Thứ Sáu, 9 tháng 8, 2013

Những Tiếng Nói Ngầm và một thái độ nghiên cứu, phê bình cần được trân trọng

Gửi Chu Giang, tuần báo Văn nghệ TP Hồ Chí Minh,
Khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm Hà Nội
Bài viết này bàn về “thái độ chính trị” Nhã Thuyên thể hiện trong tập tiểu luận Những tiếng nói ngầm đăng trên Da Màu từ 18 đến 26 tháng 10 năm 2012. Nó phản hồi bài viết “Có giải thiêng lịch sử được không?” của Chu Giang đăng trên tuần báo Văn nghệ TP Hồ Chí Minhsố 256, xuất bản ngày 30 tháng 5 năm 2013. Theo quan điểm của tôi “thái độ chính trị” của Nhã Thuyên không mâu thuẫn với một vị trí trong trường đại học chính thống của nhà nước. Tôi là bạn đọc, không có thẩm quyền gì để quyết định giữ Nhã Thuyên ở lại hay không, nhưng vẫn muốn góp lời. Khi một tác phẩm đã được biết tới thì người đọc là người có trách nhiệm với nó hơn.
Tuần báo Văn nghệ TP Hồ Chí Minh không đăng ý kiến trái chiều. Khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm Hà Nội đã yêu cầu Nhã Thuyên thôi việc. Sau đó báo chí dòng chính chuyển sự chú ý sang luận văn thạc sỹ về nhóm Mở Miệng Nhã Thuyên thực hiện và bảo vệ năm 2010, một văn bản chưa được công bố rộng rãi. Như Chu Giang viết trong số tiếp theo của Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, loạt tiểu luận của Nhã Thuyên không đáng bàn nhiều vì nó chỉ đăng trên internet, không mang tính pháp quy như luận văn. Tôi tưởng bài viết của mình đã thành “cũ” thì gần đây bắt gặp một bài báo lật lại Những tiếng nói ngầm với những phán xét nặng nề khiến tôi lại thấy mình muốn lên tiếng. Khi tiếp cận một tác phẩm chúng ta cần suy xét kĩ lưỡng từng câu chữ của nó chứ không nên căn cứ vào đề tài nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu hay một chuyện bên ngoài là tác giả nhận được tài trợ của một tổ chức quốc tế để quy kết những điều xấu. Nếu như người ta muốn phê phán những tư tưởng “sai lệch” thì tôi e rằng việc lấy Nhã Thuyên ra làm đối tượng là một nhầm lẫn đáng tiếc. Để góp lời vào một câu chuyện chung, tôi xin gửi bài viết của mình cho các diễn đàn, báo chí.
Hà Nội ngày 01 tháng 08 năm 2013
1. Giới thiệu
Trước cùng một văn bản người ta có thể có những đọc hiểu rất khác nhau. Dù không đồng tình, tôi xin ghi nhận cách Chu Giang tiếp cận chuỗi tiểu luận Những tiếng nói ngầm của Nhã Thuyên với bài viết “Có giải thiêng lịch sử được không?” đăng trên trang 16-17 tuần báo Văn nghệ TP Hồ Chí Minh số 256, bộ mới, xuất bản ngày 30 tháng 5 năm 2013. Theo tôi hiểu, Chu Giang quan tâm đến việc đánh giá thái độ chính trị của người viết thể hiện qua tác phẩm. Ông cho rằng Nhã Thuyên đã lựa chọn một vị trí rõ ràng là chống đối chính quyền và phỉ báng lịch sử dân tộc, giống như những tác phẩm, tác giả mà cô ca tụng. Một người có thái độ chính trị như vậy theo ông không đủ tư cách để đảm nhận công tác giáo dục văn học trong nhà trường xã hội chủ nghĩa và bài viết của ông đề gửi Khoa Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội, nơi Nhã Thuyên công tác. Đó là một nỗ lực bảo vệ thế hệ trẻ, chính quyền hiện thời và lịch sử của dân tộc đã qua. Nỗ lực này không phải là vô ích; tuy nhiên, tôi hiểu Nhã Thuyên khác với Chu Giang nên mong được trao đổi.
Tại thời điểm này cá nhân tôi đang làm việc cho một cơ quan nhà nước, có lòng tự hào dân tộc, kính trọng Hồ Chí Minh và ủng hộ sự lãnh đạo của Đảng. Tuy vậy tôi vẫn xin được bất đồng với tất cả những luận điểm của Chu Giang về Nhã Thuyên. Thái độ chính trị của Nhã Thuyên nếu đúng như Chu Giang mô tả có mâu thuẫn với nhiệm vụ giảng dạy văn học trong nhà trường chính thống hay không, không phải là điều mà tôi quan tâm bởi thực sự tôi thấy Nhã Thuyên không có thái độ như thế. Trong bài viết này, tôi sẽ trình bày cách hiểu của tôi về thái độ chính trị Nhã Thuyên thể hiện qua chuỗi tiểu luận Những tiếng nói ngầm đăng trên Da Màu từ 18 đến 26 tháng 10 năm 2012. Tôi cho rằng cô ấy đã thể hiện một thái độ đúng đắn với đạo đức của một người làm công tác nghiên cứu và phê bình văn học. Đó là một thái độ trung lập với các đảng phái chính trị và chế độ xã hội nhưng cam kết theo đuổi trí tuệ và các giá trị nhân văn trong phạm vi nghiên cứu của mình. Theo tôi đây không phải là thái độ đúng đắn duy nhất nhưng đó là một lựa chọn cần được tôn trọngnếu như ngành nhân văn của Việt Nam muốn đem lại những giá trị nhân văn cho đời sống. Những tiếng nói ngầm chưa tìm được chỗ đứng trên diễn đàn văn học chính thống (Da Màu là một diễn đàn văn học mạng phi chính thống) nhưng việc Nhã Thuyên giảng dạy tại Khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội là một dấu hiệu đáng mừng hơn là đáng lo.
2. Vị trí của nhà phê bình: trung lập với các đảng phái chính trị, chế độ xã hội và cam kết với những giá trị nhân văn
Tôi không thấy Nhã Thuyên lựa chọn vị trí ca tụng “những tiếng nói ngầm”. Nhã Thuyên lựa chọn tìm hiểu “một phiến cảnh thơ ca còn chưa sáng rõ” và đã làm điều đó với sự trân trọng đối tượng nghiên cứu của mình. Người nghiên cứu, ngay cả khi tìm hiểu kẻ thù hay những tội nhân bị cả xã hội nguyền rủa, có lẽ cũng cần giữ cái đức ấy.
Tôi xin dẫn lại đoạn văn trong lời ngỏ của Nhã Thuyên mà chính Chu Giang đã trích: “Tôi muốn làm nổi bật lên qua các tiểu luận hình ảnh của một không gian văn học năng động với những tác giả tỏ ra cam kết với lựa chọn phản biện và đổi mới văn chương, những người dường như đang giữ chặt lấy vị trí bên lề của mình để nuôi dưỡng một kinh nghiệm chống đối, nuôi dưỡng tiềm năng sáng tạo một năng lực chống đối, sáng tạo một thế giới thay thế.”
Khi đọc đoạn văn bản này tôi để ý đến việc Nhã Thuyên dùng hai từ “tỏ ra” và “dường như” để bày ra một thái độ cẩn trọng. Còn không gian văn học đó có “năng động” hay không thì tùy quan niệm của từng người. Tôi đồng tình với cách dùng từ “năng động” của tác giả và không cho rằng tính từ ấy có nghĩa ngợi ca. Những sáng tác và ấn phẩm phi chính thống đang có đời sống của chúng. Dòng văn học phản kháng tồn tại trong bất cứ một chế độ xã hội nào chứ không phải chỉ là sản phẩm riêng của Việt Nam.
Đoạn văn vừa trích dẫn chỉ thể hiện đối tượng nghiên cứu của tác phẩm còn vị trí của người nghiên cứu được Nhã Thuyên trình bày ở một đoạn văn khác trong lời ngỏ: “Tôi đang ở giữa cái bên lề và trung tâm, ở giữa hiện tại và quá khứ, ở giữa những đứt gãy và kết nối, giữa những phân lập và sự nhập nhằng, giữa sự sáng tỏ và rối loạn, giữa sự đi lên và thoái hóa, tôi đang đứng chênh vênh để nhìn ra bên ngoài và nhìn vào bên trong, vừa như kẻ ngoại cuộc vừa như người trong cuộc, nhưng là lựa chọn không đứng về phía sự trấn áp.”
Vị trí Nhã Thuyên lựa chọn là sự chênh vênh ở giữa. Chu Giang trích dẫn lại rằng Nhã Thuyên lựa chọn “không đứng về phía trấn áp” và tự ngầm hiểu phía trấn áp là phía chính quyền. Thật ra bất cứ một cá nhân nào cũng có thể trấn áp những người khác. Theo tôi hiểu, “không đứng về phía trấn áp” có nghĩa là nhà phê bình không tìm hiểu dòng văn học phản kháng với sẵn mong muốn trấn áp nó.
Nhã Thuyên không viết phê bình với sự khách quan lạnh lùng của khoa học. Cô ấy chọn một đường hướng nghiên cứu nhân văn cam kết với sự trân trọng giá trị văn chương của “những hiện diện vắng mặt”. Sự trung lập mà tôi muốn nói ở đây là sự trung lập với các tham vọng chính trị nhằm xây dựng hay lật đổ một chính quyền. Nhã Thuyên đã rất kỹ tính khi không tự mình dùng một từ ngữ nào thể hiện định kiến với chính quyền và lịch sử dân tộc. Không biết nhầm lẫn của Chu Giang đã diễn ra như thế nào nhưng toàn bộ những từ ngữ thể hiện định kiến với chính quyền và lịch sử dân tộc là của các tác giả và tác phẩm mà Nhã Thuyên nghiên cứu hoặc chúng mô tả một vấn đề là đối tượng quan tâm của các tác giả và tác phẩm đó. Tôi đã cất công tìm xem cụm từ “sự thống trị dai dẳng của tư tưởng Hồ Chí Minh” mà Chu Giang trích dẫn được Nhã Thuyên sử dụng trong trường hợp nào và tìm thấy nó trong một câu viết tại đó nó được nhắc tới như một vấn đề mà các nhà thơ phản kháng quan tâm. Trong khi các nhà thơ phản kháng bày tỏ thái độ chống đối chế độ thì Nhã Thuyên không chọn vị trí đó. Người ta có thể đặt ra câu hỏi rằng tại sao Nhã Thuyên lại hứng thú với không gian văn học phản kháng nếu như cô ấy không muốn trấn áp hay tuyên truyền những luận điểm chống chính quyền. Tôi không biết rõ câu trả lời, và cũng không cần phải biết, nhưng nếu thử suy đoán, ta có thể thấy những lý do rất con người. Sự cấm kỵ một số đề tài nghiên cứu trong nhà trường có thể đã khơi gợi trí tò mò của nhà nghiên cứu. Cũng có thể cô ấy giàu lòng trắc ẩn với các thân phận bên lề. Hoặc thơ ca phản kháng có những giá trị văn chương thực sự cuốn hút.
3. Vấn đề nghiên cứu của Những tiếng nói ngầm: Mối quan hệ giữa thơ ca và chính trị
Tôi đã dành nhiều công sức để đọc các tiểu luận của Nhã Thuyên và thấy rằng nhà phê bình này xác định công việc của mình là đi tìm giá trị văn chương của những tiếng nói chống đối chứ không phải là phán xét thái độ chính trị của những tiếng nói ấy. Dòng văn học ngầm thường hấp dẫn người đọc bởi thái độ chính trị của nó, và Nhã Thuyên muốn hướng sự quan tâm của mình và bạn đọc sang một vấn đề khác: tính văn học nghệ thuật của những sáng tác có đặc trưng chính trị đó. Có thể nói văn học nghệ thuật không tách khỏi chính trị, nhưng chúng cũng không trùng khớp hoàn toàn nên tra vấn mối quan hệ giữa thơ ca và chính trị là một lao động trí tuệ có ý nghĩa. Với tôi, cách đặt vấn đề của nhà phê bình không hề gượng ép, nó hợp với những băn khoăn của tôi. Tôi không sẵn một tâm thế ngợi ca dòng văn học phản kháng. Tôi đã gặp những tác phẩm mà nếu không phải là bàn chuyện chính trị thì chẳng đáng chú ý vì chúng không có gì thú vị về ý tưởng hay ngôn từ. Ở một chiều khác, tôi nghĩ rằng không tìm hiểu giá trị văn chương của dòng văn học này thì không công bằng, với bản thân mình và nhất là với văn chương.
Chu Giang có thể không thừa nhận những giá trị văn chương của các tác phẩm và tác giả như Nhã Thuyên nêu ra, nhưng Nhã Thuyên không hề ca ngợi lập trường chống chế độ và phỉ báng lịch sử. Nhã Thuyên chỉ nhận định rằng trong lịch sử văn học Việt Nam thì dòng văn học phản kháng mà cô nghiên cứu đặt ra những câu hỏi về mối quan hệ giữa nhà thơ và thể chế, trình diễn những quan niệm mới về thi ca, và để lại một vài bài thơ làm cô xúc động. Nhã Thuyên xúc động trước Nguyễn Quốc Chánh chắc chắn không phải là vì cô có chung quan điểm chống chế độ và phỉ báng lịch sử mà vì ông là một con người có những nỗi đau, những tìm tòi và những câu thơ đẹp. Cô viết: “Đến giờ, tôi vẫn xúc động khi lần giở những trang sách cũ, lần giở những trang mạng để đọc ông, không phải một biểu tượng của chịu đựng và phản kháng, mà như một thi sĩ, kẻ luôn tìm cách vượt qua những giới hạn của cá nhân mình để tra vấn những tiềm năng thơ ca mới, những không gian mới cho thơ.” Chu Giang phê phán tư tưởng của Nguyễn Quốc Chánh, tuy nhiên điều này lại không hề liên quan tới Nhã Thuyên bởi cô không quan tâm tới việc phán xét thái độ chính trị của các tác giả đúng hay là sai, lợi hay hại cho sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Nhã Thuyên không thể trả lời câu hỏi nghiên cứu của Chu Giang vì đây không phải là công trình cộng tác giữa Nhã Thuyên và Chu Giang. Chu Giang sẽ cần tự viết riêng một tập tiểu luận khác để phát triển cách nhìn của mình. Những tiếng nói ngầm là sự xử lý hai câu hỏi nghiên cứu chính:
Mối quan hệ giữa nhà thơ về thể chế được gợi ra như thế nào từ những tiếng nói ngầm?
Đâu là những đóng góp mang tính thi ca của những tiếng nói ngầm?
Theo tôi đó là những câu hỏi nghiên cứu có chất lượng – nghĩa là chúng đáng để hỏi và có thể trả lời.
Khi một nhà phê bình tìm kiếm giá trị văn chương của dòng văn học ngầm thì chưa chắc ấy đã là một sự thiên vị bởi càng khát khao nhìn thấy cái hay cái đẹp thì người ta lại càng phải chất vấn những gì mình gặp. Nhã Thuyên chất vấn những tiếng nói ngầm một cách quyết liệt, nhưng không phải là chất vấn về tính đúng sai của quan điểm chính trị. Như tôi đã trình bày ở trên, đó không phải là câu hỏi nghiên cứu Nhã Thuyên đặt ra. Cô chất vấn tính thi ca và diễn đạt những chất vấn của mình với một thứ ngôn ngữ tôn trọng mọi người. Những người chờ đợi một thứ ngôn ngữ nhạo báng dòng văn học chống đối có thể thất vọng, nhưng những người có một số khúc mắc về giá trị văn chương của dòng văn học này có thể tìm thấy những sẻ chia. Nhã Thuyên không chỉ trình bày về các đóng góp của những tiếng nói ngầm mà còn chỉ ra những nguy cơ mà thơ ca phản kháng chế độ có thể rơi vào. Từ những phần viết của Nhã Thuyên tôi nhìn thấy ba nguy cơ chính. Một là phản kháng chế độ có thể bị biến thành một yếu tố câu khách. Nó thỏa mãn sự hiếu kỳ của người đời hoặc có thể tận dụng cho các mưu đồ chính trị. Hai là thơ ca phản kháng có thể không có giá trị thơ ca mà chỉ giống như việc người ta chống đối hoặc ủng hộ chế bộ bằng các hành vi khác. Ba là thơ ca phản kháng có khi cũng chỉ là sản phẩm nô lệ mà thôi. Cô viết: “Có điều, tự do là bất khả nếu chúng ta chỉ là sản phẩm nô lệ, dù ngợi ca hay chống đối…” Ở tiểu luận “Thơ ca của sự phủ định và sự phủ định thơ ca”, Nhã Thuyên gợi ra rằng tính chính trị của thơ ca không thể chỉ hiểu đơn giản là sự quan tâm tới việc chống đối hoặc ủng hộ chế độ. Thơ phản kháng cũng chẳng khác vì những văn bản tuyên truyền mà chính nó ghét bỏ nếu như nó không đạt tới tính chính trị của thơ ca- sự khơi dậy những điều mới mẻ.
Tóm lại, với cách đọc hiểu của tôi, tác phẩm Những tiếng nói ngầm của Nhã Thuyên về cơ bản là một nghiên cứu mang tính chất vấn chứ không phải là một trình hiện những luận điểm ca tụng. Nếu có cái gì đó khiến người ta có thể nhầm lẫn với sự tán dương thì ấy là sự trân trọng tác giả dành cho đối tượng nghiên cứu, sự tìm tòi và nâng niu những giá trị nhân văn.
4. Lời kết
Tác phẩm phê bình của Nhã Thuyên “có vấn đề” có lẽ chủ yếu là vì nó tìm hiểu một chủ đề bị cho là cấm kỵ. Cô nghiên cứu một mảng thơ ca viết bởi những người chống lại các định chế xã hội, nhưng điều đó hoàn toàn không có nghĩa là cô ra sức ủng hộ sự chống chế độ và giải thiêng lịch sử. Lẽ dĩ nhiên người ta có thể lý luận rằng những xúc động của Nhã Thuyên trước dòng văn học ngầm có thể xui khiến người đọc có cảm tình với dòng văn học này và từ đó họ có thể bị tiêm nhiễm những quan điểm, ngôn ngữ độc hại nào đó. Cứ cho là có khả năng như vậy đi thì tôi nghĩ rằng khả năng đó là quá nhỏ. Văn chương của Nhã Thuyên không phải là thứ dễ đọc. Người đọc của cô là những người có học và tự chủ về lập trường chính trị.
Chu Giang và Nhã Thuyên là những người phê bình ở những thế hệ cách nhau khá xa. Trong đời sống chính trị của cả nước, có những chủ đề cấm kỵ thời xưa nay đã được đem ra thảo luận công khai trước Quốc hội, ví dụ như luật hôn nhân đồng tính và đề xuất đổi tên đất nước. Có cần coi dòng văn học phản kháng là một đề tài cấm kỵ nữa không? Về bản chất, dòng văn học này khác với các vấn đề xã hội nêu trên ở chỗ nó công khai chống lại chính quyền hiện thời. Tôi không cho rằng các diễn đàn chính thống của nhà nước cần ủng hộ dòng văn học này bằng cách xuất bản những tác phẩm của nó hay đem vào nội dung giảng dạy của nhà trường phổ thông. Tuy nhiên, tôi cũng không cho rằng cần phải cản trở và loại trừ những nỗ lực tìm hiểu dòng văn học phản kháng hay quy định sẵn rằng bất cứ nghiên cứu nào về dòng văn học này cũng phải nói xấu nó. Chúng ta có thể cần quan tâm tới thái độ chính trị của một người để xét duyệt một vị trí trong nhà trường chính thống, thì ngay cả khi ấy thái độ chính trị Nhã Thuyên thể hiện ở Những tiếng nói ngầm là một thái độ mang tính xây dựng nên được hệ thống trân trọng. Việc cô có một vị trí ở Khoa Văn trường Đại học Sư phạm đem lại môt hình ảnh tốt đẹp về một chính quyền tôn trọng tự do tư tưởng và ngôn luận. Đấy chẳng phải là một thành tựu hay sao?
© 2013 Diên Vỹ & pro&contra

Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín













NHÂN

Thời nào cũng vậy, chữ nhân luôn đặt lên hàng đầu, là quan trọng hơn cả, nó đã là bao quát, là đạo làm người. Dù thời xưa hay thời nay chữ nhân đó vẫn thể hiện trong cách sống của mỗi con người. Cách đối nhân xử thế, tấm lòng của con người giữa đời thường, cũng như vai trò trách nhiệm của mỗi cá nhân trong xã hội.

Chữ nhân trong mỗi người không chỉ là một tấm lòng, tấm lòng yêu thương con người, quê hương đất nước mà còn biết gắn cái riêng của mình vào cái chung của xã hội hiện tại, với sự ràng buộc giữa người với người, bằng những mối liên quan gắn kết.






NGHĨA

Muốn thực hành chữ nghĩa, thì phải noi theo câu: “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhơn”. Những việc gì ta chẳng muốn ai làm cho ta chịu đau khổ thảm sầu thì ta không nên đem các điều ấy mà làm cho người khác, mới là trọn nghĩa.

Chữ nghĩa bao hàm rất lớn thay. Như là nghĩa cha con, nghĩa thầy trò, nghĩa chồng vợ, nghĩa anh em cốt nhục đồng-bào, nghĩa bằng hữu chi giao, ấy là ngũ-luân chi đạo. Mọi sự đều phải có nghĩa, thì mới đủ tư-cách làm người cao trọng.

Chữ nhân và chữ nghĩa thường đi đôi với nhau, cho nên trong Kinh Sám Hối có 4 câu dạy rằng:

Làm người nhân-nghĩa xử xong,
Rủi cho gặp lúc long-đong chẳng sờn.
Làm người nhân-nghĩa giữ tròn,
Muôn năm bóng khuất tiếng còn bay xa.

Nghĩa ở đây thể hiện vai trò, trách nhiệm của con người với người, giữa người với đời, với xã hội hiện tại. Sống ở đời cần có một trách nhiệm với đời, cũng chính vì vậy mà cần có nghĩa, sống có trách nhiệm với quê hương đất nước, với gia đình, với anh em bằng hữu cũng là nghĩa. Biết trả ơn khi mình đã nhận được những điều may mắn trong cuộc sống – đó cũng là nghĩa. Tại sao có nhiều người luôn biết quan tâm giúp đỡ mọi người trong xã hội, làm từ thiện tri ân với đời… cũng vì họ sống có nghĩa với đời, với cuộc sống hiện tại, họ biết cho khi đã nhận.

Nghĩa cũng là sống cho mọi người chứ không chỉ sống cho riêng cá nhân mình.

LỄ




Xem qua cách hành xử, ứng xử cùng với những nghi thức, lễ nghi đúng thủ tục, hợp lòng người trong cuộc sống đương thời mà qua đó xã hội đánh giá đến sự hiểu biết của một cá nhân, phải đạo với trời đất, hợp đạo với đời.

Con người có thể sống cao thượng, phẩm giá được tôn quí là do nơi biết giữ lễ, còn bị tội lỗi làm mất tư-cách con người, thiên-hạ chê bai khinh bỉ nhục-nhã, là do nơi thất lễ.

Nếu đánh giá một con người, một gia đình mà chỉ xét qua cách hành lễ nghi thôi không xét về nghĩa thì quả là thiếu sót. Bởi có nhiều người trong xã hội hàng ngày hành sự có thừa lễ nghi nhưng nghĩa thì lại thiếu.

TRÍ




Nếu muốn làm được việc nghĩa thì phải có trí, phải có một sự hiểu biết nhất định ở xã hội. Có nhân, có nghĩa mà không có trí thì chẳng khác nào một người lính ra trận chỉ có áo giáp mà không có gươm, đao, chỉ bảo vệ được mình mà không bảo vê được người khác. Sống ở đời nếu chỉ sống cho riêng ta thì đơn giản quá, mà muốn giúp đỡ được người khác tất mình phải có tài, có hiểu biết.

Trí là một sự hiểu biết, người không trí, không hiểu biết thì quả là một thiệt thòi lớn, có thể nói người không trí không làm được gì cả. Nếu như ngày xưa đánh giá chữ trí của một con người qua sự hiểu biết về đạo quân tử, triết lý Khổng giáo, Lão giáo hay Phật giáo thì ngày nay ngoài sự hiểu biết về lĩnh vực văn hóa xã hội, triết học thì cần có một sự hiểu biết về khoa học tự nhiên, bước sang thế kỷ XXI, với cuộc sống hiện đại, thông tin chóng mặt thì điều đó là cần thiết. Hiểu biết nhiều có thể làm được nhiều việc có ích với đời nếu người đó có nhân, có nghĩa trong tâm.

TÍN

Chữ tín là bằng hữu của uy tín, thủy chung trước sau như một, không thay lòng đổi dạ, dù hứa hẹn một việc nhỏ cũng chẳng sai lời, mới gọi là người biết giữ uy tín.

Chữ tín trong cuộc sống hàng ngày rất quan trọng, dù thời xưa hay thời nay thì sống ở đời mọi người cũng cần có một uy tín nhất định trong quan hệ với mọi người xung quanh. Thời xưa cái uy tín với bạn bè luôn được đánh giá cao, uy tín đó sẽ gây dựng được lòng tin, mọi người tin tưởng sẽ dễ dàng được mọi người giúp đỡ trong cuộc sống. Nói thì phải làm, sống trung thực với mọi người, với bản thân.





Ngày nay cũng vậy cho dù anh có tài nhưng không có được uy tín thì cũng chẳng ai theo, muốn được người khác giúp đỡ thì bản thân mình phải giữ được lòng tin trước mọi người, chưa nói đến trong quan hệ làm ăn ở xã hội, chữ tín cái uy tín trong công việc luôn đặt lên hàng đầu, quyết định đến sự thành công.

Nói chung, Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín luôn có sự gắn kết với nhau, làm con người mà thiếu đi một cũng không được. Như bài thơ sau:

Người không có Nhân thì sẽ thành kẻ độc ác.
Người không có Nghĩa thì sẽ thành kẻ bội bạc.
Người không có Lễ thì sẽ thành kẻ vô phép.
Người không có Trí thì sẽ thành kẻ ngu ngốc. Người không có Tín thì sẽ thành kẻ giả dối.

Thứ Năm, 8 tháng 8, 2013

Địa Đàng Đã Mất



Giáp Văn



Ta đưa em đi tìm địa đàng đã mất
Tìm lại ngày xưa hoa lá cỏ cây
Nhưng chỉ thấy:
Dòng suối khô trên khuôn mặt em gầy
Và cây táo giữa vườn không ra quả.

Ta về:

-Đưa em lên đỉnh núi cao
Mây trôi gió cuộn
Thăm thẳm vực sâu
Nụ hôn rơi không chạm đáy.

-Đưa em vào chùa
Tụng kinh gõ mõ
Tiếng khóc hờ văng vẳng mái tam quan.

-Đưa em về quê
Đào ao thả cá
Cuốc đất trồng rau
Một bầy con lít nhít.

Ta đưa em đi suốt một đêm thâu
Qua bầu trời sao bồng bềnh cổ tích
Em ngồi tựa canh ba
Ta nằm ta hát:
Ừ...ơi...
"Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi".

___

Thứ Tư, 7 tháng 8, 2013

MÊ MUỘI



3.XUÂN SỚM

 
Lác đác trên cành mai nở vàng
Lơ ngơ hiu lạnh ngỡ Xuân sang
Tóc thêm sợi bạc đời thêm chán
Sương rơi lệ trắng mộng võ vàng
Nửa đời lang bạt duyên tao ngộ
Một giấc tang bồng phận vỡ tan
Trước thềm năm mới buồn tan tác
Dưới cội mai gầy sầu phủ vàng



7.TƯƠNG TƯ

Chỉ cần một cái gật đầu
Em đã về làm dâu xứ lạ
Bỏ lại sau lưng tất cả
Hình ảnh quê nhà hanh hao.
Trăng vẫn treo mãi trên cao
Có bao giờ giơ tay hái được.
Chỉ cần một cái gật đầu
Em đã vứt bỏ nỗi sầu thâu đêm
Trăng trêu bóng ngã bên thềm
Mà nghe ran rát nỗi niềm cô đơn
Đời người vẫn mãi thiệt hơn
Tình yêu sao vẫn dỗi hờn truân chuyên.

Chỉ cần một cái gật đầu
Em tôi tan biến còn đâu
Thơ tình tôi viết từ lâu
Thôi đành gói lại xỏ xâu treo giàn
Một mai ai có ghé ngang
Mà xem con chữ xếp hàng đắng cay


9.


MỘT CHÚT NIỀM VUI TRONG MẮT NGƯỜI


Nỗi buồn người trả cho tôi
Tôi đành phải gửi niềm vui trả người...


Nhận buồn tôi ngắn lên hoa
Hoa mua ở chợ cắm trong nhà
Mới được vài ngày hoa rời rã
Tôi đành lếch thếch tập trồng hoa.


Trồng hoa mới biết khổ như là...
Trái gió trở trời vàng vọt đeo
Đủ sương đủ nắng xanh mượt má
xum xuê cành lá chẳng thấy hoa.


Chán cái sự trồng thơ lại ra
Thơ bay tứ tán khắp cả nhà
Nhặt lên chỉ thấy buồn vênh váo:
Tôi đây đích thực ngài đẻ ra.


Phải chi buồn là ngọc là ngà
Tôi sẽ quét nhà gom lại bán ra
Có ai cao hứng mua buồn hả
Tôi sẽ giàu hơn tỷ phú đô la.


Đô la chưa có tôi lại ở nhà
Buồn rơi cặm cụi bón luống hoa
Bao giờ hoa nở tôi đem đổi
Một chút niềm vui trong mắt người

10 .

11. 



13. 

16. 

17. MỘT MAI EM ĐI

Một mai em đi
Đêm còn lại câu thơ
Giăng giữa trời mơ nhịp cầu thương nhớ
Trăng trước ngỏ vẫn còn lấp ló
Như mắt em nhìn hờn dỗi vu vơ?

Từ độ yêu em ngày như xa lạ
Đêm bồi hồi đợi bóng em qua
Con đường nhỏ trở mình thênh thang quá
Theo em về ngơ ngác cả dòng sông

Em nào biết tôi vẫn đợi vẫn trông
Tiếng còi tầm tan ca buồn vụng dại
Em vẫn đó bước chân dài bương chải
Biết bao giờ thôi gầy guộc bờ vai?

Tôi vẫn kẻ muộn màng khờ khạo
Dõi theo em hoang hoải cả bến bờ
Đem yêu thương treo giữa trời chờ đợi
Em đi rồi chỉ còn lại nhịp cầu mơ

18. 

19..

20. TÔI YÊU MÙA ĐÔNG

Em hỏi tôi thích mùa nào nhất
Tôi trả lời chỉ yêu mỗi mùa Đông
Bởi đông về gió lùa lạnh cóng
Tôi sẽ rất cần hơi ấm của em.


21. 

22. Người đàn bà bí ẩn

Vạch một đường chân trời trên cánh đồng tâm hồn phân ranh sự sống.
Đóng một cây cột niềm tin chất ngất treo trái tim yêu thương.
Tôi lặng lẽ nhìn thời gian từng ngày chậm chậm rơi nối nhau oằn lại
Trên dòng đời bình thản đi qua như một cơn gió mềm mại hiền lành
Và tôi đã có em
Người đàn bà bí ẩn




25. NGÀY - ĐÊM
Ngày ngắn
Đêm dài
Thân phận
Chia hai

Nửa ngày
Mặt phấn
Nửa đêm
Mắt trắng

Ngày nắng
Lòng lạnh
Đêm vắng
Hồn sầu

Chim đậu
Đất lành
Trơ cành
Thu đi

Cười khi?
Tình mất
Khóc chi?
Xuân về

Em mê
Trái ngọt
Anh kề
Môi say

Đêm dài
Ngày ngắn
Tay trắng
Tình thay

Còn ai...?

26. 
27. SAY

Xị này, xị nữa
Mửa rồi lại mửa,
Say rồi lại say.
Ta ngồi quán cốc
Độc ẩm chờ ai.

Mửa rồi lại mửa
Say rồi lại say
Xị này, xị nữa
Độc ẩm chờ ai.

Say rồi lại say
Xị này, xị nữa
Mửa rồi lại mửa
Quán cốc chờ ai.

Xị này, xị nữa
Say rồi lại say
Mửa rồi lại mửa
Ta ngồi chờ say

28. 

29. CON ĐƯỜNG TÔI ĐI 


Con đường tôi đi
Có bao ghềnh thác
Tình có là chi
Nơi sa mạc cát.

Cửa hang tự do
Há miệng tan hoác
Phía đông trời nhạt
Trời treo hững hờ

Con đường tôi đi
Qua bao đợi chờ
Bước trong vần thơ
Một đời ngu ngơ...

30…









33- TRONG KHOẢNH KHẮC CHIỀU BUÔNG


Lòng quặn thắt mỗi khi chiều buông
Em nấn ná trên con đường qua lại
Mỗi ngày em đi
Sao vẫn mãi lạ xa

Lạc lõng nơi băng chờ em gọi vào giấc mộng
Nước mắt chực trào khi nghe tiếng vọng xa xôi
Em thầm mong con tàu đừng đến vội
Đường dài ra cho cái lạnh thêm vơi

Biết bao chiều
Và biết bao chiều
Hoàng hôn đè nặng
Nước mắt lặng rơi theo từng bước lẻ loi
Thương một người …
Thương một đời…buông trôi

Đêm đổ chụp
Ngôi nhà bình yên tràn bóng tối
Em lại về tìm kiếm kỉ niệm xưa...
Một cơn mưa bảo hạ
Dồn dập bờ da
Rách toang khóe lệ
Vỡ òa đơn côi
Cuốn phăng vũng tối
Tràn dòng hồi sinh

Cơn mưa tình ngày xưa
Có bao giờ trở lại
Em bước vào khoảnh khắc
Vũng hoang buồn cô lạnh giữa đêm xuân


34- TÌNH LÃNG TỬ

Ngày lại ngày
Tháng lại tháng
Năm lại năm
Vẫn tím bầm
Trái tim câm

Từng giọt thầm
Rơi lại rơi
Vỡ rồi vỡ
Bến bồi lỡ
Trái tim hở

Nhắm rồi mở
Mơ rồi mơ
Chờ đợi chờ
Hồn ngu ngơ
Đời lãng tử

Chữ nối chữ
Vần nối vần
Câu tiếp câu
Bước qua cầu
Bờ vực sâu

Có gì đâu
Đáy mộ sầu
Vết thương khâu
Tình cuối đầu.


35- Rượu đời

Chén rượu đời
Đêm đêm trắng
Ta uống từng ngụm, từng canh
Đắng như thuốc đắng giả tật
Chua như em vốn dối gian
Cay như bạn bè ngoảnh mặt
Chát như thơ đem rao bán
Ngọt như môi kỹ nữ mời
Mặn như nước mắt mẹ cha
Bùi như hơi thở quê nhà

Nồng như ta lại với ta.
Đắng cay, chua chát, ngọt bùi
Mặn nồng một chén rượu đời ta say
Ta say ta mửa đêm ngày
"MỘT ĐỜI HƯ-THỰC" còn dài mấy trang ?./







39. 
40…Nước mắt

Những giọt nước mắt
Thấm đẫm bờ vai
Trái tim nhiễm mặn
Bờ vai khô cằn

Nước mắt đến
Lại đi
Nhiều khi
Lầm lỗi
Trái tim bổi hổi
Tự hỏi
Nước mắt qua mau
Tim khô cạn máu

Nước mắt lại đến
Rồi đi
Còn lại gì
Bờ vai gầy héo
Tình yêu

Những giọt nước mắt
Rát bỏng bờ vai
Trái tim tan chảy
Muộn màng phôi phai


41.

42..

43. TRÁCH


Ai khơi thơ tạo dòng nước mắt
Đưa thuyền tình về với biển quên
Ai thổi gió buộc cành lay lắc
Mang thu về đưa nỗi nhớ bay

Ai buông tay cho bóng đổ dài
Vẽ ngăn cách trên đường dĩ vãng
Ai thả mộng vào thu lãng đãng
Trả sầu về tư lự đêm sâu

Ai quăng câu bên bờ hy vọng
Móc vào tim bảy sắc cầu vồng
Ai xới mộ thả hồn bay bỗng
Chạm sao trời cháy rụng đời tôi


44. 

45. MỜI RƯỢU

Này em hãy liệm
Nỗi buồn chán chê
Vào vòng tội lỗi
Cơn say đam mê

Hãy uống cạn ly
Chớ đừng lần lữa
Đời người mấy khi
Được lần phạm tội
Cớ gì ủ ê
Khi rượu ê hề
Trong tình thấm đẫm
Máu còn rần tê


46….CHỜ HOÀNG HÔN

Chờ thời gian chầm chậm buông rơi
Anh ánh hoàng hôn buổi chợ đời
Người xa lạ về nơi quán đợi
Nhớ cố hương mòn mỏi, rã rời
Mong chiều tím sắc màu lơi lã
Hy vọng đêm về bớt lẻ loi
Hoài niệm tình xưa sao da diết
Bến đổ bây giờ có đơn côi?
Cuộc đời thay đổi ai nào biết
Cuộc sống sông hồ bạc như vôi!
Tình yêu một thuở rơi màu đắng...

47. MỘNG DƯỚI TRĂNG

Gọi ánh trăng vàng soi sáng đêm
.Đưa sương lên lá uống môi mềm.
Tay nâng bầu ngực trời xanh biếc.
Chân bước lên đồi đón gió êm.
Tình, đến bên thềm khều nhẹ cửa.
Yêu ,về cạnh trướng thả buông rèm
.Bướm hoa thức giấc sương lãng đãng.
Ta em vào mộng đắm đuối đêm

48. 
49. SÓNG TÌNH

Lênh đênh trời biển lạc bến bờ.
Tang bồng thỏa chí thả hồn thơ.
Tình ai giăng lưới theo con sóng
Mắc phải câu thơ vướng đợi chờ
Thơ rơi thấm mặn cô đơn vỡ
Thuyền neo ở lại giữa trời mơ




51. 

52. Giọt mưa thu

Một giọt mưa sầu rơi vào mộng
Ngập lối đam mê sũng kiếp người
Em đi thả lại phao gian dối
Bám víu hồn côi lạc bến bờ
Dòng yêu chảy ngược quay vũng tối
Nuốt trọn niềm tin xuống đáy chờ
Đau thương sủi bọt hơi trăn trối
Đón giọt mưa thu lá vàng trôi

53. TIẾNG ĐÀN

Em ơi có nghe!
Những nốt trầm da diết
Cơn mưa đêm mải miết
Gãy vào sợi nhớ mong
Soi bờ tình xói lở
Cồn cào một khúc sông

Em có nghe mùa đông
Trên nốt thăng khờ dại
Xuyên thẳng vào mưa giông
Tiếng đàn rơi bên song

Em ơi, có nghe không?
Nỗi sầu dâng mênh mông
Thăng trầm giai điệu nhớ
Lời tình ca như không!

Trăn trở một dòng sông
Bồi lở nốt thăng trầm
Tiếng lòng ai âm thầm
Gieo vào chốn hư không...


54. 


55.SẼ KHÔNG CÒN...

Sẽ không còn màu hoa phượng đỏ
Giữa chói chang đốt cháy xác ve sầu
Sẽ không còn úa vàng màu gió
Ướt mềm theo nức nở lá rơi

Sẽ không còn cành khô buốt giá
Chọc thẳng trời xé toạc đơn côi
Sẽ không còn hương trinh rờn rợn
Nứt nẻ dòng đời tiếng khóc hồi sinh


56. MỘNG

Có những lúc tôi nằm mộng
Tôi thấy mình bay bỗng
Cánh là đôi tay
Tự do tôi vun vút bay trên bầu trời xanh trong

Có những lúc tôi nằm mộng
Tôi thấy mình sợ hãi
Chắp đôi tay bái lạy
Xin lỗi bầu trời, xin lỗi tôi

Có những lúc tôi nằm mộng
Tôi ôm em vào lòng
Môi bấu môi cháy bỏng
Em tan vào hư không

Tôi có thể cùng em hy vọng
Có thể cùng em xây đắp ước mơ
Nhưng tôi nào có thể chia sẽ cho em giấc mộng của tôi
Dù tôi có thể trao cho em sự sống của chính mình.

Mộng là ảo
Đời tôi là thật
Xin em đừng cầu vọng
San sẽ giấc mộng của tôi

57. 



59. CHÁN
Tôi chán đọc một bài thơ kéo dài buồn lê thê
Chán xem vỡ hài kịch với nụ cười lề mề
Chán nghe một bài nhạc giai điệu mơ hồ lỏng bỏng
Chán ngắm bức tranh bút màu lóng ngóng.

Tôi chán ánh nắng mặt trời cáu gắt
Chán cơn mưa chiều đến đi tất bật
Chán những vì sao đơn điệu chớp tắt
Chán con sông dòng nước vật vờ

Tôi chán lời ngọt ngào không biết mệt
Chán sự lặng im vờ vịt lê lết
Chán tiếng chông chùa đổ vào tội lỗi
Chán lời cầu kinh sám hối đãi bôi

Tôi chán ánh sánh chói lòa đôi mắt
Chán bóng tối dò dẫm lần mò
Chán phải nhận những gì tôi không tự có
Chán tình yêu cứ mãi đem cho

Tôi chán bởi không còn gì để chán
Nên tôi đành phải chán chính tôi.!


60.
61. SÔNG VÀ BIỂN

Hàng triệu triệu năm
Trái tim biển vỡ
Nước mắt biển rơi
Hóa muôn suối nhỏ

Nỗi buồn bỏ ngỏ
Suối tụ thành sông
Một đời gánh nặng
Tìm về biển đông

Sông lạc vào đầm
Nỗi buồn đặc quánh
Sông thêm cô quạnh
Trôi vào hồ sâu

Dòng sông về biển
Nỗi buồn vỡ òa
Yêu thương biển khóc
Mưa đời mặn môi

Hàng triệu triệu năm
Trái tim biển vỡ
Dòng sông chuyên chở
Nỗi buồn trong nôi

Dòng đời tôi trôi
Bao giờ về biển?
Em và tôi
Bao giờ gặp lại!

62…

63 . SÀI GÒN CHIỀU MƯA

Sài gòn nhòe trong mưa
Tôi dầm trong nỗi nhớ
Bước chân vừa kịp trễ
Đón em về bên tôi...

Sài gòn chiều mưa giăng
Ngọn gió về cuồng dại
Cuốn phăng mảnh tình bay
Say miền xa vời vợi.

Buồn dâng lên phố đợi
Đường thương bỗng hóa dài
Gió và mưa cắt giá
Tôi điên điên một ngày...

Trái tim màu tím tái
Tình rơi vỡ nát tên...
Đời quên theo chân bước
Bậc thang nào đi lên.

Giật mình chuông tin nhắn
Cứ ngỡ tiếng chim di
Nhưng chỉ là quà tặng
Khúc nhạc dòng sông đi…

64- 
65. MƯA PHỐ

Mưa rơi phiền muộn phố đẫm buồn
Cà phê từng giọt lạnh lẽo buông.
Ngoài kia nỗi nhớ so vai lạnh.
Quán vắng tôi ngồi khói thuốc tuôn.

Tình yêu vừa rớt mằn mặn môi.
Chênh chao con phố nhão nhuộc rồi.
Cà phê ngậm đắng tim nhoi nhói.
Vội vả trong mưa một bóng người.

Vỡ từng bong bóng vỡ yêu thương.
Khói lòng lan tỏa lạnh hơi sương.
Một cơn gió nhẹ khêu khắc khoải.
Người đến cùng tôi sợi tóc vương.

Đường thương một thuở tôi ngồi mong.
Đếm mưa từng hạt gặm nhấm lòng.
Có ai đón lấy trời tâm sự.
Khói vẽ tình tôi giữa hư không.

Mưa kéo màn đêm thật muộn màng.
Chiều còn đưa tiễn bóng người tan.
Đèn đường nhấp nháy tô xao xuyến.
Ưng ửng hồn tôi phố bẽ bàng

66. TRĂNG LẠNH

Trăng ở trên cao
Hạnh phúc khuyết tròn
Huyễn hoặc đêm
Huyễn hoặc tôi

Trăng tròn hạnh phúc
Đêm hừng hực
Tôi hứng buồn rơi
Rót đầy khao khát

Trăng buồn khuyết nữa
Đêm trắng lạnh
Hồn tôi hoang vắng
Nẩy cành đơn côi

Em ở trên cao
Buồn vui mái ấm
Tôi sầu mơ mộng
In bóng dòng sông

Chảy vào mênh mông
Vầng trăng khát vọng
Trôi vào tuyệt vọng
Đời tôi- đời sông

67- EM-NGƯỜI ĐÀN BÀ CỦA TÔI

Em- nhiệm mầu như một nàng tiên luôn xuất khi tôi cần
Em-hiền lành như Phật sau mỗi lần tôi gây tội
EM-dịu dàng như mẹ khi tôi trở về sám hối.

Khi tôi say em lè nhè như bạn
Khi tôi đắm đuối em nồng nàn như một người tình
Khi tôi chết em gục khóc trên mình.

Em- Người đàn bà của tôi

68. QUẦN LỌT KHE

Bão đổ về rậm rập
Gió thổi tung hất váy
He hé quần lọt khe
Phận đàn bà em che

Sang - hèn cũng một kẽ
Buồn - vui cũng một khe
Giấu hai bờ thương-nhớ
Quần lọt khe em che

Phận đàn bà nứt nẻ
Đau đớn đời chia sẻ
Quần lọt khe em che
Chờ quân tử em khoe

69. BUỒN

Buồn như đã chín trên cành
Sao em không hái để dành tặng tôi
Mùa thu đưa gió gọi mời
Em về nhặt lá vàng rơi gói buồn

70…Chiều Thu

Trời buồn buông rũ ráng chiều
Đời tôi cũng ngã chân trời cô liêu
Bình yên em giữ bao nhiêu
Lòng tôi lạnh rát bao điều xót xa

Giọt tình khóe mắt rơi ra
Thấm trên da thịt mặn mà trầm kha
Máu tim nào đã phôi pha
Nhớ thương u uất bài ca nghẹn lời

Mộng tưởng.. hề …mộng tưởng…
Đam mê… hề…đam mê…
Tang bồng hồ thỉ…hề… cô viên tịch…
Hồ trường cạn cạn…hề…ngọc đá tan

Chân trời chiều vạch đường ngang
Lá thu trải thảm ươm vàng biệt ly
Trăng non in dấu tình si
Thả vào sướng sớm đường đi cuối chiều

Bình yên em giữ được nhiều
Chân trời tôi đứng mỹ miều chiều thu




71

.. SỰ CHẾT






Niềm vui không về
Nỗi buồn bỗng nhiên biến mất
Tôi thấy mình như không tồn tại
Trống rỗng đôi vai


Tôi nhìn mùa thu phai
Thả lá vàng vương vãi
Từ bi quay quắt
Vô tình sắp đặt vào tay
Sắc tím dịu dàng
Hoàng hôn mắt biếc


Mơ hồ sự chết
Đẹp tựa câu thơ
Trăn trối đợi chờ
Tái sinh hạnh ngộ


Tôi thổi chiếc lá vàng bay
Bước chân tỉnh thức
Cực cùng đê mê



72. ĐIỆP KHÚC TÌNH THU


Lá vàng rơi nhẹ
Chạm  bình yên
Đánh thức dòng sông yên ngủ
Sóng gợn xót xa
Đời lá…
Đời ta…
Tình thiên thu…
Đường miên du…
Mùa Thu!

Ngôi nhà cũ
Nỗi nhớ cũ
Rêu phong phũ
Ánh xanh  tơ dưới nắng chiều hoang
Vẽ đẹp điêu tàn
Sự sống…
Rơi một giấc mơ
Đậu vào chiếc lá
Úa vàng
Tình ta!

Người xa
Ân ái nào phôi pha
Vàng- xanh tương phản
Ngỡ ngàng
Điệp khúc tình thu
“ Trăm năm…trăm năm ta gửi vào đời
Mảnh tình xinh…  xin tặng …riêng người đợi ta
Gãy một cung đàn…
Đánh nhịp yêu thương…
Du ca hời…du ca hỡi…
Trên cánh đồng bình yên…”


73.      

74.      

75.      




76.     

77.      SAO CÒN CHƯA SAY ?


Sao còn chưa say?
Đốt cháy hình hài
Giấc mộng thiên thai
Kiếm tìm trang trải

Rượu tràn chân mây
Sao còn chưa say?
Bóng ngả đêm dài
Tình đã buông tay!

Hương cỏ thơm bay
Dại khờ ở lại
Sao còn chưa say?
Thu vàng nợ vay

Câu thơ bẻ gảy
Hút giọt đắng cay
Mùa hoa Cúc dại
Sao còn chưa say?

Giữa đời tàn phai
Cạn đêm, cạn rượu
Đọa đày luân lưu
Sao còn chưa say?

Khép lại bờ vai
Tròn vừa nỗi nhớ
Sao còn chưa say?
Duyên thừa lắt lay

Trăng lạnh héo gầy
Sao còn chưa say?
Cô đơn về đây
Bước chân tự tại

Sao còn chưa say?


78.      TÓC BẠC


Tôi một đời ngay thẳng
Đâu cúi luồn để được lợi danh
Nên nỗi buồn chất vào tim đặc quánh
Theo máu đi tẩy từng sợi tóc đen

Tôi nào đâu dám bon chen
Đợi đêm về nhổ từng sợi bạc
Trên môi nhạt nụ cười cũng lạt
Sao tóc tôi lại bạc trước tình tôi?

Tôi còn gì để được em yêu
Ngoài những sợi tóc bạc khoe cùng đêm tối
Kết thành thơ chờ sao rơi chung lối
Đợi em về tóc tôi bạc đã hóa thành đen


79…ĐỐT CHÁY ĐỜI SÔNG


Cuộc đời tôi là một chuỗi dài thất bại
Khi vụng dại gieo ân tình không cần lấy lại
Cho đến hôm nay tôi chỉ còn lại đôi tay
Cho đến một ngày tôi chấp nhận nợ vay
Ân tình em trao oan trái
Để yêu em với tình yêu bốc cháy
Tan chảy cõi lòng.

Từng đêm nướng xác thân tạm bợ
Từng đêm nung trái tim nghẹn thở
Từng đêm nấu tâm hồn sục sôi nức n
Từng đêm phá vỡ lỡ ngỡ câu thơ

Tôi yêu em người đàn bà ảo tưởng nồng nàn
Tôi yêu em người đàn bà khát khao cùng cạn
Tôi yêu em người đàn bà khói sương lãng đãng
Tôi yêu em người đàn bà chạng vạng đa mang

Tôi yêu em người đàn bà lầm lỗi
Tôi yêu em người đàn bà cô đơn trong chăn gối
Tôi yêu em người đàn bà gian dối
Tôi yêu em người đàn bà sám hối mong manh

Tôi yêu em niềm tin đốt cạn
Trả nợ ân tình lấp lối nghĩa trang
Tôi yêu em tàn tro cháy sáng
Dẫn bước thiên đàng chắp cánh ước mong

Tôi đâu còn gì để mơ mộng
Tôi đâu còn gì để đợi trông
Tôi đâu còn gì để  cô đơn sống động
Tôi chỉ còn ngọn lửa tình yêu nóng bỏng đốt cháy đời sông…


  1.  





 

Thơ Haiku



1
Mưa đổ tràn
Tóc em
Bật khóc



2
Là Hiền
Môi son khô khốc
Nắng vẫn cười

3
Cỏ dưới chân
Hoa trên tay
Mắt hát

4
Chào anh yêu
Sóng đã vỗ ngực
Em ngủ yên

5
Băng qua mùa hè
Nụ hôn rớt lại
Thu vắt qua

Đinh Thu Hiền 07-2007



Thứ Ba, 6 tháng 8, 2013

Mùa Thu Trong Tình Ca Việt Nam



"Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường… Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và đầy giá lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm Nay Tôi Đi Học..." Tôi còn nhớ mãi bài "Tôi đi học" của nhà văn Thanh Tịnh hồi mới lên trung hoc đệ nhất cấp. Do đó mùa thu vẫn là đề tài được bàn tán muôn thủa bởi những nhà văn, nhà thơ hay những nhạc sĩ trong kho tàng văn chương hay âm nhạc Việt Nam . Người ta ca tụng mùa thu, bối cảnh mùa thu được dàn dựng trong những tác phẩm của họ như những không gian lá vàng rơi hay những chia ly buồn bã. Tôi yêu mùa thu từ bản chất, yêu cả những bản nhạc mùa thu. Trong khuôn khổ hạn hẹp của bài này, tôi cố gắng đưa ra một số bài tiêu biểu của những nhạc sĩ đã sáng tác những tác phẩm về mùa thu. Tôi vốn thích bản thu ca tiền chiến của nhac sĩ Đoàn Chuẩn - Từ Linh. Cuối thập niên 50 khi tôi còn học tiểu học, thầy giáo của tôi di cư từ miền Bắc vào. Ông có một tâm hồn nhạc sĩ, chính ông đã để lại trong tôi một ấn tượng thật tuyệt vời của một mùa "Thu quyến rũ":


"Anh mong chờ mùa thu

Trời đất kia ngả màu xanh lơ

Đàn bướm kia vui đùa trên muôn hoa

Bên những bông hồng đẹp xinh

Anh mong chờ mùa thu

Dìu thế nhân vào chốn thiên thai

Và cánh chim ngập ngừng không muốn bay

Mùa thu quyến rũ anh rồi …"


Thu Quyen Ru-Anh Tuyet
http://www.youtube.com/watch?v=DJHeid5m2hQ&feature=related


Sao em biết mùa thu không trở lại..Nghieu Minh

http://www.youtube.com/watch?v=bEKTA7xeDac






Khi người ta yêu nhau thì mọi thứ đều từ thiện, người ta sẽ cho nhau tất cả, từ những tháng ngày, những tặng phẩm quý báu, cho con tim, cho nhau kỷ niệm, ... với nhạc sĩ Ngô Thụy Miên, ông cho người tình cả một bầu trời mùa thu tuyệt vời về nhạc và lời ca . Bài "Mùa thu cho em" được ra đời năm 67. Chính bài ca này đã đánh thức tôi những cái đáng yêu của một mùa thu tình ái:


" Em có nghe mùa thu mưa giăng lá đổ

Em có nghe nai vàng hát khúc yêu đương

Và em có nghe khi mùa thu tới

Mang ái ân mang tình yêu tới

Em có nghe, nghe hồn thu nói

Mình yêu nhau nhé ..."


Mùa Thu Cho Em
http://www.youtube.com/watch?v=ByFnjjhqMVg


Mùa thu là mùa của nỗi buồn, của chia tay, của những mối tình dang dở. Ở tuồi còn đi học, những nam sinh vẫn có những kỷ niệm đến đứng ngẩn ngơ ở cổng trường con gái như những cửa trường Gia Long, Nguyễn Bá Tòng, Sương Nguyệt Ánh hay Trưng Vương. Để rồi "Em tan trường về, mưa bay mờ mờ, anh trao vội vàng chùm hoa mới nở, ép vào cuốn vở”. Người con gái như đóa hoa hồng, hoa pensé, hoa mimosa hay hoa phượng hồng như môi em. Một nụ hôn đầu ngất ngây để rồi nhung nhớ mãi mãi về sau.

Mùa Hạ đến rồi mối tình chia ly vì lý do nào đó… Để rồi khi sang mùa thu, mùa tựu trường cô gái Trưng Vương nhìn lá vàng rơi ngoài đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, theo gió heo may vi vu để nhớ đến người bạn trai xưa với nụ hôn đầu nồng nàn. Nhà thơ nữ Nguyễn Thị Lệ Thanh đã sáng tác bài thơ "Trưng Vương, khung cửa mùa thu", và nhạc sĩ Nam Lộc đã soạn thành một ca khúc ghi dấu những mối tình nhẹ nhàng, nỗi bâng khuâng, những xao xuyến của tuổi học trò:


"Tim em chưa nghe rung qua một lần!

Làn môi em chưa hôn ai cho thật gần

Tình trần mong manh như lá me xanh Ngô ngác rơi nhanh

Thu giăng heo may che bóng cây lạnh này

Người cho em nghe câu nhớ thương từng ngày…

Người mang cho em quen môi hôn ngọt mềm

Tình cho tim em rung những đêm lạnh lùng…

Nắng vấn vương nhẹ gót chân

Trưng Vương vắng xa anh rồi

Mùa thu đã qua một lần

Chợt nghe bâng khuâng lá rơi đầy sân...”


Trung Vuong Khung Cua Mua Thu
http://www.youtube.com/watch?v=QqwcJGPtquo

Mùa thu của những tình tự yêu đương, đã lôi cuốn người nhạc sĩ đã dùng bối cảnh thu ca như trong nhiều tác phẩm của ông về mùa thu, Phạm Anh Dũng đã tâm sự những nồng nàn, những cụm từ truyền cảm của ông qua bài "Gọi mùa thu mơ"


"Anh gọi mùa thu mơ

Một sớm thu sương mờ

Nai vàng đạp trên lá

Bước từng bước xa xa...

Anh gọi mùa thu mơ

Trời sớm sông không bờ

Lá vàng rơi lác đác

Dịu dàng cơn gió bay

Anh hẹn mùa thu sang...


Gọi Mùa Thu Mơ (Phạm Anh Dũng) Xuân Thanh

http://www.youtube.com/watch?v=fB9K5g_PgtM





Mùa thu để chúng ta ru người tình. Khi mùa thu tới người nhạc sĩ hát khúc thu ca để dìu người yêu vào giấc điệp bình yên, Đức Huy đã ru người tình của mùa thu như sau:


"Hôm mùa thu gió hát bài ca cũ

Mùa thu lá vàng bay

Anh ru em ngủ

Bài ca dao ta vẫn hát khúc ấu thơ

Nắng vàng ấm suối nước dệt mây thu

Ngập ngừng trôi giấc mơ

Anh ru em ngủ

Dài cơn mê thương yêu ấy

Những ngày còn ái ân..."


Còn mùa thu của Từ Công Phụng thì như thế nào? Ông ru người yêu về với mùa thu dịu dàng, du dương với những lối ru nhẹ nhàng, dấu yêu của mây ngàn bay, hãy nghe bài "Mùa thu mây ngàn":


"Buồn vương mây ngàn giăng khắp lối

Mùa thu bơ vơ đến bên trời

Ru tóc em suối nguồn

Gọi hồn trong gió thu buồn

Ngày mai chúng mình xa nhau rồi

Cầm tay em nhìn sao không nói ..."


Mùa Thu mây ngàn - Tuấn Ngọc & Thái Hiền

http://www.youtube.com/watch?v=oO0Nt9q92Gg

Tuần rồi tôi tình cờ được nghe bài "Dáng thu", người nhạc sĩ đã âu yếm so sánh vẻ đẹp kiều diễm, đài các của mùa thu như người thiếu nữ trong những dòng nhac thu ca . Nhật Vũ đã dìu người tình qua vũ điệu Tango:


"Dáng thu vơi buồn như thương nhớ ai

Dáng thu về đây mùa thu ơi ai có hay

Ta vẫn ngắm mây trời

Thương về tóc buông lơi

Thương nhớ mãi nụ cười

Bờ môi xinh như mộng

Từ ngày em đi

Đã bao lần thu về rồi ?






Dáng Thu Về
http://www.youtube.com/watch?v=niSFJeziiYk

Lại một tình cờ khác tôi lắng nghe tiếng đàn của một người nhạc sĩ Mai Đức Vinh bên phương trời Canada, ông cho chúng ta nghe một bản tình ca quyến luyến và nhiều vương vấn của người thiếu nữ trong giấc mơ thu của ông "Thu về hôm nao", thơ Pham Anh Dũng:

".....Này em nhé mắt nâu qua rừng thu

Trong bóng thời gian nhả tiếng sương mù

Chiều rơi lá chín thương em hương lụa

Anh nhặt thu về xây tím áng thơ

Chiều sao hoang vắng vàng phai sắc lá

Anh viết tình thu trên môi em thôi ."


Một chiều thu đến để rồi Phan Bá Chúc đã làm thơ, đã phổ nhạc từ khung trời yêu thương Đà Lạt qua ca khúc thật trữ tình và đáng yêu, "Tôi có em chiều thu":


"Chiều phai mây trắng trôi

Trôi qua dòng đời muộn phiền

Chiều nay tôi thấy em gọi nắng lên

Chiều thu tôi em tôi em như một tình cờ vừa đến

Bàn chân em e thẹn, bàn tay em thơ dại

Vội vàng con chim bé vỗ cánh bay lên cao

Đời cho tôi có em trong một chiều không mong đợi

Đời cho tôi có em trong thu về hương tình tới

Bàn tay thôi e thẹn, bàn chân thôi thơ dại

Chiều nay con chim én líu lo thương đời”

Mùa thu 75 đã làm bao nhiêu con tim điêu đứng, Ngô Thụy Miên khi ra xứ ngồi đã chia sẽ tâm tư của ông qua bài "Thu Sàigòn" như sau:


"Em hỏi anh mùa thu Saigòn

Nắng còn vương vương trên hàng phố vắng

Em hỏi anh mùa thu Saigòn

Nước mắt bây giờ có như mưa tuôn..."


Thu SÀI GÒN

http://www.youtube.com/watch?v=VdpyNzReq1s


Từ miền trung nam nước Mỹ, nhac sĩ Đỗ Duy Thụy đã bộc lộ tâm sự của ông khi mùa thu về ta.i Houston với những nhung nhớ mùa chia ly của tình yêu trong bài "Thu vàng nổi nhớ":


"Theo bước chân em đi thu vàng

Tình ơi sao đến muộn màng

Nổi nhớ mang theo cung đàn

Buồn vương trên bao tháng năm

Đời một rừng thu hoang vắng

Mơ em là nắng xuân sang

Hồn anh mộng cũ chưa tan

Tình theo lá thu vàng"

Trong nỗi khắc khoải khôn nguôi, nhạc sĩ Ngô Thụy Miên đã tưởng nhớ dến mùa thu năm cũ khi nhìn về người tình

 

Cũng vì mùa thu năm cũ vơi đầy nhung nhớ, Ngô Thụy Miên âu yếm nhìn vào ánh mắt người tình với bài "Thu trong mắt em":


"Rồi một mùa thu tới cho mắt em buồn trong nắng

Mầu tình hôn tóc rối ru má em hồng say đắm ...

Ô hay mùa Thu lại về cho mình giăng hẹn hò

Gọi tên nhau khi chiều đến

Mây Thu vấn vương đan ngập lối đi

Ái ân theo hồn vút cao Vết mơ tình xõa tay mềm..."


Thu Trong Mắt Em (Phạm Anh Dũng) Quỳnh Lan hát (Vinh Nguyễn"
http://www.youtube.com/watch?v=mHYa9Z0pOuc

Nếu mùa thu được dùng như biểu tượng của sự ra đi hay sự chia ly để rồi dứt khoát một cuộc tình buồn não nề nào đó. Trong bối cảnh buồn của mùa thu ở vườn Luxemburg với ngập xác lá vàng rơi. Nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu đã viết bài "Mùa thu không trở lại" để nói lên nỗi sầu tan tác của ông:


"Em ra đi mùa thu, mùa thu không trở lại

Em ra đi mùa thu, sương mờ giăng âm u

Em ra đi mùa thu, mùa thu không còn nữa

Đếm lá mùa thu, đo sầu ngập tim tôi…"


Mua Thu Khong Tro Lai - Si Phu

http://www.youtube.com/watch?v=qjPBKvQm6X4&feature=related






Cũng như sự chia ly từ mùa thu dang dỡ, người yêu sẽ tìm quên lãng mùa thu sầu úa vì tình đã chết trong lòng khi niềm cô đôn chợt đến mà nhạc sĩ Nam Lộc ghi nhận qua bài "Anh đã quên mùa thu":


"Bây giờ là mùa thu

Chiều vắng khói sương mù

Hàng cây khô sầu úa

Hiu hắt đứng trong mưa

Mưa như lệ tình xưa

Lệ thấm mãi cho vừa

Lệ thương hoa phượng rũ

Em có nghe mùa thu ...


Anh Đã Quên Mùa Thu - Nam Lộc, Tùng Giang-Tiếng hát:Dalena


http://www.youtube.com/watch?v=L8byBhMz54g





Mùa thu về với khung trời Paris của Cung Trầm Tưởng, nhà thơ này đã kể về chuyện tình mùa thu với nàng kiều nữ tóc nâu người địa phương bên vườn Luxemburg. Bài thơ "Mùa thu Paris" đuoc nhạc sĩ Pha.m Duy phổ thành một nhạc phẩm đã đi vào dĩ vàng của Saigon một thời xa xưa:


"Mùa thu Paris, trời buốt ra đi

Hẹn em quán nhỏ, hẹn em quán nhỏ

Rượu rưng rưng ly đỏ tràn trề ...

Mùa thu âm thầm bên vườn Lục Xâm

Ngồi quen ghế đá, ngồi quen ghế đá

Không em buốt giá từ tâm

Mùa thu nơi đâu, người em mắt nâu

Tóc vàng sợi nhỏ, tóc vàng sợi nhỏ

Chờ mong em chín đỏ trái sầu.."


MÙA THU PARIS

http://www.youtube.com/watch?v=z4R3fNOvzew


Từ một phương trời nào đó Phạm Anh Dũng âu yếm thì thầm với người em gái mắt nâu của mình bằng những lời yêu dấu để thăm chừng khi nào mùa thu của tình yêu thực sự đến. Nếu Phạm Trọng Cầu hay Trịnh Công Sơn nhìn mùa thu đi với nỗi niềm tiêu cực thì tương phản thì Phạm Anh Dũng lại nhìn mùa thu ở khía cạnh tích cực. Nào chúnh ta hãy nghe lời hát của Pha.m Anh Dũng qua bài "Mùa thu về chưa em nhỉ":


"Này yêu dấu, mùa thu về chưa nhỉ

Gọi mây trôi em thả tóc bay đi

Hạt long lanh rơi nhạt lá thay mầu

Tình xanh biếc, xanh mầu đôi mắt nâu ...

Này yêu dấu, mùa thu về lá đổ

Dòng sông xanh trôi về mãi xa xôi


GIOT MUA THU- Dan Bau
http://www.youtube.com/watch?v=37qw5vNyYzE

Posted by VĂN NGHỆ at 12:11 PM

Ba giây


Có một lần
Bên bàn tiệc đông người
Ta đã nhìn vào mắt nhau
Ba giây.

Ánh mắt anh

Như kiếm sắc
Xẻ toang lồng ngực
Trái tim em ngừng đập
...
Ba giây.

Ánh mắt anh

Như dung nham núi lửa
Cuốn phăng em trong cơn lũ cuồng say rực đỏ
Nóng hổi dâng trào
Cho một cuộc đổi thay
...
Ba giây.

Ánh mắt anh

Như bão cát
Ngàn vạn ngọn roi sa mạc
Quất lên mình em
Bỏng rát
Cơn lốc xoáy mịt mù
Cay xè nước mắt
...
Ba giây.

Có một lần

Bên bàn tiệc đông người
Ta đã nhìn vào mắt nhau
...

Thái Linh

Mật viên ca


Giáp Văn

Tôi thích nhạc không lời.
Thích theo kiểu mù quáng, điếc không sợ súng.
Nhưng suy cho cùng những thứ con người ta thích hoặc tôn thờ thì hầu hết đều là những thứ mù quáng cả. Nên bây giờ, nếu ai hỏi vì sao tôi thích nhạc không lời thì tôi sẽ rất lúng túng. Nếu ép quá chắc tôi sẽ buột miệng ra nói mấy chữ chẳng giống ai, đại loại như: vì nhạc không lời dồn nén, cô đơn, có cấu trúc, tỏa và chụm, đa nghĩa, có nhiều điểm tương đồng với những thứ khác mà tôi thích v.v.
Trong những thứ chẳng giống ai đó, nếu cố gắng chọn ra được một thứ được nhiều người đồng ý hơn cả, thì có lẽ đó là tính đa nghĩa. Vì thế bài này sẽ chỉ đề cập đến khía cạnh đa nghĩa của nhạc không lời.
Các cụ nói trăm nghe không bằng một thấy, nhưng trong trường hợp này thì ngược lại: trăm thấy không bằng một nghe. Nên trước khi vào chuyện, bạn nghe thử bản nhạc này: Song from a secret garden.
Tôi tạm dịch là Mật viên ca.

Hãy bỏ qua tiểu sử của bản nhạc và những chi tiết kĩ thuật đi, chỉ nghe thôi.
Chỉ nghe thôi.
Bạn thấy gì?
Có lẽ bạn sẽ thấy ban đầu là tiếng đàn piano buông chậm rãi. Sau đó là tiếng vĩ cầm cất lên. Nhẹ nhàng êm ái. Réo rắt. Rồi cao trào. Cũng có lúc trầm lắng. Như lời đối thoại: khi quyến luyến, khi rời xa, và cuối cùng trôi dần, nhỏ dần về cuối bản nhạc khi kết thúc.
Bạn còn thấy gì nữa? Tôi không biết, vì tôi không là bạn. Nhưng tôi biết mình thấy gì khi nghe bản nhạc này. Mỗi lần thấy là mỗi lần khác, tùy thuộc vào tâm trạng khi nghe.
Tôi sẽ nói những điều tôi đã thấy xem có giống những điều bạn đã thấy hay không nhé.
1. Tình yêu.
Cuộc sống tư lự trôi như đám mây hờ hững, như con sóng vỗ bờ, không luyến ái, không chủ đích. Rồi một ngày tình yêu đến, bắt đầu biết nhớ da diết. Giai điệu ban đầu nhẹ nhàng uốn lượn như dải lụa mềm, cao độ vừa phải, sau đó tăng dần lên đến cao trào, rồi lại hạ thấp như lời thủ thỉ: trên đời này chỉ có hai ta.
Cung bậc nhớ tăng dần đến mức quyện chặt không thể tách rời. Rồi sau đó là những cung trầm ấm hơn, như lời của chàng trai bên tai cô gái. Chàng nói gì chàng hứa hẹn gì? Không ai biết và không quan trọng. Nhưng chắc chắn cô gái hiểu được, vì họ đang có chung một ngôn ngữ. Thứ ngôn ngữ bí mật của hai người.
Ở đây không có sự ào ạt phóng khoáng hoang dã như hai kẻ trẻ tuổi phi ngựa trên thảo nguyên, mà chỉ có tiếng lòng rung lên thầm kín, kìm nén của một trắc trở. Nhưng chính vì kìm nén mà nó chạm vào được những góc tinh tế nhất của tâm hồn. Tay nắm chặt tay mắt nhìn đắm đuối cho thứ ngôn ngữ không lời tràn ra như trăng mật.
Trong ngôi vườn của hai người.
2. Bên thềm
Tiếng piano ban đầu như lời an ủi. Người ngồi bơ vơ bên thềm vắng. Người đã đi mà hình bóng vẫn còn đây. Không kìm nén được nên tiếng lòng trỗi dậy. Bao kỉ niệm da diết bỗng cựa quậy ùa về. Những ngọt ngào bỗng dưng tuôn trào thành nước mắt. Lúc cao trào thì ào ạt như hoa rơi ngày trở gió. Khi trầm buồn thì hiu quạnh tựa chiều đông.
Không trách móc, không giận hờn, không cay đắng. Nhưng đi rồi, đi mãi không hẹn ngày trở lại. Chỉ còn sóng lòng dội mãi khôn nguôi.
Dội mãi khôn nguôi.
3. Canh khuya
Đêm khuya thiếu phụ đan áo chờ chồng, con nhỏ nằm bên má hồng tóc ướt. Thoảng đâu tiếng gió lướt ngoài cửa sổ. Nhầm lẫn chi với một tiếng thở dài?
Dưới ánh đèn, tiếng piano từng giọt từng giọt rớt xuống mũi que đan. Bỗng xôn xao: ban đầu nhẹ nhàng như gió thoảng, sau da diết như cứa vào da thịt. Thiếu phụ dừng tay nghe lòng mình thổn thức. Đến cao trào thì quyện chặt lại. Bất giác nhìn con trẻ đang say giấc để tìm hình bóng kẻ đi xa, ôm con vào lòng mà thấm từng hơi ấm cũ.
Khung cảnh quá đỗi giản dị mà ai cũng đã từng bắt gặp. Nếu không tin, khi vợ đan áo chồng ôm con đọc sách bên cạnh mà bật bản này lên, bạn sẽ thấy những nhận xét trên đây là đúng.
4. Trong vườn nhà
Người đàn ông đi dạo một mình trong vườn buổi tối. Từng bước từng bước chậm rãi. Mỗi bước chân buông là mỗi bước đi về miền ký ức, tưởng rất xa xôi mà kì thực rất gần. Chỉ cần một chiếc lá rụng, một ánh sao khuya cũng đủ lay động cả một miền dĩ vãng.
Người đàn ông dừng bước, vểnh tai nghe gió thổi trong lòng. Đêm vắng, chỉ có quá khứ dội về. Một quá khứ đã từng rất ngọt ngào bay bổng. Nhưng khi tiếng vĩ cầm đổi cung thì người chìm trong suy tưởng.
Suy tưởng gì hỡi người đàn ông đi dạo? Một thời trai trẻ hay một hình bóng cũ? Không tiếng trả lời. Chỉ thấy trôi đi, trôi mãi mà không tài nào kìm giữ nổi.
Đêm khuya, chết lặng giữa vườn.
5. Mệt mỏi
Đôi khi người ta mệt mỏi đến mức không muốn gì cả.
Không muốn cả thở.
Buông thôi!
Buông để chìm vào miên viễn.
Buông để dập dềnh trôi nổi theo lời ca xưa cũ.
Lời ca nâng cánh bay bổng nhẹ nhàng.
Lời ca thủ thỉ bên tai trầm ấm.
Có tiếng trẻ con cãi cọ.
Có lời Mẹ tâm tình.
Buông để hòa mình vào vô định.
Không suy nghĩ.
Không lựa chọn.
Chỉ trôi thôi.
Trôi mãi.
Về phía cuối…
6. Đổ vỡ
Một đổ vỡ mang tính ép buộc, được báo trước, có chuẩn bị. Đối diện nhau mà không ai nói lời nào.
Là lần gặp cuối.
Là lần trò chuyện cuối.
Là những ngày qua tự ý tràn về.
Không nói.
Không hỏi.
Không nghe.
Chỉ có lòng người thổn thức.
Ai nắm chặt tay trước lúc buông xuôi?
7. Ngắm hoa
Người làm vườn già chậm rãi dừng chân bên khóm hoa mới nở.
Tiếng vĩ cầm bùng lên, bông hoa hé mắt cười.
Dịu dàng.
Nhẹ nhàng.
Say đắm.
Ngân nga.
Ai hiểu được niềm vui tri kỷ?
8. Đường vắng
Chiều hiu hắt.
Người hoang vắng.
-Đi về đâu hỡi cụ già?
-Không về đâu cả.
Có tiếng gió bên tai.
Tiếng sỏi dưới chân.
Tuổi trẻ vọng về từ xa thẳm.
Chập chờn...
Về nơi vô định.
9. Cố hương
Mở cánh cổng cũ, trở lại nhà xưa.
Lặng lẽ nhìn, lặng lẽ bước.
Đây góc sân, hàng cau, giếng nước.
Nắng chếch bên thềm.
Trăng sáng, đám trẻ tung tăng chạy nhảy.
Người đã trở về, người đã đi xa.
Còn gì ở lại?
Còn gì ở lại!
10. Cô đơn
Nỗi cô đơn hoan tịnh ngọt ngào.
Tôi đứng đây, cầm cây vĩ cầm. Và kéo…
Cho tim tôi nghe.
Cho mình tôi biết.
Cho đến và đi trong cuộc đời này.
Có gì để nói đâu?
Có gì không thể nói đâu?
Ngoài nỗi cô đơn sắc ngọt không lời.
11. Vô tâm
Những nhịp chậm rãi, tự nhiên như hơi thở.
Rồi ào đến như một cơn gió mát, nồng nhiệt cuộn xoắn cuốn phăng đi.
Không suy nghĩ mà không lạc bước.
Không đúng sai không tiếng thị phi.
Chỉ có khúc hoan ca bí mật.
Dẫn đường.
12. Bình an
Bỗng nhận thấy bình an ùa đến.
Khi nghe được lòng mình.
Khi có mật viên cho tâm hồn trú ngụ.
Mênh mông.
Không lời.
---

Một buổi học chuyện cổ tích Cô bé Lọ lem (Cinderella)



Giờ học văn bắt đầu. Hôm nay thầy giảng bài chuyện Cô bé Lọ lem.
Trước tiên thầy gọi một học sinh lên kể chuyện Cô bé Lọ lem. Em học sinh kể xong, thầy cảm ơn rồi bắt đầu hỏi.

Thầy: Các em thích và không thích nhân vật nào trong câu chuyện vừa rồi?

Học sinh (HS): Thích Cô bé Lọ lem Cinderella ạ, và cả Hoàng tử nữa. Không thích bà mẹ kế và chị con riêng bà ấy. Cinderella tốt bụng, đáng yêu, lại xinh đẹp. Bà mẹ kế và cô chị kia đối xử tồi với Cinderella.


Thầy: Nếu vào đúng 12 giờ đêm mà Cinderella chưa kịp nhảy lên cỗ xe quả bí thì sẽ xảy ra chuyện gì?

HS: Thì Cinderella sẽ trở lại có hình dạng lọ lem bẩn thỉu như ban đầu, lại mặc bộ quần áo cũ rách rưới tồi tàn. Eo ôi, trông kinh lắm !



Thầy: Bởi vậy, các em nhất thiết phải là những người đúng giờ, nếu không thì sẽ tự gây rắc rối cho mình. Ngoài ra, các em tự nhìn lại mình mà xem, em nào cũng mặc quần áo đẹp cả. Hãy nhớ rằng chớ bao giờ ăn mặc luộm thuộm mà xuất hiện trước mặt người khác. Các em gái nghe đây: các em lại càng phải chú ý chuyện này hơn. Sau này khi lớn lên, mỗi lần hẹn gặp bạn trai mà em lại mặc luộm thuộm thì người ta có thể ngất lịm đấy (Thầy làm bộ ngất lịm, cả lớp cười ồ). Bây giờ thầy hỏi một câu khác. Nếu em là bà mẹ kế kia thì em có tìm cách ngăn cản Cinderella đi dự vũ hội của hoàng tử hay không? Các em phải trả lời hoàn toàn thật lòng đấy !

HS: (im lặng, lát sau có em giơ tay xin nói) Nếu là bà mẹ kế ấy, em cũng sẽ ngăn cản Cinderella đi dự vũ hội.

Thầy: Vì sao thế ?

HS: Vì … vì em yêu con gái mình hơn, em muốn con mình trở thành hoàng hậu.

Thầy: Đúng. Vì thế chúng ta thường cho rằng các bà mẹ kế dường như đều chẳng phải là người tốt. Thật ra họ chỉ không tốt với người khác thôi, chứ lại rất tốt với con mình. Các em hiểu chưa? Họ không phải là người xấu đâu, chỉ có điều họ chưa thể yêu con người khác như con mình mà thôi. Bây giờ thầy hỏi một câu khác: bà mẹ kế không cho Cinderella đi dự vũ hội của hoàng tử, thậm chí khóa cửa nhốt cô bé trong nhà. Thế tại sao Cinderella vẫn có thể đi được và lại trở thành cô gái xinh đẹp nhất trong vũ hội ?

HS: Vì có cô tiên giúp ạ, cô cho Cinderella mặc quần áo đẹp, lại còn biến quả bí thành cỗ xe ngựa, biến chó và chuột thành người hầu của Cinderella.

Thầy: Đúng, các em nói rất đúng ! Các em thử nghĩ xem, nếu không có cô tiên đến giúp thì Cinderella không thể đi dự vũ hội được, phải không?

HS: Đúng ạ !

Thầy: Nếu chó và chuột không giúp thì cuối cùng Cinderella có thể về nhà được không ?

HS: Không ạ !

Thầy: Chỉ có cô tiên giúp thôi thì chưa đủ. Cho nên các em cần chú ý: Dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta đều cần có sự giúp đỡ của bạn bè. Bạn của ta không nhất định là tiên là bụt, nhưng ta vẫn cần đến họ. Thầy mong các em có càng nhiều bạn càng tốt. Bây giờ, đề nghị các em thử nghĩ xem, nếu vì mẹ kế không muốn cho mình đi dự vũ hội mà Cinderella bỏ qua cơ hội ấy thì cô bé có thể trở thành vợ của hoàng tử được không ?

HS: Không ạ ! Nếu bỏ qua cơ hội ấy thì Cinderella sẽ không gặp hoàng tử, không được hoàng tử biết và yêu.

Thầy: Đúng quá rồi ! Nếu Cinderella không muốn đi dự vũ hội thì cho dù bà mẹ kế không ngăn cản đi nữa, thậm chí bà ấy còn ủng hộ Cinderella đi nữa, rốt cuộc cô bé cũng chẳng được lợi gì cả. Thế ai đã quyết định Cinderella đi dự vũ hội của hoàng tử ?

HS: Chính là Cinderella ạ.

Thầy: Cho nên các em ạ, dù Cinderella không còn mẹ đẻ để được yêu thương, dù bà mẹ kế không yêu cô bé, những điều ấy cũng chẳng thể ngăn cản Cinderella biết tự thương yêu chính mình. Chính vì biết tự yêu lấy mình nên cô bé mới có thể tự đi tìm cái mình muốn giành được. Giả thử có em nào cảm thấy mình chẳng được ai yêu thương cả, hoặc lại có bà mẹ kế không yêu con chồng như trường hợp của Cinderella, thì các em sẽ làm thế nào ?

HS: Phải biết yêu chính mình ạ!

Thầy: Đúng lắm! Chẳng ai có thể ngăn cản các em yêu chính bản thân mình. Nếu cảm thấy người khác không yêu mình thì em càng phải tự yêu mình gấp bội. Nếu người khác không tạo cơ hội cho em thì em cần tự tạo ra thật nhiều cơ hội. Nếu biết thực sự yêu bản thân thì các em sẽ tự tìm được cho mình mọi thứ em muốn có. Ngoài Cinderella ra, chẳng ai có thể ngăn trở cô bé đi dự vũ hội của hoàng tử, chẳng ai có thể ngăn cản cô bé trở thành hoàng hậu, đúng không ?

HS: Đúng ạ, đúng ạ !

Thầy: Bây giờ đến vấn đề cuối cùng. Câu chuyện này có chỗ nào chưa hợp lý không ?

HS: (im lặng một lát) Sau 12 giờ đêm, mọi thứ đều trở lại nguyên dạng như cũ, thế nhưng đôi giày thủy tinh của Cinderella lại không trở về chỗ cũ.

Thầy: Trời ơi! Các em thật giỏi quá! Các em thấy chưa, ngay cả nhà văn vĩ đại mà cũng có lúc sai sót đấy chứ. Cho nên sai chẳng có gì đáng sợ cả. Thầy có thể cam đoan là nếu sau này có ai trong số các em muốn trở thành nhà văn thì nhất định em đó sẽ có tác phẩm hay hơn tác giả của câu chuyện Cô bé Lọ lem! Các em có tin như thế không?

Tất cả học sinh đều hứng thú vỗ tay reo hò.

 

LND :Đó là chuyện lớp học bên Mỹ, với những thầy cô yêu nghề, phân tích sâu sắc, phương pháp sống động, mang đầy nét sáng tạo và tích cực. 

Nguyễn Khắc Nhượng  dịch từ  "How an American teacher would tell the story of Cinderella".

NAM PHƯƠNG CA KHÚC VÀ BÀI THƠ HỒ TRƯỜNG

 
Báo Tuổi trẻ ở Việt Nam có bài viết của Phạm Hoàng Quân về bài ca Hồ Trường này:
[www.tuoitre.com.vn]

Có cả bản chụp nguyên bản Hán văn.


****************


TTO - LTS: Trong văn học VN đầu thế kỷ hai mươi có một bài thơ đăng trên Nam Phong tạp chí và ngay lập tức nổi tiếng trong giới chí sĩ lúc bấy giờ. Đó là bài Hồ trường của Nguyễn Bá Trác (1881-1945) đăng trên tạp chí Nam Phong.


Từ bấy đến nay, rất nhiều người đề cập đến bài Hồ trường như một tác phẩm của Nguyễn Bá Trác, có rất nhiều người vì yêu thơ rượu mà thích thú cái phong vị hào sảng trong bài thơ này.


Thế nhưng, kể cả các nhà nghiên cứu, ai cũng lầm rằng bài thơ trên do Nguyễn Bá Trác sáng tác. Cho đến năm 1998 trên báo Tuổi Trẻ chủ nhật có đăng một bài của Đông Trình dẫn lời Nguyễn Văn Xuân cho biết bài Hồ Trường do Nguyễn Bá Trác dịch lại từ một ca khúc của Trung Quốc.


Tuy nhiên, về mặt văn bản học, do vì xuất xứ phức tạp của bài thơ (thực ra là lời ca) Hồ Trường, nên các bản đang lưu hành tại VN xưa nay có nhiều điểm khác biệt nhau.


Nay nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân sưu lục được nguồn gốc xuất xứ của nguyên tác lời ca tiếng Trung Quốc (mà Nguyễn Bá Trác đã dịch thoát thành bài Hồ Trường), và dịch sát nghĩa lại để bạn đọc có dịp đối chiếu giữa nguyên tác, bản dịch nghĩa và lời thơ.


Xét về mặt tư liệu, đây là một đóng góp lớn cho việc minh định đâu là xuất xứ của Hồ Trường. Đồng thời, qua bài viết của tác giả Phạm Hoàng Quân, bạn đọc thấy hé mở một phần hành trạng của Nguyễn Bá Trác qua một trước tác khác là tập “Hạn mạn du ký”.


Cho đến nay, có ít nhất 5 bản in lời ca Hồ Trường (1) mà các bản có nhiều chỗ không giống nhau. Để góp một phần tài liệu cho sự tham khảo, đối chiếu được rộng rãi chúng tôi trích lục các văn bản bằng chữ Hán, chữ Việt đã in trên Nam Phong tạp chí - nơi xuất xứ của lời ca này - cách nay đã 86 năm đối với Nam phương ca khúc và 84 năm đối với Hồ Trường.


Trong bài viết này chúng tôi quy ước như sau: Gọi Hồ Trường đối với lời ca tiếng Việt đã lưu hành từ trước tới nay. Nam phương ca khúc là tên tạm đặt cho lời ca mà Nguyễn Bá Trác đã nghe được, chép lại và dịch thành lời ca Hồ Trường.


I. Nguồn gốc lời ca Hồ Trường


Nam phương ca khúc (NPCk) được đăng lần đầu tiên theo thiên ký sự Hạn mạn du ký (HMDK) của Nguyễn Bá Trác trên Nam Phong tạp chí phần chữ Hán số 30, trang 214 năm 1919.


HMDK trước tiên được viết bằng chữ Hán, đăng tải từ số 22 đến số 35 năm 1919, 1920; sau đó thiên ký sự này được chính tác giả dịch sang chữ Việt và đăng tải ở phần chữ Việt của Nam Phong từ số 38 đến số 43 năm 1920, 1921.


Hạn mạn du ký là thiên ký sự gồm 14 chương kể lại cuộc đông du của tác giả trong khoảng 6 năm (1909 - 1914) từ Sài Gòn sang Xiêm La - Hương Cảng - Nhật - Trung Hoa - rồi về VN.


Nam phương ca khúc nằm ở chương 10: “Tại Thượng Hải gặp người đồng hương”. Vào khoảng năm 1912, khi lưu lạc ở Thượng Hải, tác giả gặp một người đồng hương cùng chí hướng, người này có giọng hát hay (giọng Quảng Đông). Một đêm nọ, hai người đi uống rượu, “rượu ngà ngà, Nguyên quân đứng dậy mà hát” (lời Nam phương ca khúc), ở bàn bên cạnh, một võ quan họ Lưu, người Trực Lệ, nghe điệu hát, sang hỏi là điệu gì, được trả lời: “Ấy là một điệu đặc biệt ở phương nam” (2), họ Lưu nói “nghe tiếng bi mà tráng, nhiều hơi khảng khái, nam phương mà có điệu hát đến thế ru?”. Sau đó họ Lưu xin người hát chép ra giấy lời ca ấy để giữ xem.


Về mặt văn bản mà xét, thì bài ca ấy không rõ tựa đề, không biết tác giả, Nguyễn Bá Trác chép lại toàn vẹn Nam phương ca khúc. Và khi Hạn mạn du ký được sang chữ Việt thì lời ca này đã được dịch rất thoát, tuy nhiên nó vẫn là “lời ca” minh hoạ cho văn cảnh ấy chứ không phải “bài thơ hồ trường” như nhiều người từng gọi.


Cũng vì vậy, trong bài viết này, người viết xin gọi theo cách cũ là “Lời ca hồ trường” (3). Hồ trường so với Nam phương ca khúc có nhiều điểm khác biệt. Người dịch đã linh động nương theo âm điệu tiếng Việt và có chỗ thêm tứ có chỗ bớt lời, khéo giữ được cái thần thái hào sảng của nguyên tác.


Hồi ấy Hồ Trường được dịch thẳng từ lời ca chữ Hán sang lời ca chữ Việt mà không có bản dịch nghĩa, nay thấy cần có nguồn tài liệu để dựa vào mà đính chính một số điểm khác biệt của Hồ Trường, nên tôi chụp lại nguyên tác hán văn Nam phương ca khúc từ Nam Phong tạp chí, đồng thời phiên âm dịch nghĩa để bạn đọc tham khảo.


II. Nam phương ca khúc


Phiên âm:


Trượng phu sanh bất năng phi can chiết hạm vị thế phù cương thường

Tiêu dao tứ hải, hồ vị hồ thử hương
Hồi đầu nam vọng mạc vô cực hề, thiên vân nhất sắc đồ thương thương
Lập công bất thành, học bất tựu, thiếu tráng hữu cơ thời hề, toạ thị bách niên thân thế khu âm dương
Phủ chưởng cuồng ca vấn tư thế, mang mang thiên địa, an đắc tri nhất tri kỷ (4) hề, , thí lai đối chước hữu dư thương.
Dư thương trịch hướng đông minh thủy, đông minh chi thủy vạn đội khởi cuồng lan
Dư thương trịch hướng tây sơn vũ, tây sơn chi vũ nhất trận hà uông dương
Dư thương trịch hướng bắc phong khứ, bắc phong dương sa tẩu thạch phi thù phương
Dư thương trịch hướng nam thiên vụ, vụ trung hữu nhân khai khẩu nhất ẩm cừ nhiên túy
Thiên địa vũ trụ hồn tương vong, dư bất túy hĩ, dư hành dư chí
Nam nhi tự cổ sự tang bồng, hà tất cùng sầu khấp phần tử

Dịch nghĩa:


Kẻ trượng phu sống mà không vạch gan, bẻ cột lo giềng mối cho đời

Rong chơi bốn biển, quê hương ở nơi đâu?
Quay đầu trông về nam, miệt mù vậy hỉ! Trời mây nối màu xanh ngắt
Lập công chẳng được, học không xong, trai trẻ có bao lâu, ngồi ngó trăm năm, thân đuổi cuộc sớm chiều.
Vỗ tay hát khùng, hỏi đời kia, đất trời mờ mịt vậy, một người tri kỷ tìm ở đâu, thử đến giúp ta rót chén rượu này
Ta quăng chén rượu đầy trộn nước biển đông, nước biển đông nổi cuộn vạn lớp sóng
Ta quăng chén rượu đầy vào mưa núi tây, mưa núi tây một trận sao lênh láng
Ta quăng chén rượu đầy đuổi theo gió bắc, gió bắc tung cát lăn đá bay nơi khác
Ta quăng chén rượu đầy vào mây mù trời nam, trong mây mù có người há miệng điềm nhiên say tràn
Trời đất dọc ngang đều mất hết, sao ta không say, chí ta thời ta làm
Từ xưa nam nhi đuổi theo tang bồng, cớ gì sùi sụt sầu cố hương.

Qua bản phiên âm và dịch nghĩa NPCK, chúng tôi thấy cần dừng lại lưu ý một đôi chỗ. Số là trong HMDK đăng tải trên Nam Phong - ở cả phần chữ Hán và chữ Việt - không có phần chú thích các từ khó hiểu thuộc về điển tích đã dùng trong NPCK và Hồ Trường, nay xin nói thêm về các điển ấy.


Ở câu đầu tiên có cụm từ “xé gan bẻ cột”. Trong NPCK ta thấy viết là Bẻ cột - chiết hạm. (Có nhiều người lầm viết là bẻ cật). Theo các từ điển thông dụng Trung Quốc thì điển tích “bẻ cột” xuất phát từ sách Hán Thư – truyện Chu vân: Thời Hán thành Đế, Hòe Lý Lệnh (một chức quan trong hàng Tam Công) là Chu Vấn tâu với vua xin giết An Xương Hầu Trương Vũ, vua nổi giận sai chém Chu vân. Khi bị bắt lôi đi, Chu Vân uất ức bám tay vào vặn cột điện, cột cung điện bị gãy, nhơn lúc lộn xộn ấy, Tân Khánh Kỵ giải cứu Chu Vân. Sau đó Thành đế biết Chu Vân xin giết Trương Vũ là vì lòng trung, bèn tha tội.


Khi sửa cung điện, Thành đế lệnh phải giữ nguyên dạng phần cột bị gãy, lấy hình ảnh đó mà biểu dương lời nói ngay thẳng của Chu Vân. Đời sau thường dùng từ “chiết hạm – bẻ cột” để chỉ hành vi dũng cảm trong việc dùng lời lẽ để can gián vua. Thôi Đồ trong bài thơ Ký cữu (gởi cậu) có câu “trí quân kỳ chiết hạm” (hết lòng vì vua mà bẻ gãy cột).


Chữ “Thương” ở cuối câu thứ năm (được lặp lại nhiều lần trong lời ca) có thể đọc là “trường” hay “tràng” mà Nguyễn Bá Trác đổi thành “Hồ trường”, từ một chữ “thương” biến thành hai chữ “hồ trường” rồi thành hẳn tên bài ca, kể cũng kỳ thú!


Thương có ba nghĩa:


1. Là cái chén uống rượu giống như cái tước, làm bằng sừng, “thương” là chén rót đầy rượu, khi chưa rót rượu vào thì gọi là “chí”;


2. Mời rượu người khác một cách kính trọng gọi là “thương”. Sách Lã Thị Xuân Thu – thiên Đạt Úc có câu “Quản tử thương Hoàn Công” (Quản Từ kính cẩn mời rượu Tề Hoàn Công).


3. Tự uống rượu một mình gọi là “thương”, Phạm Thành Đại trong bài “Túc tư khẩu thỉ văn nhạn” có câu “bá tửu bất năng thương” (nâng ly khó uống một mình).


Khi dịch nghĩa NPCK, chúng tôi dùng nghĩa “thương là chén rượu đầy”. Còn từ “hồ trường” trong lời ca Hồ trường là sự sáng tạo của dịch giả Nguyễn Bá Trác, chúng tôi không dám lạm bàn.


Chữ “phần tử” mà chúng ta thấy ở cuối bài NPCK là một từ chỉ quê hương (mà dịch giả Hồ trường đổi thành “cỏ cây”). Phần và tử là tên hai loại cây. Cây phần là một loại Du trắng nên còn gọi là “Phần du”.


Trong Hán thư - Giao tự chí, quyển thượng có ghi lại rằng: “Trong buổi lễ tế Giao, Hán Cao tổ có khấn mình là người ấp Phong, làng Phần du (làng có trồng cây phần du làm đặc trưng, sau thành tên làng), người đời sau lấy chữ Phần du để chí cố hương. Cây Tử tức là cây Thị, gỗ dùng để đóng đàn, khắc bản in…


Quê cha đất tổ gọi là “tử lý” hay “tang tử”. Kinh thi có câu “duy tang dữ tử, tất cung kính chi” (cây do cha mẹ trồng, ắt phải cung kính vậy); Phạm Thành Đại có câu “thân tu tử lý cung” (cung kính quê nhà mà lo tu sửa thân); truyện Kiều có câu “có khi gốc tử đã vừa người ôm”. “Phần tử” là từ được ghép bởi “Phần du” và “Tử lý” (hoặc “Tang tử”). Nguyễn Du viết: “Đoái thương muôn dặm tử phần; hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa” (Kiều).


Các chú thích vừa nêu có thể là dài dòng nhưng qua đó, phần nào bạn đọc có thể thấy những điểm khác biệt giữa NPCK và Hồ Trường, đồng thời có thể xác định bản Hồ trường nào đã theo đúng bản gốc.


III. Lời ca Hồ trường


Nguyên bản trích từ Nam Phong tạp chí số 41 năm 1920. Trang 400 – 401 (giữ nguyên các lỗi sai so với chính tả ngày nay)


1. Trượng phu không hay sé gan bẻ cột phù cương thường;

2. Hà tất tiêu dao bốn bể, luân lạc tha hương
3. Trời nam nghìn dậm thẳm, mây nước một mầu sương
4. Học không thành, danh chẳng lập, trai trẻ bao lâu mà đầu bạc, trăm năm thân thể bóng tà dương.
5. Vỗ tay mà hát, nghiêng đầu mà hỏi, trời đất mang mang, ai là tri kỷ lại đây cùng ta cạn một hồ trường.
6. Hồ trường! Hồ trường! ta biết rót về đâu?
7. Rót về đông phương, nước bể đông chẩy xiết sinh cuồng lạn;
8. Rót về tây phương, mưa Tây sơn từng trận chứa chan
9. Rót về bắc phương, ngọn bắc phong vì vụt, đá chạy cát dương;
10. Rót về nam phương, trời nam mù mịt, có người quá chén, như điên như cuồng
11. Nào ai tỉnh, nào ai say, chí ta ta biết, lòng ta hay
12. Nam nhi sự ngiệp ở hồ thỉ, hà tất cùng sầu đối cỏ cây.

Qua lời ca Hồ trường này, chúng ta thấy các bản in lại có nhiều chỗ khác biệt. Các điểm sai lệch quan trọng có thể kể:


Ở câu 1: có vài bản in là bẻ cật (có lẽ do liện hệ gan - cật nên thành xé gan bẻ cật thay vì bẻ cột). Ở câu 2: nhầm thành tha phương (nguyên bản là “tha hương”).


Ở câu 4: hầu hết các bản in lại đều là “thân thế” (nguyên bản là “thân thể”), tuy nhiên, ở đây có lẽ bản gốc Nam Phong sai vì trong NPCK chữ Hán dùng chữ “thân thế”.


Ở câu 5 có vài bản in “vỗ gươm mà hát” (thay vì “vỗ tay”) và tiếp đó là “nghiêng bầu mà hỏi” (thay vì “nghiêng đầu”). Ở câu 9 hầu hết các bản đều in “ngọn bắc phong vi vút” (thay vì “vì vụt”)…


Như đã nói, bài viết này chỉ dựa vào bản Hạn mạn du ký in lần đầu trên Nam Phong, người viết chưa được đọc bản in thành sách sau đó, cũng có khả năng tác giả HMDK có điều chỉnh đôi chỗ về ý hoặc về lỗi kỹ thuật, đồng thời bản dịch NPCK của chúng tôi nếu có lầm lẫn, xin bạn đọc điều chỉnh giúp cho.


Bến Nghé - tháng 8 năm Ất Dậu


PHẠM HOÀNG QUÂN


Chú thích:


(1) Các bản được biết gồm: 1. Trong tập Hạn mạn du ký - Đông Kinh ấn quán - Hà Nội 1921 (tác giả in lại). 2. Phạm Thế Ngũ - Việt Nam văn học sử giản ước tân biên - Quốc học tùng thư - Sài Gòn - 1965 (bài ca Hồ trường in ở trang 327 - tập 3). 3. Lãng Nhân - Chơi chữ - Nam Chi tùng thư - Sài Gòn - 1960 (in lời ca Hồ Trường theo một giai thoại, trang 94). 4. Đông Trình - (bài báo) - Tuổi Trẻ chủ nhật ngày 7-6-1998. 5. Vương Trùng Dương - Nguyễn Bá Trác và bài thơ Hồ Trường - võng trạm www.xuquang.com - in lại bản của cháu ngoại tác giả công bố.


(2) Phương nam ở đây chỉ miền Lãnh Nam - Trung Quốc


(3) Người sau gọi Hồ Trường là trích lấy chữ trong lời ca mà gọi chứ không phải tựa đề do tác giả Hạn Mạn du ký đặt ra.


(4) Chữ KỶ này ở nguyên bản hán văn in nhầm là chữ DĨ


(5) Các chú thích ở phần dịch nghĩa Nam phương ca khúc được tổng hợp từ các sách Từ Hải, Từ Nguyên, Cổ Hán ngữ từ điển, Hình âm nghĩa tổng hợp đại tự điển.
Hồ Trường

Trượng phu đã không hay xé gan bẻ cột  phù cương thường,
Sao lại tiêu dao bốn bể, luân lạc tha hương? 
Trời Nam nghìn dặm thẳm;
Mây nước một màu sương.
Học không thành, công chẳng lập,
Trai trẻ bao lăm mà đầu bạc; trăm năm thân thế bóng tà dương.
Vỗ gươm mà hát, nghiêng bầu mà hỏi:
Trời đất mang mang, ai là tri kỷ?
Lại đây cùng ta cạn một hồ trường.
Hồ Trường! Hồ Trường! ta biết biết rót về đâu?
Rót về Đông Phương, nước bể Đông chẩy xiết, sinh cuồng lạn.
Rót về Tây Phương, mưa Tây Sơn từng trận chứa chan;
Rót về Bắc Phương, ngọn bắc phong vi vút, đá chạy cát dương;
Rót về Nam Phương, trời Nam mù mịt, có người quá chén như điên như cuồng.
Nào ai tỉnh, nào ai say?
Chí ta ta biết lòng ta hay.
Nam nhi sự nghiệp ở hồ thỉ, hà tất cùng sầu đối cỏ cây!