trị nghệ thuật, phi giá trị đạo đức, thay vì lẽ ra cần giúp nghệ sĩ nào đó có xu hướng tinh thần mông lung, hoặc bị tha hóa, tìm đến với con đường đúng. Bằng cách mớm đặt suy nghĩ phù phiếm dưới cái vỏ hoa mỹ, cao đạo, hình như các "anh hùng bàn phím" này đang ngấm ngầm khiêu khích, kích động một số nhà văn, nhà thơ vốn chứa sẵn "cái tôi" ảo tưởng về tài năng của mình thành người quá khích, và gây nguy hiểm cho xã hội.

Có một điều là trong khi lý luận, phê bình văn học đã đặt được một số dấu ấn trên internet, thì sáng tác văn chương trên mạng vẫn cần thêm thời gian để khẳng định. Thực tế của sự tồn tại các tác phẩm được coi là văn chương trên mạng cho thấy dường như chỉ có "văn chương thị dân" (định nghĩa do một số nhà phê bình định danh cho sáng tác trên mạng) phục vụ nhu cầu giải trí và sự tò mò của một nhóm độc giả nhất định là vẫn "sống khỏe". Dù vậy, nhìn chung các tác phẩm này vẫn chưa có khả năng cạnh tranh sòng phẳng với một số tác phẩm ngoại nhập. Như với truyện Ngôn tình chẳng hạn, một số trường hợp có vẻ là hấp dẫn người đọc thì vẫn không giấu được tình trạng rập khuôn, "mì ăn liền", chưa thấy tác giả có khả năng sáng tạo dồi dào. Trào lưu viết truyện ngắn, viết tiểu thuyết như một tập "nhật ký mạng" lúc đầu được một số độc giả đón đợi, giờ đây như trở thành một "món ăn" khá nhàm chán. Ðáng tiếc là tác phẩm kiểu này vẫn ra đời, và càng ngày càng cho thấy tác giả viết như không cần sáng tạo, thiếu ngôn từ độc đáo, thiếu dụng công, và nổi lên là tình trạng "đạo văn" dưới các hình thức tinh vi.

Dẫu sao thì internet vẫn chưa phải là mảnh đất lành cho các sáng tác có đầu tư về mặt tư tưởng - nghệ thuật, nếu không nói nó còn tạo ra sự lười nhác, bất cẩn khi tác giả viết rồi trực tiếp đưa lên mạng mà không tự biên tập (chí ít về câu chữ), hay nhờ đồng nghiệp đọc giúp. Rất ít người viết lựa chọn internet như một phương tiện đưa sáng tác đến với độc giả; cho dù có tác giả quyết định sáng tác tiểu thuyết trên internet, và lựa chọn "ngôn ngữ mạng" là một trong các ngôn ngữ chính trong tiểu thuyết của mình. Trên một số website được cho là ủng hộ "văn học ngoại biên, văn chương xuyên biên giới" tình hình có vẻ sôi động hơn về số tác phẩm, tác giả gửi bài. Nhưng giá trị đích thực của các tác phẩm này vẫn còn là một dấu hỏi lớn. Ðã có không ít sáng tác thơ ca được người ta tán tụng là "ngoại biên" thực chất chỉ là một văn bản liên tục cách dòng với ý tứ thô thiển, lời lẽ tục tĩu nhằm xuyên tạc, bôi nhọ văn hóa và xã hội, tạo nên những hình tượng méo mó. Với định danh "ngoại biên", mục đích của họ như chỉ để lao vào một thế giới hư danh, với các lợi ích phù phiếm hoặc tư lợi chính trị, yêu sách cá nhân chứ không phải do nhu cầu vì sự sống của văn chương, như họ hô hào.

Vài năm gần đây, một số nhà văn, nhà thơ, nhà lý luận, phê bình như đang nhầm tưởng vì ngỡ internet là "thế giới lý tưởng" cho sáng tác. Về "văn chương mạng thuần túy", một nhà thơ định nghĩa đó là văn chương của "tác giả chỉ muốn xuất hiện trên mạng. Họ sống đời sống văn chương của mạng, viết trên mạng, vận dụng ưu thế kĩ thuật của internet, xử lý thông tin trên mạng, tương tác trên mạng, tồn tại trên mạng, buồn vui trên mạng, hy vọng hay thất vọng cũng trên mạng...". Ðịnh nghĩa này, suy cho cùng chỉ là một định nghĩa không tưởng, xét trên một số phương diện. Dẫu sinh động hoặc hấp dẫn đến thế nào thì internet vẫn không thể tách khỏi đời sống, không phải là một thế giới khác mà chúng ta quen gọi là "thế giới ảo", như trong các phim khoa học viễn tưởng, để phân biệt với cuộc sống thực. Trước sau với văn chương, internet vẫn chỉ là một phương tiện truyền thông hiện đại, một công cụ giao tiếp thông tin linh hoạt, nhanh nhạy giữa nhà văn và bạn đọc. Còn việc lựa chọn bảo vệ hoặc công khai danh tính có lẽ lại là một vấn đề khác chứ không chỉ là đặc trưng riêng của "văn học mạng".

Một nhầm lẫn khác mà một số người sáng tác văn chương trên mạng đang lầm tưởng là quá trình "đồng sáng tác" giữa người viết và bạn đọc, coi đó là sự triệt tiêu dần "cái tôi" của nhà văn để đem một tác phẩm văn chương mẫu mực đến với số đông. Người đưa ra định nghĩa này cho rằng, văn chương mạng khác văn chương chính thống ở chỗ nó luôn trong quá trình vận động dang dở. Hiểu như vậy, cũng là sản phẩm của cái nhìn có phần phiến diện. Không chỉ đến khi có internet, nhà văn mới có quá trình giao lưu với bạn đọc để "đi tìm nhân vật" cũng như "con đường" cho "đứa con tinh thần" của mình. Trên thực tế, quá trình giao lưu giữa nhà văn với độc giả đâu chỉ diễn ra khi có internet. Ian Fleming, cha đẻ bộ truyện trinh thám nổi tiếng về điệp viên James Bond từng thừa nhận: Ông đã có nhiều ý tưởng mới cho anh chàng có bí danh 007 này sau khi nhận được góp ý thư từ của những bạn đọc. Trước Fleming rất lâu, Tolstoy cũng đã từng đăng Anna Karenina thành truyện dài kỳ trên báo trước khi ấn bản tác phẩm nhưng kiên quyết không thay đổi số phận của nữ nhân vật chính bất chấp thư yêu cầu độc giả để dẫn đến kết cục bi thảm trong tiểu thuyết như chúng ta đã biết. Như vậy, trước sau dù độc giả có thể can thiệp một phần nào đó vào tác phẩm, tác giả vẫn là người duy nhất có quyền định đoạt số phận "đứa con tinh thần" của mình ra sao, bất chấp lời đăng đàn xin lỗi của họ đối với độc giả, trường hợp gần đây nhất là J.K.Rowling với bộ truyện Harry Potter nổi đình đám. Còn ý kiến khác cho rằng, nhà văn hòa mình vào với bạn đọc là tạo ra một hình thức văn học dân gian mới, thì hoàn toàn là nhận định phi thực tế, đi ngược với sự vận động của văn học. Thử hỏi ở Việt Nam, chúng ta đã thu được bao nhiêu giá trị đích thực từ sáng tác văn học dân gian sau vài nghìn năm so với số tác phẩm văn chương thành văn của thế kỷ 20, 21 cộng lại? Nhân nhắc tới văn học dân gian, bài học của các nhà văn thích sáng tác như vậy làm liên tưởng tới trường hợp người "đẽo cày giữa đường"!

INTERNET đã tạo thêm cơ hội để tác phẩm đến với người đọc một cách nhanh chóng, rút ngắn thời gian, mở rộng không gian trao đổi của nhà văn đối với xã hội. Nhưng điều quyết định vẫn là tài năng, là đạo đức nghề nghiệp, và yêu cầu sáng tác vẫn phải là: viết cho ai, viết để làm gì, viết như thế nào và sau cùng vẫn phải hướng đến các giá trị chân, thiện, mỹ. Dù trên internet, thì tác phẩm chỉ được coi là tác phẩm văn chương khi đáp ứng được các yêu cầu tối thiểu về tư tưởng - nghệ thuật. Internet không thể biến bộ óc bất tài trở thành nhà văn, nhà lý luận, phê bình, hay biến các sản phẩm "phản văn chương" thành nghệ thuật. Có chăng là với internet, trong một số trường hợp, chỉ là liều thuốc an thần an ủi người hư danh, thích sống trong ảo vọng được cưng chiều, ca ngợi, bợ đỡ của những cá nhân có xu hướng tinh thần tương tự. Vì vậy trước khi nghĩ tới việc các trang web, diễn đàn có thể "nuôi sống" "nhà văn mạng" khiến họ yên tâm sáng tác, tạo ra một kênh sách điện tử, truyện điện tử cạnh tranh với thị trường sách in (xa hơn là viễn cảnh một mạng văn học thay thế hoàn toàn văn học chính thống!), các nhà phê bình, lý luận cũng như nhà văn, nhà thơ hãy cố gắng rèn luyện tài năng, đạo đức của mình và tạo ra mọi cơ hội có thể để nghệ thuật đích thực đến được với người đọc.

Theo NHÂN DÂN ONLINE

Vì sao Phật giáo gần như biến mất khỏi Ấn Độ?





Vào khoảng năm 525 trước Jésus, Đức Phật đã tiên đoán rằng 2.500 năm trăm năm sau, tuy Phật giáo có khoảng 700 triệu tín đồ trên toàn thế giới, nhưng lại biến mất trên đất nước Ấn Độ, nơi mà trước đó Phật giáo từng là một trào lưu tình thần chính yếu, suốt cho đến thế kỷ thứ X.




Tại sao lại như thế? Ông Philippe Cornu đã đưa ra một lời giải đáp cho câu hỏi này.


Philippe Cornu là đương kim Chủ tịch Đại Học Phật Giáo Âu châu, Giảng sư tại Viện Quốc gia Ngôn ngữ và Văn minh Đông phương (Inalco) của Pháp. Ông cũng là một học giả uyên bác về Phật giáo, dịch nhiều kinh sách từ các tiếng Tây tạng, Trung hoa..., đồng thời ông cũng trước tác, viết báo và giảng dạy về Phật giáo. Một trong những công trình đáng kể của ông là quyển Tự điển bách khoa Phật giáo.

Sau đây là báo phỏng vấn Philippe Cornu do nữ ký giả Cathérine Golliau thực hiện, đăng trên tạp chí Le Point của nước Pháp.

- Chúng ta phải định nghĩa Phật giáo như thế nào?

- Đó là con đường tâm linh nhắm mục đích tự giải thoát khỏi vô minh và lầm lẫn, nguồn gốc đưa đến khổ đau, và giúp đạt được Giác ngộ, tức một thể dạng lột trần được mọi ảo giác, và từ thể dạng đó sự thực tối thượng sẽ hiển hiện.Người ta thường xem Phật giáo là một tôn giáo, trong chiều hướng Phật giáo chủ trương một con đường đạo đức, một luận thuyết triết học, đề nghị những nghi lễ và cách thức tu tập tinh thần trong mục đích giải phóng con người : vì thế cần phải đặt lòng tin nơi Đức Phật để bước vào con đường ấy. Tuy nhiên Đức Phật không phải là một vị thần, và Đạo Phật, còn gọi là Bouddha-darma (Đạo Pháp của Đức Phật) không phải là một tôn giáo thờ trời, theo ý nghĩa một vị thần sáng tạo.

- Có phải đấy là một phản ứng chống lại Đạo Bà-la-môn hay không?

- Đức Phật xuất hiện vào một thời điểm mà các bản kinh Vệ-đà của Đạo Bà-la-môn bị chỉ trích là chỉ biết chú trọng đến nghi lễ, một số người không chấp nhận khía cạnh ấy của Đạo Bà-la-môn đứng ra soạn thảo các kinh điển mới gọi là Upanisad, các kinh này quan tâm nhiều hơn đến sự giải thoát cá nhân. Con đường của Đức Phật nằm trong bối cảnh diễn tiến đó của kinh điển Upanisad, tuy nhiên tính cách đặc thù trong luận lý và kinh nghiệm của Đức Phật khác hẳn các hình thức cải tiến của Đạo Bà-la-môn qua các kinh điển Upanisad như vừa kể.

- Đâu là những khác biệt chính yếu cho thấy những điểm trái ngược giữa hai trào lưu đó?

- Trọng tâm trong những lời giáo huấn của Đức Phật là tính cách vô thường của tất cả mọi sự vật, sự kiện không hề có một “cái ngã” trường tồn, và những gì mà thông thường người ta gọi là sự tương liên hay là sự tương tạo dựa vào nhiều điều kiện, nguyên tắc ấy cho thấy mọi hiện tượng chỉ có thể hiện hữu bằng cách liên đới với nhau, những hiện tựng này làm điều kiện giúp cho những hiện tượng khác hiện hữu.

Tham vọng muốn kiểm soát mọi vật thể và lòng ước mong chận đứng, bằng bất cứ giá nào, những chuyển động của vô thường, sẽ làm phát sinh những hiểu biết sai lầm về thế giới này và do đó chỉ đem đến khổ đau mà thôi.

Tại sao lại như thế?

Bởi vì tất cả những hành vi của chúng ta đều nhắm vào ý đồ kiểm soát thế giới này và mọi sự hiện hữu, và sự căng thẳng đó nhất thiết sẽ tạo ra một hố sâu khổng lồ ngắn cách một bên là những gì chúng ta mong muốn được nhìn thấy và tin rằng những thứ ấy là hiện thực, và bên kia là bản thể đích thực của hiện thực.

- Tuy thế Phật giáo và Ấn độ giáo đôi khi lại sử dụng một số ngôn từ giống nhau...

- Đúng thế, nhưng ý nghĩa thì lại khác nhau. Hãy lấy thí dụ chữ “karma” (nghiệp) (1). Trong Đạo Bà-la-môn thuộc hệ thống kinh điển Vệ-đà, karma tượng trưng cho một hành vi mang tính cách nghi lễ giúp hội nhập với thế giới thiêng liêng. Đối với Đạo Bà-la-môn cải tiến trong hệ thống kinh điển Upanisad, thì chữ karma lại mang ý nghĩa về luân lý : tùy theo hành vi mang phẩm tính thiện hay ác, sẽ tạo ra một loại khả năng tiềm tàng, và chính khả năng ấy sẽ chín muồi khi tái sinh trong một kiếp sống thuận lợi hay bất thuận lợi về sau.

Ngoài ra, Ấn độ giáo lại chủ trương một hình thức định mệnh : chẳng hạn khi rơi vào một giai cấp nào thì phải tùy thuộc vào giai cấp ấy và không thể nào thoát ra được, bởi vì karma đã quyết định như thế.

Trong khi đó đối với Phật giáo, karma là một hành vi, và trước hết là một ý đồ trong tâm thức. Phật giáo phân biệt rõ rệt karma nguyên thủy làm nguồn gốc và hậu quả phát sinh sau đó từ karma, đấy là hai thứ khác nhau không thể lầm lẫn được. Sự phát sinh của hậu quả không thể tránh khỏi, nếu ta không làm gì cả để hoá giải nó, và hơn thế nữa ta còn có thể tinh khiết hoá cả karma trước khi nó chín muồi.

Mặt khác, karma không ép buộc con người phải sống một cách thụ động trong một cấu trúc xã hội đã quy định sẳn : mỗi cá nhân phải tự nắm lấy vận mệnh của mình để tự giải thoát cho chính mình ra khỏi karma, vì đó là một thứ động cơ thúc đẩy gây ra khổ đau, cần phải được khắc phục. Người ta cũng có thể tìm hiểu theo phương cách tương tợ đối với chữ “samsara” (luân hồi). Chữ samsara mang một ý nghĩa giống nhau trong cả hai nền triết học Bà-la-môn và Phật giáo, tức có nghĩa là sự hiện hữu dựa vào nhiều điều kiện.

Nhưng đối với Ấn độ giáo, con người chỉ có thể thoát ra khỏi samsara khi nào linh hồn hay “cái ngã” (atman) được giải thoát để hội nhập với thể dạng Nhất Nguyên Vĩ Đại.

Trong khi đó đối với Phật giáo, samsara trước hết là một sự quán nhận, phát sinh từ nhiều điều kiện, về một sự hiện hữu do karma và dục vọng của chính mình tạo tác, vì thế mỗi cá nhân phải tự giải thoát chính mình ra khỏi cảnh giới luân hồi.Vì vậy, cần phải định nghĩa trở lại các ngôn từ trong từng trường hợp một.

- Phật giáo có thu nạp các vị thần của Ấn giáo hay không ?

- Có. Toàn bộ hậu cảnh huyền thoại của Ấn giáo đã được thu nạp vào Phật giáo. Nhưng ở đây cũng phải nhắc lại thêm một lần nữa, tuy Phật giáo đã thu nạp nhưng thu nạp với ý nghĩa hoàn toàn khác biệt.

Thật vậy, theo Phật giáo các vị thần đều được xem là thuộc vào cảnh giới samsara (luân hồi). Vi chính các vị thần vẫn còn vướng mắc trong sự lầm lẫn ! Dù cho họ có một đời sống lâu dài đi nữa, nhưng khi karma đã cạn, họ sẽ rơi vào một cảnh giới khác của samsara. Họ không thể thoát khỏi bản chất có tính cách toàn diện của khổ đau.

- Nhưng tại sao nền triết học ấy chủ trương tìm kiếm sự giải thoát, lại còn cần đến các vị thần?

- Đức Phật không hề tìm cách bài bác bất cứ một thứ gì. Ngài chỉ đơn giản đặt mọi sự vật vào đúng vị trí của chúng. Các vị thần không phải là mục đích cũng không phải là những nhu cầu của Ngài, và đương nhiên không hề là một đối tượng cho sự nương tựa.

Trong Phật giáo người ta nương tựa vào nguyên tắc của Giác ngộ, vào những lời giáo huấn đưa đến Giác ngộ, và vào tập thể những người đã chọn những lời giáo huấn ấy. Đấy là những gì mà người ta gọi là Tam Bảo : Đức Phật, Dharma (Đạo Pháp) và Sangha (Tăng đoàn).

Đức Phật là nguyên tắc của Giác ngộ, vì thế Ngài là một vị hướng dẫn ; Dharma là những lời giáo huấn và cách thức tu tập mà Đức Phật đã khuyên bảo để giúp đưa đến Giác ngộ ; Sangha là tập thể Tăng đoàn, nhất thiết họ là những tu sĩ, những vị hiền nhân.

Các vị thần được xem như những gì mang tính cách truyền thống lâu đời : người ta kính trọng các vị ấy như những người láng giềng và xem họ là những biểu hiện mang tính cách dân gian, những vị ấy rồi sẽ tự xoá mờ, dần dần từng chút một, trước một mục đích cao rộng hơn. Chính sự bao dung đó đã giải thích sự thành công của Phật giáo. Đó là một nền triết học thật mềm dẽo đủ sức để thích ứng với tất cả mọi nền văn hoá.

- Phật giáo không chấp nhận giai cấp trong xã hội. Vậy có phải Phật giáo chống lại trật tự xã hội của Đạo Bà-la-môn hay chăng ?

- Từ nguyên thủy, chủ đích của Đức Phật không phải là thay đổi trật tự xã hội. Nhưng chỉ để thiết lập một dòng tu sĩ, nhưng vì vị thế tự đứng ra bên ngoài thế giới này, nên dòng tu sĩ ấy đã mở cửa đón nhận tất cả mọi cá nhân, thuộc tất cả mọi nguồn gốc và giai cấp, đúng hơn phải nói là Đức Phật đã tạo ra một sự dứt bỏ.

- Phật giáo sau đó đã phát triển thật mạnh mẽ trong đế quốc của vua A-Dục. Tại sao Phật giáo đã chủ trương niềm tin về “vô ngã” lại có thể phù hợp được với sức mạnh của uy quyền ?

- Nền triết học đó không hề tìm cách thay đổi một xã hội, nhưng chỉ chủ trương sự biến cải cá nhân trong lòng của mỗi cá nhân : nhưng nếu vì thế mà xã hội có thay đổi đi nữa, thì đó chính là nhờ từng cá nhân đã tu tập để tự biến cải tận đáy lòng của chính họ.

A-Dục là một vị đế vương xuất thân từ dòng dõi võ bị ; triều đại khởi sự bằng chém giết : và chính vào thời điểm đó ông ta đã ý thức được khổ đau là gì và đã quy y.

Nhưng chúng ta cũng không nên lầm lẫn : quả thật có một huyền thoại mạ vàng về sự kiện vua A-Dục quy y làm một Phật tử, và đã đem đến thanh bình và hạnh phúc cho toàn cõi đế quốc của ông. Trong đó có một phần sự thật, vì thực tế không hoàn toàn chỉ có màu hồng, dù sao đi nữa vua A-Dục cũng là một vị vua độc đoán...

- Làm thế nào để giải thích Phật giáo đã chinh phục được cả Á châu lại biến mất ở Ấn độ, trong khi Ấn giáo gần như không bành trướng ra khỏi Ấn độ nhưng vẫn tiếp tục sinh động trên bán lục địa này ?

- Phật giáo đối đầu với Ấn giáo, giống như là một hình thức cải tiến của Đạo Bà-la-môn khi Phật giáo tiếp xúc với Đạo này, Phật giáo ăn sâu vào các cấu trúc xã hội và được chính quyền nâng đỡ. Nhưng về sau đã bị các đạo quân Hồi giáo tiêu diệt khi xâm chiếm lãnh thổ Ấn độ.

Phật giáo chủ trương thiết lập những Đại học to lớn, chẳng hạn như Na-lan-đà, gồm hàng ngàn tu sĩ, đấy là nhưng nơi tập trung đông đảo về nhân sự nên dễ bị tiêu diệt. Ấn giáo dựa vào cấu trúc gia đình vì thế khó bị hủy diệt hơn (3).

Cũng nên thẳng thắn mà nói : chính những đạo quân Hồi giáo đã làm cho Phật giáo biến mất ở Ấn độ giữa buổi bình minh của thế kỷ XIII.

------------------------------------------

Chú thích của người dịch:

1- Karma : tức là nghiệp. Kinh sách Tây phương không dịch mà thường dùng thẳng một số ngôn từ có tính cách đặc thù của Phật giáo dưới hình thức chữ Phạn. Chẳng hạn như các chữ Dharma, samsara, nirvana, atman v.v… Kinh sách tiếng Việt quen dùng các từ dịch từ tiếng Hán, và người đọc cũng đã quen với ý nghĩa của các từ ấy. Tuy nhiên người dịch xin giữ lại các từ tiếng Phạn đúng như trong nguyên bản của bài viết này, chỉ thêm từ tương đương gốc tiếng Hán giữa hai dấu ngoặc.

2- Các vị thần ở đây có nghĩa là các thánh nhân, thiên nhân, thần linh, các đấng thiêng liêng, v.v… được tôn thờ trong Đại thừa Phật giáo. Một số có nguồn gốc Ấn giáo, một số phát xuất từ các nên văn hoá địa phương tùy theo quốc gia nơi Phật giáo phát triển.

3- Thật ra Phật giáo đã bắt đầu suy thoái trước đó. Người Hung nô hết sức thù nghịch với Phật giáo, và vào thế kỷ thứ V, các đạo quân của họ xâm chiếm Tây bắc Ấn độ, đã tàn phá tất cả các trung tâm Phật giáo trong vùng này. Chính quyền trung ương Ấn độ cũng bị tan rã, Hoàng triều Gupta xụp đổ. Phật giáo di chuyển dần về các vùng trung tâm trên lãnh thổ Ấn. Các vương quốc phía Nam tuy không thù nghịch hẳn với Phật giáo, nhưng cũng không hổ trợ Phật giáo như các vua chúa của vùng Bắc Ấn.

Sau người Hung nô, các đạo quân Hồi giáo phát xuất từ Afghanistan lại xâm chiếm nước Ấn, họ tàn phá trung tâm Đại học Na-lan-đà vào năm 1199, thiêu hủy thư viện khổng lồ của Na-lan-đà và giết hết các tu sĩ.

Biến cố đó đánh dấu sự chấm dứt cuối cùng của một trang lịch sử vô cùng rực rỡ của Phật giáo kéo dài mười bảy thế kỷ trên đất Ấn.

Theo NGUYENHOAIVAN



Share

Thứ Năm, 27 tháng 2, 2014

THỜI VẮNG TÌNH THƯƠNG


 DR. NIKONIAN 


Một

Mẹ con nhà Watson là một gia đình gốc Boston và cực kỳ vui tính. Chẳng biết vì lý do nào, họ định cư ở Sài Gòn và bà cụ nhà Watson là bệnh nhân của tôi trong nhiều năm. Với một lô bệnh tật kinh niên, bà Watson tuy hom hem nhưng khi nào cũng cười. Mỗi lần gặp họ dù trong bệnh viện, nhìn mẹ con họ cười đùa, trêu chọc nhau, rất hóm hỉnh và đầy âu yếm, không thể không mỉm cười và dừng tay quan sát. Nhất là chiều nay, gã Watson dềnh dàng kia tự tay bới tóc cho mẹ già đang lập cập ngồi xe lăn, vừa bông lơn về lọn tóc loăn xoăn của bà cụ. Thấy gia đình người hạnh phúc mà cứ thầm lo cho tuổi già của mình, liệu có được những niềm vui như thế?

Nhà ông V. thì khác! Người Huế, cựu kiểm lâm thời Pháp thuộc, vợ chồng con cái cư xử với nhau cực kỳ nghiêm cẩn. Người con trai tóc đã hoa râm của ông V., đưa cha già đi khám bệnh đầy cung kính, một hai “con mời ba lên giường nằm để bác sĩ khám”. Nghe qua có phần khách sáo, nhưng khi thấy anh ta nhoẻn cười sung sướng khi biết cha mình vẫn khoẻ, mới thực tin đó là lòng hiếu thảo với cha già mẹ yếu.

Nhưng không phải mình tôi, mà rất nhiều nhân viên y tế khác, đã phải chứng kiến không ít những cảnh đau lòng trong bệnh viện. Khi những bậc cha mẹ già cả cao niên, bệnh tật thoi thóp, bị con cháu bỏ rơi, lở loét, hôi hám, và chết dần mòn trên giường bệnh. Mà bệnh viện thì cũng chỉ là tấm gương soi của xã hội ngoài kia, khi những tin tức con cái giết cha, đánh mẹ, kiện nhau ra toà… cũng đang nhan nhản trên báo chí mỗi ngày.

Hai


“Người đời nhà Hán, thờ mẹ chí hiếu, nhân khi cửa nhà sa sút, thường bữa ông thấy mẹ không dám ăn no, cứ bớt phần cơm để đưa cho con của ông mới vừa lên 3 tuổi ăn. Hai vợ chồng cùng nhau bàn bạc: Mẹ già không đủ ăn, mà vợ chồng ta còn sinh đẻ được, nếu để con mình chia xẻ ngọt bùi của mẹ là không phải đạo. Thế rồi hai vợ chồng định đào hố chôn con đi.”…

Đừng nghĩ rằng việc đưa cha mẹ vào nhà dưỡng lão như các nước phương Tây là đại bất hiếu. Ở đấy, các cụ được tự do, thoải mái, được kết bạn với những người cùng thế hệ, được chăm sóc chu đáo bởi những người chuyên nghiệp. Về nhiều mặt, nó tốt hơn nhiều so với một chế độ tam đại đồng đường kiểu Á Đông, khi nhiều thế hệ phải chung chạ, chịu đựng lẫn nhau trong một không gian nhỏ hẹp và thiếu tiện nghi. Và không phải khi nào cũng có sự hiểu biết, cảm thông giữa các thế hệ.

Là người Mỹ, ắt gã Watson kia không thể nào hiểu được câu “nước mắt chảy xuống” rất thâm thuý của người Việt. Chỉ trong 4 chữ, nó diễn tả được sự nhưng không, vô điều kiện và không đòi đền đáp của tình thương cha mẹ dành cho con cái. Nó không giống như quan điểm của nho gia phong kiến xem con cái là nguồn lực lao động, là sự bảo hiểm hay nơi nương tựa cho tuổi già. Trên quan điểm đó, việc báo hiếu, hay TRẢ hiếu là một sự báo đáp, đền bồi lại công sinh thành dưỡng dục. Từ góc độ xã hội, nó mang lại cho người già những sự chăm sóc tối thiểu và có tính vay-trả, rất mực công bằng và hợp lý.

Cha mẹ nuôi ta khôn lớn, và ta có bổn phận chăm sóc lại cha mẹ ta lúc các người già yếu, không còn khả năng làm việc. Đó là một khế ước xã hội được nâng lên hàng đạo lý. Qui ước xã hội ấy, đặc biệt cần cho những người già neo đơn, bệnh tật. Và đặc biệt cần thiết trong một xã hội nhân mãn và nghèo túng, khi những phúc lợi an sinh cho người già gần như không có.

Ba

Điều đáng ngạc nhiên là trong những xã hội duy tình và xem nhẹ phần lý trí, bổn phận của con cái với cha mẹ lại được nâng lên thành những qui chuẩn khắt khe về lý tính. Luật Đạo hiếu rất chi tiết mới được thông qua ở Trung Quốc là một ví dụ. Đạo luật này, qui định những bổn phận rất cụ thể của con cái như thăm nom, chu cấp cho cha mẹ. Nó cũng xác lập những điều mà phận làm con không được làm với đấng sinh thành như cản trở kết hôn, ngược đãi hay bạo hành… Và như mọi luật pháp khác, cha mẹ có thể khởi kiện con cái nếu chúng vi phạm, hay không chấp hành luật này.

Lượng hoá tình thương yêu cha mẹ và minh hoạ một cách cường điệu, cũng là thông điệp mà Nhị thập tứ hiếu diễn ca muốn để lại cho hậu thế về đạo hiếu, vốn rất giản dị. Đạo hiếu ấy, nhiều khi được khoa trương, phóng đại lên một cách dị hợm. Từ những đám ma linh đình, phô phang đủ loại cờ đèn kèn trống. Từ hủ tục khóc mướn, thuê người kể lể lòng tiếc thương cha mẹ. Cho đến câu chuyện bi thảm của Quách Cự trong Nhị thập tứ hiếu bớt phần cơm của con, thậm chí chôn sống con để nuôi mẹ già. Lòng hiếu đến mức cực đoan như vậy, liệu có đáng để nêu gương cho hậu thế? Nếu không gọi là biến thái của ngu trung ngu hiếu?

Bốn


…“Đến lượt mình, Phúc bước ra, mở đầu bằng câu hỏi:

- Địa chủ Đại, mày có biết tao là ai không?

Ông bố đã trả lời thế này:

- Dạ thưa tôi có biết ông, vì tôi đã trót đẻ ra ông!” …

Trích đoạn kinh khủng trên từ Mảnh đất lắm người nhiều ma[1] của Nguyễn Khắc Trường không phải là chuyện hư cấu. Chuyện con cái đấu tố cha mẹ, bất hiếu đại nghịch như thế… đã từng xảy ra ở nông thôn miền Bắc. Cũng như đã là một phần đầy máu lệ của những trang sử thời Cách mạng văn hoá ở Trung quốc.

Mỉa mai thay, đấu cha tố mẹ lại là sản phẩm của một xã hội rất mực sùng kính Nhị thập tứ hiếu. Đã có thời, đấu tố cha mẹ mình được xem là hợp pháp, tiến bộ và là biểu hiện “ngời sáng” của đạo đức. Và như một qui luật, cùng tắc biến, biến tắc thông, xã hội đã từng rất mực vô đạo ấy lại đẻ ra những qui định rất cụ thể về đạo, về hiếu để răn dạy các công dân của mình.
Vô đạo nên cần có đạo để dẫn đường, âu đó cũng là lẽ tự nhiên. Dù rằng đạo hiếu mà qui thành luật, không ai phản bác nhưng nghe cứ “ngậm đắng nuốt cay thế nào”

Năm

Sự tận tuỵ của người con trai cụ V. là kết quả của một nền giáo dục nghiêm cẩn, một gia phong tốt đẹp qua nhiều thế hệ. Nó là một cung cách sống, một hành xử đương nhiên và đứng trên, hay đứng ngoài mọi qui định pháp luật. Ắt hẳn, những thành viên của gia đình cụ V. khi nào cũng sẽ đối xử với nhau như thế, bất kể mọi thời thế đảo điên.

Nhưng tôi thích cái cách mà nhà Watson bày tỏ tình yêu với nhau. Nó giản dị, dễ dàng, tự nhiên và vượt qua mọi rào cản lễ nghĩa nặng nề. Tôi chắc rằng, gia đình Watson không hề được giáo dục về những tấm gương cụ thể như “Nhị thập tứ hiếu”. Truyền thống Thanh giáo của gia đình họ chỉ được căn dặn qua một giới răn ngắn ngủi: “Thảo kính cha mẹ!”. Căn bản đạo đức, cộng với tình yêu làm nên chữ hiếu của gã Watson mà không cần bất cứ qui định cụ thể nào. Bà cụ Watson an hưởng tuổi già và tình yêu của con cháu mà không hả hê mãn nguyện với sự báo đáp mang tính trả ơn.

Cái tình yêu của nhà Watson, không phải áp đặt, hay vì tuân thủ luật pháp mà có. Vì mọi tình yêu đích thực thì không màng đến các qui định. Và vì qui định được đặt ra nhằm giới hạn những điều không được làm, chứ không phải để xác lập những điều xuất phát từ trái tim. Hiểu theo cách đó, luật Đạo hiếu mới ban hành ở Trung quốc là đúng đắn, nếu như nó ngăn cấm con cái ngược đãi, bỏ rơi cha mẹ. Hay nói cách khác, nó cấm cản những điều mà phận làm con không được đối đãi với đấng sinh thành. Trong những xã hội mà nền an sinh cho người già gần như là số không, thì những qui định này là cần thiết và là bảo chứng (trên giấy) cho một dân số già nua và theo đuổi chính sách một con.

Nhưng nói cho cùng, khi cái lòng thương yêu cha mẹ mà phải được (bị) luật hoá, thì xã hội ấy đã vô cùng thiếu vắng tình thương và căn bản đạo đức đến tận cùng. Hiểu theo chiều kích ấy, 24 tấm gương đại hiếu theo kiểu Trung hoa đã là sự khoa trương, cường điệu để răn đe, hơn là gieo hạt giống tình thương giữa cha mẹ, con cái. Luật Đạo hiếu cũng vậy. Nó chỉ cần cho những đứa con vô đạo, cho một xã hội vô đạo. Với một gia đình như nhà Watson, nó là vô nghĩa, thậm chí hài hước.

Chúng ta muốn con cái yêu thương, chỉ vì thuộc tính căn bản của mọi tình yêu là chia sẻ tình yêu và được yêu, chứ không phải đền bù theo kiểu “vay thì phải trả”. Dù con cái là hiếu tử hay đại nghịch, chúng ta vẫn luôn yêu thương chúng. Chỉ vì chúng là con cái của ta. Ta yêu thương chúng, nhìn chúng lớn lên, khi ta mỗi ngày một già nua và đi dần về cõi chết. Ta ao ước đời chúng hạnh phúc hơn ta, và mong mỏi chúng không phải vấp ngã như ta đã từng. Và vì “nước mắt chảy xuống” theo cách giản dị, vô điều kiện mà không cần “chảy lên” một cách gượng ép. Muôn đời vẫn thế!

Dùng luật pháp để làm nước mắt chảy ngược, chỉ có những xã hội vô đạo và đang mất đi nền tảng tối thiểu của tình yêu thương mới cần điều đó. Nhưng chắc các con cháu của anh cán bộ Phúc năm xưa thật sự cần luật pháp ấy. Để ngăn trở họ tái diễn những điều đại ác, như anh Phúc đã làm với chính cha mình.

Khi được gieo trồng và nuôi dưỡng, tình thương sẽ đơm hoa kết trái. Và sự vô đạo cũng vậy!



Trong bóng tối ta chẳng tìm thấy nhau


Trịnh Y Thư



Tranh Joan Miro

Nicht sind die Leiden erkannt,
nicht ist die Liebe gelernt,
und was im Tod uns entfernt,
ist nicht entschleiert.

Không hiểu những nỗi khổ đau
cũng chẳng học được bài học tình yêu
và vẫn mù lòa không nhận ra điều
cách li chúng ta trong cõi chết.
 –Rainer Maria Rilke

*

Phủ quanh bóng tối của tình yêu
vết lắng ngẩn ngơ cơn mê
hơn một lần run sợ tiếng gõ của
định mệnh trên nỗi hoang vu ngập đắm.

Hồn lạnh không nhớ đâu bờ bến
tôi đốt cháy tháng ngày còn lại
những bước ngập ngừng bóng chiều xập xoạng
ngoảnh nhìn vết tích bao phế hưng hôn ám
trôi dần về bóng thẳm xa xăm.

Trong nỗi hoài nghi tôi yêu người
mãi mãi đấy là điều bí ẩn
giấu trong cơn mê say đắm đuối
nỗi hoang mang của kẻ tội đồ.

Sự thinh lặng của cõi không ùa về
tôi đứng nhìn biển xanh
lòng u hoặc trăm điều không tỏ
chiều u uẩn biển u hoài bưng kín
sóng vỗ dưới chân rầm rì
như tiếng vọng nghìn năm.

Dầm mình trong khói sương thần thoại
bóng tối che ngang
phía bên kia chân trời nào còn lại
mỗi lúc mỗi xa quá lối về.

Bơ vơ tháng ngày mưa nhanh
thu vén những mảnh đời vụn vỡ
ta còn gì cho nhau
ngoài ánh mắt khoan dung
như lần chia tay trên đồi cát.

Hoàng hôn rồi cũng xuống
trong bóng tối ta chẳng tìm thấy nhau
chợt một hôm hóa thân cát bụi
gió tê xao xác cõi ngoài.

Ghi chú nhỏ về chống tham nhũng



Để chống tham nhũng và tham ô, phải chăng nên bắt đầu từ văn hóa? Một đứa bé xem việc ăn trộm trứng gà là xấu xa, đê tiện; thì khi lớn lên có khả năng rất cao là nó sẽ tránh xa việc ăn cắp cả con gà, hoặc nguyên đàn gà.


Nếu chống tham nhũng không bắt đầu từ văn hóa và giáo dục cơ sở, thì dù có tử hình kẻ tham nhũng này, xã hội sẽ lại xuất hiện kẻ tham những khác – Ảnh: TTXVN


Trước tiên xin bạn đọc thưởng thức ba câu chuyện độc lập:

1. Gối đẹp: Cách đây không lâu tôi được quá giang một chiếc siêu xe của bạn một người bạn. Chiếc xe đến từ trời Âu hoàn hảo từng li từng tí, gây chú ý nhất là mấy chiếc gối nhỏ nền nã để kê lưng hoặc gác tay. Tôi hỏi chủ xe gối này mua ở đâu hay là đồ theo xe. Anh ta cười rất tươi và không giấu vẻ tự hào bảo rằng mấy cái gối này anh ta “chôm” trên máy bay của một hãng hàng không quốc tế nổi tiếng về khoản sang trọng. Việc “chôm chĩa” khá công phu, phải bay đủ mấy chuyến mới có được trọn bộ!

2. Thiên đường: Một thủy thủ Việt Nam bỏ trốn để làm việc chui tại Nhật kể với tôi rằng nước Nhật đã xây dựng xong Chủ nghĩa Cộng sản. Bằng chứng là nơi đó hàng hóa ê hề, tràn ra cả vỉa hè. Chẳng có cửa hàng nào cất hàng và khóa cửa khi đêm về. Cho nên anh ta sướng lắm. Tối nào thèm uống bia, anh lại nhảy lên chiếc xe hơi bãi rác mang biển số giả của mình ra phố. Anh ta chỉ tốn năm mười giây dừng lại để kéo một hai thùng bia “chùa” vào xe và thưởng thức một đêm “ngất ngây con gà tây”!

3. Trí khôn Việt thua tinh thần cảnh giác Nhật: Trên báo Tuổi Trẻ Cười số 86 tháng 3/1991, dưới bút danh Hoàng Minh, giáo sư Cao Xuân Hạo viết:

“Nhiều người kể lại rằng trong một chuyến đi tham quan một thửa ruộng thí nghiệm ở Nhật Bản, GS. Lương Định Của “lỡ chân” bước hụt xuống bùn. Vết bùn này có thể cho biết những bí quyết mới về phân bón. Lập tức có một cô nhân viên Nhật Bản chạy đến xin lỗi rối rít vị khách quý, đưa một đôi giày sạch cho ngài thay và chỉ năm phút sau đem trả cho ngài đôi giày bị lấm bùn đã giặt sạch và đã sấy khô, không còn lấy một phân tử bùn nào. Cho hay đến như một người đã học được cái nghề gián điệp công nghệ ngay ở Nhật mà cũng không thoát được cặp mắt phản gián tinh tường của họ.”

***

Thật lạ lùng, chúng ta không hề thấy trong ba câu chuyện ở trên một chút ngượng ngùng hay xấu hổ, khi hành vi ăn cắp được thực hiện thành công trót lọt nhiều lần, hoặc bị chặn đứng vì sự cảnh giác của nạn nhân. Trái lại, ăn cắp thậm chí được xem như một chiến công “hiển hách”.

Phải chăng đạo đức xã hội đã bị khuyết thủng đâu đó? Hoặc ít nhất cũng có thể kết luận văn hóa Việt Nam có cái nhìn không khắt khe lắm với tật xấu này. Khi một nền văn hóa không dự trữ kháng thể mạnh để chống virus ăn cắp hoành hành, tất yếu xã hội ấy sẽ xuất hiện tham nhũng, tham ô. Bởi vì bản chất tham nhũng và tham ô cũng là ăn cắp.

Như vậy để chống tham nhũng và tham ô, phải chăng nên bắt đầu từ văn hóa? Một đứa bé xem việc ăn trộm trứng gà là xấu xa, đê tiện; thì khi lớn lên có khả năng rất cao là nó sẽ tránh xa việc ăn cắp cả con gà, hoặc nguyên đàn gà.

Nếu chống tham nhũng không bắt đầu từ văn hóa và giáo dục cơ sở, thì dù có tử hình kẻ tham nhũng này, xã hội sẽ lại xuất hiện kẻ tham những khác, mà cấp độ càng ngày càng tăng, chứ không thể giảm đi.

Trong báo cáo của nhà ngoại giao và Hán học Phillarstre gửi Thống đốc Nam Kỳ năm 1878, có đoạn rất đáng chú ý: “Đất nước này hết sức nghèo nàn, chính phủ bị ràng buộc trong tất cả mọi hoài bão có thể có và trong tất cả mọi ý muốn cải cách, bởi những sợi dây không thể cắt đứt mà không làm đổ vỡ hết đồng loạt. Triều đình còn bị kìm hãm bởi những điều mê tín của một xã hội đã được cấu tạo rất chặt chẽ; đối với kẻ cầm đầu, mê tín đó là những cái cớ viện dẫn để bảo vệ những quyền lợi đã có, đối với tất cả mọi người thì đó là khí giới phòng thủ chống lại mọi thay đổi. Mỗi người đều biết mình có lợi gì khi thay đổi, nhưng lại chú ý nhiều nhất tới những gì sẽ mất và đều không muốn bắt đầu từ đấy”.

Chúng ta thấy rằng nhận xét cách đây 135 năm của Phillarstre vẫn còn rất đúng với đề tài chống tham nhũng của bài viết này. Tất cả mọi người đều hưởng lợi nếu toàn xã hội không còn ăn cắp và tham nhũng, nhưng mọi thứ dường như cứ mãi quanh quẩn ở điểm xuất phát, nếu không kể nút thắt là những phiên tòa có án tử, thỉnh thoảng lại diễn ra.

Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng nêu rõ: “Tham nhũng không còn là vấn đề của địa phương mà là một hiện tượng có tính xuyên quốc gia ảnh hưởng tới tất cả các xã hội và các nền kinh tế, do vậy hợp tác quốc tế nhằm ngăn chặn và kiểm soát tham nhũng là điều vô cùng cần thiết”. Với trường hợp Việt Nam, nên xem xét bao quát cả yếu tố lịch sử và văn hóa trong nạn tham nhũng và hối lộ.

Người Việt Nam, hết đời này đến đời kia, vẫn lặp đi lặp lại câu ca dao nghẹn đắng: “Con ơi nhớ lấy câu này. Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”. Song nếu ông quan ấy ở trong dòng tộc mình, thì lập tức nó chuyển tông thành niềm kiêu hãnh: “Một người làm quan, cả họ được nhờ”.

Án tử của Dương Chí Dũng vừa qua là chế tài cao nhất của nền pháp trị với tham nhũng. Điều đó là cần thiết, nhưng thật sự chưa đủ. Một cơ thể xã hội khỏe mạnh phải hài hòa giữa dương (pháp trị) và âm (văn trị).

Hãy tưởng tượng một câu chuyện mà tôi tin sẽ xảy ra ở tương lai: Đứa trẻ tiểu học về hỏi cha nó là quan tham: “Cha ơi bài học trong trường nói tham nhũng là xấu xa, là ăn cắp, sẽ tàn phá tan tành đất nước, phải không cha?”. Không ít thì nhiều, câu hỏi đó sẽ điều chỉnh hành vi của người cha tích cực hơn.

Trương Thái Du (*)

* Bài viết thể hiện văn phong và góc nhìn của tác giả, một nhà văn tự do sống và làm việc trái nghề tại TP.HCM