Thứ Tư, 20 tháng 2, 2019

Đầu năm nói chuyện ăn Tết theo dương lịch




Từ độ hơn chục năm trở lại đây, năm nào cũng như năm nào, cứ mỗi độ xuân về là chúng ta lại phải chứng kiến một bản nhạc cũ mèm được những cái loa rè của đám trí thức thân phương Tây phát đi phát lại không biết nhàm. Ấy là chuyện Việt Nam ta nên ăn Tết theo Tây lịch để được văn minh, hiệu quả về kinh tế và thoát ảnh hưởng của Trung Quốc.

Lập luận về văn minh là rất nhàm, phương Tây ăn Tết theo dương lịch, phương Đông ăn Tết theo âm lịch, người Hồi giáo hay Do Thái giáo đều nghỉ ngơi theo lịch riêng của họ, đằng nào cũng là văn minh và có bản sắc riêng của cả. Lấy cái chuẩn mực nào để nói cái nào văn minh hơn cái nào, thật là thô thiển hết chỗ nói. Như ông bà ta vẫn nhắn nhủ, ấy là cái đám me Tây nên cứt tây cũng thơm. Phương Tây văn minh hơn hết là tư duy từ thời thuộc địa, các đế quốc phương Tây nhồi vào đầu các nước Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ để dễ bề cai trị. Bây giờ các nước Châu Á độc lập tự do, kinh tế cũng đã khởi sắc, cớ gì ngu dại tin vào điều đó nữa.

Lập luận về hiệu quả kinh tế mới nghe thì xuôi tai nhưng kỳ thực là bịp bợm. Họ nói rằng ăn Tết theo dương lịch để cho đỡ gián đoạn việc sản xuất, bán hàng cho phương Tây. Điều này là vô nghĩa, thực tiễn công nghiệp hiện đại cho thấy điều đó được xử lý rất dễ dàng về mặt kỹ thuật, tức là sản lượng hụt đi do nghỉ lễ thì sẽ được làm bù trước đó hoặc sau đó. Bên cạnh đó vẫn còn một khía cạnh nữa mà các nhà giả trí thức bịp bợm của chúng ta lờ tịt đi, ấy là chuyện Việt Nam hiện giờ xuất khẩu đi khắp thế giới chứ không phải mỗi phương Tây, trong đó Trung Quốc cũng là một bạn hàng lớn. Nếu bây giờ lấy cái lập luận về hiệu quả kinh tế đó áp vào thì những người bán hàng cho Trung Quốc sẽ đòi phải ăn Tết theo lịch Trung Quốc, những người bán hàng cho Ấn Độ sẽ đòi ăn Tết theo lịch Ấn Độ... vậy thì sẽ phải nghe ai. Nếu nghe một người thì những người khác sẽ hỏi lại rằng tại sao tôi phải hy sinh lợi nhuận của mình cho anh kia, anh có chia cho tôi đồng nào không? Thế đấy, những chuyện về kinh tế này chả đi đến đâu hết. Lại còn có một chuyện nữa là người ta kêu ca tết âm với tết dương gần nhau nên người lao động có tâm lý ăn chơi từ tết dương đến tết âm rồi chơi cả tháng giêng, chuyện này cũng vớ vẩn nốt. Thực tế tháng trước Tết âm lịch là tháng làm hàng bù cho kỳ nghỉ Tết, hầu hết các doanh nghiệp trước Tết đều tăng ca, công nhân thì tích cực vì có thêm lương thưởng. Sau Tết thì hoạt động mua sắm tiêu dùng giảm đi, do đã chi tiêu trước Tết, do vậy các doanh nghiệp đều có sản lượng thấp sau Tết, vì thế người lao động có nhiều thời gian rảnh rang để đi lễ hội hơn. Một ví dụ điển hình là ngành lắp ráp ô tô, trước Tết, hầu hết các nhà máy lắp ráp ô tô đều chạy hết công suất, làm việc 3 ca/ngày, sản lượng ô tô bán ra các tháng trước Tết cực lớn. Tháng sau Tết thì là thảm họa của các đại lý bán xe vì ai mua xe được đã mua từ trước Tết, sau Tết họ chạy đi chơi lễ hội, không mấy ai đi mua xe cả. Các trí giả của chúng ta khi nói về hiệu quả kinh tế cũng lờ tịt đi một khía cạnh thứ ba, họ giả định rằng sự thống trị về thương mại quốc tế thì sẽ thống trị về văn hóa, tức là giờ chúng ta bán hàng cho phương Tây thì phải ăn Tết theo dương lịch cho nó toàn cầu hóa. Câu hỏi ngược lại: Nếu Trung Quốc thống trị thương mại thế giới thì Việt Nam và cả phương Tây sẽ phải ăn Tết theo lịch Trung Quốc? Đến đây thì các bạn hẳn đã biết câu trả lời, các trí giả của chúng ta sẽ tự vả vào miệng họ mà khăng khăng nói rằng, kinh tế có mạnh nhưng Trung Quốc vẫn kém văn minh, không nên theo Trung Quốc. Thực tế cho thấy các nước phương Tây giờ đây cũng đua nhau tổ chức lễ tết âm lịch của Trung Quốc để mong phát tài.

Cuối cùng, thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc là chuyện hài hước nhất tôi được nghe trong đời mình. Người Việt giờ ra đường đều mặc áo phông, quần jeans, uống cafe kiểu phương Tây, lúc cần lịch sự thì mặc veston, nói tiếng Anh ào ào trong làm ăn, đâu có thứ gì của Trung Quốc mà kêu ảnh hưởng. Việc buôn bán làm ăn với Trung Quốc của Việt Nam cũng như bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Chuyện buôn bán không phải là ảnh hưởng hay phải thoát ảnh hưởng gì hết. Về mặt chính trị thì Việt Nam đã từng bước ký hiệp định phân chia biên giới rõ ràng với Trung Quốc để khẳng định sự độc lập của mình, chỉ có một phần tranh chấp trên những đảo ngoài khơi, nhưng chuyện tranh chấp đó là bình thường giữa các quốc gia ở gần nhau và Việt Nam không chỉ có tranh chấp duy nhất với Trung Quốc, còn có những nước khác như Malaysia, Đài Loan, Philippines. Nếu có đòi lại đảo thì đòi mấy nước kia chắc chắn dễ hơn đòi Trung Quốc, nhưng các trí giả hậm hực của chúng ta thường lờ tịt điều đó đi, họ chỉ chĩa mũi nhọn vào Trung Quốc, tránh phải động tới các đồng minh của Mỹ.

Nhật Bản quá khứ và hiện tại

Người ta thường ca ngợi rằng Nhật Bản bỏ âm lịch theo dương lịch nên sau 100 năm đã trở thành giàu thứ hai thế giới nhưng người ta quên mất rằng Trung Quốc chả cần bỏ cái gì, chỉ cần 40 năm đã thành giàu thứ hai thế giới và đang trên đà trở thành giàu nhất thế giới.

Người Nhật bỏ âm lịch theo dương lịch vào năm 1873, nhưng họ giàu lên là nhờ quá trình tư bản hóa thành công giai đoạn sau Thế Chiến Thứ 2, chứ không phải việc bỏ âm lịch. Giai đoạn trước chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản mặc dù hùng mạnh nhưng chỉ là một đế quốc nhỏ ở Phương Đông. Sau Thế Chiến Thứ Hai, khi nước Nhật thua trận và trở thành thị trường của Mỹ và phương Tây thì mới nhanh chóng phất lên, nhưng cái giá phải trả là quá đắt. Việc nói Nhật Bản giàu lên nhờ bỏ âm lịch là tào lao.

Sau hơn một thế kỷ ăn Tết theo dương lịch thì người Nhật Bản lại đang muốn khôi phục lại bản sắc của mình. Họ muốn khôi phục Tết theo âm lịch.

Một vị công sứ Nhật Bản đã nói rõ rằng:

"Nhật Bản đã bỏ âm lịch để sử dụng dương lịch vì những đòi hỏi của nền kinh tế khi đó. Nhưng như tôi đã nói, Nhật Bản lẽ ra vẫn có thể giữ Tết Nguyên đán như một nét văn hóa cổ truyền và là sợi dây liên kết cộng đồng. Chúng ta đang sống trong một xã hội toàn cầu hóa. Điều đó tạo ra một xã hội mở, nhưng mặt khác nó khiến con người mất đi bản sắc, sự nhận diện "chúng ta là ai?".
Đây là một vấn đề lớn, thậm chí về khía cạnh an ninh quốc gia. Một quốc gia có thể có trong tay những máy bay chiến đấu hiện đại nhất, tinh xảo nhất, nhưng nếu những người điều khiển máy bay không có ý chí mạnh mẽ để bảo vệ chủ quyền quốc gia thì các máy bay hiện đại ấy chẳng có tác dụng gì.
Bên cạnh đó, con người chỉ có sức mạnh khi họ đoàn kết và cộng đồng đóng vai trò rất quan trọng để đoàn kết mọi người. Đây là lý do nhiều người Nhật Bản muốn khôi phục lễ hội đón năm mới cổ truyền, với mong muốn giúp làm tăng sức mạnh cộng đồng".
Lý do của Nhật Bản rất rõ ràng, họ muốn tạo ra một bản sắc văn hóa riêng với sức kết nối cộng đồng mạnh mẽ để gia tăng sức cạnh tranh trong môi trường toàn cầu hóa.

Hàn Quốc khôi phục Tết âm lịch

Người ta hay nhắc đến Nhật Bản như là hình mẫu bỏ âm lịch để giàu có nhưng lại quên mất nước láng giềng Hàn Quốc đã nỗ lực khôi phục lại Tết âm lịch sau gần 100 năm bị từ bỏ.

Nhật Bản chiếm đóng Triều Tiên, sáp nhập Triều Tiên vào Nhật Bản và buộc người Triều Tiên phải sử dụng dương lịch như họ, điều này có nghĩa là Triều Tiên cũng phải ăn Tết theo dương lịch. Thế nên đối với người Triều Tiên khi đó, Tết theo dương lịch là biểu tượng của sự ô nhục, của sự mất nước. Suốt thời kỳ bị Nhật Bản cai trị, TriềuTiên cũng không vì ăn Tết theo dương lịch mà giàu lên được.

Sau đó Triều Tiên bị tách thành hai miền Bắc-Nam, miền Nam được gọi là Hàn Quốc. Nắm chính quyền ở Hàn Quốc là cựu các sĩ quan quân đội đánh thuê cho Nhật, họ vẫn làm ăn với Nhật Bản và áp dụng dương lịch cho đến tận năm 1985. Khi đó, người Hàn Quốc đấu tranh dữ dội để bỏ Tết theo dương lịch và khôi phục âm lịch, điều này không chỉ là yếu tố văn hóa mà nó còn phản ánh sự trỗi dậy của Hàn Quốc, họ muốn có bản sắc riêng và đoạn tuyệt với cái dấu hiệu ô nhục của thời mất nước. Vào năm 1989, Hàn Quốc chính thức khôi phục Tết âm lịch. Cùng với việc Tết âm lịch được khôi phục, hàng loạt các nghi lễ và phong tục truyền thống cũng được khôi phục, điều này đã góp phần tạo ra một Hàn Quốc có bản sắc văn hóa độc đáo và gia tăng các mối liên kết cộng đồng.

Hàn Quốc đã đi ngược dòng, thậm chí với sự giàu có của mình, các nước phương Tây cũng phải nở nụ cười cầu tài, chúc người Hàn Quốc ăn Tết âm lịch vui vẻ hàng năm. Giờ đây có ai dám nói Hàn Quốc lạc điệu với thế giới, âm lịch hay bị Hán hóa không?


Việt Nam trên con đường đi tới

Việc kêu gào đòi bỏ âm lịch để ăn Tết theo dương lịch ở Việt Nam thể hiện rõ một mặt là sự trỗi dậy của tầng lớp tư sản, họ muốn phá vỡ các mối liên kết cộng đồng để thay nó bằng quan hệ tiền-hàng lạnh lùng, bởi vì sự thống trị của họ dựa vào quan hệ đó, mặt khác thể hiện sự yếu thế của họ, họ không có khả năng dựa vào những điều kiện văn hóa xã hội sẵn có của Việt Nam mà phải dựa vào sức mạnh của tư bản quốc tế, thế nên họ muốn tất cả mọi thứ phải dập khuôn theo phương Tây. Mặc dù những lập luận của đám trí giả trong vấn đề này rất tào lao và dễ dàng bị bẻ gãy, họ giống như những con rối mua vui cho đám báo lá cải mỗi độ xuân về, song không vì vậy mà chúng ta quên mất động cơ thật sự ẩn giấu sau việc này.

Nếu ai đó hỏi tôi về việc ăn Tết theo dương lịch thì tôi sẽ trả lời như thế này: Khi nào Việt Nam đủ giàu, cả thế giới sẽ chung vui Tết âm lịch với Việt Nam.

Chủ Nhật, 6 tháng 1, 2019

CHỈ LÀ...





Chỉ là có những điều không thể nói thành lời
chỉ là có những yêu thương rất đơn giản…
vậy thôi!


Như sau một ngày trở về nhà thấy mình như một đứa trẻ cần niềm vui
được nhìn Má nấu một nồi canh chua cho cả nhà ăn tối
có Ba ngồi hỏi han với tiếng cười thân quen quá đỗi
không gian của những cuộc đời gần gũi
vì cần có nhau…

Cho buổi sáng hôn lên má người mình yêu thương để bước ra phố xá ồn ào
thấy mình đủ niềm tin dù ngày mưa hay bão
thấy mình ở giữa những đám đông và bụi đường huyên náo
thấy mình có lúc muốn hét lên khi đối diện với nỗi lo cơm áo
rồi sau đó lặng lẽ bước đi…

Đôi khi biết mình muốn đứng im trong một khuya trời tối đầy sao trời
tự nói chuyện với trái tim đang giữ nhiều chua xót
sao cứ phải đòi hỏi trên môi toàn là vị ngọt
biết rằng sống cho mình thì đừng đặt nỗi đau lên vai những người khác
làm ơn đừng bắt ai gánh vác
chỉ để mình được vui…

Chỉ là một cái nắm tay có khi cứu được một con người
chỉ là có khi lắng nghe thôi mà làm bớt đi một đêm trắng
chỉ là có khi cúi xuống cũng đã là câu trả lời cho những điều ân hận
chỉ là có khi một nụ cười cũng trở thành yêu thương vô tận
giúp sống sót trong cuộc đời…

Chúng ta hay muộn phiền cho những gì lớn lao tận xa xôi
rồi muộn phiền luôn những gì thân quen và nhỏ bé
đến khi biết cắn răng cuộn tròn mình trong góc tối mới nhận ra giá trị của hơi thở
của giọng nói, tiếng bước chân, của thanh âm “Xin lỗi” trước một giây đổ vỡ
đâu phải ai cũng có thể bắt đầu…

Đâu phải ai cũng có thể nhận ra mình ảo tưởng quá lâu
đâu phải ai cũng biết mình đang làm đau những người bên cạnh
đâu phải ai cũng tự choàng khăn khi trời trở lạnh
đâu phải ai cũng ít ỏi những vết thương dù bên ngoài lành lặn
mặc từng giờ đều thứ tha…

Chỉ là, có rất nhiều yêu thương đơn giản
trong mỗi ngày đi qua…

Đào Bích Hạnh

Thứ Hai, 3 tháng 12, 2018

MÙI CỦA GIÓ MÙA



Truyện ngắn Cung Tích Biền

Ngoài bảy mươi tuổi, hãy còn khỏe mạnh, minh mẫn; từ bao năm, Cụ Gàn tiêu biểu cho niềm vui, lòng tận tụy với xã hội. Ngồi gần cụ, bên cốc cà phê, năm ba bè bạn, thì thật thú vị, vì sự dẫn dắt câu chuyện, lý giải các sự kiện lịch sử, văn chương, triết học.

Kiến thức sâu rộng, biết nhiều ngọai ngữ nên nguồn đọc của cụ Gàn không lệ thuộc vào sách nhập nội thông qua dịch thuật. Cách nói ngắn gọn, hàm súc, nhiều ẩn dụ, đậm chất hài huớc. Giọng cụ hiền hòa, hấp dẫn; không dạy đời, không cường điệu; rất chân tình, nhưng thẳng thắn, vì tôn trọng sự thật.

Cụ là nguồn tư liệu phong phú cho các ký giả trẻ muốn tìm hiểu sinh họat của Sài Gòn cũ, từ chuyện chính trường đến chỗ ăn chơi, nhà hàng vũ trường; từ tổ chức guồng máy hành chính đến hệ thống quân đội. Cụ là cố vấn đặc trị thiếu hụt kiến thức nhiều mặt, cho quý vị thạc sĩ tiến sĩ nội địa có ngọn mà thiếu cái gốc, đang giảng dạy ở một số Đại học hiện nay.

Cụ Gàn nói chung, là đẹp; uyên bác một học giả; phong thái ung dung một đạo gia. Cụ là đủng đỉnh của thời gian ngưng lại. Của vững chải khi ta đối diện. Nhưng thỉnh thoảng cụ cũng va vào đời thường trong những chuyện vặt vãnh. Cụ tận tụy kiểu con tằm. Cụ dập mỏ vì cái nghịch lý chết người này.      

Cụ không hiểu nhiều về thế hệ mới trong một xã hội có một nền giáo dục mới. Cái nền giáo dục mà hình vuông có đường bán kính và hình tròn có khi nó có ba góc. Cụ không hiểu rằng nền giáo dục mấy thập kỷ trên nước non này dạy con-người-hai-chân nên sống theo cách con-lừa-bốn-chân cho vững chắc thăng tiến, và cho người khác một niềm tin đồng đội: “ Được, thế là tốt, mày khôn ngoan quá, nhiều sáng kiến quá, ra ngoài luồng,  là chết mẹ mày”.

Cụ quên rằng trái đất không còn tròn trịa như thế hệ cụ nhập tâm. Cụ là một nhàn nhã nối tiếp những cha ông, trong xa xăm, không hề có dự báo bão từ xa theo đài thiên văn như hôm nay. Trong thôn xóm bình lặng, xưa kia, với cụ, kinh nghiệm mọc ra như cỏ dại đồi hoang. Đêm khuya nghe tiếng sóng biển vỗ ngược miền; hôm qua nó reo vùng Cửa Bắc, khuya này âm vang hơi cuồng nộ, đã chuyển vào phía nam An hòa. Vậy là biển Đông đã cho ta lời báo bão. Nhân gian trước truyền lại kinh nghiệm cho nhân gian sau là như thê. Chưa hề có cái nhân gian Chát, Mạng, Meo, Bờ Lốc.

Hoặc một chiều hôm, ta biết trời đất sẽ chuyển dạ, thông qua chỉ một vài ngọn mây xám đen chân trời. Biết một trời sẽ điên dữ tối tăm, qua cái chớp nguồn, qua một thoáng lạnh nhận ra chỗ não trạng khi trong chiều hãy còn nắng ấm mông lung. Rõ, là cụ Gàn vẫn còn trong một khoanh vùng, dừng lại có điều kiện, giữa một thế giới cũ, tâm thức hãy còn xa lạ so với bọn trẻ, ngay trong gia đình. Cụ thanh sạch trong một xã hội mới, đã từ lâu đồng thuận một thứ thanh sạch ngược chiều.

Cụ đạt tới chỗ vi diệu của Đạo nhưng rất ngây thơ với những trò ma giáo sơ đẳng. Cụ là núi là rừng của kiên thức, kinh nghiệm. Nhưng thiếu cập nhật những hiện tình.Từ nhiều năm trước cụ bị lừa mất cả một căn nhà. Cụ thông rõ lẽ thiên địa vô tướng hình của Dịch, đọc cả ruột gan âm dương, nhưng cụ chẳng hiểu gì văn hóa của hôm nay, tỉ như trong cái nhà tiêu chẳng hạn.

Một hôm ở một quán nhậu, tình cờ đứng trong toa lét cụ thấy y như rằng một chục thằng trai trẻ chẳng có đứa nào vạch cu ra đái xong mà chịu rửa tay, khi la va bô và nước sẵn một bên.

Ấy thế, bàn tay bẩn, chúng cứ xé một miếng khô mực, nồng nàn cùng mình, dí vào mồm con bồ cao cẳng. Ngứa cái não, cụ nhẹ nhàng bảo một thằng trai trẻ:

“Này, xin lỗi, tiểu xong thì nên rửa tay đi cháu”

Cụ bị phản đòn ngay:

“Con cặc là chỗ ngon cơm nhất sao lại phải rửa? Đáng lẽ phải rửa tay sạch sẽ  rồi mới kính cẩn cầm thằng nhỏ mà tè chớ”.

Mà đâu phải mỗi thằng trai trẻ mất dạy hỗn láo với cụ. Cả một bàn nhậu ồn ào, thân ái, như cả một thế hệ tươi mới của nước non anh hùng đồng lọat xông tới cái trào lưu mới, cuộc hiện đại bát ngát riêng mùi.

Rõ ràng một thằng nhóc vừa từ nhà tiêu ra, nó bốc một lọn chả tròn tròn như cái cán dao, đùa vui với con nhỏ cùng bàn: “Hả mồm ra, hả ra, ngậm nào” Đứa con gái phạch mồm ngậm một lọn chả. Có thể vì đó là thịt chăng. Con nhỏ đôi mắt riu ríu, ngậm đầy miệng cái dài dài tròn tròn như cái ngón chân cái. Nó ngước mặt đỏ lựng lên, để cho khỏi rơi, cho thêm hình tượng. Nó chừng như nhận ra trong chả lợn beo béo có cái hương vị cặc

Một hôm nhân giỗ kỵ ông cố nội của cụ, tức ông cao của thế hệ sau cụ. Ông này quan thượng thư triều Nguyễn. Con cháu tề tựu. Lạ thay, bọn nghèo khó làm thuê cuốc mướn, thợ hồ, thợ may, bán báo dạo, bọn này ăn bận khá đàng hòang, tác phong cung kính. Nhưng một đám tạm gọi là có ăn học, cha mẹ chúng là các quan lớn, các đại gia tư sản, lại ăn bận khá phiêu lưu trong mắt cụ. Áo ba lỗ, quần cụt ống, trang diện cở May - Cồ; có đứa lòi lỗ rốn, tròn sâu màu trắng nhủ, tô vẽ lỗ rốn như môi mắt; có đứa con gái cúi xuống lạy ông Cao tổ thì lòi cái khe mông đít đen đen mốc mốc.

Cụ gọi một thằng đầu đinh trong đám ra nói nhỏ nhẹ:

“ Này cháu, ông đây cũng  từng nhảy đầm, rất thích nhạc pop, cũng khoái cái cách tân, nhưng hôm nay ngày kỵ giỗ ông Cao các cháu. Không có ông Cao không có giềng mối tộc họ to lớn nhiều mặt này”.

Bọn nam nữ OK, rồi lặng lẽ cùng nhau ra về. Tưởng rằng bọn nó về thay áo quần chỉnh tề, trùng tu những bộ mặt coi ông bà ông vải chẳng là cái đinh cái đéo gì, quay trở lại đám kỵ giỗ. Không phải, chúng đồng lọat kéo nhau ra quán lai rai. Trước khi ra quán, con nhỏ lòi khe mông đít khề khà dớt một mớ đồ cúng chưa kịp đưa lên bàn thờ ông Thượng thư làm mồi nhậu.

Một sáng cụ Gàn đi tập dưỡng sinh. Trời hãy còn tối đen, cái sao Mai lơ láo một phần trời, một bọn lưu manh – mà bọn lưu manh thời hiện đại đi xe dream, ăn mặc đàng hoàng, có điện thoại cầm tay, trộm cướp lưu động – đang cạy cửa một căn nhà, định gom của.

Nhiều người đi qua thấy vậy lặng thinh, làm ngơ bỏ đi. Mặc kệ, chúng cạy cửa nhà người đâu cướp của nhà mình. Không quan tâm tới nỗi đau kẻ khác là hợp trào lưu. Nhưng cụ Gàn, cụ từ tốn vào cuộc:

“Này các cháu, ta nên làm ăn lương thiện, sao đi làm chuyện phi pháp thế này”.

Bọn ăn trộm thời thượng bị động ổ, bỏ đi. Ra đầu đường chúng dừng lại, chờ cụ tới. Bọn lưu manh vừa dạy dỗ vừa hài tội cụ:

“Thằng cha già. Việc ai nấy làm, đời ai nấy biết, không nên lắm chuyện nghe. Tao tặng lão một cục gạch này”
  
Tưởng nể tuổi già dọa chơi, hóa ra tụi nó đinh cụ. Đinh nhiệt tình.

+++

Tôi hay tin cụ Gàn qua đời đã bảy ngày sau. Hôm ấy trời đất buồn bã. Cỏ cây hóa xám. Trong những khoảng cách nắng mềm, lại mịt mù những cơn mưa lớn. Lội qua năm bảy con sông phố nước ngập, tôi giáp mặt cái bàn thờ của cụ.

Cái lạ, trên bàn thờ thay vì thờ tấm chân dung cụ Gàn, con cháu cụ lại thờ một cục gạch thấm máu. Nó như một bức tượng. Thần tượng này bị bể một miếng dính máu. Chỗ ấy là chỗ cục gạch từng tử chiến với cái sọ não uyên bác của cụ.Tôi định hỏi cách tôn kính lạ lùng này nhưng lại chợt hiểu: 

“Con cháu nhà cụ Gàn thật tuyệt cú mèo. Trên mặt đất này, hôm nay, nếu thờ cái nạn nhân thì có mà hàng triệu triệu. Thờ quách cái tội lỗi, cái nguồn cội bao la gây ra tội. Đơn giản là thờ cái hệ thống.”

“ Ừ, thờ quách cái Hệ-thống-thấm- máu”


Thứ Năm, 29 tháng 11, 2018

BIỆT THỰ QUỶ ÁM

-Tao đây. Gì đó mậy?
-  Tao...tao mua được ngôi nhà rồi- giọng Thành  rất phấn khích
- Nhà nào?- Tôi hỏi
- Thì ' Biệt thự quỷ ám" đó!
- Sao? Thật à?- tôi kinh ngạc kêu lên. Tim đập thình thịch vì vui mừng
- Chiều tao về ghé mày luôn. Mày ở
nhà đợi tao - Thành nói liền một mạch. không đợi tôi trả lời đã tắt máy.

@

Tôi và Thành  thân  nhau từ nhỏ  học chung cùng lớp cho đến giải phóng.Gia đình Thành giàu có. Ba Thành được xem là một trong 10 nhà tư sản của miền Nam. Nhà Thành nằm trên đường Nguyễn Thông. Đúng hơn là một biệt thự  kiểu Pháp trong khuôn viên hơn 1000 m2. Bên  trái  sân nhà có cây thị cổ thụ to lớn đã hơn 100 tuổi, vào mùa trái chín thơm cả đoạn đường. Thích thú nhất của chúng tôi là được leo trèo trên cây, lên tận ngọn để có thể nhín ngắm thành phố. Nhất là vào giờ tan trường. chúng tôi có thể nhìn thấy cả  nữ sinh Gia long tỏa ra như  đàn bướm trắng.

Mẹ Thành là người cùng quê với Ba tôi, Thành lại là con một nên bà cũng rất thương yêu tôi. Bà đẹp và dịu dàng. Chưa bao giờ tôi thấy Bà lớn tiếng la mắng Thành. Ba Thành hẳn do công việc làm ăn nên ông thường xuyên vắng nhà, có khi cả tháng.

Năm 1975, chúng tôi đang học 12. Tôi nhớ, chiều 30/4 , Thành đạp xe qua nhà tôi rủ đi chơi. Tôi không khỏi ngạc nhiên : ủa, mày không đi à? Nó trợn mắt hỏi lại : đi đâu?
_ Thì ra nước ngoài.Ông già mày không sợ Việt Cộng sao?
_Muốn đi thì đầu năm  đã đi rồi- Nó cười rồi bảo : Ba tao nói Việt cộng cũng là người Việt mình.

Mấy ngày sau, xe cộ thông thương, mẹ tôi bảo tôi đứa mấy đứa em về quê. Tôi qua nhà Thành định từ giã nó nhưng nhà đóng cửa im ỉm. Tôi nghĩ chắc gia đình nó cũng đã về quê. Quê nội Thành ở tận Quãng Nam.

Kể từ đó, hơn 10 năm sau tôi mới gặp lại Thành.

@

Tôi về Tây ninh rồi ở lại luôn . Không thi vào đại học, tôi đi làm công nhân. Chiến tranh Tây Nam xảy ra, tôi nhập ngũ . Tôi bị thương ở chiến trường Cam pu chia, rồi được xuất ngũ. Tôi trở về Sài Gòn vào đại học. Tôi đến nhà Thành thì mới biết chuyện kinh khủng đã xảy ra. Sự thật thế nào không ai nắm rõ, theo lời đồn thì ba Thành tham gia tổ chức Liên Minh phục quốc gì gì đó. Hôm bộ đội ập đến bắt, ông đã dùng súng tự sát ngay trong nhà mình. Chôn cất chồng xong, mẹ Thành cũng treo cổ tự tử nơi cây Thị bên hông nhà.
Chính quyền tiếp quản ngôi nhà , lúc đầu làm trụ sở ban quân quản, sau đó mới cấp cho một vị sư đoàn trưởng.
Cái tên " Biệt thự quỷ ám " có là sau khi vị Sư trưởng này cũng tự sát trong nhà.  Nghe nói ông bị tòa án quân đội kết án vì đã ra lệnh tàn sát hơn 100 người dân Cam-pu-chia trong chiến tranh biên giới Tây Nam. Biệt thự lại đổi chủ cho một vị đại tá công an. Vị này là một nhân vật nổi tiếng, được phong tặng anh hùng nhưng về sau, báo chí phanh phui ông đã dính líu, bao che cho các hoạt động tội phạm của Năm Cam. Con gái ông vì không chịu được sự đã kích quá lớn này, cô ấy đã treo cổ tự vẫn  cũng nơi cây Thị.
Tiếng đồn  ngôi biệt thự đã bị quỹ ám càng lan xa.
Biệt thự lại đổi chủ. Chủ nhân cuối cùng cũng là một vị tướng công an. Mấy năm trước vị này dính líu đến một đường dây đánh bạc, bị bắt và bị kết án 20 năm tù giam. Biệt thự lại được chính quyền tiếp quản nhưng từ đó thì bỏ hoang.

@

Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi về quê dạy học rồi vào làm ở tờ báo tỉnh. Một tối, Thành tìm đến nhà tôi. Tôi không thể nào diễn tả được cảm giác vui mừng khi tôi mở cửa và nhận ra người gõ cửa nhà mình lại chính là thằng bạn đã mất tích nhiều năm. Vậy là đã hơn 20 năm tôi mới gặp lại Thành.
Đêm đó, Thành kể cho tôi nghe mọi chuyện.
 Thành bảo : "Tao không tin ông già  tham gia  bất kỳ tổ chức phản động nào . Phần lớn tài sản ông đã hiến cho Nhà nước . Gần cả năm, ông chỉ quanh quẩn ở nhà. Hôm xảy ra chuyện, tao đưa bà già đi chợ về gần tới nhà thấy bộ đội vây quanh nhà rất đông. Mẹ tao sợ quá bảo tao trốn đi. Cả tuần sau tao mới dám lần về thì mới biết ba mẹ tao đã chết.Kể từ đó,  tao lưu lạc nay đây mai đó, người thân cũng chẳng dám tìm. Tao  phải kiếm sống bằng  nghề bốc vác.Trong đám bốc vác có thằng Thuận trúng tuyển nghĩa vụ quân sự. Nó cũng có gương mặt hao hao như tao nên tao bảo để tao đi thay nó. Nhờ vậy mà tao thay tên đổi họ luôn, vào trung đoàn Gia định rồi sang Cam-Pu-Chia. Cũng may, vào đến Nam -Vang tao sống sót , chỉ bị thương ở vai. Xuất ngũ, tao về Tây ninh làm bảo vệ rừng , rồi lấy vợ. Vợ tao cũng làm ở lâm trường. Vợ tao, cũng không biết tên thật của tao". Thành bật khóc.

@

- Mày mua ngôi nhà vợ mày biết không?- Tôi hỏi
- Biết chứ. Tao phải bán 500ha rừng, 200ha cao su mới có đủ tiền.- Thành châm thuốc hút., mắt đăm đăm nhìn lên trần nhà- Vợ tao cũng là cô nhi, không đẹp nhưng hiền lành, chăm làm. Mọi chuyện làm ăn đều do tao quyết định.
- Thế mày đã kể hết cho vơ mày nghe chưa?- Tôi lại hỏi
-Ừ, tao định về sẽ kể hết. Dù sao, giấy tờ nhà là tên thật của tao.
-Mày lấy lại tên thật có bị truy cứu gì không?
- Không- Thành cười- Thời bây giờ mày có tiền làm gì cũng dễ

Thành bây giờ đã là người giàu có nhất nhì tỉnh, với hàng ngàn ha rừng và cao su.Thành bảo, nhờ đọc chuyên mục "Rừng là vàng" trên báo ( chuyên mục tôi phụ trách), Thành đã ký cóp mua từng ha rừng. Sau 10 năm , Thành đã có gần 300ha. Lần khai thác gỗ dầu tiên đã thu được hơn 5 tỷ. Rồi từ đó,khi chính sách 5 triệu hecta rừng triển khai, Thành nhanh chóng thu mua đất trồng rừng. Rồi có chủ trương trồng cao su thay rừng kinh tế, Thành phát triển cao su. Chỉ trong mấy năm cao su được giá Thành như diều gặp gió.
- Chừng nào nhận bàn giao nhà, mày đi với tao- Thành bảo- Nói thật, một mình chắc tao không đủ can đảm bước vào nhà.
- Nhà mày, mày không dám vào chẳng lẽ tao dám- Tôi đùa


- Bà này, giờ mình đi được rồi chứ?
Tôi đang ngồi nơi phòng đọc sách, viết lại câu chuyện về  ngôi " biệt thự quỷ ám" thì nghe tiếng.
- Tôi cũng định nói với ông. Giao nhà lại cho thằng Phong thì tôi yên tâm lắm. - Tiếng người đàn bà nhỏ nhẹ.

Tôi vội vả mở cửa bước ra nhưng chỉ kịp nhìn thấy hai bóng người nắm tay nhau bước vào cây thị và biến mất.
Tôi bước ra sân, định đi đến cái xich đu  cạnh cây thị. 
- Nè, không có dành chỗ của em đó.
Tôi giật thót tim khi nghe tiếng nói vang lên rất gần bên tai. Đúng lúc đó, một cô bé xuất hiện trên chiếc ghế xích đu. Vừa đong đưa, cô vừa nói ;
- Anh đừng có sợ em nhé! - Cô cười, tiếng cười thật trong trẻo- Em chỉ là con ma hiền lành thôi.
Tôi lạnh cả sống lưng, cố trấn tỉnh. Đây là lần đầu tiên tôi gặp ma. 
Tôi bước về phía cô bé để nhìn rõ hơn. Đúng, tôi không lầm. Ánh trăng xuyên qua kẽ lá hiện rõ gương mặt của một thiếu nữ 15-16 tuổi.
-Em là... tôi ấp úng
Không đợi tôi nói hết, cô bé bảo
- Em là con bé treo cổ ở cây thị này nè.
- Em... lưỡi tôi như cứng lại.
- Anh ngồi xuống đây đi- cô bé chỉ vào xích đu, bảo tôi ngồi cạnh cô- Anh là nhà văn phải không? Anh đang viết gì vậy cho em đọc được không?
- Tôi...cô bé cướp lời
- Hỏi thế thôi chứ em biết anh đang viết vế cái " Biệt thự quỷ ám " này chứ gì?
- Vâng- tôi đáp. Tôi đã lấy lại được bình tinh cũng nhờ vào cai vẽ tư nhiên ngây thơ của cô bé.- Em là con của Thiếu tá Quang- tôi mạnh dạn hỏi.
Cô bé không trả lời chỉ gật đầu.
- Những chuyện xảy ra ở biệt thự này là do ma quỷ gây ra?
Cô bé trố mắt nhìn tôi, rồi bảo : Làm gì có. Hai bác ở lại đây chỉ vì oan khuất của họ. Họ còn cứu em.
- Sao?- Thấy tôi kinh ngạc, cô bé bảo : Em đã uống thuốc rầy nhưng lại sợ ói mửa, cấp cứu được nên mới mới treo cổ. Chính hai bác đã làm gãy cành thị cứu em  nhưng đã muộn vì  chất độc phát tác.
- Em nói... hai bác
- Thì ba má anh Thành đó,!
Tôi im lặng. Lấy thuốc châm hút. Ánh lửa càng giúp tôi thấy rõ gương mặt của cô bé. Một cô gái xinh đẹp với đôi mắt bồ câu, đượm buồn
- Họ đi rồi sao em vẫn ở đây ?
- Chờ anh đó- cô bé nhìn tôi ánh mắt tinh nghịch.
- Sao lại chờ anh ?- tôi trở nên dạn dĩ và có cảm giác như thân thiết với cô.
-Chờ anh viết câu chuyện  về ngôi  biệt thự này ?
...
- Chuyện xảy ra ở Biệt thự này là do nhân quả thôi - Cô bé nói- Ma quỷ đâu xui khiến được con người khi họ có tâm lương thiện.
Cô bé nhìn tôi cười, rồi bảo : Em và anh có duyên nên mới có thể nói chuyện được với nhau.
Chưa nói hết lời, cô bé vụt biến mất, chỉ để lại một câu :
- Hôm nào, em sẽ để anh thấy em của hiện tại.
- Này, này... em tên gì  ?
- Nữ hoàng cây thị - không thấy cô bé đâu, chỉ nghe tiếng cô cười khanh khách
@

Sau khi mua lại biệt thự, Thành đã bỏ ra một khoản tiền lớn để sửa chửa, phục chế lại như hiện trạng ngày xưa. 
Thành đưa vợ con định cư ở Mỹ và giao ngôi biệt thự cho tôi quản lý.
Hôm con trai tôi xuống chơi, nó trèo lên ngọn cây thi và sung sướng bảo với tôi nó có thể nhìn thấy cả Nhà thờ Đức Bà.
Nghe nó nói, lòng tôi lại nhớ những chiếc áo trắng của nữ sinh trường Gia Long. Ngày đó , tôi đã ứng khầu 2 câu thơ khi tôi và Thành đang ngồi hút thuốc ngắm nữ sinh Gia Long tan trường

" Chiều tan trường về em tóc rối
Ta ngẩn ngơ nhìn trong khói thuốc vàng bay "

@

Tôi đã viết xong câu chuyện " Biệt thự quỷ ám"  chờ mấy đêm rồi vẫn không thấy " Nữ hoàng cây thị " xuất hiện. Tôi hy vọng em đọc và hài lòng để thanh thản ra đi ...






Chủ Nhật, 25 tháng 11, 2018

Harari – Có Phải Chúng Ta Đã Hạnh Phúc Hơn Trong Thời Đồ Đá?



Cuộc sống hiện nay có khiến chúng ta hạnh phúc không? Chúng ta đã thành tựu được nhiều nhưng chúng ta cũng đã thiệt mất rất nhiều. Có phải con người đã thích hợp hơn với một đời sống của kiếm ăn bằng săn bắn hái lượm?


Chúng ta có nhiều quyền năng hơn những tổ tiên của chúng ta, nhưng chúng ta có nhiều hạnh phúc hơn không? Những nhà sử học hiếm khi dừng lại để suy nghĩ về vấn đề này, nhưng cuối cùng, không phải lịch sử là về câu hỏi đó? Sự hiểu biết của chúng ta và sự phán xét của chúng ta, hãy tạm nói, về sự truyền bá trên thế giới của tôn giáo tin chỉ một gót chắc chắn tùy thuộc vào việc chúng ta kết luận rằng liệu nó nâng cao hay hạ thấp những mức độ hạnh phúc của thế giới. Và nếu sự lan truyền của tôn giáo tin chỉ một gót đã không có tác động đáng ghi nhận nào đến hạnh phúc của thế giới, vậy nó đã làm được khác biệt gì?




Với sự nổi lên của chủ nghĩa cá nhân và sự suy thoái của những hệ ý thức tập thể, hạnh phúc có thể được cho là trở thành giá trị cao nhất của chúng ta. Với sự tăng trưởng lớn lao đến kỳ diệu trong sự sản xuất của con người, hạnh phúc cũng đang tiếp nhận mức độ quan trọng chưa từng có về kinh tế. Nền kinh tế tiêu thụ đang ngày càng chuyển sang cung ứng hạnh phúc hơn là cung cấp sinh kế tối thiểu hoặc ngay cả cung cấp sự giàu có hay sung túc, và một hợp xướng gồm nhiều giọng nói hiện đang kêu gọi một thay thế những đo lường GDP với những chỉ số thống kê về hạnh phúc, như thước đo kinh tế cơ bản. Chính trị dường như cũng làm theo. Quyền truyền thống với sự “theo đuổi hạnh phúc” thì được chuyển hóa, khó nhận thấy, vào trong hình thái của một ‘quyền hưởng hạnh phúc’, có nghĩa là nó đang trở thành nhiệm vụ của chính phủ để bảo đảm hạnh phúc cho những công dân của mình. Năm 2007, Ủy ban Europe đã bắt đầu tung ra “Vượt khỏi GDP” để xem xét liệu có thể thực hiện được việc dùng một chỉ số an sinh để thay thế hoặc bổ sung cho GDP. Những sáng kiến ​​tương tự gần đây đã được phát triển ở nhiều nước khác – từ Thailand đến Canada, từ Israel đến Brazil.


Hầu hết những chính phủ vẫn chú trọng vào sự thành tựu tăng trưởng kinh tế, nhưng khi được hỏi tăng trưởng như thế có gì là tốt, ngay cả những nhà tư bản ‘quyết liệt đến chết’ hầu như luôn luôn quay sang hạnh phúc. Giả sử chúng ta bất chợt gặp (thủ tướng United Kingdom) David Cameron, và đòi hỏi muốn biết tại sao ông quá quan tâm đến tăng trưởng kinh tế. “Vâng,” ông có thể trả lời, “tăng trưởng là điều cần thiết để cung cấp cho người ta mức sống cao hơn, chăm sóc y tế tốt hơn, nhà ở lớn hơn, xe ô tô nhanh hơn, kem ăn ngon miệng hơn.” Và, chúng ta có thể hỏi thêm nữa, mức sống cao hơn thì có gì quá tốt thế?“Không rành rành ra đấy sao?” Cameron có thể trả lời, “Nó làm người ta hạnh phúc hơn.”


Hãy giả sử, để biện luận cho gọn, rằng bằng cách nào đó chúng ta có thể chứng minh một cách khoa học rằng những tiêu chuẩn sống cao hơn không chuyển thành hạnh phúc lớn hơn. “Nhưng David,” chúng ta có thể nói, “nhìn vào những nghiên cứu lịch sử, tâm lý và sinh học này. Chúng chứng minh vượt khỏi bất kỳ một nghi ngờ hợp lý nào rằng việc có nhà lớn hơn, kem ngon hơn và thậm chí thuốc men tốt hơn không làm tăng hạnh phúc của con người”. “Thật vậy sao?” Ông ta sẽ ngạc nhiên thở hắt ra, “Tại sao chả ai nói với tôi cả! Chà, nếu đúng như vậy, hãy quên những kế hoạch thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của tôi đi. Tôi sẽ bỏ tất cả, và nhập đoàn sống chung với một cộng đồng hippie.”


Đây là một trường hợp rất khó có thể xảy ra, và không chỉ vì cho đến nay chúng ta hầu như không có nghiên cứu khoa học nào về lịch sử dài hạn của hạnh phúc. Những học giả đã nghiên cứu lịch sử của tất cả mọi sự vật việc – chính trị, kinh tế, bệnh tật, tình dục, thực phẩm – nhưng hiếm khi họ đã hỏi chúng tất cả ảnh hưởng thế nào đến hạnh phúc con người. Trong những mười năm qua, tôi đã viết một lịch sử của loài người, theo dõi sự biến đổi của loài chúng ta từ một con ape không đáng kể ở Africa thành chủ nhân của cả hành tinh. Không phải là dễ dàng để hiểu những gì đã biến Homo sapiens thành một kẻ giết hại hàng loạt môi trường sinh thái; tại sao đàn ông lại thống trị phụ nữ trong hầu hết những xã hội loài người; hoặc tại sao chủ nghĩa tư bản đã trở thành tôn giáo thành công nhất từ ​​trước tới nay. Không dễ để giải quyết những câu hỏi như vậy bởi vì những học giả đã đưa ra rất nhiều trả lời khác nhau và mâu thuẫn nhau. Ngược lại, khi đánh giá thành tựu sau cùng – không biết hàng nghìn năm của phát minh và những khám phá có khiến chúng ta hạnh phúc hơn không – thật ngạc nhiên khi nhận ra rằng những học giả đã bỏ quên ngay cả việc nêu lên câu hỏi. Đây là thiếu xót lớn nhất trong sự hiểu biết của chúng ta về lịch sử.


Quan điểm Whig về lịch sử


Mặc dù có ít học giả đã nghiên cứu lịch sử dài hạn của hạnh phúc, hầu hết mọi người đều có một vài ý tưởng về nó. Một định kiến ​​phổ biến – thường gọi đặc biệt là “quan điểm Whig về lịch sử” – xem lịch sử như sự diễn hành khải hoàn của tiến bộ. Mỗi những nghìn năm qua đều chứng kiến ​​những khám phá mới: canh nông, bánh xe, chữ viết, kỹ thuật in, động cơ hơi nước, thuốc kháng sinh. Con người thường dùng quyền năng mới tìm được để làm giảm bớt những khổ sở và thực hiện những ước vọng. Theo đó, sự tăng trưởng theo cấp số nhân về quyền năng con người phải có kết quả là sự tăng trưởng theo cấp số nhân về hạnh phúc. Người thời nay hạnh phúc hơn những người thời trung cổ, và những người thời trung cổ đã hạnh phúc hơn những người thời đồ đá.


Nhưng quan điểm về tiến bộ này gây rất nhiều bất đồng. Mặc dù ít người sẽ tranh luận về sự kiện rằng quyền năng con người đã phát triển từ thời bình minh của lịch sử, nhưng tương liên giữa quyền năng với hạnh phúc là điều kém rõ ràng hơn nhiều. Thí dụ, sự ra đời của nông nghiệp đã làm tăng sức mạnh tập thể của nhân loại với cấp số nhiều bội phần. Tuy nhiên, nó không nhất thiết đã cải thiện số phận cá nhân. Trong hàng triệu năm, cơ thể con người và não thức đã thích nghi để chạy đuổi theo loài dê núi, trèo cây để hái táo, và dọ dẫm chỗ này sang chỗ kia để tìm nấm. Ngược lại, cuộc sống nhà nông, gồm những giờ đằng đẵng dài hết ngày trong công việc nông nghiệp nặng nhọc: cày xới, làm cỏ, thu hoạch và gánh từng thùng lấy nước sông. Lối sống như vậy có hại cho lưng, đầu gối và khớp xương con người, và làm tê cóng não thức con người.


Đổi lấy tất cả những công việc nặng nhọc này, những người làm ruộng thường nhận được chế độ ăn uống tồi tệ hơn so với những người săn bắn hái lượm, và khổ hơn vì kém bổ dưỡng và đói nhiều hơn. Những vùng định cư đông đúc của họ trở thành lò sinh sản những bệnh truyền nhiễm mới, phần lớn chúng có gốc từ những động vật thuần hóa trong những trại nuôi. Nông nghiệp cũng mở đường cho sự phân chia giai cấp xã hội, cho sự khai thác bóc lột và có thể cả chế độ gia trưởng. Từ cái nhìn theo hướng hạnh phúc cá nhân, “cách mạng nông nghiệp”, theo lời của nhà khoa học Jared Diamond, là sự “sai lầm tồi tệ nhất trong lịch sử nhân loại”. [1]


Tuy nhiên, trường hợp của cách mạng nông nghiệp không phải là một lệch lạc duy nhất. Sự diễn hành của tiến bộ từ những nhà nước-thành phố Sumer đầu tiên đến những đế quốc Assyria và Babylonia, đều đã đi kèm với sự suy thoái ngày càng tăng trong địa vị xã hội và tự do kinh tế của phụ nữ. Thời Phục hưng của Europe, với tất cả những khám phá và sáng chế tuyệt vời của nó, đã giúp ích cho ít người ngoài vòng giới hạn của giới ưu tú chọn lọc phái nam. Sự lan truyền của những đế quốc Europe đã thúc đẩy sự trao đổi trong công nghệ, ý tưởng và sản phẩm, nhưng đây không phải là những ‘tin lành’ cho hàng triệu người bản địa America, người da đen Africa and thổ dân Australia.


Không cần phải khai triển thêm. Những học giả đã kỹ lưỡng đập tan cái nhìn Whig về lịch sử, nhưng câu hỏi duy nhất còn lại là: tại sao nhiều người vẫn tin vào nó?


Thiên đường đã mất


Có một định kiến ​​cũng ngang thế nhưng đối nghịch hoàn toàn, có thể được gọi là “cái nhìn lãng mạn về lịch sử”. Định kiến này cho rằng giữa quyền lực và hạnh phúc có tương quan ngược nhau. Khi nhân loại có được nhiều quyền lực hơn, nó tạo ra một thế giới máy móc lạnh lẽo, vốn ít thích hợp với những nhu cầu thực sự của chúng ta.


Cái nhìn lãng mạn không bao giờ mệt mỏi với việc săn tìm mặt tối của mọi khám phá. Chữ viết đã là nguyên nhân của bòn rút sưu thuế. Kỹ thuật in đã sinh ra tuyên truyền và tẩy não đại chúng. Cômputơ biến chúng ta thành những zômbie. Những chỉ trích gay gắt nhất tất cả dành riêng cho ‘ba ngôi’ bất lương là chủ nghĩa công nghiệp, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa tiêu thụ. Ba ‘ông ba bị’ này đã gây xa lạ, lạc lõng cho người ta với môi trường tự nhiên, với cộng đồng nhân loại, và thậm chí với những sinh hoạt hàng ngày của họ. Những công nhân nhà máy thì không gì khác hơn một răng cưa bánh xe cơ khí, một nô lệ cho những đòi hỏi của những máy móc và lời lãi của tính toán tiền bạc. Tầng lớp trung lưu có thể an hưởng những điều kiện làm việc và nhiều tiện nghi vật chất tốt hơn, nhưng nó trả cho chúng một giá cắt cổ của sự tan rã xã hội và hoang vắng tinh thần. Từ một hướng nhìn lãng mạn, đời sống của những nông dân trung cổ thì ưa chuộng hơn so với của những công nhân nhà máy và của những nhân viên văn phòng thời nay, và đời sống của những người săn bắn hái lượm là tốt nhất tất cả.


Tuy nhiên, cái nhìn lãng mạn nhấn mạnh việc nhìn vào mặt tối của mỗi khám phá mới lạ thì cũng giáo điều như sự tin tưởng Whig vào tiến bộ. Thí dụ, trong hai trăm năm qua, y học thời nay đã đánh bại những đội quân của những bệnh tật vốn vẫn rình rập loài người, từ bệnh lao và bệnh sởi đến bệnh tả và bạch hầu. Tuổi thọ trung bình đã tăng vọt và tỉ lệ trẻ em chết non trên thế giới đã giảm từ khoảng 33% xuống dưới 5%. Ai có thể ngở vực rằng điều này đã tạo ra một đóng góp to lớn cho hạnh phúc, không chỉ của những đứa trẻ có thể chết, nhưng còn của cha mẹ, anh chị em và bạn bè của chúng?


Thiên đường bây giờ


Một lập trường uyển chuyển hơn đồng ý với cái nhìn lãng mạn, cho đến thời hiện nay, rằng không có tương quan rõ ràng giữa quyền năng và hạnh phúc. Nông dân thời trung cổ thực sự có thể đã khốn khổ hơn tổ tiên săn bắn hái lượm của họ. Nhưng lập trường lãng mạn thì sai lầm trong phán xét khắc nghiệt của họ về những gì là phẩm chất của thời hiện nay. Trong vài trăm năm qua chúng ta không chỉ có quyền năng to lớn, nhưng quan trọng hơn, những hệ ý thức nhân văn mới cuối cùng đã chặt chẽ gò ép quyền năng tập thể của chúng ta vào sự phục vụ hạnh phúc cá nhân. Mặc dù có một số thảm họa như Holocaust và mua bán nô lệ xuyên Atlantic (như chuyện đã kể), chúng ta đã cuối cùng ở khúc rẽ ngoặt cuối và đã bắt đầu tăng trưởng một cách hệ thống hạnh phúc trên toàn thế giới. Những chiến thắng của y học thời nay chỉ là một trong những thí dụ. Những thành tựu chưa từng có khác gồm sự suy giảm những chiến tranh quốc tế; sựsụt giảm mạnh về bạo động trong gia đình; và sự loại bỏ nạn đói với quy mô lớn. (Xem The Angels of Our Nature của Steven Pinker) [2]


Tuy nhiên, điều này nữa, cũng là một sự giản lược hóa. Chúng ta chỉ có thể chúc mừng chúng ta về những thành tựu của Homo sapiens thời nay nếu chúng ta hoàn toàn làm ngơ trước số phận của tất cả những loài động vật khác. Phần lớn sự phong phú trong việc bảo vệ con người khỏi những bệnh tật và nạn đói đã tích luỹ bằng tổn thất của những con khỉ trong thí nghiệm, những con bò sữa và gà trong những dây chuyền sản xuất công nghiệp. Trong hai trăm năm qua, hàng chục tỷ của chúng đã là đối tượng nạn nhân của một chế độ khai thác công nghiệp, mà sự tàn ác của nó không có tiền lệ nào đã thấy trong những sử sách ghi từng năm của hành tinh Trái Đất.


Thứ hai, khung thời gian mà chúng ta đang nói đến thì rất ngắn. Ngay cả nếu chúng ta chỉ tập trung vào số phận của con người, thật khó để biện luận rằng đời sống của người bình thường làm thợ mỏ xứ Wales, hay làm ruộng nước Tàu năm 1800 thì tốt hơn so với đời sống của người săn bắn hái lượm bình thường 20.000 năm trước. Hầu hết mọi người bắt đầu tiếp nhận những thành quả của y học thời nay không sớm hơn năm 1850. Những trận đói kém chết hàng loạt và những chiến tranh lớn tiếp tục tàn phá phần lớn nhân loại cho đến giữa thế kỷ 20. Mặc dù vài chục năm gần đây đã cho thấy tương đối là trong một thời hoàng kim của nhân loại ở những nước đã phát triển, nhưng vẫn còn quá sớm để biết liệu điều này có phải trong nền tảng là một thay đổi của dòng chảy lịch sử, hay chỉ là một cơn sóng nhất thời của may mắn: 50 năm thì đơn giản là chưa đủ thời gian hầu có thể căn cứ vào đó để thiết lập những tổng quát hóa triệt để và toàn diện.


Thật vậy, thời hoàng kim hiện có ngày nay có thể quay ra là đã gieo những hạt giống của thảm họa tương lai. Trong vài những mười năm qua, chúng ta đã làm xáo trộn sự cân bằng sinh thái của hành tinh chúng ta trong vô số những cách thức phức tạp, và không ai biết hậu quả cảu chúng sẽ là gì. Chúng ta có thể đang phá hủy nền tảng của sự thịnh vượng của con người trong một cơn truy hoan cuồng loạn của sự tiêu thụ bất cần liều lĩnh.


Cô đơn và buồn xám?


Ngay cả khi chúng ta chỉ tính đến những công dân của những xã hội giàu có ngày nay, những người với cái nhìn lãng mạn có thể chỉ ra rằng sự thoải mái và an ninh của chúng ta có cái giá phải trả của chúng. Homo sapiens đã tiến hóa như một động vật xã hội, và những điều kiện thỏa mãn hạnh phúc chúng ta thường nhận ảnh hưởng từ phẩm chất của những quan hệ nhân văn nhiều hơn từ những tiện ích gia đình, khối tiền gửi nhà băng, hay ngay cả sức khỏe của chính chúng ta. Thật không may, sự cải thiện to lớn trong những điều kiện sinh hoạt vật chất mà người phương Tây giàu có đã được hưởng trong hơn trăm năm vừa qua đã đi kèm với sự sụp đổ của những cộng đồng thân mật nhất.


Mọi người trong thế giới phát triển đều dựa vào nhà nước và thị trường cho hầu hết mọi thứ họ cần: thức ăn, nhà ở, giáo dục, y tế, an ninh. Do đó nó đã trở thành có thể tồn tại mà không cần có những gia đình mở rộng hoặc bất kỳ bạn bè thực sự nào. Một người sống trong một binđing nhiều tầng cao ở London, bất cứ nơi nào cô đi đâu, đều có hàng ngàn người xung quanh, nhưng cô có thể không bao giờ đến thăm gia đình hay người ở ngay bên cạnh, và có thể chỉ biết rất ít về những đồng nghiệp nơi cô làm việc hàng này. Ngay cả bạn của cô cũng có thể chỉ là những bạn gặp trong quán rượu. Nhiều tình bạn ngày nay gồm không gì nhiều hơn nói chuyện và có dịp vui chung cùng nhau. Chúng ta gặp một người bạn ở quán rượu, gọi điện thoại hoặc gửi email cho người ấy, để chúng ta có thể giải tỏa tức giận chúng ta gặp phải về những gì đã xảy ra hôm nay trong văn phòng, hoặc chia sẻ những suy nghĩ của chúng ta về vụ bê bối mới nhất trong hoàng gia. Tuy nhiên, làm sao bạn có thể thực sự biết một người chỉ từ những bàn luận, đàm thoại?


Ngược lại với bạn bè kiểu ‘quán rượu’ như vậy, bạn bè trong thời đồ đá tùy thuộc vào nhau cho sự sống còn của họ. Con người sống trong những cộng đồng gắn bó mật thiết, và bạn bè là những người mà bạn đã cùng đi săn loài voi ma mút khổng lồ. Bạn đã cùng sống sót những chuyến đi dài và những mùa đông khó khăn. Bạn đã chăm sóc lẫn nhau khi một trong những người bạn ngã bệnh, và chia sẻ những mẩu thức ăn cuối cùng của bạn vào những lúc cần. Những người bạn như vậy biết nhau sâu sắc hơn nhiều cặp vợ chồng ngày nay. Thay thế những mạng lưới bộ lạc bấp bênh như vậy với sự an toàn của những nền kinh tế thời nay và những quốc gia, rõ ràng là có những ưu thế to lớn. Nhưng phẩm chất và chiều sâu của những quan hệ thân mật thì có nhiều phần đã bị thiệt hại.


Ngoài những quan hệ nông cạn hơn, con người thời nay cũng chịu khổ từ một thế giới cảm giác nghèo nàn hơn rất nhiều. Những người săn bắn hái lượm cổ xưa sống trong giây phút hiện tại, có nhận thức bén nhọn về thính giác, vị giác và khứu giác. Sự sống còn của họ tùy thuộc vào nó. Họ lắng nghe những cử động nhỏ nhất trên cỏ để tìm xem có phải một con rắn có thể đang nấp ở đó không. Họ cẩn thận quan sát chùm lá rừng để tìm trái cây và tổ chim. Họ ngửi gió để dò dẫm nguy hiểm đang đến gần. Họ di động với nỗ lực tối thiểu để giữ nhẹ nhàng và tránh tiếng động, và biết những cách ngồi, bước và chạy nhanh nhẹn và hiệu quả nhất. Liên tiếp và dùng cơ thể dưới nhiều cách khác nhau đã cho họ sự khéo léo thể chất vốn người ngày nay không thể nào có được, ngay cả sau nhiều năm tập yoga hay tàichí.


Hôm nay chúng ta có thể đi đến siêu thị và chọn hàng ngàn món ăn khác nhau. Nhưng bất cứ món gì chúng ta chọn, chúng ta có thể ăn nó trong vội vàng trước một TV, không thực sự chú ý đến hương vị. Chúng ta có thể đi nghỉ mát đến hàng nghìn địa điểm tuyệt vời. Nhưng bất cứ nơi nào chúng ta đến, chúng ta có thể chơi với điện thoại thông minh của chúng ta thay vì thực sự nhìn ngắm nơi này. Chúng ta có nhiều lựa chọn hơn bao giờ hết, nhưng lựa chọn này là gì, khi chúng ta đã mất khả năng thực sự để chú ý?


Tốt, bạn đã trông mong gì?


Ngay cả nếu bạn không đồng ý với bức tranh này của sự giàu có thời Pleistocene, thời băng giá cuối cùng với sự xuất hiện của loài người, được thay thế với sự nghèo nàn của thời hiện nay, rõ ràng là sự gia tăng to lớn về quyền năng con người đã không sánh ngang được với sự gia tăng về hạnh phúc của con người. Chúng ta mạnh hơn ngàn lần so với tổ tiên săn bắn hái lượm của chúng ta, nhưng ngay cả quan điểm Whig lạc quan nhất cũng không thể tin rằng chúng ta hạnh phúc hơn ngàn lần. Nếu chúng ta nói với cụ cố bà của chúng ta về cách chúng ta sống, với thuốc chủng và thuốc giảm đau, và nước phân phát từ vòi công cộng và tủ lạnh nhét đầy thức ăn, cụ cố có thể đã vỗ tay trong ngạc nhiên và nói: “Cháu đang sống trong thiên đường! cháu có thể thức dậy mỗi sáng với một bài hát trong lòng, và trải qua những ngày sáng sủa dưới nắng trời, đầy biết ơn và lòng tốt với tất cả mọi người.” Vâng, nhưng chúng ta không thế! So với những gì hầu hết mọi người trong lịch sử đã mơ ước, chúng ta có thể sống đang sống trên thiên đường. Nhưng vì lý do nào đó, chúng ta không cảm thấy rằng chúng ta đang như thế.


Một giải thích đã được những nhà khoa học xã hội cung cấp, những người gần đây đã tái khám phá một khôn ngoan của thời cổ: hạnh phúc của chúng ta tùy thuộc ít hơn vào những điều kiện khách quan và nhiều hơn nữa vào những trông mong của chính chúng ta. Những trông mong, tuy nhiên, có khuynh hướng thích nghi với những điều kiện. Khi mọi sự vật việc cải thiện, những kỳ vọng tăng lên, và do đó thậm chí những cải tiến ấn tượng vượt bực trong những điều kiện, nhưng có thể vẫn khiến chúng ta không hài lòng như trước đây. Trong sự theo đuổi hạnh phúc, mọi người bị mắc kẹt trên khuynh hướng “thích ứng với hạnh phúc” [3] nổi tiếng, chạy nhanh hơn và nhanh thêm hơn nhưng không đi đến đâu cả.


Nếu bạn không tin điều đó, hãy hỏi Hosni Mubarak. Người Egypt trung bình ít có khả năng chết vì đói, vì dịch hạch hoặc vì bạo hành dưới thời Mubarak làm tổng thống hơn bất kỳ chế độ nào trước đây trong lịch sử Egypt. Trong mọi khả năng, chế độ của Mubarak cũng ít tham nhũng hơn. Tuy nhiên, vào năm 2011 những người Egypt đã xuống đường trong giận dữ để lật đổ Mubarak. Vì họ có những kỳ vọng cao hơn nhiều so với tổ tiên của họ.


Thật vậy, nếu hạnh phúc chịu ảnh hưởng mạnh bởi kỳ vọng thì một trong những trụ cột trung tâm của thế giới thời nay, truyền thông đại chúng, dường như được may cắt để ngăn chặn sự gia tăng đáng kể trong những mức độ hạnh phúc toàn cầu. Một người đàn ông sống trong một ngôi làng nhỏ cách đây 5.000 năm, đã tự đánh giá mình khi so sánh với 50 người đàn ông khác cùng làng. So với họ, người ấy trông khá ‘bảnh’. Ngày nay, một người đàn ông sống trong một ngôi làng nhỏ so sánh mình với những ngôi sao điện ảnh và những người mẫu, những người mà người này nhìn thấy hàng ngày trên màn hình và biển quảng cáo khổng lồ. Người dân làng thời nay của chúng ta chắc chắn có thể ít hài lòng hơn với cách người ấy nhìn.


Trần kính trong xuốt ngăn cản của sinh học


Những nhà sinh vật học tiến hóa đưa ra một giải thích bổ sung cho thuyết thích ứng với hạnh phúc. Họ cho rằng cả hai, những kỳ vọng của chúng ta và hạnh phúc của chúng ta đều không thực sự do những yếu tố chính trị, xã hội hay văn hóa ấn định, nhưng do hệ thống sinh hóa của chúng ta. Không ai bao giờ được làm cho hạnh phúc, họ biện luận, sau khi được tăng lương hay lên chức, hay trúng xổ số, hay ngay cả cho rằng mình đã tìm được tình yêu chân thực. Mọi người được làm cho hạnh phúc bởi một điều và một điều duy nhất – những cảm giác dễ chịu trong cơ thể của họ. Một người vừa được thăng chức và nhảy lên sung sướng thì không thực sự phản ứng với tin mừng này. Cô đang phản ứng với những kích thích tố khác nhau chảy nhanh trong những mạch máu của cô, và với cơn bão của những tín hiệu điện nhấp nháy giữa những phần não khác nhau của cô.


Tin xấu là những cảm giác dễ chịu đó đều nhanh chóng giảm xuống. Nếu năm ngoái tôi được thăng chức, tôi có thể vẫn đang giữ chức vị mới đó, nhưng những cảm giác rất dễ chịu mà tôi cảm thấy khi đó đã giảm bớt từ lâu. Nếu tôi muốn tiếp tục cảm thấy những cảm giác như vậy, tôi phải có một thăng chức khác nữa. Và một khác nữa. Đây tất cả là lỗi của sự tiến hóa. Tiến hóa không quan tâm với tự thân hạnh phúc cho mỗi người: nó chỉ quan tâm đến sự sống còn và tái sinh sản, và nó đơn thuần dùng hạnh phúc và khổ sở như những kích thích, như những gậy nhọn để thúc trâu bò. Sự tiến hóa bảo đảm rằng bất kể chúng ta đạt được gì, chúng ta vẫn không hài lòng, mãi mãi mong tìm nắm bắt nhiều hơn. Hạnh phúc là như vậy, một hệ thống những trạng thái cân bằng bên trong. Cũng giống như hệ thống sinh hóa của chúng ta duy trì nhiệt độ cơ thể và mức đường trong phạm vi của những ranh giới hạn hẹp, nó cũng ngăn cản mức độ hạnh phúc của chúng ta, không cho vượt quá những ngưỡng cửa nhất định.


Nếu hạnh phúc thực sự được xác định bởi hệ thống sinh hóa của chúng ta, thì tăng trưởng kinh tế, cải cách xã hội và những cách mạng chính trị thêm hơn nhiều nữa, đều sẽ không làm thế giới của chúng ta trở nên hạnh phúc nhiều hơn. Cách duy nhất đột nhiên và nhận thấy nổi bật để nâng cao mức độ hạnh phúc toàn cầu là dùng những thuốc tâm thần, kỹ thuật di truyền và những vận dụng xoay sở trực tiếp khác trên cơ sở hạ tầng cấu trúc sinh hóa của chúng ta. Trong tác phẩm Brave New World, Aldous Huxley [4] đã dự phóng một thế giới trong đó hạnh phúc là giá trị cao nhất, và mọi người liên tục dùng thuốc soma, vốn nó làm cho mọi người hạnh phúc nhưng không gây tổn hại đến năng suất và hiệu quả của họ. Loại thuốc này dựng thành một trong những nền tảng của Nhà nước Thế giới, không bao giờ bị những chiến tranh, cách mạng hay đình công đe dọa, vì tất cả mọi người đều cực kỳ hài lòng, hết sức thỏa mãn với những điều kiện đang có của họ. Huxley đã trình bày thế giới này như một không tưởng khùng khiếp của sai lạc và thất bại hoàn toàn. Ngày nay, ngày càng nhiều nhà khoa học, nhà hoạch định chính sách và những người bình thường đang áp dụng nó như mục đích của họ.


Suy nghĩ lại


Có những người nghĩ rằng hạnh phúc thì thực sự không quan trọng như thế, và rằng định nghĩa sự hài lòng cá nhân như mục đích của xã hội loài người là một sai lầm. Những người khác đồng ý rằng hạnh phúc là sự tốt lành cao nhất, nhưng nghĩ rằng hạnh phúc không chỉ là một nội dung của những cảm xúc dễ chịu. Hàng ngàn năm trước, những nhà sư đạo Phật đã đi đến được kết luận ngạc nhiên rằng sự theo đuổi những xúc cảm xúc dễ chịu thì thực ra là gốc rễ của đau khổ, và rằng hạnh phúc nằm ở hướng đối nghịch. Những cảm giác dễ chịu đều chỉ là những rung động phù du và vô nghĩa. Nếu năm phút trước, tôi cảm thấy vui vẻ hoặc yên bình, giờ đây cảm giác đó đã biến mất và tôi cũng có thể cảm thấy tức giận hoặc buồn chán. Nếu tôi đồng hóa hạnh phúc với những cảm giác dễ chịu và khao khát có kinh nghiệm này càng thêm nhiều hơn nữa, tôi không có lựa chọn nào khác ngoài việc liên tục theo đuổi chúng, và thậm chí nếu tôi nhận được chúng, chúng ngay lập tức biến mất và tôi phải bắt đầu lại từ đầu. Việc theo đuổi này không mang lại thành tựu lâu dài. Ngược lại: tôi càng khao khát những cảm giác dễ chịu này, tôi càng trở nên căng thẳng và không hài lòng hơn. Tuy nhiên, nếu tôi học cách nhìn thấy cảm giác của mình về những gì chúng thực sự là – những rung động phù du và vô nghĩa – tôi mất hứng thú theo đuổi chúng, và có thể hài lòng với bất cứ gì tôi kinh nghiệm. Vì chạy theo sau một gì đó vốn cũng tan biến nhanh như nó phát sinh thì không ý nghĩa gì nữa? Đối với đạo Phật, sau đó, hạnh phúc không phải là những cảm giác dễ chịu, nhưng đúng hơn là sự khôn ngoan, yên bình thanh thản và tự do đến từ sự hiểu biết bản chất chân thực của chúng ta.


Đúng hay sai, tác động thực tế của những quan điểm có thể chọn lựa loại như vậy thì rất nhỏ. Đối với thế lực khổng lồ tư bản, hạnh phúc là vui sướng. Chấm hết, không ‘nhưng’ hay ‘và’, … gì gì nữa. Với mỗi năm trôi qua, sự khoan dung của chúng ta đối với những cảm giác khó chịu giảm đi, trong khi sự thèm muốn của chúng ta với những cảm giác dễ chịu tăng lên. Cả hai, nghiên cứu khoa học và hoạt động kinh tế đều chuyển hướng nhắm đến cứu cánh đó, mỗi năm sản xuất thuốc giảm đau tốt hơn, thêm những vị kem mới, nệm giường thoải mái hơn và nhiều trò chơi mê đến nghiện hơn cho những điện thoại thông minh, để chúng ta không phải chịu đựng một khoảnh khắc buồn chán nào đương khi chờ xe buýt.


Tất cả điều này khó mà goi là đủ, dĩ nhiên. Do luật tự nhiên của tiến hóa, con người không thể làm cho thích ứng được với kinh nghiệm sự vui sướng bất biến, vì vậy kem mới và những trò chơi trong điện thoại sẽ không thành công. Nhưng nếu đó là những gì loài người dẫu sao vẫn mong muốn, để chế tạo lại những cơ thể và những não thức của chúng ta sẽ là cần thiết. Chúng ta đang cố gắng làm việc đó.


Yuval Noah Harari
[Were we happier in the stone age? The Guardian (5 Sep 2014)]


Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Nov/2018)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com


[1] Jared Diamond, giáo sư UCLA. Trong Guns, Germs and Steel năm 1997, ông viết rằng mặc dù chúng ta tin rằng nông nghiệp đã khiến chúng ta có thể sống giàu có, khỏe mạnh và lâu hơn, nhưng thực tế nó là tai họa cho loài người. Theo Diamond, nông nghiệp đã phát triển khoảng 12.000 năm trước, và từ đó con người đã bị kém dinh dưỡng và nhiều bệnh tật hơn so với tổ tiên thời săn bắn hái lượm của họ. Tệ hại hơn, vì nông nghiệp cho phép sự dự trữ thực phẩm, và cho phép một số người có thể làm những việc khác ngoài việc tìm kiếm thức ăn, nó dẫn đến sự phát minh ra nhiều hơn và tốt hơn về vũ khí, quân đội, chiến tranh, đưa đến phân chia giai cấp giữa những người có/làm chủ cái ăn và những người không có cái ăn, và bất bình đẳng phái tính (trọng nam khinh nữ).
[2] The Better Angels of Our Nature: Why Violence Has Declined (2011) – tác giả, giáo sư tâm lý Harvard – nhấn mạnh vào những động lực con người – cảm thông, tự chủ, ý thức đạo đức thông thường, và lý trí — nói ràng chúng hướng chúng ta tránh xa bạo động, và đến cộng tác hòa hợp, và vị tha.
[3] hedonic treadmill (hedonic adaptation): máy tập chạy tìm hạnh phúc (sự thích ứng với hạnh phúc): Một lý thuyết mô tả khuynh hướng của một người để duy trì ở mức tương đối ổn định của hạnh phúc, mặc dù những thay đổi tích cực hay tiêu cực đối với mục tiêu sinh kế hoặc cuộc sống. Ví dụ như một người kiếm được nhiều tiền hơn và đạt được những mục tiêu cuộc sống nhất định nào đó, những trông mong và ao ước của họ tăng tỷ lệ tương đối với những thành tựu này, kết quả là không có thêm được gì lâu dài trong hạnh phúc.
[4] Brave New World (1932) Thế Giới Tương lai Mới của Aldous Huxley (1894-1963) - vẫn được xem như một khuôn mẫu cho tất cả những tiểu thuyết khoa học sau đó về thế giới kinh hoàng vì không tưởng nhưng thất bại. Trong khi kể câu chuyện về một văn minh trong đó khổ sở và đau đớn đều được xóa sạch nhưng với giá của sự tự chủ, tự do ý chí của con người. Brave New World thăm dò những tác dụng của kỹ thuật làm mất nhân tính con người, và hàm ý rằng khổ đau là thiết yếu để đời sống con người có ý nghĩa. Nhà nước Thế giới là một xã hội tương lai tác phẩm này phác họa. Trong đó, hôn nhân, gia đình và sinh sản được loại bỏ, và trẻ sơ sinh được chế tạo dùng kỹ thuật di truyền và nuôi lớn trong những lọ thủy tinh. Sau đó những công dân đều được program để có năng lực sản xuất và luôn được hài lòng sung sướng, tất cả qua một kết hợp của thao túng tạo tác về sinh học, và điều kiện hóa những trạng thái tâm lý, và một loại thuốc gọi là soma.

Thứ Hai, 19 tháng 11, 2018

Vài vụ đơn cử: Bộ đội K vi phạm kỷ luật chiến trường bị tử hình ..



"Đầu năm 1979, tiểu đoàn 14 Tây Ninh, đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang, nổi tiếng gan lì, một chọi 100 thời đánh Mỹ đã dính 1 trận đau khiến toàn quân thời đó rơi nước mắt.
Bọn Polpot trà trộn vào phum khống chế dân để lập trận địa mai phục, dùng dân CPC làm lá chắn sống cho chúng. D14 có phần chủ quan (vì đã khá quen thuộc địa bàn) nên vào phum mà không triển khai đội hình tác chiến nên bị tập kích dồn dập. Đạn B40, B41 xé gió dội lửa vào đội hình chính, lựu đạn thủ pháo từ nhà sàn ném xuống như mưa, đạn nhọn bắn như vãi trấu.. Ngay những phút đầu tiên, D14 bị tổn thất nặng nề, mất quyền chủ động nên buộc bắn trả cầm chừng để rút ra ngoài.
Sau khi tập hợp được lực lượng, D14 tấn công vào phum. Diệt được hơn 30 tên Polpot, bắt sống khoảng 20. Nóng máu vì bộ đội bị hy sinh quá nhiều mà đám tù binh thì luôn miệng chửi “Kh’măng Duôn’ (Giặc VN) nên BCH D14 ra lệnh xử bắn tất cả.
Ngay ngày hôm sau, quân pháp mặt trận 719 về bắt toàn bộ sĩ quan của D14 đưa về biệt giam ở Đồng Pan (Tân Châu, Tây Ninh). Tòa án quân sự mặt trận kết án tử hình 5 người gồm: Tiểu đoàn trưởng (đại úy Hạnh), 2 tiểu đoàn phó, 2 đại đội trưởng. 14 người nhận án tù từ 15 năm đến chung thân..."
(Trích từ Lê Vũ)
.....


"Tháng 2/1979, ... Hoàn thành nhiệm vụ truy quét phía Bắc thủ đô Pnom Pênh bên bờ Bắc sông MêKông thì trung đoàn được lệnh trở về tỉnh Công Pông Spư . P.A.S sử dụng 3 chiến sĩ trinh sát cùng anh đi khảo sát địa hình chuẩn bị vị trí đứng chân của trung đoàn. Khi qua một cánh đồng không rộng, có mấy ngôi nhà ở dọc bờ suối, mùa khô không có nước, không một bóng người. Riêng anh có thấy một cô gái CamPuChia khoảng 20 tuổi mang gùi đang làm gì dưới suối. Nhóm trinh sát vẫn tiếp tục đi khảo sát địa hình nhưng không phát hiện được gì. Đi được khoảng năm trăm mét thì P.A.S bảo các trinh sát ngồi nghỉ, anh quay trở lại chỗ vừa thấy người con gái. Đến nơi cũng là lúc cô gái từ dưới suối đi lên. Không kiềm chế được mình, như một định mệnh, anh rút súng ngắn cầm ở tay, buộc cô gái kéo váy xuống, anh ôm lấy cô gái. Sợ quá cô gái CamPuChia không giám chống cự, buông lỏng mình cho P.A.S hành động. Hành động xong P.A.S trở lại với các chiến sỹ trinh sát trở về trung đoàn như không có chuyện gì xẩy ra. Nơi cô gái CamPuChia vừa bị hiếp, sau đó vài giờ có 2 chiến sỹ bộ đội Bạn đi qua. Cô ấy sợ hãi kể hết với họ những chuyện vừa xẩy ra và cùng họ đến tại Trung đoàn bộ nhận mặt P.A.S. Một ngày sau đó P.A.S bị Viện Kiểm Sát quân sự Quân Đoàn 4 ra lệnh bắt giam. P.A.S đứng dậy nghe xong lệnh bắt, anh giơ hai tay run rẩy tra vào vòng thép trắng số 8. Mặt anh thuổn ra, da tái nhợt, chân khuỵu xuống, người nhũn như lá chuối héo. Hai đồng chí vệ binh quân đoàn cầm tay, xốc nách, kéo lê P.A.S lên xe đóng sầm cửa lại. Người đồng đội mới vừa nãy đây thôi, bổng chốc bị quẳng lên xe như một con vật vô tri. Những người được chứng kiến sự việc này thật ngỡ ngàng, bất ngờ, mông lung khó tả… Tòa án quân sự Quân đoàn 4 tuyên án tử hình P.A.S"..."
(CCB tham gia Hội thẩm quân nhân của Tòa án quân sự Quân đoàn 4, kể)
....


"Ngay khi mới giải phóng Campuchia, vào khoảng tháng 1-2.1979, TC nghe tin: Có một hạ sĩ tên NQA quê huyện Tuy Hòa PY, là lính thông tin của một đơn vị thuộc Mặt trận 579, can tội hiếp dâm. A dụ cô gái Khmer đi theo để A chỉ kho lương thực... Lợi dụng chố vắng bên suối, A cưỡng hiếp nhưng không thành, sau đó cô gái tố cáo. A bị bắt đem ra Tòa án quân sự xét xử, có sự tham gia các nhân chứng. án là tử hình. Nơi xử bắn ở cây số 3 thị xã Stung Treng.
Lúc đó tôi đang đóng quân gần đó nhưng không đi xem tử hình. Sau này, TC nghe phong phanh, có người bảo tử hình giả, có anh lớn tuổi hơn thì bảo thời đánh Mỹ ở Lào cũng xử kiểu đó. Có lẽ cách này lại hay, vẹn đôi đường. Lúc ấy tôi tin, không thể có chiện đánh lừa chính quyền, nhân dân bạn nên không hỏi vặn chuyện này.
5-7 năm sau tôi gặp thằng bạn cùng lính K cùng quê hỏi, nó nói: Mình cũng nghe có người bảo A không bị bắn, cũng bán tín bán nghi nên đi tìm đến tận nhà và gặp A. A kể bị bịt mặt đưa lên xe thùng đến pháp trường (có lẽ là chở cùng xe với tù binh quân Pol Pot). A không biết ai bị bắn (thì có thể đoán ta bắn tù binh thế mạng). A được đưa về nước ra Bắc cải tạo, ra tù về quê làm ăn."
(Thợ cạo)
.....


"Trong số cán bộ F320 có anh Quách Q. là D phó trắng trẻo trán hơi hói hay nói chuyện với tôi . Một năm sau ,năm 1980 tôi được cử đi dự buổi xử án của Tòa án quân sự Quân đoàn 3 tổ chức ở rạp hát thành phố Thái nguyên .Sau phần xử 1 vụ tự thương bất ngờ thấy quân cảnh dẫn Quách Q ra trước vành móng ngựa .
Bất ngờ và ngạc nhiên hơn là nội dung vụ án mà anh là bị can . Khi sư 320 tiến xuống Tà Keo trong một trận đánh D của anh bắt được mấy tên địch cả nam và nữ , có lệnh rút tiểu đoàn đã hành quân chỉ còn anh, liên lạc và vài trinh sát đi sau với tù binh . Bọn tù binh ngoan cố không chịu đi ,nếu dùng dằng sẽ bị bọn Miên quay lại tấn công nguy hiểm nên anh đã cho xử và lột lấy đồng hồ ở một tên nữ
Ra tòa làm chứng có 1 trinh sát và liên lạc , cả 2 người cùng xác nhận diễn biến , tay trinh sát khốn nạn còn nhấn mạnh chuyện khi bắn xong anh còn hỏi hắn có muốn xem thân thể phụ nữ không làm hắn ngượng và đó là tình tiết tăng nặng ? Quách Q. vừa khóc vừa thừa nhận những gì tòa nêu . Cuối cùng tòa tuyên án Quách Q .18 năm tù vì phạm tội giết người cướp . Cả hội trường rộng lớn lặng ngắt , rất nhiều sỹ quan từng vào sinh ra tử đã rơi nướ mắt thương anh...."
(Tiích từ Tai Le)

Chủ Nhật, 18 tháng 11, 2018

Các nhà văn Nga nói gì khi nhận giải Nobel?





Tính cho tới thời điểm hiện tại, có 5 nhà văn Nga được trao giải Nobel Văn học: Ivan Bunhin (1933), Boris Pasternak (1957), Mikhail Sholokhov (1965), Aleksandr Sogienhinsin (1972) và Ioxip Brodsky (1987). Nhà văn Boris Pasternak được trao giải Nobel nhưng không được chính quyền Xô Viết cho sang Stockhom (Thụy Điển) nhận giải. Thành thử chí có 4 nhà văn có mặt và có bài phát biểu trong Lễ trao giải. Sau đây là những lược trích lời phát biểu khi nhận Giải Nobel Văn học của các nhà văn ấy.

IVAN BUNHIN: “ĐỐI VỚI NHÀ VĂN, TỰ DO TƯ TƯỞNG VÀ LƯƠNG TÂM LÀ MỘT ĐỊNH ĐỀ, MỘT CÁI ĐÍCH PHẢI ĐẾN”
Kể từ ngày Giải thưởng Nobel ra đời, đây là lần đầu tiên các ngài trao giải cho một người lưu vong. Người ấy là tôi đây! Tôi luôn luôn biết ơn và ghi nhớ trong tâm khảm lòng mến khách của nước Pháp. Các vị thành viên Viện Hàn lâm khoa học Thụy Điển kính mến, cho phép tôi thay mặt cá nhân và tác phẩm của mình nói rằng quyết định của các ngài thật là tuyệt vời. Trên thế gian này cần tồn tại quyền lực của tính độc lập hoàn toàn. Không nghi ngờ gì, ngồi xung quanh dãy bàn kia là những đại diện của mọi chính kiến, mọi quan điểm triết học, mọi tín ngưỡng. Nhưng vẫn có cái gì đó chung, không lay chuyển: Đó là sự tự do tư tưởng và lương tâm - những gì chúng ta được thụ hưởng nhờ nền văn minh. Đối với nhà văn, Tự do là yếu tố đặc biệt cần thiết. Đó là một định đề, một cái đích phải đến đối với các nhà văn chúng ta. Thưa các ngài thành viên Viện Hàn lâm khoa học Thụy Điển, việc làm của các vị một lần nữa chứng minh rằng tình yêu đối với Tư do là một tín ngưỡng có thật tại Thụy Điển.

MIKHAIL SHOLOKHOV: “NHƯ TRONG KINH PHÚC ÂM ĐÃ NÓI…”
Hiện nay người ta rất hay nói tới mấy tiếng tính tiền phong trong văn học, hiểu như là những gì hiện đại được thể hiện về phương diện hình thức của văn chương. Theo quan niệm của tôi, những người nghệ sỹ tiền phong chân chính là những ai trong tác phẩm của mình khai mở những nội dung mới, xác lập nên những đặc điểm mới của cuộc sống trong thời đại chúng ta. Chủ nghĩa hiện thực nói chung, tiểu thuyết hiện thực nói riêng đều dựa trên những kinh nghiệm sáng tạo của các thiên tài trong quá khứ. Nhưng trong quá trình phát triển của mình chủ nghĩa hiện thức ấy dần tích tụ được những gì mới mẻ nhất, hiện đại nhất.
Tôi đang nói tới thứ chủ nghĩa hiện thực mang trong mình nó lý tưởng cải tạo đời sống, vì lợi ích của con người. Lẽ đương nhiên là tôi đang nói tới chủ nghĩa hiện thực mà bây giờ chúng tôi gọi bằng mấy tiếng chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Cái đặc sắc của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa là ở chỗ nó phản ánh một thế giới quan phủ nhận tính trực giác cùng thái độ thoát ly khỏi hiện thực; nó kêu gọi con người hướng tới cuộc đấu tranh vì sự tiến bộ của nhân loại; nó tạo điều kiện để đạt tới những mục đích thiết thân với hàng triêu triệu con người; nó chiếu rọi cho họ con đường đi tới tương lai.
Nhân loại chưa hề bị tán phát trong nỗi cô đơn, trong tâm lý cá nhân vị kỷ khiến họ ngụp lặn trong trạng thái phi trọng lượng như các nhà du hành vũ trụ khi thoát ra ngoài lực hút của trái đất. Chúng ta đang sống trên một hành tinh tuân thủ theo những quy luật có thật và như trong Kinh Phúc âm đã nói, những cơn phẫn nộ, những mối quan tâm thường nhật; những âu lo, những yêu cầu, những hy vọng hướng đến một ngày mai sáng tươi hơn của chính những quy luật có thật kia đang chi phối cuộc sống hôm nay của chúng ta. Những cộng đồng đông đúc sống trên trái đất đang vận động với những nỗ lực giống nhau; có chung những lợi ích sống và chính vì thế họ luôn thống nhất với nhau chứ không phải phân tán như có một số người nghĩ thế.
Đó chính là những con người lao động mà bằng bàn tay, khối óc của mình họ đang sáng tạo ra tất cả. Tôi thuộc số những nhà văn tự nhận ra danh dự và sự tự do cao cả của mình không là điều gì khác ngoài việc dùng ngòi bút phục vụ nhân dân lao động.

ALEKSANDR SOLZHENITSYN: “TÀI NĂNG CỦA NGƯỜI NGHỆ SỸ NẨY SINH NGAY TỪ LÚC CHÀO ĐỜI. VÀ CÙNG VỚI TÀI NĂNG ẤY LÀ Ý THỨC TRÁCH NHIỆM”.
Các nhà khảo cổ học sẽ không thể phát hiện ra những giai đoạn văn minh sớm của con người nếu không có sự hiện diện trên cõi đời này ngành nghệ thuật của chúng ta. Ngay từ buổi ban mai còn tranh tối trang sáng của nhân loại, chúng ta đã nhận được món quà qúy ấy từ bàn tay của ai đó mà chúng ta không kịp nhận ra. Chúng ta cũng không kịp hỏi nữa: Để làm gì món quà này và tiếp cận với nó ra sao đây?
Tất cả những nhà tiên tri đã sai lầm và sẽ sai lầm khi cảnh báo rằng nghệ thuật sẽ phân hủy, sẽ mủn rách những manh áo của mình, sẽ chết. Chúng ta sẽ chết và Nghệ thuật sẽ còn mãi. Thử hỏi, tận đến ngày xuống mồ chúng ta có hiểu hiết mọi phương diện và những ý nghĩa của Nghệ thuật không đây?
Không phải mọi phương diện của Nghệ thuật đã được gọi tên ra. Còn phải nói nhiều hơn nữa. Nghệ thuật biết làm mủi lòng thậm chí những tâm hồn lạnh giá, khô héo để kéo nó tới với cái cao cả. Bằng phương tiện nghệ thuật, qua con đường ngắn gọn, rành rõ chúng ta đạt tới sự chân thật mà những suy nghĩ lý trí không thể đạt tới được.
Giống tấm gương nhỏ trong các chuyện cổ tích, nhìn vào gương ta sẽ nhận ra không phải là mình, mà là cái cái khoảnh khắc không thể đạt tới, không thể nhẩy tới, không thể bay đến. Và tâm hồn chỉ còn biết thổn thức mà thôi…
Nỗi đau của một dân tộc khi văn học bị sự can thiệp trắng trợn của quyền lực - đó không chỉ là nỗi đau khi “tự do báo chí” bị xâm phạm, mà đó còn là nỗi đau khi trái tim dân tộc đó bị cầm tù. Dân tộc đó không còn khả năng nhớ lại chính mình; dân tộc đó bị tước đoạt sự thống nhất về mặt tinh thần, và nói đại thể là tiếng nói của những người đồng bào trong cộng đồng đó không còn mang thiên chức giúp để họ hiểu biết nhau. Sẽ trở nên vật vờ, chết dần chết mòn những thế hệ người câm không còn khả năng kể về mình, về cộng đồng, về ông cha. Có những thiên tài như Akhmatova hay Zamiatin - những người cả đời bị cầm tù giữa bốn bức tường bê tông, bị buộc phải nín lặng cho tận tới khi xuống mồ để không còn được nghe thấy tiếng đồng vọng ngay của những dòng mình viết ra - đó không chỉ là nỗi đau của cá nhân họ mà còn là nỗi đau của cả dân tộc, là nỗi hiểm họa đối với cả dân tộc ấy. Suy rộng ra, đối với cả loài người, với sự im lặng bị bắt buộc ấy, con người sẽ hoàn toàn không thể hiểu được Lịch sử của mình…
Chúng ta không phủ nhận cái quyền của người nghệ sỹ được biểu hiện những sống trải, những chiêm nghiệm rất... rất riêng tư, xem thường tất cả những điều khác tồn tại trên thế giới này. Chúng ta cũng sẽ không yêu cầu người nghệ sỹ lên án hoặc van nài, hoặc cố gắng hiểu cho ra cái cuộc sống chính chúng ta còn chưa hiểu được.Bởi lẽ, người nghệ sỹ chỉ làm nẩy nở được một phần tài năng của mình, còn phần lớn hơn của tài năng ấy đã sinh ra ngay khi anh ta cất tiếng khóc chào đời. Nhưng cùng với tài năng, chúng ta yêu cầu ở anh ta tinh thần trách nhiệm đối với khát vọng tự do của chính mình. Cứ cho rằng có những nghệ sỹ không cần cho ai cả, nhưng chúng ta vẫn rất đau lòng khi được chứng kiến anh ta rời bỏ cái thế giới rất riêng hoặc khoảng không gian được tạo nên bởi những ước muốn đỏng đảnh của anh ta , để rồi dâng hiến thế giới có thực vào tay những kẻ vụ lợi, nhỏ nhen, ngu dốt.

IOSIF BRODSKY: “AI ĐÃ TỪNG ĐỌC DICKENS, HỌ KHÓ BÁC BỎ NHỮNG GÌ CỦA DICKENS TRONG BẢN THÂN MÌNH, HƠN NHỮNG AI CHƯA TỪNG ĐỌC NHÀ VĂN NÀY”
Tôi đồ chừng những ai đã từng đọc Dickens, họ khó xóa bỏ những gì của Dickens trong họ, hơn những ai chưa từng đọc nhà văn này. Tôi đang nói tới việc đọc sách của Dickens, Stendhal, Dostoievsky, Flaubert, Balzac… nghĩa là đọc văn học… chứ tôi không muốn nói tới việc đọc thông viết thạo, việc có trình độ học vấn… Người có chữ, có trình độ học vấn về phương diện này hay phương diện khác vẫn có thể chỉ là người đọc chữ, khi tự giết chết trong bản thân những gì do sách truyền cảm hứng và khăng khăng giữ vững tín điều của mình. Nhiều kẻ độc tài là người có học. Hitlle cũng thế. Mao Trạch Đông còn làm thơ nữa. Ấy vậy nhưng bản danh sách những người đã bị họ giết chết dài hơn rất nhiều bản danh sách những tác phẩm họ đã đọc.
Cái thế hệ (trong đó có tôi ) - bao gồm một lớp người được sinh ra khi những lò thiêu ở Auschwitz đã làm việc với công xuất cao nhất; khi Stalin đạt tới đỉnh cao quyền lực - cái thế hệ ấy, xét về nhiều phương diện, đã tự nguyện chuẩn bị về mặt tinh thần để tan biến trong những lò thiêu người kia, hoặc trong các nghĩa trang tại các “quần đảo ngục tù”. Nhưng không phải toàn bộ thế hệ ấy đã bị thiêu hủy, chí ít ra là ở nước Nga- thì ở đây lại là công lao của thế hệ tôi, để hôm nay tôi còn được xuất hiện ở nơi đây. Chỉ riêng việc tôi được đứng đây bây giờ trước quý vị chính là sự thừa nhận công lao ấy đối với văn hóa nói chung, văn hóa thế giới nói riêng…

TÔ HOÀNG

(Theo “ Luận chứng và Sự kiện” - CHLB Nga )

Trại súc vật của George Orwell: Biếm họa sâu cay về “các thế lực thù địch”




Thuận Nhân

Trại súc vật của George Orwell là một tác phẩm nổi tiếng từng được tờ Time bình chọn là một trong 100 tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất, nằm thứ 31 trong danh sách các tác phẩm hiện đại hay nhất của thế kỷ 20, và nằm trong tuyển tập các tác phẩm lớn của thế giới phương Tây.

Trại súc vật bắt đầu bằng việc một bầy súc vật không chịu nổi sự “bóc lột” của con người mà vùng lên làm cách mạng tạo phản, cuối cùng đã đuổi được con người và thành lập một “Trại súc vật” do mình làm chủ.

Nhưng không lâu sau đó, con heo lãnh tụ, kẻ dẫn đầu bầy động vật tiến hành “cách mạng”, lại được hưởng đặc quyền, một mình hưởng thụ sữa bò và táo. Khi các loài động vật khác, những kẻ từng ôm giữ ý niệm “tất cả các loài động vật đều bình đẳng như nhau” mà tham gia cách mạng, nghi ngờ con heo lãnh tụ, con heo phụ trách tuyên truyền đã giải thích rằng:

Chúng tôi ăn những thứ này mục đích duy nhất là phải giữ gìn sức khỏe cho chúng tôi. Toàn bộ việc quản lý và tổ chức công việc trong khu vườn đều dựa vào chúng tôi. Chúng tôi vì hạnh phúc của mọi người mà ngày đêm tận tâm tận lực. Do đó, điều này là vì các bạn, chúng tôi mới uống sữa bò và mới ăn táo. Các bạn có biết không, lỡ khi loài heo chúng ta mất chức, vậy chuyện gì sẽ xảy ra? Jones sẽ cuốn bụi mà quay trở lại! Đúng vậy Jones sẽ cuốn bụi mà quay trở lại! Quả thực, các đồng chí! Jones vốn là ông chủ của khu vườn, cũng là kẻ thống trị của ‘xã hội cũ’.

Một vài loài động vật cá biệt mơ hồ nhớ rằng khi Jones còn ở đây, tình hình cuộc sống của các loài động vật hầu như không kém hơn so với hiện tại. Nhưng theo sự tuyên truyền ngày qua ngày, nỗi sợ hãi Jones sẽ cuốn bụi mà quay trở lại đã ăn sâu vào đầu những loài động vật như một phản xạ có điều kiện. Vậy là lũ động vật không còn lời nào để nói về đặc quyền của heo. Rất nhanh, đặc quyền của heo càng ngày càng nhiều…

Mặt khác, làm thế nào để đề phòng việc Jones lại cuốn bụi quay trở lại, đặc biệt là sự câu kết giữa kẻ đồ tể và Jones, phá hoại trang trại mà lũ động vật vận hành, đã trở thành một nội dung quan trọng trong cuộc sống thường nhật của các loài động vật. Đối mặt với “đại sự hàng đầu” như vậy, những bất mãn và ý kiến bất đồng khác đã trở thành chuyện vặt vãnh không quan trọng. Hơn nữa, luôn luôn “đề cao cảnh giác”, “chuẩn bị chiến đấu” đã trở thành một nội dung quan trọng bậc nhất vượt qua mọi điều trong cuộc sống xã hội. Bên cạnh đó, dưới sự điều động của con heo lãnh tụ, lũ động vật làm việc ngày càng chăm chỉ hơn, hứa hẹn cho một “cuộc sống tương lai dễ chịu”.

Cá biệt trong lũ động vật, có một con ngựa cần cù chăm chỉ, làm việc cho đến khi gục ngã. Thế là con heo lãnh tụ cử một chiếc xe kéo tới, nói là để đưa ngựa tới bệnh viện an dưỡng. Tuy nhiên, con lừa biết đọc lại phát hiện ra rằng đó là chiếc xe của một tay giết thịt. Vậy là con heo tuyên truyền phải vào cuộc, nói rằng chiếc xe đó đã được mua lại từ tay kẻ đồ tể, và rằng con ngựa sẽ được an dưỡng thích đáng.

Một thời gian sau, con heo tuyên truyền công bố rằng con ngựa đã ra đi hạnh phúc trong bệnh viện, và lũ heo tổ chức một ngày lễ để tôn vinh con ngựa, cùng trại súc vật vinh quang, và khuyến khích các con vật khác noi gương con ngựa…

Nhưng sự thật là con ngựa đã bị bán cho kẻ đồ tể, để lũ heo có tiền mua rượu whisky.


Nhiều năm sau đó, trại súc vật ngày càng hoạt động tốt hơn, và thu được nguồn lợi nhiều hơn. Nhưng những gì được hứa hẹn như đèn điện, hệ thống sưởi, nước uống đều bị quên lãng. Con heo lãnh tụ đã khiến lũ động vật tin rằng sống một cuộc sống giản dị là điều hạnh phúc nhất. Những con heo bắt đầu bắt chước lối sống của người, đi bằng hai chân, mang theo roi da, mặc quần áo. Lý niệm “tất cả các loài động vật đều bình đẳng như nhau” được thay thế bằng lý niệm “tất cả các loài động vật đều bình đẳng như nhau, nhưng một số thì bình đẳng hơn những con khác”.

Khi con heo lãnh tụ mở một bữa tiệc và mời những người nông dân ở địa phương tới, lũ động vật trong trại nhìn từ heo sang người, và chợt nhận ra rằng, chúng không còn phân biệt được heo và người nữa…

Mặc dù Trại súc vật vẫn còn thể hiện rõ những luyến tiếc về quan niệm bình đẳng xã hội không tưởng của tác giả, nhưng quả thật George Orwell đã thành công trong việc khắc họa bản chất triết học đấu tranh của kẻ thống trị chuyên chế một cách giàu hình tượng và sâu sắc.

Thông qua hình tượng kẻ địch vô hình được tạo ra và lưu giữ mọi thời khắc trong đầu óc lũ động vật, thông qua việc cường điệu sự nguy hiểm của kẻ địch mọi lúc, cường điệu tính tất yếu của việc “đoàn kết nhất trí”, kẻ thống trị đã khiến lũ động vật phải “tạm thời nhẫn nhịn” tất cả sự bạo ngược. Lũ động vật ngây thơ tin rằng hành vi bạo lực này xuất phát từ một nguyện vọng bình đẳng tốt đẹp, và cuối cùng sẽ mang lại hạnh phúc cho mọi người.

Nhưng tất nhiên, người ta có nam có nữ, có giàu có nghèo, có sướng có khổ, có ngọt bùi có đắng cay, có chăm chỉ có lười biếng, có giỏi có kém, có cảm nhận khác nhau, có tính cách khác nhau, có hoàn cảnh khác nhau, vậy thì cuộc sống mới thật là phong phú và có hương vị. Cái gọi là nguyện vọng bình đẳng không tưởng bên trong nguồn tài nguyên có hạn là trái đất này, và thứ học thuyết đấu tranh luẩn quẩn kia, đều chỉ là ngụy biện mà thôi…

THÁO XÍCH






Truyện ngắn : Phạm đình Trúc Thu





Phải mất hơn 5 năm, tôi mới tạo xong cây Mai Bonsai để bàn.Tết rồi gửi dự thi được luôn cái Huy chương vàng.Tôi không bán, dù có nhiều người hỏi mua.


Nhà tôi tuy ở mặt tiền đường nhưng khoảng sân trước nhà nhỏ hẹp, nên cây tôi chơi đều để ở nhà mẹ tôi vì sân rộng nắng tốt, nhờ mấy đứa em tưới cho. Tuần nào tôi cũng về thăm mẹ, tiện thể bón phân, cắt tỉa cây.

Mẹ tôi sửa nhà. Đám thợ làm vô ý làm gãy cành hết mấy cây thành phẩm. Tôi sợ hư cây mai nên vội đem về nhà. Hàng rào nhà tôi cũng không thuộc loại kiêng cố. Sợ bị trộm nên tôi lấy sợi xích nhỏ quấn quan chậu mai rồi khóa vào móc tường.

Hôm thằng bạn thân ghé chơi, thấy cây mai bị xích, nó phán : " Sự sống đẹp như vậy mà mày xích xiềng thì tội cho nó quá. Trông chướng con mắt".

Ừ, nó nói cũng phải.Tôi tháo xích, bụng nghĩ cũng chỉ vài tháng mẹ tôi sửa nhà xong thì tôi đem về.
Ai, ngờ tháo xích mới 2 ngày thì đã bị mất trộm.
Tôi buồn cả tuần, không phải vì tiếc mất đi vài triệu đồng mà vì lo không biết cây mai có tiếp tục sống được hay không?

Thằng bạn lại đến, không thấy cây mai nó hỏi. Tôi trừng mắt bảo nó : " Cũng tại mày bảo tao tháo xích. Mới tháo được 2 ngày là bị trộm mất.". Thằng bạn im lặng, rồi vỗ vai tôi, nói : " Thôi mày cũng đừng buồn làm gì. Chắc nó hết duyên với mày rồi"

Không biết, điều thằng bạn tôi nói có đúng hay không nhưng lòng tôi vẫn canh cánh lo lắng.

Cây mai liệu có còn sống?

Đến giờ, mỗi lần nhìn tấm bằng khen, lòng tôi không khỏi ngậm ngùi tự hỏi : " Cây mai có còn sống hay không? Nếu còn thì có còn giữ được vẽ đẹp như khi nó ở bên tôi và liệu nó có trổ hoa đúng tết?"




11/2018

Thứ Ba, 13 tháng 11, 2018

Trung bình 9 người dân đang phải nuôi 1 cán bộ nhà nước



Chân Hồ




Tính bình quân, 9 người dân Việt Nam đang phải nuôi 1 cán bộ hưởng lương hoặc đang nhận phụ cấp từ ngân sách Nhà nước.

Thông tin được PGS.TS Phạm Duy Nghĩa (Đại học Fulbright Việt Nam) nêu tại hội thảo về Chính phủ và chính quyền địa phương do Bộ Nội vụ tổ chức cuối tháng 8 qua.



Dẫn số liệu từ Bộ Nội vụ, ông Nghĩa cho biết tính đến cuối tháng 3/2018, ước tính số lượng người hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách lên tới 11 triệu người.

“Bình quân cứ 9 người dân Việt Nam đang phải nuôi 1 cán bộ hưởng lương hoặc đang nhận phụ cấp từ ngân sách Nhà nước”, ông Nghĩa tính toán.

Theo ông Nghĩa, hiện trạng này là một phần lý do khiến Việt Nam vẫn còn nghèo và yếu khi tỷ lệ công chức và viên chức của Việt Nam thuộc hàng cao nhất khu vực, với 4,8% dân số cả nước.