" Cả cuộc đời ba không có gì để lại cho các con ngoài số vốn kiến thức mà ba mẹ tảo tần nuôi các con ăn học.Mong các con trở thành những người hữu ích cho xã hội" ( trích từ TT "Vững Niềm Tin")
Thứ Bảy, 11 tháng 11, 2017
Thượng tầng kiến trúc và hạ tầng kinh tế ngày nay
Trong chưa tới mười năm Hãng Apple đã bán hơn 1 tỷ iPhone trên khắp thế giới.
http://bfmbusiness.bfmtv.com/entreprise/1-milliard-d-iPhone-vendus-en-9-ans-quels-produits-font-mieux-qu-Apple-1034396.html
Khi iPhone 7 chào đời, nội tuần đầu, Apple bán được hơn 10 triệu cái, cũng trên khắp thế giới. Khách hàng phải ghi tên sắp hàng trước mới mua được.
Để hoàn thành một cái iPhone, người ta sử dụng nguyên liệu, linh kiện tới từ khoảng 150 quốc gia, cuối cùng lắp ráp tại Trung Quốc rồi bán khắp thế giới.
Một cái iPhone dùng khoảng 250 000 bằng sáng chế (brevets).
https://www.igen.fr/iPhone/2016/12/le-cout-invisible-et-eleve-des-licences-de-brevets-dans-les-smartphones-98303
e tutti quanti.
Tư bản toàn cầu hoá là như thế.
Thế nghĩa là gì ?
1/ Ba bốn chục năm qua, lực lượng sản xuất đã phát triển và xã hội hoá với một tốc độ chưa từng thấy trong lịch sử.
Đòn bẩy của sự phát triển đó đương nhiên là kiến thức khoa học, cũng đang bùng nổ với một tốc độ chưa từng thấy.
Đưa kiến thức khoa học vào những quy trình sản xuất, quản lý, kinh doanh, để không ngừng phát triển lực luợng sản xuất, theo Marx cách đây hơn 150 năm, là "nhiệm vụ" lịch sử của phương thức sản xuất tư bản. Ít có "sản phẩm" nào có tính chất xã hội cao bằng kiến thức khoa học : nó do vô vàn người tạo ra, xuyên qua vô vàn thế kỷ và nó là của bất cứ ai có khả năng học, tiếp thu, sử dụng và phát triển nó.
2/ Một thị trường tương xứng
Một lực lượng sản xuất như thế đòi hỏi một thị trường tương xứng để tồn tại, phát triển : thị trường toàn cầu ở cả hai khâu :
a/ thị trường hàng hoá, vừa để mua nhanh và rẻ tất cả những phương tiện sản xuất cần thiết, vừa để bán sản phẩm với giá cao nhất, mang lại tỷ lệ lời cao nhất. Không một quốc gia nào, kể cả Trung Quốc, có thể một mình đáp ứng đòi hỏi trên.
b/ thị trường sức lao động, để "mua" vừa nhanh vừa rẻ tất cả những người làm thuê có những kiến thức và kỹ năng đủ mặt, đủ trình độ, để sản xuất sản phẩm loại ấy.
Thị trường tương xứng với lực lượng sản xuất ở mức mới này được gọi là thị trường toàn cầu và nền kinh tế nó biểu hiện thì gọi là kinh tế thị trường toàn cầu hoá. Nó là hình thái đã hình thành, còn đang phát triển của phương thức sản xuất tư bản ở mức toàn cầu xuyên qua nhiều thượng từng kiến trúc như : OMC, UE, các hiệp ước kinh tế chính trị giữa các vùng địa lý, giữa các lục địa, v.v. Thế thôi. Cũng đủ chết người, không ít, và tha hoá con người, cũng không ít. Nhưng chẳng thể vòng tránh được.
3/ Một hình thái quan hệ sản xuất "mới"
Một lực lượng sản xuất như thế đòi hỏi một hình thái quan hệ sản xuất tương xứng để tồn tại, phát triển : Tư bản tài chính – Người làm thuê.
Từ thế kỷ 19 cho tới nửa đầu thế kỷ 20, ở Châu Âu, người ta quen hình dung quan hệ sản xuất tư bản dưới hình thái : Chủ Xí Nghiệp – Công Nhân (Patron–Ouvriers). Dễ hiểu : đó là thời đại tư bản công nghiệp ở mức Quốc Gia thống trị những nền kinh tế. Tư bản thường hiện thân như những nhà máy đồ sộ với hàng nghìn công nhân và một ông chủ, vừa là Chủ tư bản đích thực của xí nghiệp (Tư bản sở hữu), vừa là Giám đốc chỉ huy toàn bộ sinh hoạt sản xuất và kinh doanh của xí nghiệp (tư bản chức năng). Hình thái tư bản này khó có khả năng dung dưỡng và phát triển những lực lượng sản xuất mới kiểu trên. Tuy vậy, nó vẫn còn tồn tại ở mức rất đáng kể. Ở Pháp, còn có vài ông chủ tư bản lớn cỡ quốc tế kiểu ấy.
Hình thái tư bản thống trị thế giới ngày nay, tư bản tài chính, đã hình thành ngay trong thế kỷ 19 ở Châu Âu, xuyên qua những ngân hàng và những công trình đồ sộ đòi hỏi vốn đầu tư không cá nhân nào có được : những đường xe lửa xuyên lục địa, những Kênh Suez, e tutti quanti.
Tư bản tài chính có mấy đặc điểm sau :
a/ nó là một số tiền khổng lồ có thể vượt PIB của nhiều quốc gia trên trái đất này.
b/ quyền xử dụng nó không tuỳ thuộc quyền lực chính trị của Nhà Nước nào, mà là quyền lực "tư nhân", quyền lực "tư hữu", nhưng không là quyền lực của ông chủ lớn nhất nào. Ngoại lệ : tư bản nhà nước, Fonds Souverains, đặc biệt các "nước dầu lửa", Na Uy, Trung Quốc… :
https://www.google.fr/search?client=firefox-b&dcr=0&q=fond+souverain+classement&sa=X&ved=0ahUKEwj_1unUspjXAhXJ1qQKHWqYBUMQ1QIIgQEoAg&biw=1101&bih=622
c/ chủ đích thực của nó đông lúc nhúc, thành ra vô danh, vô diện, vô lực.
Ta đang nhân chuyện iPhone tán gẫu, vậy lấy Hãng Apple làm thí dụ. Chủ của nó là ai ? Bạn nào cho tôi một dáp án thoả đáng, tôi ngả mũ chào. Nó thế này :
https://www.zonebourse.com/APPLE-4849/societe/
– 99.99% chủ nhân của Apple có thể thay tên đổi dạng bất cứ lúc nào. Những Tim Cook, Steve Jobs, về mặt này, chỉ là tiểu chủ vặt, rêu rao cho bàn dân ồ mê ly, mê ly đời ta thôi.
– 10 chủ nhân lớn nhất (từ 6.64% cổ phiếu tới 0.80% cổ phiếu !) không là ai cả, là những công ty kiểu Apple đằng sau đó có một đống chủ nhân như… Apple !
Marx đã từng nhận định sắc bén, than ôi triết : Tư Bản, tự nó là một thực thể xã hội tính (le capital, en soi, est un être social) : nó do lao động của nhiều người mà hình thành, nó vận động được nhờ lao động phối hợp của nhiều người.
Quá trình xã hội hoá của tư bản cũng là quá trình vô nhân hoá nó : 1 cổ phiếu của Steve Jobs trong Apple = 1 cổ phiếu của… The Vanguard Group, Inc. Thế thôi.
d/ Vai trò đặc thù của Tư bản chức năng
Trong hoàn cảnh như thế, ai có thể làm sếp những Hãng kiểu Apple ?
Những người khiến nó có khả năng sản xuất, buôn bán, có lời, phát triển, qua đó khiến tiền của các ông chủ đích thực của tư bản tài chính ung dung tiến bước trên con đường : Tiền → Tiền' ; Tiền' > Tiền .
Ông Steve Jobs thuộc loại người như thế. Ông chỉ là chủ của 0.5% cổ phiếu của Apple :
http://www.boursier.com/actualites/economie/les-petits-secrets-de-steve-jobs-enfin-reveles-10393.html
nhưng ông là lãnh đạo hành sự tối cao, không ai phản đối, của Apple trong nhiều năm. Steve Jobs, Tim Cook và những người cộng tác viên của họ trong ban lãnh đạo (executive board) của Apple là hiện thân của tư bản chức năng, là những người có khả năng thúc đẩy tư bản vận động, tiền đẻ ra tiền. Họ có quyền lực không nhờ làm chủ nhiều cổ phiếu mà nhờ tài năng : sáng tạo, tổ chức, quản lý, quảng cáo, buôn bán… Ở một số nước, Pháp chẳng hạn, một trong những tài năng quyết định là tài năng xây dựng cho mình một mạng lưới quan hệ với… quyền lực chính trị và tài chính !
Càng ngày hai bộ mặt xưa kia thống nhất của tư bản, Tư bản sở hữu và tư bản chức năng, càng tách rời nhau. Tư bản sở hữu dĩ nhiên nắm quyền quyết định cuối cùng trong Ban Quản Trị (Conseil d'administration) của Hãng : ai gom được nhiều cổ phiếu nhất theo phe mình, người ấy quyết định. "Anh" Tư bản sở hữu có thể đuổi tổng giám đốc bất cứ lúc nào. Nhưng sau đó, làm gì để khiến tiền đẻ ra tiền ? "Thuê" một anh tư bản chức năng khác ! "Anh" Tư bản sở hữu, xét cho cùng, là một đống tiền vô danh vô diện, không có khả năng điều khiển cụ thể một Hãng lớn nhỏ nào cả. Ngược lại, anh tư bản chức năng, dù chỉ là chủ của một cổ phiếu thôi[1], là người cần thiết để đảm bảo sự vận hành của tư bản.
Tình hình trên đặt ra một câu hỏi : phải chăng quá trình phát triển của phương thức sản xuất tư bản đã khai sinh ra một giai cấp mới, hoàn toàn không có định nghĩa trong quan hệ sản xuất của Marx : giai cấp tư bản chức năng ?
Nếu có, "Mâu thuẫn" tay ba giữa tư bản sở hữu, tư bản chức năng và người làm thuê sẽ vận động thế nào ? Điều chắc chắn, đó không là chuyện chữ nghĩa hão : chỉ nhìn những hục hặc túi bụi giữa bộ chưởng bộ kinh tế và tài chính Pháp Macron (thời Hollande), đại diện cho Nhà Nước Pháp, chủ 20% cổ phiếu của Hãng Renault, với Tổng giám đốc của Renault-Nissan, ông Carlos Ghosn, cũng đủ thấy : không phải chuyện đùa và không phải ông Macron thắng ! Có nhiều ví dụ khác.
Mâu thuẫn giữa tính xã hội ngày càng sâu rộng của lực luợng sản xuất và tính tư hữu trong quan hệ sản xuất có thể vận hành ra sao ? Điều chắc chắn, mâu thuẫn này, ngày nay, bao gôm mâu thuẫn giữa quyền lực kinh tế phi quốc gia của tư bản tài chính và quyền lực chính trị quốc gia ở mọi nước. Nó thể hiện rõ trong mâu thuẫn giữa chủ quyền quốc gia định đoạt đường lối kinh tế của một nước với những rằng buộc của những hiệp định siêu quốc gia trong những tổ chức quốc tế. Thí dụ : mâu thuẫn giữa thượng tầng kiến trúc của Liên Hiệp Châu Âu (Union Européenne) với thượng tầng kiến trúc của từng nước trong UE trong quyền lập pháp. Coi tình hình ngày càng hỗn loạn của UE trong mấy năm qua thì thấy.
Phan Huy Đường
2017-10-29
[1] theo luật pháp của Pháp, anh tổng giám đốc (Directeur Général, PDG) một hãng phải có ít nhất một cổ phiếu mới có tư cách đại diện giới chủ đối với người làm thuê.
CÁI TÔI CỦA NGƯỜI VIỆT
Những người có thực tài rất khiêm nhượng, vì họ không so sánh với người khác.. Họ so sánh mình với mình, so sánh mình hôm nay với mình hôm qua, so sánh tác phẩm mới với tác phẩm cũ của chính mình. Và thường thường thất vọng.
CÁI TÔI CỦA NGƯỜI VIỆT
Từ Thức
Tại sao cái tôi, cái ‘’ égo ‘’ của người Việt lớn thế ? Tôi gặp không biết bao nhiêu người vỗ ngực, tự cho mình là vĩ nhân. Không phải chỉ vỗ ngực, còn trèo lên nóc nhà gào khản cổ : tôi giỏi quá, tôi phục tôi quá, tại sao tôi tài ba đến thế ?
Một lần ngồi nhậu với 5 ông, có cảm tưởng ngồi với 5 giải Nobel văn chương. Những ông như vậy, nhan nhản. Nói ‘’ ông ‘’, vì hầu như đó là một cái bệnh độc quyền của đàn ông. Như ung thư vú là bệnh của đàn bà.
In một hai cuốn sách tào lao tặng bố vợ, nghĩ mình ngồi chung một chiếu với Marcel Proust, Victor Hugo. Làm vài bài thơ, câu trên vần (hay không) với câu dưới, nghĩ mình là Beaudelaire, Nguyễn Du tái sinh. Lập một cái đảng có ba đảng viên, kể cả em gái và mẹ vợ, nghĩ mình là lãnh tụ , ăn nói như lãnh tụ, đi đứng , tắm rửa như lãnh tụ. Viết vài bài lăng nhăng, đầu Ngô mình Sở, nghĩ mình là triết gia, trí thức, sẵn sàng dẫn dân tộc đi lên ( hay đi xuống ). Học gạo được cái bằng ( chưa nói tới chuyện mua được cái bằng ), nghĩ mình đã kiếm ra điện và nước nóng.
TÔI, TÔI, TÔI
Một ông bạn in một tấm danh thiếp khổ lớn, dầy đặc những chức tước, trong đó có ‘’ nhà nghiên cứu ‘’.. Những người quen không biết ông ta nghiên cứu cái gì, lúc nào. Tôi đáng nhận là nhà nghiên cứu hơn, vì thỉnh thoảng vẫn vào Google tìm mẹo trị mắc xương cá, hay cách nấu canh hẹ tầu hũ.
Nghĩ cũng lạ, cái TÔI to tổ bố ở một xứ như VN. VN, xứ của văn hoá Phật giáo, một tôn giáo coi cái ngã là hư cấu, cái tôi không có thực. Nơi chịu ảnh hưởng Lão giáo, những người đã ra suối rửa tai khi nghe thiên hạ nhắc tới tên mình. Nơi người công giáo thực hành đạo nhiệt thành, và Công giáo coi vị tha, nghĩ tới người khác, là đức tính hàng đầu.
Không lẽ người Việt không hiểu tôn giáo mình đang theo ?
Có ai đã gặp một người Nhật vỗ ngực : tôi, tôi, tôi. Nói chuyện với người Nhật, trong những cơ hội hơi chính thức, chưa gì họ đã mang giấy bút ra ghi chép. Làm như những điều bạn nói là khuôn vàng, thước ngọc.
TÔI LÀ CHÂN LÝ
Nước Việt nghèo , chậm tiến, lạc hậu. Đáng lẽ người Việt phải khiêm nhượng, biết người, biết mình. Nhưng không, trong tự điển cá nhân của người Việt không có chữ khiêm tốn. Nhiều lần tôi gân cổ cãi với bạn bè, về nhà nghĩ : không chừng nó có lý. Tại sao không nhìn nhận ngay ? Bởi vì cái tôi nó lớn quá.
Ở đâu cũng có những cái tôi, nhưng ở người Việt, nó đạt một tỷ số đáng ngại. Mỗi lần, hiếm hoi, gặp một người đồng hương có khả năng nhưng khiêm tốn, tôi nghĩ bụng : ông nội này mất gốc rồi.
Thảo luận với người Việt rất khó, vì ai cũng nghĩ là mình nắm chân lý trong tay. Nghĩ khác là xúc phạm ông ta, xúc phạm Chân lý, bôi nhọ sự thật. Phải căm thù, phải tiêu diệt, phải triệt hạ, phải tố cáo , chụp mũ.
Cái tôi lớn, phải chăng đó là nét đặc thù của một dân tộc đầy tự ti mặc cảm ? Trong cái kiêu hãnh lố bịch của người ‘’ mang dép râu mà đi vào vũ trụ ‘’ có cái tự ti của những người vẫn mang dép râu ở thế kỷ 20, 21.
Trong y học, égocentrisme là một cái bệnh, pathologie . Và trong 9 trên 10 trường hợp, những người có mặc cảm tự cao, tự đại ( complexe de supériorité ) là để che đậy tự ti mặc cảm ( complexe d’infériorité ).
Những người có thực tài rất khiêm nhượng, vì họ không so sánh với người khác.. Họ so sánh mình với mình, so sánh mình hôm nay với mình hôm qua, so sánh tác phẩm mới với tác phẩm cũ của chính mình. Và thường thường thất vọng.
Khi một nghệ sĩ thoả mãn với tác phẩm của mình, anh ta hết là nghệ sĩ. Anh ta không tìm tòi nữa, anh ta về hưu. Như một công chức, một tài xế xe đò về hưu.
ĐÈN DẦU VÀ ĐÈN ĐIỆN
Thomas Edison nói nếu hài lòng với đèn dầu, tìm cách cải thiện đèn dầu, sẽ không bao giờ kiếm ra đèn điện. Người Việt ta dễ thoả mãn quá, dễ kiêu hãnh quá, dễ ‘’ tự sướng’’ quá. Hậu quả là cái gì của ta nó cũng nho nhỏ. Cùng lắm là xinh xắn, dễ thương, nhưng đồ sộ, vĩ đại thì không có. Không thể có. Tham vọng nhỏ, thành quả nhỏ.
Pablo Picasso khi thành công, được ca tụng ở ‘’période rose ‘’ ( thời kỳ hồng ), nếu thỏa mãn, sẽ không có ‘’période bleue’’, thời kỳ xanh. Nếu thoả mãn với ‘’période bleue ‘’ sẽ không có tranh trừu tượng, đưa hội họa đi vạn dặm. Một giai thoại : Picasso mời bạn bè ăn tiệm. Cuối bữa ăn, gọi tính tiền. Chủ tiệm nói xin miễn chuyện tiền bạc, được tiếp Picasso là hân hạnh rồi. Pablo vẽ vài nét trên tấm khăn phủ bàn, tặng chủ tiệm. Ông này nói xin maître ký tên. Picasso trả lời : tôi chỉ trả bữa cơm, không muốn mua tiệm ăn.
Nếu Picasso là người Việt, sẽ thấy đời mình đã quá đủ để thoả mãn : vua biết mặt, chúa biết tên, chữ ký đáng ngàn vàng, chỉ việc ngồi hưởng và chiêm ngưỡng dung nhan mình. May mắn cho hội họa, ông ta là người Tây Ban Nha, hỳ hục tìm tòi cho tới chết.
Mỗi lần nghe, hay coi Jean Marie Le Clézio, Patrick Modiano trong những chương trình văn học trên France Culture, hay trên France 5, ít người nghĩ họ đã chiếm giải Nobel Văn chương.
Họ khiêm nhượng, ngập ngừng, do dự, gần như cáo lỗi sắp sửa nói những điều tào lao.
Le Clézio, Nobel 2008, khoanh tay, chăm chú nghe một tác giả vừa chân ướt chân ráo vào nghề, nói về một cuốn sách đầu tay. Modiano, Nobel 2014, tìm chữ một cách khó khăn, ngượng ngập, ít khi chấm dứt một câu, như muốn nói : thôi, bỏ qua đi, những điều tôi muốn nói chẳng có gì đáng nghe. Ông ta thực sự ngạc nhiên không hiểu tại sao có người nghĩ đến mình để trao giải. Ông ta nói có người đọc sách của mình đã là một phép lạ.
NGƯỜI VÀ TA
Những năm đầu ở Pháp, có thời tôi cư ngụ Rue Marcadet, Paris. Bên cạnh là một cặp vợ chồng già, hiền lành, bình dị như một cặp thư ký hay công nhân về hưu. Mỗi lần gặp ở thang máy, bà vồn vã chào, hỏi thăm đủ chuyện. Thỉnh thoảng ông mời vào nhà, uống trà, hỏi chuyện về Phật giáo mà ông nói đọc nhiều, nhưng có điều không hiểu. Thí dụ ông muốn so sánh khái niệm về Niết bàn của Phật giáo với thiên đàng của Thiên Chúa giáo.
Ông là một người công giáo thuần thành, nhưng muốn tìm hiểu về những tôn giáo khác.
Tuyệt nhiên không bao giờ ông bà nói về mình. Nếu không coi TV , chắc không bao giờ tôi biết bà là Yvonne Loriot, danh cầm hàng đầu của Pháp, chiếm giải nhất 7 lần khi học ở Conservatoire de Paris, trước khi trở thành một giáo sư âm nhạc có uy tín.
Ông là Olivier Messaien, một trong những tác giả nhạc cổ điển lớn nhất của hậu bán thế kỷ 20.. Rất nhiều các nhạc sư, nhạc trưởng nổi tiếng ở Âu Châu , như Pierre Boulez, Iannis Xenakis hãnh diện là đệ tử của ông. Tác phẩm opéra ‘’Saint-Francois d’Assise‘’ của ông được trình diễn trên khắp thế giới, được đón nhận như những tác phẩm của Mozart, Beethoven..
Ông bà sống trong một căn nhà bình dân, ăn uống đơn giản như một cặp vợ chồng nghèo. Tiền bản quyền nhạc đem tặng- một cách kín đáo- các hội từ thiện, hay giúp trùng tu nhà thờ Notre Dame de Lorette gần nhà. Những lúc rảnh rỗi, bà theo ông vào rừng, thu thanh để nghiên cứu tiếng chim hót.
Ai biết hai ông bà già, lễ độ, gần như vụng về, đang xếp hàng mua ổ bánh mì, là những nhân vật chiếm chỗ lớn trong bất cứ một tài liệu nào về âm nhạc cổ điển cận đại , tuần trước còn là thượng khách của hoàng gia Thụy Điển.
Khi nào ta có những người như Modiano, Le Clézio, Messaien- chưa nói tới tài năng, chỉ nói tới thái độ khiêm tốn – VN sẽ là một dân tộc trưởng thành. Trong khi chờ đợi, chúng ta tiếp tục leo lên nóc nhà, gào : tại sao tôi tài giỏi quá như vậy. Khi gào mỏi, leo xuống, đóng áo thụng vái nhau.
Đó cũng là một trò vui, nếu hậu quả không nghiêm trọng. Chúng ta đều đồng ý với nhau là đất nước đang trên bờ vực thẳm, không thể nhẫn tâm khoanh tay nhìn. Nhưng chúng ta không ngồi nổi với nhau, vì cái TÔI nó lớn quá. Lớn hơn cả vận mệnh dân tộc..
Từ Thức
( Paris, tháng 10. 2017 )
Thứ Năm, 9 tháng 11, 2017
Ngôi nhà 34 Hoàng Diệu chứng nhân của Lịch sử
Tác giả: theo FB Lưu Trọng Văn
.
—————-
Sáng qua trước khi ra sân bay về Sài Gòn, gã đi qua phố Hoàng Diệu, Hà Nội.
Ngôi nhà 34, tầng hai sáng đèn. Gã biết nơi ấy đang có lễ tang cụ Hoàng Thị Minh Hồ 103 tuổi – vợ của cụ Trịnh Văn Bô nhà tư sản dân tộc đã hiến cho chính phủ Hồ Chí Minh 5147 lượng vàng khi mà ngân khố quốc gia trống rỗng.
Gã tính vào để thắp nén nhang cho người đàn bà yêu nước từng tuyên bố: tôi cho chính phủ 1000 lượng vàng để chính phủ đút lót cho mấy tư lệnh của Tưởng Giới Thạch chỉ huy quân Trung Quốc tại VN lúc đó chỉ vì muốn tránh đổ máu cho đồng bào và chiến sĩ của ta.
Nhưng rồi gã nghĩ, thôi mình chỉ là anh dân hãy như bao người dân khác qua đường nhìn vào và lặng lẽ có lời cầu khấn cho một con người giàu có nhưng tử tế và yêu dân, yêu nước ở thời kì quá thiếu vắng những người như thế là được rồi.
Gã từng học cùng lớp với Minh Châu – con gái tướng Hoàng Văn Thái, 30 năm ở trong ngôi nhà 34 kia, nhưng chưa bao giờ gã bước vào ngôi nhà đó.
Bây giờ đi qua ngôi nhà 34, lúc này, gã cảm thấy buồn.
Một câu hỏi được đặt ra: vì sao tướng Thái, người cùng tướng Giáp chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ, người từng nhiều năm là tổng tham mưu trưởng chỉ huy quân đội đánh các loại giặc lại có thể không áy náy, hơn 30 năm cho đến khi mất, ở trong ngôi nhà của một người yêu nước đã cống hiến hầu hết gia sản cho đất nước, đang khó khăn về nơi ở như thế.
Tướng Thái quá biết cái cam kết của mình với ông bà Bô khi mượn nhà cho gần nhà tướng Giáp và tướng Văn Tiến Dũng đang ở cho tiện việc chỉ huy quân đội chỉ trong hai năm. Tại sao sau cái hạn hai năm ấy lại không chủ động trả nhà?
Và tại sao suốt 30 năm liền ông bà Bô đòi nhà được biết bao vị lãnh đạo cấp cao nhất như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng… đồng ý phải trả nhà cho ông bà Bô mà vẫn không trả nhà?
Tướng Thái thừa biết nếu trả nhà thì mình được cấp biệt thự ở những con phố như Phan Đình Phùng, Lý Nam Đế ngay lập tức, nhưng vẫn không tự thấy không phải về đạo lý mà chủ động ra đi.
Buồn là buồn chỗ đó.
Tướng Thái là anh hùng của các cuộc chiến.
Tướng Thái được ghi nhận là tướng gần gũi thân cận với tướng Giáp, người được quân đội tôn vinh.
Vậy thì vì sao?
Không khó trả lời.
Ngôi nhà này có khuôn viên 3000 m2 diện tích sàn 300 m2 là một trong những biệt thự đẹp nhất, sang trọng nhất và lớn nhất, trên con phố đẹp nhất thủ đô.
Vâng, cám dỗ đó không dễ mà từ bỏ.
Cám dỗ. Biết bao người hùng không tiếc máu xương cho giành độc lập dân tộc nhưng đã không vượt qua được cám dỗ vật chất.
Nếu tướng Thái quyết định trả nhà như cam kết và cùng gia đình rời nhà, chắc chắn ngôi nhà ấy vẫn không được trả lại cho ông bà Bô vì một chính sách bất đạo lý hơn bất cứ bất đạo lý nào là chính sách cải tạo tư sản và quốc hữu hoá,( thực tế trước khi mất vào năm 1986, tức là sau 34 năm ở trong ngôi nhà ấy, tướng Thái có yêu cầu gia đình trả lại nhà cho quân đội quản lí thì nhà đã không hề được trả lại cho ông bà Bô) thì gã nghĩ dù sao giờ đây tướng Thái đã được nhắc đến như một tấm gương đẹp của một anh hùng, một tướng tài đức của quân đội không… bất tín.
Buồn.
Gã hiểu vì sao Mandenla lãnh tụ Nam Phi được cả thế giới tôn vinh. Không chỉ vì ông yêu nước chống lại chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, đấu tranh cho công bằng mà còn vì tính nhân văn của ông sáng ngời.
Khi người da đen bị áp bức giành chính quyền từ tay người nhà giàu da trắng, ông không hề có bất cứ cuộc cải tạo tư sản, địa chủ nào hết. Ông đã mua lại các tài sản của người giàu để chia lại cho người nghèo với giá mà người giàu đồng tình. Ông phân biệt rõ có người giàu yêu nước, tử tế để tôn vinh và mời họ làm lãnh đạo đất nước.
Còn đất nước của gã theo dòng chảy khác. Cải tạo tuốt. Tịch thu tuốt nhân danh cái gọi là công bằng cho người nghèo.
Bi kịch của đất nước từ đây đâu chỉ của riêng những Nguyễn Thị Năm, những Trịnh Văn Bô…
Và như thế câu chuyện ngôi nhà 34 Hoàng Diệu là câu chuyện chứng nhân một thời của Lịch sử mà bài học của nó vẫn còn rất nóng hổi cho đến hôm nay. Bài học của Đạo lý.
Ở VN ai sợ mạng xã hội?
Có thể chỉ ra hẳn một tầng lớp, có thể lấy ông Nguyễn Thanh Hải, Cục trưởng Cục An toàn thông tin (Bộ Thông tin và Truyền thông làm ví dụ, ông không dùng mạng xã hội Facebook hay Zalo, Viber... “vì bởi tham gia vào mạng xã hội sẽ mất thời gian, đau đầu về những chuyện phải theo dõi xem ai có chọc ngoáy, nói xấu, bình phẩm mình trên mạng không rồi việc các comment của người này, người khác...”.
Hehe. Ông này làm nghề tư vấn về an toàn tình dục nhưng biện pháp duy nhất ông khuyên mọi người là nên... tự sướng như ông. Tự sướng thì sẽ an toàn!
Và vì sao ông ta sợ "chọc ngoáy, nói xấu, bình phẩm mình"? Cái này mới là vấn đề.
Tầng lớp mà mình nói đến họ không sợ đếch gì hết, họ có sử dụng mạng, email thì đã có nội bộ sao mà sợ lộ bí mật quốc gia?
Vậy thì sợ là sợ cái gì?
Sợ dùng mạng xã hội làm... cách mạng chăng?
Còn lâu.
Làm cách mạng cần hội đủ 3 yếu tố: Một là, phải có tư tưởng (cương lĩnh) thuyết phục. Hai là, phải có lực lượng: Ba là, phải có tiềm lực kinh tế. Cả ba thứ đó thì cái bọn ngồi trong phòng, nhìn lên tường, chém bằng bàn phím không có lấy một xu đi đò thì cách với mệnh cái gì?
Vả lại, thời buổi này, người ta nhận ra và loại trừ hết. Cứ nhìn cái bọn ở nước ngoài chống cộng lãi nhãi đi lại mấy quan điểm cũ rích bây giờ đâu còn đất sống? Ha.
Nói thật, họ chỉ sợ mỗi một điều thôi.
Đó là mạng xã hội là nơi giám sát họ. Mọi lời nói, mọi hành động, mọi việc làm... đều bị người dùng mạng xã hội phơi bày ra.
Họ sợ lộ biệt phủ, lâu đài, sợ lộ tài khoản ở Thụy Sỹ, lộ nhà ở Mỹ, Canada... sợ lộ bồ nhí, con riêng...
Đặc biệt sợ lộ cái... ngu.
Thế thôi.
Thứ Ba, 7 tháng 11, 2017
Người Việt thờ ơ dân chủ và thích quân đội?
http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-41667806#
Một thăm dò quốc tế vừa cho thấy đa số người Việt Nam chỉ ưa thích "vừa phải" hệ thống chính trị dân chủ nhưng đồng thời cũng ủng hộ một chính phủ do quân đội nắm quyền.
Trung tâm Nghiên Cứu PEW, trụ sở tại Washington D.C, công bố khảo sát đã làm ở 38 quốc gia (www.pewglobal.org/2017) để hỏi người dân nghĩ gì về dân chủ.
Ba mức độ khác nhau
Báo cáo này phân loại người trả lời khảo sát thành ba nhóm.
Đầu tiên là những người "ủng hộ dân chủ hết lòng" nếu họ ủng hộ hệ thống chính trị do dân bầu, phản đối cai trị của giới chuyên gia (kỹ trị), và không ưa một lãnh đạo mạnh hay quân đội nắm quyền.
Nhóm thứ nhìn là người trả lời "ủng hộ dân chủ vừa phải" (less-committed democrats) nếu họ cho rằng nền dân chủ đại diện thì tốt nhưng cũng thích ít nhất một hình thức chính quyền phi dân chủ (như quân đội).
Loại thứ ba là những người "phi dân chủ" vì không thích chế độ dân chủ đại diện và ủng hộ ít nhất một hình thức phi dân chủ khác.
Chiếu theo xếp loại này, khảo sát tại Việt Nam cho thấy chỉ có 8% được xem là "ủng hộ dân chủ hết lòng", còn kém hơn cả 9% "phi dân chủ".
Còn lại, 79% người Việt được thăm dò được xem là "ủng hộ dân chủ vừa phải", nghĩa là vừa ủng hộ nền dân chủ đại diện nhưng cũng thích ít nhất một hình thức phi dân chủ.
Nền dân chủ đại diện hay dân chủ đại nghị được sự ủng hộ cao nhất tại Hoa Kỳ, Canada, Nhật Bản, Đức, Hà Lan và các nước Bắc Âu, trong đó có Thụy Điển là cao nhất, nơi 52% người dân hoàn toàn ủng hộ dân chủ (xem bảng cuối bài).
Trong 38 nước được khảo sát, Việt Nam là nước ủng hộ mạnh nhất cho một chính quyền quân nhân.
Khi được hỏi về chính quyền quân nhân (military rule), tới 29% người Việt Nam xem đây là thể chế "rất tốt", 41% coi là "hơi tốt" và chỉ có 3% xem là "rất xấu".
Khác biệt thế hệ
Khảo sát nói rằng một nguyên do có thể vì hoài niệm quá khứ ở riêng Việt Nam, nơi 46% người Việt trên 50 tuổi được hỏi đã thể hiện quan điểm ủng hộ một chính quyền quân nhân, trong khi chỉ có 23% người trong độ tuổi 18 đến 29 ủng hộ.
Người Việt được khảo sát cũng thích một chính quyền "kỹ trị", tức là để các chuyên gia, thay vì người do dân bầu, quyết định theo cách mà họ nghĩ tốt cho đất nước.
Khảo sát cho thấy Việt Nam có vẻ 'lạc điệu' với thế giới khi chuẩn toàn cầu của PEW cho thấy 78% người trả lời câu hỏi coi 'dân chủ đại diện' là rất tốt, và chỉ có 17% coi là thể chế xấu.
Các câu hỏi trong khảo sát liên quan Việt Nam
Mức độ tin tưởng của bạn về việc chính phủ làm điều tốt cho đất nước - nhiều, một chút, không nhiều, không hề?
Nhiều Một chút Không nhiều Không hề
31 51 16 1
Hệ thống dân chủ mà ở đó, công dân - chứ không phải viên chức do dân bầu - sẽ bỏ phiếu trực tiếp về những vấn đề lớn của quốc gia để quyết định có trở thành luật pháp hay không
Rất tốt Hơi tốt Hơi xấu Rất xấu
28 45 12 4
Hệ thống dân chủ, mà ở đó đại diện do dân bầu sẽ quyết định ra luật pháp.
Rất tốt Hơi tốt Hơi xấu Rất xấu
33 54 4 2
Một lãnh đạo mạnh có thể quyết định mà không bị can thiệp của quốc hội hay tòa án?
Rất tốt Hơi tốt Hơi xấu Rất xấu
9 33 30 17
Chuyên gia, thay vì người do dân bầu, quyết định theo cách mà họ nghĩ tốt cho đất nước?
Rất tốt Hơi tốt Hơi xấu Rất xấu
17 50 17 5
Quân đội cai trị đất nước?
Rất tốt Hơi tốt Hơi xấu Rất xấu
29 41 19 3
Khảo sát tại Việt Nam cho thấy chỉ có 8% được xem là "ủng hộ dân chủ hết lòng", còn kém hơn cả 9% có quan điểm "phi dân chủ"
Thứ Hai, 6 tháng 11, 2017
Một cách lý giải khác về Vương quốc Phù Nam
Từ những khảo cứu di truyền học dân cư châu Á kết hợp với cổ nhân học, chúng tôi phát hiện, 70.000 năm trước, người hiện đại Homo sapiens từ châu Phi di cư tới Việt Nam. Tại đây hai đại chủng người tiền sử Australoid và Mongoloid hòa huyết cho ra hai chủng người Việt cổ là Indonesian và Melanesian cùng mang mã di truyền Australoid. 50.000 năm trước đây, người từ Việt Nam lan tỏa ra các đảo Đông Nam Á, châu Úc và Ấn Độ. 40.000 năm trước, người Việt Nam đi lên khai phá Hoa lục.[1] [2]
Một cách lý giải khác về Vương quốc Phù Nam
Tác giả: Hà Văn Thùy
Cho đến nay đã có nhiều khảo cứu về vương quốc Phù Nam. Bài viết “Phù Nam: Huyền thoại và những vấn đề lịch sử” của Tiến sỹ Vũ Đức Liêm là một cống hiến mới đáng trân trọng. Tuy nhiên, ngay ở đây chúng tôi cũng thấy tác giả chưa tiếp cận chân lý bởi lẽ chưa giải quyết được vấn đề căn cốt: chủ nhân của Phù Nam là ai? Có thể là như tác giả nói: người Austranesian từ biển vào kết hợp với người bản địa tạo thành dân cư Phù Nam. Nhưng một khi câu hỏi: người Austranesian có nguồn gốc thế nào và người bản địa là ai chưa được trả lời thì mọi phát biểu về Phù Nam cũng chỉ là xây lâu đài trên cát! Bởi lẽ lịch sử là hoạt động xã hội của cộng đồng người diễn ra trong quá khứ, một khi chưa biết cộng đồng đó là ai, có nguồn gốc ra sao và quá trình hình thành thế nào để hiện diện ở thời điểm khảo cứu thì mọi điều nói về họ đều không có cơ sở. Do vậy, trước khi khảo cứu về Phù Nam phải giải quyết vấn đề tiên quyết: người Phù Nam là ai? Cho đến cuối thế kỷ trước, trả lời những câu hỏi trên là bất khả. Nhưng sang thế kỷ này những khám phá mới của di truyền học cho câu trả lời chính xác.
Bài viết này góp phần đưa ra một cách lý giải.
I. Ai là chủ nhân vương quốc Phù Nam?
Nói về nguồn gốc của người Austronesian, những người từ biển vào góp phần làm nên dân cư Phù Nam, TS Vũ Đức Liêm viết:
Lịch sử của Phù Nam có lẽ nên được kể từ 5000-7000 năm trước. Bắt đầu với cuộc di cư của các cư dân nói tiếng Nam Đảo (Austronesians) từ đảo Đài Loan xuống Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Họ mang theo lúa nước, lợn, dừa, khoai lang, và kỹ nghệ làm gốm, đóng tàu… qua các hòn đảo, duyên hải trên Biển Đông (Peter Bellwood 2006, 2007, 2014, 2017; Solheim 2007). Cuộc du hành này là một trong những hiện tượng kỳ vĩ của nhân loại, đưa Austronesians thành nhóm ngôn ngữ trải rộng nhất trong lịch sử thời tiền hiện đại, băng qua 1/3 địa cầu, kết nối hàng chục nghìn hòn đảo trải dài từ Nhật Bản đến đảo Madagascar và quần đảo Tây Thái Bình Dương.
Hơn chục năm trước, chúng tôi đã đọc những tác giả mà ông dẫn và có lúc đưa vào tài liệu tham khảo của mình. Nhưng sau đó nhận thấy những tác giả trên chưa có cái nhìn toàn diện, đạt tới tận cùng của sự hình thành con người và văn hóa phương Đông, chúng tôi đã bỏ qua.
Từ những khảo cứu di truyền học dân cư châu Á kết hợp với cổ nhân học, chúng tôi phát hiện, 70.000 năm trước, người hiện đại Homo sapiens từ châu Phi di cư tới Việt Nam. Tại đây hai đại chủng người tiền sử Australoid và Mongoloid hòa huyết cho ra hai chủng người Việt cổ là Indonesian và Melanesian cùng mang mã di truyền Australoid. 50.000 năm trước đây, người từ Việt Nam lan tỏa ra các đảo Đông Nam Á, châu Úc và Ấn Độ. 40.000 năm trước, người Việt Nam đi lên khai phá Hoa lục.[1] [2]
7000 năm trước, tại văn hóa Ngưỡng Thiều Nam Hoàng Hà, người Việt Indonesian gặp gỡ hòa huyết với người Mông Cổ phương Bắc (North Mongoloid) sống du mục ở Bắc Hoàng Hà, sinh ra chủng người Việt mang mã di truyền Mongoloid phương Nam, sau này được gọi là người Nam Á. Khoảng 2600 năm TCN, người Mongoloid phương Nam di cư về phía Nam, đem nguồn gen Mongoloid chuyển hóa di truyền đại đa số dân cư Đông Nam Á sang chủng Mongoloid phương Nam.[3] Trong cuộc chuyển hóa vĩ đại này, người Indonesian trở thành người Mongoloid phương Nam điển hình, còn người Melanesian thành dạng Indonesian hiện đại của chủng Mongoloid phương Nam. Cho đến 2000 năm TCN công việc này hoàn tất. Hầu hết dân cư Châu Á thuộc chủng Mongoloid phương Nam. Do lịch sử hình thành như vậy, nên toàn bộ dân cư châu Á là người gốc Việt với tiếng nói Lạc Việt là chủ thể.[4]
Ở Đông Nam Á lục địa, người Indonesian tập trung ở Bắc Bộ Viêt Nam sau này thành người Mongoloid phương Nam điển hình. Người Melanesian sống ở Tây Nguyên, các nước Campuchia, Lào, Miến Điện… sau thành dạng Indonesian hiện đại của chủng Mongoloid phương Nam. Người Melanesian trên các đảo Đông Nam Á chuyển thành người Indonesian hiện đại của chủng mongoloid phương Nam và được gọi là người Austranesian hay Polynesian.
Khoảng 5.300 năm trước, tại vùng cửa sông Chiết Giang, người Lạc Việt thành lập nhà nước Lương Chử (Xích Quỷ). Từ di cốt người Lương Chử, di truyền học phát hiện sự có mặt của người Indonesian (mã di truyền M122) và Melanesian (M119). Khoảng 4.300 năm trước, do nước biển dâng, kinh đô Lương Chử bị nhấn chìm. Người Indonesian đi lên những chỗ cao trong đất liền. Trong khi đó, người Melanesian di cư ra Đài Loan rồi tới các hải đảo, nhập vào dòng người Austronesian sinh sống từ lâu ở đây.[5] Khoảng 5000 năm trước, vào thời thịnh vượng của nhà nước Xích Quỷ xuất hiện mạng lưới buôn bán ngọc bằng thuyền trên Biển Đông, đưa ngọc từ mỏ khai thác ở Đài Loan đến nhiều nơi ven biển Việt Nam, Philippine, Madagasca.
Từ sự hình thành dân cư khu vực như trên, ta có thể truy ra nguồn gốc người Phù Nam như sau:
Người bản địa Phù Nam. Danh xưng Phù Nam trong sách Trung Hoa gợi ý cho thấy, đây là những bộ tộc người miền núi. Bà Nam, Bồ Nam… là những từ Việt cổ chỉ núi. Sau này chuyển thành phnom, phnong. Từ đó người Hoa chuyển thành Đường âm Phù Nam. Mang tên “người miền núi” nói lên rằng, đó là những cộng đồng người Việt sống trên vùng núi Campuchia và Nam Trường Sơn. Vào đầu Công nguyên khi đồng bằng sông Cửu Long hình thành, những bộ lạc người Việt mang mã di truyền Indonesian của chủng Mongoloid phương Nam tràn xuống định cư rồi xây dựng nhà nước của “người miền núi”, nước của dân Bà Nam, Phnom. Theo truyền thuyết, đấy là nước của công chúa Liễu Diệp. Điều này cũng cho thấy họ đang trong thời kỳ mẫu hệ.
Về người Autronesian: Ta có thể tin là người từ Mã Lai và Java, là hậu duệ những người từ Việt Nam chiếm lĩnh các đảo này từ 50.000 năm trước. Họ giỏi đi biển và nhiều lần cướp phá ven biển miền Trung của người Chămpa. Do vị trí địa lý, họ đã thấm nhuần văn hóa Ấn Độ. Có khả năng trong đoàn người thực dân này có những nhà buôn, nhà sư và chỉ huy người Ấn. Sau khi đánh thắng người bản địa của Liễu Diệp, họ giữ vai trò chủ nhân và xây dựng đất nước theo mô hình văn hóa Ấn Độ. Tuy nhiên, do là người Việt nên tiếng nói và nhiều phong tục tập quán của họ vẫn trên cơ sở văn hóa Việt mà ảnh hưởng Ấn Độ chỉ là cơ tầng thứ cấp.
Như vậy, hai dòng người Việt tạo nên dân cư Phù Nam.
Các vật phẩm ngọc bích: A-Gò Mả Vôi (văn hóa Sa Huỳnh) và các di chỉ ở Phillipines và Đài Loan. (Hsiao-Chun Hung, Peter Bellwood, Kim Dung Nguyen, Berenice Bellina, et al., 2007) b. Khuyên tai hai đầu thú và vật phẩm đá quý và thủy tinh từ văn hóa Sa Huỳnh(Charles Higham, Early cultures of mainland Southeast Asia, 2002) c. Khuyên tai hai đầu thú trên thái dương một di cốt tại di chỉ Giồng Cá Vồ (Cần Giờ) (Vũ Đức Liêm, Triển lãm khảo cổ học Việt Nam tại bảo tàng Khảo cổ học Herne, Đức). (Hình ảnh từ bài của TS Vũ Đức Liêm).
Có một vấn đề đáng phải suy ngẫm: các nhà khảo cổ tìm được khuyên tai hai đầu thú bằng ngọc tại di chỉ Giồng Cá Vồ huyện Cần Giờ kèm theo xương thái dương. Do tuổi của di cốt không được xác định nên chúng ta không biết chính xác niên đại của khuyên tai. Bởi vậy ở đây buộc phải suy doán: loại khuyên tai này xuất hiện duy nhất một lần khoảng 5.000 năm trước tại nhiều nơi ven biển Việt Nam, Phillipines… Giải thích sao đây về việc nó có mặt ở văn hóa Phù Nam? Liệu có chuyện người Phù Nam mang vật báu truyền từ hơn 4.000 năm trước? Khả năng này gần như không có. Cách giải thích hợp lý hơn là di chỉ Giồng Cá Vồ có tuổi 5.000 năm tương đương văn hóa Sa Huỳnh. Nhưng do sự nhầm lẫn, các nhà khảo cổ cho đó là di vật Phù Nam? Như vậy nó không thuộc văn hóa Phù Nam mà thuộc về một văn hóa xuất hiện trước đó hơn 4.000 năm. Nếu giả định này đúng thì Cần Giờ là di tích hình thành sau, ở dạng di tích chồng lên di tích. Điều này cho thấy người Việt đã sống ở đây từ 5.000 năm trước. Không có gì bất thường, nó chỉ chứng tỏ một sự thực: người Việt từ xa xưa đã làm chủ vùng đất này.
II. Nguyên nhân sụp đổ của Phù Nam
Dựa trên cổ thư Trung Hoa, nhiều tác giả cho rằng, vào thế kỷ VII, một phần do con đường thương mại không còn đi qua nên Phù Nam sút giảm về kinh tế. Và cuộc xâm lăng của người Chân Lạp khiến Phù Nam sụp đổ. Có thể đó là một nguyên nhân nhưng không phải nguyên nhân cơ bản. Từ cuộc khai quật của Malleret năm 1944 tới những cuộc khai quật ở Nền Chùa, Gò Tháp … sau này, các nhà khảo cổ chứng kiến các di chỉ đều nguyên vẹn chứng tỏ vùng đất này không trải qua thời gian bị chiếm đóng, cướp bóc. Như vậy là không có cuộc xâm lăng hay cuộc xâm lăng chỉ xảy ra một cách hạn chế.
Thực tế, Phù Nam sụp đổ do nguyên nhân khác. 15 năm trước, trong bài viết “Từ Óc Eo nhìn về đồng bằng sông Cửu Long” đăng trên tạp chí Xưa&Nay, chúng tôi cho rằng, đó là do Hải xâm Holoxen IV. Nhà địa chất học người Pháp H. Fontaine cho thấy bức tranh khái quát của việc biến đổi mực nước biển như sau:
“Cuối Đại Trung sinh (Pleixtoxen) đầu Đại Tân sinh (Holoxen) có một đợt hải thoái, mực nước biển hạ thấp khoảng 100 – 120 m so với ngày nay, khiến cho Biển Đông chỉ còn là một vũng nhỏ. Tiếp đó là thời kỳ băng hà Wun cách nay 60.000 đến 11.000 năm. Sau giai đoạn chuyển tiếp kéo dài 750 năm (từ 11.000 đến 10.250 năm trước) là thời kỳ băng tan và nước biển bắt đầu dâng. Sau đó vào năm 4850 trước Công nguyên, nước biển dâng lên bằng mực nước ngày nay. Sau thời kỳ này là 4 đợt hải xâm và 3 đợt hải thoái xen kẽ nhau:
Hải xâm Holoxen I từ năm 4850 đến năm 1650 trước Công nguyên, kéo dài 3.200 năm với 3 giai đoạn đỉnh cao: 4 m (năm 3900), 3 m (năm 2950 ), và 2 m (năm 2350 ).
Hải thoái Holoxen 1 từ năm 1650 đến năm 1.150 trước Công nguyên, thời gian 500 năm với mức hạ thấp nhất -0,8 m xảy ra vào năm 1400 trước Công nguyên.
Hải xâm Holoxen II từ năm 1150 đến năm 850 trước Công nguyên, thời gian 300 năm, đỉnh cao nhất xảy ra vào năm 950 trước Công nguyên.
Hải thoái Holoxen 2 từ năm 850 đến năm 200 trước Công nguyên, thời gian 650 năm, với cực tiểu 1 m xảy ra vào năm 550.
Hải xâm Holoxen III từ năm 200 đến năm 50 trước Công nguyên, kéo dài 150 năm, mức cao nhất khoảng 0,4 m vào năm 50.
Hải thoái Holoxen 3 từ năm 50 trước Công nguyên đến năm 550 Công nguyên, kéo dài 500 năm với mực nước thấp nhất -0,5 m vào năm 200.
Hải xâm Holoxen IV từ năm 350 đến năm 1150, kéo dài 800 năm với mức cao trung bình 0,8 m vào năm 650.
Từ năm 1150 đến 1950 nước biển dao động 1 m, xem như ổn định hơn các thời kỳ trước.
Điều đáng chú ý là khi so sánh những vết tích hải xâm, hải thoái ở Việt Nam, các nhà khoa học đã tìm thấy sự tương đồng với những dấu tích hải xâm hải thoái ở bờ bên kia của Thái Bình Dương, trên đất Mỹ: Hải thoái Óc Eo cách nay 1750 năm tương đương Hải thoái Florida -3 m cách nay 2000 năm; Hải thoái Rạch Giá cách nay 3350 năm tương đương Hải thoái Crane Key -2 m cách nay 3300 năm.
Trong những đợt hải xâm, hải thoái trên, đáng chú ý là Hải xâm Holoxen IV. Sau khi hiệu chỉnh niên hạn theo phương pháp C14, các đặc tính của lần hải xâm này như sau:
Thời hạn 800 năm, từ năm 350 đến năm 1.150, đỉnh cao vào năm 650.
Mực nước cao nhất từ 0,5 đến 1 m trong 30 năm, từ năm 635 đến năm 665.”[6]
Thời điểm Hải xâm Holoxen IV hoàn toàn trùng với thời gian sụp đổ của nhà nước Phù Nam. Sau thời điểm này, vùng phía nam châu thổ sông Cửu Long trở nên hoang vu thời gian dài cho tới tận thế kỷ XIII mà ta thấy ghi chép trong Chân Lạp Phong Thổ Ký của sứ thần nhà Nguyên Chu Đạt Quan. Cho đến thế kỷ XVII vùng đất mênh mông này tuy danh nghĩa thuộc Chân Lạp nhưng vẫn trong tình trạng hoang vu vô quản.
Một câu hỏi được đặt ra: người Phù Nam đi đâu? Có hai khả năng: Bộ phận những người mà tổ tiên xưa từ biển vào, nay họ lại trở ra biển, về lại Mã Lai hay đảo Java.
Một bộ phận đi lên phía Nam Trường Sơn, sống chung với đồng bào của mình, trở thành những tộc người Nam Trường sơn hôm nay như đồng bào Mạ.
III. Kết luận
Cho đến nay, những tư liệu và tư tưởng làm nên lịch sử Đông Nam Á phần lớn dựa trên thư tịch cổ Trung Hoa và Đông phương học của Viễn Đông bác cổ Pháp. Tuy nhiên, cả hai nguồn tri thức này đều có những hạn chế. Thư tịch Trung Hoa chỉ xuất hiện từ đầu Công nguyên nên không có những ghi chép xa hơn, tuy rất quý nhưng chỉ phản ánh những sự kiện vào thời gần, trong khi thời tiền sử quá dài bị khuất lấp. Trong khi đó, Đông phương học của người Pháp mang quan niệm sai lầm khi xác định chiều hướng lịch sử phương Đông theo con đường Nam tiến: người từ phương Tây vào Nam Hoàng Hà tạo ra văn minh Hoa Hạ rồi người Hán mang văn minh Hoa Hạ khai hóa các sắc dân man di phía Nam. Quan điểm như vậy đã chi phối nền sử học phương Đông suốt thế kỷ XX. Nhưng sang thế kỷ XXI, sự thật trái ngược được phát lộ: người tiền sử đặt chân trước hết tới Việt Nam rồi trên đất Việt, con người hòa hợp về huyết thống, tiếng nói và văn hóa sau đó tỏa ra chiếm lĩnh châu Á. Do vậy, chiều hướng lịch sử của phương Đông được đảo ngược: chính con người cùng văn hóa Việt tạo nên dân cư và văn hóa phương Đông. Ngôn ngữ Việt là mẹ của tiếng nói các tộc người châu Á.
Nhìn vào bối cảnh toàn khu vực, Đông Nam Á mà theo ý kiến của Solheim, bao gồm cả Nam Dương Tử, ta thấy, đây là giang sơn của người Việt. Suốt thời đồ đá là hai chủng Indonesian và Melanesian. Sang thời kim khí chuyển hóa thành chủng duy nhất Mongoloid phương Nam.
Cho tới một vài thế kỷ TCN, dân cư Đông Nam Á quy tụ quanh trung tâm Văn Lang của các vua Hùng do mối quan hệ nguồn gốc, huyết thống, ngôn ngữ và văn hóa. Chứng cứ cho việc này là những trống đồng Heger I tìm thấy khắp vùng.
Có ý kiến cho rằng đó là sản phẩm mang tới từ thương mại. Nhưng cũng khó phản bác một khả năng, đó là quyền trượng mà các Vua Hùng ban cho thủ lĩnh khu vực. Tới vài thế kỷ TCN, sau khi Văn Lang diệt vong và nhất là sau khi Việt Nam bị phương Bắc chiếm đóng, mối liên kết truyền thống của Việt Nam với phía Nam bị đứt đoạn, lực hướng tâm không còn, các thủ lĩnh khu vực theo chiều hướng chung đứng lên lập nhà nước riêng. Những quốc gia cổ ra đời. Do hấp lực của văn hóa Ấn Độ, các nhà nước này theo chính trị Ấn Độ và đem văn hóa Ấn phủ lên nền tảng văn hóa Việt. Dù sự phát triển như vậy sau hàng nghìn năm, thì trên địa bàn Đông Nam Á vẫn tồn tại một nền văn hóa chung mang đậm bản sắc Đông Nam Á. Riêng Việt Nam, hình như cái bản sắc này có vẻ nhạt nhòa hơn nên được cho rằng Việt Nam thuộc cuối nguồn khiến cho chất Đông Nam Á từ các hải đảo tác động tới thiếu phần sâu đậm. Tuy nhiên, hôm nay nhìn lại từ nguồn gốc, ta thấy chính Việt Nam là gốc của văn hóa Đông Nam Á.
Về phương diện ngôn ngữ. Khoảng 150 năm, từ giữa thế kỷ XIX đến nay, những nhà ngữ học hàng đầu của phương Tây đã võ đoán phân chia ngôn ngữ phương Đông ra các họ ngôn ngữ Hán-Tạng, Tày-Thái, Môn-Khmer, Nam Á… Riêng tiếng Việt từng được xếp vào họ Hán-Tạng, sau thấy không ổn thì xếp vào Tày-Thái. Khi vẫn thấy không ổn thì chuyển sang họ Môn-Khmer rồi Nam Á… Cho đến nay lại xuất hiện ý kiến đưa trở về họ Hán-Tạng! Sở dĩ như vậy bởi lẽ có sự thật: tiếng Việt là mẹ các ngữ phương Đông. Tuy rất gần gũi với mọi ngữ hệ phương Đông nhưng khi xếp vào bất cứ khuôn nào thì rồi cũng tới lúc nó cựa mình phá tung cái khuôn nhỏ hẹp áp đặt. Chỉ tới hôm nay, khi nhận thức ra người Việt là chủ thể của mọi dân cư châu Á thì người ta mới bừng tình thừa nhận ý kiến của nhà ngữ học H. Ferey từ năm 1892: “Tiếng Việt là mẹ các ngữ”.[7]
Từ thực tế trên có thể kết luận như sau:
Đông Nam Á là giang sơn của cộng đồng người Việt với dòng máu, tiếng nói cùng văn hóa Việt. Cho tới vài thế kỷ TCN, toàn bộ khu vực hướng vào trung tâm Văn Lang của các vua Hùng theo lực hướng tâm liên kết bởi nguồn gốc, huyết thống, tiếng nói và văn hóa. Vào những thế kỷ đầu CN, do Văn Lang bị diệt vong rồi bị xâm lược, lực hướng tâm đứt đoạn, các thủ lĩnh khu vực đứng lên lập quốc gia riêng. Trong quá trình lịch sử, giữa các quốc gia của người Việt liên tục có sự tranh chấp lãnh thổ. Biên giới như hiện nay là kết của của những sự tương nhượng và được xác lập bởi công pháp quốc tế. Mọi ý tưởng về “quyền sở hữu lịch sử” là phi lịch sử và không có cơ sở thực tế.
Do vậy, đất đai Phù Nam xưa là một phần của đất nước Việt Nam hôm nay. Lịch sử Phù nam là một bộ phận của lịch sử Việt Nam, là lịch sử của người Việt từng xây dựng đất Việt.
—————
[1] J.Y. Chu et al. Genetic Relationship of Populations in China, https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC21714/
[2] Stephen Openheimer. Out of Eden: The Peopling of the World. http://www.bradshawfoundation.com/journey/introduction.html
[3] Hà Văn Thùy. Góp phần nhân thức lại lich sử văn hóa Việt. (NXB Hội Nhà văn. H, 2015)
[4] Nguyễn Đình Khoa. Nhân chủng học Đông Nam Á (NXB DH&THCN, H. 1983)
[5] Hà Văn Thùy. Nhà nước Xích Quỷ từ huyền thoại đến hiện thực (NXB Hội Nhà văn. H, 2017)
[6] Liêu Kim Sanh. Hải xâm hải thoái xưa ảnh hưởng đến vùng đồng bằng Nam Bộ. Trong Văn hóa Óc eo và các văn hóa cổ ở đồng bằng Cửu Long. Sở Văn hóa thông tin An Giang- 1984.
[7] Frey, H. L’annamite, mére des langues; communaute d’origine des races celtiques, semitiques, soudanaises et de l’lndo-Chine) Paris, Hachette et cie, 1892.
Một cách lý giải khác về Vương quốc Phù Nam
Tác giả: Hà Văn Thùy
Cho đến nay đã có nhiều khảo cứu về vương quốc Phù Nam. Bài viết “Phù Nam: Huyền thoại và những vấn đề lịch sử” của Tiến sỹ Vũ Đức Liêm là một cống hiến mới đáng trân trọng. Tuy nhiên, ngay ở đây chúng tôi cũng thấy tác giả chưa tiếp cận chân lý bởi lẽ chưa giải quyết được vấn đề căn cốt: chủ nhân của Phù Nam là ai? Có thể là như tác giả nói: người Austranesian từ biển vào kết hợp với người bản địa tạo thành dân cư Phù Nam. Nhưng một khi câu hỏi: người Austranesian có nguồn gốc thế nào và người bản địa là ai chưa được trả lời thì mọi phát biểu về Phù Nam cũng chỉ là xây lâu đài trên cát! Bởi lẽ lịch sử là hoạt động xã hội của cộng đồng người diễn ra trong quá khứ, một khi chưa biết cộng đồng đó là ai, có nguồn gốc ra sao và quá trình hình thành thế nào để hiện diện ở thời điểm khảo cứu thì mọi điều nói về họ đều không có cơ sở. Do vậy, trước khi khảo cứu về Phù Nam phải giải quyết vấn đề tiên quyết: người Phù Nam là ai? Cho đến cuối thế kỷ trước, trả lời những câu hỏi trên là bất khả. Nhưng sang thế kỷ này những khám phá mới của di truyền học cho câu trả lời chính xác.
Bài viết này góp phần đưa ra một cách lý giải.
I. Ai là chủ nhân vương quốc Phù Nam?
Nói về nguồn gốc của người Austronesian, những người từ biển vào góp phần làm nên dân cư Phù Nam, TS Vũ Đức Liêm viết:
Lịch sử của Phù Nam có lẽ nên được kể từ 5000-7000 năm trước. Bắt đầu với cuộc di cư của các cư dân nói tiếng Nam Đảo (Austronesians) từ đảo Đài Loan xuống Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Họ mang theo lúa nước, lợn, dừa, khoai lang, và kỹ nghệ làm gốm, đóng tàu… qua các hòn đảo, duyên hải trên Biển Đông (Peter Bellwood 2006, 2007, 2014, 2017; Solheim 2007). Cuộc du hành này là một trong những hiện tượng kỳ vĩ của nhân loại, đưa Austronesians thành nhóm ngôn ngữ trải rộng nhất trong lịch sử thời tiền hiện đại, băng qua 1/3 địa cầu, kết nối hàng chục nghìn hòn đảo trải dài từ Nhật Bản đến đảo Madagascar và quần đảo Tây Thái Bình Dương.
Hơn chục năm trước, chúng tôi đã đọc những tác giả mà ông dẫn và có lúc đưa vào tài liệu tham khảo của mình. Nhưng sau đó nhận thấy những tác giả trên chưa có cái nhìn toàn diện, đạt tới tận cùng của sự hình thành con người và văn hóa phương Đông, chúng tôi đã bỏ qua.
Từ những khảo cứu di truyền học dân cư châu Á kết hợp với cổ nhân học, chúng tôi phát hiện, 70.000 năm trước, người hiện đại Homo sapiens từ châu Phi di cư tới Việt Nam. Tại đây hai đại chủng người tiền sử Australoid và Mongoloid hòa huyết cho ra hai chủng người Việt cổ là Indonesian và Melanesian cùng mang mã di truyền Australoid. 50.000 năm trước đây, người từ Việt Nam lan tỏa ra các đảo Đông Nam Á, châu Úc và Ấn Độ. 40.000 năm trước, người Việt Nam đi lên khai phá Hoa lục.[1] [2]
7000 năm trước, tại văn hóa Ngưỡng Thiều Nam Hoàng Hà, người Việt Indonesian gặp gỡ hòa huyết với người Mông Cổ phương Bắc (North Mongoloid) sống du mục ở Bắc Hoàng Hà, sinh ra chủng người Việt mang mã di truyền Mongoloid phương Nam, sau này được gọi là người Nam Á. Khoảng 2600 năm TCN, người Mongoloid phương Nam di cư về phía Nam, đem nguồn gen Mongoloid chuyển hóa di truyền đại đa số dân cư Đông Nam Á sang chủng Mongoloid phương Nam.[3] Trong cuộc chuyển hóa vĩ đại này, người Indonesian trở thành người Mongoloid phương Nam điển hình, còn người Melanesian thành dạng Indonesian hiện đại của chủng Mongoloid phương Nam. Cho đến 2000 năm TCN công việc này hoàn tất. Hầu hết dân cư Châu Á thuộc chủng Mongoloid phương Nam. Do lịch sử hình thành như vậy, nên toàn bộ dân cư châu Á là người gốc Việt với tiếng nói Lạc Việt là chủ thể.[4]
Ở Đông Nam Á lục địa, người Indonesian tập trung ở Bắc Bộ Viêt Nam sau này thành người Mongoloid phương Nam điển hình. Người Melanesian sống ở Tây Nguyên, các nước Campuchia, Lào, Miến Điện… sau thành dạng Indonesian hiện đại của chủng Mongoloid phương Nam. Người Melanesian trên các đảo Đông Nam Á chuyển thành người Indonesian hiện đại của chủng mongoloid phương Nam và được gọi là người Austranesian hay Polynesian.
Khoảng 5.300 năm trước, tại vùng cửa sông Chiết Giang, người Lạc Việt thành lập nhà nước Lương Chử (Xích Quỷ). Từ di cốt người Lương Chử, di truyền học phát hiện sự có mặt của người Indonesian (mã di truyền M122) và Melanesian (M119). Khoảng 4.300 năm trước, do nước biển dâng, kinh đô Lương Chử bị nhấn chìm. Người Indonesian đi lên những chỗ cao trong đất liền. Trong khi đó, người Melanesian di cư ra Đài Loan rồi tới các hải đảo, nhập vào dòng người Austronesian sinh sống từ lâu ở đây.[5] Khoảng 5000 năm trước, vào thời thịnh vượng của nhà nước Xích Quỷ xuất hiện mạng lưới buôn bán ngọc bằng thuyền trên Biển Đông, đưa ngọc từ mỏ khai thác ở Đài Loan đến nhiều nơi ven biển Việt Nam, Philippine, Madagasca.
Từ sự hình thành dân cư khu vực như trên, ta có thể truy ra nguồn gốc người Phù Nam như sau:
Người bản địa Phù Nam. Danh xưng Phù Nam trong sách Trung Hoa gợi ý cho thấy, đây là những bộ tộc người miền núi. Bà Nam, Bồ Nam… là những từ Việt cổ chỉ núi. Sau này chuyển thành phnom, phnong. Từ đó người Hoa chuyển thành Đường âm Phù Nam. Mang tên “người miền núi” nói lên rằng, đó là những cộng đồng người Việt sống trên vùng núi Campuchia và Nam Trường Sơn. Vào đầu Công nguyên khi đồng bằng sông Cửu Long hình thành, những bộ lạc người Việt mang mã di truyền Indonesian của chủng Mongoloid phương Nam tràn xuống định cư rồi xây dựng nhà nước của “người miền núi”, nước của dân Bà Nam, Phnom. Theo truyền thuyết, đấy là nước của công chúa Liễu Diệp. Điều này cũng cho thấy họ đang trong thời kỳ mẫu hệ.
Về người Autronesian: Ta có thể tin là người từ Mã Lai và Java, là hậu duệ những người từ Việt Nam chiếm lĩnh các đảo này từ 50.000 năm trước. Họ giỏi đi biển và nhiều lần cướp phá ven biển miền Trung của người Chămpa. Do vị trí địa lý, họ đã thấm nhuần văn hóa Ấn Độ. Có khả năng trong đoàn người thực dân này có những nhà buôn, nhà sư và chỉ huy người Ấn. Sau khi đánh thắng người bản địa của Liễu Diệp, họ giữ vai trò chủ nhân và xây dựng đất nước theo mô hình văn hóa Ấn Độ. Tuy nhiên, do là người Việt nên tiếng nói và nhiều phong tục tập quán của họ vẫn trên cơ sở văn hóa Việt mà ảnh hưởng Ấn Độ chỉ là cơ tầng thứ cấp.
Như vậy, hai dòng người Việt tạo nên dân cư Phù Nam.
Các vật phẩm ngọc bích: A-Gò Mả Vôi (văn hóa Sa Huỳnh) và các di chỉ ở Phillipines và Đài Loan. (Hsiao-Chun Hung, Peter Bellwood, Kim Dung Nguyen, Berenice Bellina, et al., 2007) b. Khuyên tai hai đầu thú và vật phẩm đá quý và thủy tinh từ văn hóa Sa Huỳnh(Charles Higham, Early cultures of mainland Southeast Asia, 2002) c. Khuyên tai hai đầu thú trên thái dương một di cốt tại di chỉ Giồng Cá Vồ (Cần Giờ) (Vũ Đức Liêm, Triển lãm khảo cổ học Việt Nam tại bảo tàng Khảo cổ học Herne, Đức). (Hình ảnh từ bài của TS Vũ Đức Liêm).
Có một vấn đề đáng phải suy ngẫm: các nhà khảo cổ tìm được khuyên tai hai đầu thú bằng ngọc tại di chỉ Giồng Cá Vồ huyện Cần Giờ kèm theo xương thái dương. Do tuổi của di cốt không được xác định nên chúng ta không biết chính xác niên đại của khuyên tai. Bởi vậy ở đây buộc phải suy doán: loại khuyên tai này xuất hiện duy nhất một lần khoảng 5.000 năm trước tại nhiều nơi ven biển Việt Nam, Phillipines… Giải thích sao đây về việc nó có mặt ở văn hóa Phù Nam? Liệu có chuyện người Phù Nam mang vật báu truyền từ hơn 4.000 năm trước? Khả năng này gần như không có. Cách giải thích hợp lý hơn là di chỉ Giồng Cá Vồ có tuổi 5.000 năm tương đương văn hóa Sa Huỳnh. Nhưng do sự nhầm lẫn, các nhà khảo cổ cho đó là di vật Phù Nam? Như vậy nó không thuộc văn hóa Phù Nam mà thuộc về một văn hóa xuất hiện trước đó hơn 4.000 năm. Nếu giả định này đúng thì Cần Giờ là di tích hình thành sau, ở dạng di tích chồng lên di tích. Điều này cho thấy người Việt đã sống ở đây từ 5.000 năm trước. Không có gì bất thường, nó chỉ chứng tỏ một sự thực: người Việt từ xa xưa đã làm chủ vùng đất này.
II. Nguyên nhân sụp đổ của Phù Nam
Dựa trên cổ thư Trung Hoa, nhiều tác giả cho rằng, vào thế kỷ VII, một phần do con đường thương mại không còn đi qua nên Phù Nam sút giảm về kinh tế. Và cuộc xâm lăng của người Chân Lạp khiến Phù Nam sụp đổ. Có thể đó là một nguyên nhân nhưng không phải nguyên nhân cơ bản. Từ cuộc khai quật của Malleret năm 1944 tới những cuộc khai quật ở Nền Chùa, Gò Tháp … sau này, các nhà khảo cổ chứng kiến các di chỉ đều nguyên vẹn chứng tỏ vùng đất này không trải qua thời gian bị chiếm đóng, cướp bóc. Như vậy là không có cuộc xâm lăng hay cuộc xâm lăng chỉ xảy ra một cách hạn chế.
Thực tế, Phù Nam sụp đổ do nguyên nhân khác. 15 năm trước, trong bài viết “Từ Óc Eo nhìn về đồng bằng sông Cửu Long” đăng trên tạp chí Xưa&Nay, chúng tôi cho rằng, đó là do Hải xâm Holoxen IV. Nhà địa chất học người Pháp H. Fontaine cho thấy bức tranh khái quát của việc biến đổi mực nước biển như sau:
“Cuối Đại Trung sinh (Pleixtoxen) đầu Đại Tân sinh (Holoxen) có một đợt hải thoái, mực nước biển hạ thấp khoảng 100 – 120 m so với ngày nay, khiến cho Biển Đông chỉ còn là một vũng nhỏ. Tiếp đó là thời kỳ băng hà Wun cách nay 60.000 đến 11.000 năm. Sau giai đoạn chuyển tiếp kéo dài 750 năm (từ 11.000 đến 10.250 năm trước) là thời kỳ băng tan và nước biển bắt đầu dâng. Sau đó vào năm 4850 trước Công nguyên, nước biển dâng lên bằng mực nước ngày nay. Sau thời kỳ này là 4 đợt hải xâm và 3 đợt hải thoái xen kẽ nhau:
Hải xâm Holoxen I từ năm 4850 đến năm 1650 trước Công nguyên, kéo dài 3.200 năm với 3 giai đoạn đỉnh cao: 4 m (năm 3900), 3 m (năm 2950 ), và 2 m (năm 2350 ).
Hải thoái Holoxen 1 từ năm 1650 đến năm 1.150 trước Công nguyên, thời gian 500 năm với mức hạ thấp nhất -0,8 m xảy ra vào năm 1400 trước Công nguyên.
Hải xâm Holoxen II từ năm 1150 đến năm 850 trước Công nguyên, thời gian 300 năm, đỉnh cao nhất xảy ra vào năm 950 trước Công nguyên.
Hải thoái Holoxen 2 từ năm 850 đến năm 200 trước Công nguyên, thời gian 650 năm, với cực tiểu 1 m xảy ra vào năm 550.
Hải xâm Holoxen III từ năm 200 đến năm 50 trước Công nguyên, kéo dài 150 năm, mức cao nhất khoảng 0,4 m vào năm 50.
Hải thoái Holoxen 3 từ năm 50 trước Công nguyên đến năm 550 Công nguyên, kéo dài 500 năm với mực nước thấp nhất -0,5 m vào năm 200.
Hải xâm Holoxen IV từ năm 350 đến năm 1150, kéo dài 800 năm với mức cao trung bình 0,8 m vào năm 650.
Từ năm 1150 đến 1950 nước biển dao động 1 m, xem như ổn định hơn các thời kỳ trước.
Điều đáng chú ý là khi so sánh những vết tích hải xâm, hải thoái ở Việt Nam, các nhà khoa học đã tìm thấy sự tương đồng với những dấu tích hải xâm hải thoái ở bờ bên kia của Thái Bình Dương, trên đất Mỹ: Hải thoái Óc Eo cách nay 1750 năm tương đương Hải thoái Florida -3 m cách nay 2000 năm; Hải thoái Rạch Giá cách nay 3350 năm tương đương Hải thoái Crane Key -2 m cách nay 3300 năm.
Trong những đợt hải xâm, hải thoái trên, đáng chú ý là Hải xâm Holoxen IV. Sau khi hiệu chỉnh niên hạn theo phương pháp C14, các đặc tính của lần hải xâm này như sau:
Thời hạn 800 năm, từ năm 350 đến năm 1.150, đỉnh cao vào năm 650.
Mực nước cao nhất từ 0,5 đến 1 m trong 30 năm, từ năm 635 đến năm 665.”[6]
Thời điểm Hải xâm Holoxen IV hoàn toàn trùng với thời gian sụp đổ của nhà nước Phù Nam. Sau thời điểm này, vùng phía nam châu thổ sông Cửu Long trở nên hoang vu thời gian dài cho tới tận thế kỷ XIII mà ta thấy ghi chép trong Chân Lạp Phong Thổ Ký của sứ thần nhà Nguyên Chu Đạt Quan. Cho đến thế kỷ XVII vùng đất mênh mông này tuy danh nghĩa thuộc Chân Lạp nhưng vẫn trong tình trạng hoang vu vô quản.
Một câu hỏi được đặt ra: người Phù Nam đi đâu? Có hai khả năng: Bộ phận những người mà tổ tiên xưa từ biển vào, nay họ lại trở ra biển, về lại Mã Lai hay đảo Java.
Một bộ phận đi lên phía Nam Trường Sơn, sống chung với đồng bào của mình, trở thành những tộc người Nam Trường sơn hôm nay như đồng bào Mạ.
III. Kết luận
Cho đến nay, những tư liệu và tư tưởng làm nên lịch sử Đông Nam Á phần lớn dựa trên thư tịch cổ Trung Hoa và Đông phương học của Viễn Đông bác cổ Pháp. Tuy nhiên, cả hai nguồn tri thức này đều có những hạn chế. Thư tịch Trung Hoa chỉ xuất hiện từ đầu Công nguyên nên không có những ghi chép xa hơn, tuy rất quý nhưng chỉ phản ánh những sự kiện vào thời gần, trong khi thời tiền sử quá dài bị khuất lấp. Trong khi đó, Đông phương học của người Pháp mang quan niệm sai lầm khi xác định chiều hướng lịch sử phương Đông theo con đường Nam tiến: người từ phương Tây vào Nam Hoàng Hà tạo ra văn minh Hoa Hạ rồi người Hán mang văn minh Hoa Hạ khai hóa các sắc dân man di phía Nam. Quan điểm như vậy đã chi phối nền sử học phương Đông suốt thế kỷ XX. Nhưng sang thế kỷ XXI, sự thật trái ngược được phát lộ: người tiền sử đặt chân trước hết tới Việt Nam rồi trên đất Việt, con người hòa hợp về huyết thống, tiếng nói và văn hóa sau đó tỏa ra chiếm lĩnh châu Á. Do vậy, chiều hướng lịch sử của phương Đông được đảo ngược: chính con người cùng văn hóa Việt tạo nên dân cư và văn hóa phương Đông. Ngôn ngữ Việt là mẹ của tiếng nói các tộc người châu Á.
Nhìn vào bối cảnh toàn khu vực, Đông Nam Á mà theo ý kiến của Solheim, bao gồm cả Nam Dương Tử, ta thấy, đây là giang sơn của người Việt. Suốt thời đồ đá là hai chủng Indonesian và Melanesian. Sang thời kim khí chuyển hóa thành chủng duy nhất Mongoloid phương Nam.
Cho tới một vài thế kỷ TCN, dân cư Đông Nam Á quy tụ quanh trung tâm Văn Lang của các vua Hùng do mối quan hệ nguồn gốc, huyết thống, ngôn ngữ và văn hóa. Chứng cứ cho việc này là những trống đồng Heger I tìm thấy khắp vùng.
Có ý kiến cho rằng đó là sản phẩm mang tới từ thương mại. Nhưng cũng khó phản bác một khả năng, đó là quyền trượng mà các Vua Hùng ban cho thủ lĩnh khu vực. Tới vài thế kỷ TCN, sau khi Văn Lang diệt vong và nhất là sau khi Việt Nam bị phương Bắc chiếm đóng, mối liên kết truyền thống của Việt Nam với phía Nam bị đứt đoạn, lực hướng tâm không còn, các thủ lĩnh khu vực theo chiều hướng chung đứng lên lập nhà nước riêng. Những quốc gia cổ ra đời. Do hấp lực của văn hóa Ấn Độ, các nhà nước này theo chính trị Ấn Độ và đem văn hóa Ấn phủ lên nền tảng văn hóa Việt. Dù sự phát triển như vậy sau hàng nghìn năm, thì trên địa bàn Đông Nam Á vẫn tồn tại một nền văn hóa chung mang đậm bản sắc Đông Nam Á. Riêng Việt Nam, hình như cái bản sắc này có vẻ nhạt nhòa hơn nên được cho rằng Việt Nam thuộc cuối nguồn khiến cho chất Đông Nam Á từ các hải đảo tác động tới thiếu phần sâu đậm. Tuy nhiên, hôm nay nhìn lại từ nguồn gốc, ta thấy chính Việt Nam là gốc của văn hóa Đông Nam Á.
Về phương diện ngôn ngữ. Khoảng 150 năm, từ giữa thế kỷ XIX đến nay, những nhà ngữ học hàng đầu của phương Tây đã võ đoán phân chia ngôn ngữ phương Đông ra các họ ngôn ngữ Hán-Tạng, Tày-Thái, Môn-Khmer, Nam Á… Riêng tiếng Việt từng được xếp vào họ Hán-Tạng, sau thấy không ổn thì xếp vào Tày-Thái. Khi vẫn thấy không ổn thì chuyển sang họ Môn-Khmer rồi Nam Á… Cho đến nay lại xuất hiện ý kiến đưa trở về họ Hán-Tạng! Sở dĩ như vậy bởi lẽ có sự thật: tiếng Việt là mẹ các ngữ phương Đông. Tuy rất gần gũi với mọi ngữ hệ phương Đông nhưng khi xếp vào bất cứ khuôn nào thì rồi cũng tới lúc nó cựa mình phá tung cái khuôn nhỏ hẹp áp đặt. Chỉ tới hôm nay, khi nhận thức ra người Việt là chủ thể của mọi dân cư châu Á thì người ta mới bừng tình thừa nhận ý kiến của nhà ngữ học H. Ferey từ năm 1892: “Tiếng Việt là mẹ các ngữ”.[7]
Từ thực tế trên có thể kết luận như sau:
Đông Nam Á là giang sơn của cộng đồng người Việt với dòng máu, tiếng nói cùng văn hóa Việt. Cho tới vài thế kỷ TCN, toàn bộ khu vực hướng vào trung tâm Văn Lang của các vua Hùng theo lực hướng tâm liên kết bởi nguồn gốc, huyết thống, tiếng nói và văn hóa. Vào những thế kỷ đầu CN, do Văn Lang bị diệt vong rồi bị xâm lược, lực hướng tâm đứt đoạn, các thủ lĩnh khu vực đứng lên lập quốc gia riêng. Trong quá trình lịch sử, giữa các quốc gia của người Việt liên tục có sự tranh chấp lãnh thổ. Biên giới như hiện nay là kết của của những sự tương nhượng và được xác lập bởi công pháp quốc tế. Mọi ý tưởng về “quyền sở hữu lịch sử” là phi lịch sử và không có cơ sở thực tế.
Do vậy, đất đai Phù Nam xưa là một phần của đất nước Việt Nam hôm nay. Lịch sử Phù nam là một bộ phận của lịch sử Việt Nam, là lịch sử của người Việt từng xây dựng đất Việt.
—————
[1] J.Y. Chu et al. Genetic Relationship of Populations in China, https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC21714/
[2] Stephen Openheimer. Out of Eden: The Peopling of the World. http://www.bradshawfoundation.com/journey/introduction.html
[3] Hà Văn Thùy. Góp phần nhân thức lại lich sử văn hóa Việt. (NXB Hội Nhà văn. H, 2015)
[4] Nguyễn Đình Khoa. Nhân chủng học Đông Nam Á (NXB DH&THCN, H. 1983)
[5] Hà Văn Thùy. Nhà nước Xích Quỷ từ huyền thoại đến hiện thực (NXB Hội Nhà văn. H, 2017)
[6] Liêu Kim Sanh. Hải xâm hải thoái xưa ảnh hưởng đến vùng đồng bằng Nam Bộ. Trong Văn hóa Óc eo và các văn hóa cổ ở đồng bằng Cửu Long. Sở Văn hóa thông tin An Giang- 1984.
[7] Frey, H. L’annamite, mére des langues; communaute d’origine des races celtiques, semitiques, soudanaises et de l’lndo-Chine) Paris, Hachette et cie, 1892.
Chủ Nhật, 5 tháng 11, 2017
Triết lý nhân quả và cải cách giáo dục
Nguyên Cẩn
Chúng ta đã nghe, đã thấy qua các phương tiện thông tin đại chúng về tình trạng bạo lực học đường, từ những vụ việc thanh toán giữa học sinh với nhau, va chạm giữa học sinh và các thầy cô giáo. Chúng ta đã nghe bao nhiêu lời than phiền về tình trạng xuống cấp đạo đức của thanh thiéu niên hôm nay? Bao nhiêu cuộc hội thảo về cải cách giáo dục đã và đang diễn ra, nhưng hầu như chưa có một giải pháp nào khả thi cho tình trạng nêu trên. Người ta đã giải thích theo nhiều hướng: từ tác động của phim ảnh cho đến sự thiếu quan tâm giáo dục của cha mẹ, sự thiếu gương mẫu của người lớn trong lối sống và cách cư xử với nhau. Ví dụ đưa ra thì rất nhiều: thầy cô dạy các em phải trung thực nhưng khi cần phải thao giảng, lại bắt các em phải “đóng kịch”, thậm chí giả vờ trả lời sai để thầy cô có dịp phô trương kiến thức; cha mẹ thì chạy trường chạy lớp, kể cả “chạy điểm”khi cần thiết; người lớn khi nổi giận cũng sẵn sàng lao vào nhau mà chém giết, bất chấp nhân tình. Nhưng có ai nhìn ra những lỗ hỏng nhân cách của học sinh cũng chính là lỗ hổng của chương trình học, lỗ hổng trong hệ thống sư phạm, lỗ hổng của cả một nền giáo dục dựa trên triết lý xa vời, phi thực tế.
Trẻ em đang học những gì?
Trong một bài viết gần đây trên báo Người Lao Động (7/1/2009), giáo viên Nguyễn Ngọc Hà cho rằng chương trình học hiện nay “quá cao siêu”; cụ thể, về trí dục, nội dung chương trình quá tồi khiến học sinh không theo kịp nên đâm ra chán học và quậy phá. Về mặt đức dục, học sinh phải học về “Liên Hiệp Quốc” (lớp 5) “nghĩa vụ nộp thuế” (lớp 9), duy vật biện chứng (lớp 10) mà thiếu hẳn những bài học thấm đẫm tính nhân văn như những câu truyện trong Quốc văn giáo khoa thư ngày xưa hay trong tác phẩm Tâm hồn cao thượng, thậm chí chúng ta có thể lấy những câu truyện trong bộ Hạt giống tâm hồn do First News xuất bản gần đây cũng vẫn gần gũi và thiết thực hơn. Có ai dạy các em thấy đám ma đi ngang qua mà ngả mũ chào không? Có ai dạy các em dắt người mù hay người già qua đường không? Có ai dạy các em đi thưa về trình, biết nói lời xin lỗi, cám ơn không? Phải chăng chúng ta đang ôm đồm nhồi nhét đủ thứ kiến thức cần thiết và không cần thiết vào tâm hồn non dại của các em, để rồi khi khôn lớn vào đời, các em thiếu hẳn một nếp sống tự giác có kỷ cương, thiếu hẳn một nhân cách vũng vàng có thể tự kềm chế trước những cám dỗ vật chất. Nói tóm lại, thiếu một sự rèn luyện tâm hồn.
Liệu triết lý nhân quả có cần thiết cho giáo dục?
Có phải là thiển cận không khi các nhà giáo dục chúng ta có lúc đã phê phán quan niệm “ở hiền gặp lành”, không tin chuyện “làm ác gặp ác”ở dương gian hoặc nơi địa phủ? Ngày xưa, cha ông chúng ta đã bảo ban răn dạy, dù có phần nghiêm khắc, nhưng xem ra hiệu quả rõ ràng. Con trẻ lớn lên không dám làm ác vì sợ quả báo, vì sợ sự trừng phạt hữu hình và cả vô hình. Nhà thơ William Wordsworth trong một bài thơ đã viết “The Child is father to the Man”, hàm ý trẻ thơ chính là mầm sinh trưởng nên con người lớn hôm nay. Hạt giống gieo thế nào thì quả sẽ như thế ấy.
Trong giáo lý nhà Phật, nhân quả được xem là luật. “Luật ở đây là luật thiên nhiên, luật tự nhiên..Người ta có thể khám phá ra luật ấy chứ không thể đặt ra luật ấy được. Đức Phật, mặc dù là một Đấng giác ngộ, cũng không đặt ra luật ấy. Ngài chỉ là người đã dùng trí tuệ sáng suốt của mình để vách cho mọi người thấy rõ ràng cái luật nhân quả đang điều hành vũ trụ mà thôi…Luật nhân quả tránh cho ta những mê tín dị đoan, những tin tưởng sai lầm vào thần quyền…đem lai lòng tin tưởng vào chính con người (H.T. Thích Thiện Hoa-Tám quyển sách quý).
Vận dụng vào triết lý giáo dục, ta phải thấy rằng chính nhà trường là nơi ươm mầm cho những công dân tương lai vào đời. Không chỉ gieo hạt, người thầy còn phải dựa vào những duyên phụ, theo ngôn ngữ nhà Phật là tăng thượng duyên hay trợ duyên. Như hạt lúa tốt chưa đủ, phải có đất, nước, không khí, ánh nắng, người gieo cấy… Cho nên muốn có cái kết quả mong muốn, chúng ta phải hội đủ các điều kiện, nghĩa là đủ nhân duyên. Ở đây là phải đưa vào chương trình những bài học cụ thể về tình yêu thương; cụ thể về lòng hiếu thảo, tình làng nghĩa xóm, tôn kính thầy cô, biết giúp đỡ người hoạn nạn…Đồng thời, giảm chương trình nặng về kiến thức mà thiếu truyền thụ kỹ năng sống và ứng xử. Hãy tổ chức những chuyến đi đến các trại mồ côi, nhà nuôi người giả, trẻ khuyết tật để các em thấy rằng chung quanh còn bao nhiêu người bất hạnh. Từ đó khơi gợi trong tâm hồn các em tình tương thân tương ái, biết quý trọng sự sống của chính mình và người khác.
Chúng ta hẳn đã từng nghe câu chuyện một bậc hiền giả bán cho vua một bài học với giá một ngàn lượng vàng. Bài học chỉ có một câu “Phàm làm việc gì, trước phải xét kỹ kết quả của nó về sau”. Nhờ nghiền ngẫm câu nói ấy, vua đã tu tỉnh, không còn mê lầm tửu sắc, xây dựng đất nước hùng mạnh nên đã chống được ngoại xâm mấy năm sau đó. Cũng nhờ thế mà viên quan Ngự y được thuê ám sát vua chợt tỉnh ngộ, thú tội với vua khi nhìn thấy câu nói trên được khắc trong chén thuốc độc.
Thiết tưởng những nhà quản lý giáo dục và những nhà giáo dục, khi xây dựng kế hoạch hay chiến lược giáo dục, hãy hình dung những con người mà chúng ta đang hướng đến cho xã hội mai sau. Đó phải là một con người có lòng nhân, biết sống và quý trọng sự sống của kẻ khác, phải hành xử trong tinh thần khiêm cung, nhẫn nhịn, hòa ái. Muốn được vậy, phải xây dựng nền giáo dục trên gốc rễ đạo đức mà trí thức chỉ là phần ngọn vì suy cho cùng một kẻ chỉ được gọi là “có học thức”khi những ứng xử xã hội của anh/chị ta mang tính chất “văn hóa”, vì nói theo Poincaré thì “Văn hóa là cái gì còn lại khi người ta quên đi tất cả”. Nếu hôm nay chúng ta gieo những mầm bất thiện thì đừng trách mai kia cuộc sống thiếu vắng những tâm hồn và xã hội bỗng hóa khô cằn như hoang mạc với những trái tim đầy toan tính đến lạnh lùng.
Thứ Bảy, 4 tháng 11, 2017
Tự do để mơ
T
(Tác giả: J.M.G Le Clézio; Hải Ngọc dịch)
Chúng ta có thể bắt đầu câu chuyện lần này xung quanh khoảng thời gian năm 1867, khi chàng thanh niên Isidore Ducasse – khi ấy hãy còn chưa trở thành Bá tước de Lautréamont – chuyển đến căn phòng đã có sẵn đồ đạc nằm bên bờ phía Bắc sông Seine và năm 1868, khi chàng trao bản thảo “Khúc ca đầu tiên” của thi phẩm Les Chants de Maldoror (Những khúc ca của Maldoror) cho nhà xuất bản Balitout.
Hành động này, có lẽ là một trong những hành động quan trọng nhất của văn học và tư tưởng hiện đại, đã mở ra một câu chuyện sử thi về những giấc mơ và kết thúc bằng cái chết và sự quên lãng. Trên thực tế, trong khoảng thời gian từ 1868 đến ngày 24-11-1870, khi chàng thi sĩ trẻ qua đời ở tuổi 24 trong cô độc và bị ruồng bỏ giữa giá lạnh mùa đông Paris, câu chuyện này đã mở ra một trong những giấc mơ cháy bỏng nhất và cũng bất an nhất mà thơ ca từng biết đến – một giấc mơ đã thổi bùng lên ngọn lửa thiêu rụi cả chính kẻ nằm mơ, trong sự im lặng và lãnh đạm của những người xung quanh chàng, một giấc mơ mà sóng từ trường của nó sẽ không tác động đến những người đương thời với chàng mà phải đợi đến mãi sau này, nó gợi ta liên tưởng đến một vì sao, giữa bạt ngàn các vì sao, mà vụ nổ thầm lặng để hình thành nó dường như còn đi trước cả thời gian.
Tự do của những giấc mơ: nghe như nghịch lý, bởi những giấc mơ là hình thức biểu hiện tự do nhất của đời sống. Song chính thứ tự do này lại đáng sợ, vì nó là mối đe dọa đối với lý trí và trật tự đạo đức – đấy cũng là lý do tại sao những cấm kỵ, kiểm duyệt và khuôn phép xã hội từ lâu đã không ngừng tìm cách để che đậy hay trấn áp nó. Những giấc mơ là tự do, nhưng chúng lại bị khóa chặt trong nhà ngục của sự câm lặng, bị ném vào hầm tù của ký ức. Những giấc mơ là ngọn lửa bị giấu kín mà con người phải tìm cách lấy lại để phát lộ phía khác của bản ngã chính mình, để đạt đến một sự tự do đích thực.
Trong bầu không khí lạnh nhạt và đạo đức giả của châu Âu thế kỷ XIX, sự hy sinh của Lautréamont là một cái gì đó thực sự nghiệt ngã và gây tuyệt vọng, nhưng điều đó cũng cho phép chúng ta nhìn ra được lỗi lầm đã làm tha hóa tinh thần của các xã hội văn minh ngay khi Thời đại Công nghiệp mới chớm bắt đầu. Bằng sự vô tâm, quên lãng của mình, toàn bộ xã hội tư sản thế kỷ XIX đã ném Lautréamont về một thế giới khác, theo cả hai nghĩa của khái niệm này: nó trả chàng về thế giới nơi chàng đã được sinh ra – Montevideo, lãnh thổ bên ngoài nước Pháp, mộ địa của những kẻ bị trục xuất; nhưng đồng thời nó cũng ném chàng trở về một thế giới có trước văn minh, một thế giới nguyên thủy, bạo liệt, huyền bí, nơi mà chủ nghĩa duy lý cũng như triều đình của các ông chủ ngân hàng không thể đặt niềm tin. Nó ném trả chàng về với những giấc mơ, có nghĩa là, về phía quá khứ thẳm sâu nhất của loài người.
Thực chất, đó chính cuộc hồi hương về chính cội nguồn của chúng ta. Sự tự do để mơ, và để sống trọn những giấc mơ đời người, đưa chúng ta trở về một thế giới khác, của các xã hội tiền sử (hiểu theo nghĩa của Lévi-Strauss về khái niệm). Chẳng hạn, trong các xã hội của người da đỏ ở Tân thế giới, cấu trúc xã hội, trong phần lớn các trường hợp, là cấu trúc của một “nền dân chủ lỏng lẻo”, được hình thành trên cơ sở của sự công bằng và sự tự đủ của gia đình, nơi từng cá nhân có thể cùng lúc là chiến binh, thầy tế, thấy thuốc, nghệ sĩ hay người hùng biện. Các xã hội của người da đỏ ở Băc Mỹ (bộ lạc người Iroquois, Sioux, Comanches, Apaches), ở những khu rừng cận nhiệt đới (các bộ lạc ở Carib, Tupinamba và Amazonia) và ở Nam Mỹ (người da đỏ Araucan sống trên những cánh đồng hoang) đều chứng thực cho sự tổng hòa trọn vẹn này của con người, điều dường như có trước những sự chuyên biệt hóa trong các tổ chức xã hội có sự tôn ti và thiên về tính ổn định (người Mexica, Maya, Quechua). Nhưng tầm quan trọng của sự tổng hòa trọn vẹn này của con người còn thể hiện rõ nét thậm chí ngay ở những xã hội đạt đến trình độ tổ chức cao hơn cả. Nghi lễ tôn giáo của người da đỏ châu Mỹ đều thể hiện những ảnh hưởng này – sự huyền bí, các khái niệm về thời gian quy hồi và mang tính chu kỳ, khả năng con người đồng nhất với thần linh – mà theo một nghĩa nào đó, những ảnh hưởng này đã hình thành nền tảng của một thứ triết học “hoang dã”, thứ mà những người châu Âu chinh phục lục địa này sẽ cố gắng phá hủy (và họ đã thành công).
Chính từ những giấc mơ, những nền văn minh nguyên thủy của châu Mỹ đã hình thành nên những kiến giải của mình về sự hiện sinh. Đối với người Mexica cổ đại, cũng như người Tupi-Guaranis hay người Quechua, giấc mơ là hành trình của linh hồn bên ngoài thân xác, cho phép con người liên lạc với thế giới bên kia và tri thức tương lai. Các quốc gia của người Mexica, Purecha, Carib và Quechua bị quấy rối bởi các giấc mơ (hay các điềm mộng) đến nỗi họ không thể tìm được sức mạnh để kháng cự lại những kẻ xâm lược đến từ phương Đông mà việc họ xuất hiện đã được báo trước trong các điềm mộng. Khi những người Tây Ban Nha đặt chân đến Mexico, những điềm báo được nhân bội: hình ảnh của cái chết, của những người bị xiềng xích, những hồ máu, sao chổi và hàng bầy côn trùng. Trong bộ sách Chilam Bilam của người Maya Yucatec hay trong những câu chuyện về các vị thần linh hiện thân trên núi Xanoata Hucatzio được kể lại trong sách Relación de Michoacán, những giấc mơ xa xưa nhất đều kết hợp với những lời tiên tri gặp gỡ với hiện thực, nhưng rồi cái hiện thực ấy chỉ dẫn đến sự hủy hoại những con người mơ.
Những nhà văn Tây Ban Nha đầu tiên đã nắm bắt được cái khoảnh khắc cuối cùng của cái xã hội của những người mơ mộng, thể hiện trong những nghi lễ, những điệu vũ và hình thức hiến tế lạ lùng của họ. Relación de Michoacán, cuốn biên niên sử của người da đỏ Purepecha, cho ta thấy cả một cộng đồng hoàn toàn sống theo những điềm báo và giấc mơ của mình. Quyền lực của các ông vua và số phận của họ phụ thuộc vào những giấc mơ của họ, trong đó, những vị thần tối thượng (Curicaueri, thần lửa, Xaratanga, nữ thần mặt trăng) hiện ra trước mặt họ và trở thành liên minh. Cha Bernandino de Sahagún mô tả lại: trong những lễ hội tàn nhẫn và đẫm máu của người Aztec, có cả sự hóa thân một cách bí ẩn của các vị thần và họ cùng múa nhảy giữa mọi người, như trong lễ hội ixnextiua: “Họ tin rằng trong lễ hội, tất cả thần linh đều múa nhảy, do đó, tất cả dân bản địa, những người tham gia múa nhảy, đều phải khoác lên mình những bộ trang phục khác thường rất đa dạng, có người thì hóa trang thành chim, người khác thành thú, một số thì thể hiện mình như là loài chim ruồi trong khi một số khác thì khoác bộ cánh giống như loài bướm, có người thì ăn mặc trông giống như loài ong mật đực trong khi có người giống như ruồi và người khác thì lại giống như bọ cánh cứng; có người thì cõng trên lưng một người đang ngủ mà họ bảo, người đó tượng trưng cho giấc ngủ.”
Cái xã hội huyền bí ấy, cái xã hội của những cơn mơ và điềm báo, sẽ bị phá hủy bởi văn minh phương Tây dưới cái tên chủ nghĩa duy lý. Đối với những người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha xâm chiếm thuộc địa, và sau này là người Anglo-Saxon, người Pháp, những xã hội được tổ chức theo cái huyền bí này bị xem là lỗi thời. Chúng nhất thiết phải được chuyển hóa, phải bị ràng buộc với cái hiện thực, bị hợp nhất vào những cơ sở hợp lý của khả năng sản xuất và quan hệ nhân quả mà từ những cơ sở ấy, thế giới hiện đại được xây dựng lên. Đây cũng sẽ là vai trò của nhà thờ Thiên Chúa giáo: nhà thờ đã chia sẻ cùng đạo quân xâm lược thuộc địa những ảo ảnh hàng thiên niên kỷ của mình cùng cái ý chí muốn phá hủy những khái niệm tôn giáo và triết học đối lập với nó.
Như ta đã biết, đối với trí tuệ thời kỳ Phục hưng, niềm tin vào sự huyền bí và những giấc mơ bị xem là phi lý, phi logic. Được xây dựng trên nền tảng của khoa học, trên cơ sở sự quan sát, thứ chủ nghĩa nhân văn mới hình thành chỉ có thể kết án những khía cạnh mờ tối của tâm hồn con người, bởi những tư tưởng mới xuất hiện thực chất là phản ứng đối với những niềm tin và sự mê tín ở thời kỳ Trung cổ. Để khẳng định “con người” mới này, cần thiết phải giết chết con người cũ, vốn sống trong những giấc mơ và huyễn tưởng.
Thời đại mới cũng là thời đại của những quyền lực tuyệt đối: vua Charles V, Francis I và Henry VIII, mỗi vị đại diện cho sự tối cao của quyền lực thực sự, của một sức mạnh được vũ trang và của những triều đình mang bản chất thương gia. Tuy nhiên điều lý thú là: chính thời kỳ này, thời kỳ mà những quyền lực chính trị được đẩy đến cực điểm – quyền lực vô biên của vàng, bạc; những đội tàu của người Tây Ban Nha; Thánh chế La Mã; thế giới bị phân chia giữa Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha; sự khai sinh đế chế Anh quốc; sự phát đạt của việc buôn bán nô lệ, công cuộc thuộc địa hóa châu Mỹ – cũng là thời kỳ mà không gian của sự hồ nghi, những giấc mơ, sự bí nhiệm lại trở nên rộng lớn nhất, phức tạp nhất. Tại Pháp, những phiên tòa lớn nhất kết tội các phù thủy, ở Louvain và Pau, đã diễn ra trước hết dưới triều vua Louis XIII, sau đó là triều vua Louis XIV. Thời kỳ đỉnh cao của Tây Ban Nha thực chất tương ứng với thời kỳ Baroque, cũng là thời kỳ của sự hồ nghi, tra vấn.
Những giấc mơ của thời Baroque là sự tra vấn hiện thực, quyền lực, tiền bạc và đánh dấu sự xuất hiện của một triết lý tương đối luận nào đó (như giờ đây, trong một thời đại Baroque mới – thời đại của chính chúng ta, có thể nói vậy). Thời gian, giá trị, ái tình, những điều thiện, những hoan lạc của đời sống chúng ta chỉ là phù du. Có ai lại không nhớ đến những câu thơ huyền nhiệm của Francisco de Quevedo: “Ngày hôm qua đã qua; ngày mai thì chưa tới;/ Ngày hôm nay cứ trôi đi mà không dừng lại dù chỉ một khoảnh khắc; Tôi là cái tôi đã là và cái tôi sẽ là và một cái tôi đang là mỏi mệt”.
Hay những dòng văn bí ẩn và xúc động của Luis de Góngora
Dẫu để ganh đua với mái tóc em, vàng đã phải đánh bóng mình dưới ánh mặt trời trong vô vọng; dẫu, với sự kiêu kỳ, giữa cánh đồng bao la, em nhíu mày nhìn bông huệ trắng; dẫu bờ môi em hút sự thèm khát của nhiều cặp mắt hơn những bông cẩm chướng hé nở buổi ban mai; và dẫu cổ em nuột nà, thanh tú hơn cả pha lê: thì em ơi, hãy cứ hân hoan đi, này cổ, này tóc, này môi, này mắt, này mày trước khi tuổi trẻ vàng son của em, khi bông hoa huệ, hoa cẩm chướng, ánh pha lê biến thành bạc hay thành một cành violet nhầu nhĩ; hãy cứ vui sướng đi trước khi em và tất cả những thứ trên hóa thành đất đai, cát bụi, sương khói, thành chiếc bóng, thành hư vô.
Baroque không đơn thuần chỉ là một phương thức văn chương hay một trường phái. Nó là một thứ triết học, một khuynh hướng tự nhiên của con người, là sự biểu hiện phần u uẩn trong con người, của những giấc mơ, những âu lo nơi anh ta. Trước những bài thơ của Gongora, Quevedo, trước cả La vida es sueno gần một trăm năm, khi thế giới Aztec đang sắp sửa biến mất, Netzahuacoyotl vĩ đại, thủ lĩnh người Acolhua từ Tetzoco, cũng đã hát lên những khúc bi ca và thán ca tương tự, mà ta sẽ tìm thấy sự đồng điệu của chúng với thơ ca lãng mạn Anh và sáng tác của Novalis sau này. Ở đây, người ta cũng tìm thấy những đề tài về sự mong manh của hạnh phúc, thời gian, vẻ đẹp của tuổi thanh xuân, cái chết, sự hủy diệt, sự trống rỗng chung cuộc.
Hãy mặc những bông hoa lên người
Trong những bông hoa có màu của mặt hồ lấp lánh
Như mặt trời
Những bông hoa của loài quạ
Hãy đứng trên mặt đất này, tự điểm trang cho mình
Chỉ ở đây thôi
Chỉ trong thoáng phút giây qua
Những bông hoa, chỉ một chút thôi
Chúng ta đã chuẩn bị mang chúng đi
Về quê của thượng đế
Cõi phi thân xác
Baroque không khẳng định điều gì khác ngoài cái quyền được mơ; nó chẳng nói gì ngoài sự ràng buộc trước đây của con người với cái siêu nhiên – đấy chính là lý do vì sao cái quyền ấy lại được xem là lực chi phối nền văn minh.
Chính ở thời đại chủ nghĩa duy lý lên ngôi – thời kỳ chủ nghĩa cổ điển – những giấc mơ phát lộ quyền năng của mình. Triết học Descartes cũng có cái bóng của nó, mà những giấc mơ của Descartes và khoảnh khắc bừng ngộ của Pascal có thể làm chứng. Những trang viết về cái phi duy lý cực kỳ dồi dào ngay trong những năm mà bộ Bách khoa toàn thư được biên soạn. Ta có thể dẫn ra ở đây không chỉ những trước tác của Saint-Martin và Swedenborg mà còn cả những truyện kỳ ảo ở giai đoạn này: Jacques Cazotte với tác phẩm Diable amoureux, những bản dịch Ngàn lẻ một đêm, tiểu thuyết Gothic Anh của Beckford và Lewis, tiểu thuyết Gothic Đức của Tieck, và đôi khi là những truyện kể phi lý, thường xuyên gây rối trí trong tuyển tập truyện thần tiên nổi tiếng Cabinet des Fées, được xuất bản ở Amsterdam cuối thế kỷ XVIII.
Là con đẻ của thời kỳ chiến tranh châu Âu và cuộc phiêu lưu của Napoleon, chủ nghĩa lãng mạn cũng mơ về một xã hội khác. Làn sóng thứ hai của chủ nghĩa lãng mạn (làn sóng sẽ nuôi dưỡng tâm hồn của chàng thanh niên Isidore Ducasse) là thời kỳ ra đời của các đế chế công nghiệp vĩ đại, các nền cai trị thực dân, các ngân hàng và cùng lúc là thời đại của những giấc mơ, của sự quay về nguồn cội, sự phục sinh cái huyền nhiệm và chủ nghĩa thần bí. Nếu hầu hết các giấc mơ, như Vladimir Propp lưu ý trong luận văn của ông nghiên cứu về cội nguồn của truyện cổ tích Nga, đều có sự gắn bó với các tổ chức bộ lạc hay thần quyền của các xã hội loài người – thí dụ, con rồng là biểu tượng của sự chuyên chế, chuyên quyền – thì sự tưởng tượng của văn học kỳ ảo thể hiện một yêu cầu, một cuộc đấu tranh cho sự tự do để mơ.
Thời đại lãng mạn cũng là thời đại lên ngôi của thuyết về Đấng cứu thế, ở châu Mỹ, châu Đại dương, châu Phi. “Sóng từ trường của giấc mơ”, như Paul Eluard sau này gọi tên, lan rộng trên toàn thế giới, đưa những người dân bị thống trị đối chọi với những ông chủ của thời đại công nghiệp. Ở Bắc Mỹ, những người mơ da đỏ – người Sioux, Arapaho, Apache – đã dẫn những quốc gia man dã cuối cùng vào cuộc chiến tổng lực chống lại những người châu Âu xâm lược, những kẻ có phương tiện vũ khí hiệu lực hơn hết thảy: tiền. Những giấc mơ nhảy múa, những hồn ma nhảy múa, những hình ảnh, những mộng mị đặt những người dân thuộc thế giới nguyên thủy vào thế đối chọi với thế giới hiện đại và đưa họ đến một kết cục duy nhất có thể có: cái chết. Đó là ví dụ về một sự đương đầu toàn diện giữa những ý niệm của thế giới hiện đại – thuyết vị lợi, logic, thuyết quyết định luận – và những niềm tin trước đấy vào ma thuật và thế giới bên kia. Giấc mơ là cuộc khởi nghĩa nhằm đến một thứ tự do mới, tự do của cá nhân chống lại những cấm kỵ của luân lý ở thời kỳ cổ điển, chống lại trật tự logic; đó là phương tiện để con người tiệm cận một nhận thức mới về tồn tại – chính là cái trạng thái tổng hòa vốn là giá trị quan trọng nhất ở các xã hội nguyên thủy. Ý nghĩa sâu xa của hành động truy cầu của Lautréamont chính là ở chỗ ông đã khuấy động cuộc nổi dậy của những giấc mơ.
Sau Lautréamont và Nerval, các nhà siêu thực cũng bảo vệ cho quyền được mơ; sự tự do để mơ khó có thể nào được xem như một thứ tự do nhẹ nhàng. Đối với các nhà siêu thực, những giấc mơ còn hơn cả một đề tài thơ ca hay một phương thức lấy cảm hứng. Nó là vấn đề về một kinh nghiệm tổng hòa, vừa thuộc bình diện thể chất, vừa mang tính chất siêu hình, mà từ đó, con người sẽ hiện lên thật khác biệt, sẽ được biến đổi. Chính vì lý do này, họ đã nói đến một “cuộc cách mạng siêu thực”.
Vì thế, vấn đề gây tranh cãi nhất bây giờ là sự đảo ngược hoàn toàn các giá trị (một ý hướng được sinh ra từ chủ nghĩa hư vô và sự phi lý của những cuộc chiến chết chóc, man rợ nhất mà con người từng biến đến). Như Andre Breton đã phát biểu trong Tuyên ngôn siêu thực thứ nhất (1924):
“Bắt trí tưởng tượng trở thành nô lệ – cho dù điều này đồng thời có nghĩa là loại bỏ đi cái thường được gọi là hạnh phúc – có nghĩa là phản bội tất cả cảm quan về sự công bằng tuyệt đối bên trong con người. Chỉ mình trí tưởng tượng mới có thể đem lại cho tôi một gợi ý nào đó về cái có thể là, và điều này đủ để vứt bỏ được, ở một mức độ nhẹ nhàng, những huấn thị khủng khiếp; cũng đủ để cho phép tôi dâng mình cho nó mà không sợ hãi phạm sai lầm (cứ như thế làm vậy thì sẽ phạm phải sai lầm còn lớn hơn nữa). Từ đâu mà tình trạng này lại trở nên tồi tệ; từ đâu mà tinh thần mất đi sự kiên định của nó? Đối với tinh thần, chẳng lẽ cái khả năng phạm lỗi lại còn không ý nghĩa bằng sự tùy tiện của những cái đúng?”
Sự tự do của con người để kiếm tìm và bộc lộ bản thân mình qua những hình ảnh và giấc mơ đã hàm ý rằng đó là những mối nguy đối với các giới hạn và vì thế, các nhà duy lý, các tổ chức theo thuyết tiến bộ của thế giới hiện đại, từ phong trào cải cách ở châu Âu thế kỷ XVI trở đi, đã không thể cho phép nó được tồn tại. Con người – “kẻ mơ mộng cuối cùng”, nói như Breton, hay “kẻ mộng mơ ở độ tuổi dậy thì” như chữ của Lautréamont, trở thành nạn nhân bởi chính kẻ sáng tạo nên mình – buộc phải chọn lựa cho mình con đường để bộc lộ mình, phải chọn lựa phương tiện để đạt đến tự do của mình. Để trải nghệm thứ kinh nghiệm tột cùng này, có khi con người phải đánh đổi cả sinh mệnh của mình, như thi sĩ Roger Gilbert-Lecomte, người sáng lập phong trào “Le Grand Jeu”; như Nerval hay như Antonin Artaud, người theo truyền thống của Van Gogh, đi đến “tự sát bởi xã hội”.
Chắc chắn, một trong những nhà tiên tri cuối cùng của thế giới hiện đại, Antonin Artaud, thi sĩ-đạo sĩ trác việt, đã đẩy những truy vấn nội tâm của mình đến bờ vực của sự điên rồ khi viết: “Trong khi những người khác trình bày tác phẩm của họ, tôi không biết làm gì hơn là thể hiện tinh thần của mình/Đời là những câu hỏi khắc khoải, nung nấu/Tôi không thể hình dung được tác phẩm lại tách rời cuộc đời/Tôi không thích những sáng tạo tách biệt. Cũng như không thể tưởng tượng được trạng thái biệt lập của tinh thần. Mỗi tác phẩm của tôi, mỗi biểu đồ của tôi đều được tượng hình từ những giọt nước rỉ ra từ khối băng giá của tâm hồn tôi cô độc”. Artaud đã diễn tả trạng thái tổng hòa của cái kinh nghiệm hiện sinh này – mà bằng kinh nghiệm ấy, con người là kẻ tiếp nhận những lực huyền bí và phi thực – qua những câu thơ: “Những niềm vui và những cơn giận dữ, cả bầu trời/trùm lên chúng ta như một đám mây/Một cơn lốc của những đôi cánh hoang dã/đập ào ào cùng với những tiếng kêu tục tĩu.” Sự tự do cháy bỏng, sự tự do mang tính khiêu khích ấy đã dẫn thẳng Artaud đến Mexico, đến xứ sở của những người da đỏ Tarahumara, nơi ông kiếm tìm Ngọn núi của những ký hiệu, gốc rễ của chủng tộc, và niềm đồng cảm trọn vẹn, say sưa đến choáng ngợp với đấng sáng tạo. Sau này, trong sự cô độc của bệnh điên, sự tự do vẫn còn đẩy ông đi xa hơn, đến dưỡng trí viện ở Rodez.
Đòi hỏi nhiều sự chịu đựng, thống khổ, đau đớn, thứ tự do để mơ này có một phẩm chất gì đó mang tính huyền thoại. Một cảnh tượng huyền thoại katabasis[1] vụt hiện ra: từ nỗi tò mò, từ tình yêu hay từ niềm say mê cái không biết vốn là số phận của ai đó, người anh hùng của loài người đã tìm đường xuống cõi âm ti, bất chấp hiểm nguy, cấm kỵ, vượt qua những cánh cổng tử thần. Phần lớn những anh hùng thời cổ đại đều đã thực hiện cuộc hành trình này: Gigalmesh khổng lồ, tìm kiếm bông hoa bất tử; Orpheus, vì tình yêu dành cho Eurydice; Quetzalcóat, thần Tula, người đã bị đối thủ thần thánh của mình, Tezcatlipoca, bắt làm vật tế thần để rồi lại được tái sinh vào cuối mỗi thế kỷ trong hình ảnh của một ngôi sao buổi sớm. Khoảnh khắc xuất thần của các shaman hay nhãn quan của các nhà tiên tri đều không có mục đích nào khác hơn là một lần nữa lại dấn mình vào cuộc hành trình mang tính chất thụ giáo về bên kia cái chết này. Các thi sĩ và các nhà thiên tri sau họ đều cố gắng tìm cho được điểm gặp gỡ giữa hai sự thật của con người: sự thật của đời sống và sự thật của cái chết. Con người nguyên thủy, hay nói theo thuật ngữ của Lévi-Strauss, “con người không lịch sử” (vì, theo con đường của thứ hiện thực khác này, con người xóa bỏ thời gian và cái chết vốn chính là những thứ làm nên các lịch sử), đã trải nghiệm chính sự gặp gỡ này trong tính toàn vẹn của nó ngay ở từng hành vi của mình trong đời sống thường nhật. Để che giấu sự thật này, xã hội quyết định luận, duy lý của phương Tây đã tìm cách cắt xẻo đi phần bóng đêm u uẩn của con người, phần thuộc về những cội nguồn thần bí và sáng tạo của con người. Nhờ vào những giấc mơ của các thi sĩ; nhờ Baudelaire, Nerval, và Lautréamont; nhờ Jorge Carrera Andrade và Octavio Paz, nhờ những nhà văn kể từ Joyce và Proust cho đến những tác giả ngày hôm nay – Borges, Rulfo, Onetti, Merce Rodoreda – giờ chúng ta hiểu được rằng thứ tự do tưởng tượng này là một trong những thứ sở hữu quý giá nhất của chúng ta. Giống như người Maya cổ đại, người Ai Cập và Hy Lạp, chúng ta biết rằng thời gian mang tính chu kỳ và cái hiện thực hữu hình thực chất chỉ là một hình ảnh phản chiếu. Như Borges – có lẽ là một trong số những nhà tiên tri cuối cùng của thế giới chúng ta- đã diễn đạt rất hay, chúng ta biết rằng “toàn bộ thời gian là cái gì đó đã hoàn toàn xảy ra, đời sống của chúng ta là một thứ ký ức mơ hồ, một hình ảnh phản chiếu lờ mờ – chắc chắn có sự sai lầm và bị phân mảnh – về một tiến trình không thể thay đổi được.” Đấy chẳng phải là sự hô ứng đối với câu ngạn ngữ của người Aztec cổ đại biểu thị những ý niệm về thời gian thông qua huyền thoại về sự hồi quy vĩnh viễn hay sao? “Một thời gian khác, nó sẽ như thế, một thời gian khác, sự vật sẽ như thế, một thời gian khác, một nơi chốn khác. Cái gì đã xảy ra từ lâu và cái gì bây giờ không còn được thực hiện nữa, đến một thời gian khác, nó sẽ được làm, một thời gian khác, nó sẽ trở nên như thế, giống y như nó ở một thời gian khác rất xa. Những kẻ đang sống hôm nay sẽ sống ở một thời gian khác, họ sẽ được sống một lần nữa”.
--
[1]: Katabasis trong tiếng Hy Lạp là từ để chỉ sự đi xuống (một quả đồi, một ngọn núi) hay trạng thái mặt trời dần dần lặn, gió ngừng lặng; sự rút lui của một đạo quân; một hành trình đi xuống âm phủ hay một cuộc hành trình từ nội địa men ra biển.
Hải Ngọc dịch
(Nguồn: J.M.G. Le Clézio, “Freedom to Dream”, bản dịch tiếng Anh của Ralph Schoolcraft III, World Literature Today, Vol.71, No.4, Autumn 1997, p.671-674)
Hồ Chủ Tịch Tử Hình Cán Bộ Cao Cấp Tham Nhũng
Năm 1950, Đại tá Trần Dụ Châu, Cục trưởng Cục Quân nhu bị tử hình. Chúng ta đều đã được biết qua các bài báo của nhà báo Hồng Hà (nguyên phóng viên báo Cứu Quốc), nhà báo Lưu Vinh… Qua đó, tác giả đã cho thấy sự trừng phạt nghiêm khắc của Hồ Chủ tịch đối với tội tham nhũng.
Tuy nhiên, đó mới chỉ là tình tiết về sau của vụ án. Còn diễn biến điều tra bước đầu của vụ tham nhũng này được thực hiện ra sao, thì chưa có tài liệu nào nói tới. Vị đại tá Cục truởng Cục Quân pháp Trước đây, trong một lần đến thăm bà Nguyễn Kim Nữ Hạnh, trưởng nữ của cố Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Nguyễn Văn Huyên (1905-1975), bà có cung cấp một tư liệu rất thú vị. Đó là lời kể của cụ Phạm Trinh Cán (Chánh Văn phòng Bộ Giáo dục từ tháng 4/1953) về cố Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên, tháng 3/1990. Nhưng trước khi về Bộ Giáo dục, cụ Phạm Trinh Cán nguyên là Đại tá, Cục trưởng Cục Quân pháp nên cụ nắm rõ quá trình tham gia điều tra ban đầu vụ Trần Dụ Châu. Bà Nữ Hạnh căn dặn: “Tôi tặng em để em sử dụng trên báo chí, có thể đưa vào mục những tư liệu mới được phát hiện”.
Cụ Phạm Trinh Cán sinh năm 1912, nguyên quán xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Gia đình có khả năng kinh tế nên cụ được học hết bậc Trung học. Dẫu có bằng Tú tài, cụ tự nhận là vẫn thấy mình còn dốt và rất muốn học thêm lên đại học. Học đại học thì phải tự túc nên vừa học khoa Luật trường Đại học Đông Dương cụ vừa đi dạy tư tại trường Trung học Tư thục Thăng Long cùng với các giáo sư Hoàng Minh Giám, Đặng Thai Mai, Phan Thanh, Võ Nguyên Giáp...
Cách mạng Tháng Tám 1945, cụ Phạm Trinh Cán tham gia khởi nghĩa và được cử làm Phó Chủ tịch UBND lâm thời tỉnh Quy Nhơn (nay là Bình Định). Cụ được phong hàm đại tá đợt đầu tiên (năm 1948) và đã trải qua các chức vụ: Phó Cục trưởng rồi Cục trưởng Cục Quân pháp – Bộ Quốc phòng, Chánh Văn phòng Bộ Tổng tham mưu kiêm Chánh án Tòa án binh khu Trung ương, Phó Văn phòng rồi Chánh Văn phòng Bộ Giáo dục, Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ (nay là Đại học Ngoại ngữ - ĐHQG Hà Nội). Năm 1973 cụ Phạm Trinh Cán về nghỉ hưu. Cụ mất năm 2003 tại Hà Nội, hưởng thọ 92 tuổi.
Vụ án Trần Dụ Châu Sinh thời, cụ Phạm Trinh Cán từng kể diễn biến vụ việc xảy ra từ năm 1949 đến mùa hè năm 1950 như sau:
Đại tá Trần Dụ Châu, Cục trưởng Cục Quân nhu, hoạt động trước Cách mạng Tháng Tám. Cục Quân nhu có nhiệm vụ lo ăn, mặc, thuốc men của quân đội. Quần áo cho quân đội, thuốc men trong nội thành ta chưa sản xuất được nên đơn vị quân nhu đóng ở Thái Nguyên ra vào thành cho dễ. Cục phó là Phạm Toàn, cốt cán cục Quân nhu là Lê Sĩ Cửu – trưởng phòng tiếp liệu (thuốc, giấy pơ-luya, máy chữ...).
Bấy giờ hoàn cảnh rất khó khăn. Về gạo ăn, mới kháng chiến nên anh em quân nhu chưa có kinh nghiệm bảo quản tốt, kho cất gạo dùng bồ, ẩm thấp nên mục nát nhiều. Lúc bấy giờ, Cục Quân chính do ông Phan Tử Lăng làm Cục trưởng và Cục Quân pháp do ông Phạm Trinh Cán làm Cục trưởng - cùng đóng chung cơ quan ở Thái Nguyên, tổng cộng đến 30 người. Gạo lĩnh về không dám vo mạnh, chỉ rửa qua suối để về nấu ăn. Vì vo kỹ thì gạo sẽ tan biến theo nước.
Để chống đói, bộ đội phải lấy măng rừng làm thức ăn, còn quân đội chủ lực phải ăn cháo để truy kích địch. Về cái mặc, mỗi người một áo trấn thủ và tấm “chăn kháng chiến” chỉ có một lượt bông rất mỏng. Có chiến sĩ không có chăn, không có áo, đứng gác trên đèo phong phanh vải mỏng. Thuốc men thiếu thốn, nhất là thuốc sốt rét, qui-na-cơ-rin cũng không đủ chữa bệnh sốt rét dùng trong quân y. Vì thế uống qui-na-cơ-rin phải pha vào nước, chỉ có tác dụng tinh thần chứ chữa bệnh sốt rét rất hạn chế. - Anh em đều thấm thía cảnh khổ, rồi than phiền, oán trách Cục Quân nhu làm không tròn nhiệm vụ. - Cụ chậm rãi - Càng oán trách hơn khi nghe ba thằng cha Châu, Cửu, Toàn sống sa hoa lắm. Chúng ăn toàn thứ ngon, rượu Tây, đường sữa, sô-cô-la trong Thành mang ra...
Đặc biệt nổi đình đám là đám cưới linh đình của Cửu làm xôn xao cả vùng Thái Nguyên! Bộ đội và nhân dân công phẫn. Chuyện đến tai Bộ Quốc phòng và Trung ương Đảng. Một hôm, anh Trần Tử Bình – Thiếu tướng, Phó cục trưởng Cục Thanh tra quân đội - tìm tôi, hỏi: “Anh nghe tin tức gì về vụ Châu không?”. Tôi trả lời: “Tôi có nghe. Bộ đội công phẫn lắm”. Xong, anh Bình nói với tôi về chỉ thị của Trung ương Đảng: “Ta phải mở cuộc điều tra về vụ này. Chỉ thị này tối mật. Ngoài mấy ông Trung ương, chỉ có tôi và anh biết. Nếu để lộ, Trần Dụ Châu mà dinh-tê vào thành thì chúng mình mất đầu”. (Vì Châu nắm vững nơi đóng quân, quân số, người chỉ huy, chính ủy... các đơn vị toàn quân). Rồi anh Bình giao nhiệm vụ: “Anh tiến hành cuộc điều tra này”.(Phải mở ngoặc nói thêm, những vụ phạm pháp mức độ nào có thể là xử lý trong nội bộ thì Cục Thanh tra giải quyết. Nếu nặng thì chuyển sang Quân pháp).
Thế là tôi cử 1, 2 anh rất tâm phúc nghe ngóng tình hình Cục Quân nhu. Điều tra sơ bộ xong, anh em về báo cáo lên Trung ương. Sau khi được nghe báo cáo, anh Trần Tử Bình có hỏi tôi: “Theo điều tra sơ bộ như vậy, có thể truy tố ra Tòa án binh không?”. Tôi đã nói rằng: “Đáng truy tố theo tội trạng như vậy. Nhưng cần tiếp tục điều tra nữa để có thêm tài liệu, dẫn chứng cụ thể, để căn cứ mà kết tội”.
Ông Phạm Trinh Cán kể thêm: “Khi xử vụ Trần Dụ Châu, bắt Toàn trước, Cửu sau. Trước khi điều tra vụ Châu, Bộ Tổng tư lệnh cho bắt Phạm Toàn để lấy lời khai. Tạm giam Toàn để lấy khẩu cung tại nhà dân, giao cho bộ đội canh giữ. Tôi trực tiếp hỏi về vụ bê bối của Cục Quân nhu. Đêm ấy, Toàn tự tử bằng cách lấy cắp lựu đạn, mở chốt, úp mặt cho nổ. Cửu cho bắt trước khi bắt Châu. Người ký giấy bắt Cửu, Toàn là tôi. Giam cạnh nhà đơn vị Cục Quân pháp đóng. Mấy ngày sau, Cửu cũng tự tử bằng cách bẻ que nứa cắt mạch máu cổ tay”.
Đến thời gian này thì Bộ Quốc phòng tổ chức lại. Sang năm 1950, ông Phạm Trinh Cán chuyển sang Bộ Tổng tham mưu. Vốn là cử nhân Luật (Đại học Đông Dương) nên ông được điều động vào quân đội, xây dựng luật nhà binh và tổ chức Tòa án binh, chứ không phải người được đào tạo quân đội chính quy. Sau đó ông được cử làm Chánh Văn phòng Bộ Tổng tham mưu kiêm Chánh án Tòa án binh khu Trung ương. Vì thế vụ này được bàn giao cho Cục trưởng Cục Quân pháp mới là ông Ngô Minh Loan. - Cụ thể vụ này là: ngoài tội tham ô ra còn bị tội phá hoại đoàn kết nội bộ Đảng trong Cục Quân nhu, trù dập đảng viên tốt.
Sau khi bàn giao công việc, anh Bình có hỏi ý kiến tôi:
“Nếu tiếp tục điều tra thêm thấy rõ tin đồn là đúng sự thật thì mức độ kết án thế nào?”. Tôi đã nói: “Tùy theo mức điều tra như thế nào. Theo riêng tôi, nặng nhất phải tử hình, dưới nữa phải 15-20 năm tù. Kể cả mức điều tra quan trọng sau lần điều tra báo cáo Trung ương để có chỉ thị. Nếu kết quả cuối cùng của việc điều tra thấy Châu tội nặng cộng với ảnh hưởng công phẫn trong quân đội thì có thể kết án tử hình được”.
Tôi còn nói thêm: “Tới mức ấy không chỉ xin chỉ thị Trung ương mà còn phải xin chỉ thị của Bác”. Việc này phải hết sức thận trọng vì là lần đầu đưa cán bộ cao cấp ra xử, lại là cán bộ hoạt động trước cách mạng.
Hè năm 1950, Tòa án binh tối cao xét xử. Chánh án: Thiếu tướng Chu Văn Tấn – Ủy viên Chính phủ. Công cáo viên: Thiếu tướng Trần Tử Bình. Châu nghe tuyên án không ngờ mình bị tử hình, mặt tái đi, run lên.
Đó là tôi (Phạm Trinh Cán) nghe kể lại chứ tôi không dự vì lúc đó đang đi tìm địa điểm khác để tránh hậu quả sau vụ xử Trần Dụ Châu. Nhỡ còn chân tay của Châu có thể tiếp theo sẽ phá hoại cách mạng. Theo luật, án tử hình được quyền đệ đơn lên Chủ tịch nước xin ân giảm. Nếu Chủ tịch nước cho ân giảm, không bị đưa ra xử tử thì sẽ đưa về tù chung thân. Khi Tòa án binh tối cao tuyên án, Thiếu tướng Chu Văn Tấn hỏi: “Có xin ân giảm không?” thì Trần Dụ Châu nói: “Có”. Khi đệ đơn xin ân giảm lên Chủ tịch Chính phủ thì Hồ Chủ tịch đã bác đơn xin ân giảm.
6 giờ chiều hôm sau, Trần Dụ Châu được đưa ra trường bắn trước sự có mặt của đại diện Bộ Tư pháp, Nha Công an, Cục Quân nhu và một số cơ quan Cụ Phạm Trinh Cán kết luận: “Kể việc này để thấy Bác Hồ rất nghiêm với những cán bộ cao cấp không những không hoàn thành nhiệm vụ mà còn thoái hóa, biến chất!”.
* Cụ Phạm Trinh Cán (1912-2003).
Hà Nội, ngày 1/12/2010 Kiều Mai Sơn
Thứ Năm, 2 tháng 11, 2017
Nghịch lý của nền chính trị bản sắc
Nguồn: Kemal Derviş, “The Paradox of Identity Politics,” Project Syndicate, 12/05/2015.
Biên dịch: Trương Thị Thanh Hiền | Hiệu đính: Nguyễn Huy Hoàng
Cuộc tổng tuyển cử gần đây của Vương quốc Anh đã cung cấp một ví dụ rõ ràng về cách mà vấn đề bản sắc dân tộc đang định hình lại bộ mặt chính trị của châu Âu. Đảng Dân tộc Scotland (SNP), một phiên bản cánh tả của nền chính trị bản sắc, đã vượt qua Công đảng ở Scotland, cho phép Đảng Bảo thủ giành được đa số tuyệt đối tại Quốc hội (Vương quốc Anh). Chính phủ của Thủ tướng David Cameron – người tập trung vào bản sắc của người Anh hơn là vận mệnh chung của Vương quốc Anh với châu Âu – chắc chắn sẽ tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý về việc Anh có nên tiếp tục tư cách thành viên của mình tại Liên minh Châu Âu, với những hệ quả không thể lường trước.
Trong nhiều thập niên, cuộc tranh luận chính trị ở châu Âu chủ yếu tập trung vào các chính sách và các thể chế kinh tế. Đảng Bảo thủ ủng hộ một nền kinh tế được định hướng bởi khu vực tư nhân, thị trường tự do, thuế thấp, giảm chi tiêu của chính phủ và hàng hóa công hạn chế. Những nhà tự do và những nhà dân chủ xã hội ủng hộ nền kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân, thị trường, hội nhập châu Âu và tăng cường thương mại, đi kèm với việc trợ cấp cho người nghèo và mức thuế mang tính chất tái phân phối thu nhập đáng kể, mạng lưới an sinh xã hội mạnh mẽ và một phần sở hữu nhà nước trong các lĩnh vực như cơ sở hạ tầng và tài chính.
Trong hệ thống lưỡng cực này, các bên bất đồng về các sắc thái của chính sách kinh tế, nhưng lại đồng thuận rộng rãi về các giá trị dân chủ, dự án châu Âu, và sự cần thiết phải thích nghi và quản lý toàn cầu hóa, chứ không chối bỏ toàn bộ. Tuy nhiên, với sự thành công ngày càng tăng của những lời kêu gọi cho bản sắc và chủ nghĩa dân tộc sắc tộc hay tôn giáo được phục hồi, điều đó đang thay đổi. Phải chăng những bóng ma hồi đầu và giữa thế kỷ 20 đang quay trở lại?
Vấn đề này đặc biệt liên quan đến châu Âu, nhưng nó cũng có ý nghĩa toàn cầu. Ví dụ, tại Trung Đông, nền chính trị bản sắc đang thể hiện bản thân dưới hình thái tồi tệ nhất: cuộc đụng độ hỗn loạn và bạo lực giữa người Hồi giáo dòng Sunni và Shia, được minh chứng bằng sự trỗi dậy của Nhà nước Hồi giáo.
Lòng trung thành với một bản sắc theo nhận thức có thể có các thành phần vô hại và hữu ích, chẳng hạn như thúc đẩy ngôn ngữ của khu vực. Vấn đề với nền chính trị bản sắc là nó đặt nhóm “cầm quyền” mâu thuẫn với nhóm “khác” theo nhận thức – một cách tiếp cận có thể dễ dàng nuôi dưỡng chủ nghĩa sô vanh, phân biệt đối xử ác cảm, và sự đối đầu công khai.
Một lý do chính cho sự tái trỗi dậy của nền chính trị bản sắc ở châu Âu là toàn cầu hóa, điều đã hạn chế khả năng của các quốc gia hoặc dân tộc trong việc kiểm soát nền kinh tế của họ. Thật vậy, nền kinh tế toàn cầu đã trở nên liên kết chặt chẽ lẫn nhau, và thị trường thế giới rất quyền lực, nên dường như các chính sách quốc gia ít có cơ hội làm gián đoạn các dòng vốn siêu linh hoạt.
Trong khi toàn cầu hóa đã góp phần thúc đẩy sự thịnh vượng nói chung, nó lại mang lại nhiều lợi ích nhất cho những người thuộc giới tinh hoa toàn cầu mới. Trong khi đó, nhiều người ở châu Âu phải đối mặt với sự bất ổn kinh tế lớn hơn, do các công nghệ mới hay sự cạnh tranh từ những công nhân giá rẻ ở nơi khác. Trừ khi họ có thể nâng cao kiến thức cũng như kỹ năng của mình – và, trong một số trường hợp, chuyển sang một ngành công nghiệp hay một địa điểm mới – họ phải đối mặt với những cơ hội kinh tế hạn chế. Những nhóm yếu thế này là đặc biệt lớn trong các quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu gần đây và hiện phải vật lộn với tỷ lệ thất nghiệp cao.
Nhưng ngay cả những người tương đối giàu có cũng đang thất vọng với một vài đặc điểm của toàn cầu hóa. Họ có thể phản đối việc dùng thuế của họ để “trợ cấp” cho những người nghèo hơn mà không cùng chung bản sắc với họ, chẳng hạn những người nhập cư, người Bỉ nói tiếng Pháp, người miền Nam nước Ý, hoặc người Hy Lạp.
Khi đề cập đến chủ nghĩa bảo hộ thương mại, hội nhập châu Âu, và toàn cầu hóa kinh tế, những người cực hữu và cực tả thường chia sẻ cùng quan điểm. Ví dụ, tại Pháp, nhiều người ủng hộ Đảng Mặt trận Dân tộc đã bầu cho những người cộng sản cách đây 30 năm. Và quả thật, chương trình kinh tế của Đảng Mặt trận Dân tộc khá giống với chương trình của Mặt trận Cánh tả (một khối cử tri gồm Đảng Cộng sản và Đảng Cánh tả Pháp).
Dĩ nhiên, khi đề cập đến vấn đề di cư và nhân quyền, truyền thống tư tưởng quốc tế chủ nghĩa của chủ nghĩa xã hội đã ngăn chặn những người cực tả tiếp nhận quan điểm dân tộc chủ nghĩa hay phân biệt chủng tộc cực đoan. Tuy nhiên, với việc những đảng này đang cạnh tranh với phe cực hữu để giành những cử tri đã thất vọng như nhau, chủ nghĩa nhân văn của họ về những vấn đề này đã trở thành một trở ngại chính trị nghiêm trọng, điều có thể giải thích tại sao phe cánh hữu cực đoan gần đây đã thành công hơn trong bầu cử.
Trong khi đó, sự nổi lên của các phong trào chính trị định hướng bởi bản sắc là một thách thức lớn đối với các đảng chính trị truyền thống của châu Âu. Những người bảo thủ chính thống, được nhận thức rộng rãi là đang phục vụ những lợi ích kinh tế của người giàu, phải tìm cách để thể hiện mình như những người theo chủ nghĩa dân túy – nhưng không tỏ ra thái quá như những đối thủ cực hữu về vấn đề di cư và nhân quyền. Cameron đã thành công trong hành động cân bằng tinh tế này – và đã được các cử tri tưởng thưởng. Những nhà Cộng hòa chính thống ở Hoa Kỳ, chịu áp lực từ những lực lượng cực đoan hơn trong đảng của mình, cũng phải đối mặt với thách thức tương tự.
Đối với các đảng trung tả, nhiệm vụ thậm chí còn khó khăn hơn. Họ phải mang đến cho các cử tri một chương trình kinh tế thiết thực thân thiện với thị trường và mở cửa đối với thương mại quốc tế, trong khi hứa hẹn mang lại những lợi ích rõ rệt cho khoảng 60-70% dân số nghèo hơn, những người đang thất vọng một cách dễ hiểu với sự thiếu tiến bộ kinh tế. Nếu chính sách kinh tế của một đảng cánh tả được xem là yếu ớt so với chương trình nghị sự của phe cánh hữu, nhóm dân số nghèo nhất sẽ hướng về các lực lượng sô vanh chủ nghĩa và những lời hứa giả dối của họ về việc bảo vệ người nghèo trước những hệ quả của toàn cầu hóa.
Các cuộc bầu cử sắp diễn ra ở Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ kỳ, Đan Mạch, và Bồ Đào Nha – chưa kể đến cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm sau – sẽ cho thấy những phiên bản riêng của họ về những thách thức này. Đặc biệt, phe cánh tả sẽ phải bảo vệ các nguyên tắc bình đẳng và dân chủ, trong khi tìm cách quản lý sự toàn cầu hóa không thể đảo ngược, kể cả thông qua hợp tác quốc tế. Nghịch lý lớn là nếu sự trỗi dậy của nền chính trị bản sắc tiếp tục tiếp diễn, các chính phủ thậm chí sẽ ít có khả năng hơn trong việc giải quyết những vấn đề đang thúc đẩy điều đó.
Kemal Derviş, cựu Bộ trưởng Kinh tế Thổ Nhĩ Kỳ và cựu Quản trị viên Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), là phó Chủ tịch Viện Brookings.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)