Thứ Ba, 2 tháng 5, 2017

Điệp viên giỏi nhất của CIA ở VN









Quân đội Mỹ sử dụng nhiều tình báo trong cuộc chiến Việt Nam

Tiếp theo phần một loạt bài về các điệp viên ít được biết đến trong cuộc chiến Việt Nam, BBC giới thiệu nhân vật Võ Văn Ba, người được gọi là điệp viên 'giỏi nhất của CIA ở Việt Nam.'
Tư liệu dựa trên bài thuyết trình “Những điệp viên vô danh nổi tiếng nhất trong cuộc chiến Việt Nam" của ông Merle Pribbenow.
Bài này đã đọc tại hội thảo “Tình báo trong Chiến tranh Việt Nam”, ở Trung tâm Việt Nam thuộc Đại học Công nghệ Texas.

Đọc phần một loạt bài tại đây
Orrin DeForest, một nhân viên CIA phục vụ sáu năm ở Việt Nam, nhắc đến con người này với mật danh “Reaper” trong cuốn sách “Slow Burn: The Rise and Bitter Fall of American Intelligence in Vietnam.” Một chuyên viên khác của CIA, John Sullivan, nói ông ta là “điệp viên giỏi nhất mà chúng ta từng có ở Việt Nam.” Còn trong cuốn tiểu sử về sếp CIA ở Sài Gòn Ted Shackley, tác giả David Corn dẫn ra một sự đánh giá thời hậu chiến của CIA rằng điệp viên này là “nguồn tin đáng tin cậy nhất về ý định của cộng sản” ở Việt Nam.
Frank Snepp, một nhà phân tích tình báo có đôi lần gặp con người này, gọi ông ta là “điệp viên hàng đầu của chúng ta” ở Việt Nam. Văn phòng của CIA ở Sài Gòn thì đơn giản gọi ông này là “nguồn tin Tây Ninh.” Sau 1975, những người cộng sản mô tả nhân vật này là “điệp viên nguy hiểm trung thành với CIA” và nói CIA xem ông ta là “điệp viên có giá nhất tại Đông Dương” của CIA.
Con người này là ai?
Tên của người này là Võ Văn Ba. Theo các ghi chép của phía cộng sản, nhân vật này, sinh năm 1923, là một đảng viên cộng sản phụ trách tuyển mộ đảng viên mới ở khu vực Tòa thánh Cao Đài và thành phố Tây Ninh.
Có những ghi nhận khác nhau về cách làm thế nào và nhờ ai mà điệp viên này được tuyển mộ cho CIA. Orrin DeForest nói chú của ông Ba, ban đầu theo Việt Minh nhưng sau trở thành sĩ quan phục vụ trong ngành An Ninh Quân Đội của miền Nam, đã thu dụng người cháu. David Corn và John Sullivan viết rằng chú của Ba, người mà họ chỉ nói là một sĩ quan miền Nam, đã tuyển Ba làm chỉ điểm cho cảnh sát quốc gia Việt Nam Cộng Hòa.
Trước khi CIA vào cuộc, có vẻ Ba làm việc một thời gian cho quân đội Mỹ. Theo John Sullivan, một người trong CIA nói Ba từng làm cho tình báo quân đội Mỹ.

Không lâu sau khi đến tỉnh Tây Ninh năm 1969, sĩ quan CIA đầu tiên phụ trách Ba đã nhanh chóng chuyển điệp vụ mà lâu nay tiến hành khá nghiệp dư trở thành một hoạt động tình báo chuyên nghiệp, đặt dưới sự kiểm soát trực tiếp của CIA.
Hoạt động
Từ nay ông Ba được yêu cầu báo cáo về những mục tiêu chiến lược, các kế hoạch hành động mang tính chất toàn quốc, chứ không còn là những mục tiêu chiến thuật cấp thấp. Ông Ba ở trong vị trí lợi thế để lấy được những thông tin chiến lược vì trong suốt giai đoạn này, trụ sở chính của Trung Ương Cục Miền Nam đặt rất gần chỗ ông, có lúc bên trong tỉnh Tây Ninh, có lúc ở tỉnh Bình Long kế cận. Các báo cáo của người này được chuyển qua các kênh thông tin của CIA, và chỉ một số ít người biết về sự tồn tại của Ba.


Quân Mỹ sử dụng thông tin tình báo để tiến hành các cuộc tấn công

Để bảo đảm bí mật, chỉ một sĩ quan Cảnh Sát Đặc Biệt miền Nam và một nhân viên người Việt ở văn phòng CIA ở Tây Ninh được phép gặp mặt Ba ở Tây Ninh. Chỉ thỉnh thoảng Ba mới gặp nhân viên CIA người Mỹ và cũng chỉ gặp ở địa điểm mật tại Sài Gòn.
Thông tin mà ông Ba cung cấp thường xuyên được sử dụng trong các đánh giá của tình báo Mỹ về kế hoạch của phe cộng sản. Ngoài ra, mặc dù Ba chuyên môn theo dõi các khía cạnh chính trị chứ không phải quân sự, nhưng thỉnh thoảng ông cũng báo trước các cuộc tấn công ở khu vực Tây Ninh.
Tuy nhiên, vẫn có những câu hỏi về sự trung thành của ông Ba đối với CIA. Mấy lần kiểm tra ông bằng máy thử nói dối đều có kết quả không làm CIA hài lòng. Năm 1971, hai năm sau khi CIA tuyển mộ Ba, họ phát hiện rằng Ba vẫn ngầm liên lạc và báo cáo cho tình báo quân đội Việt Nam Cộng Hòa. CIA ngay lập tức liên lạc và yêu cầu quân đội Miền Nam ngừng mọi giao thiệp với Ba. Một số sĩ quan CIA cũng đặt câu hỏi làm sao Ba lại không bị Việt Cộng phát hiện mặc dù các điệp viên cộng sản đã xâm nhập vào toàn bộ các tổ chức tình báo của miền Nam, những nơi biết về sự tồn tại của con người này. Nhưng rốt cuộc, sự chính xác trong các báo cáo của Ba làm tan biến mọi hồ nghi, và giới tình báo miền Nam và Mỹ xem Ba là tài sản quý giá của họ.
Những người cộng sản cũng ngày một nhận ra là họ có kẻ phản bội trong hàng ngũ. Những thiệt hại ở khu vực Tây Ninh năm 1969, những dấu hiệu là đối phương biết trước ý định tấn công, khiến những người cộng sản nghi ngờ trong nội bộ của họ có điệp viên. Một nữ cán bộ được cử điều tra tại Tây Ninh, nơi Ba có nhiệm vụ tuyển mộ và tổ chức chi bộ đảng. Nhưng nhà nữ điều tra này lại bị an ninh miền Nam bắt được khi bà đi vào địa giới do Việt Nam Cộng Hòa kiểm soát, và bà bị giam cho đến hết cuộc chiến. Không có tư liệu cho biết liệu có phải ông Ba đã báo cho an ninh miền Nam bắt người này hay không.
Cuộc truy tìm nội gián trở nên gấp rút tới mức, theo một loạt các bài báo đăng trên báo chí Việt Nam năm 2004, một trong những điệp viên cao cấp của cộng sản trong chính quyền miền Nam, Nguyễn Văn Tá (tức Ba Quốc), được giao nhiệm vụ săn lùng nội gián vào năm 1972.
Ông Ba Quốc đoán rằng hồ sơ mà ông muốn có thể nằm trong một tủ khóa ở Nha điệp báo (ban K) thuộc Phủ Đặc ủy trung ương tình báo. Ông vào được nơi này và định mở khóa, nhưng lại có người vào bất thình lình, khiến ông đành bỏ dở. Hai năm sau, các hoạt động của chính ông Ba Quốc bị phát hiện và ông phải trốn vào căn cứ cách mạng ở đồng bằng sông Cửu Long.
Đoạn kết
Hồ sơ mật về ông Võ Văn Ba được an toàn cho đến ngày Sài Gòn sụp đổ hôm 29-4-1975. Khi quân đội cộng sản chiếm văn phòng Phủ Đặc ủy trung ương tình báo ở Sài Gòn, Viễn Chi, Cục Trưởng Cục Tình Báo của Bộ Công an Bắc Việt, được nói là đã tìm thấy hồ sơ về Ba trong ngăn khóa của Nguyễn Khắc Bình, Tổng giám đốc cảnh sát quốc gia.
Cho đến khi cuộc chiến gần kết thúc, ông Ba tiếp tục có những báo cáo giá trị cho CIA. Thế nhưng đến tháng một năm 1975, khi Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Bắc Việt ra Nghị Quyết tổng tấn công để “dứt điểm” Miền Nam Việt Nam, Võ Văn Ba đã không báo động trước cho CIA về Nghị Quyết nầy. Đây không phải lỗi của Ba mà là do Cộng sản nghi là có người phản bội trong hàng ngũ của họ, thành ra giới lãnh đạo Trung Ương Cục Miền Nam đã quyết định không phổ biến Nghị Quyết mới cho cấp dưới.
Vào giữa tháng Tư 1975, ông Ba cho CIA một loạt báo cáo cuối cùng mô tả chung chung kế hoạch tấn công Sài Gòn của Bắc Việt. Những báo cáo này được xem trọng đến mức chúng được đưa vào bản phúc trình năm 1976 của đại sứ Mỹ Martin trước một ủy ban của Quốc hội Mỹ về việc sơ tán khỏi Sài Gòn. Nhưng vào lúc Ba chuyển những báo cáo này thì số phận của miền Nam đã được định đoạt. Thực tế, số phận của chính ông Ba cũng được định đoạt, mặc dù lúc này ông chưa biết.


Điệp viên Võ Văn Ba bị bắt đúng ngày 30-4-1975

Khi Sài Gòn sắp sụp đổ, CIA đề nghị đưa Ba và gia đình sang Mỹ. Nhưng ông này lại từ chối, nói là muốn ở Việt Nam thay vì khởi nghiệp từ đầu ở xứ người trong lúc tuổi đã cao. CIA hứa họ sẽ làm mọi cách để ngăn không cho hồ sơ về ông Ba rơi vào tay đối phương. Tuy vậy, lúc đó quân đội cộng sản đã bắt được và tra hỏi một người mà có lẽ biết hoạt động của ông Ba rõ hơn ai hết.
Theo các ghi chép hậu chiến của Việt Nam, ông Nguyễn Văn Phong (hay Nguyễn Sĩ Phong) là một người di cư miền Bắc 33 tuổi làm việc cho văn phòng CIA ở Tây Ninh. Ông Phong là người liên lạc của Ba ở CIA kể từ 1969, ngay sau khi CIA tuyển mộ Ba. Sau nhiều năm làm việc trực tiếp với Ba, sau này ông Phong rời khỏi Tây Ninh và làm ở văn phòng CIA ở Ban Mê Thuột.
Ngày 10-3-1975, lực lượng cộng sản nhanh chóng chiếm được Ban Mê Thuột. Ông Phong và gia đình chạy đến nhà của Paul Struharik, đại diện của USAID và là nhân viên người Mỹ duy nhất còn ở lại trong tỉnh. Nhưng ngôi nhà lập tức bị bao vây và mọi người trong đó bị bắt.
Ông Phong thú nhận ông đã làm việc cho CIA và khai ra tên của Võ Văn Ba. Ngày 29-4-1975, quân cộng sản chiếm thành phố Tây Ninh và bắt được Phan Tất Ngưu, sĩ quan miền Nam phụ trách trường hợp ông Ba. Bản thân ông Ba bị bắt ngày 30-4.
Phía Việt Nam nói ông Ba tự sát ngày 8-6-1975 trong lúc đang bị giam trong trại của Bộ Công an. Sự thật về cái chết của Võ Văn Ba – có phải đó là tự sát hay là một điều gì khác – có lẽ sẽ không bao giờ được biết.
Đoạn kết khác
Còn có thêm một đoạn kết khác cho câu chuyện về điệp viên Tây Ninh. Vào năm 1980, trong cao trào thuyền nhân, Paul Struharik, đại diện của USAID ở Buôn Mê Thuột và là người có nhà bị bao vây hồi tháng Ba 1975, nhận được lá thư gửi về địa chỉ nhà ông ở Mỹ. Lá thư được gửi từ Malaysia, và người viết là Nguyễn Văn Phong.
Phong nói ông đã trốn được khỏi trại giam Bắc Việt bằng cách nhảy khỏi xe trong lúc chuyển tù. Ông nói sau khi trốn thoát, ông tìm thấy vợ con và cả nhà sắp ra đi trên con thuyền với những người tị nạn vừa đến được bờ biển Malaysia. Theo Phong viết thì vì thuyền của ông vẫn còn đi biển được, phía Malaysia muốn đẩy họ đi tiếp, nhưng Phong nói ông thuyết phục được người ta gửi lá thư này về Mỹ. Phong nhờ Struharik giúp đỡ.
Câu chuyện của ông Phong nghe khó tin vì̀ làm sao một người tù quan trọng như ông có thể trốn thoát, lại mang theo được cả vợ con. Tuy vậy người Mỹ biết rằng trong đời này cũng thỉnh thoảng gặp trường hợp phép lạ, thành ra họ vẫn gửi tin nhắn yêu cầu nhân viên chức trách để ý khi thuyền của ông Phong đến được trại tị nạn.
Khoảng hơn một tuần sau, một người Việt Nam lênh đênh trên biển Đông được một chiếc tàu đi ngang cứu được. Người này nói ông ta có mặt trên con thuyền của ông Phong. Ông nói con thuyền đó đã chìm trên đường tới Indonesia, và mọi người trên thuyền, kể cả ông Phong và gia đình, đã chết.
..........................................................
Mad man
Tôi cho rằng một đảng viên cộng sản làm công việc tuyển mộ và có vị trí "ở rất gần" trụ sở chính của Trung Ương Cục Miền Nam không thể giúp CIA có được các "báo cáo về những mục tiêu chiến lược, các kế hoạch hành động mang tính chất toàn quốc". Xem ra những gì mà CIA làm được ở VN thật khiêm tốn!
James Trần, San Jose
Cám ơn BBC đã đang bài này. Bên miền Nam Việt Nam Cộng Hòa thế là cũng có tiếng nói, cũng có các anh hùng vô danh nay được vinh danh như các vị tướng tử trận vào những ngày đen tối nhất của dân tộc Việt.
Tôi rất cảm phục chú Võ Van Ba đã hy sinh cả cuộc đời cho lý tưởng tự do và xin một nén hương cầu nguyện chú và gia đình tiêu diêu miền cực lạc.
Volga, Moscow
Qua hai bài do BBC đăng tải ta có thể thấy được thông tin bài viết khá trung thực. Có thể thấy được bản chất xâm lược của cuộc chiến mà Mỹ gây ra ở Việt Nam.
Vì CIA với kinh nghiệm dày dạn và nguồn tài chính khổng lồ thì điệp viên số một của họ cũng chỉ ở một vị trí khiên tốn, thông tin có được khi đã được phổ biến xuông cơ sở, hay những kế hoạch ở quy mô nhỏ.
Nếu so sánh với những gì phía đối phương có được thì thật là ‘khiêm tốn’. Tại sao những người Cộng sản với kinh phí hạn hẹp, phương tiện thô sơ lại tạo được hệ thống tình báo rộng và sâu như vậy? Tại sao những người có chức vụ quan trọng trong chính quyền VNCH lại chịu nguy hiểm tính mạng làm việc cho Việt cộng mà không cần chút thù lao, thậm chí còn dùng t! hu nhập của mình để ủng hộ cách mạng?
Có thể có người sẽ khó hiểu. Đó chính là khát vọng độc lập dân tộc và thống nhất tổ quốc của mỗi người Việt Nam. Chính những hi sinh của họ đã giảm tối thiểu đổ máu trên chiến trường cho cả hai phía. Chúng ta ngưỡng mộ và ghi ơn họ. Người Mỹ thường nó họ thua ở Việt Nam là vì không hiểu văn hóa Việt Nam nhưng không thấy họ nói rõ đó những gì.

Thứ Hai, 1 tháng 5, 2017

Về nghề báo...



Sự thật, đôi khi là điều không dễ nắm bắt. Sự thật, đôi khi nằm giữa hai chiều thông tin. Sự thật, đôi khi nằm giữa hai bản báo cáo của hai phe thắng bại. Sự thật, đôi khi là ranh giới mờ ảo mong manh. Và sự thật rất nhiều lúc là thứ vẫn đang được tìm kiếm chứ không phải đã được khẳng định.



1. Nghề báo trước hết là một nghề. Tôi không ưa dùng từ “cao quý” cho một nghề nào đó, nếu như em cũng đồng ý với tôi rằng mọi nghề nghiệp lương thiện đều cao quý như nhau. Như mọi nghề nghiệp khác mà em biết, ta kiếm sống bằng công việc đó. Nghề báo nuôi sống ta bằng lương và nhuận bút. Và cũng như mọi nghề nghiệp khác, ta phải làm công việc của mình với hết năng lực và trách nhiệm để không hổ thẹn với đồng lương nhận được.

Vì sao tôi nhắc đến nhuận bút trước hết. Bởi vì việc chúng ta được trả tiền cho những gì chúng ta viết sẽ khiến ta tỉnh táo, và không cho rằng mình đang làm một công việc cao quý hơn nhiều nghề khác trong xã hội. Và vì niềm vui mỗi khi lãnh nhuận bút cho một bài báo là niềm vui không bao giờ cũ. Từ một cái tin nhỏ đầu tiên cho đến bài báo cuối đời, khi niềm vui đó còn tồn tại nghĩa là em còn tự hào vì mình nhận được thành quả xứng đáng từ công sức của chính mình. Một người làm báo chính trực luôn trân trọng từng đồng nhuận bút, bởi đó sẽ là nguồn thu nhập duy nhất nếu anh ta quyết dành cả đời mình chỉ để làm báo.

2. Khi ta đặt nghề báo trong tương quan bình đẳng với nghề khác, ta sẽ đặt bản thân người viết báo bình đẳng với nhân vật của mình. Quan tòa có thể đứng cao hơn để tra hỏi hay phán xét bị cáo, nhưng chúng ta đứng trước quan tòa và bị cáo để phỏng vấn họ với một tư thế như nhau, sự tôn trọng như nhau. Đó cũng sẽ là tư thế trước chính trị gia, nghệ sỹ cho đến người công nhân quét đường. Người giàu, người nghèo, người thành công hay người thất bại. Em không yêu hay ghét hết thảy các nhân vật như nhau, nhưng em phải đối xử với họ như nhau: tôn trọng và không mặc cảm. Khiếp hãi hay khinh thường không nên là tác phong của một nhà báo.

3. Trong nghề báo, tuổi trẻ không phải là thế mạnh tối thượng. Sự thông minh và xông xáo là những ưu điểm đáng kể, nhưng kinh nghiệm và kiến thức học được mới là giá trị quyết định. Nghề báo là nghề “gừng càng già càng cay”…Chúng ta xuất thân không phải là những người thông thái, nhưng lại phải biết về nhiều lĩnh vực, đó là lý do ta phải học liên tục. Và cách học tuyệt vời nhất quyết định sự hấp dẫn của nhà báo, là ta có cơ hội học trực tiếp từ những người am hiểu nhất về vấn đề đó, bên cạnh sách báo. Ta học cái nhìn kinh tế vĩ mô từ một nhà kinh tế học, ta học về cách điều hành một công ty từ số 0 qua một giám đốc thành công, học về nhạc lý và thị hiếu ấm nhạc từ một nhạc sĩ, học biết về công nghệ lăng xê qua một ông bầu… Không hiểu về điều mình viết không chỉ là một sai lầm, mà còn là sự thiếu trách nhiệm. Chúng ta học để biết, và biết thì mới viết. Càng làm nghề lâu thì ta càng học được nhiều. Khi quay nhìn lại, tôi nhận ra rằng mỗi đối tượng tôi gặp trong nghề báo đều đã dạy cho tôi điều gì đó hữu ích, và như vậy, chúng ta là người có nhiều thầy hơn bất cứ ai.

4. Tôi ưa thích nghề báo bắt đầu từ những tin vắn quốc tế, ký tên AP, AFP, Reuter…Và cho đến giờ tôi vẫn yêu thích chúng. Những tin vắn, không có tên phóng viên nào được ký, thay vào đó là tên hãng tin. Đối với tôi, nó thể hiện toàn bộ nghề báo: Cả một bộ máy khổng lồ để đưa đến cho ta dòng tin 50 từ đó. Khi em nói mình muốn làm báo, thông thường điều đó có nghĩa là em sẽ làm người viết, một phóng viên ký tên dưới bài được đăng. Hãy nghĩ đến bộ máy sau đó: người dịch, người biên tập, thư ký tòa soạn là người tổ chức bài, người trình bày, tổng biên tập là người chịu trách nhiệm, người đọc morasse, người thủ quỹ phát nhuận bút, người phát hành và bán báo, và…người đọc. Một bộ máy khổng lồ rất nhiều khi bị lãng quên.

5. Nghề báo trong tim tôi gói trọn trong một chữ TIN. TIN – là thông tin – thứ chúng ta phải cung cấp. TIN- là lòng tin – thứ chúng ta phải đạt được. Nếu không có thông tin, không thể đòi hỏi lòng tin. Nếu không có lòng tin, thông tin chỉ là trò hề vô nghĩa. Để có được hai thứ đó, phải bắt đầu từ sự thật, và vì sự thật.

Nghề báo xét cho cùng không mang đến cho chúng ta thứ quyền lực nào ngoài quyền được đòi hỏi tìm đến tận cùng sự thật. Cũng như đối với nhiều người làm báo khác, sự thật có sức quyến rũ ghê gớm đối với tôi. Sự thật, để có được nó, người ta có thể phải trải qua rất nhiều thứ. Có thể là những chuyến đi dài, những cuộc phỏng vấn đeo đuổi hàng tuần. Có thể là khổ ải, nhục nhằn, mất mát. Có thể là trung thành, hay phản bội. Là sức lực, trí tuệ, lòng dũng cảm. Là mồ hôi, máu. Là cận kề chiến tranh, thảm họa, tù đày. Là cái chết…Có thể, là tất cả những cái đó gộp lại.

Sự thật, chính là lý do khiến những nhà báo mất mạng ở chiến trường. Sự thật, là nguyên nhân sâu xa khiến nghề báo luôn được xếp vào những nghề nguy hiểm.

Để CÓ được sự thật, người làm báo phải chính trực và biết hoài nghi. Để NÓI được sự thật, tờ báo phải chính trực và có dũng khí.
Nhưng, em sẽ hỏi, rằng sự thật là gì? Sự thật, đôi khi là điều không dễ nắm bắt. Sự thật, đôi khi nằm giữa hai chiều thông tin. Sự thật, đôi khi nằm giữa hai bản báo cáo của hai phe thắng bại. Sự thật, đôi khi là ranh giới mờ ảo mong manh. Và sự thật rất nhiều lúc là thứ vẫn đang được tìm kiếm chứ không phải đã được khẳng định.

Người tìm kiếm nó không phải bao giờ cũng gặp được nó.
Nhưng dù thế nào, thì nghề báo cũng phải khởi đầu từ niềm khao khát đạt đến sự thật. Từ niềm tin sâu sắc vào điều đúng đắn. Ngày mà ta thấy thanh thản trước một điều không tốt, đó cũng là ngày ta bôi vết đen đầu tiên lên nhân cách của chính mình.

6. Dù sao tôi vẫn nghĩ nghề báo không phải là một nghề khó. Không có gì bảo đảm là ta sẽ viết được những điều lớn lao, nhưng chắc chắn ta luôn có thể làm được điều tối thiểu là viết một cách chân thật. Viết thì dễ hơn là nói, nói thì dễ hơn là tin, và tất nhiên, tin thì dễ hơn là sống vì những điều tốt đẹp.
Bởi thế, nếu ta chưa thể viết được những điều vĩ đại và chân thật, thì ít nhất, ta cũng phải viết được những điều bé nhỏ và chân thật.
Hãy bắt đầu từ đó.

Phạm Lữ Ân

Chủ Nhật, 30 tháng 4, 2017

CÁI GỌI LÀ ĐẤU TRANH DÂN CHỦ VÌ NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM

Tòa án quốc tế Lahay" đã kết luận " kinh doanh các sản phẩm độc hại làm hàng ngàn người thiệt mạng như hoạt chất glyphosate trong thuốc diệt cỏ Roundup hay hóa chất 2,4,5-trichlorophenoxyacetic acid trong chất độc da cam được máy bay quân đội Mỹ rải trong chiến tranh Việt Nam" và " các thẩm phán xác nhận Monsanto đã hủy diệt môi trường , gây thiệt hại cho người dân Việt Nam"

So sánh Formosa và Chất độc da cam:


- Ai gây thảm hoạ:
+ Formosa: do Tập đoàn Hưng nghiệp Formosa xả thải;
+ Chất độc da cam: do quân đội Mỹ rải chất gây rụng lá được sản xuất bởi các công ty của Mỹ, điển hình là Monsanto;


- Thời gian thực hiện:


+ Formosa: vài ngày cho đến vài tuần rồi ngừng hẳn;
+ Chất độc da cam: 10 năm, từ 1961 đến 1971;

- Tác hại:

+ Formosa: hàng chục tấn cá chết, không ai chết, không ai bị di chứng bệnh tật. Người dân đáng bắt và buôn bán hải sản, làm du lịch bị mất nguồn thu nhập;

+ Chất độc da cam:

Ước tính khoảng 400.000 người đã bị giết hoặc tàn tật, khoảng 500.000 trẻ em sinh ra bị dị dạng, dị tật bởi chất độc hóa học này. Ước lượng khoảng 1 triệu nạn nhân Việt Nam đã bị tàn phế hoặc bệnh tật vì chất độc da cam.
Chất độc da cam còn làm tổn thương sức khỏe của những người lính Mỹ cũng như lính Úc, Hàn Quốc, Canada, New Zealand (quân đồng minh của Mỹ tại Việt Nam) mà có tiếp xúc với chất này, cũng như con cháu họ. Nhiều nạn nhân trong số đó đã kiện và được bồi thường.
Môi trường bị tàn phá nặng nề, đến nay, sau hơn nửa thế kỷ nhiều nơi vẫn đang gánh chịu hậu quả.

- Tố tụng và bồi thường:

+ Formosa: Bên gây thảm hoạ đã bồi thường 500.000.000 USD và đã nộp đủ cho Chính phủ Việt Nam. Chính phủ Việt Nam đang chi trả tiền bồi thường cho người dân và giám sát việc khắc phục thảm hoạ môi trường;
+ Chất độc da cam: các cựu chiến binh Mỹ đã kiện và nhận được tiền bồi thường thông qua một thoả thuận để rút đơn được toà án công nhận. Các nạn nhân người Việt đã khởi kiện nhưng Toà án Mỹ bác đơn. Hiện nay, các nạn nhân Việt Nam vẫn đang trong hành trình đi tìm công lý và non nửa thế kỷ vẫn chưa được bồi thường. Nhiều nạn nhân đã chết,số còn lại đang vật vã, đau đớn và khốn khổ, mặc cảm vì bệnh tật. Chính phủ và quân đội Mỹ dù không thừa nhận tội lỗi nhưng vẫn đang triển khai hợp tác cùng Việt Nam để tẩy rửa chất độc này tại nhiều nơi ở Việt Nam.

Thứ Bảy, 29 tháng 4, 2017

Thử phán đoán cục diện chính tri kỉ luật Đinh La Thăng





Tác giả: Chánh Tâm

.

Chỉ xét về tương quan lực lượng, trong vụ xử lý kỉ luật ủy viên Bộ chính trị Đinh La Thăng, có người gần như khấn niệm đừng để tái diễn tình trạng như hồi bày binh bố trận xử lý ông Nguyễn Tấn Dũng.

Ông Đinh La Thăng, người luôn xuất hiện nổi bật trên chinh trường, đang ở trong quá trình bị truy cứu trách nhiệm liên quan đến các hoạt động tồi tệ của tập đoàn Dầu khí, thời ông ấy làm chủ tịch. Nghe nói, ông Thăng cũng bị xem xét trách nhiệm liên quan đến những khoản lại quả dự án đã thành thông lệ ở bộ Giao thông, khi chính phủ thời Thủ tương Nguyễn Tấn Dũng cho nở rộ “phong trào” BOT và chinh sách chỉ định thầu.

Ông Thăng được giới thiệu và trúng cử vào vị trí uỷ viên Bộ chính trị vào phút chót. Giới thạo tin mô tả ông là một ứng viên trực tiếp cho chiếc ghế phó Thủ tướng đương nhiệm, là nhân sự chuẩn bị cho vị trí Thủ tướng nhiệm kì mới.

Nhưng bất ngờ, ông Thăng bị điều động vào giữ vị trí bí thư thành ủy TP Hồ Chí Minh, một lò cung cấp các vị trí lãnh đạo cao cấp nhất của đảng.

Khác với những đồn đoán, ông Đinh La Thăng không một chút bỡ ngỡ ở một đảng bộ đến con trai cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ( lúc đó đương nhiệm ) cũng không trúng cử tham gia thành ủy và đoàn đại biểu đảng bộ TP dự đại hội đảng toàn quốc. Mới nhận phân công, ông Thăng liên tục có những chuyến công tác cơ sở với những phát ngôn phê bình cấp dưới làm hả dạ người dân, đưa ra những chỉ thị trực tiếp giai quyết nhiều vụ việc ách tắc cụ thể, để lại ấn tượng về một nhà lãnh đạo năng động, dám làm, dám chịu.
Nhưng rồi chiếc bảng số xe công quá tiêu chuẩn phó chủ tịch của ông Trịnh Xuân Thanh, một “đàn em” thân tín của Đinh La Thăng, trở thành chủ đề sôi nổi của báo chí và truyền thông mạng

Một tiến trình kiểm điểm làm rõ các nội dung này được Uỷ ban Kiểm tra TƯ khởi động. Chưa rõ kết luận của UBKT như thế nào nhưng được biết thường vụ thành uỷ TPHCM đã thực hiện qui trình xử lí cán bộ dựa trên tự kiểm điểm của ông Đinh La Thăng. Kết quả có thể là một bất ngờ đối với ông Nguyễn Phú Trọng khi điều động ông Thăng vào đứng đầu lãnh đạo TPHCM. Có đến hơn 1/3 ủy viên thường vụ không nhất trí với kiểm điểm và tự nhận kỉ luật ở mức khiển trách mà đề nghị không áp dụng hình thức kỉ luật với ông Thăng.
Cuộc đấu tranh chống tham nhũng đang phóng to hết cỡ hy vọng của “toàn đảng, toàn dân” vào lý lich liêm khiết của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhưng trong trường hợp kỉ luật Đinh La Thăng vẫn dẫn đến hai phán đoán có thể cá cược, liệu đảng có kỉ luật được một thành viên Bộ Chính trị?

Một là, kịch bản xử lí Nguyễn Tấn Dũng tái diễn. Uỷ viên Bộ chinh trị Đinh La Thăng do TƯ bầu, nên cấp kỉ luật là TƯ, mặc dù Bộ chinh trị đã đề nghị mức cảnh cáo, nhưng TƯ lại bỏ phiếu đa số không áp dụng hình thức kỉ luật. Hai là, TƯ nhất trí đa số với đề nghị của Bộ chinh trị. Khả năng thứ ba, Bộ chinh trị đề nghị kỉ luật cảnh cáo, nhưng TƯ hạ bậc kỉ luật, chỉ khiển trách Đinh La Thăng.

Cả ba khả năng đều xuất phát từ mong muốn của “người trong cuộc”, trị liệu tham nhũng được coi là mục tiêu chính trị số 1, mọi cải cách đều không thể thành công nếu không có bộ máy quản trị quốc gia sạch.
Lược giản sơ đồ xã hội đồng qui trong quan điểm này, có thể thấy, với khả năng thứ nhất, “một bộ phận không nhỏ” trong đảng đang trở thành “một bộ phận đa số” điều khiển đảng và đất nước.

Cuộc đấu tranh chống tham nhũng đánh dấu thất bại bằng kết quả phân liệt trong đảng. Bộ chinh trị tiếp tục phân hoá, hay nói cách khác, sẽ bộc lộ công khai sự phân hoá vốn có trong hàng ngũ lãnh đạo cấp cao. Cục diện chinh trị sẽ dẫn đến tình trạng một Trung ương đa lãnh đạo.

Các mục tiêu đổi mới, dân chủ chưa tạo ra lực lượng chinh trị của minh, nên chưa được viện đến trong cuộc đấu quyền lực này trong đảng. Có thể manh nha từ chính cuộc đấu tranh nội bộ này, hình thành lực lượng chính trị ủng hộ dân chủ nhưng cũng trong khuôn khổ chính trị do đảng lãnh đạo.

Kết cục của các phán đoán nói trên sẽ thành sai lầm nếu Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng không kết thúc chiến dịch thất bại của mình bằng tiếng khóc.

Tuy nhiên, có lẽ ong Trọng sẽ không khóc. Vì đơn giản ông Thăng không có bề dày nắm quyền lực như ông Nguyễn Tấn Dũng để có thể chi phối chọn lựa của các ủy viên TƯ. Nếu có “ăn chia” phạm vi đó cua ông Thăng khó lòng phủ đến đa số TƯ đang có 2/3 là nhân sự mới. Nhất là tiếng dàn kèn trống thúc giục vang rền khắp các cấp hô chống tham nhũng không thể dẫn đến một kết quả bại xụi cho sự lãnh đạo của đảng như vậy.

Nhưng cho dù TƯ nhóm họp lần thứ 5 không chấp nhận đề nghị của Bộ chinh trị, hay phê chuẩn mức kỉ luật thấp hơn đề nghi của Bộ chinh trị, ông Trọng vẫn còn trong tay một thế trận mới, huy động sự tham gia của người dân vào cuộc đấu tranh sinh tử này.

Yếu huyệt trong thế trận này chính là ai nhanh chóng nắm giữ ngọn cờ công khai và chuyển nó thành khí thế của dân. Ông Trọng sẽ thắng nếu khai thác được sức mạnh này, biến dư luận thành công luận, nhưng ở thời ông Trọng tác động chính yếu này của truyền thông không còn trong tay nền báo chí cách mạng vốn bị tẩn nhừ tử, chỉ có một mực “cách mạng” mà không còn sự chính trực báo chí nữa.

Thứ Năm, 27 tháng 4, 2017

Kiểm soát quyền lực hay tranh giành quyền lực





Tác giả: Nguyễn Quang Dy

.

—————

“Quyền lực tuyệt đối thì tham nhũng tuyệt đối”

“Absolute power corrupts absolutely” (Lord Acton)

Quan hệ nhân quả

Cách đây gần một năm, ông Vũ ngọc Hoàng (nguyên phó ban Tuyên giáo TƯ) đã làm dư luận ồn ào với loạt bài về “Kiểm soát Quyền lực” (Tuần Việt Nam, 22/9/2016). Những gì ông Hoàng đề cập về cơ bản là đúng (tuy không mới). Chỉ có điều cứ như “đến hẹn lại lên”, dư luận ồn ào rồi lại xẹp xuống, nóng lên rồi lạnh nguội đi. Nay “quả bom Đồng Tâm” lại gây chấn động dư luận, thức tỉnh mọi người như cảnh báo: cái gì phải đến sẽ đến!

Hội nghị Trung ương 5 sắp họp để chuẩn bị thay đổi nhân sự giữa kỳ. Dư luận lại nóng lên như một cơn sốt định kỳ với chủ đề “nhất thể hóa” vai trò của đảng và chính quyền. Đằng sau câu chuyện về tranh giành và thâu tóm quyền lực còn có một sự thật trần trụi: thu không đủ chi. Vì nợ công chồng chất nên ngân sách thâm hụt ngày càng nan giải, không thể bao cấp mãi một bộ máy nhân sự chồng chéo khổng lồ nhưng thiếu hiệu quả. Quyền lực tuyệt đối thì tham nhũng tuyệt đối, và nguồn lực cuả đất nước cũng “cạn kiệt tuyệt đối”.

Mỗi khi tranh cãi về chủ đề quyền lực, người ta thường hay đề cập đến mấy khái niệm cơ bản như: bản chất của quyền lực (nature of power), giới hạn của quyền lực (limits of power), chuyển dịch của quyền lực (power shifts), tham nhũng quyền lực (power corruption), tranh giành quyền lực (power struggle), và giám sát quyền lực (power supervision).

Các khái niệm trên liên quan đến nhau như quan hệ nhân quả. Quyền lực có xu hướng tham nhũng: quyền lực tuyệt đối thì tham nhũng tuyệt đối. Chừng nào còn duy trì quyền lực tuyệt đối (không bị kiểm soát) thì không thể kiểm soát được tham nhũng. Chỉ có đổi mới thể chế toàn diện thì may ra mới kiểm soát được quyền lực và tham nhũng.

Trong thực tế cuộc sống, nhiều người bị hấp dẫn bởi ma lực của đồng tiền và quyền lực, nên dẫn đến sùng bái quyền lực. Các nhóm lợi ích thân hữu (nhất là “con ông cháu cha” và “đồ đệ”) thường được hưởng đặc quyền đặc lợi, nên việc kiểm soát quyền lực rất khó. Người dân thường sợ quyền lực nên hay bị chính quyền lợi dụng bắt nạt. Muốn không bị lợi dụng và bắt nạt thì người dân phải “thoát khỏi nỗi sợ” (như bài học Đồng Tâm).

Bản chất của quyền lực

Chính quyền nào cũng phải dựa vào quyền lực (thường là quyền lực cứng). Nhưng bên cạnh “quyền lực cứng” (hard power) còn có “quyền lực mềm” (soft power). Quyền lực cứng thường “đẻ ra từ nòng súng”, nên dễ dẫn đến chuyên quyền và độc tài, cực đoan và vô cảm. Chính quyền không lắng nghe dân, vì họ coi dân chúng như công cụ.

Lâu nay, các khẩu hiệu mị dân như “của dân, do dân, vì dân” hay “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” chỉ là bình phong trống rỗng để trang trí. Sai lầm cải cách ruộng đất và cái chết thê thảm của bà Năm (Cát Thành Long) vẫn còn là một nỗi ám ảnh. Người ta nói cách mạng bạo lực như con quái vật, sau khi ăn thịt kẻ khác sẽ quay lại ăn thịt chính mình.

Muốn kiểm soát quyền lực thì trước hết phải thực sự tôn trọng con người và lắng nghe dân. Cơ chế quyền lực phải xây dựng trên nguyên tắc “tam quyền phân lập”, độc lập và cân bằng với nhau để giám sát lẫn nhau (checks and balances). Cơ chế đó phải dựa trên “pháp trị” (rule of law) và tự do dân chủ, để người dân có quyền bầu ra người cai trị mình. Muốn có “quyền lực mềm” để bổ xung cho “quyền lực cứng” phải có xã hội dân sự.

Những khái niệm cơ bản về pháp quyền, dân quyền và nhân quyền là những giá trị phổ quát của nhân loại tiến bộ, chứ không phải là đặc sản riêng của Mỹ và phương Tây. Một số nước phương Đông như Nhật đã chịu khó tham khảo và vận dụng để canh tân nên đã trở thành cường quốc. Chính cụ Hồ cũng đã vận dụng những giá trị phổ quát này trong Tuyên ngôn Độc lập. Nay Việt Nam muốn được công nhận là nền kinh tế thị trường, nhưng lại phủ nhận những giá trị phổ quát kèm theo, là một nghịch lý chẳng khác gì “đầu ngô mình sở”.

Khủng hoảng về tư duy

Khái niệm “kinh tế thị trường định hướng XHCN” là một kế sách để đối phó tình huống nhằm lý giải cải cách kinh tế mà không cải cách chính trị. Nó bắt chước dập khuôn theo khái niệm “kinh tế thị trường XHCN” của Trung Quốc, nhưng “sáng tạo” bằng cách thêm hai chữ “định hướng” cho mềm đi. Về nguyên lý, đó là một khái niệm tối nghĩa, phản quy luật và duy ý chí. Nó cũng giống như khái niệm “làm chủ tập thể” của ông Lê Duẩn và khái niệm “chủ thể” (Juche) của ông Kim Nhật Thành trước đây (mà bây giờ chẳng ai còn nói đến).

Các khái niệm đó chỉ có giá trị nhất thời như một cách ngụy biện cho một tình huống, chứ nếu ngộ nhận biến thành chủ thuyết và mô hình thì rất nguy hiểm. Nó tạo ra những lỗ hổng chết người về thể chế để các nhóm lợi ích thân hữu thao túng trục lợi. Nay thì mọi ngưởi đã thấy rõ hệ quả khủng khiếp như thế nào rồi. Bài học về “quả đấm thép” Vinashin (và các tập đoàn kinh tế khác) là minh chứng về sự báo hại của mô hình đó. Nguyên bộ trưởng (MPI) Bùi Quang Vinh đã phải bức xúc thốt lên về cái mô hình “làm gì có mà đi tìm”.

Hệ quả tai hại của tư tưởng cực đoan và “ấu trĩ tả khuynh” muốn chính trị hóa mọi thứ, kể cả tư duy kinh tế, đã kéo đất nước vào một bãi lầy tư tưởng không lối thoát. Chủ nghĩa Mác-Lê “bách chiến bách thắng” đã sụp đổ tại Liên Xô, Đông Âu cách đây 27 năm. Chủ nghĩa Mao cũng đã nằm trong mồ từ sau Cách mạng Văn hóa. Nhưng tàn dư (legacy) của chúng vẫn còn lẩn quất đâu đây như những bóng ma, biến dạng thành các khẩu hiệu cực đoan và tư duy bảo thủ như “chủ nghĩa đặc thù” (exceptionalism) hay “tiệm tiến” (gradualism).

Khủng hoảng về tư duy và ngộ nhận về tư tưởng không chỉ gây ra tụt hậu và khủng hoảng kinh tế, làm cạn kiệt nguồn lực và tài nguyên quốc gia, mà còn dẫn đến khủng hoảng lòng tin, khủng hoảng thể chế, và khủng hoảng chính sách. Đó là một hiệu ứng domino nguy hiểm mà người ta đổ cho “diễn biến” và “suy thoái”. Hệ quả là quyền lực của đảng và nhà nước đã mất tính chính danh (legitimacy), mất lòng dân (unpopular), vì thối nát (decay).

Sự ngộ nhân về quyền lực thường dẫn đến ảo tưởng và ngạo mạn về quyền lực. Quyền lực tuyệt đối thì ngạo mạn tuyệt đối (và sai lầm cũng tuyết đối). Người Mỹ đã phải trả giá rất đắt trong chiến tranh Việt Nam vì đã ngộ nhận và ngạo mạn về quyền lực nên không hiểu “giới hạn của quyền lực”. Người Việt cũng phải trả giá rất đắt trong thời hậu chiến vì đã ngộ nhận và ngạo mạn về chiến thắng nên đã thua thiệt. Trong cuốn sách “Sự Ngạo mạn của Quyền lực” (The Arrogance of Power, Random House, 1967), thượng nghị sỹ William Fulbright đã rút ra bài học, “Người ta không thể bảo vệ các giá trị nhân văn bằng vũ lực có tính toán và không cần duyên cớ, mà không làm tổn thương chính những giá trị mà họ cố bảo vệ”.

Sự kết thúc của quyền lực

Nếu Francis Fukuyama nối tiếng với cuốn “Sự Kết thúc của Lịch sử” (the End of History and the Last Man, 1992) thì Moises Naim nổi tiếng với cuốn “Sự Kết thúc của Quyền lực” (the End of Power, March 2013). Theo Moisés Naím, “quyền lực đang thối nát” và đang trải qua một sự “đột biến” (mutation) rất cơ bản nhưng “chưa được hiểu và nhận thức đầy đủ”. Đó là một sự dịch chuyển và đột biến của quyền lực chưa từng có trong lịch sử. Quyền lực đang dịch chuyển từ cơ bắp sang trí tuệ, từ phương Tây sang phương Đông, từ những nhà cai trị độc tài sang người dân, từ những tập đoàn lớn sang những công ty khởi nghiệp nhỏ.

Mark Zuckerberg đã chọn cuốn này của Moises Naim để mở đầu chương trình đọc sách năm 2015 (A Year of Book). Điều đó cũng dễ hiểu vì Facebook là một ví dụ điển hình trong đó, ngoài Angelina Jolie, Warren Buffett, Bill Gates & Melinda Foundation. Đó là những quyền lực siêu nhỏ “micropowers” nhưng siêu hạng so với “megaplayers” (như Oxfam, Red Cross).

Lấy một ví dụ để dễ hình dung các giá trị quyền lực đang dịch chuyển: Trong khi ngân sách quốc phòng Mỹ năm 2012 là 700 tỷ USD, thì Al Qaeda chỉ cần 500.000 USD là đủ để gây ra vụ khủng bố 9/11. Không chỉ trong lĩnh vực an ninh mà cả trong lĩnh vực chính trị hay kinh doanh, quyền lực cũng đang dịch chuyển. Những nhóm ly khai, các chính đảng lề trái, các công ty khởi nghiệp, báo chí công dân, và hackers, đang làm đảo lộn trật tự cũ.

Hiểu quyền lực đang mất đi các giá trị của nó thế nào là chìa khóa để hiểu xu thế quan trọng nhất đang làm thay đổi diện mạo thế giới trong thế kỷ 21. Tác giả dự đoán tương lai còn nhiều bất trắc hơn, qua bầu cử, trưng cầu dân ý, cạnh tranh quyền lực, phân chia lại quyền lực, từ những chủ thể cũ sang những đối thủ cạnh tranh mới. Tác giả lập luận rằng trong kỷ nguyên “hậu bá quyền” (post-hegemonic era) “không một quốc gia nào có đủ khả năng áp đặt ý chí của mình lên các quốc gia khác một cách tuyệt đối và lâu dài”.

Nếu có nguy cơ to lớn nào đe dọa các xã hội dân chủ tự do ở thế kỷ 21, thì ít có khả năng đến từ các mối đe dọa thông thường (như Trung Quốc) hoặc bất thường (như nhà nước Hồi giáo) mà có nhiều khả năng là từ sự phân liệt trong lòng xã hội. Tác giả cho rằng giải pháp khả thi cho sự phân liệt giữa chính phủ và dân chúng là chính phủ phải đổi mới thể chế để phục hồi lòng tin của dân. Theo tác giả, nhân dân phải tự tìm cách chấp nhận sự cai trị, và chính phủ cũng phải tìm cách ứng xử xứng đáng với sự chấp nhận đó của người dân.

Tuy việc phân tán và suy tàn của quyền lực là một thách thức to lớn đối với lãnh đạo các quốc gia và chính sách đối nội của họ, nhưng tác giả cho rằng trong lĩnh vực hợp tác quốc tế có nhiều rủi ro hơn. Thế giới đang đối diện với những thách thức ngày càng phức tạp, đòi hỏi sự tham gia của nhiều thành phần khác nhau, mới có thể hóa giải được những bất ổn mới. Quyền lực trở nên dễ đổ vỡ hơn và khó củng cố hơn, làm cho hệ thống quyền lực toàn cầu có xu hướng khó hồi phục, với những thể chế quốc gia và quốc tế ngày càng yếu.

Các chính đảng truyền thống và lãnh đạo đang bị đe dọa bởi sự thối nát của quyền lực. Điều đó càng rõ khi các chính đảng lớn phải chuyển giao quyền lực cho các nhóm lề trái. Quyền lực không còn nằm yên trong mô hình truyền thống khi các đảng phái lề trái tại phương Tây đang trỗi dậy mạnh mẽ, khi vai trò của các thế lực quân sự phi truyền thống ngày càng lớn. Ngày nay, người ta có thể giành quyền lực một cách khá dễ dàng, nhưng lại khó giữ và khó vận dụng nó. Các “megapowers” đang bị gạt ra ngoài lề bởi các “micropowers”.

Thay lời kết

Có thể nói Đồng Tâm là một “micropower” mới, và là một hiện tượng đặc biệt như một tác nhân làm thay đổi tư duy của nhiều người, và (dù muốn hay không) làm thay đổi “đột biến” bàn cờ cải cách thể chế tại Việt Nam. Nói cách khác, người dân Đồng Tâm chấp nhận bị cai trị nhưng “có điều kiện” (tức là có “làn ranh đỏ”), trong khi chính quyền Hà Nội đang tìm cách vãn hồi lòng tin của người dân bằng cách đối thoại và nhân nhượng (từng bước) để tiếp tục cai trị. Dù thế nào, đây là một biến chuyển tích cực như một “hệ quả không định trước”, dù động cơ là để kiểm soát quyền lực hay để tranh giành quyền lực.

Nếu “quả bom Đồng Tâm” là tín hiệu có thể thay đổi thể chế từ dưới lên, thì việc kỷ luật Đinh La Thăng mở màn cho trận huyết chiến tranh giành quyền lực giữa kỳ từ trên xuống. Sự kiện Đồng Tâm vừa phản ánh đặc thù của một địa phương tại Việt Nam, vừa phản ánh xu hướng và quy luật chung trên thế giới. Xu hướng này đang diễn ra tại Anh (Brexitism), tại Pháp (Le Penism), tại Philippines (Duterteism), và tại Mỹ (Trumpism). Nó phản ánh sự thối nát và “đột biến” của quyền lực, có thể dẫn đến sự “kết thúc” của quyền lực (hiểu theo nghĩa hẹp, như quyền lực của Đảng Dân Chủ hay di sản của Obama).

Hệ quả tất yếu của sự “diễn biến” và “suy thoái” trong nội bộ đang làm hệ thống quyền lực của đảng và nhà nước mục ruỗng, làm mất tính chính danh của chế độ và lòng tin của dân. Muốn ngăn chặn “hiệu ứng domino” làm cả hệ thống “đôt biến” một cách nguy hiểm (nên đánh chuột lại “sợ vỡ bình”) thì phải súc rửa bình cho sạch, hoặc thay bình mới. Lúc này, muốn khôi phục lòng tin của người dân và cứu vãn chế độ khỏi suy sụp, thì chỉ có một cách duy nhất là nhanh chóng cải cách thể chế toàn diện, trước khi quá muộn.

Tham khảo
“Kiểm soát quyền lực”, Vũ ngọc Hoàng, Tuần Việt Nam, 22/09/2016

“The End of Power: From Boardrooms to Battlefields and Churches to States, Why Being In Charge Isn’t What It Used to Be”, Moisés Naím. Basic Books. March 2013
“The limits of power: the end of American Exceptionalism”, Andrew Bacevich, Metropolitan Books, 2008
“Powershift: Knowledge, Wealth, and Power at the Edge of the 21st Century”, Alvin Toffler, Bantam Books, 1991
“New Power Center in Trumpland: The Axis of Adults”, Kimberly Dozier, Daily Beast, April 17, 2017
Is Trumps Axis of Adults Beating Down the Cabal of Crazies?”, Max Boot, Foreign Policy, April 18, 2017
“The Brilliant Incoherence of Trump’s Foreign Policy”, Stephen Sestanovich, Atlantic,May 2017 Issue
“Asia’s American Menace”, Brahma Chellaney , Project Syndicate, April 25, 2017

NQD. 27/4/2017

Thứ Tư, 26 tháng 4, 2017

Nhớ Trịnh




Bằng Việt


Chợt rầu lòng vì câu thơ của Trịnh:
"Đêm thấy ta là thác đổ..."
Vậy ngày ơi, ta là gì?


Có khi
Một ngày ruổi rong, một ngày tất bật
Cũng không làm xong một việc ra hồn!
Có khi
Cả tuần lao lung, cả tuần suy ngẫm
Cũng không nhìn thấu bản thể mình!
Ngày sống vội, tuần sống vội, năm sống vội
Tuổi hoa niên, trung niên, kế tiếp tuổi già...
Chong chóng quay, rút cuộc được gì?
Được chuyển động – làm bù nhìn của gió,
Và gió, quẩn quanh đầu sông, cuối bãi,
Cũng một kiểu bù nhìn của nóng lạnh, Âm - Dương,
Còn Âm – Dương có từ đâu,tồn tại tới đâu,
Thì mở hết giác quan, ta vẫn là mù tịt!

Rầu rĩ trở về câu thơ của Trịnh:
"Đêm thấy ta là thác đổ..."
Có lẽ nào, chỉ thế thôi sao?

Thứ Ba, 25 tháng 4, 2017

ĐỒNG TÂM TỎA SÁNG CƠ TRỜI





Đêm nghe lòng tủi hổ
chí tang bồng vụn vỡ dưới trăng
vẩn vơ ươm mộng gối chăn
thêu hoa vẽ bướm quẩn quanh góc vườn


Có đâu âm vọng quê hương
nước non ngàn dặm đau thương rối bời
tai nào nghe tiếng lệ rơi
mắt nào nhìn thấu phận người lầm than

Gửi tình mây gió cao sang
rẩy run theo chiếc lá vàng đưa thu
kết vần ghép chữ phù du
câu thơ mê mụ lời ru ái tình

Dân nào yên hưởng thái bình
tham quan vô lại điêu linh phận người
Đồng Tâm hào khí ngời ngời
vén mây tỏa sáng cơ trời đổi thay

Thứ Hai, 10 tháng 4, 2017

Triết lý sống còn



Loài người từ trước đến nay dù sống dưới hình thức, chế độ, xã hội khác nhau, vẫn có chung một ước vọng thiêng liêng; đi tìm một nguồn sống, một tinh thần sống ngày một thích đáng hơn. Cơ chế khoa học phát triển nhanh chóng, đời sống vật chất con người theo đó cũng phát triển không ngừng. Vì sự phát triển không ngừng đó nên càng ngày con người lại càng đánh mất đi chính mình và chỉ biết trước mắt là tạo ra càng nhiều của cải càng tốt, bất chấp mọi thủ đoạn xảo trá, cốt chỉ có lợi cho mình là được còn lại mặc xác không quan tâm. Sự mặc xác đó tạo ra một tiền đề mà chính bản thân người tạo luôn cảm thấy khổ sở trong sự ích kỷ của tham lam và hận thù, để rồi lương tâm bị giày vò cắn rức sầu khổ trong tội lỗi bởi lòng tham của si mê.
Việt nam chúng ta luôn tự hào là một dân tộc có một nền văn hóa nếp sống tình cảm sâu đậm thắm thiết giữa con người và con người, con người và mọi loài. Đời sống thanh đạm đơn giản làm nên một cốt cách riêng cho người Việt, nhìn vào chiếc áo tràng lam mỗi lần chúng ta mặc vào lên chùa lễ phật cũng đủ nói lên điều đó! Rất quý phái nhẹ nhàng sang trọng.


Đứng ở góc độ bây giờ ,khi mà xã hội tây phương đã chán ngán với cuộc sống xô bồ nhu cầu vật chất thì họ lại muốn tìm về đông phương để học hỏi và trau dồi đời sống tâm linh thanh bình, mà chính phật giáo lại giúp cho họ có những giây phút an lạc thảnh thơi.


Charles T. Gorham nhận định rằng: “Chắc chắn từ miền Ðông Phương huyền bí, nơi đất mẹ mầu mỡ của tôn giáo, cho chúng ta sự khám phá trung thực ,nơi Phật giáo từ khi tôn giáo này cho chúng ta biết nền đạo đức huy hoàng và sự thanh khiết tiềm ẩn sâu xa trong bản tính tự nhiên của con người không cần đến một thần linh nào khác mà bản tính này vốn tiềm ẩn trong tâm của con người và thức tỉnh họ biến thành cuộc sống vinh quang.”
Còn Albert Einstein nhà khoa học lỗi lạc về thuyết tương đối nghĩ: “Tôn giáo tương lai sẽ là một tôn giáo chung cho cả vũ trụ. Tôn giáo đó vượt ra ngoài ý tưởng một đấng thiêng liêng nào đó, các tín điều và lý thuyết. Tôn giáo đó bao trùm cả thiên nhiên và tinh thần, phải căn cứ vào ý niệm đạo giáo phát sanh từ những thực nghiệm của mọi vật, thiên nhiên và tinh thần như một sự thuần nhất đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo đáp ứng được các điều đó.”


Ngược lại người á đông nói chung và người Việt chúng ta nói riêng đang dần dần đánh mất đi nết đẹp văn hóa đông phương để rồi chạy theo vết ngựa lầy lội tây phưong hóa đã đi qua. Trên quan điểm này chúng ta cần phải đánh một hồi chuông thức tỉnh để mọi người biết dừng lại trước những gì mà mình đang có và nên cảm thấy hạnh phúc trước những cái mà mình có, đừng để những giây phút hạnh phúc mình có đi qua rồi lại hối tiếc.


Nghĩa là chúng ta phải tập sống sâu sắc trong từng ngày, từng giờ, từng cử chỉ trong lúc làm việc, lúc ăn, lúc giao tiếp với mọi người …đăc biệt; nên cảm nhận sự có mặt của những người thân thương xung quanh, đừng để thời gian vô thường, từng người thương bỏ ta đi về lại cát bụi rồi ta mới chợt nhớ cả đời sống chưa bao giờ ta nhìn thấy rõ mặt người thương (có mà như không), hay nói một lời hay ý đẹp đến người mình thương. Ta chớ có tưởng người thương sẽ có mặt bên ta mãi mãi. Không! Không bao giờ có như vậy, đụng chuyện thì sự ăn năn hối hận chỉ là muộn màng mà thôi. Bao lâu cho một kiếp người? Hẳn trong mỗi chúng ta không ai biết để trả lời câu hỏi này. Ta chỉ biết số mạng con người có hạn, cho nên ta phải tập sống và sống như thế nào để biết thưởng thức những mầu nhiệm của cuộc sống mà tạo hóa đã ban tặng cho ta là một điều thiết yếu.
Quả thật, khoa học và kỹ thuật có mang lại một vài tiện nghi vật chất lẫn tinh thần tạm bợ cho đời sống, nhưng chúng đã làm cho đời sống con người bất an, xáo trộn mọi hệ thống sinh hoạt thường nhật của xã hội. Nếu có ai hỏi rằng: “Con người chúng ta có hạnh phúc nhiều hơn ông cha ta trong quá khứ không?” Câu trả lời là “không”. Vì Trong quá khứ ông cha ta đã biết áp dụng “Triết lý sống còn” nghĩa là triết lý “Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống”. Còn chúng ta bây giờ hễ thấy lợi nhuận là chui vào rồi hối hận chui ra không kịp. Nói như vậy không phải là phũ phàng lên án xã hội bây giờ mà nói để chúng ta có một nhận định rõ ràng về cuộc sống sâu sắc hơn trong thế giới đầy biến đổi của thiên tai hoạn nạn này.
Có câu “Bon chen cho lắm trắng tay cuối đời”*. Dù bạn có giàu cỡ nào tôi không quan tâm, hay bạn nghèo cỡ nào tôi chả chú ý, mà cái quan trọng là xem bạn sống như thế nào, điều đó mới là cốt tủy của lẽ sống.


“Một ngày ngày đã qua
Ôi một ngày ngày chóng qua
Một chiều một ngày âm thầm đã
Đã ra đi không còn gì…
Một ngày ngày đã qua
Ôi từng ngày từng xót xa
Một chiều một ngày tay người đã
Thả mây bay cho đường dài…
Người hãy nhớ mang theo hành trang
Qua khoảng trời vắng chân mây địa đàng
Người hãy nhớ hãy nhớ hoài
Người hãy nhớ hãy nhớ đời
Người hãy nhớ hãy nhớ người…”
(Trịnh công sơn)


Hãy là chính mình khi bạn còn đủ sức khỏe và khối óc suy luận trong sáng minh mẫn, một ngày đi qua là một ngày bạn có cơ hội để sống có nhiều ý nghĩa, nhiều niềm vui, đầy tình thương và hơn cả có thời gian để ta quay lại chính ta. Ngồi bên chén trà trong khoảng lặng thanh vắng bao la của vũ trụ, ta lắng nghe tiếng nói thổn thức từ nội tâm, nhìn thấy rõ bản chất của sự sống tỏa chiếu khắp mọi vật. Có như vậy, một ngày đi qua ta chẳng có gì hối tiếc vì ta đã sống thực với cuộc sống đầy mầu nhiệm và linh thiêng này.


Nhìn những mùa thu đi …
Bốn mùa thay lá bốn mùa thay hoa …
(Trịnh công sơn)


Tất cả những giây phút trôi lăn không ngưng nghỉ là vĩnh cữu của thời gian.


Hồng Bối

Chủ Nhật, 2 tháng 4, 2017

BẬP BÊNH - Thơ Nguyễn Duệ Mai






Ngày xưa
Khi còn thơ bé,
Ở trong sân nhà trẻ
Có một chiếc bập bênh


Chiếc bập bênh bằng sắt sơn xanh
Khác với đu quay và cầu trượt
Không chơi đông được
Chỉ có hai người.

Lên cao nào
Xuống thấp nhé, bạn ơi!
Trong trẻo lắm,
Tiếng cười và ánh mắt.
*
Trong nhà những người lớn bây giờ
Cũng có một chiếc bập bênh
Nhưng họ cùng muốn ở trên cao
Để đối phương mãi nhào xuống đất
Chiếc bập bênh giằng co và run lên bần bật
Nó không còn là chiếc bập bênh.

Bởi không còn là chiếc bập bênh
Nên ánh mắt và tiếng cười chẳng có nơi trú ngụ
Như con đập tràn, chỉ đợi chờ xả lũ
Căng dây đàn, khàn rít một thanh âm.
*
Giá ngày xưa trở về được một lần
Để họ tiếp đất.

Chơi lại trò chơi cũ.

ƯNG VÔ SỞ TRỤ NHI SANH KỲ TÂM LÀ NGHĨA THẾ NÀO?





Truyền Bình



Câu “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” 應無所住而生其心 trích từ kinh Kim Cang, nhờ nghe câu này mà anh tiều phu Huệ Năng hoát nhiên tỏ ngộ, sau đó có cơ hội làm bài kệ “Bồ đề bổn vô thụ, Minh kính diệc phi đài, Bổn lai vô nhất vật, Hà xứ nhạ trần ai” 菩提本無樹 明鏡亦非台 本來無一物 何處惹塵埃 trình cho ngũ tổ Hoằng Nhẫn của Thiền tông và được truyền y bát để trở thành tổ thứ sáu của Thiền tông Trung Hoa. Lục Tổ và các môn đồ làm cho Thiền tông đại hưng thịnh, thiền sử ghi nhận có hơn 5000 người kiến tánh.

Ưng vô sở trụ : Đây là câu bàng thái cách (subjonctif) với nghĩa cần phải không có chỗ trụ, nếu chúng ta dùng tiếng Pháp là một ngôn ngữ rất tinh tế để diễn đạt thì có thể dịch : Il faut que vous soyez nonlocal. Hoặc tiếng Anh : You must be nonlocal.

Nhi sinh kỳ tâm : thì cái tâm ấy mới xuất hiện: pour que cet esprit apparaisse. Hoặc tiếng Anh : for the appearing of this mind. Cái tâm ấy tức là tâm giác ngộ.

Thế nào là không có chỗ trụ, tại sao không thể có chỗ trụ ? Đây là chỗ cần dùng khoa học để dẫn chứng. Phật pháp nói rằng các pháp đều là ảo hóa. Mà sự ảo hóa cần đến chuyển động không thể ngừng. Ví dụ để có sự xuất hiện của nguyên tử, electron phải chuyển động vòng quanh hạt nhân rất nhanh và không ngừng. Để cho cuộc sống trong phim sống động như thật, máy chiếu phim phải chạy đều đều không thể ngừng. Các vật thể vi mô hay vĩ mô đều phải chuyển động không ngừng. Hành tinh chuyển động chung quanh mặt trời, vệ tinh như mặt trăng chuyển động chung quanh hành tinh, thái dương hệ chuyển động trong ngân hà, các thiên hà chuyển động không ngừng trong vũ trụ. Tâm thức của con người chúng ta cũng luôn luôn vận động, nhất niệm vô minh cứ nối tiếp nhau thành dòng tâm thức vô tận. Tất cả sự chuyển động đó tạo ra thế giới mà Phật pháp đã tóm tắt trong danh xưng Ngũ Uẩn五蘊 hay còn gọi là Ngũ Ấm五陰, đó là Sắc色,Thọ受,Tưởng想, Hành行,Thức識 .Đó là năm yếu tố tạo thành thế giới trong đó Sắc là vật chất, Hành là chuyển động, Thọ là cảm giác, Tưởng là nghĩ ngợi, tưởng tượng, Thức là nhận biết. Phật pháp nói rằng Ngũ Uẩn Giai Không五蕴皆空 Năm yếu tố cấu thành thế giới đều không có thật nên không thể có chỗ trụ.

Nguyên lý vô sở trụ đã được Heisenberg nhận thức thành nguyên lý bất định (principle of uncertainty) trong vật lý học. Vô sở trụ còn được nhận thức thành định lý bất toàn (Theorem of incompleteness) trong toán học do Kurt Godel phát hiện. Vô sở trụ còn hiển hiện trong nhiều lỗ hổng không thể lấp đầy của Sinh vật tiến hóa luận do Charles Darwin đề xướng. Xem loạt bài về

SỰ KẾT THÚC CỦA KHOA HỌC

Khoa học lượng tử tương quan (RQM : Relational Quantum Mechanics) ngày nay cũng đi đến kết luận rằng đã đến lúc chúng ta cần xét lại hình ảnh của thế giới bên ngoài! :

Thực tế khách quan không phải là một thực tế tuyệt đối cũng không phải là một thực tế độc lập mà chỉ là một thực tế tương quan.

Điều này có ý nghĩa cụ thể như thế nào ? Có nghĩa rằng vật không có thật, nhưng chúng ta vẫn thấy có vật, vì cái mà chúng ta thấy là sự tương tác giữa các giác quan của chúng ta (lục căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể, não bộ) với mối quan hệ (tương quan) của các cấu trúc ảo của vật chất. Cấu trúc ảo đó là gì ? Từ những hạt ảo là quark và electron, cấu trúc thành proton, neutron, hạt nhân nguyên tử, nguyên tử, phân tử và cuối cùng là thế giới, sinh vật, con người. Vật thì không thật sự hiện hữu, nhưng những hạt ảo làm thành cấu trúc ảo, và chúng ta thấy và tương tác với mối quan hệ giữa các cấu trúc ảo đó.

Tóm lại vì bản chất của thế giới là ảo hóa, là chuyển động nên không thể trụ, không thể dừng lại, kể cả chết cũng không dừng lại, vì thức sẽ chuyển qua một đời sống khác gọi là tái sinh chuyển kiếp, vì bản chất là không nên không có chỗ trụ. Kinh nói :

若以色見我 Nhược dĩ sắc kiến ngã
以音聲求我 Dĩ âm thanh cầu ngã
是人行邪道 Thị nhân hành tà đạo
不能見如來 Bất năng kiến Như Lai

Nếu lấy vật chất để thấy ta (ta là Như Lai) nghĩa là hình dung ta dưới hình thức vật chất với 32 tướng tốt, phương phi tuấn tú, sức mạnh vô địch v.v…Hoặc lấy âm thanh để cầu ta, nghĩa là dùng tiếng nói để tán thán, cầu khấn ta, hay dùng âm nhạc để diễn tả những phẩm đức của ta trong những bài thánh ca tuyệt hay. Thì người đó đã đi sai đường, không thể thấy được Như Lai, nghĩa là không thể giác ngộ. Tóm lại không thể trụ ở các pháp trần.

Bản chất của thế giới là vô sở trụ, nghĩa là không có một điểm cố định nào để dừng nghỉ. Tất cả những chỗ an tĩnh dừng nghỉ đều chỉ là ảo tưởng. Khoa học ngày nay đã hiểu được điều này. Ví dụ một thiền sư đang ngồi tham thiền, liệu thân ông ta có chuyển động không ? Bên trong thân, máu đang lưu thông, nhiều tế bào chết đi, nhiều tế bào mới sinh ra, cơ thể đang tiến hành tiêu hóa, bài tiết, tăng trưởng, không lúc nào ngừng nghỉ. Tâm thức cũng không hề im lặng, nó đang quán tưởng, đang phiêu du qua vô số cảnh giới hay đang phát khởi nghi tình. Cả cái thân tứ đại ấy cũng chuyển động hỗn loạn theo chuyển động xoay tròn của địa cầu, theo chuyển động trên quỹ đạo chung quanh mặt trời, theo chuyển động của thái dương hệ trong ngân hà và theo sự chuyển động của ngân hà trong vũ trụ.

Vô sở trụ còn có nghĩa là khắp không gian và khắp thời gian, không hạn chế ở một chỗ nhất định nào trong không gian hoặc một thời điểm nào trong thời gian. Tính chất này, ngày nay khoa học gọi là nonlocality (bất định xứ). Hơn 2500 năm trước, Đức Phật đã chứng ngộ tính chất này, vì vậy mới có danh xưng Như Lai, danh xưng này cũng có nghĩa là bất định xứ, đồng thời tuyên thuyết Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm. Còn khoa học thì mãi đến thế kỷ 20 mới hiểu được qua hiện tượng vướng víu lượng tử (quantum entanglement). Trên blog này, đã nói rất nhiều về hiện tượng này, nếu cần xem lại thì bấm vào đây :

KHẮP KHÔNG GIAN, KHẮP THỜI GIAN VÀ VÔ SỐ LƯỢNG CÓ Ý NGHĨA GÌ ?

Nhiều nhà khoa học nghĩ rằng tính chất bất định xứ chỉ xảy ra trong thế giới lượng tử, còn thế giới đời thường thì các vật thể đều có định xứ. Đó là một nhận thức hạn hẹp, nói hạn hẹp vì họ chỉ mới biết một mà chưa biết hai, họ chưa biết và chưa thấy vật thể cũng có tính chất bất định xứ như lượng tử. Điều này đã được các nhà đặc dị công năng như Trương Bảo Thắng và Hầu Hi Quý chứng tỏ một cách rõ ràng qua các sự kiện như : Trương Bảo Thắng đã dùng tâm niệm lấy sợi dây nịt đang mang trong lưng quần của một nhà xã hội học ngay lúc ông ta đang đăng đàn diễn thuyết chỉ trích đặc dị công năng. Anh cũng dùng tâm niệm lấy trái táo ra khỏi một thùng sắt mà nắp bị hàn kín. Hầu Hi Quý đã dùng tâm niệm lấy xăng từ Bắc Kinh đổ vào bình xăng của một chiếc xe hơi đang đậu ở suối Sa Cốc, cách đó khoảng 50 km. Những vật đó bản chất vẫn là ảo, là bất định xứ, nên có khả năng di chuyển tự do nếu hành giả có tâm lực đủ mạnh, không một lực nào níu kéo lại được dù đó là chiếc thùng sắt kiên cố.

Tính chất vô sở trụ ngày nay đã được khoa học ứng dụng vô cùng phổ biến với mạng internet và điện thoại di động thông minh (smartphone). Tất cả bài báo, thông tin, âm nhạc, phim ảnh…có thể đến với người sử dụng bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, chỉ cần có sóng thích hợp như wifi, 3G, 4G, sóng vệ tinh v.v…Khoa học còn có tham vọng một ngày kia sẽ chuyển các vật thể đi khắp nơi bằng phương thức gọi là vô tuyến vận tải (télétransport) cũng giống như chuyển thông tin hiện nay. Tất cả đều dựa trên nguyên lý vô sở trụ. Từ bao đời nay, các vong linh, thần thức, tái sinh chuyển kiếp trong khắp tam giới đều bằng tốc độ của ý niệm, đều dựa trên nguyên lý vô sở trụ.

Thế nào là nhi sinh kỳ tâm ? Chữ sinh ở đây phải hiểu là xuất hiện chứ không phải sinh ra vì nó vốn đã có sẵn. Khi nào có đủ điều kiện thì nó xuất hiện. Tâm là vô sanh pháp nhẫn, bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh như Bát Nhã Tâm Kinh đã nói. Giống như mặt trời bị mây che nên không nhìn thấy, khi nào mây tan thì mặt trời xuất hiện. Kỳ tâm có nghĩa là cái tâm ấy. Cái tâm ấy là tâm giác ngộ, tâm bất nhị. Bất nhị có nghĩa là không phải hai, không phải nhiều, cũng không phải một, tóm lại bất nhị là không có số lượng. Tại sao không có số lượng ? Vì tất cả vật đều là ảo. Một tấm ảnh ảo thì không có số lượng vì nó có thể biến thành vô lượng vô số tấm ảnh. Một vật thể cũng là ảo nên cũng không có số lượng. Hạt photon là ảo nên trong thí nghiệm của Nicolas Gisin năm 2008 tại Geneva, Thụy Sĩ, nó có thể xuất hiện ở hai vị trí khác nhau, cách nhau 18 km theo thiết lập của thí nghiệm. Còn trong thí nghiệm của Maria Chekhova và các đồng sự tại Viện Khoa học Ánh sáng Max Planck và Đại học Moscow năm 2012, hạt photon xuất hiện ở 100.000 vị trí khác nhau. Như vậy số lượng vốn là không có thật, tùy ý ta muốn bao nhiêu cũng được. Trong Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh có kể câu chuyện để biểu thị tính vô lượng cũng như tính bất định xứ của không gian và thời gian, như sau:

Bấy giờ, Xá Lợi Phất nghĩ rằng:

– Sắp đến giờ ăn. Các Bồ Tát sẽ thọ thực ở đâu? Duy Ma Cật biết ý, nên nói rằng:

– Phật thuyết bát giải thoát. Nhơn giả đã thọ hành. Há có xen cái tâm muốn ăn mà nghe pháp ư! Nếu muốn ăn, hãy đợi giây lát, tôi sẽ cho ông được bữa ăn chưa từng có. Duy Ma Cật liền nhập chánh định. Dùng sức thần thông thị hiện cho đại chúng thấy một cõi phương trên, cách bốn mươi hai hằng sa quốc độ, có Phật Hương Tích thị hiện ở cõi Chúng Hương. Mùi hương cõi ấy bậc nhất, siêu việt mùi hương trời người của các cõi Phật mười phương. Cõi ấy chẳng có tên gọi nhị thừa. Chỉ có chúng đại Bồ Tát trong sạch, đang nghe Phật thuyết pháp. Sự vật trong đó, tất cả đều dùng hương làm thành. Lầu các, vườn tược cho đến đất kinh hành đều có mùi hương. Mùi hương của cơm lan tràn khắp mười phương thế giới. Lúc ấy, Phật cùng các Bồ Tát đang ngồi ăn. Có các thiên tử cùng một danh hiệu gọi là Hương Nghiêm, đều phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, cúng dường Phật và các Bồ Tát. Đại chúng nơi cõi này đều thấy rõ cả.

Duy Ma Cật hỏi các Bồ Tát rằng:

– Các nhơn giả! Vị nào có thể đến thỉnh cơm của Đức Phật ấy? Do e ngại sức oai thần của Văn Thù, nên cả chúng đều im lặng.

Duy Ma Cật nói:

– Này các nhơn giả! Chẳng tự hổ thẹn sao?

Văn Thù nói:

– Như lời Phật dạy, chớ khinh sơ học.

Khi đó, Duy Ma Cật chẳng rời chỗ ngồi. Trước mặt đại chúng hóa ra vị Bồ Tát tướng tốt rực rỡ, oai đức thù thắng hơn cả chúng trong hội, mà bảo rằng:

– Ông hãy đến cõi Phật Chúng Hương, bạch như lời tôi đây:

“Duy Ma Cật đảnh lễ dưới chân Thế Tôn, và vô cùng cung kính tỏ lời hỏi thăm sự ăn ở hằng ngày, ít bệnh, ít phiền não, khỏe mạnh chăng? Mong được cơm thừa của Phật, đem về cõi Ta Bà bố thí làm Phật sự. Khiến kẻ ưa pháp tiểu thừa được vào đại thừa. Cũng khiến cho tiếng tăm của Như Lai ai cũng được nghe.”

Khi ấy, đại chúng trong hội đều thấy hóa thân Bồ Tát bay lên phương trên, đến cõi Chúng Hương đảnh lễ chân Phật và lập lại lời Duy Ma Cật như trên. Các đại sĩ cõi ấy thấy hóa thân Bồ Tát, tán thán việc chưa từng có, liền hỏi Phật:

– Thượng nhơn này từ đâu đến? Cõi Ta Bà ở chỗ nào? Thế nào gọi là kẻ ưa pháp tiểu thừa?

Phật Tối Thượng Hương Đài bảo:

– Nơi phương dưới cách bốn mươi hai hằng sa cõi Phật, có thế giới Ta Bà là ngũ trược ác thế. Hiện có Phật Thích Ca, đang vì những chúng sanh ưa pháp tiểu thừa, diễn giảng Phật pháp. Ở đó, có vị Bồ Tát tên là Duy Ma Cật, trụ nơi giải thoát bất khả tư nghì. Vì đang thuyết pháp cho các Bồ Tát, nên sai hóa thân đến khen ngợi danh hiệu ta, và tán thán quốc độ này, khiến các Bồ Tát ấy tăng thêm công đức.

Các Bồ Tát hỏi:

– Vị đó như thế nào, sao có sức công đức vô úy hóa ra Bồ Tát thần túc như thế?

Phật Tối Thượng Hương Đài bảo:

– Thần lực của Duy Ma Cật rất lớn. Thường sai hóa thân đến khắp cõi mười phương bố thí làm Phật sự để lợi ích chúng sanh.

Tức thì Hương Tích Như Lai dùng bát Chúng Hương đựng đầy cơm hương trao cho hóa thân Bồ Tát.

Khi ấy, chín triệu Bồ Tát kia đều nói:

– Chúng con muốn đến cõi Ta Bà cúng dường Phật Thích Ca và muốn gặp Duy Ma Cật với các Bồ Tát cõi ấy.

Phật Tối Thượng Hương Đài bảo:

– Được thôi! Nhưng phải thu nhiếp mùi hương của các ngươi. Chớ khiến chúng sanh cõi kia khởi lòng mê đắm. Lại nữa, hãy bỏ hình dạng của các ngươi. Chớ khiến những người cầu Bồ Tát thừa cõi kia sanh lòng hổ thẹn. Và các ngươi đối với cõi ấy chớ khởi tâm khinh chê mà tự chướng ngại. Tại sao? Mười phương quốc độ đều như hư không. Chư Phật vì muốn hóa độ những kẻ ưa pháp tiểu thừa, nên chẳng hiện cõi thanh tịnh ấy thôi.

Khi hóa thân Bồ Tát thọ lãnh bát cơm xong, cùng với chín triệu Bồ Tát thừa oai thần Phật và thần lực của Duy Ma Cật, ở nơi cõi ấy bỗng nhiên biến mất, chốc lát đến nhà Duy Ma Cật. Lúc đó, Duy Ma Cật liền hóa ra chín triệu tòa sư tử tốt đẹp như trước, các Bồ Tát đều an tọa.

Hóa thân Bồ Tát đưa bát cơm hương cho Duy Ma Cật. Mùi hương của cơm tỏa khắp thành Tỳ Da Ly và đại thiên thế giới. Các Bà La Môn và cư sĩ trong thành Tỳ Da Ly ngửi được mùi hương, thân tâm khoan khoái, tán thán việc chưa từng có.

Trưởng giả Nguyệt Cái cùng với tám mươi bốn ngàn người đến nhà Duy Ma Cật, thấy trong phòng đông đảo các Bồ Tát và những tòa sư tử cao rộng trang nghiêm, đều rất vui mừng, đảnh lễ các Bồ Tát và đại đệ tử rồi đứng qua một bên.

Các địa thần, hư không thần và chư thiên cõi dục giới, sắc giới ngửi được mùi hương cũng đều đến nhà Duy Ma Cật.

Bấy giờ, Duy Ma Cật bảo Xá Lợi Phất và các vị đại Thanh Văn rằng:

– Các nhơn giả cứ tùy ý dùng cơm cam lồ của Như Lai, vì cơm nầy do đại bi sở huân, nếu có ý hạn lượng mà ăn thì chẳng thể tiêu.

Có hàng Thanh Văn lại nghĩ rằng:

– Cơm này ít thế làm sao đủ cho đại chúng ăn?

Hóa thân Bồ Tát nói rằng:

– Chớ dùng tiểu đức, tiểu trí của Thanh Văn mà đo lường vô lượng phước huệ của Như Lai. Nước bốn biển có thể hết, chứ cơm này thì vô tận. Dẫu cho tất cả mọi người đều ăn từng nắm cơm to bằng núi Tu Di, ăn mãi cho đến một kiếp cũng chẳng thể hết. Tại sao? Vì cơm dư của Người đầy đủ các công đức như vô tận giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến v.v… thì ăn mãi cũng không thể hết được.

Vì thế, một bát cơm cho tất cả chúng trong hội ăn đều no đủ, mà cơm vẫn còn dư. Các Bồ Tát, Thanh Văn, Trời người ăn cơm này rồi, thân thể an vui giống như các Bồ Tát ở cõi Nhất Thiết Lạc Trang Nghiêm, và từ lỗ chân lông phát ra mùi hương cũng như cây hương của cõi Phật Chúng Hương vậy.

Câu chuyện trên giống như truyện thần thoại bịa đặt, nhưng thí nghiệm của Nicolas Gisin và Maria Chekhova chứng tỏ rằng vật chất (hạt photon) quả thật có những tính chất giống như thế. Điều này khó tin đến nỗi, sinh thời Einstein đã không tin, cố bài bác bằng giả thuyết EPR, nhưng ngày nay các nhà khoa học đều biết rằng giả thuyết EPR là sai, lượng tử quả thật có những tính chất giống như trong kinh nói. Nhiều nhà khoa học sẵn sàng xây dựng lý thuyết trên cơ sở thế giới là ảo, vũ trụ là số, như chúng ta đã thấy David Bohm và Craig Hogan đã làm.

Tóm lại Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm biểu thị các tính chất vô sở trụ không thể tưởng tượng nổi của tâm giác ngộ. Đó là tâm như hư không vô sở hữu, nhưng đó lại là nguồn gốc của vũ trụ vạn vật, nó biểu thị rằng không gian, thời gian và số lượng đều là ảo hóa, đều là không có thật. Trong tâm giác ngộ đó thì không có chỗ trụ, không được chấp có, không được chấp không, không vừa có vừa không, cũng không chẳng có chẳng không. Tóm lại là không để lọt vào tứ cú. Tình trạng đó không thể dùng ngôn ngữ, lời nói để diễn tả được, mà phải chứng nghiệm, thiền Ấn Độ gọi là nhập niết bàn, hay chứng vô thượng chánh đẳng chánh giác. Còn thiền Trung Hoa thì gọi là kiến tánh thành Phật.

Truyền Bình