Thứ Bảy, 28 tháng 10, 2017

NGÔ ĐÌNH DIỆM ĐÃ ĐÀN ÁP PHẬT GIÁO NHƯ THẾ NÀO? ( phần 1)




Nguyễn Minh Tiến

PHÚC TRÌNH A/5630
PHÚC TRÌNH CỦA PHÁI ĐOÀN ĐIỀU TRA LIÊN HIỆP QUỐC
TẠI NAM VIỆT NAM
(REPORT OF THE UNITED NATION FACT-FINDING MISSION TO SOUTH VIET-NAM)

III. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA

Phần 1

1. Hợp tác điều tra từ phía Chính phủ

Bản Phúc trình cho biết, trong suốt quá trình điều tra, phía Chính phủ VNCH nhiều lần nhắc lại cam kết sẽ tạo mọi điều kiện dễ dàng cho công việc điều tra của Phái đoàn. Trong buổi họp đầu tiên của Phái đoàn với Bộ Ngoại giao VNCH vào ngày 24-10, đại diện Chính phủ đã “cam kết là Phái đoàn có thể tự do đi đến bất cứ nơi đâu tùy ý và hứa sẽ làm tất cả mọi việc để tạo điều kiện dễ dàng cho nhiệm vụ điều tra sự thật của Phái đoàn”
Tuy nhiên, song song với cam kết này là một số hạn chế mà Phái đoàn đã thực sự vấp phải trong thực tế như được ghi nhận sau đây:

- Ngày 25-10-1963, chuyến viếng thăm chùa Ấn Quang bị hoãn lại và sau đó hủy bỏ, với lý do Hòa thượng Thích Tịnh Khiết và Sư cô Diệu Huệ “không được khỏe”. Tuy nhiên, sau đó sự thật được biết rõ là cả hai vị đều đã chờ suốt buổi chiều 25-10 để tiếp đón Phái đoàn.

- Chính phủ từ chối việc tiếp xúc của phái đoàn với các nhân chứng được xem là “đối lập chính trị” (political opponent), nhưng tiêu chí để phân loại không được xác định rõ. Vì thế, chính phủ có thể dựa vào lý do này để ngăn cản sự tiếp xúc của Phái đoàn với bất cứ ai. Trong thực tế, một số nhân chứng tại Huế và Sài Gòn đã không được Chính phủ cho phép tiếp xúc dựa vào lý do này.

- Chính phủ nhiều lần từ chối việc Phái đoàn tiếp xúc Thượng tọa Thích Trí Quang với lý do đang trong tình trạng “tỵ nạn chính trị” (asylum). Ngoài việc lên tiếng đòi hỏi quyền bình đẳng tôn giáo theo một phương thức ôn hòa, bất bạo động, Thượng tọa Thích Trí Quang chưa hề tham gia bất kỳ hoạt động chính trị, đảng phái nào và cũng chưa chính thức bị kết án bởi bất kỳ tòa án nào. Việc Thượng tọa vào tỵ nạn trong Tòa Đại sứ Hoa Kỳ là kết quả của cuộc truy bắt, bố ráp hoàn toàn vô cớ của Chính phủ trong đêm 20-8-1963, chứ không phải do hoạt động đấu tranh chính trị. Một số vị tăng sĩ ở chùa Xá Lợi cũng phải trốn vào Trụ sở Ngoại giao đoàn Hoa Kỳ trong khi họ không có tội gì cả. Như vậy, lý do từ chối của Chính phủ là không chính đáng.

- Chính phủ nhấn mạnh việc tiếp xúc với Thượng tọa Thích Trí Quang chỉ có thể thực hiện nếu Tòa Đại sứ Mỹ “giao nộp Thượng tọa cho Chính quyền” (if the monk was delivered to the authorities). Trong khi “chiến dịch tấn công các chùa” đêm 20-8 đang là một trong các mục tiêu điều tra của Phái đoàn, thì Chính phủ cho thấy họ không hề thay đổi quan điểm, không hề thừa nhận hành vi vô cớ bắt giữ tăng ni và Phật tử là sai trái, mà vẫn tiếp tục giữ ý định bắt giam Thượng tọa Thích Trí Quang.

- Việc Chính phủ công khai cho cảnh sát vũ trang bảo vệ quanh khách sạn Majestic, nơi Phái đoàn cư ngụ, có thể là ý tốt để bảo vệ an ninh cho Phái đoàn, nhưng đã là rào cản khiến cho rất nhiều nhân chứng e ngại không dám đến gặp. Trong thực tế, các lực lượng canh gác có vũ trang của Chính phủ đã chặn lại và xét hỏi tất cả những ai đi vào khách sạn trong thời gian Phái đoàn hiện diện ở đó.

Ngoài những điều kể trên, việc đề xuất chương trình làm việc của Chính phủ ngay khi Phái đoàn vừa đến Sài Gòn cũng là một điểm đáng chú ý. Phụ lục V của bản Phúc trình ghi lại chi tiết chương trình đề xuất do Chính phủ gửi đến (kèm theo đề nghị chi trả mọi chi phí ăn ở, đi lại), được ghi nhận chi tiết như sau:

- Sau 2 ngày làm việc với các bộ ngành của Chính phủ (kể cả ngày vừa đến: 24 và 25), ngày 26 được đề xuất dự lễ Quốc khánh và sau đó nghỉ trọn ngày.

- Ngày 27-10-1963 đi Vũng Tàu, thăm Chùa Mới và các điểm du lịch trong vùng , sau đó ăn trưa với Tỉnh trưởng và trở về Sài Gòn, dự tiệc chiêu đãi buổi tối ở Bộ Ngoại giao. Ngoài ra không có hoạt động nào khác.

- Ngày 28-10 đi Đà Lạt bằng máy bay đặc biệt (special plane), dự lễ khai trương Viện Nghiên cứu Ứng dụng hạt nhân. 3 giờ chiều nghe báo cáo ngắn gọn về tình hình Phật giáo. 5 giờ đi thăm một ngôi chùa và tiếp xúc với Phật tử. 8 giờ dự tiệc tối do Thị trưởng Đà Lạt chiêu đãi.

- Ngày 29-10 viếng thăm đập Đa Nhim (du lịch) trọn ngày. Không có hoạt động nào khác.

- Ngày 30-10 đi Huế bằng máy bay đặc biệt. Thăm xã giao (courtesy call on) các đại diện Chính phủ tại Huế. 3 giờ chiều nghe báo cáo ngắn gọn về Phật giáo. 5 giờ thăm chùa Từ Đàm. 8 giờ dự tiệc buổi tối do đại diện Chính phủ chiêu đãi. Ngoài ra không có hoạt động nào khác.

- Ngày 31-10 viếng thăm Hoàng thành và các điểm du lịch (Visit to the Imperial City and to tourist sites) gồm có chùa Thiên Mụ, Văn miếu, Lăng Tự Đức, Lăng Minh Mạng. Buổi tối đi dạo ven bờ sông Hương. Ngoài ra không có hoạt động nào khác.

- Ngày 1-11, đi Phan Rang bằng máy bay đặc biệt. 10 giờ sáng nghe trình bày ngắn gọn về tình hình chung và Phật giáo. 12 giờ bay đi Phan Thiết, ăn trưa với Tỉnh Trưởng. 3 giờ chiều viếng thăm một ngôi chùa và tiếp xúc Phật tử. 5 giờ 30 bay về Sài Gòn. Buổi tối nghỉ.

- Ngày 2-10 đi Ba Xuyên và Vĩnh Bình bằng máy bay. 9 giờ sáng nghe báo cáo ngắn gọn về tình hình chung và Phật giáo. 12 giờ 30 dùng cơm trưa do Tỉnh trưởng Ba Xuyên chiêu đãi, kết hợp tiếp xúc với tăng ni Phật tử gốc Khmer. 5 giờ bay về Sài Gòn. Buổi tối giải trí tại Nhà hàng vũ trường Anh Vũ.

- Ngày 3-11 - Nghỉ trọn ngày.

- Ngày 4-11 - Buổi sáng thăm Ấp chiến lược Củ Chi, chiều gặp gỡ chia tay với Tổng thống. 8 giờ tối lên đường về New York.

Trong toàn bộ chương trình này, dự kiến chỉ có 4 lần nghe báo cáo ngắn gọn về tình hình Phật giáo, mỗi lần không quá 2 giờ đồng hồ. Ngoài ra đều là các hoạt động du lịch, chiêu đãi, thăm viếng, giải trí và... nghỉ trọn ngày. Các ngày 27, 29, 31 tháng 10 và ngày 3, 4 tháng 11 hoàn toàn không có hoạt động nào liên quan đến công việc điều tra của Phái đoàn.

Nếu chấp nhận chương trình đề xuất này, chắc chắn Phái đoàn sẽ chẳng ghi nhận được bất kỳ một kết quả điều tra trung thực nào. Rất may là Phái đoàn điều tra đã nhận ra ngay điều đó và có 2 quyết định sáng suốt. Thứ nhất, không chấp nhận đề nghị chi trả mọi phí tổn ăn ở và đi lại từ phía Việt Nam. Thứ hai, không chấp nhận bản chương trình đề xuất này mà tự nghiên cứu đưa ra chương trình làm việc chi tiết và phù hợp. Chỉ riêng điểm này cũng đã cho chúng ta thấy được tính khách quan và đáng tin cậy của hoạt động điều tra. Với chương trình làm việc thực tế đã được Phái đoàn áp dụng, chúng ta thấy rõ những hoạt động điều tra, tiếp xúc, phỏng vấn, thu thập thông tin đã diễn ra liên tục. Thậm chí phái đoàn còn quyết định chia đôi nhân sự để cùng lúc thu thập thông tin ở Huế nhưng vẫn tiếp tục hoạt động điều tra tại Sài Gòn.

2. Thu thập thông tin từ phía Chính phủ

Thông tin từ phía Chính phủ được cung cấp qua hai nguồn chính: một văn bản Chính thức do Thiếu tướng Trần Tử Oai trực tiếp trao cho Phái đoàn và các buổi tiếp xúc tuần tự được ghi nhận nội dung với Tổng thống Ngô Đình Diệm, Cố vấn Ngô Đình Nhu, Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ, Bộ trưởng Nội vụ Bùi Văn Lương, Bộ trưởng Phủ Tổng thống Nguyễn Đình Thuần, các thành viên Đại diện Chính phủ tại Huế, Tư lệnh Quân đoàn 1 và một số quan chức khác. Riêng cuộc tiếp xúc với Bộ trưởng Ngoại giao nhằm mục đích thu xếp một cuộc phỏng vấn với Thượng tọa Thích Trí Quang, được vị Trưởng đoàn kể lại nội dung trong một báo cáo riêng.

VĂN BẢN CHÍNH THỨC

Văn bản do Thiếu tướng Trần Tử Oai chuyển đến Phái đoàn thể hiện quan điểm chính thức của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Vì thế, trong các buổi phỏng vấn trực diện với những thành viên cao cấp khác trong Chính phủ, nội dung ghi nhận hầu như cũng đều xoay quanh những quan điểm này. Một số điểm nổi bật được nêu ra là:

- Vấn đề bất ổn giữa Chính phủ và Phật giáo Việt Nam “bắt nguồn từ các sự kiện xảy ra ở Huế vào đầu tháng 5-1963” . Nói cách khác, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa phủ nhận những cáo buộc về phân biệt đối xử với Phật giáo trước thời điểm này.

- Những người chết và bị thương trong sự kiện ở Huế là do “Cộng sản đã lợi dụng cơ hội cho nổ 2 quả mìn plastic làm 8 người chết” và do đó không có sự đàn áp của quân đội bằng súng máy, xe tăng và lựu đạn như các nguồn tin loan truyền.

- Phong trào đấu tranh Phật giáo không hoàn toàn do người Phật tử đứng lên, mà có sự núp bóng xúi giục của “những kẻ đối lập chính trị và Việt cộng”

- Do sự kích động của Việt cộng nên những cuộc biểu tình dần phát triển vượt quá giới hạn cho phép của luật pháp, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh trật tự xã hội và nhất là làm suy giảm khả năng của Chính phủ trong cuộc chiến tranh chống Cộng. “Trong giai đoạn từ ngày 8-5 đến 19-8-1963, có 159 cuộc biểu tình đã diễn ra: Huế: 25, Sài Gòn: 32, Đà Nẵng: 10, Quảng Trị: 8, Quảng Nam: 7, Quảng Ngãi: 18, Nha Trang: 13, v.v...” có sự trợ giúp của bộ máy tuyên truyền khoa học khổng lồ của cộng sản , được đẩy lên đến đỉnh điểm vào ngày 18-8-1963 khi các lãnh đạo Phật giáo đưa ra tối hậu thư yêu sách đối với Chính phủ trước một đám đông 20.000 người tụ tập trước chùa Xá Lợi. Mặt khác, theo một kế hoạch định trước thì các lãnh đạo Phật giáo sẽ tổ chức những cuộc biểu tình đẫm máu với một tốc độ phát triển khá nhanh tiếp nối trên các địa phương từ Huế đến Sài Gòn, như Đà Nẵng, Quảng Nam, Khánh Hòa, Bình Thuận . Để đối phó với nguy cơ này, các tỉnh miền Trung đã yêu cầu Sài Gòn tăng viện . Nguy cơ bị Việt cộng tấn công ngay tại Sài Gòn lên cao do thiếu lực lượng bảo vệ.

- Trước tình hình nguy hiểm đến an ninh quốc gia, ngày 20-8-1963, các tướng lãnh đã đồng tâm nhất trí đề nghị và thúc ép Tổng thống ban hành tình trạng thiết quân lực, giao cho Quân đội trách nhiệm bảo vệ nền Cộng hòa và đất nước . Trong khi đó, Cộng sản đã sẵn sàng tấn công Sài Gòn để lật đổ chế độ ngay khi phong trào đấu tranh của Phật giáo tạo thành một sự hỗn loạn lan rộng. Họ dự kiến điều này sẽ diễn ra vào cuối tháng 8-1963.
- Những lý do nêu trên buộc Chính phủ phải đồng ý cho Quân đội tiến hành chiến dịch đêm 20-8-1963. “Quân đội đã khám phá được trong nhiều ngôi chùa một số lượng lớn vũ khí và tài liệu quan trọng, thêm một lần nữa chứng tỏ rằng các nhà sư quá khích đang theo đuổi một mục đích chính trị với sự trợ giúp của một bên là Việt cộng và một bên khác nữa là các nhóm đối lập chính trị.”

- Mặc dù chiến dịch được tiến hành quyết liệt nhưng không hề gây đổ máu và thương vong. . Qua đó, quân đội đã thành công trong việc tái lập trật tự, mang lại sự bình yên cho các chùa, giải phóng tăng ni Phật tử thuần thành khỏi sự khống chế của các nhà sư cực đoan
- Trên khắp nước có hàng loạt những cuộc biểu tình, tụ tập của Phật tử, các tầng lớp trí thức và bình dân, các giai tầng xã hội khác nhau, bày tỏ niềm tin và sự ủng hộ Chính phủ lên án những kẻ phản quốc . Cụ thể là ở Huế có hơn 80.000 người, ở Sài Gòn có hơn 120.000 người, và ở các tỉnh thành khác đều có nhiều chục ngàn người.

- Cuối cùng, nhờ các biện pháp sử dụng quân đội như đã trình bày trên, Chính phủ đã tái lập được trật tự, giải quyết mọi bất ổn, và do đó Chính phủ đã cho phép mở cửa lại những chùa chiền bị phong tỏa, trả tự do cho tất cả các tăng sĩ bị bắt, đưa trả các sinh viên học sinh bị bắt giữ về với gia đình.

Văn bản của Chính phủ được kết luận một cách lạc quan và phủ nhận hoàn toàn những bất ổn đang tồn tại:

Chính phủ [Việt Nam Cộng Hòa] tự xét thấy có quyền hy vọng rằng các quốc gia thân thiện với Việt Nam sẽ giúp làm sáng tỏ công luận trong Thế giới Tự do về vấn đề này, vì Chính phủ xem như đã giải quyết xong.

Bản văn do ông Trần Tử Oai trực tiếp trao cho Phái đoàn dài hơn 5.000 chữ, có nhiều đoạn trình bày chi tiết về các sự kiện, biện pháp xử lý bất ổn v.v... Tuy nhiên, nội dung chính yếu có giá trị bác bỏ những cáo buộc mà Phái đoàn của điều tra Liên Hiệp Quốc đã ghi nhận và chuyển đến cho Chính phủ thì không ngoài các ý chính đã được chúng tôi tóm lược như trên. Trong thực tế, nếu Chính phủ có khả năng chứng tỏ một cách khách quan những gì trình bày trên đây là đúng thật, thì cuộc điều tra của Phái đoàn hẳn không cần phải tiếp tục nữa. Tuy nhiên, hầu hết, nếu không muốn nói là tất cả, những gì Chính phủ nêu ra đều chỉ có giá trị một chiều, tự biện và không có bất kỳ một chứng cứ cụ thể nào. Giả thuyết về sự can thiệp của Việt cộng là một ví dụ. Chính phủ không xem đây là một giả thuyết, mà xác quyết như vậy, nhưng lại không đưa ra bất kỳ chứng cứ nào.

Khi Chính phủ nói rằng theo kết quả giám định của các chuyên gia y tế thì các nạn nhân [của sự kiện Đài Phát thanh Huế] bị chết do chất nổ plasstic [của Việt cộng] thì Phái đoàn đồng thời cũng nhận được các cáo buộc ngược lại từ phía các nhân chứng là Chính phủ đã bỏ tù Bác sĩ Lê Khắc Quyến chỉ vì ông từ chối không chịu ký vào các biên bản giám định không đúng sự thật được làm sẵn. . Câu hỏi đặt ra ở đây là, cáo buộc của các nhân chứng có thể thiếu chứng cứ là điều dễ hiểu, nhưng tuyên bố chính thức của Chính phủ tại sao không kèm theo chứng cứ xác nhận (chẳng hạn như biên bản giám định) khi họ có thừa khả năng làm điều đó?

Chính phủ cũng có sự mâu thuẫn khi cáo buộc các cuộc biểu tình ôn hòa của Phật giáo là “gây rối loạn trật tự”, trong khi tự cung cấp thông tin là có biểu tình ủng hộ Chính phủ lên đến 120.000 người ở Sài Gòn (gấp 6 lần số người họ cho là đã tụ tập trước chùa Xá Lợi vào thời điểm căng thẳng nhất) nhưng lại không ảnh hưởng gì đến trật tự trị an. Sự cường điệu của Chính phủ về con số người ủng hộ đã lộ rõ khi cuộc đảo chính diễn ra thành công ngay sau đó và điện văn số 875 của Đại sứ Cabot Lodge gửi về Bộ Ngoại Giao Mỹ ngày 2 tháng 11 năm 1963 đã mô tả không khí Sài Gòn như sau:

“Hãy tin rằng cần nhấn mạnh đến sự ủng hộ của dân chúng đối với cuộc đảo chính này. Hôm nay, mọi người Việt Nam đều tươi cười. Người ta bảo tôi rằng, niềm hân hoan được thấy trên đường phố còn vượt hơn cả niềm vui ngày Tết.”

Và sau khi cái chết thê thảm của hai anh em ông Diệm và ông Nhu được xác nhận có cả hình ảnh, ngày 4-11-1963, Cabot Lodge gửi điện văn số 917 trả lời Bộ Ngoại giao Mỹ về tình trạng ông Ngô Đình Cẩn như sau:

“Về vấn đề ông Ngô Đình Cẩn, tướng lãnh Việt Nam ở Huế vừa điện báo rằng một đám đông rất lớn và đầy thù nghịch đang vây quanh ngôi nhà ông Cẩn sống với người mẹ, rõ ràng ông ta bị căm thù vì sự tàn ác của ông trong quá khứ và đám đông này đang muốn lột da ông...”

Cáo buộc về những cuộc “biểu tình đẫm máu” cũng hoàn toàn vô căn cứ vì trong thực tế tuy đã có rất nhiều cuộc biểu tình xảy ra khắp nơi, nhưng tất cả đều ôn hòa và chỉ có thương vong khi bị Chính phủ đàn áp, còn tự thân những người tham gia biểu tình chưa từng có hành vi bạo động.

CÁC BUỔI TIẾP XÚC TRỰC TIẾP

Phần lớn các buổi tiếp xúc không nhận thêm được thông tin gì khác hơn nhiều so với đã nêu trong văn bản chính thức. Chúng tôi chỉ ghi nhận lại dưới đây những điểm khác biệt, bổ sung. Tổng thống Ngô Đình Diệm khi tiếp xúc với Phái đoàn và nói về cuộc đấu tranh của Phật giáo đã đưa ra hai thông tin không được nhắc đến ở bất kỳ một nguồn tư liệu nào khác:

1. Phật tử đòi hỏi cờ Phật giáo phải được treo cao hơn quốc kỳ Việt Nam.
2. Tổng hội Phật giáo Việt Nam đang cố ép buộc các bộ phái khác phải chấp nhận cùng một lá cờ Phật giáo quốc tế.

Không biết ông Diệm đã nhận những báo cáo như thế nào để hiểu về phong trào Phật giáo theo cách như thế. Điểm thứ nhất về việc đòi hỏi treo cờ cao hơn là quá ngây ngô, chưa từng có. Điểm thứ hai là một sự ngộ nhận hoàn toàn, vì cờ Phật giáo được đồng thuận sử dụng ở tất cả các nước trên thế giới, không riêng gì Việt Nam, nên không phải là lựa chọn riêng của bất kỳ tông phái Phật giáo nào.

Buổi tiếp xúc với Cố vấn Ngô Đình Nhu ghi nhận nhiều thông tin hơn, nhưng hầu hết là những giải trình chi tiết của ông Nhu về các chính sách của Chính phủ hơn là trả lời thẳng vào các vấn đề cáo buộc do Phái đoàn đưa ra. Vị Trưởng đoàn đã đặt những câu hỏi nhằm khai thác thông tin đúng hướng. Căn cứ vào báo cáo của Chính phủ là qua đợt bố ráp 20-8-1963 đã triệt phá được hết “những phần tử kích động”, ông đặt vấn đề về sự cải thiện mối quan hệ giữa Chính phủ với Phật giáo như vậy liệu đã có hy vọng tốt hơn hay chưa? Ông Nhu đã trả lời hết sức mơ hồ: “Chính phủ không bắt hết được những kẻ âm mưu. Hầu hết bọn chúng được điều khiển từ nước ngoài và chúng tôi không thể bắt hết được chúng.” Trong văn bản chính thức nói rằng Chính phủ đã bố ráp thành công và “vấn đề đã được giải quyết”, thì bây giờ ông Cố vấn lại đưa ra một viễn cảnh đấu tranh mở rộng đối tượng buộc tội không chỉ là Việt cộng mà còn có yếu tố “nước ngoài”. Và khi vị Trưởng đoàn hai lần gặn hỏi về số người thực sự đã bị bắt vẫn còn bị giam trong tù, ông Cố vấn đã trả lời “Khoảng 200 đến 300 người. Việc này hãy hỏi ông Bộ trưởng Nội vụ.” Trong văn bản của Chính phủ thì tuyên bố Chính phủ đã trả tự do cho tất cả những người bị bắt!

Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ không có thêm thông tin mới vì ông này tuyên bố không có ý kiến gì khác hơn đã nêu trong văn bản của Chính phủ . Tuy nhiên, khi vị Trưởng đoàn đặt câu hỏi tại sao Phật giáo cáo buộc Chính phủ không tôn trọng bản Thông cáo chung thì ông thừa nhận: Họ “cáo buộc rằng Chính phủ tiếp tục bắt giữ các nhà sư và ngăn cản những buổi lễ cầu siêu cho các nạn nhân...” Những cáo buộc này là hoàn toàn có thật theo quan sát trong thực tế của Phái đoàn, cũng như qua thông tin được cung cấp từ chính các thành viên Chính phủ.

Khi được yêu cầu nhận định về phong trào đấu tranh của Phật giáo, ông Phó Tổng thống cũng không kiên định theo lập trường của Chính phủ là do Việt cộng can thiệp từ đầu trong sự kiện ngày 8-5-1963, mà nói một cách mơ hồ hơn rằng “ban đầu đó là một phong trào đấu tranh thuần túy tôn giáo, nhưng cuối cùng có lẽ đã có một số liên hệ nào đó với cộng sản” . Có lẽ ông Thơ đã thực sự nghĩ như vậy.

Phái đoàn đã lặp lại yêu cầu cung cấp các chứng cứ với ông Bộ trưởng Nội vụ Bùi Văn Lương:

Nhiều quan chức của Chính phủ Việt Nam đều tuyên bố rằng có một số tài liệu đã được Chính phủ và quân đội tìm thấy trong các ngôi chùa và cơ sở Phật giáo. Những tài liệu này chắc chắn là có tầm quan trọng trong việc xác định những sự thật nhất định, hoặc ít nhất là mang đến khả năng xem xét thích hợp đối với tình hình trong việc xác định sự thật mà Phái đoàn đang tìm kiếm.

Yêu cầu này đã được đưa ra nhiều lần, với nhiều chứng cứ khác được nêu trong những lần tiếp xúc với các quan chức Chính phủ, và Phái đoàn luôn nhận được lời hứa là sẽ được cung cấp đầy đủ. Ông Lương trả lời rằng các giấy tờ này đang được photocopy hoặc đánh máy lại, và tất cả sẽ được trao cho Phái đoàn trước ngày thứ Hai tuần sau đó, ngày mà Phái đoàn dự tính rời Việt Nam. Vị Trưởng đoàn lưu ý rằng nếu Phái đoàn hoàn tất được việc điều tra và rời Việt Nam ngay, có thể sẽ sớm hơn dự tính Vì thế, ông mong rằng sẽ nhận được các giấy tờ này trước để Phái đoàn “không phải chờ đợi chỉ vì những văn bản mà Chính phủ đã đồng ý trao cho” . Ông Lương đã đồng ý về điều này.

Một điểm quan trọng khác trong buổi nói chuyện với ông Bộ trưởng Nội vụ là vị Trưởng đoàn đã đặt câu hỏi nguyên văn như sau:

(Có một số quyền tự do được đề cập đến trong đoạn văn thứ nhì của tài liệu “Vấn đề Phật giáo ở Việt Nam” vốn được xem là những quyền tự do thông thường, miễn là không có sự kích động bạo lực. Làm sao Chính phủ lại có thể đề cập đến [việc thực hiện] những quyền tự do thông thường này như là một âm mưu?)

Trả lời câu hỏi này, ông Lương nói rằng Chính phủ đã bắt một người tên Đặng Ngọc Lựu và ông này khai rằng những gì Phật giáo thể hiện là một âm mưu của cộng sản đã được chuẩn bị trước từ năm 1960,và đó là lý do Chính phủ xem đây như một âm mưu . Một lần nữa, để xác thực những thông tin này, Phái đoàn tiếp tục đưa ra yêu cầu được nhìn thấy tờ khai của Đặng Ngọc Lựu. Ông Lương đã hứa sẽ đáp ứng tất cả yêu cầu của Phái đoàn gồm nhiều văn bản liên quan khác nữa.

Trong thực tế, Phái đoàn xác nhận trong Phúc trình là họ không nhận được bất kỳ văn bản nào từ phía Chính phủ như đã hứa mặc dù thời gian lưu lại của Phái đoàn trước ngày đảo chính là thừa khả năng để Chính phủ đáp ứng việc này, chưa xét đến yếu tố Chính phủ đã chủ động mời Phái đoàn đến thì những văn bản liên quan thuộc loại “chứng cứ” hẳn phải được chuẩn bị từ trước mới hợp lý.

Không nhận được những giải thích rõ ràng và hợp lý từ các thành viên đã tiếp xúc, vị Trưởng đoàn đã tiếp tục nêu một câu hỏi có phần cụ thể hơn với ông Nguyễn Đình Thuần, Bộ trưởng Phủ Tổng thống: “Chính phủ nói rằng không bao giờ bắt giữ những người theo đạo Phật chỉ vì lý do duy nhất rằng họ là Phật tử. Chúng tôi muốn biết, vậy thì làm thế nào mà tất cả những người bị bắt, các sinh viên và những thành phần khác, lại chỉ toàn là người theo đạo Phật, bao gồm cả các vị tăng sĩ đã tham gia đàm phán cùng Chính phủ trước đó?
Ông Thuần đã loanh quanh không giải thích được điểm này và đẩy vấn đề trở lại cho ông Bộ trưởng Nội vụ, rằng ông Bộ trưởng Nội vụ nhất định là đã đưa ra cho Phái đoàn tất cả những giải thích cần thiết về vấn đề này. Trong thực tế, Phái đoàn đã gặp ông Bộ trưởng Nội vụ trước đó và không nhận được lời giải thích thỏa đáng về việc bắt giữ hàng loạt tăng ni Phật tử trong đêm 20-8-1963.

Ngày 31-10-1963, vị Trưởng đoàn cùng một thành viên trong đoàn là ông Correa da Costa đến gặp Bộ trưởng Ngoại giao để cố gắng thu xếp việc phỏng vấn Thượng tọa Thích Trí Quang. Nỗ lực không thành vì quan điểm của Chính phủ vẫn không thay đổi, khăng khăng là Tòa Đại sứ Mỹ phải giao nộp Thượng tọa Thích Trí Quang cho Chính phủ trước khi bất kỳ cuộc tiếp xúc nào có thể được thực hiện. Tuy nhiên, trong buổi tiếp xúc này, vị Trưởng đoàn đã ghi nhận lại trong báo cáo một số quan điểm của Chính phủ do ông Bộ trưởng Ngoại giao trình bày. Trước hết, phía Chính phủ nhất định cho rằng Thượng tọa Thích Trí Quang là người của Việt cộng vì các lý do:

- Ông có tham gia phong trào cộng sản vào năm 1945. Ông cũng có thành lập một Hội Phật giáo có quan hệ chặt chẽ với Mặt trận của Cộng sản.

- Ông có 2 lần bị người Pháp bắt, đồng thời có biểu lộ ủng hộ tư tưởng cộng sản. Trong một lần thuyết giảng trước đám đông ở Huế, ông nói rằng không có gì khác biệt giữa Phật giáo và chủ nghĩa cộng sản. Đây là dấu hiệu đầu tiên cho thấy ông có khuynh hướng nghiêng về chủ nghĩa Marx.

- Mặc dù những điểm trên chưa đủ yếu tố để kết luận, nhưng Chính phủ còn có những dữ kiện chính xác khác. Trước hết, cách đây khoảng 25 năm, Thích Trí Quang từng có liên hệ với Lê Đình Thám, một người hiện làm việc cho cộng sản ngoài Bắc. Thứ hai, năm 1954 ông có tiếp xúc với một bác sĩ cộng sản người Pháp tại Đà Lạt. Thứ ba, tất cả các thỉnh nguyện thư mà Chính phủ nhận được hiện nay đều phản ánh một cách chính xác lối suy nghĩ của Thích Trí Quang, chứng tỏ ông là người đứng sau mọi việc chứ không phải Hòa thượng Thích Tịnh Khiết.

Những lập luận này của Chính phủ rõ ràng cố gắng làm vững thêm cáo buộc của họ rằng ngay từ đầu biến cố ngày 8-5-1963 ở Huế vốn đã là một âm mưu được tính trước của Việt cộng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy là người dân cũng như giới lãnh đạo Phật giáo không ai tin vào lập luận buộc tội này, bởi chúng hoàn toàn mang tính chủ quan và thiếu chứng cứ cụ thể. Chúng ta đều biết, đạo luật 10/59 cho phép Chính phủ ông Diệm thẳng tay trừng trị bất cứ ai có dính líu đến Cộng sản và hình phạt nặng nhất có thể là tử hình. Vì thế, việc họ chấp nhận chỉ “đấu võ mồm” với Thượng tọa Thích Trí Quang đã là một chứng cứ rõ ràng cho thấy họ không có đủ căn cứ để buộc tội.

Về các vụ tự thiêu của Phật giáo, ông Bộ trưởng Ngoại giao đưa ra những lập luận của Chính phủ như sau:

- Các vụ tự thiêu vừa qua phải được xem là những vụ giết người có tổ chức bởi vì các nạn nhân tự thiêu bị cung cấp những thông tin sai lệch, rằng Chính phủ đã giết chết Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, đã giết chết Sư bà Diệu Huệ, đã dìm chết trong nước hàng trăm nhà sư, đã đốt cháy chùa Xá Lợi, và vì thế nạn nhân bị thúc bách phải tự thiêu để phản đối những hành động này.

- Về trường hợp tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức, ông Bộ trưởng được báo trước một tuần và đã muốn ngăn chặn. Ông Bộ trưởng tiếp tục dựng lên những mô tả hoàn toàn vô căn cứ về một diễn tiến mà ông cũng thừa nhận là Chính phủ không biết gì lúc xảy ra. Dù vậy, ông Bộ trưởng đã kể giống như tận mắt chứng kiến: “Ông sư không tự đi mà được trợ giúp bởi hai ông sư khác, họ xốc nách ông đưa đi. Trông ông ấy như say thuốc. Mấy ông sư kia tưới xăng lên người ông ta.” Chưa hết, ngoài những chi tiết tô vẽ không biết do ai kể lại, ông Bộ trưởng còn thêm vào những suy diễn của mình: “Nạn nhân lấy ra một cái bật lửa để tự châm lửa, nhưng bật lửa không cháy. Một trong hai ông sư kia đánh một que diêm và đốt lửa bùng lên. Tại sao cái bật lửa không cháy? Đây là điều chúng ta phải tự đặt nghi vấn. Phải chăng ông sư đã lấy đá lửa ra trước đó?”

Với cách nhìn nhận về việc tự thiêu của chư tăng ni như thế, chúng ta có thể dễ dàng hiểu được vì sao việc thương thảo giữa Phật giáo với Chính phủ không đi đến kết quả. Chỉ có điều đáng nói là, qua sự ghi nhận của rất nhiều nhân chứng trong cũng như ngoài nước, thì những gì mà Chính phủ nhận hiểu, hay cố ý nhận hiểu, đều hoàn toàn không đúng với sự thật. Bởi vì cuộc tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức có hàng trăm người trực tiếp chứng kiến nên sự thật không khó tìm hiểu. Ngoài ra, cũng không thấy chính phủ có nỗ lực nào tìm hiểu thêm cuộc tự thiêu nầy thông qua hai thông tín viên quốc tế có mặt tại hiện trường là Malcolm Browne của Associated Press và David Hamberstam của New York Times.

3. Tiếp nhận và xử lý cáo buộc bằng văn bản

Mặc dù hoạt động chính của Phái đoàn được diễn ra cụ thể qua chuyến đi điều tra tại Việt Nam, nhưng các nguồn thông tin thu thập được rất đa dạng, không chỉ giới hạn trong phạm vi thu thập tại Việt Nam. Bức tranh đa dạng này sẽ cho chúng ta thấy rõ sự quan tâm của rất nhiều người đến các sự kiện bất ổn tại miền Nam Việt Nam vào lúc đó.

Trong suốt thời gian hoạt động, bên cạnh việc trực tiếp thu thập thông tin từ những người được phỏng vấn, Phái đoàn điều tra cũng nhận được cả thảy 116 nguồn thông tin bằng văn bản. Trong số này, có 49 văn bản cáo buộc nhận được tại Việt Nam trong thời gian điều tra. 67 văn bản còn lại đã được gửi đến Trụ sở Liên Hiệp Quốc tại New York. Trong số 67 văn bản này, có 24 được gửi từ Việt Nam, ngoài ra là được gửi từ các quốc gia khác, cụ thể là: Hoa Kỳ: 16, Ấn Độ: 6, Nhật Bản: 5, Belgium: 3, Ceylon: 3; và Anh, Úc, Canada, Tiệp Khắc, Pháp, Đức, Malaysia, Nepal, New Zealand, Venezuela, mỗi nước đều có 1 văn bản.

Trong số 49 văn bản cáo buộc nhận được tại Việt Nam, có cáo buộc cho biết người gửi đã cố đến gặp nhưng “anh ta đã bị ngăn cản không cho tiếp xúc với các thành viên của Phái đoàn” . Hai trường hợp khác, người gửi “nhấn mạnh những khó khăn trong việc đến gặp Phái đoàn”

Toàn bộ 116 văn bản đều đã được Phái đoàn xem xét, phân tích kỹ về nội dung và hệ thống hóa thành các nhóm như sau:

CÁO BUỘC VỀ NHỮNG SỰ KIỆN TRƯỚC NGÀY 8-5-1963:

a. Dụ số 10 ban hành từ năm 1950 (vẫn còn hiệu lực) cho phép Chính phủ áp dụng theo cách thiên vị, dành nhiều ưu đãi cho Thiên Chúa giáo trong khi siết chặt và gây nhiều khó khăn cho các hoạt động tín ngưỡng của Phật giáo. “Cộng đồng Phật giáo phải xin phép Chính quyền khi tổ chức các buổi lễ, trong khi Thiên Chúa giáo thì không chịu ảnh hưởng quy định đó.” Thiên Chúa giáo có nhiều ngày lễ được công nhận chính thức hơn. “Nhiều vấn đề hôn nhân gia đình đang dần dần được luật hóa theo hướng gần với Thiên Chúa giáo và đi ngược với tập tục, niềm tin của người Phật tử”

c. Các ngày lễ của Thiên chúa giáo được tổ chức lớn, “cờ Vatican tung bay khắp nơi, tất cả các viên chức Chính phủ, ngay cả những người không theo Thiên Chúa giáo cũng bị buộc phải đến tham dự. Ngược lại, các ngày lễ Phật giáo tổ chức ở nơi công cộng luôn bị hạn chế và quấy nhiễu bằng đủ mọi cách.” Năm 1957, Chính phủ đã cố “loại bỏ lễ Phật đản ra khỏi các ngày lễ chính thức” . Mặc dù từ năm 1954 đến nay có nhiều chùa được xây mới hoặc tu sửa, nhưng tất cả đều “là nỗ lực của tín đồ Phật giáo, không có bất kỳ trợ giúp đáng kể nào của Chính phủ”

d. Từ tháng 10-1960, chủ yếu tại các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên, Bình Định, các quan chức Chính quyền địa phương đã “cố ép buộc một số tín đồ Phật giáo cải đạo theo Thiên Chúa giáo bằng cách đe dọa đưa vào các trại cải huấn, hoặc trở thành đối tượng bị cưỡng bức lao động vì nghi ngờ là theo cộng sản” ). Đối với những người đã bị đưa vào trại cải huấn, họ dụ dỗ “bằng cách hứa sẽ được tha sớm nếu chịu cải đạo” , hoặc bằng cách “đe dọa sẽ gây khó khăn cho gia đình họ”Những Phật tử chống lại bị bắt buộc phải giao nộp thẻ căn cước cho Chính quyền, một số khác bị ép buộc di cư đi nơi khác. . Một số trường hợp tồi tệ hơn, những người Phật tử “bị bắt cóc, bị giam giữ, tra tấn, và có một trường hợp ở tỉnh Quảng Ngãi được kể lại là đã bị chôn sống.” Nhiều lãnh đạo Phật giáo bị bắt và sau đó không ai biết họ ở đâu. Một vị sư ở tỉnh Phú Yên phản đối rất mạnh mẽ và đã bị sát hại. Với sự áp đặt các biện pháp như thế, kết quả là “trong giai đoạn 1956-1963, có đến 208.000 người bị buộc phải cải đạo theo Thiên Chúa giáo” , trong khi “trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa vào năm 1954 chỉ có tổng cộng 450.000 người theo Thiên Chúa giáo”

CÁO BUỘC VỀ NHỮNG SỰ KIỆN VÀO CÁC NGÀY 6, 7 VÀ 8-5-1963

- Nguyên nhân ban đầu của các vụ phản đối được cho là bắt nguồn từ Công điện số 9195 ngày 6-3-1963 của Tổng Thống, nghiêm cấm việc treo cờ và các biểu tượng tôn giáo. Mặc dù chỉ thị nêu việc nghiêm cấm đối với các tôn giáo nói chung, nhưng việc ban hành ngay trước ngày Phật đản có ý nghĩa rõ ràng là nhắm vào Phật giáo.

- Thông tin phù hợp trong tất cả các văn bản nhận được là vào sáng ngày 8-5-1963 có một số biểu ngữ phản đối các hạn chế áp đặt đối với Phật giáo và Thượng tọa Thích Trí Quang đã có bài diễn văn được ghi âm nêu rõ sự phản đối này cũng như bày tỏ những nguyện vọng, yêu cầu hợp pháp. Chính quyền đã từ chối việc phát sóng bài diễn văn này vào buổi tối như thông lệ hằng năm. Đám đông đã tụ tập khi biết được điều này. Chính quyền đã sử dụng vòi rồng phun nước nhưng không giải tán được đám đông. Sau đó là súng máy, lựu đạn và xe tăng được dùng đến.

- Xe tăng của quân đội đã cán trực tiếp lên người dân gây thảm sát. “Bác sĩ Lê Khắc Quyến của bệnh viện Huế được yêu cầu ký giấy xác nhận sai lệch là nạn nhân chết do chất nổ plastic của Việt cộng. Ông này từ chối không chịu ký và đã bị bắt giam.”
.
CÁO BUỘC VỀ GIAI ĐOẠN TỪ THÁNG 5 ĐẾN THÁNG 9 NĂM 1963

- Từ ngày 8-5 đến ngày ra Thông cáo chung 16-6-1963: Rất nhiều cuộc biểu tình phản đối ôn hòa của Tăng Ni Phật tử đã diễn ra ở Sài Gòn, Huế và nhiều địa phương khác, và đã bị đàn áp nghiêm trọng bởi cảnh sát và quân đội, nhiều ngôi chùa bị phong tỏa bằng dây kẽm gai bao quanh, nhiều tín đồ Phật giáo bị ngăn cản không được đến chùa. Rất nhiều Phật tử bị bắt giam chỉ vì đã ủng hộ Tuyên bố ngày 10 tháng 5 của Phật giáo đòi hỏi thực thi 5 nguyện vọng bình đẳng tôn giáo. Các lãnh đạo Phật giáo đã hết sức nỗ lực để kêu gọi sự kiềm chế của đám đông.

- Từ ngày 16-6 đến cuộc tấn công các chùa đêm 20-8-1963: Chính phủ không hề thực thi các điểm nêu trong Thông cáo chung mà họ đã thỏa thuận với các lãnh đạo Phật giáo. Chính phủ còn phát động một chiến dịch rộng khắp để thuyết phục người dân rằng phong trào đấu tranh của Phật giáo là do cộng sản kích động. Nhiều người ở các địa phương khác nhau đã bị buộc phải tham gia chống lại Phật giáo. Các quy định khắt khe trong Dụ số 10 vẫn tiếp tục được áp dụng nhắm vào Phật giáo. Việc treo cờ Phật giáo vẫn chỉ được chấp nhận duy nhất trong phạm vi các chùa và không được treo ở những nơi khác. Các vị tăng sĩ bị hạn chế việc đi lại. Nhiều Phật tử bị bắt trước đó vẫn chưa được thả ra, một số khác trước khi được thả ra đã bị buộc phải ký tên vào một số giấy tờ do nhà cầm quyền viết sẵn nội dung. Ngày 17-7-1963, một cuộc biểu tình ôn hòa của Tăng ni Phật tử diễn ra trước chùa Xá Lợi đã bị đàn áp thô bạo, rất nhiều người bị bắt trong đó có cả phụ nữ và trẻ em.

- Cuộc tấn công các chùa đêm 20-8-1963 và sau đó: Hầu hết các vị lãnh đạo Phật giáo, trừ Thượng tọa Thích Trí Quang, đều bị bắt trong trận tấn công này hoặc ngay sau đó. Có ít nhất 2 vị sư bị giết tại Sài Gòn trong đêm đó và 2 vị sư khác cũng bị giết tại Huế. Nhiều lãnh đạo Phật giáo đã bị đánh đập, tra tấn. Một số vị sư được thả ra sau đó nhưng bị quản thúc trong phạm vi chùa và bị người của Chính phủ canh gác. Rất nhiều Kinh sách, pháp khí, tượng thờ cùng tiền bạc, vật dụng của nhà chùa bị đập phá hoặc cướp mang đi. Những cuộc biểu tình của sinh viên bắt đầu trong tháng 7 và phát triển mạnh mẽ nhất vào tháng 8, đã bị đàn áp rất thô bạo. Có khoảng 3.000 sinh viên đã bị bắt. Một số trong đó bị đánh đập, tra tấn và bị giam giữ ở những nơi rất tồi tệ. Vào thời điểm Phái đoàn đến Việt Nam, vẫn còn khoảng 2.000 sinh viên đang bị giam giữ. Các sinh viên cho biết có một số sinh viên Thiên Chúa giáo cũng bị bắt nhưng họ được thả ra dễ dàng và được yêu cầu hợp tác với cảnh sát. Một số bản cáo buộc nói rằng Chính phủ đã ngăn cản khiến cho người dân không thể đến gặp Phái đoàn và cảnh báo việc có thể có nhiều thông tin sai lệch được gửi đến nhằm đánh lạc hướng điều tra của Phái đoàn. Một số cáo buộc khẳng định rằng ngay trong thời gian Phái đoàn đang ở Việt Nam vẫn xảy ra những vụ bắt bớ sinh viên đấu tranh được thực hiện vào ban đêm.

Thứ Tư, 25 tháng 10, 2017

Con người là gì ? Một câu hỏi vô nghĩa







Nói "con người là thế này hay thế nọ" là một thái độ "phi nhân" ...

§§§§§§§§§§§§§

Câu hỏi "con người là gì ?" trong bản chất không khác tảng đá là gì, cây soài là gì và con chó là gì ? Suy đến tận cùng, thì câu hỏi ấy không có câu trả lời. Chúng ta chỉ tiếp cận sự vật theo nhiều khía cạnh mà không bao giờ đạt được đến sự hiểu biết trọn vẹn về nó. Bất quá, chúng ta có thể hình dung được cái nó "không là". Và từ cái "không là" này sang cài "không là" khác, hy vọng đến gần cái "nó là" (phủ định và phủ định của phủ định ...).

Con người được tách biệt khỏi sự vật trong thiên nhiên, ở một điểm quan trọng : anh "là" những gì anh "làm", là hành vi của anh. Đành rằng anh bị quy định, bởi các genes, bởi môi trường xã hội, tâm lý, thiên nhiên v.v..., nhưng bên cạnh sự quy định ấy anh có thể chọn cái anh là. Hệ thống quy định tuy chặt chẽ, nhưng vẫn dành cho anh một khoảng trống, một khoảng Hư Vô, trong đó anh có thể quyết định sự trở thành của mình.

Điều này đưa đến hai hệ luận :

1) Không thể biết "Con Người là gì", khi chưa xác định muốn nói đến con người nào (địa chỉ, số điện thoại, E Mail, số thẻ "chứng minh nhân dân", v.v...), và vào lúc nào đặt câu hỏi ấy, vì cái "tôi là", chính là một sự trở thành liên tục, có thể thay đổi trong thời gian.

2) Làm sao biết được có sự hiện hữu của khoảng hư vô vừa được nói ? Có thể đó chỉ là một niềm tin ? Tựu trung, tin vào Thiên Chúa thì khác gì tin vào một khoảng hư vô, vì chẳng ai biết Thiên Chúa ra sao cả, nên cái khoảng trống để mình hình dung Thiên Chúa cũng có thể là một khoảng hư vô trong đó mình đặt vào hình ảnh của chính mình ...

Dù sao, điều quan trọng cần lưu ý là : nói "con người là thế này hay thế nọ" là một thái độ "phi nhân", vì nó gán cho mọi người một hình ảnh cố định, một cách giáo điều, độc đoán. Tức là nó hạn chế con người trong một số quy định (kiểu như "con người là con vật đi hai chân không có lông vũ" - a biped without feather), và từ chối không cho con người được Tự Do quyết định sự trở thành của mình, vào mỗi giây phút.

Thái độ ngược lại, thì là một thái độ Nhân Bản, trong đó con người tách khỏi thiên nhiên qua khả năng Tự Do quyết định cái "mình là" vào mỗi thời điểm. Tảng đá, cây soài, con chó, không có sự tự do ấy.

Khi nó hành sử quyền tự do, thì một con người có thể làm những điều mà bạn không đồng ý, thậm chí chống lại, hay lên án ... nhưng điều ấy không có nghĩa là phải tước đoạt sự tự do của nó, nhân danh một xã hội trật tự, an bình ... theo ý bạn, và đem con người kia vào quy chế tương đương với con chó, hay cây soài ...

(Tranh minh họa : Picasso)

Nguyễn Hoài Vân

AI BUÔNG TIẾNG GỌI GIỮA ĐỜI THIẾT THA?




Nguyễn Xuân Chiến



I.- TIẾNG GỌI LÀ GÌ?



a).- Năm 1913, lúc đó Mohandas Gandhi, vừa mới 44 tuổi, từng bị bắt, bị đánhđập đến đổ máu và bị bỏ tù nhưng vẫn nhất định tranh đấu đến cùng. Trong hơn 7 năm gian khổ, Gandhi đã vào tù ra khám nhiều lần. Lần này, người vợ Gandhi là bà Kasturbai được phép vào ngục thăm viếng. Trông bà có vẻ già hơn ông nhiều đến nỗi những người mới gặp lần đầu cứ ngỡ đây là người mẹ của Gandhi!

Thấy ông Gandhi gầy còm, trơ xương với da, bà xúc động quá, nói:

- Anh ơi, nhìn anh, em chịu không nổi. Sao thế anh? Họ còn tiếp tục hay chăng và anh còn đeo đuổi con đường này hay chăng?

Mặc dù cơ thể chưa hồi phục, Gandhi ung dung trả lời:

- Chính quyền Anh Quốc đại diện cho quyền lực của vô minh, dĩ nhiên họ còn tiếp tục mãi mãi. Bàn tay sắt máu của bạo lực, ngu dốt sẽ tồn tại trường kỳ. Họ không thể dừng lại!

Bà Kasturbai hỏi:

- Còn anh, anh có thể dừng lại không?

Gandhi rất yếu, nhưng vẫn ráng cười với vợ:

- Anh ư? Anh cũng không thể dừng lại, dù sẽ chết bởi đánh đập và bỏ đói. Vì sao ư? Em à, hãy nghe đây, Anh là đại diện cho tiếng gọi của Chân lý và Con người. Không bao giờ dừng bước, đầu hàng, bởi vì Chân lý và Con người luôn luôn có sức mạnh bất biến.

Và Gandhi đã hành động theo tiếng gọi của Chân lý và Con người. Hay nói đúng hơn, tiếng gọi Chân lývà Con người đã cất lên trong lòng Gandhi, đồng nghĩa với “Sau rốt, Chân lý và Con người sẽ phải thắng”.

Nhờ vậy, người ta thường trân trọng gọi ông là Mahatma Gandhi. “Gandhi, bậc đại nhân”. Một người đã chấp nhận sống chết trọn vẹn, trong Tiếng gọi của Chân lý và Con người.



b).- George Washington (1732 - 1799) là nhà lãnh đạo chính trị và quân sự có ảnh hưởng lớn đối với quốc gia non trẻ Hoa Kỳ từ năm 1775 đến năm 1799. Ông đã lãnh đạo người Mỹ chiến thắng Vương quốc Anh trong cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ với tư cách là tổng tư lệnh Lục quân Lục địa năm 1775–1783, và ông cũng đã trông coi việc viết ra HIẾN PHÁP HOA KỲ năm 1787. Ông hiện nay được biết như vị cha già của nước Mỹ.

Có lần cuộc chiến đấu với quân đội Hoàng gia Anh chưa ngã ngũ, phe của quốc gia non trẻ Hoa Kỳ có vài người nẩy ý định buông súng, nhưng George Washington nói với các tướng lãnh:

“Nếu đầu hàng phen này thì vĩnh viễn chúng ta không cất đầu lên được. Không! Phải tiếp tục chiến đấu. Tiếng gọi của đất nước Hoa Kỳ đang vang vọng ở trong tôi!”

Và George Washington đã sống theo Tiếng gọi của đất nước Hoa Kỳ, và cùng mọi người hình thành nên một quốc gia thịnh vượng, tự do, dân chủ.






* * *

“Tiếng gọi”, ngươi là ai? ngươi là cái chi? Mà ngươi có sức mạnh và ảnh hưởng ghê gớm đến thế?

“Tiếng gọi” đã vạch lối chỉ đường cho biết bao anh hùng, hào kiệt, đã định hình một phong cách sốngdũng cảm kiên cường, và làm trưởng thành biết bao số phận. Có thể tiếng gọi giúp chúng ta hoài bão đại chí và giúp chúng ta vượt qua bao thử thách để rồi ngẩng cao đầu trở nên bất khuất. “Tiếng gọi” đã làm cho Chân lý và Con người trở nên sắt son, tươi xanh như vĩnh cửu, hòa điệu cùng vũ trụ không lời.

Tiếng gọi?



II.- NHữNG TIẾNG GỌI Ở TRONG TA

Chúng ta thực sự chỉ sống theo những tiếng gọi trong ta. Chấm hết.

Thuở thanh niên, các bạn đang ở trong giai đoạn khí huyết phương cương, tâm hồn rất mãnh liệt, chỉ nghe theo tiếng gọi tình yêu mà thôi, và bạn đang yêu. Yêu chết bỏ. Yêu cuồng si, và không có sức mạnh nào có thể ngăn trở.

Nhưng mười năm kế tiếp, bạn lập gia đình và chuyên chú kinh doanh lớn nhỏ. Lúc này, bạn chỉ biết nghe theo tiếng gọi của sự nghiệp, công danh, tiền bạc, vân vân.

Lúc trung niên, bạn bắt đầu mỏi mệt, hơi chán chường thế sự, bây giờ lại trổi lên tiếng gọi của bạn bè, rượu chè, ăn chơi… không màng tới những tiếng gọi khác! Nhưng cũng có những người thao thức tâm linh thì lắng nghe tiếng gọi giải thoát, của thức tỉnh, của tình thương xả kỷ, và bắt đầu tìm cầu thiện tri thức để học hỏi và hành trì. Lúc này đây, các tiếng gọi khác vẫn còn hiện hữu nhưng hiện hữucho những người khác, chứ không phải cho bản thân mình.

Thật vậy, giữa cuộc sống bình thường chúng ta luôn luôn bị chi phối bởi vô số tiếng gọi, vô số âm thanhđang bàng bạc khắp mọi nơi trong vũ trụ. Tại lòng ta, tâm ta luôn dày đặc, lổn chổn những tiếng gọi – đương nhiên tiếng gọi nào cường liệt nhất sẽ hướng dẫn và điều động cuộc đời ta. Thế thôi!

Giáo lý nhà Phật tạm chia ra mười thứ tiếng gọi (ở ngay trong tâm chúng ta) như sau:

1.- Tiếng gọi của Phật: còn gọi là Phật Âm, Sư tử Hống Âm, Đại Vân Lôi Âm, Vô Lậu Âm, Pháp ThânViên Mãn Âm... gồm đủ tám đặc tánh:

a. Cực hảo âm: tức là tiếng tối thắng bậc nhất trên đời.

b. Nhu nhuyến âm: tiếng dịu dàng, êm đềm, tha thiết.

c. Hòa thích âm: tiếng gọi hòa thuận, dễ nghe, dễ rung cảm.

d. Tôn huệ âm: tiếng gọi khiến chúng sanh phát khởi lòng tự tín và mở bày trí tuệ

e. Bất nữ âm: tiếng gọi dũng mãnh, hùng hồn của đấng trượng phu.

f. Bất ngộ âm: tiếng gọi chắc thật, dứt khoát, rõ nét, nghe chẳng lẫm lẫn, lộn xộn.

g. Thâm viễn âm: tiếng gọi sâu thẳm, vang vọng, gần hay xa đều nghe rõ.

h. Bất kiệt âm: tiếng gọi bền bỉ, vĩnh cửu, không dứt bặt. Mãi mãi ở trong ta, không bao giờ bị thời gian và không gian làm cho hư hoại.

Tiếng gọi của Phật, bậc giác ngộ, lúc nào cũng tương ứng với tâm toàn giác, chánh biến tri, đại biđại trí tuệ, vô lượng vô biên công đức của tam thân, tứ trí, ngũ nhãn, lục thông, tứ vô úy, thập lực, thập bát bất cọng...

2.- Tiếng gọi của Bồ-tát: còn gọi là Diệu Âm, Quán Thế Âm, Phạm Âm, Hải Triều Âm, tiếng gọi bố thí ba la mật, tiếng gọi trí tuệ vượt bờ, tiếng gọi thiền định đưa ta sang tận mé bờ kia, tiếng gọi trì giới qua khỏi bờ mê… v.v...

Tiếng gọi của Bồ-tát lúc nào cũng tương ứng với mười hạnh nguyện vĩ đại của Phổ Hiền, mười hai hoằng thệ nguyện của Quán Thế Âm. Tiếng gọi của Bồ-tát chính là tiếng gọi thoát khổ, cứu khổ cứu nạn. Tiếng gọi của Bồ-tát luôn luôn ban phát sự vô úy cho chúng sanh, khiến chúng sanh cắt lìa cái Tưởng của Sợ Hãi, Dày Vò, Bức Xúc... Vì thế, kinh Pháp Hoa nói:

Diệu Âm, Quán Thế Âm

Phạm Âm, Hải Triều Âm

thắng bỉ thế gian âm

thị cố tu thường niệm ...

3.- Tiếng gọi của Thanh Văn: là tiếng gọi giải thoát của những bậc Thánh, lấy tâm vô ngã quán sát tứ diệu đế, đắc A La Hán. Đây là tiếng gọi của sự ly dục, sự từ bỏ, sự cắt lìa tham ái, tiếng gọi của Niết bàn vắng lặng.

4.- Tiếng gọi của Duyên Giác

Là tiếng gọi thanh tịnh vô vi của những bậc Thánh dùng tâm Vô Ngã quán sát thập nhị nhân duyên. Là tiếng gọi giải thoát, của những bậc thánh đã dứt trừ phiền não, đoạn tận tham sân si, xóa sạch ngã chấp, không còn lưu luyến sinh tử.

5.- Tiếng gọi của Cõi Trời

Là tiếng gọi của sự ham thích khoái lạc, dù là khoái lạc của tứ thiền, bát định cho đến khoái lạc của thiên đường cõi Dục, đều là những thứ an ổn giả tạo, hạnh phúc có điều kiện của chư thiên, chư tiên, nghĩa là những kẻ được triển hạn trầm luân. Mà lao ngục của họ dẫu được kiến tạo bằng thứ nguyên liệu vật chất có vẻ vi tế hơn, lộng lẫy hơn, nhưng cũng vẫn là kiếp sống đọa đày trong chiếc lồng son. Chúng sanh thường bị dày xéo bởi tám khổ, nên khao khát khoái lạc này rồi mê say lắng nghe, khiến trôi chìm sanh tử mãi.

6.- Tiếng gọi của Loài Người

Trong pháp giới, chỉ có Cõi Người là được chư Phật chư Bồ-tát thường xuyên vào ra thị hiện để thuyết pháp giáo hoá. Bởi lẽ loài người có đủ trí tuệ và tỉnh thức để thực hiện sự nghiệp tâm linh, có thể tiến bộ trên con đường giải thoát.

Nhưng loài người vốn bị quấy rầy bởi tình yêu (ái), của khát vọng (dục), và cho nên tiếng gọi của loài người cũng là tiếng gọi của thị phi, nhân ngã, bỉ thử (phân biệt trí). Đôi khi còn là tiếng gọi của tám khổ. Nhưng, trong phiền não khốn khổ ấy không loại trừ Nhân Tính, và Phật Tánh, khuynh hướng làm cho con người giải thoát, hoặc đạt đến niết-bàn và cứu độ chúng sanh.

7.- Tiếng gọi của A tu la

Là tiếng gọi của sự tranh đấu, hơn thua, của lòng kiêu mạn, sân hận. Nghĩa là tiếng gọi của những kẻ làm việc thiện với ngã chấp kiên cố sâu dày. Đó là tiếng gọi của siêu nhân, anh hùng hào kiệt, tiếng gọi chọc trời khuấy nước vì tràn đầy những âm thanh gậy gộc giáo mác. Tiếng gọi khiến kẻ khác nuốt lệ căm hờn, vì chứa đựng âm thanh giết chóc, náo loạn, ghê gớm của bom hạch tâm, của quyền lực thống trị.

8.- Tiếng gọi của Quỷ Đói

Là tiếng gọi của sự thèm khát mà không được thỏa mãn, của sự thiếu thốn mà không được đáp ứng. Hừng hực. Bực bội. Ấm ức. Tiếng gọi của lòng tham được phát triển quá độ hóa thành sư bỏn sẻn, ích kỷ. Tiếng gọi của những linh hồn co ro cô độc, không ai quan tâm, chẳng ai cúng kiến, hoặc của loài dã quỷ lẩn thẩn nơi chốn hoang dã mịt mù.

9.-Tiếng gọi của súc vật, thú vật

Là tiếng gọi của sự sướng khổ vì cảm giác nhục dục, của "con lợn lòng", của những khoái lạc nhầy nhụa, trâng tráo, dơ bẩn, u mê. Đây là tiếng gọi của loài bốn chân, hai cánh, bẩm tánh ngu si, nếp sống tồi tàn, hôi hám, trần truồng ... như tiếng khọt khẹt của khỉ, be be của dê, à uôm của hổ báo, gâu gâu của chó, meo meo của mèo. Trong tiếng gọi của súc vật, ta thường cảm nhận chúng nó luôn luôn rên rỉ, ngậm hờn, u uất, sợ hãi, đó là những âm thanh bế tắc, tuyệt vọng, nghẹn tức trong yết hầu mà nói không ra được.

10.- Tiếng gọi của Địa Ngục

Là tiếng gọi của sự tối tăm, mù lòa, của vô minh hoàn toàn. Đây là tiếng gọi thảm thiết, khốc liệt nhất của thế gian, là thứ âm thanh phát xuất từ lao tù, hình phạt, dụng cụ hành quyết, tra tấn.

Tiếng gọi của địa ngục còn là Tiếng gọi của tàn nhẫn, dửng dưng, lạnh nhạt. Tiếng gọi của lòng vô cảm, của máy móc, của chiến tranh bấm nút, của sản xuất dây chuyền, của sức mạnh tập thể.

Tóm lại, tiếng gọi của địa ngục là những âm thanh thuần khổ, âm thanh cảm ứng với mười điều cực ác, những tư tưởng ngăn che sự sáng, những ý niệm chống báng đạo lý như thực, rời xa chánh pháp.



III.- TIẾNG GỌI NÀO THIẾT THA?



Năng lực của Tâm thì thường có tác dụng như một Tiếng Gọi. Tiếng Gọi là tên khác năng lực tâm. Nói nôm na vắn tắt, Tiếng gọi là sức mạnh của Tâm. Nó thôi thúc, giục giã chúng ta phải làm một cái gì. Nó hướng dẫn chúng ta nên đi về đâu, quay theo đường hướng nào. Nếu chúng ta bị vấp váp, té xiêu lật ngửa thì tiếng gọi sẵn sàng nâng đỡ ta dậy. Chúng ta có khi sợ hãi tính đường thối lui thì tiếng gọitrong ta sẽ vỗ về, an ủi, khiến chúng ta yên lòng vững chân tiến tới.




Có khi nào Tiếng gọi tỏ ra bế tắc, chùn bước không?

Khi con người trở nên lững thững, sống nhạt thếch, sống chẳng ra hồn – thì khi ấy tiếng gọi trở nên “câm nín”, “dứt bặt”.

* * *

Kể chuyện thực để nghe chơi:

Tôi biết một cô gái Hà Nội tuổi mới hai mươi ba. Sinh trưởng trong gia đình khá giả, quyền thế. Cha mẹ chỉ có hai gái. Người chị là bác sĩ nội trú, cô ta là em út, cũng vừa tốt nghiệp ngoại thương, nên được chiều chuộng rất mực. Cha mẹ dùng quyền và cả tiền bạc để kiếm cho một chỗ làm tốt, lương cao. Nhưng, cô ta có vẻ không màng đến, đi làm mấy hôm bèn xin nghỉ việc ngang xương. Gia đình lại chạy vạy một chỗ làm khác ngon lành hơn, nhưng cô vẫn không chịu vâng theo. Rồi không biết bao nhiêu lá áp lực, dọa nạt, khuyên nhủ, vỗ về… cô ta chịu miến cưỡng đi làm, nhưng chỉ nửa tháng lại bỏ việc. Chỉ nói: Chán lắm! Vớ vẩn!

Cả gia đình đều cực kỳ lo lắng, ngại cô ta bị bệnh thần kinh. Đưa đến bệnh viện tâm thần và khám kỹ lưỡng. Một vị bác sĩ lớn tuổi khám xong, nói với hai bậc sinh thành rằng: “Bình thường. Có thể chưa có người yêu nên cô bức xúc mà không biết giãi bày với ai. Có thể, nỗi cô đơn vì thiếu bạn hoặc người tình làm cô ta trở nên “lờ khờ, dở hơi” như vậy!”. Thói đời, cha mẹ nào mà không cưng chiều con cái hết mức, hỏi:

- Hay là… bố mẹ kiếm cho con một người yêu?

- Vớ vẩn!

Rồi bố mẹ đem cô ta đến bệnh viện Đông Y. Sau khi vọng, văn, vấn, thiết và chẩn trị bằng máy móc tối tân của Trung Y, các thầy thuốc Tàu đành thúc thủ, tìm không ra bệnh trạng.

- Cứ cho cô ta đi du lịch một thời gian để giải tỏa ức chế, may chăng?

Gia đình bèn mua vé máy bay cho cô ta vào Saigon, vui chơi thoải mái - tiếp theo là đi Huế, Đà Nẵng, dự tính phải một tháng. Té ra, chưa đầy tuần lẽ sau cô ta đã mò về nhà. Cô ta nhếch môi: “Saigon thì ô nhiễm, bụi bặm đầy. Đà Nẵng thì cũng không khác gì. Huế loanh quanh lẩn quẩn mấy cái mồ mã các ông vua đã chết lâu đời, và thành quách, cung điện bé tí như đồ chơi bọn trẻ. Sông Hương thì như cái ao làng. Không cần đi đâu cả! Vớ vẩn!”

Hoàn toàn tuyệt vọng. Một giải pháp đều “Vớ vẩn”!

Gia đình không biết làm gì hơn là để mặc cô ta, phó thác cho trời đất. Làm chi bây giờ?

Bế tắc.

Từ đó đến nay, cô ta buổi sáng điểm tâm xong, cô ta chưng diện đàng hoàng, rồi tha thẩn đi loanh quanh các công viên, các khu giải trí công cọng như Hồ Gươm, hồ Bảy mẫu, hồ Thiền Quang, hồ Ba mẫu… rồi lững thững về nhà. Đọc sách qua loa. Chiều lại tiếp tục như thế. Bố mẹ mướn người theo dõixem cô ta có hẹn hò bí mật với ai không? Kết quả: Không có ai cả. Cô ta luôn luôn lững thững đi một mình và cũng lững thững về một mình. Công cốc!

* * *

Có thể xem như “tiếng gọi ở trong cô ta chưa định hình”, nghĩa là cô ta chưa tha thiết một tiếng gọi nào - dĩ nhiên là còn mờ nhạt nên cô ta không dám sống theo một tiếng gọi duy nhất. Một khi tiếng gọi nào đó đủ mạnh thì cô ta đã dũng cảm sống theo nó. Chỉ dám đi tửng tửng cả ngày như vậy mặc dù không hề biết để làm chi?

Phải chăng, trong vài kiếp sống vừa qua, cô ta tuy có thao thức ít nhiều, nhưng hời hợt và không dám sống thật với cái bên trong của mình. Lười biếng phản kháng, vẫn còn ưa tuân phục những sức mạnh bên ngoài. Thiếu dứt khoát, kém nồng nhiệt, có cơ hội không dám nắm bắt, chông chênh giữa hai cực đoan. Chính vì vậy, cô ta ru mình trong một “Trạng thái lừng khừng” dĩ nhiên là không rõ nét, làm việc chi cũng lở dở lương ương.

Rồi đời sống qua mau, đến khi chuyển kiếp cô ta phải mang hành trang “lừng khừng” tới kiếp sống mới, nhưng lòng cô ta thì vẫn như xưa, vẫn lừng khừng như cũ. Và không một ai có thể thay đổi cái bản chất lừng khừng ấy cả. Trừ phi, cô ta phải chuyển hóa tư tưởng và cả đời sống bên trong.

Tiếng gọi, ngươi ở đâu? Gần hay xa?



* * *

Trước khi tiếng gọi thực sự cất lên cùng chúng ta, thì chúng ta vẫn sống bình thường, vì Tiếng gọi còn câm nín, chưa ra tay hành động, chưa buông những âm thanh tha thiết. Như Paul Gauguin chẳng hạn.

Từ cái thế giới chật chội của một nhân viên bưu điện, chàng Paul Gauguin đã ngoài bốn mươi tuổi, tầm thường, nhàn nhạt, thậm chí hơi…cù lần, lố bịch. Đột nhiên một ngày kia anh biến mất: anh cả gan bỏ nhà đi Paris. Và thiên hạ, dĩ nhiên, kháo nhau cho là anh bỏ vợ con đi theo một cô nàng nào đó. Người đại diện được gia đình nhờ tới Paris để tìm.

Khi người đại diện gia đình gặp Gauguin ở trong căn nhà trọ tồi tàn ở Paris thì, dĩ nhiên, trước hết ông phát hiện Paul Gauguin đang sống… một mình, chẳng có cô nàng nào cả.

Paul Gauguin thản nhiên từ chối trở lại gia đình: con ông cũng lớn, vợ ông đủ sức tự lập, Ông tin rằng không có ông thì vợ, con ông vẫn đủ sức bươn chải một mình… Và đây là lúc ông có thể và phải sống cuộc đời của riêng ông mà ông ấp ủ từ lâu.

Paul Gauguin tuyên bố ngắn gọn:

“Tôi vẽ”. “Tôi phải vẽ”.

Anh chỉ trả lời cụt ngủn như thế với người đại diện gia đình. Bởi vì anh không quen dài dòng vô ích. Giấc mộng rất lớn của Paul Gauguin, khát vọng của anh, hay nói cách khác: Tiếng gọi tha thiết trong anh chỉ được thốt ra bằng lời ngắn gọn thế thôi. Nhưng nó sẽ được bàn tay anh, khối óc anh “nói” lên bằng những kiệt tác hội họa sau này…

Tiếng gọi của nghệ thuật! Ai dám sống theo?



IV. - TIẾN TRÌNH NHÂN – DUYÊN – QUẢ

Các câu chuyện được trích dẫn trong bài viết này, đều nói lên Tiến trình Nhân Duyên Quả của Tiếng gọi.

Tất cả vũ trụ này đều là tiến trình nhân duyên quả, thông qua ba đời, Quá khứ, Hiện tại, Vị lai - thì tiếng gọi cũng như thế!

Như thái tử Tất đạt đa từng ngàn muôn ức kiếp gieo nhân duyên giải thoát và cứu độ chúng sanh, cho nên kiếp này dẫu vua Tịnh Phạn tìm mọi cách để níu kéo, ngăn trở, nhưng cái quả là Ngài phải ra đi.

Nếu Tâm ta khuynh hướng về Tự do, Công bằng, Dân chủ, Bác ái, và suốt đời hy sinh cho những cứu cánh ấy, như luôn luôn đòi hỏi nhân quyền, chuyên đi làm từ thiện, cứu trợ những người khốn khó, hoặc viết sách khuyến khích “học làm người”, dạy dỗ và thuyết giảng về các đề mục như Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín… thì ta đã phát ra tiếng gọi của con người – dĩ nhiên đã và đang sum vầy trong cảnh sống của con người. không thể khác được.

Nếu chúng ta ưa hơn thua, ưa tranh giành địa vị trong một tầng lớp nào đó, ưa bày mưu lập đảng để tranh đấu vì một điều không bao giờ hiện hữu trên trái đất mà dẫn dụ chúng sanh xem như là chân lý(giả tạo)… tức là chúng ta tạo nghiệp nhân của A tu la, đồng nghĩa cất lên tiếng gọi A tu la, chắc hẳn chúng ta sẽ gặt quả báo của loài A tu la, chuyên tranh chấp, giành giật để rồi sống trong cảnh giới hơn thua, đấu đá nhau mãi.

Nếu chúng ta ưa những trò chơi rẻ tiền và lén lút xem những phim Sex bậy bạ, mê đắm những trò “xuống xóm mua vui”… thì chúng ta tạo một trong những nhân tố để làm loài bàng sanh, loài súc vật. Còn gọi là Tiếng gọi của súc sanh, bàng sanh.

Nếu chúng ta sống với tình yêu thương vô phân biệt, sẵn sàng nghe ai khổ sở, bức bối, bị áp chế… liền đến ngay để giúp đỡ, chia xẻ, an ủi. thì tâm ta đang sống trong tiếng gọi của Bồ-tát Quán thế âm, “năng dữ chúng sanh chi lạc, năng bạt chúng sanh chi khổ”, chuyên giải trừ tất cả mọi khổ nạn, tai ách của chúng sanh.

Nếu nhân duyên là cuộc sống chúng ta, thì cái quả là Tiếng gọi. Nếu tiếng gọi là nhân duyên thì cuộc sống chúng ta sẽ là cái quả. Bây giờ muốn phát ra Tiếng gọi nào, thì chúng ta cứ nhìn vào cuộc sống của ai đó, xem y hành xử thế nào, chí hướng đi về đâu, và công phu tu tập ra sao?



V.- CHÚNG TA PHÁT RA TIẾNG GỌI NÀO?

Nếu Tâm lúc nào cũng rung cảm theo tiếng rống uy hùng của Sư Tử Chúa tràn trề Phật lực, mang tính chất đại bi đại trí, giải thoát viên mãn, vô lượng quang, vô lượng thọ, thì đương nhiên Tâm đang ở trong cảnh giới thù diệu trang nghiêm của chư Phật, bởi vì chúng ta đang dõi theo âm thanh của Đấng Giác ngộ.

Theo lời Phật dạy trong Kinh Hoa Nghiêm, âm thanh của đức Phật tức đấng giác ngộ, có mười thứ vô lượng.

1) Âm thanh Phật như Hư Không giới vô lượng vì âm thanh ấy trải khắp mọi nơi.

2) Âm thanh Phật như Pháp Giới vô lượng, vì không chỗ nào mà âm thanh ấy chẳng khắp.

3) Âm thanh Phật như chúng sanh giới vô lượng, vì âm thanh ấy khiến tất cả tâm hoan hỷ.

4) Âm thanh Phật như các nghiệp vô lượng, vì âm thanh ấy giải thích quả báo của nghiệp.

5) Âm thanh Phật như vô lượng phiền não vì âm thanh ấy có khả năng diệt trừ mọi phiền não.

6) Âm thanh Phật như ngôn âm của chúng sanh vô lượng, vì tùy theo sự hiểu biết của chúng sanh mà làm cho nghe được.

7) Âm thanh Phật như dục giải của vô lượng chúng sanh, vì âm thanh ấy quán sát cứu độ khắp chúng sanh.

8) Âm thanh Phật như tam thế vô lượng vì âm thanh ấy vô biên tế (không có giới hạn).

9) Âm thanh Phật như trí huệ vô lượng vì âm thanh ấy phân biệt tất cả.

10) Âm thanh Phật như Phật cảnh giới vô lượng, vì âm thanh ấy nhập vào Phật pháp giới.

Như vậy, tiếng gọi của Phật chính là âm thanh của Phật, có đặc chất “vô lượng”. Gồm có mười sắc thái Vô lượng như đã nói ở trên, được chứa đựng trong Danh hiệu Phật.

Vả lại, chúng ta cũng thừa hiểu rằng: tất cả tiếng gọi của thế gian đều dẫn đến chỗ trói buộc, phiền lụyvà chìm trôi sinh tử không dứt. Vì bản chất của thế gian là vô minh do đó tiếng gọi của thế gian là tiếng gọi hoàn toàn vô minh.

Chỉ có tiếng gọi của thánh nhân là mang nhiều đặc chất minh triết, hạnh phúc, bẻ gãy xiềng xích ngũ dục, là khô cạn biển khổ vô minh.

Nhưng duy chỉ có tiếng gọi của Phật là bậc nhất, là rốt ráo, là giải thoát tròn đầy, khắp đến tất cả, vang vọng mười phương pháp giới, không bị chướng ngại, không bị biến đổi, sinh diệt. Vì sao?

Vì tiếng gọi của Phật chính là danh hiệu Phật. Danh hiệu Phật chính là Đức Phật, với đầy đủ vô lượng vô biên đức tướng và năng lực Như Lai Chánh Đẳng Chánh Giác.

Kinh Hoa Nghiêm nói tiếp:

".... Nếu có những chúng sanh

chưa phát tâm bồ đề

được nghe danh hiệu Phật

quyết định thành chánh giác…”



Nhưng, làm thế nào để được “thường xuyên nghe Danh Hiệu Phật”? làm thế nào để mãi mãi “tiếp nhận Tiếng Gọi của Như Lai”?

Muốn tiếp nhận Tiếng Gọi của Như Lai, thì không chi hơn là xướng niệm danh hiệu Đấng Giác Ngộ. Hay là cất lên âm thanh tràn đầy Phật lực, âm thanh của Vô lượng thọ, âm thanh của Vô lượngquang…

Giáo sư, thi sĩ Phạm Công Thiện cũng đã viết trong cuốn Những Bước Chân Nhẹ Nhàng Trở VềSự Im Lặng:

… sau cùng chỉ cần niệm Phật thôi, chẳng cần vãng sinh Cực Lạc gì cả, lúc ấy Tha Lực đột nhiên chuyển hóa thành Vô Lực; Vô Lực chuyển thành Diệu Lực của Không Tính, và tất cả mọi Ý Lực đã được hủy diệt, và tiếng “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT” “Namo Amitàbhàya Buddhàya” trở thành tiếng kêu của kẻ Giác Ngộ, …



Tiếng kêu của kẻ Giác Ngộ?

Hay:

Ai buông Tiếng gọi giữa đời thiết tha?



Nam mô A di đà Phật

Nam mô A di đà Phật

Nam mô A di đà Phật…

TA ĐI ĐỂ LẠI GÌ KHÔNG?



Vĩnh Hảo





Thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã mở đầu bài thơ Nguyện Cầu (1) bằng câu hỏi ấy. Hỏi mà không hỏi; vì trong câu hỏi đã hàm ý trả lời: ta đi không để lại gì.


Vì sao? – Vì núi sông còn lở, còn bồi, thì một thân bé nhỏ nầy có chi bền chắc mà lưu lại với đời.


“Ta đi để lại gì không?
Kìa non đá lở, này sông cát bồi.”


Thân nầy chẳng qua cũng chỉ được trăm năm. Thân không bền, vậy danh bền chăng? – Danh là cái trừu tượng, không có hình tướng, hẳn nhiên là có thể bền hơn thân. Nhưng nếu sống ở đời mà không làm nên công danh sự nghiệp gì như lập ngôn của Nguyễn Công Trứ “Đã mang tiếng ở trong trời đất / Phải có danh gì với núi sông” (2) thì dù đã có cái tên cha mẹ đặt cho, danh nầy cũng chỉ là cái tên bình thường như bao nhiêu người khác: vô danh; và cái thân vô danh cũng sẽ lặng lẽ đi qua cuộc đời trong vòng trăm năm, rồi để lại một nhúm tro, một nấm mồ, danh còn chăng thì còn trên bia mộ dãi nắng phơi sương trong nghĩa trang.


Đến như những người tài hoa trong văn học nghệ thuật, để lại những tác phẩm bất hủ, công danh của họ cũng không thể dài lâu như núi sông, như thiên địa. Vì vậy mà Nguyễn Du tiên sinh đã tự thán, biết ba trăm năm sau còn có ai khóc cho Tố Như (3) nầy hay không! Ba trăm năm cũng là kỳ vọng khá cao, vì lúc ấy Truyện Kiều (Đoạn Trường Tân Thanh) chưa được viết. Kể từ năm 1820, khi tiên sinh nằm xuống, đến nay là 197 năm, người khóc Tố Như dường như đã giảm đi nhiều theo thời gian. Truyện Kiều được lưu truyền, ngâm đọc trong dân gian thì hãy còn người thường xuyên nhớ đến Tố Như. Nhưng khi chỉ còn cái tên trong văn liệu, nằm trong văn khố, văn học sử thì không ai dám chắc sẽ tồn tại bao lâu, và người khóc Tố Như e chỉ còn lác đác, năm thì mười họa mới trích dẫn Truyện Kiều xuống từ một trang mạng nào đó.


Thân như thế, danh như thế, ta đi để lại gì không?


Trăm năm sống ở đời, ai cũng để lại một cái gì, di sản hay di họa, cho người ở lại. Di sản hay di họa là do nơi lợi ích hay thiệt hại, từ hành nghiệp, sự nghiệp của người ra đi. Di sản có khi lợi ích cho một cá nhân, một gia đình, hay một dòng họ; có khi là công ích, làm lợi cho số đông xã hội, quốc gia, hay nhân loại. Di họa cũng thế, có khi là nợ nần hay tai tiếng làm tán gia bại sản, phá nát một dòng họ; có khi sai lầm, hoang tưởng từ chủ thuyết và chính sách, dẫn cả một dân tộc đến chỗ diệt vong.


Sống với nhận thức và chứng nghiệm sâu sắc về nguyên lý nhân-quả, người ta không chỉ tự hỏi, ta đi để lại gì không mà còn nên tự hỏi, ta đi mang theo gì không.


“Để lại gì” là dành cho người ở lại, “mang theo gì” là nghĩ cho chính ta.


Dành cho người không hẳn là vì lợi tha – có khi chỉ vì tình thế bắt buộc mà chính mình không hề nghĩ đến. Nghĩ cho ta chưa chắc là vị kỷ, bởi vì giữa ta và người, trong cuộc tử-sinh nầy, đều có tác động và tương thuộc lẫn nhau bởi nhân-quả. Để lại hay mang theo, là nơi cái “công” mà người ra đi tác tạo trong một đời, cùng với mục đích mà người ấy muốn để lại. Theo quan niệm của người Đông phương, “công” có thể là vật chất hay tinh thần, có thể nhỏ, có thể to lớn, nhưng lợi ích cho đời, cho người, thì gọi là “đức”; còn như chỉ gieo họa dài lâu cho nhiều người, nhiều thế hệ thì đó là “tội.”


Vì vậy khi lập thân, sống ở đời, người ta cần cân nhắc về nguyên nhân và hậu quả trong cả hành xử, lời nói và ý nghĩ của mình; mục tiêu tạo lập sự nghiệp của mình là gì, để lại cho người hay để mang theo?


Một khi ra đi, sang bên kia thế giới, hẳn nhiên là sẽ không mang theo được gì. Thân xác nầy còn không mang theo được thì tiền của, sản nghiệp, những người thân yêu… đều sẽ bỏ lại hết. Không một thứ vật chất nào có thể mang theo được (dù nhỏ xíu như viên kim cương, hay mỏng nhẹ như một mảnh bằng).





Không nhất thiết phải để lại gì cho đời. Nhưng nếu để lại thì để cho đáng, và cho đúng người, đúng chỗ. Cũng không nhất thiết phải mang theo gì cho nặng nề khi ra đi. Nhưng nếu cần mang theo gì, nên nhớ rằng cái có thể mang theo được là công (đức) hay nghiệp (tội) mà mình đã làm trong cuộc sống trăm năm nầy.


Một di sản (tinh thần hay vật chất) để lại cho người vô tích sự, cho người xấu-ác, thì di sản ấy cũng thành vô dụng, sẽ bị hủy hoại không lâu sau đó; mà nếu kẻ xấu-ác kia sử dụng di sản ấy để làm việc ác, tổn người hại vật, phung phí hưởng lạc cá nhân, thì “công đức” của người ra đi chẳng những không có gì mà còn gián tiếp mang theo nghiệt tội.


Ngược lại, di sản được trao đúng người, được sử dụng đúng việc, mang lại lợi ích cho đời, cho người, thì với tác động dây chuyền của nhân-duyên-quả, di sản ấy không những tăng ích mãi, mà công đức của người ra đi cũng vô hạn lượng. (4)





Thu sang rồi.


Đêm về, hơi thu lạnh se sắt. Nhưng khi trời sắp sáng, những luồng gió dữ từ rừng núi thốc về mang hơi nóng hầm hập khô khốc suốt mấy ngày đầu mùa. Khắp nơi, lá chầm chậm chuyển sắc. Lá vàng chen lá xanh. Mai kia lá sẽ khô, rụng. Như bao nhiều đời người đã đến và đi, qua trần gian nầy. Không ai biết có bao nhiêu bao lá vàng rơi nơi đây, hay lặng lẽ rơi trên rừng thẳm. Cũng không ai quan tâm có những hành giả đến rồi đi, vô tung vô tích trên đỉnh cao mờ bóng mây ngàn. Hạc trắng bay qua tầng không. Không để lại gì. Không mang theo gì. Có chăng là làn gió thoảng, theo sau đôi cánh vỗ; và một trời xanh biếc, bềnh bồng mây trắng bay.





(1) Thơ Vũ Hoàng Chương, trích từ thi tập Rừng Phong, do Nhà xuất bản Phạm Văn Tươi ấn hành năm 1954 (theo Nhà thơ Viên Linh trong “Chiêu Niệm Văn Chương,” trang 121-122):


Nguyện cầu


Ta đi để lại gì không?
Kìa non đá lở, này sông cát bồi
Lang thang từ độ luân hồi
U minh nẻo trước xa xôi dặm về.


Trông ra bến hoặc bờ mê
Nghìn thu nửa chớp, bốn bề một phương
Ta van cát bụi bên đường
Dù nhơ dù sạch đừng vương gót này.


Để ta tròn một kiếp say
Cao xanh liều một cánh tay níu trời.
Nói chi thua-được với đời
Quản chi những tiếng ma cười đêm sâu.


Tâm hương đốt nén linh sầu
Nhớ quê dằng dặc, ta cầu đó thôi!
Đêm nào ta trở về ngôi
Hồn thơ sẽ hết luân hồi thế gian.
Một phen đã nín cung đàn
Nghĩ chi còn-mất hơi tàn thanh âm.


(2) Nợ tang bồng, thơ Nguyễn Công Trứ. Nên hiểu rằng đối với Nguyễn Công Trứ và ngữ nghĩa của thời đại ông (hậu bán thế kỷ thứ 18), hai chữ “công danh” không tách rời nhau. Cho nên nói “danh” là nói “công.” Không có công thì không có danh. Ở đầu bài, hai chữ “công danh” này đã được nhắc đến (Chẳng công danh chi đứng giữa trần hoàn), nên khi nói “danh” ở câu sau, hàm ý công danh, sự nghiệp đóng góp cho non sông, chứ không phải khuyến khích chạy theo danh vọng như một số người thời nay lầm tưởng và thực hiện cho kỳ được.


(3) “Bất tri tam bách dư niên hậu


Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”


Hai câu cuối của bài Độc Tiểu Thanh Ký, trích từ “Thanh Hiên Thi Tập” của Nguyễn Du, tác phẩm được viết vào khoảng 1802 – 1804 (theo Gs. Lê Thước & Gs. Trương Chính trong “Thơ Chữ Hán Nguyễn Du,” nxb Văn Học, 1978). Tố Như là một bút hiệu khác của Nguyễn Du.


(4) Như Nobel Prizes, được thành lập năm 1895, là di sản của nhà phát minh người Thụy Điển, Alfred Nobel (1833-1896), tăng ích mỗi năm trên những giải thưởng dành cho các cá nhân và tổ chức sáng tạo, cống hiến lợi ích cho nhân loại qua các lĩnh vực Vật lý (Physics), Hoá học (Chemistry), Y học (Medicine), Văn học (Literature) và Hòa bình (Peace). Đến năm 1968 thì Swedish National Bank lập thêm giải Khoa học Kinh tế (Economic Sciences) để tưởng nhớ Alfred Nobel.

Thứ Hai, 23 tháng 10, 2017

ĐÔI DÒNG VỀ THƠ TỪ TRẪM LỆ






Tôi xưng là người Tây Ninh nhưng thực ra không biết nhiều về TN, nhứt là giới văn nhân nghệ sĩ. Lúc còn trong nước hay cả lúc đi tỵ nạn nơi xứ người, tôi cứ bị cuốn hút vào văn, vào thơ, vào nhạc của những văn nghệ sĩ miền Bắc, miền Trung như Nhất Linh, Mai Thảo, Vũ Hoàng Chương…… hoặc là người miền Nam mà xa lắc ở đâu như Bình Nguyên Lộc ở Biên Hòa hay Sơn Nam ở Hậu Giang…. .. Tôi đâu ngờ rằng rất gần tôi, tại tỉnh nhà, có những nhà văn nhà thơ cũng rất tài hoa, văn chương sắc sảo nhưng vì những lý do nào đó họ không được nổi tiếng.
Anh Vương Văn Ký mới về Việt Nam đem qua 3 quyển tập, dưới dạng photocopy, 2 quyển nói về thân thế và sự nghiệp của Thanh Việt Thanh và Thẩm Thệ Hà và một quyển thơ viết tay của Từ Trẩm Lệ. Thanh Việt Thanh và Thẩm Thệ Hà hồi trước tôi có nghe danh, nhưng đâu ngờ một người một người sinh quán tại Gò Dầu chính là nơi gia đình tôi đang cư ngụ, còn một người là dân Trảng Bàng chỉ cách Gò Dầu 12 Km. Nhờ sự gợi ý của anh Ký, tôi xem lại quyển “Tây Ninh Xưa Và Nay” của Huỳnh Minh thấy rằng Tây Ninh cũng có nhiều văn thi đàn và nhiều nhà văn nhà thơ như Phan Yến Linh, Lê Hữu Tài, Phan Phụng Văn, Võ Trung Nghĩa, Hoài Trinh, Nguyễn Trường Anh….Nhưng nhà thơ làm tôi chú ý nhứt là Từ Trẩm Lệ (TTL)ä, một người lúc còn học tiểu học tôi gần như nhìn thấy ông hàng ngày, và nghe nói ông có làm thơ nhưng đâu ngờ những dòng thơ mang nỗi niềm u uất làm cho tôi rất xúc động.

Nhà thơ Từ Trẫm Lệ

Người ta nói nhựt tân, nhựt tân, nhựt nhựt tân…….., qua thời gian, Gò Dầu cũng đã thay da đổi thịt. Nhà cửa, đường xá, phong cảnh, con người….mọi vật đều đổi mới, nhưng nếu là người cố cựu có lẽ ai cũng biết gia đình ông đốc Trần Văn Hổ. Đây là một gia đình danh giá theo đúng nghĩa của thời thập niên 1950 và trong phạm vi một quận lỵ. Ông là hiệu trưởng trường tiểu học, khi về hưu còn lưu lại dạy thêm mấy năm và tôi là học trò của ông trong thời gian nầy. Con ông, rễ ông, người nào cũng “hay chữ”. Ông Tư Đức là Hiệu trưởng trường tư Hữu Đức, nổi tiếng chuyên dạy luyện thi đệ thất. Cô Bảy Tỵ dạy tiểu học, chồng cô là thầy ký quận. Người con út tên Lương là một chuyên viên cấp cao trong ngành cảnh sát đặc biệt ở Sài Gòn thời VNCH. Người anh em chú bác của ông là cố quận trưởng Trần văn Giám…..
Nhưng gia đình ông di truyền một chứng bịnh kỳ lạ. Lúc ông Đốc Hổ ở tuổi 60, lưng khòm thấp xuống, khi muốn nói môi giựt liên hồi. Ông Tư Đức vai xệ một bên, lưng cũng khòm. Một ông nửa, có lẽ là người thứ sáu, chuyên nằm một chổ đọc sách. Và hình ảnh tôi nhớ nhứt là ông thứ năm Từ Trẩm Lệ, gương mặt phương phi, mủi cao, mắt sáng, mỗi buổi sáng chưn thấp chưn cao chống gậy đi chợ. Nhà ông cách chợ Gò Dầu độ 200 thước và tôi là đứa trẻ con nhà nghèo, thường phụ Má tôi coi gian hàng trong chợ nên thường trông thấy ôngï.

Dầu chưa một lần tiếp chuyện với ông nhưng đối với ông, tôi cảm thấy thật gần gủi, vì ông Đốc Hổ thường nhờ học trò, trong đó có tôi, về nhà làm việc lặt vặt. Gia đình ông gồm toàn những người có học, tôi rất hâm mộ, và thời thơ ấu, ngôi nhà của ông là niềm mơ ước thầm kín của tôi. Nhà lai kiểu Pháp, chung quanh có vườn, ngoài cổng là đường xe, bên kia đường là bến sông tàu đậu. Qua ĐS/TNMY, tôi muốn giới với bạn bè những gì tôi cho là quý báu của quê mình, nên mỗi khi anh Ký về Việt Nam tôi đều có nhắc làm sao tìm tài liệu để viết về nhà thơ Từ Trẩm Lệ. Nhưng anh Ký cho biết rằng ông đã chết, không vợ con, văn thơ giấy tờ để lung tung, thất lạc. Nhưng kỳ nầy anh gặp may, có một vị rất yêu thơ người Gò Dầu trao cho anh một quyển photocopy thơ chép tay của Từ Trẩm Lệ.
Tập thơ gồm 35 bài, nhiều bài rất dài, cở 50, 60 câu, có bài dài trên 100 câu. Không biết TTL đã làm bao nhiêu bài thơ, đã có xuất bản tập thơ nào chưa, hay đây là tập thơ duy nhứt của ông. Kèm tập thơ có một bài giới thiệu của một vị tên là Văn Xuân viết năm 1995:
“Nhà thơ Từ Trẩm Lệ tên thật là Trần văn Hinh, sinh năm 1925 tại Gò Dầu-Tây Ninh trong một gia đình giáo học.
Sau khi học hết tiểu học ở trường Gò Dầu Hạ, Từ Trẩm Lệ thi đậu vào trường trung học Petrus Ký (bây giờ là trường Lê Hồng Phong). Nhưng đến năm thứ hai chuẩn bị lên năm thứ ba thì Từ Trẩm Lệ bị trọng bệnh, gọi là sơ cứng cột sống, phải nghỉ học.
Từ ấy Từ Trẩm Lệ thành người có tật, luôn luôn chống gậy, đi đứng với dáng điệu cứng đơ cột sống.
Do nghỉ học sớm, Từ Trẩm Lệ bắt đầu sự nghiệp thơ của mình trên các báo Việt Bút, Ánh Sáng…từ những năm 1946-1947 và lăn lóc nhiều năm trong làng báo. Sau đó, chán cảnh phồn hoa, từ Trẩm Lệ trở về quê dạy học nhưng vẫn luôn luôn gởi bài cho các báo như Thẫm Mỹ, Bông Lúa, Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Tiểu Thuyết Thứ Năm, Mã Thượng, Nhân Loại, Văn Đàn, Thời Nay, Phổ Thông, Vui Sống…
Từ năm 1984 trở đi, một lần nữa Từ Trẩm Lệ lâm trọng bệnh, bị liệt nửa thân, phải nằm một chỗ trong hoàn cảnh khó khăn như bài viết của nhà thơ Thanh Việt Thanh trên Tuổi Trẻ ngày 18-4-1991. Hiện nay Từ Trẩm Lệ đang nằm điều trị dài hạn tại Bệnh Viện Y học Dân tộc Tây Ninh.”

Anh Ký cho biết TTL đã qua đời năm 1998 thọ 73 tuổi.

Mơ làm chinh khách

Năm 1945 TTL được 20 tuổi, cái tuổi của mộng mơ và tràn đầy nhiệt huyết. Âm vang của Cách Mạng Mùa Thu tỏa rộng khắp nước. Hàng hàng lớp lớp trai gái hăng hái lên đường theo tiếng gọi non sông, đánh đuổi thực dân Pháp đang theo gót quân Anh tái chiếm Miền Nam. Việt Minh lại khéo tuyên truyền, nhiều bài hát được tung ra lại càng làm nức lòng những chàng trai trẻ:
“Nầy anh em ta, cùng nhau xông pha lên đường,
Kiếm nguồn tươi sáng
Ta nguyền đồng lòng điểm tô non sông, từ nay, ra sức anh hùng….”

Hay:
“Nầy thanh niên ơi, đứng lên đáp lời sông núi
Đồng lòng cùng đi, đi, đi kiếm nguồn tười sáng…”

Hoặc:
“Mùa Thu rồi, ngày hăm ba, ta đi theo tiếng kêu sang hà nguy biến,
Rền khắp trời, lời hoan hô, dân quân nam nhịp chân tiến đến trận tiền…”

TTL cũng ghi lại cái không khí rộn ràng chuẩn bị kháng chiến như sau:

Đêm chưa loảng, canh sâu còn vương vít
Trên phố phường, thành nội ngủ im hơi,
Tuy nhiên trên đường phố khắp nơi nơi
Vẫn vang dội nhịp đều chân ai bước
Đoàn chiến sĩ dân quân đang rạo rực,
Súng hờm tay, tuần vãng khắp Đông, Tây.
Tin báo nguy loan chạy mấy hôm rày
Nghịch huy động. . .tình hình đe căng thẳng.
Khắp già, trẻ, gái, trai đồng đã sẳn
Chực đê bờ ngăn vỡ nước ngoại xâm.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
(Ghi một thời gian)

Lúc đó Tây Ninh có nhiều thanh niên, công chức bỏ nhà, bỏ sở ra đi, trong đó Thanh Tra Học Chánh Trần Văn Hương, (Tổng Thốngï VNCH năm 1975-Xin xem bài…… .. . . ) là thủ lãnh. Về sau có người vỡ mộng quay về, nhưng đó không phải là tâm trạng của Từ Trẩm Lệ. Ông chưa chạm vào thực tế, ông dừng lại ở điểm đứng mộng mơ. Cái gì thèm muốn mà chưa đạt được con người thường có tâm trạng rạo rưc,ï háo hức. Ôâng mơ về một chân trời mới lạ, hào hùng, là nơi có thể thỏa mản cái chí tang bồng hồ thỉ:

Một đêm mơ thấy làm chinh khách
Đi cứu non sông họa quốc thù
Ta đi trong giữa bờ lau lách
Kiếm rạt rào khua trận gió thu

Ta đứng trên đồi cao lặng ngắm
Aâm thầm non nước hận chông gai
Những giòng máu chảy loang lòng đất
Rền rĩ hồn ai vất vưỡng bay
. . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . .
Ta vung ngọn kiếm thét căm hờn,
Buông vụt mình trong đám địch quân
Đường gươm loang loáng lùa xông xáo
Đầu rụng người rơi ngập bãi tràng
. . . . . . . . . .. . . .. . . . . . . . . . . . .
(Tan cờ chinh phục)

Tráng sĩ ra đi rữa hận quốc thù thì phải có cảnh biệt ly nhiều nước mắt. Bến sông chiều em tiễn đưa anh, lòng đau xót nhưng không dám đổ lệ nhiều vì sợ “tiếng cười” thường tình nhi nữ:

Trời vẫn mây mù, mưa hắt hiu
Em đưa anh đến bến sông chiều
Chẳng đem khúc hận sầu reo rắt
Không cả như mưa đổ lệ nhiều.

Phong yên đã dấy khắp biên ngoài
Non nước chờ mong những tuổi trai
Chút thường nhi nữ em đâu dám
Mà để nam nhi một tiếng cười.

Nhưng mà khi anh bước xuống đò, thuyền tách bến, xa nhau biết bao giờ gặp lại. Em cố dằn lòng nhưng lệ em rơm rớm rồi tràn mi; em xót xa nấc nghẹn, anh nhẹ nhàng vuốt ve, khuyên giải:

Anh xuống con đò, em đứng trông
Người anh đi cứu giải non sông
Em mừng hay xót, cho rơm rớm
Nước mắt tràn mi, nghẹn má hồng

Đò đã gay chèo, chở lối sang,
-Tình ta thêm rộng giưã giang san
Rồi đây mây gió, hồn em sẽ
Dõi bóng anh trên khắp bãi tràng.
(Khúc nhạc ly tình)

Giã biệt em anh đi vào chiến khu, nơi rừng sâu xanh ngát, nơi chất chồng bi thương gian khổ nhưng hùng tráng:

Đây chiến khu, những ngày nào giông bảo
Nơi đầu xanh len ẩn lá ngàn xanh,
Nơi tóc dựng căm gan, hồn kiêu ngạo
Nơi máu hùng sôi sục, mắt long lanh
. . . . . .. . . . . . . .. . .. . . . . . .. . . . . . .
Ôi! rừng hoang, xương đã tan vào đất,
Cỏ cây nầy máu tẩm dấu hi sinh
Ôi! rừng hoang, mồ bao trang tài sắc
Hận quốc thù, dẫu dãi nợ quân binh.
. . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . .. . . . . .
(Về qua chiến khu)

Đời chinh khách phải lạnh lòng nơi chiến địa, nhưng tác giả là một nhà thơ với con tim nhạy cảm, đã thấy kinh hoàng, sầu khổ khi một chiều lạc bước trên chiến địa:

Ta lạc bước một chiều nơi chiến địa
Vắng hoang tàn, không khí rợn tha ma.
Trên từ ng không, một vừng trăng mai mĩa
Hay ngại ngùng?. .ánh lộng quá phôi pha.

Dưới lớp cỏ, côn trùng than rên rỉ,
Thây người nằm la liệt, lặng lờ im,
Họ nằm ngủ giấc buồn luôn vạn kỷ
Lạnh trời cao lạnh cả gió trang nghiêm
. .. . . . . . . . . . . . . . . . . .. .. … .. ..
Ta lóng đợi tiếng gà không thấy gáy,
Hay đất trời mê sảng lặng tiêu rồi?
Khối địa cầu chỉ sót đây còn lại
Một mình ta nhìn với những đống thây!

Ta buồn rầu, đứng lên đi lảo đảo
Vấp vào thây, loạng choạng . . . lững lờ đi.
Ta hướng bước, xua trên từng vũng máu,
Tìm mặt trời đem đốt hết tử thi!
(Tìm mặt trời)

Mặc cảm tội lỗi
Căn bịnh quái ác đã làm giấc mơ của ông tan vỡ. Một người cột sống cứng đơ, chân bước khó khăn thì không thể nào làm chinh khách, không thể có cơ hội vào chiến khu hay lang thang nới chiến điạ. Nhưng tổ quốc đang réo gọi, những chàng trai, những cô gái bạn bè ông đang ngaỳ đêm chiến đấu bảo vệ quê hương. Ông cảm thấy thẹn lòng, tủi nhục, buồn bả và muốn thốt lên lời tạ lỗi:

Lỡ cả nam nhi, thẹn bách tùng,
Bút sầu tựa án, ngại chiều đông,
Vi vu tưởng tiếng gào sông núi,
Gió bấc như khơi dục buốc lòng.

Mà biết phong yên, nhục phủ phàng
Người về khoác áo hận giang san
Đường lên sông núi tràn thương nhớ.
Và gió và mưa chỉu kiếm đàn.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Ngơ ngẫn đêm về đêm nhớ thương
Bơ vơ chút gió lịm bên đường,
Nét son lẫn khuất màu đen tối
Tiếng động mồ côi rã dưới sương

-Thà như chiếc lá rụng chiều phong!
Nhưng. . .nói làm sao?-nghẹn cả lòng!
Ai có về trên hồn xã tắc,
Cho ta tạ lỗi, thẹn tang bồng.
(Lỗi một lòng trai)

Mặc cảm tội lỗi bàng bạc khắp mọi sinh hoạt đời thường của ông. Nhìn một bửa tiệc vui vầy trong thành nội, ông ray rức tưỏng nhớ đến người chiến sĩ đang xông pha nơi làn đạn muĩ tên. Ông viết bài thơ dài đến 95 câu mô tả cái tâm trạng buồn bả của mình:

Anh đi làm chiến sĩ
Nổ súng bên rừng xa
Tôi nằm đây mõi chí
Đêm đêm não tiếng gà
. . . . . . . . . .. .. .. . .. .
Buồn mở xa viễn vong
Sầu nghe máu nhuộm thành
Bốn phương mờ gió lộng
Bao hướng đổ rừng xanh
. . . . . . . . . . .. . .. .. … . . . .
Nghìn lệ đắng máu tanh
Mà rượu đàn hỉ hạ
Mà yến tiệc linh đình
Mà trau duyên sửa dáng
Kinh thành ơi! kinh thành
(Bức thư tâm sự thành nội)

Nghĩ về một chiến sĩ cang trường sa cơ thất thế, đang bị đối phương hành hạ chốn lao tù, ông cảm thấy buồn đau tủi nhục:

Anh là kiếp hùm thiêng trên ngàn thẳm,
Phút sa cơ, mất vuốt giữa kinh thành,
Cốt oanh liệt in tầng mây vạn dặm
Anh hôn vào tay nắm gởi rừng xanh

Anh đứng giữa ngục tù chôn anh lại,
Anh nhìn tôi gầy gõ bước bên đường.
Anh mĩa mai hay là anh thương hại
Mà môi anh vừa thoáng nét u buồn?
(Anh và tôi)

Trên lầu hương phấn, bên người đẹp má hồng tưởng rằng vui vẻ sung sướng nhưng mặc cảm tội lỗi vẫn theo ông dày vò:

Ai bỗng đem tôi bỏ chốn nầy
Giữa trời trang điểm má hồng say,
Riu riu phách lịm giòng ma tuý,
Tửu lộng mềm môi cháy đuốc mây.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . .
Em sát vào ta, kẽo lạnh lùng.
Ơ kìa trăng rọi mái trên sông,
Ai phi vó ngựa qua cầu trắng
Động mảnh tô(?) trăng rớt trập trùng.

Lệ ứa làn mi, lệ ứa mi.
Thoát mờ trăng thoáng bóng người đi
Cho ta ly nữa, cho ly nữa
Ta muốn đêm nay chẳng biết gì.
(Say nguì hương phấn)

Tiếng kêu trầm uất
Còn nhiều, nhiều nữa những câu thơ nói về tủi nhục, u buồn. Ông muốn sám hối, ông muốn tạ tội nhưng nào có vơi được niềm ưu uất nên đôi khi ông gần như cuồng loạn. Đọc 35 bài thơ với trên ngàn câu chữ ta nghe như vang rền tiếng kêu trầm uất. Xin hãy lướt qua vài tựa bài: Sám Hối, Một Đêm Mưa Loạn, Cuồng Đau, Cuồng Ngày Xuân, Hồn Trong Thâm Tối, Đau Thương, Nhạc Hồn, Cuồng Loạn v.v . . . Trong bài Ngày Mai, Ngày Mai, ta tưởng rằng có những gì tươi vui hi vọng, nhưng không, chất cuồng vần đậm nét:

Nằm đây, nằm đây
Ta nằm đây chết mãi không hay
Bao ngày bao tháng thời gian hỡi,
Hồn buồn như mộ, xác như thây

Nằm đây, nằm đây
Ta chết bao giờ ta chẳng hay,
Bôi lên mây trắng, rũ ra cười
Gỏ nhịp xiêm nghê hát lạc loài.
(Ngày Mai, Ngày Mai)

Trong bài Một Đêm Mưa Loạn, ông tìm vui trong hương phấn nhưng sầu vẫn dâng cao , cuồng cũng thét gọi đến đổi phải cắn vào tay cho rõ máu để nghe run rẫy cả linh hồn:

Ta thấy nghẹn toàn thân, say rũ rượi.
Vượt mình trên hành lạc, thẩn thờ đau
Ta cúi giữa chua cay, đầu chới với
Tưỡng đang nhìn ác mộng giưã chiêm bao.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. .. . . . . . .
Cắn vào đây cho sầu ta rõ máu,
Để ta nghe run rẫy cả linh hồn
Aáp vào đây đầu em, cho gió bảo
Dừng bên ngoài-ta đợi chút tình thương!
(Một Đêm Mưa Loạn)

Kết.
Ít có nhà thơ nào tha thiết yêu thương non sông đất nước đến như vậy và cũng rất ít nhà thơ bày tỏ được những cảm xúc của mình mạnh mẽ đến như vậy. Thơ là “tiếng lòng” của những người nhạy cảm. Tiếng lòng của những chàng trai mới biết yêu lần đầu, tiếng lòng của những cô gái gặp phải duyên tình dang dỡ. . . Thì xưa nay Việt Nam ta có biết bao nhiêu tập thơ tình và biết bao bài thơ hay nhưng những người có tâm tính hơi bất bình thường như Hàn Mạc Tử, như Buì Giáng, như Từ Trẫm Lệ v.v. … . .thì tiếng lòng của họ có vẽ thống thiết và vang dội nhiều hơn. Đọc hết tập thơ Cuồng Loạn ta thấy đâu đâu cũng có cảnh điêu linh của dân tộc, cảnh tàn phá của đất nước, cảnh hào hùng của chiến sĩ cam chịu gian khổ hiểm nguy, cảnh hoang tàn nơi chiến địa thây phơi máu đổ, cảnh bi luỵ chia ly, cảnh ngục tù xiềng xích. Rồi cái tâm trạng buồn đau, tủi hổ của Từ Trẫm Lệ từ thiết tha buồn chán, rồi mặc cảm dày vò rồi lần lần đi đến u uất, cuồng nộ.
Có một điều rất lạ là tại sao cảm xúc cuả ông xem ra rất thật, trong khi người ta tưởng rằng điều kiện sức khoẻ không cho phép ông tiếp cận với cảnh, với tình, với chất liệu mà ông thường tả trong thơ, như chiến khu, chiến địa, bến sông hay cả trên lầu hương phấn. . . Nếu là tưởng tượng, là hư cấu mà lời thơ ào ào tuông ra trong những bài trường thiên với ngôn ngữ rõ ràng, dứt khoát, với ý thơ dạt dào, với hình tượng sống đôïng và nhứt là đã gây được xúc động mạnh mẽ cho người đọc thì quả ông cũng là một nhà thơ tài hoa.
Xin nhắc lại, ngoài tập thơ Cuồng Loạn, ta không biết thi sĩ đã làm bao nhiêu bài thơ, đã xuất bản tập thơ nào hay chưa, nên việc điểm thơ và tìm hiểu dòng tư tưởng và cảm xúc của tác giả rất khó. Xét nội dung những bài trong tập thơ Cuồng Loạn ta chắc rằng những bài thơ nầy ra đời trong giai đoạn 1945-1954, những năm chiến sự tàn khốc, Việt Minh lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp dành độc lập cho dân tộc. Nhưng rồi sau hiệp định Genève, Miền Nam tương đối có sự an bình cởi mở trong mấy năm, suy nghĩ về bạn thù cũng có thay đổi, và người ta vẫn thấy TTL cũng với nón nỉ, củng với baton thường khập khiểng bước đi ngang qua chợ Gòø Dầu. Lúc nầy ông còn buồn chán, còn u uất không? Và sau đó nửa, cả đất nước Việt Nam bước vào một cuộc chiến tranh còn khốc liệt hơn thì cái tâm cảm của ông đã biến chuyển như thế nào? Rồi một lần nửa hoà bình lại đến, nhưng lại là một thứ hoà bình nhân tâm ly tán, dân tộc bị phân biệt, đọa đày, đói khổ. Trong gần 45 năm cho đến cuối đời, thi sĩ TTL đã nghĩ gì, đã cảm thấy gì, ông có còn buồn chán, u uất, cuồng nộä hay không?
Rất tiếc rằng câu hỏi nầy chúng ta không có điều kiện để tìm hiểu và trả lời, nhứt là ông đã qua đời vào năm 1998 và không có vợ con.
Chỉ biết rằng cùng với lời giới thiệu ghi trên, ông Văn Xuân có kèm theo hai bài thơ của TTL, một bài tên Bơ Vơ được đăng trong Báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy, số 2, và một bài tên Nặng Một Cành Lan, có những câu thơ đằm thắm dịu dàng, nhưng vẫn không dấu được tâm trạng buồn bả, nuối tiếc:
. . . . . . .. . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . .
Đất bằng bỗng nổi thuỷ triều
Có người đánh cướp một chiều hoa tôi
Đem đi đến một cõi trời
Trồng trong chậu sứ, vẽ vời lăng nhăng
Nơi kia không có màu trăng
Nét hoa biết giữ, được chăng Lệ Kiều?
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

THỌ ÂN

Thứ Tư, 18 tháng 10, 2017

ĐỢI GIẤC MƠ MÙA HẠ





Từng nhành cây run rẩy
mưa cuối mùa kéo mây
chiều đi vào tàn úa
chợ thưa
lá vàng có ai mua?


Gió cướp giựt bụi đường
phố cay sè nước mắt
vỡ òa trong khoảnh khắc
thu liệm vào hôm qua


Đông thò tay chớt nhả
lành lạnh cào thịt da
phố chong đèn nghiêng ngã
bóng chồm lên thây ma


Sót trên cành chiếc lá
na ná trái tim ta
đợi giấc mơ mùa hạ
âu yếm đất trời xa...

Thứ Sáu, 13 tháng 10, 2017

NHỚ LẠI MỘT CÂU CHÂM NGÔN





Vũ Đình Phong


Cách đây trên nửa thế kỷ, tình cờ đi ngang qua một trường mẫu giáo ở Pháp, tôi thấy một dòng chữ kẻ rất đẹp :

“MAITRISE DE SOI et RESPECT D’ AUTRUI”




Vừa đọc xong, tôi sửng sốt, đúng là một câu châm ngôn hết sức hợp lý, chính xác ! Trên đường về, khách sạn, tôi cứ nhẩm “MAUTRISE DE SOI ET RESPECT D' AUTRUI" bao nhiêu lần không biết, như để học thuộc lòng, mải nhẩm mấy lần suýt đâm đầu vào ô-tô …


Nhân có anh bạn thân người Pháp, tôi thuật lại câu chuyện và bình luận thêm đôi chút. Anh bạn cười : “Chính xác ! Tôi cũng thấy câu ấy rất hay, hình như tóm tắt được tất cả những gì mà tôi muốn noi theo : MAITRISE DE SOI et RESPECT D’ AUTRUI ! Hay ! Mà nhân tiện, tôi có hơi quen bà hiệu trưởng ở đấy. Nếu anh thích thì hay ngày mai hai chúng ta quay lại đấy ? Và nếu bà ta có thời gian thì anh có thể hỏi thêm, nói chung là trao đổi chơi.” Tất nhiên tôi không chỉ chấp thuận mà còn rất mừng, thấy cơ hội ngàn vàng.


Bà giáo, một phụ nữ vóc bé nhỏ, tóc đã hoa râm, khuôn mặt phúc hậu, đeo cặp kính trắng gọng sừng rất to. Lâu rồi tôi không nhớ rõ nhưng hình như tên là Madeleine, đón hai chúng tôi. Khi nghe anh bạn tôi nêu vấn đề, bà cười : “Từ thuở nhỏ tôi có thói rất thích sưu tầm và ghi vào sổ tay những câu mà tôi coi là “châm ngôn” để áp dụng trong cuộc sống. Hồi lập cái trường này, tôi nghĩ nên có một câu gì đấy để in vào óc các cháu và giúp ích được chúng trên đường đời… Cũng xin phép được khoe với hai ông là một số cháu sau này trưởng thành đã đến thăm lại trường xưa và cho tôi biết cái câu “châm ngôn” ấy giúp ích được chúng rất nhiều…”
*
Ôi ! Chỉ mấy từ thôi mà có sức mạnh đến thể !


MAITRISE DE SOI ET RESPECT D’AUTRUI !
***
Cái câu “châm ngôn” ấy ám ảnh tôi cho đến ngày hôm nay, cứ lâu lâu lại hiện lên trong óc tôi… Tôi có cảm giác hình như trí óc và tình cảm tôi nhiều lúc bị chao đảo, chính cái câu cực kỳ đáng quý ấy đã giúp tôi lấy lại được thăng bằng !


Tôi tạm dịch là
“Làm chủ bản thân và tôn trọng người khác”.

“Bản thân” chứ không phải “tập thể” !


Làm chủ bản thân khác hẳn làm chủ tập thể.


Làm chủ bản thân là giữ cho mình, bản thân mình, biết cách suy nghĩ và xử sự thông minh, đúng đắn, trước hết giữ được “vẫn là mình” không chao đảo theo những “lời khuyên” nghe thì rất đúng nhưng nghĩ kỹ thì sai, vì làm cho mình không còn là mình nữa. Còn “làm chủ tập thể” thì có nghĩa ngược lại : là giao phó số phận mình vào tay một kẻ nào đấy, kẻ có quyền chi phối, cưỡng bức mình cùng với đám đông mà ngay trong thâm tâm hắn khinh như rác, coi là đám lừa để hắn cai quản.


Hai khái niệm khác nhau một trời một vực.



Ralph Waldo EMERSON đã nói :
“To be yourself in a world that is constantly trying to make you something else is the greatest accomplishment.”


Tạm dịch : "Giữ được luôn là mình giữa một thế giới thường xuyên muốn mình không còn là mình nữa là chiến công lớn nhất""

Phân lớp từ ngữ theo nguồn gốc Lớp từ thuần Việt





Như đã trình bày ở phần đầu, trong mọi từ vựng, trừ những từ ngoại nhập ra, phần cơ bản còn lại được gọi là lớp từ bản ngữ hay lớp từ thuần. Chẳng hạn, lơpf từ thuần Việt, thuần Nga, thuần Khmer...


Lớp từ thuần Việt là cốt lõi của từ vựng tiếng Việt. Nó làm chỗ dựa và có vai trò điều khiển, chi phối sự hoạt động của mọi lớp từ khác.

Về mặt nguồn gốc, cơ sở hình thành của lớp từ thuần Việt là các từ gốc Nam phương, bao gồm cả Nam Á và Tày Thái. Những kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy rằng nhiều bộ phận, nhiều nhóm của lớp từ thuần Việt có những tương ứng, những quan hệ hết sức phức tạp với nhiều ngôn ngữ hoặc nhóm ngôn ngữ trong vùng.

Ví dụ:

1. Tương ứng Việt-Mường:
vợ, chồng, ông, ăn, uống, cười, bơi, nằm, khát, trốn, gáy, mỏ, mâm, rá, chum, nồi, vại, váy, cơm, cây, củ, rạ, mây, cau, cỏ, gà, trứng...

2. Tương ứng Việt – Tày Thái:
đường, rẫy, bắt, bóc, buộc, ngắt, gọt, đẵn, bánh, vắng, mo, ngọn, mọn, méo, vải, mưa, đồng, móc, nụ, gà, chuột, đâm...

3. Tương ứng với các ngôn ngữ nhóm Việt Mường đồng thời với nhóm Bru-Vân Kiều:
trời, trăng, đêm, bụng, ruột, kéo, bốc, ngáy, khạc, củi, hột, rắn, khô...

4. Tương ứng với nhóm ngôn ngữ Mon-Khmer ở Tây Nguyên Việt Nam:
trời, mây, mưa, sấm, sét, bàn chân, đầu gối, da, óc, thịt, mỡ, bố, mẹ, mày, nó, nuốt, cắn, nói, kêu, còi, mặc, nhắm, bếp, chổi, đọi..

5. Tương ứng với nhóm Việt-Mường và các ngôn ngữ Mon-Khmer khác:
sao, gió, sông, đất, nước, lửa, đá, người, tóc, mặt, mắt, mũi, răng, lưỡi, cổ, lưng, tay, chân, máu, xương, cằm, đít, con, cháu...

6. Tương ứng với nhóm Việt Mường và Tày Thái:
bão, bể, bát, dao, gạo, ngà voi, than, phân, cày, đen, gạo, giặt...

7. Tương ứng Việt – Indonesia:
bố, ba, bu, mẹ, bác, ông, cụ, đất, trâu, sông, cái, cây, núi, đồng, mất, nghe, đèn, đêm, trắng, tuổi, ăn, cướp, bướm, sáng, rất, nấu, này/ni, là, rằng, ngày...
Các ví dụ trên đây chứng tỏ rằng cội rễ của từ vựng tiếng Việt hết sức phức tạp. Chúng gồm nhiều nguồn đan xen, chồng chéo, thậm chí phủ lấp lên nhau. Nghiên cứu chúng sẽ có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc khảo cứu nguồn gốc tiếng Việt nói chung.

Theo Mai Ngọc Chừ; Vũ Đức Nghiệu & Hoàng Trọng Phiến. Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt. Nxb Giáo dục, H., 1997, trang 213–219.

MỘ PHẦN TUỔI TRẺ - MỘT CUỐN SÁCH NHIỀU SAI SÓT




TIỂU UYỂN


Trong thời gian qua, Mộ phần tuổi trẻ của Huỳnh Trọng Khang được xem như một hiện tượng của văn chương trẻ Việt Nam. Tuy nhiên, sách có quá nhiều sai sót về lịch sử. Tôi quá ngạc nhiên vì một vài tờ báo và nhiều bạn đọc, thông qua Mộ phần tuổi trẻ đã ca tụng tác giả Huỳnh Trọng Khang lên tận mây xanh là người rất am hiểu văn chương nghệ thuật và không khí sinh hoạt văn nghệ ở miền Nam trước 1975. Tôi không nghĩ như vậy! Thậm chí ngược lại, tôi coi Mộ phần tuổi trẻ thất bại ở chính điểm này.
Thời điểm của câu chuyện là năm 1967. Tôi đặc biệt lưu tâm về cái thời điểm này, bởi nó là điểm mấu chốt để câu chuyện của Huỳnh Trọng Khang hoàn toàn đi chệch đường ray. Mộ phần tuổi trẻ thuật lại rằng: Mùa hè năm 1967, nhân vật tôi lên Đà Lạt gặp cô người yêu, và cô ngồi ôm đàn hát nghêu ngao bài Khúc Thụy Du... Rồi tác giả Huỳnh Trọng Khang dành hai trang sách chỉ để thao thao bất tuyệt về Khúc Thụy Du, về Du Tử Lê, rồi “làm Thụy của anh nhé.” (Trang 58-59)
Một người am hiểu văn chương miền Nam không ai không biết bài thơ Khúc Thụy Du của Du Tử Lê sáng tác vào năm 1968. Chính xác là khi đi làm phóng sự cho Cục Tâm Lý Chiến tháng 3.1968, nhìn những thân thể cháy xém không còn nguyên vẹn nằm bên đường, nhìn cảnh chết chóc, ngửi mùi chết chóc, Du Tử Lê đã bị ám ảnh. Ngay sau đó mấy hôm, khi Trần Phong Giao (Tạp chí Văn) nhờ Du Tử Lê viết bài cho số Xuân báo Văn. Lý do gì mà báo Văn tới tận tháng 3.1968 mới ra số Xuân? Ấy chính là vì sự kiện Mậu Thân 1968, các nhà phát hành họ ngưng nên báo Văn ngưng. Du Tử Lê lập tức sáng tác bài thơ Khúc Thụy Du, dài hơn 100 câu, nhưng sau bị chính quyền Nguyễn Văn Thiệu kiểm duyệt, ''đục'' bỏ còn lại như ngày nay ta được đọc.
Những câu thơ “... Trên xác người chưa rữa - trên thịt người chưa tan - trên cánh tay chó gặm - trên chiếc đầu lợn tha…” đến nay vẫn còn ám ảnh người đọc.
Rồi năm 1983, Anh Bằng mới chọn vài câu trong bài Khúc Thụy Du của Du Tử Lê để phổ nhạc. Ngay trên trang cá nhân của Du Tử Lê, nhà thơ cũng đã kể về việc này. Một điều rất bất ngờ với cá nhân tôi là Huỳnh Trọng Khang đã nhầm lẫn tác giả của ca khúc là Ngô Thụy Miên: “Hình như Neige cũng thích Du Tử Lê, chính xác hơn thì thích Khúc Thụy Du của Ngô Thụy Miên” (trang 58). Và tất nhiên ở thời điểm mùa hè 1967, không ai có thể hát nghêu ngao Khúc Thụy Du.
Việc nhầm lẫn về thời điểm sáng tác thơ, thời điểm sáng tác nhạc, nhầm lẫn cả tác giả bài hát, cho thấy Huỳnh Trọng Khang không hiểu về Du Tử Lê, không hiểu về Khúc Thụy Du của Anh Bằng, không hiểu về nội dung ý nghĩa của Khúc Thụy Du. Tác giả chỉ muốn dựa tên người nổi tiếng, mượn tên bài hát để tạo thêm chút không khí cho tác phẩm của mình.
Trang 36, nhân vật vỗ ngực bảo rằng: “Tôi dám đảm bảo rằng nếu viết ra mà đăng báo Tuổi Ngọc thì khối em say mê, không thua gì chuyện của Duyên Anh”. Báo Tuổi Ngọc - Tuần báo của yêu thương, chủ bút Duyên Anh, quản lý Vũ Mộng Long số đầu tiên ra ngày 25.7.1969. Chi tiết này những người hiểu biết về Sài Gòn và đời sống văn nghệ Sài Gòn ngày xưa đều biết.
Ngày 23.11.1967 nhân vật chính, tức con trai tướng quân, đưa cô người yêu mới về nhà trọ. Và “chiếc đĩa của Ngọc Lan quay đều. Thà là giọt mưa. Nguyễn Tất Nhiên là tác giả của bài thơ được phổ nhạc - trang 168”. Một lần nữa, Huỳnh Trọng Khang lại nhầm lẫn thời điểm sự việc. Nguyễn Tất Nhiên sinh năm 1952, năm 1967 ông mới 15 tuổi, chắc chắn chưa sáng tác bài thơ Khúc tình buồn mà sau này được Phạm Duy phổ thành bài hát: Thà như giọt mưa. Khúc tình buồn được Nguyễn Tất Nhiên sáng tác mãi 3 năm sau đó, tức năm 1970.
Không chỉ có vậy, ở thời điểm năm 1967, ca sĩ Ngọc Lan mới chỉ là cô bé 11 tuổi. Hẳn là tác giả đã nhầm một ca sĩ nào đó khác với nàng. Hoặc giả Huỳnh Trọng Khang cũng chẳng quan tâm đến những chi tiết xuất hiện, làm nền trong câu truyện của mình.
Vẫn trang 168, cô người yêu khi đến nhà nhân vật chính, đã đứng giở cuốn sách: Siêu hình tình yêu, siêu hình sự chết của Arthur Schopenhauer. Tôi tự hỏi tác giả có thật sự biết quyển sách này không? Schopenhauer được dịch từ năm 1967 ư? Tôi có biết một quyển Siêu hình tình yêu, siêu hình sự chết cũng của Arthur Schopenhauer, nhưng được nhà Kinh Thi xuất bản năm 1971. Tác giả có vẻ quen kiểu ngồi salon thấy tựa sách thì vay mượn đem về trang hoàng cho nhân vật của mình.
Trang 135 - tác giả Huỳnh Trọng Khang viết: “Phong trào hát cho dân tôi nghe nổi dậy, khắp nơi người ta hát Người mẹ Bàn Cờ”. Đúng là miền Nam từng có phong trào hát cho dân tôi nghe, manh nha từ năm 1961 nhưng rất tiếc, thời điểm năm 1967, bài hát đó chưa ra đời. Người mẹ Bàn Cờ mãi đến tận đầu năm 1970, khi nhà thơ Nguyễn Kim Ngân tham gia "Đêm uất hận" nhằm phản đối việc tàn sát Việt kiều bên Campuchia, chứng kiến cảnh tình lúc đó, ông mới viết bài thơ Người mẹ Bàn Cờ, rồi năm sau, tức năm 1971, nhạc sĩ Trần Long Ẩn mới phổ nhạc bài thơ này.
Chi tiết này cho thấy tác giả mặc dù rất muốn lấy lòng giới trí thức yêu nước, nhưng đã không hiểu biết gì về phong trào biểu tình, phong trào học sinh sinh viên của miền Nam bấy giờ. Có thể kể thêm ở trang 16, tác giả viết “thành thị sục sôi bởi những cuộc biểu tình từ ký giả ăn mày”. Phong trào ký giả ăn màyphải đến năm 1974 mới nổ ra để phản đối Sắc luật 007 của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu.
Không chỉ giả dối để mua lòng những người yêu văn hóa miền Nam, yêu không khí sinh hoạt văn nghệ miền Nam, những người trí thức yêu nước, tác giả Huỳnh Trọng Khang còn bằng mọi giá vay mượn các tình tiết kiếm hiệp, còn được gọi với cái tên bình dân “truyện chưởng” để tiếp tục tô điểm cho câu chuyện của mình.
Trang 79 - khi nhân vật tôi gặp người bạn ở quán cà phê có một cuộc đối thoại:
“Kim Dung hả?” gã chỉ cuốn sách tôi đang đọc
“Ừ, Cửu âm chân kinh”
“Vô tình kiếm khách, đa tình kiếm...”
Cửu âm chân kinh được nhắc tới rất nhiều trong bộ ba “truyện chưởng” Kim Dung: Xạ điêu anh hùng truyện (được dịch với tiêu đề Anh hùng xạ điêu), Thần điêu hiệp lữ (được dịch với tiêu đề Thần điêu đại hiệp) và Ỷ thiên đồ long ký(được dịch với tiêu đề Cô gái Đồ Long).
Thời điểm năm 1967 đúng là có bộ Anh hùng xạ điêu do Phan Cảnh Trung và Đà Giang Tử dịch, Hương Hoa xuất bản. Nhưng câu dưới thì nhầm lẫn không thể chấp nhận được. Một cây bút đại thụ khác, đồng thời và nổi tiếng tương đương Kim Dung, đó là Cổ Long có một bộ truyện rất nổi tiếng ở những thập niên 60, 70, đó là Đa tình kiếm khách vô tình kiếm. Những fan hâm mộ Cổ Long bấy giờ luôn tâm đắc với câu “người đa tình nhưng kiếm thì vô tình”. Tác giả đã không thực sự am hiểu lĩnh vực kiếm hiệp, đem ghép không đầu không cuối một câu Kim Dung với một câu Cổ Long, và tệ hại hơn nữa, đã viết ngược cả tên tác phẩm thành Vô tình kiếm khách đa tình kiếm. Tôi cho rằng Huỳnh Trọng Khang chỉ góp nhặt những ghi nhớ láng máng để làm màu cho nhân vật của mình. Cũng cần lưu ý rằng bộ Đa tình kiếm khách vô tình kiếm của Cổ Long được xuất bản lần đầu tiên năm 1968, sau thời điểm diễn ra trong tác phẩm của Huỳnh Trọng Khang.
Qua hơn 200 trang sách Mộ phần tuổi trẻ, dễ dàng nhận ra Huỳnh Trọng Khang thường xuyên dùng thơ xưa, nhạc cũ để tạo không khí hoài cổ cho truyện của mình, nhưng tác giả hoàn toàn bỏ qua yếu tố quan trọng bậc nhất tính hợp lý và phù hợp của thời điểm sáng tác, những tình tiết nhầm lẫn bị gượng ép vào một cách lạc phách như vậy.
Việc đi vay mượn quá nhiều những đoạn trích, những cái tên tác giả, tên tác phẩm nổi tiếng sẽ rất dễ làm cho người đọc bị dội ngược, làm cho một tác phẩm văn chương trở nên thiếu tự nhiên, thiếu đi sức sống.
Với cách làm việc hời hợt thiếu nghiêm túc, thiếu sự tìm tòi tra cứu, thiếu trải nghiệm thực tế, Mộ phần tuổi trẻ thực sự là một lời cảnh báo cho nền xuất bản văn học trẻ nước nhà. Nếu một tác phẩm nhiều sai sót cứ được lăng xê, thổi phồng quá mức, có hay không sẽ làm một thế hệ các cây viết ảo tưởng về thành công, dễ dãi và vô trách nhiệm với chính tác phẩm của mình?

Thứ Năm, 12 tháng 10, 2017

ĐỖ TRUNG LAI PHÁ NÁT ĐƯỜNG THI- DƯƠNG KỲ ANH BỐC THƠM ĐỖ TRUNG LAI, KHÔNG XỨNG DANH KẺ SĨ!


Đỗ Hoàng 

Tôi đã có bài viết mấy năm trước về Dương Kỳ Anh bốc thơm thơ thủm Hoàng Quang Thuận “Phù thủy Dương Kỳ Anh bốc thơm thơ thủm Hoàng Quang Thuận”. Hoàng Quang Thuận là tay anh chị không biết làm thơ, làm thơ chưa sạch nước cản, thế mà Dương Kỳ Anh phù phép: hai người vào ở khách sạn, cùng ký vào gần hai trăm tờ giấy, sáng ra Hoàng Quang Thuận đã làm đến 150 bài thơ thiền về Yên Tử, 150 bài thơ thiền về Hoa Lư. Thật là bố láo, bố khoét không có đời nào chịu thấu và tưởng tượng ra thời nay họ làm tiền cả thần phật, văn chương. Nguyễn Trãi, Nguyễn Bính Khiêm, các sư thiền cả đời sống với , yêu Yên Tử mới làm nổi một hai bài. Tay Hoang Quang Thuận vô danh tiểu tốt nào mà một đêm làm gần 200 bài thơ thiền về Yên Tử, Hoa Lư. Một sự phù thủy, tâng bốc đểu cáng của Dương Kỳ Anh thật là vô tiền khoáng hậu. Dương Kỳ Anh còn cao giọng ở cuộc hội thảo thơ Hoàng Quang Thuận do Hội Nhà văn tổ chức, cử tọa có nhiều nhà văn, nhà thơ, bạn đọc cùng thứ trưởng, ngoại giao Nguyễn Chiến Thắng và nguyên bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Di Niên, những kẻ không biết thơ phú văn chương là gì!
Lần này Dương Kỳ Anh lại bốc thơm Đỗ Trung Lai dịch Đường thi - “Đỗ Trung Lai và 100 nhà thơ Đường”. Đỗ Trung Lai là một anh chữ Hán bẻ đôi không biết, cả viết, cả nói, cả nghe không mảy may biết một tí gì. Đỗ Trung Lai đã tự nhận điều đó. Việc dịch tiếng nước ngoài ra tiếng ta thì phải biết ngoại ngữ, không biết làm sao dịch được. Vì sao Đỗ Trung Lai không biết tí ti chữ Hán lại dịch các thi hào đời Đường và được các nhà xuất bản, nhất là nhà xuất bản Giáo dục in đến 4, 5 cuốn sách , cuốn nào cũng từ ba, bốn trăm trang có cuốn gần 1000 trang. Rồi lại được đám cánh hữu mang tiếng là trí thức, nhà báo, nhà văn, họa sỹ lăng xê thổi kèn rồi được báo viết, báo hình, báo nghe phỏng vấn, ghi hình, ghi tiếng, phát sóng làm um xùm văn trường và thị trường! Người đọc, học sinh, sinh viên, nhân dân… không biết đâu mà lần!
Nguyên nhân Đỗ Trung Lai phù phép được là thế này:
1 - Văn hóa Hán vào nước từ hàng nghìn năm nay. Văn chương cũng vào thời gian như vậy
2 – Đường thi được các học giả, trí thức, nhà thơ, nhà văn xưa dịch nghĩa, dịch thơ phổ biến trong dân chúng. Ngay thời Cách mạng Đường thi cũng được dịch rất nhều. Ngoại Bắc có Thơ Đường hai tập - Nhà xuất bản Văn hóa in năm 1962. Trong Nam (Sài Gòn ) cũng được in nhiều. Tóm lại Đường thi rất phổ cập.
3 – Các bản dịch nghĩa của các túc nho thời trước khá chuẩn, đọc bản dịch nghĩa cũng hiếu được thần thái bài thơ.
4 – Đỗ Trung Lai không biết một chữ Hán nhưng láu cá đọc qua bản dịch nghĩa, đọc bản dịch thơ của các nhà thơ, học giả rồi thêm bớt một vài chữ cho có vẻ mình dịch, rồi lòe thiên hạ, rồi có chút danh nhà thơ Quốc gia lại lòe các nhà xuất bản bỏ tiền ra in thơ Đường Đỗ Trung Lai dịch , rồi đưa vào nhà trường gây tác hại muôn đời cho con cháu.
Dương Kỳ Anh cũng là tên lưu manh, phù thủy. không hiểu Đường thi lại đì tâng bốc. thối kèn cho kẻ phá hoại Văn hóa nhân loại. Cũng như Phan Cẩm Thượng, không biết Đường thi cũng tâng bốc Đỗ Trung Lai lên mây xanh!
Tôi đã có ba bài viết về việc Đỗ Trung Lai dịch Đường thi. “Đỗ Trung Lai dịch phá nát Đường thi”. Lần này phê phán Dương Kỳ Anh bốc thơm Đỗ Trung Lai!



Nhà thơ Dương Kỳ Anh

Dương Kỳ Anh viết:
“Những câu thơ hay Đông-Tây-Kim-Cổ” do tôi sưu tầm và biên soạn, phần về các nhà thơ Đường tôi đã chọn nhiều bài do Tản Đà, Trần Trọng Kim, Ngô Tất Tố, Nam Trân… dịch. Nhưng tôi vẫn để nhiều câu thơ hay của Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị… do Đỗ Trung Lai dịch vì tôi thấy dịch rất có hồn.
Nhà cao ai đứng trong gương/ Trông lên tóc bạc mà thương phận người (Bài Tương tiến tửu của Lý Bạch - Đỗ Trung Lai dịch).
Công đức thì sút kém/ Văn chương cũng suy đồi/ Vẫn thấy đào núi đá/ Dựng thành bia giữa trời (Bài Lập bia của Bạch Cư Dị - Đỗ Trung Lai dịch).”
Câu nguyên bản trong bài “Tương tiến tửu” của Lý Bạch là:
李白


Cao đường minh kính bi bạch phát,
Triêu như thanh ty mộ thành tuyết.
Nơi lầu cao, người soi gương buồn nhìn tóc bạc trắng
Sáng còn tơ xanh, chiều đã thành tuyết
Đỗ Trung Lai :
“Nhà cao ai đứng trong gương
Trông lên tóc bạc mà thương phận người”

Là vè phịa của Đỗ Trung Lai. Thơ Lý Bạch hiện đại hơn hậu hiện đại bây giờ, Đỗ Trung Lai chuyển nó ra vè mà chuyển không đúng, sai cả nghĩa, cả ý, cả lời, cả thần thái. Lại còn vớ vẫn nữa. Trong nguyên bản “Cao đường minh kính bi bạch phát” – Gương sáng lầu cao chiếu nỗi buồn tóc bạc”, “Triêu như thanh ti, mộ thành tuyết” – Sớm tơ xanh, chiếu ra tuyết” Có ai đứng ở đâu trong tấm gương. Tấm gương ai mà đứng vào được(!) Chiếu tóc bạc, sao lại trông lên tóc bạc. Rồi còn thương phận người ! Ở dâu ra? Quá lố bịch. Đỗ Trung Lai dịch phá Đường thi, hay hạ thấp và hạ nhục thiên tài. Bài thơ Tương tiến tửu hiện đại như thế mà Đỗ Trung Lai chuyển nó ra vè Việt, mà vè quá thối! Thua cả vè “Lá lốt”.
Nguyên bản:



Quân bất kiến
Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai
Bôn lưu đâó hải bất phục hồi
(Anh chẳng thấy
Nước sông Hoàng từ trên trời đổ xuống
Cuồn cuộn chảy tuôn ra biển không quay trở lại.)
Câu thơ cuộn trào như sóng, mạnh mẽ như như rồng bay, như tuấn mã cao phi như thế, các nhà thơ hậu hậu hiện đại bây giờ học chán. Thế mà Đỗ Trung Lai cho nó ra vè à ơi a, a, ta, ba, la xa…. Mà vè sai cả nghĩa từ trong nội dung, chưa nói thần thi, linh tự…
Đỗ Trung Lai dịch:
"Anh không thấy
Nước trời rơi mãi
Thành mênh mông một dải Hoàng Hà
Chẩy mau về với biển xa
Có trôi trở lại cùng ta bao giờ…"

Đúng là vẽ rắn thêm chân!
Dịch thế này mà Dương Kỳ Anh cho đứng bên các tài danh dịch giả: Tản Đà, Ngô Tất Tố, Khương Hữu Dụng, Nhượng Tống, Khái Hưng, Nam Trân, Hoàng Tạo, Tương Như, thật là hỗn xược!
Còn bài Lập bi của Bạch Cư Dị nguyên bản:

白居易;




Huân đức ký hạ suy,
Văn chương diệc lăng di.
Đãn kiến sơn trung thạch,
Lập tác lộ bàng bi. ..
(Công đức đã sút kém
Văn chương cũng suy đồi
Vẫn thấy tấm đá lấy từ trong núi
Dựng thành bia bên đường)

Không cần trình độ Hán học, chỉ thạo một chút thơ ngũ ngôn là chuyển đoạn trên ra được thơ Việt.
(Công đức đã sút kém
Quá suy đồi văn chương
Lấy tấm đá trong núi
Dựng bia phơi bên đường)

Đỗ Trung Lai dịch:

“Công đức thì sút kém
Văn chương cũng suy đồi
Vẫn thấy đào núi đá
Dựng thành bia giữa trời”

Câu nào, bài nào Đỗ Trung Lai cóp nguyên rồi thêm vài ý, vài chữ của mình cho có sáng tạo, trên vần ồi, thì chọn vần ời là Trời. Nhưng trời đâu ở đây! Dịch thêm thắt làm sai cả hồn thơ, sai nội dung nguyên bản của các thi hào!
“Lập tác lộ bàng bi” (Lập bia bên đường), chứ có “Lập tác thiên bàng bi” đâu mà “Dựng thành bia giữa trời”
Hàng vạn, hàng vạn cái sai, cái sót, cái ngu, cái dốt của Đỗ Trung Lai nhưng vậy mà Dương Kỳ Anh luôn mồm bốc thơm:
“Đỗ Trung Lai tặng tôi tập thơ của anh mới xuất bản. Ơ thờ ơ thơ (Không biết tôi viết thế có đúng không vì bìa thơ hình như tác giả cố tình chơi chữ?) và cuốn 100 nhà thơ Đường do Đỗ Trung Lai biên soạn và dịch thơ.
Cuốn sách dày 828 trang với giá bán là 300.000 đồng. Rất nhiều nhà thơ Đường quen thuộc mà tôi đã đọc và nhiều nhà thơ đời Đường bây giờ tôi mới biết tên. Những Vương Tích, Dương Quýnh, Vương Bột, Lạc Tân Vương, Lư Chiếu Lân, Trần Tử Ngang, Vi Thừa Khánh, Đỗ Thẩm Ngôn, Thẩm Thuyên Kỳ, Tiết Tắc, Tống Chi Vấn, Đương Huyền Tông, Trương Thuyết, Tô Dĩnh, Hạ Tri Chương, Trương Húc, Vương Hàn, Trương Cửu Linh, Từ Anh Trinh, Vương Loan, Vương Xương Linh, Mạnh Hạo Nhiên, Bùi Địch, Vương Duy, Thôi Hiệu, Lý Tích Chi Sầm Than…
…Trước đây, tôi cũng có đọc Đỗ Mục đời vãn Đường, người được ví như là Đỗ Phủ đời Thịnh Đường. Nhưng nay, đọc cuốn "100 nhà thơ Đường" do Đỗ Trung Lai biên soạn và dịch, tôi hiểu thêm nhiều điều, nhiều bài thơ hay của Đỗ Mục do Đỗ Trung Lai dịch, tôi lấy làm thích thú:
Kích gãy, chìm sâu dưới đáy sông/ Mài qua là gặp dấu cha ông/ Gió đông không giúp Chu Công Cẩn/ Hai Kiều thoát nổi khóa xuân không?”
Nguyên bản:
杜牧



便


Xích Bích hoài cổ
Chiết kích trầm sa thiết vị tiêu,
Tự tương ma tẩy nhận tiền triều.
Đông phong bất dữ Chu lang tiện,
Đồng Tước xuân thâm toả nhị Kiều.

Dịch nghĩa
Mũi kích gãy nằm trong cát, sắt chưa mòn hết,
Tự tay mình mài rũa, đã nhận thấy dấu vết triều đại vừa qua.
Gió đông ví không thuận tiện cho chàng Chu Du,
Thì cảnh xuân thâm nghiêm của đài Đồng Tước đã khoá chặt hai nàng Kiều.
Tiền nhân đã dịch rất hay:
(Cát vùi lưỡi kích còn trơ
Rửa mài nhận dấu triều xưa rõ ràng
Gió đông nếu phụ Chu lang
Một đền Đồng Tước khóa xuân hai Kiều!)
(KD)
Đỗ Trung Lai dịch:
(Kích gãy chìm ngay dưới đáy sông
Mài qua là gặp dấu cha ông
Gió đông không giúp Chu Công Cẩn
Hai Kiều thoát khỏi khóa xuân không?)
Bài dịch quá khôi hài như phường chèo, yếu kém toàn diện.

Về nội dung: “Trầm sa” là vùi trong cát, chứ không có đáy sông nào đây. “Nhận tiền triều” – nhận ra các triều vua trước. Triều vua chứ không phải cha ông!
Về nghệ thuật: Thơ tứ tuyệt làm sai niêm (gãy chữ thứ 2 câu 1 không niêm với kiều chữ thứ 2 câu 4) và dẫn đến “ nhất, tam , ngũ bất luận; nhị, tứ, lục phân minh sai lung tung! Nghệ thuật dùng vần rất kém, đã 3 vần ông rồi, còn thêm 3 vần ông nữa làm cho bài thơ tứ tuyệt quá nặng nề, không thanh thoát. Nói chung ý tứ, hồn vía dịch rất kém!
Dịch thế này thì:
“Thời sự thả vị đạt
Quy canh Vấn thủy canh”
(Thơ phú kém như thế
Về Hà Nhì đi cày)
Còn nhiều nhiều cái sai, cải hỏng kể không hết.
Một bài nữa Dương Kỳ Anh cũng tụng ca hết lời:
“Vườn Kim Cốc” là bài thơ nổi tiếng của Đỗ Mục do Đỗ Trung Lai sưu tầm và dịch đã thực sự cảm hóa tôi.
Dịch nghĩa: Sự phồn hoa đã tan theo hơi bụi / Nước chảy vô tình, cỏ cứ xanh tốt / Buổi chiều gió đông thổi đến một tiếng chim buồn thương / Hoa rụng tựa như người xưa nhảy lầu rơi xuống.
Dịch thơ: Phồn hoa theo cát bay đi / Nước trôi, cỏ mọc, còn gì nữa đâu / Gió chiều vọng tiếng chim sầu/ Hoa rơi, ta tưởng trên lầu người rơi.
Rất nhiều bài thơ của các nhà thơ đời nhà Đường trong cuốn sách do Đỗ Trung Lai soạn và dịch thơ đã mang đến cho người yêu thơ nhiều hiểu biết và cảm hứng khác lạ…”
Nguyên bản:
杜牧
金谷園
繁華事散逐香塵,
流水無情草自春。
日暮東風怨啼鳥,
落花猶似墮樓人。

Kim Cốc viên
Phồn hoa sự tán trục hương trần,
Lưu thuỷ vô tình thảo tự xuân.
Nhật mộ đông phong oán đề điểu,
Lạc hoa do tự truỵ lâu nhân.
Dịch nghĩa
Những việc phồn hoa đã tan tác theo lớp bụi thơm
Nước vô tình chảy, cỏ cứ tự tươi thắm
Chiều về chim kêu ai oán trong gió đông
Hoa rụng mà còn như người nào (năm xưa) nhảy xuống lầu
Các tiền nhân dịch thơ:
Bản dịch của Trần Trọng San
Phồn hoa tan tác bụi trần
Vô tình nước chảy cỏ xuân tươi màu
Gió đông ai oán chim sầu
Hoa rơi giống kẻ rơi lầu ngày xưa
Ban dịch: Trần Trọng Kim
Việc bộn rộn làm xong hóng mát
Nước chảy vô tình, mượt cỏ xuân
Gió chiều chim hót xa gần
Hoa rơi, tựa khách gieo thân trên lầu
Bản dịch của Anh Nguyên
Phồn hoa hết, sạch hương đời,
Thờ ơ nước chảy, cỏ tươi thắm màu.
Gió đông hờn tiếng chim sầu,
Hoa rơi tựa gái gieo lầu thuở xưa...

Bản dịch Như Tương:
Phồn hoa tan tác bụi rơi
Vô tình nước chảy cỏ tươi nhạt nhàu
Gió chiều chim hót mà đau
Hoa rơi như thể trên lầu người rơi!
Đỗ Trung Lai dịch, nhặt chỗ này một tí, chỗ kia một tí làm ra bài dịch của mình, rồi cóp lại của tiền nhân mà còn cóp sai.
Như nguyên bản không có “ta”- ngã đâu mà Đỗ Trung Lai vẫn tự thêm “ta" cho có “sáng tạo” trong dịch(!)
Như đã phân tích ở các bài trước, nhà thơ Đỗ Trung Lai dịch Đường thi không có sáng tạo gì hết, chỉ dựa vào các bản dịch của các nhà thơ nổi tiếng trước, chữ dùng rất cũ, không Việt hóa như tiền nhân, ý tứ, hồn phách rất kém. Ông lại thêm thắt ý chủ quan của mình nên các bản dịch khác xa nguyên bản và sai lầm lớn! Ông dựa vào các bản dịch nghĩa để dịch ra thơ. Bản dịch nghĩa dù có sát nghĩa đến đâu vẫn không thể lột tả nguyên bản, nhất thơ của các thi hào và đại thi hào. Và gặp những bài không có dịch nghĩa, gặp các tác giả đi trước dịch sai thơ thì Đỗ Trung Lai càng dịch sai một cách trầm trọng và nguy hại! Ví như bài thơ Hí tặng Đỗ Phủ của Lý Bạch sau đây:
李白





Hí tặng Đỗ Phủ
Phạn Khoả sơn đầu phùng Đỗ Phủ,
Đầu đới lạp tử nhật trác ngọ.
Tá vấn biệt lai thái sấu sinh,
Tổng vị tòng tiền tác thi khổ.
Nghĩa:
Ăn cơm đầu núi Khỏa bất ngờ gặp nhà thơ Đỗ Phủ
Nón lá đội đầu đứng sững giữa trưa nắng
Ướm hỏi từ độ xa nhau đến nay thần sắc sao gầy yếu đến thế
Từ trước đến giờ chắc vì lao lực với thơ nên mới khổ
Bản dịch Đỗ Trung Lai
Giữa trưa qua đầu núi Phạn Quả
Tình cờ gặp lại ông Đỗ Phủ
Nón lá, thân gầy đến thế ư?
Phải vì đục đẽo thơ mà khổ?
Dịch thế này có nguy hại không? Phạn là cơm, ăn cơm . Trong chữ Hán có 5 chữ Phạn, hết ba chữ chỉ cơm, ăn cơm. Không có núi Phạn Quả nào ở trong bài thơ đùa của Lý Bạch tặng Đỗ Phủ ! Sai lầm dịch như thế thật không thể tha thứ được.
Đỗ Trung Lai cũng thuộc loại háo danh, cuồng danh và muốn làm kinh tế trong việc dịch Đường thi. Không biết bằng cách nào mà ông thuyết phục được nhà xuất bản Giáo dục in liên tiếp bốn năm cuốn, mỗi cuốn từ 400 trang cho đến gần 1 000 trang in với số lượng lớn, do ông dịch từ Lý Bạch , Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị và 100 nhà thơ Đường khác phát hành rộng rãi trong nhà trường. Đây cũng là một kiểu Đạo Chích trong kinh tế, trong khoa học và trong văn chương cần thu hồi những ấn phẩm kém nát này và pháp luật phải ra tay với Đỗ Trung Lai và những cá nhân, tập thể tiếp tay cho Đỗ Trung Lai trong đó có Dương Kỳ Anh, Phan Cẩm Thượng…!

Hà Nội ngày 25 – 7 – 2017