" Cả cuộc đời ba không có gì để lại cho các con ngoài số vốn kiến thức mà ba mẹ tảo tần nuôi các con ăn học.Mong các con trở thành những người hữu ích cho xã hội" ( trích từ TT "Vững Niềm Tin")
Thứ Tư, 3 tháng 8, 2016
«Thánh Kinh•Khải Huyền» (6): Ngày tàn của thế giới
Tác giả: Bạch Ca
Tranh: Cảnh tượng ném lư hương sau khi mở phong ấn thứ bảy.
﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡
【Nguyên văn Khải Huyền】
8:01 “Khi Chiên Con mở ấn thứ bảy, trên trời yên lặng khoảng nửa giờ.”
8:02 “Tôi thấy bảy vị thiên sứ đứng trước mặt Đức Chúa Trời, và họ được ban cho bảy cây kèn.”
8:03 “Một vị thiên sứ khác đến đứng trước bàn thờ, tay cầm một lư hương bằng vàng; vị ấy được ban cho nhiều hương thơm để dâng hương trên bàn thờ bằng vàng ở trước ngai với những lời cầu nguyện của tất cả các Thánh đồ.”
8:04 “Khói của hương thơm từ tay vị thiên sứ quyện với những lời cầu nguyện của các Thánh đồ bay lên trước mặt Đức Chúa Trời.”
8:05 “Kế đó vị thiên sứ ấy lấy lửa trên bàn thờ bỏ vào đầy lư hương, rồi ném lư hương đó xuống đất, thì có sấm nổ, âm vang, sét chớp, và động đất.”
8:06 “Bấy giờ bảy vị thiên sứ chuẩn bị thổi kèn.”
【Gỡ bỏ phong ấn】
Bắt đầu từ đây, các loại tai họa trong ngày tàn của thế giới sẽ liên tiếp xảy ra theo bảy tiếng kèn của bảy vị thiên sứ.
“Thánh đồ” ở đây bao gồm các đệ tử chân tu của chư Phật Thế tôn từ xưa tới nay (Chúa Jesus, Phật Thích Ca Mâu Ni, v.v.)
“Chuẩn bị thổi kèn” cũng là thời điểm mà chúng Thần tính toán cho thế gian đã tới.
Tranh: Bảy vị thiên sứ với bảy cây kèn.
﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡
【Nguyên văn Khải Huyền】
11:01 “Đoạn tôi được cho một cây thước đo, giống như một cây gậy, và được bảo rằng, ‘Hãy đứng dậy và đo đền thờ Đức Chúa Trời, bàn thờ, và những người thờ phượng Ngài trong đó,”
11:02 “nhưng hãy chừa sân ngoài của đền thờ, đừng đo nó, vì nó đã được ban cho các dân ngoại, và họ sẽ giày đạp thành thánh trong bốn mươi hai tháng.”
【Gỡ bỏ phong ấn】
Ngày tàn của thế giới bắt đầu từ tiếng kèn thứ nhất. Sau đó, sự việc đầu tiên là “hai vị sứ giả của Thượng Đế”, do đó chúng ta đưa các chương tiết liên quan của Chương 11 đặt tại đây.
Lúc này, Thánh John nhìn thấy trong quyển sách với bảy phong ấn, vào thời điểm ngày tàn của thế giới, Thượng Đế sẽ ban cho ông quyền hành để đo lường tâm của các tín đồ Do Thái giáo và Cơ Đốc giáo. “Cây thước đo” ở đây đại biểu cho quyền đo lường tâm của giáo đồ trong 42 tháng.
“Đền thờ Đức Chúa Trời” ở đây chỉ Do Thái giáo và Cơ Đốc giáo, chứ không phải chỉ bảo điện của Thượng Đế trên thiên giới. Sự việc Thánh John cầm gậy đo lường cũng không phải đo đạc diện tích của Thần điện, mà là đo lường tâm kính bái Thượng Đế của con người, xem ai giả ai thật, thật giả như thế nào.
“Những người thờ phượng” không phải chỉ người đến bái Thần, mà chỉ các giáo đồ Do Thái và Cơ Đốc, họ chính là người thờ phượng Đức Chúa Trời. Thánh John là người đến xem biểu hiện của những người này trong ngày tàn của thế giới, xem ai giả ai thật. Cũng như vậy, trong thời gian này, Phật giáo, Đạo giáo cũng có người như thánh John tới kiểm tra tâm giáo đồ của họ.
“Sân ngoài của đền thờ” là chỉ những người không phải giáo đồ Do Thái hoặc Cơ Đốc, nhưng tự nhận mình là người tin Thượng Đế. Những người này không ở trong thánh điện, mà ở sân ngoài.
“Họ sẽ giày đạp thành thánh trong bốn mươi hai tháng” không phải chỉ những người này sẽ tới dẫm đạp thành Jerusalem trong 42 tháng, mà là những người này tuy cầu khoan dung của Thượng Đế, nhưng không thuộc người trong điện của Thượng Đế, chẳng khác nào giày đạp thánh điện. Câu này đã thuyết minh Thánh John sẽ tới đo lường tâm giáo đồ trong 42 tháng, cũng chính như tiết 3 Chương này nói: “Ta sẽ cho hai nhân chứng của Ta, mặc vải gai, nói tiên tri trong một ngàn hai trăm sáu mươi ngày“. “1.260” ngày này chính là 42 tháng vào ngày tàn của thế giới. Tương tự, trong 1.260 ngày này, tại sân thánh điện của Phật giáo, Đạo giáo cũng sẽ có rất nhiều người như vậy.
Nhờ phúc của Đại Pháp, đoạn thời gian này trong ngày tàn của thế giới đã được hóa giải. Chỉ cần con người có thể bứt khỏi kiềm chế của ma quỷ Sa-tăng, nhận rõ đâu là Sa-tăng, đâu là Cứu Thế Chủ, chọn đi theo Cứu Thế Chủ, thì đều có cơ hội. Đợi đến thẩm phán ngày tận thế thì bất cứ sinh mệnh nào cũng không còn cơ hội nữa.
﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡
【Nguyên văn Khải Huyền】
11:03 “Ta sẽ cho hai nhân chứng của Ta, mặc vải gai, nói tiên tri trong một ngàn hai trăm sáu mươi ngày.’”
11:04 “Đó là hai cây ô-liu và hai cây đèn đứng trước mặt Chúa của thế gian.”
【Gỡ bỏ phong ấn】
“Mặc vải gai” ý nói trông cũng như người bình thường.
“Nói tiên tri trong một ngàn hai trăm sáu mươi ngày” chính là từ khi hai vị này truyền bá phúc âm của Thượng Đế cho đến khi bị sát hại là đúng 1.260 ngày, không ít hơn cũng không nhiều hơn một ngày nào. Đoạn thời gian này cũng chính là 42 tháng mà Thánh John được quyền đo lường giáo đồ. Một số người có thể liên hệ đoạn thời gian này với 1.260 ngày lánh nạn của dân tộc Trung Hoa (ở bộ phận thứ ba “Vương quốc ma quỷ”), nhưng kỳ thực không có quan hệ gì, là hai sự kiện độc lập, chỉ đều là 1.260 ngày mà thôi.
Trong lịch sử, phúc âm của Thượng Đế là do hai người Abraham và Moses truyền xuất ra. Nhờ có hai người này, thế nhân mới biết được lịch sử nhân loại là bởi Thượng Đế sáng tạo vạn vật, giữa Thượng Đế với con người là có giao ước, và Thượng Đế sẽ theo giao ước này để thẩm phán nhân loại trong ngày tàn của thế giới. Do đó, Abraham và Moses chính là “hai cây ô-liu và hai cây đèn” của Thượng Đế.
“Chúa của thế gian” là Chúa của thế giới dưới mặt đất, tức Chúa Jesus. Chúa Jesus đã thuận ý chỉ của Thượng Đế để tới làm Vương tại Thiên Địa vị lai, nên Ngài mới nói mình là con của Thượng Đế, Ngài tới để hoàn thành sự việc tất thành của Thượng Đế. Vì vậy «Khải Huyền» mô tả “hai cây ô-liu và hai cây đèn đứng trước mặt Chúa của thế gian”, chính là Abraham và Moses đứng trước mặt Chúa Jesus, ba người họ đều là đến để hoàn thành sứ mệnh Thượng Đế giao phó.
﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡
【Nguyên văn Khải Huyền】
11:05 “Nếu ai muốn làm hại họ, lửa từ miệng họ phun ra sẽ thiêu rụi kẻ thù của họ. Nếu ai muốn làm hại họ, kẻ ấy sẽ bị giết như thế.”
11:06 “Hai vị ấy có quyền đóng cửa trời để mưa không rơi xuống đất trong những ngày họ nói tiên tri, và họ có quyền biến nước thành máu và đánh phạt trái đất bằng mọi thứ tai họa, bất cứ lúc nào họ muốn.”
11:07 “Khi họ hoàn thành sứ mạng làm chứng của mình, một con thú từ vực thẳm đi lên sẽ tấn công họ, đánh bại họ, và giết họ.”
11:08 “Thi thể của họ sẽ bị phơi bày trên đường của thành phố lớn mà phương diện thuộc linh gọi là Sô-đôm và Ai-cập, nơi Chúa của họ đã chịu đóng đinh.”
11:09 “Người ta từ các dân tộc, các bộ lạc, các ngôn ngữ, và các quốc gia sẽ nhìn thấy thi thể của họ trong ba ngày rưỡi; và chúng không cho đem thi thể của họ chôn trong mộ.”
11:10 “Những người sống trên đất sẽ hân hoan về cái chết của họ, người ta sẽ ăn mừng và tặng quà cho nhau, vì hai vị tiên tri ấy đã làm khổ những người sống trên đất.”
【Gỡ bỏ phong ấn】
“Một con thú từ vực thẳm đi lên” như đã được giải mã trong bộ phận thứ tư “Bức hại Thánh đồ mãn”. Tại đây, «Khải Huyền» muốn nói với chúng ta một chân tướng, đó là theo an bài quá khứ của chúng Thần, ngày tàn của thế giới sẽ kết thúc . Điều này có nghĩa là trong 10 năm đổ lại kể từ hiện tại, con người thế gian sẽ phải chịu các loại tai họa khi ngày tàn của thế giới bắt đầu.
“Sẽ tấn công họ, đánh bại họ, và giết họ” chỉ rõ hai vị tiên tri này sẽ bị thế lực các quốc gia cộng sản sát hại, trong đại chiến thế giới thứ III . Tiết 13, 14, 15 Chương 16 nói từ miệng đại hồng long, con thú, và tiên tri giả xuất ra ba tà linh ma quỷ đến hành sự tại các nơi trên thế giới để mê hoặc người dân ở đó. Việc hai vị sứ giả truyền phúc âm của Thượng Đế dẫn đầu lực lượng các quốc gia Cơ Đốc và Do Thái bị giết hại chứng tỏ phe các nước cộng sản chiến thắng trong trận chiến cuối cùng tại Armageddon.
“Sô-đôm và Ai-cập” là ẩn dụ chỉ thành phố tội ác, nơi Chúa Jesus bị đóng đinh, tức Jerusalem.
Khi ngày tàn của thế giới đến, hai vị sứ giả được tùy ý tùy lúc dùng công năng để trừng phạt thế giới, vì vậy người ta cho rằng hai người họ chính là nguyên nhân của các tai họa. Do đó «Khải Huyền» mới nói “vì hai vị tiên tri ấy đã làm khổ những người sống trên đất”. . Bởi vậy sau khi hai vị tiên tri bị sát hại, «Khải Huyền» nói: “Những người sống trên đất sẽ hân hoan về cái chết của họ, người ta sẽ ăn mừng và tặng quà cho nhau”.
﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡
【Nguyên văn Khải Huyền】
11:11 “Nhưng sau ba ngày rưỡi, sinh khí từ Đức Chúa Trời nhập vào họ, khiến họ đứng dậy trên chân mình. Bấy giờ những kẻ đang nhìn xem họ đều cực kỳ sợ hãi.”
11:12 “Họ nghe một tiếng lớn từ trời gọi họ rằng, ‘Hãy lên đây!’ Bấy giờ họ được cất lên trời trong đám mây, giữa lúc những kẻ thù của họ đang nhìn theo.”
11:13 “Ngay giờ đó một trận động đất lớn xảy ra; một phần mười của thành phố bị sụp đổ, và bảy ngàn người bị chết vì trận động đất ấy; những người sống sót đều cực kỳ sợ hãi, và dâng vinh hiển lên Đức Chúa Trời trên trời.”
【Gỡ bỏ phong ấn】
Từ khi hai vị tiên tri bắt đầu truyền bá phúc âm tại thế gian cho tới khi họ bị thế lực đảng cộng sản sát hại trên đường phố Jerusalem là tổng cộng 1.260 ngày. 1.263 ngày sau, vào trưa ngày thứ 1.264, hai vị sứ giả của Thượng Đế phục sinh. Tiết 11, 12, 13 Chương này là điều Thánh John nhìn thấy từ quyển sách với bảy phong ấn.
“Được cất lên trời trong đám mây” chính là bạch nhật phi thăng, bay lên giữa ban ngày, những người có mặt đều chứng kiến tận mắt.
“Ngay giờ đó một trận động đất lớn xảy ra” chính là chỉ đại địa chấn xuất hiện do rương đựng giao ước trên bảo điện của Thượng Đế khai mở. Ngày thẩm phán của Thượng Đế dựa trên những giao ước này bắt đầu từ đây.
“Những người sống sót đều cực kỳ sợ hãi, và dâng vinh hiển lên Đức Chúa Trời trên trời” cho thấy hết thảy mục đích những an bài này đều là để hy vọng con người có thể minh bạch họ là do Thượng Đế tạo ra, và con người cần phải kính sợ Thượng Đế. Tại đây, «Khải Huyền» khải ngộ với thế nhân rằng chỉ khi con người tuân thủ giao ước với Thượng Đế, kính sợ Thượng Đế, thì mới nắm được cơ hội cuối cùng, tức được Cứu Thế Chủ cứu độ.
Tranh: Hai vị sứ giả của Thượng Đế và cảnh Thánh John đo đền thờ.
﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡
【Nguyên văn Khải Huyền】
16:13 “Bấy giờ tôi thấy từ miệng Con Rồng, từ miệng Con Thú, và từ miệng tiên tri giả, xuất ra ba tà linh ô uế giống như ba con ếch.”
16:14 “Vì chúng là tà linh của các quỷ nên chúng làm các phép lạ. Chúng đến với các vua trên toàn thế giới để kết hợp họ lại với nhau, hầu đánh trận trong ngày lớn của Đức Chúa Trời Toàn Năng.”
16:15 “(Nầy, Ta đến như kẻ trộm. Phước cho kẻ thức canh trông đợi và gìn giữ y phục mình, để không bước đi lõa lồ và không bị người ta thấy sự xấu hổ của mình).”
16:16 “Ba tà linh ấy quy tụ họ về một nơi mà tiếng Hê-bơ-rơ gọi là Hạc-ma-ghê-đôn.”
【Gỡ bỏ phong ấn】
Để tiện lý giải và ăn khớp, sau khi giải mã “hai vị sứ giả của Thượng Đế”, chúng ta tiếp tục giải mã “ba tà linh ô uế”.
“Tà linh ô uế” ở đây chỉ những thứ bẩn thỉu tà ác xuất ra từ miệng “con rồng, con thú, và tiên tri giả”.
“Các vua trên toàn thế giới” chỉ những người lãnh đạo các quốc gia trên thế giới.
“Ngày lớn của Đức Chúa Trời Toàn Năng” là ngày Thượng Đế thẩm phán thế giới dựa trên giao ước trong bảo điện của Ngài. Chúng ta phân biệt “ngày lớn của Đức Chúa Trời Toàn Năng” (the great day of God) ở đây với “tiệc rượu lớn của Đức Chúa Trời” (the great feast of God) trong Chương 19 tiết 17. “Tiệc rượu lớn của Đức Chúa Trời” là chỉ Cứu Thế Chủ “vạn vương chi Vương, vạn chủ chi Chủ” Thành Tín Chân Thật diệt trừ chúng quân của Sa-tăng. Trước đây người ta vẫn thường lẫn hai “ngày lớn” này, cứ tưởng là một sự kiện, do đó lý giải không được chân ý của «Khải Huyền».
Chương 16 tiết 15 là lời Thánh John cảm thán với những người bị ma quỷ mê hoặc chứ không phải lời thoại từ quyển sách với bảy phong ấn. “Nầy, Ta đến như kẻ trộm” ý nói xuất quỷ nhập thần, khiến người ta liên tưởng tới “kẻ trộm”, ý là sẽ nhận hình phạt ngay lập tức nếu vẫn bị ma quỷ mê hoặc.
“Armageddon”, mục đích là tranh chiến với phe Cơ Đốc tại nhân gian và cuối cùng giết hại hai vị sứ giả truyền phúc âm của Thượng Đế.
﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡
【Nguyên văn Khải Huyền】
8:07 “Vị thiên sứ thứ nhất thổi kèn thì có mưa đá và lửa trộn với máu ném vào trái đất. Một phần ba trái đất bị thiêu đốt, một phần ba cây cối bị thiêu trụi, và tất cả cỏ xanh bị thiêu hủy.”
8:08 “Vị thiên sứ thứ nhì thổi kèn thì có vật gì giống như một núi lớn đang phựt cháy bị ném vào biển. Một phần ba biển biến thành máu,”
8:09 “một phần ba các sinh vật sống trong biển chết, và một phần ba tàu bè ghe thuyền bị tiêu hủy.”
8:10 “Vị thiên sứ thứ ba thổi kèn thì có một ngôi sao lớn cháy phừng phừng như một ngọn đuốc từ trời lao xuống một phần ba các sông ngòi và các suối nước.”
8:11 “Tên của ngôi sao ấy là Ngải Đắng, và một phần ba các nguồn nước trở thành ngải đắng; nhiều người chết vì nước ấy, bởi nước đã hóa ra đắng.”
8:12 “Vị thiên sứ thứ tư thổi kèn thì một phần ba mặt trời, một phần ba mặt trăng, và một phần ba các ngôi sao bị đánh, đến nỗi chúng bị tối đi một phần ba. Một phần ba ban ngày không có ánh sáng và một phần ba ban đêm cũng vậy.”
【Gỡ bỏ phong ấn】
Khi ngày tàn của thế giới bắt đầu, những người cần được bảo hộ đều được bảo hộ nhờ “thụ ấn của Thượng Đế”, và đất, biển còn lại cùng các sinh mệnh trên đó đều phải chịu hình phạt. Vì là hình phạt nên chỉ có một ít là gây ra cái chết.
Tiếng kèn thứ nhất là hỏa tai đối với cây cỏ, côn trùng, chim chóc và thú vật trên mặt đất. Ở đây «Khải Huyền» chỉ miêu tả báo ứng đối với cây cỏ chứ không miêu tả động vật. Kỳ thực không có cây cỏ thì cũng không còn không gian sinh tồn cho động vật, do vậy động vật cũng bị báo ứng theo đó. Tương đối mà nói, đất và các sinh mệnh trên đó, ngoại trừ người, là có tội ít hơn biển, nên chịu báo ứng trước.
Tiếng kèn thứ hai là núi lửa bùng phát, phun trào dưới đáy biển để làm hại các sinh linh trong biển. Tương đối mà nói, biển và các sinh linh trong đó có tội ít hơn sông suối, nên chịu báo ứng trước.
Tiếng kèn thứ ba là báo ứng đối với nước ngọt bằng sao chổi. “Các sông ngòi và các suối nước” ở đây chỉ nước ngọt, tức nước nuôi sống các sinh mệnh trên mặt đất, so với nước biển là bất đồng. Tương đối mà nói, sông suối có tội ít hơn địa cầu nói chung nên chịu báo ứng trước. Tuy nhiên nhờ phúc của Đại Pháp, tai họa sao chổi đã được miễn.
Tiếng kèn thứ tư là tai họa nhắm vào địa cầu và cả vũ trụ này. Tương đối mà nói, địa cầu và vũ trụ nói chung có tội ít hơn người, nên chịu báo ứng trước. Tuy nhiên, tai họa này cũng đã được Cứu Thế Chủ giải trừ cho nhân loại.
Tại đây, «Khải Huyền» muốn khải ngộ với thế nhân rằng tai họa ngày tận thế không chỉ nhắm vào nhân loại, mà báo ứng cả đất, biển, sông suối, vũ trụ và các sinh linh trong đó. Cũng là nói rằng không chỉ con người có tội, mà đất, biển, sông suối, vũ trụ và các sinh linh trong đó đều có tội, nên mới đối diện với hủy diệt trong Pháp lý thành-trụ-hoại-diệt. Bởi vậy chúng Thần quá khứ mới an bài tự cứu trong quyển sách lịch sử với bảy phong ấn, để cứu vãn hết thảy nhân loại, đất, biển, địa cầu, vũ trụ,… và làm mới Thiên Địa. Tuy nhiên, như trên đã nói, nhờ phúc của Đại Pháp, các tình huống trên đã phát sinh thay đổi, các loại tai họa trong an bài cũ đã không xuất hiện nữa.
Ngày tàn của thế giới là kết thúc quá khứ, còn thẩm phán ngày tận thế là bắt đầu vị lai.
﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡
【Nguyên văn Khải Huyền】
8:13 “Bấy giờ tôi thấy và nghe một chim đại bàng bay giữa trời kêu lớn, ‘Khốn thay! Khốn thay! Khốn thay cho những ai sống trên đất, vì tiếng kèn của ba vị thiên sứ khác sẽ thổi!’”
【Gỡ bỏ phong ấn】
Nếu như nói bốn tiếng kèn trước là báo ứng đối với đất, biển, nước ngọt, và vũ trụ, thì bắt đầu từ tiếng kèn thứ năm là báo ứng nhắm thẳng vào người. Con người có tội còn lớn hơn đất, biển, nước ngọt, và vũ trụ, do đó chịu báo ứng sau.
Trước khi báo ứng xảy ra đối với con người, Thánh John đã nhìn thấy trong quyển sách với bảy phong ấn nước Mỹ sẽ phát ra lời cảnh báo đối với toàn nhân loại, nói với con người tai họa lớn hơn nữa sắp đến rồi.
Trong «Khải Huyền», chỉ cần là đại bàng, tại mặt đất chứ không phải trên thiên giới, thì nhất định là chỉ Mỹ quốc. Bởi vì không thể tiết lộ thiên cơ, không thể trực tiếp hiển thị nước Mỹ cho Thánh John biết, nên chúng Thần đã hiển thị hình ảnh chim đại bàng bay giữa không trung cho Thánh John xem để khải ngộ người đời sau.
﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡
【Nguyên văn Khải Huyền】
9:01 “Vị thiên sứ thứ năm thổi kèn, tôi thấy một ngôi sao từ trời rơi xuống đất, và ngôi sao ấy được ban cho chìa khóa của vực thẳm.”
9:02 “Ngôi sao ấy mở vực thẳm, khói từ vực thẳm bốc lên cuồn cuộn như khói của một lò lửa lớn; mặt trời và bầu trời bị khói từ vực thẳm che tối.”
9:03 “Từ trong luồng khói đó châu chấu bay ra khắp đất, và chúng được ban cho quyền phá hoại như quyền của những bò cạp trên đất.”
9:04 “Chúng được lệnh không được làm hại cỏ xanh, các loài thực vật, hay cây cối trên đất, nhưng chỉ làm hại những người không có ấn của Đức Chúa Trời trên trán.”
9:05 “Chúng không được phép giết họ, nhưng chỉ hành hạ trong năm tháng, và họ sẽ bị đau đớn như bị bò cạp chích.”
9:06 “Trong những ngày ấy người ta sẽ tìm cái chết nhưng tìm không thấy, họ mong cho được chết, nhưng tử thần đã trốn khỏi họ.”
9:07 “Hình dạng những châu chấu ấy giống như những ngựa chiến được chuẩn bị sẵn sàng để ra trận. Trên đầu chúng có vật gì giống như cái mão bằng vàng, và mặt chúng giống như mặt người.”
9:08 “Chúng có tóc như tóc phụ nữ, và răng chúng như răng sư tử.”
9:09 “Chúng có giáp che ngực cứng như giáp sắt, và âm thanh của cánh chúng như tiếng của nhiều xe chiến mã đang xông vào trận mạc.”
9:10 “Chúng có đuôi như đuôi bò cạp với ngòi chích độc trong đuôi ấy, và trong đuôi chúng có chất độc làm người ta đau đớn trong năm tháng.”
9:11 “Chúng có một vua lãnh đạo chúng, đó là quỷ sứ của vực thẳm. Tên của nó trong tiếng Hê-bơ-rơ là ‘A-ba-đôn,’ còn tên đó trong tiếng Hy-lạp là ‘A-pô-ly-ôn.’”
【Gỡ bỏ phong ấn】
Thánh John nhìn thấy từ quyển sách với bảy phong ấn, tiếng kèn thứ năm vang lên là tai họa báo ứng bằng một loại virus tựa như “châu chấu”, virus này khiến người ta chịu đau đớn “muốn chết không được, muốn sống không xong” trong 5 tháng. Đây là báo ứng nhắm vào những người “không có ấn của Đức Chúa Trời trên trán”.
﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡
【Nguyên văn Khải Huyền】
9:12 “Cơn khốn thứ nhất đã qua, này, còn hai cơn khốn nữa sắp đến.”
9:13 “Vị thiên sứ thứ sáu thổi kèn, tôi nghe có tiếng từ bốn sừng của bàn thờ bằng vàng trước mặt Đức Chúa Trời”
9:14 “bảo vị thiên sứ thứ sáu đang có cây kèn rằng, ‘Hãy thả bốn thiên sứ đang bị trói ở sông lớn Ơ-phơ-rát ra.’”
9:15 “Vậy bốn thiên sứ ấy, vốn được chuẩn bị sẵn cho giờ, ngày, tháng, và năm, được thả ra để tiêu diệt một phần ba nhân loại.”
9:16 “Số của các kỵ binh là hai trăm triệu; tôi đã nghe được quân số đó của họ.”
9:17 “Các chiến mã và các kỵ binh tôi thấy trong khải tượng trông giống như thế này: Họ mặc áo giáp đỏ như lửa, xanh như nước biển, và vàng như lưu huỳnh; đầu các chiến mã giống như đầu sư tử, và miệng chúng phun ra lửa, khói, và lưu huỳnh.”
9:18 “Một phần ba nhân loại bị tiêu diệt bằng ba tai họa đó, tức bằng lửa, khói, và lưu huỳnh phun ra từ miệng chúng.”
9:19 “Sức mạnh của các chiến mã ấy ở trong miệng và đuôi chúng, vì đuôi chúng giống như rắn độc có đầu gây ra tử thương.”
【Gỡ bỏ phong ấn】
“Cơn khốn thứ nhất” là dịch bệnh “muốn chết không được, muốn sống không xong” như đã nói ở trước. Còn “cơn khốn thứ hai” là đại chiến thế giới thứ III.
Sau tiếng kèn thứ sáu, thế lực các quốc gia cộng sản tụ tập để tranh chiến với thế lực các quốc gia Cơ Đốc, từ đó đại chiến thế giới thứ III bùng phát. May là nhờ phúc của Đại Pháp, “cơn khốn thứ hai” này thực tế đã không phát sinh nữa, đã được giải trừ.
“Bốn thiên sứ” đại biểu bốn chủng thế lực. Bốn thiên sứ bị trói ở sông Euphrates chứng tỏ bốn thế lực đều tập trung tại Trung Đông: thế lực Do Thái giáo Israel, thế lực các nước Hồi giáo, thế lực các nước Cơ Đốc giáo và thế lực các nước cộng sản. «Khải Huyền» dùng chữ “bị trói” để miêu tả cực kỳ chính xác cục diện tại Trung Đông: lực lượng bốn phe đều muốn xông lên đánh một trận lớn, nhưng bị trói lại không thể thi triển được, tuy nhiên xung đột nhỏ thì liên miên bất đoạn. “Hãy thả bốn thiên sứ đang bị trói ở sông lớn Ơ-phơ-rát ra” tức là khi thời điểm tới, chúng Thần sẽ cho phép xảy ra đại chiến.
“Vậy bốn thiên sứ ấy, vốn được chuẩn bị sẵn cho giờ, ngày, tháng, và năm, được thả ra để tiêu diệt một phần ba nhân loại” chứng tỏ chúng Thần quá khứ đã an bài rất kỹ để chuẩn bị trận đại chiến thế giới thứ III này. Tuy nhiên nhờ phúc của Đại Pháp, bốn vị thiên sứ bị trói tại Trung Đông này đã không được thả ra, lực lượng quân sự các bên đều dần được giải trừ, đại chiến thế giới thứ III đã không thể phát sinh nữa.
“Số của các kỵ binh là hai trăm triệu” tức là quân số các bên tham chiến tổng cộng 200 triệu, chứng tỏ đây là một cuộc chiến tranh thế giới đại quy mô.
“Các chiến mã” ở đây là các chiến xa và chiến thuyền, “các kỵ binh” là binh sĩ trên chiến xa và chiến thuyền.
“Họ mặc áo giáp đỏ như lửa, xanh như nước biển, và vàng như lưu huỳnh; đầu các chiến mã giống như đầu sư tử, và miệng chúng phun ra lửa, khói, và lưu huỳnh” là chỉ binh lính với áo giáp chống đạn, mặt nạ phòng hơi độc, kính nhìn ban đêm, súng ống lựu đạn cùng các loại trang bị hiện đại khác.
“Một phần ba nhân loại bị tiêu diệt” là kết quả thương vong từ cuộc đại chiến thế giới này.
“Sức mạnh của các chiến mã ấy ở trong miệng và đuôi chúng, vì đuôi chúng giống như rắn độc có đầu gây ra tử thương” là mô tả công năng của xe tăng và tàu chiến. Các loại xe tăng, tàu chiến khác nhau có công năng khác nhau, tuy nhiên đối với Thánh John sống cách đây 2.000 năm thì rất kỳ quái vì cả “miệng và đuôi” đều có thể gây ra tử thương, là thứ “chiến mã” ông chưa từng thấy qua.
Tranh: Cảnh tượng khi thổi tiếng kèn thứ sáu.
﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡
【Nguyên văn Khải Huyền】
9:20 “Tuy nhiên, nhân loại còn lại, tức những người không bị giết bởi các tai họa ấy, vẫn không chịu ăn năn về những việc do tay họ làm ra. Họ vẫn không từ bỏ sự thờ lạy các quỷ và các thần tượng làm bằng vàng, bạc, đồng, đá, gỗ là những thứ không có khả năng thấy, nghe, và đi.”
9:21 “Họ vẫn không ăn năn từ bỏ các tội giết người, tà thuật, gian dâm, và trộm cắp của họ.”
【Gỡ bỏ phong ấn】
Rất nhiều người đọc «Khải Huyền» đến đây thì không hiểu rõ vì sao sau đại chiến thế giới thứ III, các tín đồ ma giáo hoặc kẻ sát nhân phóng hỏa lại vẫn còn sống, và “vẫn không ăn năn từ bỏ các tội giết người, tà thuật, gian dâm, và trộm cắp”. Kỳ thực tại đây «Khải Huyền» hy vọng thế nhân ngộ được rằng khi ngày tàn của thế giới bắt đầu, các đầy tớ của Thượng Đế, đệ tử của chư Phật Thế tôn cùng thế nhân thức tỉnh đều được bảo hộ, và những người còn lại sẽ lần lượt chết trong các tai họa. Chúng ta có thể quan sát thấy rằng, các tai họa càng về sau thì càng nặng và nhắm vào các chúng sinh với tội càng nặng. Như vậy đối với những kẻ ác cùng cực, thì sẽ phải chịu tội trong hồ lửa sau cùng, tức “hình thần toàn diệt”, do vậy không thể để chết sớm được.
“Thờ lạy các quỷ” chính là chỉ tin đảng cộng sản hoặc ma quỷ chuyển sinh vào tôn giáo thời mạt kiếp để lừa người.
“Các thần tượng làm bằng vàng, bạc, đồng, đá, gỗ là những thứ không có khả năng thấy, nghe, và đi” là các loại tượng do con người tạo ra và được đặt ở nhà, trong chùa, tại giáo đường hay trên núi. Bất kể tượng ai, thì đều thuộc về bái ngẫu tượng. Các tượng mà «Khải Huyền» nói đến này là các tượng mà tín đồ Cơ Đốc giáo, Phật giáo và Đạo giáo thường thờ lạy, chẳng hạn tượng Phật, tượng Chúa Jesus trên giá thập tự, tượng Quan Âm, tượng Thái Thượng Lão Quân, v.v. Như vậy các tín đồ này đều chấp trước vào ngẫu tượng mà bỏ qua khải thị của Thần, cũng như quên mất giao ước với Thượng Đế.
Từ 2.000 năm trước, Chúa Jesus đã thuận ý chỉ của Thiên Chúa Jehovah tới thế gian, chứng thực với thế nhân thế nào là Cứu Thế Chủ, lưu lại tham chiếu lịch sử. Khi Chúa Jesus truyền Đạo năm xưa, Ngài chính là đã chuộc tội cho người Israel, và là Chúa Cứu Thế mà Do Thái giáo nói tới. Tuy nhiên giáo đồ Do Thái khi ấy đều thờ lạy ngẫu tượng tại giáo đường hoặc tại nhà chứ không tin Chúa Jesus, do đó không được Chúa Jesus chuộc tội; và vì họ không tuân thủ giao ước với Thượng Đế, nên cũng không được Thiên Chúa Jehovah cứu độ. Tại đây «Khải Huyền» một lần nữa khải ngộ với thế nhân, khi Cứu Thế Chủ Pháp Luân Thánh Vương tới cứu người thời mạt thế, hy vọng những người thờ lạy ngẫu tượng tại nhà, trong chùa hay tại giáo đường sẽ không cô phụ đạo lý mà Chúa Jesus năm xưa đã lấy huyết của mình để chứng thực, từ đó tỉnh ngộ, đi theo Cứu Thế Chủ, được cứu độ và có tương lai.
﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡
【Nguyên văn Khải Huyền】
10:01 “Tôi lại thấy một vị thiên sứ mạnh mẽ khác từ trời xuống, mình cuộn trong mây, trên đầu có cầu vồng, mặt sáng rực như mặt trời, và hai chân như hai trụ lửa.”
10:02 “Trong tay vị thiên sứ ấy cầm một cuộn sách nhỏ đã được mở ra. Vị thiên sứ ấy đặt chân phải trên biển và chân trái trên đất,”
10:03 “rồi hô lên một tiếng lớn như tiếng sư tử rống. Khi vị thiên sứ ấy hô lên, bảy tiếng sấm vang rền đáp lại.”
10:04 “Khi bảy tiếng sấm vừa dứt lời, tôi định ghi xuống thì tôi nghe có tiếng từ trời phán, ‘Hãy niêm phong những lời của bảy tiếng sấm vừa nói, đừng ghi lại những lời ấy.’”
【Gỡ bỏ phong ấn】
Vị thiên sứ mạnh mẽ đạp chân lên biển và đất để tuyên đọc nội dung cuốn sách nhỏ, do đó «Khải Huyền» mới nói “cuộn sách nhỏ đã được mở ra”.
Khi Thánh John nghe xong tiếng lớn như sấm vang rền và định ghi xuống thì thanh âm trên thiên thượng bảo ông hãy niêm phong lời ấy lại, không để thế nhân biết. Vì sao? Vì nội dung cuốn sách nhỏ bao hàm chân tướng trong «Khải Huyền», mà đây là thiên cơ không thể để con người biết. Cũng là nói rằng chúng Thần muốn thế nhân khám phá nội dung cuốn sách nhỏ bằng cách giải mã «Khải Huyền», chứ không trực tiếp nói với thế nhân.
﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡
【Nguyên văn Khải Huyền】
10:05 “Bấy giờ vị thiên sứ tôi đã thấy đứng trên biển và trên đất đưa tay phải lên trời,”
10:06 “nhân danh Đấng hằng sống đời đời vô cùng, Đấng đã tạo dựng trời và mọi vật trong đó, đất và mọi vật trong đó, biển và mọi vật trong đó, và thề rằng, ‘Sẽ không còn trì hoãn nữa,”
10:07 “nhưng trong những ngày tiếng kèn của vị thiên sứ thứ bảy vang lên, huyền nhiệm của Đức Chúa Trời sẽ được làm ứng nghiệm, y như Ngài đã báo cho các đầy tớ Ngài, là các vị tiên tri.”
【Gỡ bỏ phong ấn】
Khi Thánh John nhìn thấy vị thiên sứ đứng trên biển và đất, thì đại chiến thế giới thứ III vừa mới kết thúc tại nhân gian, phe Sa-tăng cộng sản thắng lợi, và hai vị sứ giả của Thượng Đế bị giết hại trên đường phố Jerusalem. Chính vì vậy, ngày lớn thẩm phán của Thượng Đế đối với nhân loại đã đến, hết thảy trời cũ đất cũ sẽ kết thúc, trời mới đất mới sắp đến, do đó «Khải Huyền» nói: “Sẽ không còn trì hoãn nữa”.
Vậy còn “huyền nhiệm của Đức Chúa Trời”? Chính là những bí mật mà Thượng Đế tiết lộ cho nhân loại qua các vị tiên tri. (1) Thông qua phúc âm của Abraham, thế nhân biết được Thượng Đế là Chúa Sáng Thế, là Đấng an bài bí mật của nhân loại. (2) Thông qua phúc âm của Moses, thế nhân biết được giữa con người và Thượng Đế là có giao ước. (3) Thông qua Chúa Jesus, thế nhân biết được thế nào là Cứu Thế Chủ, thế nào là Thánh đồ, từ đó lựa chọn đi theo Cứu Thế Chủ thời mạt kiếp để tiến nhập vị lai. (4) Thông qua khải thị của Thánh John, thế nhân biết được bí mật về đại thẩm phán của Thượng Đế và tân Thiên, tân Địa.
﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡
【Nguyên văn Khải Huyền】
10:08 “Kế đó, tiếng tôi đã nghe từ trời phán với tôi một lần nữa rằng, ‘Hãy đi, lấy cuộn sách đã mở ở nơi tay vị thiên sứ đứng trên biển và trên đất.’”
10:09 “Tôi đến gặp vị thiên sứ ấy và xin vị ấy cho tôi cuộn sách nhỏ. Vị thiên sứ ấy nói với tôi, ‘Hãy lấy và ăn đi. Nó sẽ ngọt như mật trong miệng ngươi, nhưng sẽ đắng trong bụng ngươi.’”
10:10 “Tôi lấy cuộn sách nhỏ khỏi tay vị thiên sứ và ăn nó. Sách ấy ngọt như mật trong miệng tôi, nhưng khi nuốt vào, bụng tôi thấy đắng.”
10:11 “Bấy giờ tôi được bảo, ‘Ngươi còn phải nói tiên tri về nhiều dân tộc, nhiều quốc gia, nhiều ngôn ngữ, và nhiều vua chúa.’”
【Gỡ bỏ phong ấn】
Vì sao Thánh John được dẫn lên thiên giới? Bởi vì quyển sách lịch sử với bảy phong ấn đã định Thánh John sẽ là người viết «Khải Huyền» và truyền lại cho thế nhân, từ đó khiến thế nhân ngộ Đạo, ngộ được chân tướng trong cuốn sách nhỏ. Do đó, để thế nhân có thể khai mở chỗ mê trong «Khải Huyền», chúng Thần đã để Thánh John ăn cuốn sách nhỏ.
“Ngươi còn phải nói tiên tri về nhiều dân tộc, nhiều quốc gia, nhiều ngôn ngữ, và nhiều vua chúa”: trước đây, rất nhiều người đọc «Khải Huyền» cho rằng nhờ đó mà Thánh John có được năng lực tiên tri. Thực ra câu này là Thần muốn Thánh John dùng hình thức tiên tri trong «Khải Huyền» để giúp thế nhân ngộ được nội dung cuốn sách nhỏ.
Chân ý của «Khải Huyền», cũng là chân tướng trong cuốn sách nhỏ mà «Khải Huyền» muốn khải ngộ thế nhân chính là:
Thiên Địa cũ sẽ bị giải thể, bị hủy, và Cứu Thế Chủ sẽ tới cứu vãn hết thảy nguy nan. Nhưng để an bài tự cứu, chúng Thần quá khứ đã can nhiễu an bài cứu độ chúng sinh của Cứu Thế Chủ, và các an bài này đều được ghi lại thành phép tắc trong quyển sách lịch sử với bảy phong ấn trên thiên thượng.
“Vạn vương chi Vương, vạn chủ chi Chủ” Thành Tín Chân Thật—Pháp Luân Thánh Vương Lý Hồng Chí Sư Phụ chính là Cứu Thế Chủ mà chúng Thần dựa vào để an bài tự cứu, là hy vọng duy nhất để cứu vãn và làm mới Thiên Địa!
Tất cả chư Phật Thế tôn xuất hiện trong lịch sử đều là để trải đường cho Cứu Thế Chủ!
Tất cả chúng sinh phải được Cứu Thế Chủ cứu độ thì mới có được vị lai!
Phong trào cộng sản trong lịch sử chỉ là để khiến Trung Quốc trở thành vương quốc ma quỷ của Sa-tăng, nhằm gây ra đại hoạn nạn bức hại Thánh đồ Pháp Luân Đại Pháp tại thế gian, thực hiện “khảo nghiệm” của chúng Thần quá khứ đối với đệ tử Đại Pháp.
Tất cả chúng sinh đều được quan sát biểu hiện trong đoạn thời gian Đại Pháp bị bức hại này. Có thể phân biệt Thiện-ác, nhận rõ đâu là ma quỷ, đâu là Cứu Thế Chủ, thì mới có thể được đắc cứu!
Tất cả những ai có thể thức tỉnh trong đại hoạn nạn bức hại Thánh đồ và ủng hộ chính nghĩa thì đều được cứu độ!
Tranh: Thánh John nhận cuộn sách từ vị thiên sứ và ăn nó.
﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡﹡
Để thuận tiện cho độc giả chính giải chân ý của «Khải Huyền», dưới đây chúng ta sẽ hình thành bộ phận thứ sáu “Ngày tàn của thế giới” dựa trên cơ sở gỡ bỏ phong ấn ở trên, toàn bộ tổng hợp như sau. Trong đó, phần chữ số bên tay trái đại biểu chương tiết nguyên văn đối ứng với chân ý trong chính giải.
8:01 “Khi Chúa Jesus mở ấn thứ bảy, trên thiên thượng yên lặng khoảng nửa giờ.”
8:02 “Sau đó tôi nhìn thấy từ quyển sách với bảy phong ấn bảy vị thiên sứ đứng trước mặt Thượng Đế, và họ được chúng Thần ban cho bảy cây kèn.”
8:03 “Tôi còn nhìn thấy một vị thiên sứ khác đến đứng trước bàn thờ, tay cầm một lư hương bằng vàng; vị ấy được ban cho nhiều hương thơm để dâng hương trên bàn thờ bằng vàng ở trước ngai Thượng Đế với những lời cầu nguyện của tất cả các Thánh đồ.”
8:04 “Tôi nhìn thấy khói của hương thơm từ tay vị thiên sứ quyện với những lời cầu nguyện của các Thánh đồ bay lên trước mặt Thượng Đế.”
8:05 “Kế đó tôi nhìn thấy vị thiên sứ ấy lấy lửa trên bàn thờ bỏ vào đầy lư hương, rồi ném lư hương đó xuống mặt đất, thì có sấm nổ, âm vang, sét chớp, và động đất. Thời điểm chúng Thần báo ứng tội ác của thế gian đã đến, thời khắc Thượng Đế giải oan cho các Thánh đồ đã đến.”
8:06 “Bấy giờ tôi nhìn thấy bảy vị thiên sứ chuẩn bị thổi kèn. Vậy là thời điểm chúng Thần trừng phạt nhân loại đã đến, các loại tai họa trong ngày tàn của thế giới đã đến.”
11:01 “Khi ấy, tôi nhìn thấy từ quyển sách với bảy phong ấn, trong 42 tháng ngày tàn của thế giới, tôi được Thượng Đế ban cho quyền đo lường tâm của các giáo đồ, để xem biểu hiện của họ khi hai vị sứ giả của Thượng Đế truyền bá phúc âm tại thế gian. Tôi còn được Thượng Đế bảo rằng, ‘Hãy đứng dậy và dùng quyền hành của mình để đo lường tâm các giáo đồ Do Thái và Cơ Đốc, xem ai thật ai giả,”
11:02 “với những người cầu khoan dung của Ta, nhưng không tin người do Ta phái xuống, thì không phải là người trong điện của Ta. Ta sẽ cho họ 42 tháng, xem họ có thể bứt khỏi kiềm chế của Sa-tăng để đi theo Cứu Thế Chủ hay không. Sau 42 tháng, hết thảy đều triệt để kết thúc, không còn cơ hội nữa.”
11:03 “Khi ấy, Ta sẽ cho hai nhân chứng của Ta trở lại nhân gian, ăn mặc như người bình thường, và truyền bá phúc âm của Ta giữa các loại tai họa ngày tận thế tại thế gian trong 1.260 ngày.’”
11:04 “Hai người này chính là Abraham và Moses. Họ sẽ đứng trước mặt Chúa Jesus, vị Chủ Thiên Địa vị lai, cũng giống như hai cây ô-liu và hai cây đèn đứng trước mặt Chúa của thế gian trong Do Thái giáo của Ta.”
11:05 “Ta sẽ ban cho hai người này công năng. Nếu ai muốn làm hại họ, lửa từ miệng họ phun ra sẽ thiêu rụi kẻ thù của họ. Nếu ai muốn làm hại họ, kẻ ấy nhất định sẽ bị giết như thế.”
11:06 “Ta sẽ ban cho hai người này công năng. Hai người ấy có quyền đóng cửa trời để mưa không rơi xuống đất trong những ngày họ nói tiên tri, và họ có quyền biến nước thành máu và đánh phạt trái đất bằng mọi thứ tai họa, bất cứ lúc nào họ muốn.”
11:07 “Khi họ hoàn thành sứ mạng làm chứng của mình, thế lực tà ác các quốc gia cộng sản nhất định sẽ giao chiến với họ. Chúng sẽ được phép đánh bại họ, và giết họ trong ngày Ta mở rương đựng giao ước trên thánh điện để thẩm phán thế gian.”
11:08 “Thi thể của họ sẽ bị phơi bày trên đường của thành phố lớn mà phương diện thuộc linh gọi là thành phố tội ác Sodom và Ai Cập, nơi Chúa Jesus của họ đã chịu đóng đinh, tức Jerusalem.”
11:09 “Người ta từ các dân tộc, các chủng tộc, các ngôn ngữ, và các quốc gia sẽ nhìn thấy thi thể của họ trong ba ngày rưỡi; và chúng không cho đem thi thể của họ chôn trong mộ.”
11:10 “Những người sống trên đất sẽ hân hoan về cái chết của họ, người ta sẽ ăn mừng và tặng quà cho nhau, vì người ta cho rằng hai vị tiên tri ấy đã dùng công năng để làm khổ những người sống trên đất. Người ta cho rằng hai người họ chính là nguyên nhân của các tai họa trong ngày tàn của thế giới.”
11:11 “Nhưng tôi nhìn thấy từ quyển sách với bảy phong ấn, sau ba ngày rưỡi, sinh khí từ Thượng Đế sẽ nhập vào họ, khiến họ đứng dậy trên chân mình. Bấy giờ những kẻ đang nhìn xem họ đều cực kỳ sợ hãi.”
11:12 “Hai vị tiên tri ấy nghe một tiếng lớn từ trời gọi họ rằng, ‘Hãy lên đây!’ Bấy giờ họ được bay lên giữa ban ngày trong đám mây, giữa lúc những kẻ thù của họ đang nhìn theo.”
11:13 “Ngay giờ đó, Thượng Đế mở rương đựng giao ước trên bảo điện để thẩm phán nhân loại và khiến một trận động đất lớn xảy ra; một phần mười của thành phố Jerusalem bị sụp đổ, và bảy ngàn người bị chết vì trận động đất ấy; những người sống sót đều cực kỳ sợ hãi, và nguyện dâng vinh diệu lên Thượng Đế trên trời.”
16:13 “Khi Thượng Đế phái hai vị sứ giả của Ngài xuống thế gian truyền bá phúc âm, tôi lại nhìn thấy từ miệng con rồng , từ miệng con thú,, và từ miệng tiên tri giả , xuất ra ba tà linh ô uế giống như ba con ếch đến mê hoặc thế nhân.
16:14 “Vì chúng là tà linh của các quỷ nên chúng làm được những việc lạ lùng. Chúng đến với các lãnh đạo trên toàn thế giới để giao dịch dơ bẩn với họ và dụ dỗ họ bằng lợi ích kinh tế. . Do đó ma quỷ tập hợp lực lượng tại nhân gian hầu đánh trận với vương quốc Cơ Đốc trong ngày thẩm phán của Thượng Đế.”
16:15 “Nhìn tới đây, tôi (Thánh John) không kìm nổi cảm thán: Nhìn này, ta đến không ai biết như kẻ trộm. Ta cảnh tỉnh các ngươi phải nghiêm khắc yêu cầu hành vi của bản thân, phước cho những ai không bước đi lõa lồ trong sự xấu hổ. Đừng để những thứ tà linh lạn quỷ ấy khống chế các ngươi.”
16:16 “Tôi nhìn thấy từ quyển sách với bảy phong ấn, thế lực ma quỷ quy tụ lực lượng về một nơi mà tiếng Hebrew gọi là Armageddon. Tại đây, chúng chuẩn bị tranh chiến với lực lượng Cơ Đốc do hai vị sứ giả của Thượng Đế dẫn đầu.”
8:07 “Tôi nhìn vào quyển sách với bảy phong ấn, thấy khi Thượng Đế phái hai vị sứ giả của Ngài xuống thế gian truyền bá phúc âm, vị thiên sứ thứ nhất thổi kèn, tức thì có mưa đá và lửa từ trên trời rơi xuống. Một phần ba trái đất bị thiêu đốt, một phần ba cây cối bị thiêu trụi, và tất cả cỏ xanh bị thiêu hủy. Đây là báo ứng của Thượng Đế đối với đất.”
8:08 “Khi vị thiên sứ thứ nhì thổi kèn, tôi lại nhìn vào quyển sách với bảy phong ấn, thấy núi lửa dưới đáy biển bùng phát, phun trào dung nham khắp nơi. Một phần ba biển biến thành đỏ như máu,”
8:09 “một phần ba các sinh vật sống trong biển chết, và một phần ba tàu bè ghe thuyền bị tiêu hủy. Đây là báo ứng của Thượng Đế đối với biển.”
8:10 “Khi vị thiên sứ thứ ba thổi kèn, tôi nhìn vào quyển sách với bảy phong ấn, thấy có một ngôi sao chổi cháy phừng phừng như một ngọn đuốc từ trời lao xuống một phần ba các sông ngòi và các suối nước trên mặt đất. Đây là báo ứng của Thượng Đế đối với nước ngọt.”
8:11 “Tên của ngôi sao chổi ấy là Ngải Đắng, và một phần ba các nguồn nước trở thành ngải đắng; thế là nhiều người chết vì nước ấy, bởi nước đã hóa ra đắng.”
8:12 “Khi vị thiên sứ thứ tư thổi kèn, tôi lại nhìn vào quyển sách với bảy phong ấn, thấy vũ trụ chịu đả kích từ bên ngoài, bao gồm mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao, đến nỗi chúng bị tối đi một phần ba. Một phần ba ban ngày không có ánh sáng và một phần ba ban đêm cũng vậy. Đây là báo ứng của Thượng Đế đối với vũ trụ.”
8:13 “Bấy giờ tôi thấy và nghe nước Mỹ phát ra lời cảnh báo đối với toàn nhân loại, hô lớn: ‘Những tai họa này đều là Thượng Đế trừng phạt nhân loại chúng ta! Còn có ba tai họa như vậy nữa đang tới! Hỡi nhân loại trên mặt đất, có họa rồi, có họa rồi, có họa rồi!’”
9:01 “Khi vị thiên sứ thứ năm thổi kèn, tôi thấy một ngôi sao từ trời rơi xuống đất, và ngôi sao ấy được chúng Thần an bài để mở ra vực thẳm không đáy.”
9:02 “Ngôi sao ấy mở vực thẳm, khói từ vực thẳm bốc lên cuồn cuộn như khói của một lò lửa lớn; mặt trời và bầu trời bị khói từ vực thẳm che tối.”
9:03 “Tôi còn nhìn thấy từ trong luồng khói đó một loại virus bay ra khắp đất như châu chấu, và chúng Thần ban cho loại virus này quyền phá hoại như quyền của những bò cạp trên đất.”
9:04 “Chúng Thần căn dặn loại virus này: ‘Các ngươi không được làm hại cỏ xanh, các loài thực vật, hay cây cối trên đất, mà chỉ làm hại những người không có ấn của Thượng Đế trên trán.”
9:05 “Các ngươi không được phép giết họ, mà chỉ hành hạ trong 5 tháng, và họ sẽ bị đau đớn như bị bò cạp chích.'”
9:06 “Trong những ngày ấy người ta sẽ tìm cái chết nhưng tìm không thấy, họ mong cho được chết, nhưng tử thần đã trốn khỏi họ.”
9:07 “Tôi nhìn thấy hình dạng những con virus ấy giống như những ngựa chiến được chuẩn bị sẵn sàng để ra trận. Trên đầu chúng có vật gì giống như cái mão bằng vàng, và mặt chúng giống như mặt người.”
9:08 “Chúng có tóc như tóc phụ nữ, và răng chúng như răng sư tử.”
9:09 “Chúng có giáp che ngực cứng như giáp sắt, và âm thanh của cánh chúng như tiếng của nhiều xe chiến mã đang xông vào trận mạc.”
9:10 “Chúng có đuôi như đuôi bò cạp với ngòi chích độc trong đuôi ấy, và trong đuôi chúng có chất độc làm người ta đau đớn trong 5 tháng.”
9:11 “Tôi còn nhìn thấy chúng có một vua lãnh đạo chúng, đó là sứ giả của vực thẳm. Tên của vị sứ giả trong tiếng Hebrew là ‘Abaddon,’ còn tên đó trong tiếng Hy Lạp là ‘Apollyon.’”
9:12 “Tôi nhìn thấy cơn thống khổ thứ nhất trong 5 tháng đã qua, còn hai cơn thống khổ nữa sắp đến.”
9:13 “Lúc ấy thế lực các quốc gia cộng sản và thế lực các quốc gia Cơ Đốc đã tụ tập lại. Khi vị thiên sứ thứ sáu thổi kèn, tôi nghe có tiếng từ bốn sừng của bàn thờ bằng vàng trước mặt Thượng Đế”
9:14 “bảo vị thiên sứ thứ sáu đang có cây kèn rằng, ‘Hãy thả bốn thế lực Do Thái giáo, Hồi giáo, Cơ Đốc giáo và cộng sản tập trung tại Trung Đông ra.’”
9:15 “Vậy bốn thế lực ấy, vốn được chuẩn bị sẵn cho giờ, ngày, tháng, và năm, được thả ra để gây chiến tranh toàn diện tại Trung Đông, khiến đại chiến thế giới thứ III bùng nổ. Chúng Thần đã an bài kỹ bốn thế lực này để khi thời điểm tới, họ được thả ra để tiêu diệt một phần ba nhân loại.”
9:16 “Quân số các bên tham chiến là 200 triệu; tôi đã nghe được quân số đó của họ.”
9:17 “Các binh lính, chiến xa và chiến thuyền tôi thấy trong quyển sách với bảy phong ấn là như thế này: Binh lính mặc áo giáp chống đạn, mặt nạ phòng hơi độc, kính nhìn ban đêm, súng ống lựu đạn, với đủ màu đỏ như lửa, xanh như nước biển, và vàng như lưu huỳnh; đầu các xe tăng và tàu chiến trông hung hãn như đầu sư tử, và chúng bắn ra các loại đạn pháo.”
9:18 “Một phần ba nhân loại bị tiêu diệt bằng ba tai họa đó, tức bằng đạn, pháo, và tên lửa bắn ra từ xe tăng và tàu chiến.”
9:19 “Sức mạnh của các xe tăng ấy nằm ở đầu và đuôi chúng, vì chúng đều có thể gây ra tử thương.”
9:20 “Tuy nhiên, tôi nhìn thấy nhân loại còn lại, tức những người không bị giết bởi các tai họa ấy, vẫn không chịu ăn năn về những việc tự họ gây ra. Họ vẫn không từ bỏ thờ lạy các lãnh tụ cộng sản hoặc ma quỷ chuyển sinh vào tôn giáo, tức các tượng làm bằng vàng, bạc, đồng, đá, gỗ là những thứ không có khả năng thấy, nghe, và đi. Cho dù ở nhà, trong chùa, tại giáo đường hay trên núi, bất kể tượng ai, thì đều là bái ngẫu tượng, đều là cô phụ đạo lý Chúa Jesus năm xưa đã dùng huyết của mình để chứng thực với thế nhân, đều là cô phụ an bài khổ tâm mấy ngàn năm qua của Thượng Đế, đều là không tuân thủ giao ước với Thượng Đế.”
9:21 “Vẫn còn có những người không ăn năn từ bỏ các tội ác giết người, tà thuật, gian dâm, và trộm cắp của họ. Những người này sẽ phải chịu báo ứng mãnh liệt hơn nữa về sau.”
10:01 “Tôi lại nhìn thấy từ quyển sách với bảy phong ấn một vị thiên sứ mạnh mẽ khác từ trời hạ xuống, mình cuộn trong mây, trên đầu có cầu vồng, mặt sáng rực như mặt trời, và hai chân như hai trụ lửa.”
10:02 “Trong tay vị thiên sứ ấy cầm một cuộn sách nhỏ đã được mở ra. Vị thiên sứ ấy đặt chân phải trên biển và chân trái trên đất,”
10:03 “rồi hô lên một tiếng lớn như tiếng sư tử rống. Khi vị thiên sứ ấy hô lên, bảy âm thanh vang rền như sấm phát ra nội dung của cuộn sách nhỏ.”
10:04 “Khi bảy âm thanh có nội dung cuộn sách nhỏ vừa dứt, tôi định ghi xuống thì tôi nghe có tiếng từ trời phán, ‘Hãy niêm phong những lời từ cuộn sách nhỏ lại, không thể để con người trực tiếp biết được.’ Thế là tôi không ghi lại âm thanh vị thiên sứ có nội dung của cuộn sách nhỏ nữa.”
10:05 “Bấy giờ vị thiên sứ tôi đã thấy đứng trên biển và trên đất đưa tay phải lên trời,”
10:06 “Ngài nhân danh Đấng hằng sống đời đời vô cùng, Đấng đã tạo dựng trời và mọi vật trong đó, đất và mọi vật trong đó, biển và mọi vật trong đó, thề rằng, ‘Sẽ không còn trì hoãn nữa,”
10:07 “trong những ngày tiếng kèn của vị thiên sứ thứ bảy vang lên, bí mật của Thượng Đế sẽ hiển lộ hoàn toàn, y như Ngài đã báo cho các đầy tớ Ngài, là các vị tiên tri Abraham, Moses, Chúa Jesus, và Thánh John. (1) Thông qua phúc âm của Abraham, thế nhân biết được Thượng Đế là Chúa Sáng Thế, là Đấng an bài bí mật của nhân loại. (2) Thông qua phúc âm của Moses, thế nhân biết được giữa con người và Thượng Đế là có giao ước. (3) Thông qua Chúa Jesus, thế nhân biết được thế nào là Cứu Thế Chủ, thế nào là Thánh đồ, từ đó lựa chọn đi theo Cứu Thế Chủ thời mạt kiếp để tiến nhập vị lai. (4) Thông qua khải thị của Thánh John, thế nhân biết được bí mật về đại thẩm phán của Thượng Đế và tân Thiên, tân Địa.”
10:08 “Kế đó, tiếng tôi đã nghe từ trời phán với tôi một lần nữa rằng, ‘Hãy đi, lấy cuộn sách đã mở ở nơi tay vị thiên sứ đứng trên biển và trên đất.’”
10:09 “Tôi đến gặp vị thiên sứ ấy và xin vị ấy: ‘Xin Ngài ban cho con cuộn sách nhỏ’. Vị thiên sứ ấy nói với tôi, ‘Hãy lấy và ăn nó đi. Nó sẽ ngọt như mật trong miệng ngươi, nhưng sẽ đắng trong bụng ngươi.’”
10:10 “Tôi lấy cuộn sách nhỏ khỏi tay vị thiên sứ và ăn nó. Sách ấy ngọt như mật trong miệng tôi, nhưng khi nuốt vào, bụng tôi thấy đắng.”
10:11 “Bấy giờ vị thiên sứ ấy bảo tôi, ‘Vì ngươi đã ăn cuộn sách nhỏ, ngươi nhất định sẽ dùng hình thức tiên tri «Khải Huyền» để đem nội dung của nó lưu truyền tới nhiều dân tộc, nhiều quốc gia, nhiều ngôn ngữ, và nhiều vua chúa.’”
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/zj/book/html/zhengjie/z006.htm
“Vũ trụ là vô hạn về cả không gian và thời gian”
Tác giả: Sử Kha (chỉnh lý)
Tiểu sử của Trương Hành
Trương Hành (Nguồn: Internet)
Trương Hành, tự là Bình Tử, sinh ra ở quận Nam Dương, huyện Tây Ngạc, trấn Thạch Kiều (nay là thành phố Nam Dương, tỉnh Hà Nam, cách Thành Bắc 25 km), vào năm thứ ba Chương Đế Kiến Sơ tại vị (tức năm 78 SCN). Năm 16 tuổi, ông rời quê hương đi du học vòng quanh Trung Quốc. Ông đã gặp rất nhiều học giả nổi tiếng. Một lần ông đến Trường An, kinh đô cũ của triều Hán. Ở đó, ông đã đến thăm các danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử địa phương, và nghiên cứu địa hình, các sản vật, phong tục và nhân tình thế thái ở vùng núi xung quanh. Sau đó, ông đã đến Lạc Dương, thủ đô của Đông Hán, và theo học tại Đại học, trường học cao nhất ở đó.
Trương Hành cũng đặc biệt yêu thích văn học. Ông đã sáng tác rất nhiều tác phẩm văn học với nhiều phong cách khác nhau, đáng chú ý gồm có Quy điền phú, Nhị kinh phú, Tứ sầu thi, Đồng thanh ca. Vào năm thứ tư An Đế Vĩnh Sơ tại vị (tức năm 111 SCN), Trương Hành theo lệnh tiến kinh, nhậm các chức Lang Trung, Thái Sử Lệnh, chức quan nhỏ Công Xa Tư Mã Lệnh, rồi đến cấp quan bậc trung. Trong đó thời gian đảm nhận chức Thái Sử Lệnh là dài nhất, được 14 năm. Thái Sử Lệnh là quan viên phụ trách các sự vụ như quan trắc thiên tượng, biên soạn hiệu đính lịch, dự báo thời tiết, và tổ chức các nghiên cứu về thời tiết và khí trời. Trong khoảng thời gian đảm đương chức vụ này, ông đã tiến hành nghiên cứu tỉ mỉ về lịch thiên văn, và đã có nhiều cống hiến vô cùng to lớn.
Theo kiến thức và quan sát thực tế của ông về quy luật vận hành của các thiên thể, Trương Hành đã tạo ra bộ máy “Hỗn thiên nghi”, diễn tả chính xác quy luật vận hành của các tinh cầu và thuyết Hỗn Thiên (cho rằng trời giống như một cái vỏ trứng gà, đất như lòng đỏ trứng gà). Ông tinh thông thiên văn và lịch toán. Ông đã viết rất nhiều sách về thiên văn học, trong đó có Linh hiến, Linh hiến đồvà Hỗn Thiên nghi đồ chú là các trứ tác về thiên văn học. Ông là một trong những đại diện tiêu biểu cho những người theo thuyết Hỗn Thiên trong thời kỳ Đông Hán.
Linh hiến – Thiên văn học trứ tác
Linh hiến là tác phẩm nổi tiếng nhất trong những cuốn sách của Trương Hành. Đó là một cuốn sách thiên văn học mô tả sự phát triển và vận động của thiên, địa, nhật, nguyệt và các ngôi sao. TrongLinh hiến, Trương Hành nói rằng: các chiều không gian mà chúng ta có thể quan sát được là có giới hạn, còn những chiều không gian mà chúng ta không thể thấy được thì vô cùng vô tận. Tác phẩm của ông đề xuất một cách rõ ràng lý thuyết rằng vũ trụ là vô hạn về cả không gian và thời gian.
Trong Linh hiến, Trương Hành chỉ ra rằng Mặt Trăng tự nó không thể phát sáng mà là nhờ phản chiếu lại ánh sáng của Mặt Trời. Ông cho rằng Mặt Trời và Mặt Trăng giống như nước với lửa. Lửa có thể phát ra ánh sáng và nước thì có thể phản chiếu ánh sáng. Ông chỉ ra rằng ánh sáng Mặt Trăng tỏa ra là do chiếu xạ ánh sáng Mặt Trời, và vào ban ngày không nhìn thấy được ánh trăng, là vì lúc đó nó bị ánh sáng Mặt Trời áp đảo. Đồng thời ông cũng giải thích về nguyên nhân xuất hiện nguyệt thực. Ông tin rằng khi trăng tròn, chúng ta có thể nhìn thấy toàn bộ mặt trăng; nhưng sẽ có lúc chúng ta không thể, đó là khi Trái Đất được mặt trời chiếu sáng, ông gọi bóng của Trái Đất là “Ám hư” và khi Mặt Trăng đi qua vị trí của “Ám hư”, hiện tượng nguyệt thực sẽ xảy ra. Lý giải của ông về nguyên lý của nguyệt thực rất sâu sắc.
Ngoài ra, trong Linh hiến, Trương Hành cũng tính toán đường kính góc của Mặt Trời và Mặt Trăng, và ghi chép lại 2.500 ngôi sao mà ông quan sát thấy trong thời gian ở Lạc Dương, các tính toán này rất gần với kết quả của các nhà thiên văn học hiện đại. Trong một cuốn sách thiên văn học khác tên là Hỗn thiên nghi đồ chú, ông đã đo được một năm Mặt Trời là “365 độ và một phần tư”, rất giống với con số mà các nhà thiên văn hiện đại tính toán được là 365 ngày, 5 giờ, 48 phút và 46 giây.
Trong Linh hiến, Trương Hành sử dụng một số thuật ngữ hiện đại như đường xích đạo, hình e-lip, Nam Cực và Bắc Cực. Ông cũng là người đầu tiên vẽ hoàn chỉnh biểu đồ sao ở Trung Quốc, trong đó có 2.500 vì tinh tú. Theo Trương Hành: “Có 124 ngôi sao luôn phát sáng và 320 ngôi sao có tên. Tổng số các sao là 2.500, vẫn còn một số ngôi sao chưa được liệt kê vào đây.” Biểu đồ sao mà Trương Hành thực hiện không chỉ vượt qua rất nhiều những người tiền nhiệm trước đó, mà còn là biểu đồ hàng đầu trong một thời gian dài sau đó. Trong giai đoạn cuối triều Hán, Trung Quốc rơi vào hỗn loạn và biểu đồ sao của Trương Hành đã bị thất lạc. Vào đầu triều Tấn, biểu đồ sao Trương Hành chỉ còn 1.464 ngôi sao, trong đó chỉ có một nửa số ngôi sao được sắp xếp bởi Trương Hành. Phải đến thời Khang Hy Hoàng đế của triều Thanh, một biểu đồ sao phức tạp hơn đã được tạo ra nhờ sử dụng một kính viễn vọng, và biểu đồ lần này bao gồm hơn 3.000 ngôi sao.
Hỗn thiên nghi và Hậu phong địa động nghi
Hỗn thiên nghi (nhà Minh)
Vào năm 117 SCN, Trương Hành đã chế tạo ra máy định vị thiên thể Hỗn thiên nghi đầu tiên trên thế giới và nó được điều khiển bởi các bánh răng bằng đồng. Hỗn thiên nghi có một quả cầu bên ngoài và một quả cầu bên trong, cả hai quả cầu đều quay. Trên bề mặt được chạm khắc Nam Cực, Bắc Cực, đường xích đạo, hoàng đạo, 24 tiết khí, Mặt Trời, Mặt Trăng, và các tinh tú. Các vị trí của Mặt Trời, Mặt Trăng và các ngôi sao, cũng như trạng thái của quỹ đạo của chúng tương ứng với vị trí thực tế trong vũ trụ.
Vào năm 132 SCN, Trương Hành phát minh ra Hậu Phong địa động nghi, được làm bằng đồng tinh luyện, có hình một nồi rượu. Trên bề mặt có tám con rồng. Đầu của mỗi con rồng nhìn ra tám hướng đông, nam, tây, bắc, đông bắc, đông nam, tây bắc và tây nam. Mỗi con rồng ngậm một quả bóng đồng và có một con ếch ngồi dưới đầu của nó. Khi một trận động đất xảy ra, miệng của rồng ở hướng của trận động đất sẽ tự động mở ra, và quả bóng đồng sẽ rơi vào miệng của con ếch tương ứng, ngay lập tức các nhân viên sẽ ghi lại thời gian và phương hướng của trận động đất. Năm 138 SCN, chiếc máy địa chấn này đã phát hiện chính xác một trận động đất xảy ra ở Lũng Tây. Địa động nghi mà Trương Hành phát minh ra là bộ máy đầu tiên trên thế giới có khả năng đo được hướng của một trận động đất, và nó đã có từ 1.700 năm trước khi máy địa chấn châu Âu được phát minh.
Địa động nghi của Trương Hành
Trương Hành cũng phát minh ra máy đo quãng đường có thể gõ một tiếng trống sau khi xe đi được một lý (0,5 km), cơ cấu la bàn có kim luôn chỉ về hướng Nam, đồng hồ Mặt Trời của Trung Quốc cổ đại để đo vị trí của Mặt Trời, một con chim gỗ bay, và nhiều thứ khác nữa. Ông cũng ước tính pilà căn bậc hai của 10, ông đã viết hơn 30 cuốn sách về thiên văn học lẫn văn học và có nhiều đóng góp to lớn trong lịch pháp, toán học, văn học và nghệ thuật.
Dịch từ: http://pureinsight.org/node/1045
Cuộc đối thoại giữa Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và trưởng đoàn gánh hát
Đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc đại lục
Một lần, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến hóa duyên ở nước Ma Kiệt Đà, Ngài ở tại tịnh xá Trúc Viên Già Lan Đà ở phía bắc thành Vương Xá. Một hôm, có một vị trưởng đoàn gánh hát nổi tiếng thời bấy giờ đến tịnh xá Trúc Viên Già Lan Đà. Ông đến hành lễ trước Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, cung kính hỏi rằng: “Trước đây, con từng nghe các bậc tiền bối trong giới văn nghệ nói rằng: Nếu người nghệ nhân có thể biểu diễn hết mình trước quần chúng, mang niềm vui đến cho mọi người, giúp mọi người vui cười thỏa thích, vậy thì người nghệ nhân đó sau khi chết có thể có một cuộc sống vui vẻ nơi cõi trời. Nói như vậy Ngài thấy có đúng không?”
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trả lời rằng: “Chúng ta không nên bàn đến chuyện này nữa, ông đừng hỏi ta nhìn nhận sự việc này như thế nào”. Vị trưởng đoàn gánh hát vẫn không nản lòng, hỏi đi hỏi lại ba lần, Đức Phật đành phải trả lời: “Ta hỏi ông câu này, ông nghĩ thế nào hãy trả lời như thế. Trước đây, khi thế gian còn chưa có đấng cứu độ, mọi người đều chưa xa rời khỏi tham sân si, cũng không biết được cần phải xa rời tham sân si, vẫn bị trói buộc bởi tham sân si. Nội dung các vở biểu diễn ca múa hý kịch của nghệ nhân cũng không tách khỏi tham sân si, như vậy mới có thể phù hợp với thị hiếu của mọi người, thu hút mọi người đến xem. Mọi người đến xem nghệ nhân biểu diễn, vui cười thỏa thích, há chằng phải lại càng làm mạnh thêm tâm tham sân si của họ hay sao, khiến cho mọi người càng bị trói buộc vào tham sân si hay sao? Đây chính là giống như một người bị trói hai tay ngược ra đằng sau bằng dây gai, có người muốn hành hạ anh ta càng đau đớn hơn, bèn liên tục tưới nước lên sợi dây gai, dây gai hút nước liền nở ra, khiến dây trói càng chặt hơn, vậy há chẳng phải là khiến anh ta càng bị trói chặt hơn, càng đau khổ hơn hay sao?”
“Đúng vậy”, vị trưởng đoàn gánh hát trả lời.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lại nói: “Vậy nên chúng sinh đã không thể xa lìa sự trói buộc của tham sân si, lại còn chịu sự kích động của ca múa hý kịch, há chẳng phải là càng làm tăng thêm tâm tham sân si của họ sao?”
Vị trưởng đoàn gánh hát nghe xong không thể không thừa nhận lời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói có đạo lý: các màn biểu diễn ca múa hý kịch giúp cho mọi người vui cười thỏa thích, nhưng cũng kích động chúng sinh tăng thêm tâm tham sân si, nên càng khiến chúng sinh bị trói buộc sâu hơn vào tham sân si.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng tiếp: “Vậy nên, các bậc tiền bối trong giới văn nghệ xưa nay nói rằng người nghệ nhân biểu diễn ca múa hý kịch mang niềm vui đến cho mọi người, giúp mọi người vui cười thỏa thích, thì sau khi chết có thể có cuộc sống vui vẻ nơi cõi trời, quan điểm đó là tà kiến sai lầm! Thành thật mà nói, những người ôm giữ tà kiến như vậy sau khi chết chỉ có thể rơi vào địa ngục hoặc đầu thai làm súc vật, sao có thể lên trời được?”
Trưởng đoàn gánh hát sau khi nghe Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng Pháp xong, lập tức quy y Phật Pháp. Nghe nói vị này về sau đã tu thành quả vị A La Hán.
Kỳ thực nếu như dùng hình thức ca múa nghệ thuật để tuyên dương các loại tà kiến, quan điểm sai lầm, văn hóa tà đảng, thuyết vô thần, thuyết tiến hóa và những thứ làm bại hoại đạo đức nhân loại, những thứ văn hóa phẩm đồi trụy hạ lưu, những thứ làm tăng trưởng tâm chấp trước của con người, vậy thì sẽ đều gây hại cho con người. Tuy nhiên, thuận theo sự bại hoại của nhân loại, đa số các tác phẩm nghệ thuật trong giới văn nghệ hiện nay đều mang ít nhiều những nội dung bất chính như vậy
Nếu dùng hình thức nghệ thuật chính thống chân chính để ca ngợi Thần Phật, ca ngợi những người tu luyện chân chính, ca ngợi vẻ đẹp của Phật Pháp, vạch trần tà ác, thức tỉnh lương tâm con người thế gian và chúng sinh, tuyên dương những điều ngay chính, tốt đẹp, vậy thì đều tốt cho nhân loại, cho chúng sinh, thậm chí là một việc đại thiện, tích vô lượng công đức.
Dịch từ: http://www.zhengjian.org/2008/05/08/52731.佛家故事:释迦牟尼佛与歌舞团团主的对话.html
Trung Quốc và giấc mơ “quốc gia quán quân” của thế giới
by amaritx
Tác giả: Lưu Minh Phúc (Trung Quốc)
Quốc gia quán quân là quốc gia giàu mạnh nhất xuất hiện trong quá trình cạnh tranh giữa các quốc gia trên phạm vi toàn cầu kể từ sau khi hình thành hệ thống thế giới cận đại, là quốc gia dẫn đầu thế giới trong một thời gian, là quốc gia in dấu ấn sâu sắc trên toàn thế giới, có sức ảnh hưởng lớn nhất trên thế giới.
Đổi ngôi Quán quân: 100 năm quay một vòng
Sự xuất hiện và thay thế Quốc gia quán quân có đặc điểm và quy luật của nó. Quốc gia quán quân loại hình khác nhau thì có những bộ mặt khác nhau. Địa vị và tác dụng của quốc gia đó thể hiện ở giá trị của nó đối với thế giới. Đại diện điển hình các Quốc gia quán quân xuất hiện trên thế giới cận đại trong 500 năm qua là Bồ Đào Nha ở thế kỷ 16, Hà Lan ở thế kỷ 17, Anh – thế kỷ 18 và 19, Mỹ – thế kỷ 20. Trung Quốc sẽ trở thành Quốc gia quán quân trong thế kỷ 21.
Động lực của nước lớn trỗi dậy
Động lực chủ yếu làm cho thế giới phát triển tiến lên là sự cạnh tranh giữa các quốc gia. Nếu nói nội bộ một quốc gia thì sự cạnh tranh giữa các giai cấp, tập đoàn, tầng lớp là động lực phát triển của quốc gia, thế thì sau khi hình thành hệ thống quốc tế, sự cạnh tranh giữa các quốc gia chính là động lực phát triển thế giới, là động lực giúp nước lớn trỗi dậy.
GS Joseph Nye ở Học viện chính trị Kennedy thuộc Đại học Harvard nói: “Một số sử gia cho rằng giữa các quốc gia châu Âu có sự cạnh tranh, đúng là điều này đã làm cho các quốc gia đó luôn tự phát triển. Tại châu Á, Trung Quốc có địa vị chủ đạo, không nước nào có thể cạnh tranh với họ, vả lại trên vấn đề đối phó với sự xâm lược của các quốc gia phương Bắc, Trung Quốc chỉ giải quyết nội bộ, vì thế họ không có động lực bành trướng lãnh thổ.” “Không nghi ngờ gì nữa, cách đây 1.500 năm Trung Quốc là nước siêu lớn ở Đông Á. Hồi đó người châu Âu bắt đầu thám hiểm hàng hải, còn người Trung Quốc thì giảm hoạt động này. Bởi vậy bạn sẽ thấy đa số nước lớn bành trướng sức mạnh tới mấy châu lục đều bắt nguồn từ châu Âu.”
Theo Nye, sở dĩ phương Tây phát triển nhanh là do giữa các quốc gia ấy có sự cạnh tranh kịch liệt, đem lại động lực và sức sống cho thế giới. Trong thời cận đại, phương Đông phát triển chậm, thậm chí không tiến lên, đó là do chưa hình thành cạnh tranh giữa các quốc gia.
Trên thế giới ngày nay, số lượng quốc gia tham gia cạnh tranh tăng lên rất nhiều so với ngày trước. Trong thế kỷ 20, số lượng quốc gia có chủ quyền hợp pháp và giành được độc lập chính trị tăng lên ổn định: thập niên 1930 chỉ có khoảng 60 nước, cuối thế kỷ 20 có chừng 190 nước. Đến tháng 9/2002, Liên Hợp Quốc có 191 nước thành viên. Năm 2008 toàn thế giới có 225 quốc gia và lãnh thổ, gồm 194 quốc gia và 31 lãnh thổ. Thế giới đang phát triển trong sự cạnh tranh và ganh đua giữa các quốc gia. Sức sống, động lực, sức sáng tạo của cộng đồng quốc tế bắt nguồn từ động lực thúc đẩy của sự cạnh tranh đó. Cạnh tranh giữa các quốc gia nhất là cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn là động lực lớn nhất làm cho thế giới tiến lên.
Có thể chia mục tiêu cạnh tranh giữa các quốc gia làm mục tiêu thấp nhất và mục tiêu cao nhất. Nhà lý luận quan hệ quốc tế nổi tiếng người Mỹ Kenneth Neal Waltz cho rằng quốc gia “coi sự tự bảo tồn mình là mục tiêu tối thiểu, coi tranh giành quyền dẫn dắt thế giới là mục tiêu cao nhất”. Mục tiêu tối thiểu của cuộc cạnh tranh giữa các quốc gia là sự sinh tồn tự thân của quốc gia đó. Mục tiêu cao nhất là trở thành Quốc gia quán quân thế giới, là giành quyền dẫn dắt thế giới.
Cuộc vật lộn, cạnh tranh của các quốc gia trên vũ đài thế giới gồm 4 tầng nấc:
An ninh. An ninh là mục tiêu chiến lược cơ bản nhất, quan trọng nhất. Lịch sử phát triển và thế giới tiến bộ đến như ngày nay, tuyệt đại đa số lợi ích an ninh của các quốc gia dân tộc đều được bảo đảm. Hiện nay 194 quốc gia về cơ bản không tồn tại nguy hiểm bị chinh phục và tiêu vong, chủ quyền quốc gia của họ trên cơ bản là an toàn. Chỉ có mười mấy nước bị đe dọa và khốn khổ bởi chiến tranh.
Phát triển. Tuy thế giới tiến sang thời đại hòa bình và phát triển đã nhiều năm nay, song số quốc gia thực sự có thể phát triển tương đối lớn và nhanh còn ít. Tổng số nước phát triển và nước mới công nghiệp hóa chỉ vào khoảng 40~50 nước, chiếm chừng 1/4 tổng số quốc gia.
Trỗi dậy. Trong nhóm nước đang phát triển, các nước trỗi dậy là những nước có thể ảnh hưởng tới tình hình thế giới. Xưa nay những nước như vậy tồn tại và xuất hiện không nhiều, trong 500 năm gần đây chỉ khoảng mười mấy nước. Hiện nay số nước có cơ hội, có điều kiện trỗi dậy trở thành cường quốc thế giới cũng chỉ là mấy nước đó.
Quốc gia quán quân là quốc gia ở đỉnh cao nhất. Thông thường khoảng 100 năm mới xuất hiện một Quốc gia quán quân. Tuy thế, trên thế giới cận đại 500 năm nay trước sau từng có 7-8 nước tranh giành ngôi báu này, nhưng thực sự tiến lên địa vị này cũng chỉ có mấy nước đó. Một nước muốn trở thành quán quân trên thế giới tất phải là quốc gia trỗi dậy, nhưng quốc gia trỗi dậy không nhất định đều trở thành quán quân. Từ một quốc gia sinh tồn, quốc gia đang phát triển, quốc gia đang trỗi dậy cho tới Quốc gia quán quân là cả một quá trình phấn đấu thần kỳ.
Thay đổi quốc gia quán quân: Sự thể hiện tập trung sức sống của thế giới
Khi có sự cạnh tranh giữa các quốc gia thì sẽ có quốc gia đào thải hoặc chiến thắng. Sự suy thoái của Quốc gia quán quân cũ và sự trỗi dậy của Quốc gia quán quân mới, sự đổi vị trí của họ thể hiện sức sống tiến bộ và phát triển của thế giới. Mỗi Quốc gia quán quân mới ra đời đánh dấu một lần nhảy vọt và tiến bộ có tính lịch sử của thế giới.
Trong phần mở đầu sách “Ngoại giao” (Diplomacy), Kissinger viết: “Tựa như tồn tại một quy luật tự nhiên nào đó, mỗi thế kỷ đều có một nước lớn trỗi dậy, họ có sức mạnh, có ý chí, có sự khích lệ về trí thức và đạo đức, dựa vào giá trị của mình xây dựng lại toàn bộ hệ thống quốc tế.”
Thực ra từ 2.000 năm trước, sử gia vĩ đại cổ Hy Lạp Herodotus căn cứ quá trình lịch sử thăng trầm của các thành bang Hy Lạp đã đưa ra một phán đoán nổi tiếng: sự suy vong của đô thị phồn hoa và sự trỗi dậy của đô thị nhược tiểu đã hùng hồn nói lên một kết luận: xưa nay tình hình tốt đẹp không bao giờ kéo dài. Điều này trên thực tế vạch ra quy luật phát triển không cân bằng trong cuộc cạnh tranh giữa các quốc gia, cũng là luật chu kỳ bá quyền: Quốc gia quán quân sẽ phải bị thay thế, không thể có một quốc gia nào đó độc quyền lâu dài.
Hồi thập niên 1980, nhà chính trị học quốc tế nổi tiếng người Mỹ George Modelski từng đưa ra lý thuyết “chu kỳ trăm năm” thay thế quốc gia bá quyền, cũng có thể gọi đó là lý thuyết chu kỳ trăm năm về “quyền lãnh đạo thế giới”. Ông chia nền chính trị quốc tế 500 năm qua làm 5 chu kỳ có tính thế kỷ (1495 – 2030), cứ cách khoảng 100 năm lại có một nước lớn trỗi dậy, lại xuất hiện một quốc gia bá quyền dẫn đầu hệ thống thế giới. Trong thời gian ấy đã lần lượt xuất hiện các quốc gia bá quyền: Bồ Đào Nha thế kỷ 16, Hà Lan thế kỷ 17, Anh Quốc thế kỷ 18-19, Mỹ thế kỷ 20.
Dù là chu kỳ trăm năm “quốc gia bá quyền” hay là chu kỳ trăm năm “quyền lãnh đạo thế giới”, điều đó nói lên trong quá trình rượt đuổi cạnh tranh giữa các quốc gia, chưa hề có Quốc gia quán quân vĩnh viễn. Nhiệm kỳ của Quốc gia quán quân là “nhiệm kỳ thế kỷ”, “nhiệm kỳ trăm năm”. Người ta thường nói “thế kỷ Hà Lan”, “thế kỷ Anh”, “thế kỷ Mỹ”, nhiệm kỳ quán quân của các Quốc gia quán quân này là một thế kỷ. Chế độ nhiệm kỳ hình thành tự nhiên của Quốc gia quán quân là điều tốt đối với thế giới. Dù là muốn giữ vị trí quán quân hay muốn tiến lên quán quân, họ đều mang lại cho thế giới sức sống và động lực phát triển. Sự thay thế Quốc gia quán quân thể hiện trình độ vận động tổng thể của thế giới được nâng cao. Thí dụ, sự xuất hiện nước Anh đem lại cho thế giới tin mừng công nghiệp hoá; nước Mỹ tiến lên vị trí quán quân mang lại sự thay đổi mới cho thế giới; Quốc gia quán quân mới xuất hiện sau Mỹ nhất định cũng sẽ đem lại cho thế giới một cục diện mới.
Ba bộ mặt của “Quốc gia quán quân”
Đại để có thể chia Quốc gia quán quân thế giới ra làm ba kiểu loại.
Kiểu thực dân
Quốc gia quán quân “kiểu thực dân” là quốc gia thực hành “chủ nghĩa đế quốc thực dân”; thông qua sự chiếm đóng quân sự mà tiến hành trực tiếp thống trị, biến các nước yếu thành thuộc địa của mình, xây dựng đại đế quốc thực dân. Mấy nước lớn trỗi dậy thời kỳ đầu đều thuộc loại Quốc gia quán quân “kiểu thực dân”, gồm Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh. Dựa vào lô-gích kẻ cướp “phát hiện thì chiếm lĩnh”, họ thực hành xâm chiếm bằng vũ lực, xây dựng những đế quốc thực dân khổng lồ.
Năm 1549, các thuộc địa ở châu Mỹ của Tây Ban Nha chiều Bắc – Nam dài tổng cộng tới hơn 10 nghìn km, trải rộng trên 67 độ kinh, tổng diện tích lên tới 25 triệu km2.
Hà Lan thế kỷ 17 không những là một nước lớn về thương mại mà còn là một cường quốc thực dân. Hoạt động thực dân của Hà Lan chủ yếu tiến hành thông qua hai công ty Đông Ấn và Tây Ấn. Phạm vi thực dân của công ty Đông Ấn chủ yếu ở châu Á, của công ty Tây Ấn là ở châu Phi và châu Mỹ. Diện tích các thuộc địa do hai công ty này xây dựng ở hải ngoại lớn gấp 60 lần chính quốc Hà Lan.
Anh Quốc là “đế quốc thực dân” với mục tiêu chiếm lĩnh thế giới trong thời kỳ bành trướng tư bản. Các thuộc địa bị đế quốc Đại Anh xâm chiếm rộng tới hơn 30 triệu km2, lớn gấp trên 100 lần diện tích chính quốc, chiếm chừng 1/4 diện tích toàn bộ lục địa trên trái đất, số dân gần 400 triệu, gấp 9 lần số dân chính quốc. Trong 50 năm 1815 – 1865, nước Anh đã mở rộng các thuộc địa của họ với tốc độ bình quân mỗi năm 100 nghìn km2, xây dựng nên một “đế quốc mặt trời không bao giờ lặn” cùng một hệ thống thương mại quốc tế phục vụ lợi ích của đế quốc này. Các thuộc địa ấy cung cấp nhiều nguyên liệu quý cho nước Anh, cũng như cung cấp kênh xuất khẩu các sản phẩm Anh chế tạo. Tại nước Anh dần dần hình thành một “tam giác lành tính” gồm thuộc địa hải ngoại, thương mại quốc tế, và lực lượng hải quân hùng mạnh. Anh trở thành một thế giới thuộc địa, thế giới buôn bán. Họ dùng hạm đội để hộ tống tàu buôn và kiểm soát thế giới. Năm 1865 nhà kinh tế Anh W. Stanley Jevons mô tả: “Những đồng bằng ở Bắc Mỹ và Nga là nơi trồng ngô của chúng ta, Canada và biển Baltic là khu rừng của chúng ta, châu Úc có những bãi chăn gia súc của ta; Peru cho ta bạc trắng; vàng của Nam Phi và Australia chảy về London; người Ấn Độ và Trung Quốc trồng trà cho ta; cà phê, mía và hương liệu của ta trồng khắp quần đảo Đông Ấn. Bông của chúng ta lâu nay trồng tại miền Nam nước Mỹ, hiện nay đang mở rộng đến tất cả mọi vùng ấm áp trên trái đất.”
Kiểu bá quyền
Quốc gia quán quân “kiểu bá quyền” là quốc gia không coi chiếm đất và thôn tính đất đai nước khác là mục tiêu, mà thông qua sự dẫn dắt và kiểm soát thế giới để thực hiện lợi ích bá quyền của mình. Nếu nói Quốc gia quán quân “kiểu thực dân” thuộc loại “kẻ cướp dã man” thế thì Quốc gia quán quân “kiểu bá quyền” thuộc loại “kẻ cướp văn minh”. Hai kẻ cướp ấy tuy khác nhau nhưng đều thuộc hàng kẻ cướp. Nước Mỹ là một tiêu bản của Quốc gia quán quân “kiểu bá quyền”. Chuyên gia lịch sử ngoại giao Mỹ Warren Cohen viết trong Lịch sử quan hệ đối ngoại Mỹ như sau:
“Từ năm 1776 trở đi người Mỹ luôn luôn xây dựng một bộ chế độ của mình nhằm thích ứng với nhu cầu tự thân không ngừng biến đổi của họ. Đúng thế, họ tranh giành quyền lực thế giới với người châu Âu… Người Philippines, người Cuba, người Trung Quốc và người Trung Mỹ có đầy đủ lý do để cho rằng Mỹ chẳng khác gì các nước đế quốc khác. Thế nhưng không như các nước lớn khác, nước Mỹ có một đại lục lớn để sinh sôi nẩy nở và khai thác, nó không vì thừa dân mà khát khao chiếm thuộc địa, cũng không vì thiếu nguyên vật liệu mà thèm khát những lãnh địa bảo hộ rộng lớn, đồng thời cũng không cần (như nước Nga) khát khao chiếm lĩnh những vùng đất rộng để làm đường đi tới các cảng biển mới xây dựng nhằm tạo dựng một hệ thống vận chuyển quan trọng.”
“Nước Mỹ không muốn tham gia hàng ngũ của người châu Âu và người Nhật tìm kiếm lãnh thổ và trở thành đế quốc thực dân. Các quan chức Mỹ chỉ muốn giành được những mảnh đất phân tán, diện tích tương đối nhỏ để dùng làm cơ sở bành trướng thương mại cần thiết. Khi sáng tạo và đánh giá thành tích công nghiệp, người Mỹ cũng không muốn bắt chước người châu Âu, không muốn dùng tiêu chuẩn của người châu Âu hoặc người Nhật…
Xét về mặt sáng tạo cái mới và xây dựng quy chế, những người lãnh đạo tổ hợp công ty kiểu Mỹ vượt xa các đối thủ nước ngoài. Mối quan hệ giữa các tổ hợp đó với chính quyền và các yêu cầu chính sách ngoại giao họ nêu ra với các quan chức nhà nước cũng khác hẳn các đối thủ của họ.”
“Nước Mỹ là quốc gia – dân tộc đầu tiên của thế kỷ 20. Đổi mới khoa học, dây chuyền công nghiệp hợp lý hóa và toàn cầu hóa, công ty đa quốc gia, quyền lực chính trị tập quyền hóa với cơ sở là hệ thống thông tin hiện đại, chủ nghĩa can thiệp quân sự, chủ nghĩa dân tộc cuồng nhiệt, chủ nghĩa chủng tộc cực đoan và cuộc cách mạng có ý nghĩa sâu xa – tất cả những cái đó đã cùng tạo dựng nên tiến trình phát triển của thế kỷ 20.”
Các đoạn viết nói trên đã trình bày các đặc điểm nước Mỹ không dùng thủ đoạn thực dân để tạo dựng bá quyền.
Cho dù trong thời đại chiến tranh và cách mạng hay là trong thời đại hòa bình và phát triển, nước Mỹ bao giờ cũng là một “đế quốc bá quyền” lấy việc kiểm soát thế giới làm mục tiêu. Bá quyền Mỹ thể hiện trên các mặt chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa.
Sau Thế chiến II, nước Mỹ xuất hiện với tư cách thủ lĩnh chống chiến tranh phát xít của thế giới, có cái vốn chính trị to lớn, chủ đạo việc cấu trúc và xây dựng cơ chế quốc tế: xây dựng cơ chế an ninh tập thể của Liên Hợp Quốc, xác lập địa vị chủ đạo trong nền chính trị quốc tế, xây dựng Ngân hàng thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, xác lập hệ thống tài chính thế giới lấy đồng USD làm hạt nhân; xây dựng hệ thống thương mại tự do quốc tế lấy cơ sở là hiệp định thuế quan thương mại; thực hành chiến lược ngăn chặn, đề xuất chủ nghĩa Truman, kế hoạch Marshall, xây dựng Tổ chức Hiệp ước Đại Tây Dương NATO.
Mỹ là nước đề xướng, kiến tạo Liên Hợp Quốc và là nhà tài trợ lớn nhất cho Liên Hợp Quốc, cũng là nước hưởng lợi lớn nhất từ Liên Hợp Quốc. Mỹ luôn luôn thông qua việc thực hành bá quyền chế độ và bá quyền quyền lực để thực hiện lợi ích quốc gia của họ. Mỹ từng gọi Liên Hợp Quốc là “nền chính trị bạo tàn của đa số” và dựa theo nguyên tắc nước lớn nhất trí để thiết kế, xây dựng, lãnh đạo và kiểm soát tổ chức quốc tế quan trọng nhất thế giới này. Trong các hoạt động thời kỳ đầu của Liên Hợp Quốc, Mỹ kiểm soát và chi phối đa số ổn định trong Liên Hợp Quốc, thông qua cỗ máy biểu quyết này biến ý chí và nguyện vọng của họ thành hành động. Trong thời gian 1946 – 1953 Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua hơn 800 nghị quyết, tỷ lệ thành công của Mỹ là 97%, bất kỳ vấn đề an ninh quan trọng nào có liên quan tới Mỹ đều chưa bị thất bại.
Mỹ còn là nước ủng hộ và tổ chức nhiều tổ chức có tính khu vực. Cái gọi là nguyên tắc nước lớn nhất trí, thực chất là nguyên tắc nhất trí với Mỹ. Tổng giá trị sản lượng công nghiệp của Mỹ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai chiếm hơn một nửa tổng sản lượng của toàn thế giới; Mỹ cử quân đội đến đóng tại 50 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới. Nước Mỹ dùng phương thức của họ để chủ đạo trật tự quốc tế. Mỹ và Liên Xô tiến hành cuộc chiến tranh lạnh kéo dài gần nửa thế kỷ với nội dung là tranh giành bá quyền thế giới. Sau khi chiến tranh lạnh chấm dứt, cuối cùng Mỹ xác lập được địa vị bá quyền của mình, hơn nữa còn thực hành chủ nghĩa đơn phương, liên tục nhiều lần gây chiến tranh, khoe khoang vũ lực trước toàn thế giới.
Một biểu hiện quan trọng của bá quyền Mỹ là muốn dùng mô hình Mỹ để cải tạo thế giới, muốn mở rộng dân chủ kiểu Mỹ trên toàn cầu, muốn tiến hành Mỹ hóa toàn thế giới. Đây là sự mất dân chủ lớn nhất của bá quyền Mỹ trong mối quan hệ quốc tế, là sự chuyên chế và độc tài của bá quyền Mỹ.
Kiểu dẫn dắt
Quốc gia quán quân “kiểu dẫn dắt” là loại Quốc gia quán quân không dùng thủ đoạn chinh phục để xây dựng nền văn minh, không thông qua bá quyền thế giới và phương pháp chinh phục để thực hiện lợi ích quốc gia của mình. Tuy hiện nay chưa phải là Quốc gia quán quân, song Trung Quốc khẳng định sẽ là một Quốc gia quán quân “kiểu dẫn dắt”.
Sử gia Mỹ nổi tiếng Brooks Adams cho rằng các nền văn minh vĩ đại đều được xây dựng bằng phương pháp chinh phục, cổ súy trung tâm văn minh thế giới không lệ thuộc Mỹ (phi Mỹ), Mỹ nên nắm cơ hội để bành trướng ra bên ngoài, nhất là bành trướng về phía châu Á và vùng Thái Bình Dương, thực hiện ưu thế kinh tế của Mỹ trong phạm vi thế giới.
Trên thực tế, đây là một “Thuyết bành trướng có lý”, “Thuyết chinh phục có lý”, “Thuyết bá quyền có lý”. Trước hết, sự việc nền văn minh tư bản phương Tây được tạo dựng bằng phương pháp chinh phục không thể chứng minh tất cả mọi nền văn minh vĩ đại xưa nay đều được xây dựng bằng phương pháp chinh phục – chẳng hạn nền văn minh Trung Hoa. Thứ hai, nếu nói các nền văn minh vĩ đại đều được xây dựng bằng phương pháp chinh phục, thế thì phương pháp ấy cũng trở thành thứ cùng tồn vong với nền văn minh, không có chinh phục thì không có văn minh, không cần chinh phục là không cần văn minh, chinh phục cũng trở thành một phần của văn minh. Điều này rất rõ ràng là thứ logic của kẻ cướp. Thứ ba, sự kiện một số nền văn minh vĩ đại xa xưa được xây dựng bằng phương pháp chinh phục không có nghĩa là các nền văn minh sau này cũng đều phải được xây dựng bằng phương pháp chinh phục.
Nền văn minh trong tương lai sẽ là nền văn minh không cần dùng phương pháp chinh phục để tạo dựng. Trung Quốc sẽ sáng tạo một kiểu nền văn minh có tính phi chinh phục. Chừng nào còn cần chinh phục để tạo dựng nên thì loại văn minh ấy là văn minh làm bạn với dã man, không phải là nền văn minh thực sự cao cấp. Dùng phương pháp phi chinh phục để sáng tạo một loại văn minh phi chinh phục – đó là trách nhiệm của Trung Quốc, là yêu cầu mà tiến trình phát triển văn minh thế giới và những người yêu chuộng hòa bình, phát triển và văn minh trên thế giới đặt ra với Trung Quốc, là cống hiến mà người Trung Quốc cần đóng góp cho văn minh thế giới. Cũng chỉ có truyền thống văn minh Trung Quốc và nền tảng văn minh Trung Quốc mới có thể gánh vác nổi nhiệm vụ nặng nề nâng cấp đổi đời văn minh thế giới như vậy.
Những Quốc gia quán quân trước nước Mỹ (kể cả Mỹ), không nước nào không có tính hai mang: một mặt Quốc gia quán quân dẫn đầu ngọn trào phát triển thế giới và có quốc lực tổng hợp xếp hạng thứ nhất, mặt khác lại là quốc gia bá quyền sử dụng thủ đoạn chiếm lĩnh và chinh phục để thống trị hoặc kiểm soát nước khác, xưng bá thế giới, áp chế những người bất đồng chính kiến. Nhưng quốc gia nhất thế giới mà Trung Quốc cần theo đuổi, cần tranh thủ trở thành lại là một loại Quốc gia quán quân kiểu hoàn toàn mới, chưa từng có trong lịch sử thế giới.
Brzezinski từng nói: “Xét về lâu dài, nền chính trị toàn cầu nhất định sẽ trở nên ngày càng không tương thích với tình trạng một quốc gia độc đoán nắm sức mạnh bá quyền. Cho nên nước Mỹ không những là siêu cường thực sự có tính toàn cầu đầu tiên và duy nhất, mà rất có thể cũng là siêu cường cuối cùng.” Xét từ xu thế phát triển của cộng đồng xã hội và thế giới loài người cũng thấy nước Mỹ sẽ là quốc gia bá quyền cuối cùng trên trái đất này, thế giới sau đây sẽ không thể xuất hiện một quốc gia bá quyền mới. Trong cuộc đua phát triển tiến bộ quốc gia hết vòng này đến vòng khác, bao giờ cũng sẽ xuất hiện tân Quốc gia quán quân dẫn đầu thế giới, đã không thể không có Quốc gia quán quân, cũng chẳng thể có tình trạng một quốc gia mãi mãi độc quyền chiếm ngôi quán quân. Cho nên sự chấm dứt quốc gia bá quyền không đồng nghĩa với sự chấm dứt Quốc gia quán quân. Trung Quốc không làm quốc gia bá quyền, điều đó không có nghĩa là không làm Quốc gia quán quân. Xét từ góc độ thế giới, Quốc gia quán quân kiểu thực dân đã kết thúc từ lâu, Quốc gia quán quân kiểu bá quyền cũng sẽ chấm dứt, nhưng Quốc gia quán quân kiểu thứ ba, tức kiểu dẫn dắt của Trung Quốc, là Quốc gia quán quân kiểu mới, tính chất căn bản của nó không phải là tranh bá và xưng bá thế giới, mà là tranh thủ tiến lên trước và dẫn đầu thế giới.
(Đón đọc phần 2: Giá trị của quốc gia quán quân)
Lưu Minh Phúc (Liu MingFu), 65 tuổi, nguyên đại tá Quân Giải phóng Trung Quốc, giáo sư Đại học Quốc phòng Trung Quốc, đã nghỉ hưu, năm 2010 xuất bản sách Giấc mơ Trung Quốc, đang chuẩn bị xuất bản 3 cuốn sách mới. New York Times đánh giá ông là học giả diều hâu nổi tiếng nhất trong quân đội Trung Quốc, quan điểm của Lưu Minh Phúc được coi trọng dưới thời Tập Cận Bình.
Nguồn: 中国梦: 后美国时代的大国思维与战略定位 刘明福
Thứ Ba, 2 tháng 8, 2016
Những căn bệnh thời đại
Tác giả: Trường Giang
———Con người là sinh vật tiến hoá nhất, có khả năng tư duy, diễn đạt biết sáng tạo và sử dụng công cụ lao động, biết cảm thụ cái hay cái đẹp và có mối quan hệ trong cộng đồng ngày càng phong phú và phức tạp. Con người ngay từ buổi sơ khai, sống rất hồn nhiên, trong lành, lương thiện đồng thời cũng đã bộc lộ những mặt xấu, thậm chí rất xấu trong mối quan hệ với đồng loại. Trong quá trình tiến lên cùng với sự hình thành và phát triển xã hội, những mặt tốt và xấu của con người cũng có những biến đổi: biến đổi tích cực và cả những biến đổi tiêu cực.
Những phẩm chất tính cách đó được nảy sinh, lớn dần, được điều chỉnh, xoá bỏ, bổ sung trong bản thể con người đồng thời nó cũng phản ảnh cái sinh hoạt đầy biến động của thế giới bên ngoài. Do đó tính cách con người trong mỗi thời đại đều có những đặc điểm tương ứng.
Trong thời đại ngày nay – thời đại trí tuệ, nhiều phẩm chất tốt của con người xuất hiện và phát triển, nhất là tinh thần đổi mới, ý thức lao động sáng tạo, đã làm thay đổi hẳn bộ mặt đất nước song mặt xấu, mặt tiêu cực cũng nảy sinh, phát triển và cản trở cái thực tiễn xã hội đang vận động của chúng ta. Mặt tốt, mặt anh hùng là chủ yếu, hệ thống truyền thông đại chúng đã nói nhiều, riêng về mặt xấu, những tật xấu thì chúng ta chưa có dịp bàn kỹ, nhất là ở dạng khái quát, tổng kết.
Ở đây, tôi xin phác thảo chân dung những căn bệnh thời đại, mặt trái của giai đoạn lịch sử hiện nay với mong muốn được đông đảo bạn đọc cùng tham gia hoàn thiện với ước mơ được mọi người nỗ lực giúp nhau hạn chế và tiến tới xoá bỏ những gì mà chúng ta đã nhìn thấy.
1. Bệnh cơ hội chủ nghĩa
Đây là căn bệnh của những người không có chính kiến rõ ràng, hay ngả nghiêng, gió chiều nào theo chiều đó, ai mạnh thì theo, thường xuyên tranh thủ lãnh đạo, hành động nhằm mưu cầu lợi ích trước mắt, lợi ích cục bộ, bất chấp đúng hay sai. Họ luôn có ý thức tận dụng mọi cơ hội để tạo uy tín cá nhân gây cảm tình với những người, những cấp có thẩm quyền để dễ dàng được thoả mãn tham vọng cá nhân về chức vụ, lương bổng, phân công công tác phân phối các quyền lợi vật chất – tinh thần. Họ hay gần gũi những người có thần thế, xum xoe, giúp đỡ, kể cả giúp đỡ những việc tầm thường hằng ngày.
Những người mắc bệnh này thường bụng nghĩ một đằng, miệng nói một nẻo; ngồi trong hội nghị nói khác, ra ngoài hành lang nói khác; khi đương chức thì ép mình vào khuôn phép một cách máy móc, thậm chí giả tạo nhưng đến khi về hứa thì buông thả, nói bạt mạng, hành động bạt mạng.
Bệnh cơ hội càng trở nên trầm trọng khi xã hội đang có những bước phát triển nhanh, có nhiều biến động về tổ chức, nhân sự, về cơ chế và hệ thống việc làm. Bệnh này thường xâm nhập vào cán bộ công, nhân viên các cấp có nhiều tham vọng.
2. Bệnh bảo thủ
Bệnh này đang giảm dần nhưng những gì còn lại ở một số người nào đó lại là lực cản lớn lao cho sự phát triển cho công cuộc đổi mới. Đặc biệt những người bảo thủ mà đang nắm giữ những trọng trách ở các cấp, các ngành, các đoàn thể thì sức cản trở của họ tăng lên cấp số nhân. Những người bảo thủ là những người luôn có ý thức duy trì cái cũ không chịu điều chỉnh, thay đổi, bổ sung. Họ thường dị ứng trước những cái mới; ngay cả những cái đã được thử nghiệm thành công, họ cũng rất dè dặt tiếp nhận, ứng dụng. Có những cái sai đã rành rành ra đấy, quần chúng góp ý nhiều nhưng họ vẫn không chịu sửa hoặc đến khi phải sửa thì chỉ sửa nửa vời và sửa ngấm ngầm.
Họ sợ mở rộng dân chủ, tổ chức diễn đàn; ít nghe ngóng, học tập cái hay cái đẹp kể cả những sáng kiến kinh nghiệm đã được đúc kết khẳng định. Việc thẩm định đánh giá con người sự việc (như bầu người lãnh đạo, đề cử người vào những chức danh quản lý, bầu lao động tiên tiến, chiến sĩ thi đua, nhận xét cán bộ, nghiệm thu đề tài v.v…) họ đều theo những chuẩn mực cũ. Không ít người có tư tường phục hồi nguyên vẹn những cái đã mất đi trong quá khứ, kể cả những tập tục hủ lậu trái với lương tâm đạo lý và nền văn minh thời đại.
3. Bệnh thực dụng chủ nghĩa
Những người mắc bệnh này thường sống không có lý tưởng, chỉ quan tâm đến những gì mang lại lợi ích thiết thực trước mắt mà ít quan tâm đến toàn diện, lâu dài, nhất là những hoạt động tinh thần, những lợi ích về tư tưởng chính trị. Một số không ít coi tiền là trên hết, là tất cả; lương tâm và đạo lý bao giờ họ cũng đặt xuống dưới. Nhiều vụ xung đột kiện cáo, xâu xé nhau trong gia đình, dòng họ… đều có căn nguyên từ căn bệnh này. Những người này nhìn vấn đề gì cũng méo mó, tầm thường.
Họ ít quan tâm đến quá khứ, đến những giá trị lịch sử; họ cũng chẳng nghĩ mấy đến tương lai. Tầm nghĩ suy của họ ngắn, đơn giản; ít có ước mơ hoài bão, xin đừng nhầm lẫn với những người có đầu óc thực tế, chống tư tưởng hão huyền, càng không nên lẫn lộn với những nhà tư tưởng thực dụng trong trào lưu triết học hiện đại (với không ít yếu tố tích cực) ở phương Tây mà tiêu biểu là Piếc xơ, Jêm, Silơ…
4. Bệnh hám danh, hám địa vị
Kể ra thì ai cũng muốn mình có tiếng tăm tốt, có địa vị trí xứng đáng trong xã hội; thấy những người đã thành danh, có địa vị cao thì ai cũng thèm. Điều đó là lẽ thường tình. Nhưng đến mức mong muốn cuồng nhiệt, dùng thủ đoạn để biến mong muốn thành hiện thực là đã bệnh hoạn rồi.
Trong giai đoạn lịch sử mà nền kinh tế văn hoá xã hội phát triển mạnh, nhiều chức danh hấp dẫn xuất hiện cùng với bao nhiêu quyền lợi và thuận lợi đi kèm, gây sự chú ý đối với mọi người, đặc biệt trong hoàn cảnh dân trí được nâng cao nhất là đối với những người có trình độ, có tài năng. Ngay đối với những người bình thường, hiểu biết còn hạn chế nhưng khi được đề bạt vào chức vụ cao cũng không từ chối và băn khoăn gì,
5. Bệnh nói dối
Đây là bệnh khá phổ biến. Cấp xã báo cáo lên cấp huyện, huyện báo cáo lên tỉnh, tỉnh báo cáo lên Trung ương chẳng mấy khi trung thực. Bao giờ thành tích cũng nhiều lên, thiếu sót ít đi. Khi cần xin kinh phí thì khó khăn bày ra chồng chất; cái gì cũng thiếu, cũng hụt. Khi cấp trên về thì cái tốt phô ra, cái xấu che lại. Nhân viên đi công tác về bao giờ cũng báo cáo theo hướng mình đã làm nhiều, làm có hiệu quả. Về phía lãnh đạo cũng có người thấy được sự thiếu trung thực của cấp dưới nhưng cũng lờ đi, cũng động viên khích lệ để cùng vui vẻ. Dần dần, việc nói dối trở thành quen, không ai thấy xấu hổ, ngượng nghịu nữa.
6. Bệnh đố kỵ, cố chấp
Đây là bệnh của những người hay khó chịu, ghen ghét với những ai có thể hơn mình. Để bụng lâu, có thiên kiến, định kiến lâu đối với những người có sai sót với mình; thiếu hẳn lòng vị tha, sự bao dung độ lượng.
Những người này thường có những biểu hiện nhỏ nhen, sống không được thoáng đãng, hay để ý hay thắc mắc những điều nhỏ nhặt, xử lý trong mọi tình huống, thiếu cao thượng, đẹp đẽ.
7. Bệnh mũ ni che tai, ném đá giấu tay
Những người mắc bệnh này thường có thái độ lảng tránh mọi vấn đề nổi cộm trong cơ quan, đơn vị, địa phương cũng như ngoài xã hội. Họ “chui vào vỏ ốc”, sống vuông vắn, tròn trĩnh. Gặp những cuộc họp có vấn đề cần tranh luận gay gắt, cần đấu tranh phê bình mạnh mẽ thì cáo ốm, xin vắng; nếu bất đắc dĩ phải đi thì chọn một chỗ cuối, kín đáo. ngồi thu lu, im ắng từ đầu đến cuối. Ai trực tiếp hỏi ý kiến thì lắc đầu trả lời là không hay biết chuyện gì hoặc không có suy nghĩ gì.
Khi ở cái thế phải nói thì tiên phát biểu như phản ánh dư luận, nghe người này, người khác. rồi nói lại. Khi trong lòng bức bối muốn phê phán ai thì mượn miệng người này người khác nói giúp.
8. Bệnh ham làm giàu bất chấp ruộng tâm, đạo lý, pháp luật
Thời đại trí tuệ và nền kinh tế thị trường đang mở ra nhiều con đường có thể làm giàu. Mong muốn làm giàu là một khát vọng chính đáng là một động lực mạnh mẽ của sự phát triển. Đảng và Nhà nước ta khuyến khích mọi người làm giàu bằng con đường đúng đắn. Song cái căn bệnh ham làm giàu mà ta nói ở đây là làm giàu bằng mọi giá, bất chấp cả lương tâm, đạo lý và pháp luật. Có kẻ đã làm giàu trên mồ hôi nước mắt và cả xương máu của người khác, từ bỏ cả anh em ruột thịt, thất hiếu với cha mẹ; làm giàu bằng con đường lừa gạt, buôn gian bán lậu. Đặc biệt một số người đã bị sa lưới pháp luật hoặc bị lên án nặng nề nhưng họ vẫn không sám hối, không kiềm chế.
Ngày trước, giàu nhiều khi là cái họa, là xấu; nhưng bây giờ giàu thường được trọng vọng và giải quyết được nhiều vấn đề trong cuộc sống. Do đó, giàu đang là một hình ảnh có sức quyến rũ mạnh. Song trên thực tế, chỉ có một số ít người là có khả năng làm giàu bằng con đường chân chính. Đó là cơ sở cho bệnh ham làm giàu bằng con đường bất chính nẩy nở và phát triển.
Thực ra những bệnh kể trên đều có ít nhiều trong mỗi chúng ta. Vấn đề cần nhìn nhận cho đúng là nếu biết rèn luyện kềm chế, giữ cho nó dừng lại ở mức nhẹ nhàng thì đó là lẽ tự nhiên thường tình nhưng cứ buông thả để cho nó phát triển thì sẽ bùng nổ” trở thành bệnh hoạn.
Chúng ta cần tích cực quyết tâm hạn chế nó, xoá bỏ nó nhưng phải kiên trì vì nó là bệnh đời, có gốc rễ từ nhiều đời, nay có môi trường mới, nhanh chóng lớn lên và vẫn đang gắn bó với từng cuộc đời, đang là cái sự đời của thế cuộc.
———-
http://chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/nhung_can_benh_thoi_dai.html
người chơi trong thơ đương đại
TRẦN NGỌC HIẾU
Khi thơ ca được quyền là cuộc chơi cá nhân, mỗi nhà thơ cũng có thể xây dựng cho mình một hình ảnh người chơi rất khác nhau. Tuy nhiên, trên phương diện loại hình, có thể khái quát ba mẫu hình nhà thơ - người chơi nổi bật hơn cả trong thơ đương đại.
2.1. Nhà thơ - kẻ tài tử
Kẻ tài tử là mẫu hình người chơi độc đáo trong văn hóa truyền thống. Văn chương của nhà nho tài tử ở thời trung đại thấm nhuần tinh thần chơi của những học thuyết tư tưởng lớn của phương Đông. Đó là cảm quan hóa giải sự nghiêm trọng của đời sống, biết bình thản, thậm chí còn có thể bông đùa trước sự vô thường, phi bản chất luận của cuộc đời cũng như tính chất tương đối của chân lý, hay chủ trương rũ bỏ danh lợi, sống thuận theo tự nhiên mà ta có thể đọc được trong triết học Nho giáo, Phật giáo, Lão Trang. Kẻ tài tử, bởi vậy, có một phong thái nhẹ nhõm, khinh khoái, theo đuổi sự tự do nội tâm và dùng tài hoa của mình để chơi đời, ngạo đời. Một mẫu nhân cách khoáng đạt như thế được xem là tiền thân của cái tôi hiện đại.
Mô tip tự họa mình như một người chơi, cảm hứng xưng tụng sự chơi tương ứng với một thứ giọng điệu hài hước, nhẹ nhàng, hoặc bất cần, suồng sã… đối lập với sự trịnh trọng, trang nghiêm vốn là chủ âm của giai đoạn trước là điều không khó để nhận thấy ở nội dung trữ tình của thơ đương đại. Trong thơ Nguyễn Duy, Bùi Chí Vinh, hình ảnh thi sĩ như một người chơi khiến ta có thể liên tưởng đến hình ảnh kẻ tài tử trong truyền thống văn hóa: tài hoa, kiêu hãnh, ngất ngưởng, dẫu diện mạo có xộc xệch, lệch chuẩn thì vẫn ung dung, tự tại, bất cần danh lợi. Sự công nhiên bộc lộ mình trong phong thái ngạo nghễ như trong thơ Bùi Chí Vinh cho thấy ý niệm “chơi” gắn liền với quyền mỗi cá nhân được tự xác lập giá trị của mình, được tách khỏi dàn đồng ca để được nói bằng tiếng nói của mình:
Ta chẻ đầu ta chia hết thảy mọi người
Thế gian này những kẻ bình thiên hạ
Có còn gan, đủ mật để rong chơi
Có giống Quát khắc thơ vào vách đá
Có như Xương nhét chữ xuống mông ngồi
Và có dám như ta, đọc những lời khí phách
Rồi rủ Hồ Xuân Hương chơi cờ tướng tay đôi!
(“Ngó lại tiền nhân” - Bùi Chí Vinh)
Ca ngợi thú chơi là một nội dung bị hạn chế trong thơ văn giai đoạn trước, khi tinh thần khắc kỷ của thời đại nhìn thú chơi như là biểu hiện của chủ nghĩa hưởng lạc, có thể có ảnh hưởng tiêu cực đến đạo đức. Cảm hứng này nay đã được giải phóng: thú chơi không chỉ thể hiện văn hóa cộng đồng; trong thơ đương đại, thú chơi là cách để khẳng định nhân cách văn hóa ở từng cá nhân. Thơ Nguyễn Duy là sự nối tiếp một dòng mạch cảm hứng đã từng có lúc như đứt đoạn: xưng tụng thú giang hồ - một biểu hiện độc đáo của ý niệm “chơi” (du) trong văn hóa phương Đông. Nhà thơ còn nhìn thấy những minh triết của cuộc đời kết tinh trong những thú chơi giản dị của dân gian thể hiện trong một số bài thơ của ông khắc họa mô tip “con người hoan lạc” (chữ mượn từ tên tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Hy Lạp Nikos Kazantzakis):
Sớm mai đánh bệt trước thềm
đứ đừ phun khói thuốc lên tận trời…
Tôi qua lắm núi nhiều sông
khói ngày xưa ám trong lòng còn cay
ngẩng đầu đưa khói vào mây
nghênh ngang hiền triết điếu cày thăng thiên
(“Thuốc lào”)
Xa hơn việc xưng tụng thú chơi là một nhận thức sâu sắc về bản chất trò chơi của cuộc đời và theo đó, chơi chính là hiện sinh. Tính chất ảo ảnh của đời sống - phương diện tương hợp với thế giới trò chơi mà Eugen Fink từng nhấn mạnh - dẫn con người đi đến chỗ lựa chọn một thái độ hiện sinh, một mặt, táo bạo, liều lĩnh, chấp nhận đánh cược. Chế Lan Viên đã thể hiện một nhận thức như thế trong Di cảo thơ:“Cuộc đời là trò chơi - Cuộc sống là trò chơi - Nhưng không chơi khổ đau thì không ù được nụ cười” (“Hai chiều”). Nhưng ở mặt khác, bản chất trò chơi của đời sống cũng cho phép con người hình thành một thế giới quan, một cách ứng xử nhẹ nhõm, vô tư, phi mục đích luận:
Đùa thôi nhé, Thiên Đường mộng ảo
Thế giới vỡ tan ngoài chân mây
Cầm giấc mơ xanh vàng tím đỏ
Ngoảnh lại nhìn - nấm mọc đầy tay.
...
Ta tìm lại trong hình hài hóa bướm
Chút tự do quả thực trên đời
Rũ sạch hết đam mê hoang tưởng
Núi thông nhiều ta hãy rong chơi
(“Bài ngâm đùa chơi” - Hoàng Phủ Ngọc Tường)
Trong thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường, ý niệm “chơi” cũng gắn liền với ý niệm “du”, song cụ thể hơn, chơi, với ông, là sự trở về, về với thiên nhiên, về với bản thể tự nhiên thuần khiết, trong trẻo nhất của con người cùng lúc với sự bừng ngộ về tính chất phù du, hư ảo, vô thường của cõi thế. Con người chơi trong thơ của ông là sự kết hợp nhuần nhị giữa mẫu nhân cách tài tử tiêu dao của văn hóa phương Đông, trong đó ảnh hưởng quan trọng nhất có lẽ là triết học Lão Trang, với mẫu con người cảm giác mà chủ nghĩa hiện sinh đề cao.
2.2. Nhà thơ - trẻ thơ
Ý niệm chơi, bởi có mối liên hệ độc đáo với tiếng gọi trở về với tự nhiên, dẫn đến sự phát triển một mô típ được thơ ca đương đại khai thác mạnh mẽ: ca ngợi tuổi thơ, đặc biệt, ca ngợi trò chơi của trẻ nhỏ. Trên thực tế, Heraclitus, triết gia Hy Lạp cổ đại, người được xem là khởi điểm của lý thuyết trò chơi, đã hình dung: “Tiến trình của thế giới là một đứa trẻ đang chơi thực hiện những nước đi của nó trên bàn chơi - đứa trẻ là người thống trị tuyệt đối của thế giới”2. Sau 25 thế kỷ, Nietzsche, một nhà tư tưởng đặc biệt quan trọng khác của lý thuyết trò chơi, đã phát triển xa hơn luận điểm nền tảng của Heraclitus khi viết: “Tạo sinh và tan rã, dựng xây và phá hủy mà không mang hàm ý luân lý, trong trạng thái ngây thơ vĩnh cửu, động thái ấy chỉ có thể tìm thấy ở sự chơi của nghệ sĩ và trẻ nhỏ trong thế giới này”3. Trẻ thơ và nghệ sĩ, hành động chơi và hành động sáng tạo nghệ thuật, bởi thế, đồng dạng với nhau.
Bùi Chí Vinh nhìn thấy hình ảnh đứa bé đang chơi như là biểu tượng của một thứ quyền năng, một thứ tự do mà người lớn đã không còn:
Con trai ta chịu chơi hơn ta
Nó có vương quốc riêng hết sẩy
Vũ trụ chứa một tỉ người máy
Hành tinh gom một tỉ quân bài
Nó bấm video game bằng một tỉ ngón tay
Ác thú, quái nhân đều nằm chỏng gọng
...
(“Gia huấn ca”)
Cảm xúc trước sự tự do, vô tư, trong sáng của trò chơi trẻ nhỏ đã dẫn đến sự hình thành một kiểu tư duy nghệ thuật đáng chú ý trong thơ đương đại mà Lê Lưu Oanh gọi là “tư duy đồng thoại”. Đó là kiểu tư duy “lấy cái khởi nguyên để làm thước đo vạn vật”4, lấy cái nhìn thuần khiết của trẻ thơ, lấy cách giao tiếp với thế giới của trẻ thơ - giao tiếp ở đây chính là trò chơi giữa trẻ nhỏ với thế giới, cả hai có cùng ngôn ngữ, có thể lắng nghe, nói chuyện với nhau, hoán vai cho nhau... làm nguyên tắc cấu trúc thế giới nghệ thuật. Hình tượng tác giả, bởi thế, mang điểm nhìn của trẻ thơ, nói bằng giọng trẻ thơ, lấy sự ngây thơ làm mỹ cảm. Trong thơ Nguyễn Quyến, sự tưởng tượng về bản thể được khai triển theo tư duy huyền thoại vốn là đặc trưng của tuổi thơ mỗi con người và của tuổi thơ nhân loại:
Nhớ mùa-xuân-chưa-có-mưa-phùn mẹ nói nựng con
“Mẹ nhặt con từ đám lá tre đầu ngõ
Dưới gốc bưởi đào tóc mẹ rụng hoa”
Có phải thế không? Có phải không mẹ!
Con reo lên, con hét ôm chầm lấy gốc bưởi
Đám lá tre ấm nỗi ngẩn ngơ
Hoa bưởi thơm mùi sữa mẹ
Vương đầy mặt con.
Mẹ ơi! Có phải con là một nhị hoa
Đậu vào áo mẹ
Mẹ ơi! Có phải con là một làn phấn rơi
Mẹ nhặt lấy thoa nỗi buồn cô độc
Mẹ ước đàn con, nên con ngồi đợi
Gió thổi về nhặt những đứa em thơ.
Mẹ ơi!
Mẹ là gà mái hoa mơ bới táo tác đống rác để tìm con
Nhưng con không muốn làm bông hoa rụng, không muốn nằm trong đống lá rơi
Mẹ ơi! Không biết bấy giờ mẹ có vứt con đi...
Kiểu tư duy đồng thoại này thể hiện một bước chuyển mình của thơ đương đại: trở về với sự duy cảm, nhạt dần tính chất duy lý, khai thác các yếu tố huyền thoại. Thơ ca, theo đó, khởi phát từ niềm ngạc nhiên của con người, từ mơ ước nhìn lại thế giới như thể lần đầu tiên nó được hiện ra, từ việc gạt bỏ định kiến bởi những cái đã biết. Mượn ý của nhà thơ Ba Lan từng được giải Nobel văn chương năm 1996, Wislawa Szymborska, không phải cái “tôi đã biết” mà chính cái “tôi không biết”, “tôi chưa biết” mới là cội nguồn cảm hứng của thơ ca5. Sự “không biết”, “chưa biết” ấy chính là phẩm chất của trẻ thơ. Nó hàm ẩn một thứ minh triết mà thơ ca nhân loại thường tìm về khi nó đứng trước nguy cơ trở nên già cỗi, xơ cứng.
2.3. Nhà thơ - kẻ luyện chữ và nghịch chữ
Theo Johan Huizinga, “cái chức năng sáng tạo mà ta gọi tên là thơ ca có lẽ bắt nguồn từ một chức năng còn lâu đời hơn cả văn hóa - chức năng chơi”6. Nếu thơ ca là trò chơi thì đó là trò chơi trong ngôn từ, với ngôn từ, bằng ngôn từ và nhà thơ chỉ bộc lộ tư cách nghệ sĩ của mình khi chủ động tham gia cuộc chơi ấy. Trò chơi ngôn từ mang nhiều đặc điểm quan trọng của sự chơi nói chung: nó phá vỡ những trật tự sẵn có của ngôn ngữ vốn mang bản chất thiết chế, nó tạo ra một thế giới ảo, thế giới tưởng tượngbằng ngôn từ với những ước lệ, những quy luật khác, không trùng khít với thực tại, nó tương tác với người đọc - một loại người chơi khác - bằng cách kích thích tưởng tượng, cảm xúc, mời họ tham gia vào lấp những khoảng trắng của văn bản, trao cho người đọc những khoái cảm tinh thần vô tư, nó giải phóng người chơi (cả nhà thơ và người đọc), giải phóng bản thân ngôn từ ra khỏi những giới hạn, những áp đặt, những bổn phận..., từ đó khởi mở những khả năng mới của con người và của ngôn ngữ.
Tư cách nhà thơ như là kẻ chơi ngôn từ, ở thời trung đại, thường được nhấn mạnh ở sự thiện nghệ của người làm thơ. Một nền thi học từ chương đánh giá cao người làm thơ khi anh ta có thể đáp ứng được những yêu cầu khắt khe, chặt chẽ của thể loại theo những cách bất ngờ nhất. Nhà thơ không được đánh giá cao ở việc tạo ra khuôn mẫu mới mà chỉ được ghi nhận khi anh ta thực hiện khuôn mẫu sẵn có một cách hoàn thiện. Thời đại lãng mạn giải phóng thi sĩ ra khỏi lao động lề luật, giải phóng giọng điệu cá nhân nhưng hình tượng tác giả chỉ là kẻ chơi với cảm xúc, với tưởng tượng mà ngôn từ trở thành phương tiện để anh ta theo đuổi cuộc chơi ấy và trình bày chúng ra. Chỉ đến những nỗ lực dấn sang quỹ đạo của chủ nghĩa thơ tượng trưng, tư cách nhà thơ như là kẻ chơi ngôn từ mới bắt đầu được nhấn mạnh. Khác với hình ảnh của nhà thơ như là tay thiện nghệ ở thời trung đại, giỏi thuật tu từ để biểu đạt một thông điệp sẵn có, nhà thơ tượng trưng chơi với ngôn từ để giải phóng thơ khỏi những kinh nghiệm duy lý, đưa ngôn ngữ về với bản chất huyền bí, phi thực dụng, thậm chí phi thông điệp. Những thể nghiệm mang dấu ấn tượng trưng trong thơ Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám của Bích Khê, Xuân Thu Nhã Tập chính là những thể nghiệm tiền phong của một khuynh hướng thơ ngôn ngữ có một vị trí quan trọng trong thơ đương đại được đóng dấu bằng những tên tuổi như Trần Dần, Lê Đạt, Dương Tường, Đặng Đình Hưng...
Những nhà thơ được nhắc đến trên đây dù có thể có những khác biệt trong thi pháp song đều có thể gọi là họ những kẻ “luyện” chữ. Từ quan niệm đến thực hành sáng tạo, nhìn chung, họ đều ý thức chơi với chữ tức là đưa ngôn từ thoát khỏi những thói quen nhưng đồng thời đặt chúng vào những luật lệ mới của cú pháp, ngữ nghĩa, thậm chí cả nhưng sự cưỡng chế. Nghe có vẻ nghịch lý song thực tế, “trò” (game) nào cũng cần có luật, luật càng thách thức, sự thú vị của hành động “chơi” (play) ở cả người viết lẫn người đọc lại càng được gia tăng. Trần Dần liên tục “tự rủ mình vào cửa khó” khi ông thể nghiệm những bài thơ độc vận (mà lại là vần khó), chối từ các phép ký âm thông thường để tạo ra những tổ hợp ngữ âm bất ngờ mà ta có thể thấy qua những tác phẩm theo lối viết đồng dao. Ông còn tối giản hóa bài thơ với hình thức thơ mi-ni chỉ cô đọng lại trên một, hai câu như: “Mưa rơi không cần phiên dịch”, “Gió tha người ở các ngã ba”, “Mất ngủ một hàng đèn/ Trong một thủ đô đen”... Nhưng ở cực khác, thơ, đối với Trần Dần, phải chấp nhận khả năng dung nạp những gì khác với nó nhất: ông đưa thơ xích về hội họa, nơi ngôn từ lẩn vào trong đường nét, bố cục hình họa; ông phá kết cấu một giọng của thơ, tạo ra những “bè đệm” để tạo ra hiệu ứng đa thanh. Trong khi đó, Lê Đạt chủ yếu lao động thơ trên bình diện ngữ pháp. Với Lê Đạt, làm thơ là sự cưỡng chế quán tính của ngôn từ, khi ông chủ động tạo ra sự ly cách, sự gián đoạn giữa các yếu tố ngôn ngữ. Câu thơ, bởi thế, mất đi những mối liên kết bề mặt, theo chiều tuyến tính, nhưng bù lại lại có nhiều hơn những quan hệ bề sâu và do đó, gọi ra nhiều liên tưởng, nhiều khả năng diễn dịch hơn. Hình ảnh nhà thơ “luyện chữ” vì thế là hình ảnh của người chơi nghiêm túc. Nói như Lê Đạt: “...người làm thơ thực hiện một trò chơi chữ nghiêm túc, sử dụng những phép tu từ học (ám dụ, lược tỉnh, ghép âm, nói lái, nói lối...) như một đứa trẻ chơi với những đồ vật chung quanh. Thế nào là chơi nghiêm túc - Chơi nghiêm túc là chơi thật, chơi hết mình, sống trò chơi như một nghiệm sinh thực thụ. Nghiêm túc không mâu thuẫn với trò chơi mà mâu thuẫn với chơi đùa, tài tử. Từ một người chơi tài tử tôi đã nỗ lực nghiêm túc để trở thành một người chơi chuyên nghiệp”7. Dấu ấn của những nhà luyện chữ này để lại chính là các kỹ thuật, các thể thơ ký tên cá nhân của nhà thơ.
Ở cực khác với những nhà luyện chữ là kiểu nhà thơ “nghịch” chữ. Cũng là một cách chơi với ngôn từ nhưng ở những tác giả này làm thơ là đùa với ngôn ngữ, đùa với chuẩn mực thể loại. Cái họ muốn thể hiện trong cách chơi của mình không phải là một kỹ thuật cao, biến bài thơ thành một câu đố cho độc giả. Trái lại, họ đem đến một nhận thức: thơ có thể là mọi thứ, chỉ cần nhìn khác đi, sắp xếp khác đi, một lời nói thường cũng có thể thành thơ. Bài thơ, thay vì, là một câu đố, nó trở thành sự bông đùa, sự giải trí nhẹ nhàng đối với công chúng. Nó gần với dòng mạch của thơ ca folklore đương đại. Bài thơ dưới đây của Nguyễn Thế Hoàng Linh là một ví dụ:
cho em nước mía chị ơi
cho em sấu đá
chị rơi tiền này
cảm ơn chú
thật là may
tí thì lao động một ngày không công
chú thích ăn nhiều sấu không
chị thêm cho chú
(“Chị không tính tiền”)
Có thể dễ nhận thấy cả bài thơ trên dường như được viết theo phong cách sinh hoạt. Thế nhưng từ một cuộc đối thoại thường ngày, Nguyễn Thế Hoàng Linh chỉ đơn giản ngắt dòng tạo nhịp và có ngay một bài lục bát. Một thứ lục bát thuần điệu nói, suồng sã, thân mật và không ngần ngại chêm xen những từ ngữ “sành điệu” của giới trẻ đô thị, thậm chí cả tiếng nước ngoài. Nói một cách hình ảnh thì Nguyễn Thế Hoàng Linh đã điềm nhiên mặc trang phục hip-hop cho thể thơ cổ truyền. Một sự lai ghép không mấy thuận mắt với những ai vốn chủ trương mọi giá trị truyền thống cần phải được gìn giữ như một thứ trong bảo tàng nhưng ít nhất, nó cũng gây bất ngờ với một bộ phận độc giả nhất định khi nhận ra một bài thơ có thể được hình thành như một trò nghịch trẻ con như thế.
Xu hướng “nghịch” chữ đưa thơ hòa vào không gian văn hóa đại chúng đương đại mà một trong những động hướng quan trọng của nó là thẩm mỹ hóa đời sống thường nhật. Có thể quan sát động hướng này trong nhiều thực hành nghệ thuật đương đại, từ những người tiên phong như Vũ Dân Tân với những tác phẩm ý niệm về đàn bà được tạo nên từ những bao thuốc lá hay ở triển lãm nhiếp ảnh Phía sau bức tường của nghệ sĩ người Pháp đang làm việc tại Hà Nội - Lolo Zazar - với những bức ảnh chụp những bức tường loang lổ, nứt rạn rồi dùng kỹ thuật rối bóng biến chúng thành những bức tranh trừu tượng. Nhịp điệu, ngôn ngữ của thơ cũng có nhiều điểm gần gũi với nhịp điệu và ngôn ngữ của nhạc rap, một thứ âm nhạc mang tính chất đường phố thu hút giới trẻ. Khác với lựa chọn của các nhà thơ luyện chữ hướng đến một công chúng đặc tuyển, những tác giả như Nguyễn Thế Hoàng Linh khi nghịch chữ lại kéo thơ về đại chúng, hòa nhập với văn hóa trẻ của xã hội Việt Nam đương đại.
*
Xu hướng trò chơi hóa đời sống, mà văn chương, như đã nói, là lĩnh vực phản ánh rõ nét, một mặt, là sự giải tỏa nguồn năng lượng đã bị kìm nén suốt một thời gian dài. Sự giải tỏa này là cần thiết để tạo ra trạng thái cân bằng xã hội. Nhưng mặt khác, điều này chỉ xét riêng ở lĩnh vực văn chương, xu hướng trò chơi hóa mà ta vừa khảo sát tập trung ở cấp độ nội dung, cảm hứng còn chính là cách phản ứng của văn chương trước xu hướng thực dụng hóa, duy lý hóa, kinh tế hóa đang diễn ra ngày càng mạnh trong môi trường sinh thái văn hóa hiện nay. Xu hướng trò chơi hóa đời sống với những kiểu hình tượng tác giả mà ta vừa mô tả cho thấy tiến trình vận động của thơ đương đại hướng đến cái cá nhân, sự duy cảm, duy mỹ và cả tính giải trí. Văn hóa chơi là môi trường cần thiết cho sự phát triển của thơ ca: thơ chỉ thực sự trở nên sống động, đa dạng khi một thứ văn hóa chơi đúng nghĩa được xây dựng và bảo vệ.
T.N.H
2.1. Nhà thơ - kẻ tài tử
Kẻ tài tử là mẫu hình người chơi độc đáo trong văn hóa truyền thống. Văn chương của nhà nho tài tử ở thời trung đại thấm nhuần tinh thần chơi của những học thuyết tư tưởng lớn của phương Đông. Đó là cảm quan hóa giải sự nghiêm trọng của đời sống, biết bình thản, thậm chí còn có thể bông đùa trước sự vô thường, phi bản chất luận của cuộc đời cũng như tính chất tương đối của chân lý, hay chủ trương rũ bỏ danh lợi, sống thuận theo tự nhiên mà ta có thể đọc được trong triết học Nho giáo, Phật giáo, Lão Trang. Kẻ tài tử, bởi vậy, có một phong thái nhẹ nhõm, khinh khoái, theo đuổi sự tự do nội tâm và dùng tài hoa của mình để chơi đời, ngạo đời. Một mẫu nhân cách khoáng đạt như thế được xem là tiền thân của cái tôi hiện đại.
Mô tip tự họa mình như một người chơi, cảm hứng xưng tụng sự chơi tương ứng với một thứ giọng điệu hài hước, nhẹ nhàng, hoặc bất cần, suồng sã… đối lập với sự trịnh trọng, trang nghiêm vốn là chủ âm của giai đoạn trước là điều không khó để nhận thấy ở nội dung trữ tình của thơ đương đại. Trong thơ Nguyễn Duy, Bùi Chí Vinh, hình ảnh thi sĩ như một người chơi khiến ta có thể liên tưởng đến hình ảnh kẻ tài tử trong truyền thống văn hóa: tài hoa, kiêu hãnh, ngất ngưởng, dẫu diện mạo có xộc xệch, lệch chuẩn thì vẫn ung dung, tự tại, bất cần danh lợi. Sự công nhiên bộc lộ mình trong phong thái ngạo nghễ như trong thơ Bùi Chí Vinh cho thấy ý niệm “chơi” gắn liền với quyền mỗi cá nhân được tự xác lập giá trị của mình, được tách khỏi dàn đồng ca để được nói bằng tiếng nói của mình:
Ta chẻ đầu ta chia hết thảy mọi người
Thế gian này những kẻ bình thiên hạ
Có còn gan, đủ mật để rong chơi
Có giống Quát khắc thơ vào vách đá
Có như Xương nhét chữ xuống mông ngồi
Và có dám như ta, đọc những lời khí phách
Rồi rủ Hồ Xuân Hương chơi cờ tướng tay đôi!
(“Ngó lại tiền nhân” - Bùi Chí Vinh)
Ca ngợi thú chơi là một nội dung bị hạn chế trong thơ văn giai đoạn trước, khi tinh thần khắc kỷ của thời đại nhìn thú chơi như là biểu hiện của chủ nghĩa hưởng lạc, có thể có ảnh hưởng tiêu cực đến đạo đức. Cảm hứng này nay đã được giải phóng: thú chơi không chỉ thể hiện văn hóa cộng đồng; trong thơ đương đại, thú chơi là cách để khẳng định nhân cách văn hóa ở từng cá nhân. Thơ Nguyễn Duy là sự nối tiếp một dòng mạch cảm hứng đã từng có lúc như đứt đoạn: xưng tụng thú giang hồ - một biểu hiện độc đáo của ý niệm “chơi” (du) trong văn hóa phương Đông. Nhà thơ còn nhìn thấy những minh triết của cuộc đời kết tinh trong những thú chơi giản dị của dân gian thể hiện trong một số bài thơ của ông khắc họa mô tip “con người hoan lạc” (chữ mượn từ tên tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Hy Lạp Nikos Kazantzakis):
Sớm mai đánh bệt trước thềm
đứ đừ phun khói thuốc lên tận trời…
Tôi qua lắm núi nhiều sông
khói ngày xưa ám trong lòng còn cay
ngẩng đầu đưa khói vào mây
nghênh ngang hiền triết điếu cày thăng thiên
(“Thuốc lào”)
Xa hơn việc xưng tụng thú chơi là một nhận thức sâu sắc về bản chất trò chơi của cuộc đời và theo đó, chơi chính là hiện sinh. Tính chất ảo ảnh của đời sống - phương diện tương hợp với thế giới trò chơi mà Eugen Fink từng nhấn mạnh - dẫn con người đi đến chỗ lựa chọn một thái độ hiện sinh, một mặt, táo bạo, liều lĩnh, chấp nhận đánh cược. Chế Lan Viên đã thể hiện một nhận thức như thế trong Di cảo thơ:“Cuộc đời là trò chơi - Cuộc sống là trò chơi - Nhưng không chơi khổ đau thì không ù được nụ cười” (“Hai chiều”). Nhưng ở mặt khác, bản chất trò chơi của đời sống cũng cho phép con người hình thành một thế giới quan, một cách ứng xử nhẹ nhõm, vô tư, phi mục đích luận:
Đùa thôi nhé, Thiên Đường mộng ảo
Thế giới vỡ tan ngoài chân mây
Cầm giấc mơ xanh vàng tím đỏ
Ngoảnh lại nhìn - nấm mọc đầy tay.
...
Ta tìm lại trong hình hài hóa bướm
Chút tự do quả thực trên đời
Rũ sạch hết đam mê hoang tưởng
Núi thông nhiều ta hãy rong chơi
(“Bài ngâm đùa chơi” - Hoàng Phủ Ngọc Tường)
Trong thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường, ý niệm “chơi” cũng gắn liền với ý niệm “du”, song cụ thể hơn, chơi, với ông, là sự trở về, về với thiên nhiên, về với bản thể tự nhiên thuần khiết, trong trẻo nhất của con người cùng lúc với sự bừng ngộ về tính chất phù du, hư ảo, vô thường của cõi thế. Con người chơi trong thơ của ông là sự kết hợp nhuần nhị giữa mẫu nhân cách tài tử tiêu dao của văn hóa phương Đông, trong đó ảnh hưởng quan trọng nhất có lẽ là triết học Lão Trang, với mẫu con người cảm giác mà chủ nghĩa hiện sinh đề cao.
2.2. Nhà thơ - trẻ thơ
Ý niệm chơi, bởi có mối liên hệ độc đáo với tiếng gọi trở về với tự nhiên, dẫn đến sự phát triển một mô típ được thơ ca đương đại khai thác mạnh mẽ: ca ngợi tuổi thơ, đặc biệt, ca ngợi trò chơi của trẻ nhỏ. Trên thực tế, Heraclitus, triết gia Hy Lạp cổ đại, người được xem là khởi điểm của lý thuyết trò chơi, đã hình dung: “Tiến trình của thế giới là một đứa trẻ đang chơi thực hiện những nước đi của nó trên bàn chơi - đứa trẻ là người thống trị tuyệt đối của thế giới”2. Sau 25 thế kỷ, Nietzsche, một nhà tư tưởng đặc biệt quan trọng khác của lý thuyết trò chơi, đã phát triển xa hơn luận điểm nền tảng của Heraclitus khi viết: “Tạo sinh và tan rã, dựng xây và phá hủy mà không mang hàm ý luân lý, trong trạng thái ngây thơ vĩnh cửu, động thái ấy chỉ có thể tìm thấy ở sự chơi của nghệ sĩ và trẻ nhỏ trong thế giới này”3. Trẻ thơ và nghệ sĩ, hành động chơi và hành động sáng tạo nghệ thuật, bởi thế, đồng dạng với nhau.
Bùi Chí Vinh nhìn thấy hình ảnh đứa bé đang chơi như là biểu tượng của một thứ quyền năng, một thứ tự do mà người lớn đã không còn:
Con trai ta chịu chơi hơn ta
Nó có vương quốc riêng hết sẩy
Vũ trụ chứa một tỉ người máy
Hành tinh gom một tỉ quân bài
Nó bấm video game bằng một tỉ ngón tay
Ác thú, quái nhân đều nằm chỏng gọng
...
(“Gia huấn ca”)
Cảm xúc trước sự tự do, vô tư, trong sáng của trò chơi trẻ nhỏ đã dẫn đến sự hình thành một kiểu tư duy nghệ thuật đáng chú ý trong thơ đương đại mà Lê Lưu Oanh gọi là “tư duy đồng thoại”. Đó là kiểu tư duy “lấy cái khởi nguyên để làm thước đo vạn vật”4, lấy cái nhìn thuần khiết của trẻ thơ, lấy cách giao tiếp với thế giới của trẻ thơ - giao tiếp ở đây chính là trò chơi giữa trẻ nhỏ với thế giới, cả hai có cùng ngôn ngữ, có thể lắng nghe, nói chuyện với nhau, hoán vai cho nhau... làm nguyên tắc cấu trúc thế giới nghệ thuật. Hình tượng tác giả, bởi thế, mang điểm nhìn của trẻ thơ, nói bằng giọng trẻ thơ, lấy sự ngây thơ làm mỹ cảm. Trong thơ Nguyễn Quyến, sự tưởng tượng về bản thể được khai triển theo tư duy huyền thoại vốn là đặc trưng của tuổi thơ mỗi con người và của tuổi thơ nhân loại:
Nhớ mùa-xuân-chưa-có-mưa-phùn mẹ nói nựng con
“Mẹ nhặt con từ đám lá tre đầu ngõ
Dưới gốc bưởi đào tóc mẹ rụng hoa”
Có phải thế không? Có phải không mẹ!
Con reo lên, con hét ôm chầm lấy gốc bưởi
Đám lá tre ấm nỗi ngẩn ngơ
Hoa bưởi thơm mùi sữa mẹ
Vương đầy mặt con.
Mẹ ơi! Có phải con là một nhị hoa
Đậu vào áo mẹ
Mẹ ơi! Có phải con là một làn phấn rơi
Mẹ nhặt lấy thoa nỗi buồn cô độc
Mẹ ước đàn con, nên con ngồi đợi
Gió thổi về nhặt những đứa em thơ.
Mẹ ơi!
Mẹ là gà mái hoa mơ bới táo tác đống rác để tìm con
Nhưng con không muốn làm bông hoa rụng, không muốn nằm trong đống lá rơi
Mẹ ơi! Không biết bấy giờ mẹ có vứt con đi...
Kiểu tư duy đồng thoại này thể hiện một bước chuyển mình của thơ đương đại: trở về với sự duy cảm, nhạt dần tính chất duy lý, khai thác các yếu tố huyền thoại. Thơ ca, theo đó, khởi phát từ niềm ngạc nhiên của con người, từ mơ ước nhìn lại thế giới như thể lần đầu tiên nó được hiện ra, từ việc gạt bỏ định kiến bởi những cái đã biết. Mượn ý của nhà thơ Ba Lan từng được giải Nobel văn chương năm 1996, Wislawa Szymborska, không phải cái “tôi đã biết” mà chính cái “tôi không biết”, “tôi chưa biết” mới là cội nguồn cảm hứng của thơ ca5. Sự “không biết”, “chưa biết” ấy chính là phẩm chất của trẻ thơ. Nó hàm ẩn một thứ minh triết mà thơ ca nhân loại thường tìm về khi nó đứng trước nguy cơ trở nên già cỗi, xơ cứng.
2.3. Nhà thơ - kẻ luyện chữ và nghịch chữ
Theo Johan Huizinga, “cái chức năng sáng tạo mà ta gọi tên là thơ ca có lẽ bắt nguồn từ một chức năng còn lâu đời hơn cả văn hóa - chức năng chơi”6. Nếu thơ ca là trò chơi thì đó là trò chơi trong ngôn từ, với ngôn từ, bằng ngôn từ và nhà thơ chỉ bộc lộ tư cách nghệ sĩ của mình khi chủ động tham gia cuộc chơi ấy. Trò chơi ngôn từ mang nhiều đặc điểm quan trọng của sự chơi nói chung: nó phá vỡ những trật tự sẵn có của ngôn ngữ vốn mang bản chất thiết chế, nó tạo ra một thế giới ảo, thế giới tưởng tượngbằng ngôn từ với những ước lệ, những quy luật khác, không trùng khít với thực tại, nó tương tác với người đọc - một loại người chơi khác - bằng cách kích thích tưởng tượng, cảm xúc, mời họ tham gia vào lấp những khoảng trắng của văn bản, trao cho người đọc những khoái cảm tinh thần vô tư, nó giải phóng người chơi (cả nhà thơ và người đọc), giải phóng bản thân ngôn từ ra khỏi những giới hạn, những áp đặt, những bổn phận..., từ đó khởi mở những khả năng mới của con người và của ngôn ngữ.
Tư cách nhà thơ như là kẻ chơi ngôn từ, ở thời trung đại, thường được nhấn mạnh ở sự thiện nghệ của người làm thơ. Một nền thi học từ chương đánh giá cao người làm thơ khi anh ta có thể đáp ứng được những yêu cầu khắt khe, chặt chẽ của thể loại theo những cách bất ngờ nhất. Nhà thơ không được đánh giá cao ở việc tạo ra khuôn mẫu mới mà chỉ được ghi nhận khi anh ta thực hiện khuôn mẫu sẵn có một cách hoàn thiện. Thời đại lãng mạn giải phóng thi sĩ ra khỏi lao động lề luật, giải phóng giọng điệu cá nhân nhưng hình tượng tác giả chỉ là kẻ chơi với cảm xúc, với tưởng tượng mà ngôn từ trở thành phương tiện để anh ta theo đuổi cuộc chơi ấy và trình bày chúng ra. Chỉ đến những nỗ lực dấn sang quỹ đạo của chủ nghĩa thơ tượng trưng, tư cách nhà thơ như là kẻ chơi ngôn từ mới bắt đầu được nhấn mạnh. Khác với hình ảnh của nhà thơ như là tay thiện nghệ ở thời trung đại, giỏi thuật tu từ để biểu đạt một thông điệp sẵn có, nhà thơ tượng trưng chơi với ngôn từ để giải phóng thơ khỏi những kinh nghiệm duy lý, đưa ngôn ngữ về với bản chất huyền bí, phi thực dụng, thậm chí phi thông điệp. Những thể nghiệm mang dấu ấn tượng trưng trong thơ Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám của Bích Khê, Xuân Thu Nhã Tập chính là những thể nghiệm tiền phong của một khuynh hướng thơ ngôn ngữ có một vị trí quan trọng trong thơ đương đại được đóng dấu bằng những tên tuổi như Trần Dần, Lê Đạt, Dương Tường, Đặng Đình Hưng...
Những nhà thơ được nhắc đến trên đây dù có thể có những khác biệt trong thi pháp song đều có thể gọi là họ những kẻ “luyện” chữ. Từ quan niệm đến thực hành sáng tạo, nhìn chung, họ đều ý thức chơi với chữ tức là đưa ngôn từ thoát khỏi những thói quen nhưng đồng thời đặt chúng vào những luật lệ mới của cú pháp, ngữ nghĩa, thậm chí cả nhưng sự cưỡng chế. Nghe có vẻ nghịch lý song thực tế, “trò” (game) nào cũng cần có luật, luật càng thách thức, sự thú vị của hành động “chơi” (play) ở cả người viết lẫn người đọc lại càng được gia tăng. Trần Dần liên tục “tự rủ mình vào cửa khó” khi ông thể nghiệm những bài thơ độc vận (mà lại là vần khó), chối từ các phép ký âm thông thường để tạo ra những tổ hợp ngữ âm bất ngờ mà ta có thể thấy qua những tác phẩm theo lối viết đồng dao. Ông còn tối giản hóa bài thơ với hình thức thơ mi-ni chỉ cô đọng lại trên một, hai câu như: “Mưa rơi không cần phiên dịch”, “Gió tha người ở các ngã ba”, “Mất ngủ một hàng đèn/ Trong một thủ đô đen”... Nhưng ở cực khác, thơ, đối với Trần Dần, phải chấp nhận khả năng dung nạp những gì khác với nó nhất: ông đưa thơ xích về hội họa, nơi ngôn từ lẩn vào trong đường nét, bố cục hình họa; ông phá kết cấu một giọng của thơ, tạo ra những “bè đệm” để tạo ra hiệu ứng đa thanh. Trong khi đó, Lê Đạt chủ yếu lao động thơ trên bình diện ngữ pháp. Với Lê Đạt, làm thơ là sự cưỡng chế quán tính của ngôn từ, khi ông chủ động tạo ra sự ly cách, sự gián đoạn giữa các yếu tố ngôn ngữ. Câu thơ, bởi thế, mất đi những mối liên kết bề mặt, theo chiều tuyến tính, nhưng bù lại lại có nhiều hơn những quan hệ bề sâu và do đó, gọi ra nhiều liên tưởng, nhiều khả năng diễn dịch hơn. Hình ảnh nhà thơ “luyện chữ” vì thế là hình ảnh của người chơi nghiêm túc. Nói như Lê Đạt: “...người làm thơ thực hiện một trò chơi chữ nghiêm túc, sử dụng những phép tu từ học (ám dụ, lược tỉnh, ghép âm, nói lái, nói lối...) như một đứa trẻ chơi với những đồ vật chung quanh. Thế nào là chơi nghiêm túc - Chơi nghiêm túc là chơi thật, chơi hết mình, sống trò chơi như một nghiệm sinh thực thụ. Nghiêm túc không mâu thuẫn với trò chơi mà mâu thuẫn với chơi đùa, tài tử. Từ một người chơi tài tử tôi đã nỗ lực nghiêm túc để trở thành một người chơi chuyên nghiệp”7. Dấu ấn của những nhà luyện chữ này để lại chính là các kỹ thuật, các thể thơ ký tên cá nhân của nhà thơ.
Ở cực khác với những nhà luyện chữ là kiểu nhà thơ “nghịch” chữ. Cũng là một cách chơi với ngôn từ nhưng ở những tác giả này làm thơ là đùa với ngôn ngữ, đùa với chuẩn mực thể loại. Cái họ muốn thể hiện trong cách chơi của mình không phải là một kỹ thuật cao, biến bài thơ thành một câu đố cho độc giả. Trái lại, họ đem đến một nhận thức: thơ có thể là mọi thứ, chỉ cần nhìn khác đi, sắp xếp khác đi, một lời nói thường cũng có thể thành thơ. Bài thơ, thay vì, là một câu đố, nó trở thành sự bông đùa, sự giải trí nhẹ nhàng đối với công chúng. Nó gần với dòng mạch của thơ ca folklore đương đại. Bài thơ dưới đây của Nguyễn Thế Hoàng Linh là một ví dụ:
cho em nước mía chị ơi
cho em sấu đá
chị rơi tiền này
cảm ơn chú
thật là may
tí thì lao động một ngày không công
chú thích ăn nhiều sấu không
chị thêm cho chú
(“Chị không tính tiền”)
Có thể dễ nhận thấy cả bài thơ trên dường như được viết theo phong cách sinh hoạt. Thế nhưng từ một cuộc đối thoại thường ngày, Nguyễn Thế Hoàng Linh chỉ đơn giản ngắt dòng tạo nhịp và có ngay một bài lục bát. Một thứ lục bát thuần điệu nói, suồng sã, thân mật và không ngần ngại chêm xen những từ ngữ “sành điệu” của giới trẻ đô thị, thậm chí cả tiếng nước ngoài. Nói một cách hình ảnh thì Nguyễn Thế Hoàng Linh đã điềm nhiên mặc trang phục hip-hop cho thể thơ cổ truyền. Một sự lai ghép không mấy thuận mắt với những ai vốn chủ trương mọi giá trị truyền thống cần phải được gìn giữ như một thứ trong bảo tàng nhưng ít nhất, nó cũng gây bất ngờ với một bộ phận độc giả nhất định khi nhận ra một bài thơ có thể được hình thành như một trò nghịch trẻ con như thế.
Xu hướng “nghịch” chữ đưa thơ hòa vào không gian văn hóa đại chúng đương đại mà một trong những động hướng quan trọng của nó là thẩm mỹ hóa đời sống thường nhật. Có thể quan sát động hướng này trong nhiều thực hành nghệ thuật đương đại, từ những người tiên phong như Vũ Dân Tân với những tác phẩm ý niệm về đàn bà được tạo nên từ những bao thuốc lá hay ở triển lãm nhiếp ảnh Phía sau bức tường của nghệ sĩ người Pháp đang làm việc tại Hà Nội - Lolo Zazar - với những bức ảnh chụp những bức tường loang lổ, nứt rạn rồi dùng kỹ thuật rối bóng biến chúng thành những bức tranh trừu tượng. Nhịp điệu, ngôn ngữ của thơ cũng có nhiều điểm gần gũi với nhịp điệu và ngôn ngữ của nhạc rap, một thứ âm nhạc mang tính chất đường phố thu hút giới trẻ. Khác với lựa chọn của các nhà thơ luyện chữ hướng đến một công chúng đặc tuyển, những tác giả như Nguyễn Thế Hoàng Linh khi nghịch chữ lại kéo thơ về đại chúng, hòa nhập với văn hóa trẻ của xã hội Việt Nam đương đại.
*
Xu hướng trò chơi hóa đời sống, mà văn chương, như đã nói, là lĩnh vực phản ánh rõ nét, một mặt, là sự giải tỏa nguồn năng lượng đã bị kìm nén suốt một thời gian dài. Sự giải tỏa này là cần thiết để tạo ra trạng thái cân bằng xã hội. Nhưng mặt khác, điều này chỉ xét riêng ở lĩnh vực văn chương, xu hướng trò chơi hóa mà ta vừa khảo sát tập trung ở cấp độ nội dung, cảm hứng còn chính là cách phản ứng của văn chương trước xu hướng thực dụng hóa, duy lý hóa, kinh tế hóa đang diễn ra ngày càng mạnh trong môi trường sinh thái văn hóa hiện nay. Xu hướng trò chơi hóa đời sống với những kiểu hình tượng tác giả mà ta vừa mô tả cho thấy tiến trình vận động của thơ đương đại hướng đến cái cá nhân, sự duy cảm, duy mỹ và cả tính giải trí. Văn hóa chơi là môi trường cần thiết cho sự phát triển của thơ ca: thơ chỉ thực sự trở nên sống động, đa dạng khi một thứ văn hóa chơi đúng nghĩa được xây dựng và bảo vệ.
T.N.H
Thương kiếp con thuyền
Những con thuyền chen chúc bên nhau
Không mái chèo, hay cánh buồm
Chúng chẳng biết đi đâu
Chúng không có động cơ, hay thậm chí động lực
Giữa chốn rừng sâu chỉ có một con đường độc đạo
Những con thuyền đã quá mệt mỏi và rũ rượi
Chúng muốn quay ngang, muốn vào rừng hái chút quả ngọt...
Nhưng không ai cho phép chúng, vì chúng là những con thuyền
Chúng chỉ có một lựa chọn là phải tiếp tục bơi, đi hết quãng sông chưa bao giờ nhìn thấy bến đậu
Thậm chí lúc này chúng không thể tự bơi
Chúng đang chờ những ông chủ béo mập tới
Leo lên lưng chúng ...
Những con thuyền đẹp như những phím đàn trên một chiếc dương cầm sang trọng
Nhưng chúng chỉ là vật trang trí trong căn nhà của tên bạo chúa
Chưa ai nghĩ những con thuyền cũng biết nghĩ suy
Vũ Dạ
Thế Nào Là Phản Biện
Hoàng Hữu Phước, MIB
(Bài đăng trên Emotino.com ngày 27-3-2011)
A- Dẫn Nhập: Hiểu Đúng Về Hành Trình Phản Biện
Phản biện là thuật ngữ cực kỳ quen thuộc của giới hàn lâm và chỉ nghe thấy chốn giảng đường đại học, theo đó, khi một sinh viên làm luận án tốt nghiệp sẽ có những giảng viên bảo trợ và những giảng viên phản biện, người giúp đỡ giải đáp các thắc mắc và “vẽ đường cho hươu chạy”, vị sẽ dựa vào luận án hoàn tất do sinh viên thuyết trình để ra các câu hỏi mà mục đích là tạo cơ hội cho sinh viên trình luận án chứng tỏ tài hùng biện, tri thức nghiên cứu hiểu biết thâm sâu về đề tài luận án, cũng như khả năng ứng biến trước các tình huống giả định. Thường thì các câu hỏi phản biện được trao trước cho sinh viên trình luận án. Từ đó suy ra: một luận án dù do một sinh viên thực hiện cũng hội đủ các yếu tố:
a) chủ đề có liên quan đến bộ môn hàn lâm (như một tác giả, một tác phẩm, một học thuyết, một định đề, một dị biệt, một vấn đề);
b) được các giảng viên hàn lâm bảo trợ giúp hoàn thiện công trình; và
c) được các giảng viên phản biện giúp hoàn tất thành công khâu cuối cùng của buổi trình luận án: chủ nhân thuyết trình thể hiện “tài” của chính mình còn kết quả trình bày ở mức mỹ mãn có thể được.
Như vậy, một luận án được trình có quy mô gần như một tác phẩm “đẳng cấp cao” về một đề tài “đẳng cấp cao” được bảo trợ bởi một đội ngũ chuyên gia hàn lâm “đẳng cấp cao”, gần như không có cửa cho bất kỳ sai sót lớn nào, và bên phản biện vốn là một đội ngũ chuyên gia hàn lâm “đẳng cấp cao” không bao giờ trong tư thế hạ cấp của những kẻ “vạch lá tìm sâu” và “bới lông tìm vết” để cải lẫy, đôi co, làm câm họng đối tượng đang bảo vệ luận án hay cho ra đề nghị khiếm nhã đòi dẹp bỏ hoặc thay đổi đề tài luận án. Phản biện trong ý hướng chuẩn mực, đúng đắn, nghiêm túc, trí hóa cao như vậy, chỉ là khâu thứ yếu để giúp hoàn thiện một sản phẩm tri thức chứ không phản bác nó.
Phản biện còn là hoạt động mà sự hiện diện của nó chỉ để làm gia tăng thêm giá trị của một vấn đề đúng đắn có giá trị cao đã và/hay đang tồn tại. Tự thân phản biệnkhông có giá trị riêng bất kỳ. Tự thân phản biện không tự xuất hiện nếu không được phân công và/hay yêu cầu từ chủ nhân hay đơn vị chủ quản đề tài, chẳng hạn:
a) Hội đồng khoa học đánh giá một luận án tiến sĩ dựa vào công trình về một đề tài đã được đăng ký và chấp thuận nhiều năm trước đó, trong giới hạn đề tài hàn lâm có điểm mấu chốt có giá trị, thông qua khả năng trình bày của chủ đề tài trước hội đồng cũng như khả năng ứng đối trước các câu hỏi của ban phản biện khi hóa giải và/hoặc phát triển những giá trị cộng thêm đối với công trình luận án của mình;
b) Chủ đầu tư một công trình có thể hợp đồng thuê một công ty tư vấn danh tiếngđể thực hiện nghiên cứu phản biện nhằm kiểm tra chất lượng lần cuối cùng chỉ để xem có còn cần thêm những nét chấm phá nhỏ nào không để hoàn thiện công trình, chứ không bao giờ nhằm phát hiện các lỗi tày trời để hủy bỏ công trình, tìm lấy một thay thế khác. Phản biện là dành cho một công trình đã được phác thảo hoàn chỉnh xong
c) Một chính phủ có thể nêu yêu cầu phản biện để các tổ chức hợp pháp và/hoặc người dân có quan tâm tham gia góp các công trình nghiên cứu tập thể hay cá nhân nhằm hoàn thiện một chủ trương – chính sách sẽ được ban hành. Những giải thưởng cụ thể rất có thể sẽ được thông báo ngay từ đầu trong lời mời phản biện. Không có lời mời, tất cả chỉ là việc nêu ý kiến không có yêu cầu cao mang tính hàn lâm về biện pháp tiến hành nghiên cứu, số liệu tham khảo, nguồn tham khảo, và trách nhiệm cũng như vị thế của người tham gia phản biện.
Giải phẫu không được tiến hành bởi toàn dân mà được thực hiện bởi những bác sĩ chuyên khoa có thể là công dân nước này hoặc nước khác, đáp ứng yêu cầu và lời mời của người có yêu cầu. Phản biện không là việc hay quyền của người dân nói chung mà là của các tổ chức hay cá nhân trong nước hay ngoài nước đáp ứng các yêu cầu về đẳng cấp tư vấn nhất định và theo lời mời của đơn vị tổ chức.
Người dân có quyền – trong bất kỳ lúc nào – nêu ý kiến về tình hình y tế hay những câu hỏi cần có giải đáp về y học.
Người dân có quyền – trong bất kỳ lúc nào – nêu ý kiến về một vấn đề xã hội trong khuôn khổ luật pháp quốc gia về thông tin.
Phản biện là nêu ý kiến; song, nêu ý kiến không là phản biện.
B- Ý Nghĩa Ngôn Từ
Ngôn ngữ nói luôn có trước ngôn ngữ viết. Sự thật này có khi đưa đến một hệ quả là sự diễn giải trong từ điển sẽ có tính chủ quan đậm nét hơn; chẳng hạn định nghĩa sau về phản biện của Bách Khoa Toàn Thư Wikipedia: Tư duy phản biện là một quá trình tư duy biện chứng gồm phân tích và đánh giá một thông tin đã có theo các cách nhìn khác cho vấn đề đã đặt ra nhằm làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác của vấn đề. Lập luận phản biện phải rõ ràng, lô-gíc, đầy đủ bằng chứng, tỉ mỉ và công tâm. Nội dung của Wikipedia tuy vốn không được các giáo sư trên toàn thế giới chấp nhận cho sinh viên dùng làm nguồn tham khảo chính thức, cũng chí ít nêu bật được sáu điểm mấu chốt tất nhiên phải có của phản biện, mà thiếu một hay nhiều hơn một thành tố sẽ chỉ dẫn đến sự góp ý bình thường hay sự loạn ngôn có chủ tâm chứ không thể là phản biện.
Ngoài ra, sự khác biệt về ngôn ngữ cũng làm giới hạn sự hiểu biết của người dân của một nước liên quan, chẳng hạn người Việt Nam hay cho rằng phản phải mang nghĩa đối nghịch như phản chiếu, phản công, phản xạ, phản đối, phản ứng, v.v. , trong khi trong tiếng Anh các từ như amoral, immoral, nonmoral, và unmoral, v.v. có thể được xếp vào hàng ngũ antonym tức từ phản nghĩa của moral(đạo đức) trong khi ý nghĩa của chúng khác nhau, không nhất thiết phải “đối nghĩa” hay “chỏi nhau”, mà có khi chỉ cần nghĩa … “chẳng dính dáng gì đến đạo đức”. Tất cả dẫn đến một giải thích cặn kẽ hơn để chứng minh phản biện đang bị lợi dụng bởi những người cố tình hủy phá ý nghĩa ngôn từ, làm ô uế việc làm hàn lâm nghiêm túc để đậy che hành vi phản nghịch chống chính quyền, phản đối chế độ, phản bácchính sách chủ trương nhà nước, phản động và phản quốc.
C- Vì Sao Nên Nỗi: Bỏ Roi, Dẹp Vọt; Ngồi Trên, Ăn Trước; Thấy Lệch, Nhìn Sai
Do không được gia đình giáo hóa và do bài bản nhà trường có những lệch tâm, nhiều người ngay từ thời còn là học sinh lớp 9 đã tập tành phát biểu những lời chê bai Đảng, Chính Phủ, Thủ Tướng, tự hào bản thân dám phản biện và khoe sẽ đi du học như một tránh xa sự thấp kém, lạc hậu, không có tự do ngôn luận, của một đất nước Cộng sản điêu linh, mà không biết là mình chưa có trí hóa, chẳng có tri thức, chẳng hiểu thế nào là phản biện, để rồi với mớ tiếng Anh một dúm trong túi quần thủng đáy rụt rè ra hải ngoại, cày ải đóng thêm tiền trần ai đánh bóng tiếng Anh, đạt yêu cầu tham gia chính khóa, như kẻ mông muội vào toilet Tây trân mình hít thở thật sâu thật lâu cái không khí có hương hoa hồng đậm đặc từ mấy cục sáp thơm rồi thấy mình là nhân tài hình như xưa kia mẹ sinh ra có hương thơm ngào ngạt như Tử Vi giáng hạ phàm trần, đủ sức làm tổng thống ngồi trên đầu trên cổ nhân dân, tìm đến những nhà tài trợ và trở về quê thực hiện giấc mộng mưu bá, đồ vương, an bang, định quốc.
Thế nhưng ngoài mấy kẻ trẻ người non dạ như du học sinh trung học hay thạc sĩ bái tổ vinh quy do không thấy roi hay vọt của pháp luật nước nhà; do nghĩ con đường tắt đi đến vinh quang của mình sẽ được Phương Tây và “cộng đồng” người Việt hải ngoại đùm bọc, tài trợ, chở che; và do lầm tin rằng mình có…chân mạng đế vương nên đã như thiêu thân lao vào hào quang ảo mộng; vẫn có vài Thầy Cô đạo cao đức trọng chưa hiểu cái chân, cái chính, và cái thực của phản biện. Có thể trong thời chiến tranh chống Mỹ, các Thầy Cô được Đảng và Nhà Nước gởi qua Liên Xô và các nước Đông Âu Xã Hội Chủ Nghĩa học tập, chuẩn bị cho lớp người trí thức kế thừa sự nghiệp xây dựng đất nước một khi cuộc giải phóng thành công nên dù bao triệu người đã nằm xuống cho ngày thống nhất đất nước, các Thầy Cô còn chưa biết tiếng súng nổ ra sao. Và khi Đảng áp dụng chính sách mở cửa xây dựng đất nước độc lập – tự do – hạnh phúc, các Thầy Cô choáng ngợp trước những kiến thức mới lạ và những kỳ tích của trời Âu Mỹ, mà không biết rằng chúng chẳng lạ lẫm gì đối với những người đã thực sự sống, thực sự trải nghiệm với thực tế của các kiến trúc và kỳ tích ấy, và rằng tòa nhà cao nhất thế giới sẽ không bao giờ có thể được dựng xây tại Thành phố Hồ Chí Minh trên nền Sài Gòn vốn đầm lầy xưa cũ đất nền địa tầng nhão nhoét. Các Thầy Cô đáng kính tự thấy mang trách nhiệm của những nhà trí thức trước việc phải làm sao cho đất nước nhanh chóng hùng mạnh như các siêu cường, từ đó quan niệm tích cực đóng góp ý kiến(gọi lầm thành phản biện) là vũ khí sắc bén của nhà trí thức đối với vận mệnh quê hương, thôi thúc nhất thiết phải tận dụng với khát vọng cống hiến những kiến thức và hiểu biết hàn lâm “mới biết ” của mình cho sự phát triển kinh tế của quê hương.
D- Những Nguyên Tắc Đúng Không Bao Giờ Cần Đến Phản Biện Bất Kỳ
Ngoài ý nghĩa bất di bất dịch là phản biện phải thông qua cơ chế tổ chức bài bản – khác với đóng góp ý kiến – phản biện còn nhất thiết phải không nói về những nguyên tắc luôn đúng vốn không bao giờ cần đến phản biện bất kỳ.
1) Quản Lý Của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Đảng Cộng Sản Việt Nam quản lý nhân sự thành công, quản lý đấu tranh chính trị thành công, quản lý công tác đối ngoại thành công, quản lý bảo vệ đất nước thành công và quản lý kinh tế thành công.
Phản biện rằng kinh tế nên phát triển kiểu này kiểu nọ chỉ có thể đúng đắn nếu như đó ở dạng các ý kiến đóng góp, vì phản biện theo đúng ý nghĩa hàn lâm chỉ dùng để làm rõ nét hơn, bổ sung chi tiết cho, và khẳng định đúng nội dung Đảng Cộng Sản Việt Nam quản lý kinh tế thành công. Một tổng giám đốc người Singapore đồng thời là chủ nhân một công ty Singapore sản xuất tại Việt Nam 100% xuất khẩu sang thị trường Ý và Úc đã nói với người viết bài này như lời tâm sự nghiêm túc chỉ giữa hai người: “Tổng Thống Hồ Chí Minh là người giỏi nhất thế giới về Human Resources Development (dùng người). Có nhiều nhà lãnh đạo dựng xây cả đế chế hùng mạnh, nhưng chỉ có Hồ Tổng Thống là nhà lãnh đạo duy nhất từ tay trắng dựng xây một quân đội hùng mạnh, tập thể nhân dân hùng mạnh, một đất nước hùng mạnh từ con số không, và có chiến thắng to lớn trong danh dự, vẻ vang; có uy với nhân loại và làm thay đổi cả dòng chảy lịch sử nhân loại. Ông Phước chắc đồng ý với tôi là không ai khác từ cổ chí kim làm được như Hồ Tổng Thống.” Tất nhiên, mọi phản biện – nếu có – đều là vô nghĩa, vì không ai bật một que diêm để giúp làm sáng hơn một mặt trời ngùn ngụt nhật quang, hay đặt câu hỏi xem có phải mặt trời phát ra ánh sáng mạnh hơn cả hay không.
2) Đạo Lý Của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Người chiến thắng có thể làm bất kỳ điều gì. Đó là lẽ đương nhiên. Do đó, cái khác biệt là ở đạo lý văn hóa của người chiến thắng, phân định rạch ròi giữa con người và loài thú. Một vị vua của Trung Quốc phong kiến của giáo dục Khổng Mạnh chôn sống cả vạn tù binh. Đức Quốc Xã và Phát Xít Ý của tư bản thời cận đại – những quốc gia có đa số dân thờ phụng Chúa – xua bao triệu tù nhân kể cả phụ nữ và trẻ em vào các lò thiêu, lò hơi ngạt. Quân Phiệt Nhật của chế độ quân chủ lập hiến tự do – đất nước thiên về Phật Giáo, đẻ ra xã hội có hào quang xây dựng kinh tế thần kỳ – chặt đầu cả vạn tù binh các nước Đông Bắc Á và Đông Dương – trong đó có Việt Nam. Việt Nam Cộng Hòa của Ngô Đình Diệm đàn áp Phật tử , dùng máy chém chặt đầu tù binh và tù nhân thuộc nhóm những ai yêu chuộng sự tự do theo Cộng sản, xúc xiểm gọi nhà sư tự thiêu là món thịt nướng barbecue. Hoa Kỳ của thế giới tự do, của dân quyền và nhân quyền, chủ nhân ông của các chế độ Việt Nam Cộng Hòa đã không cho phép thường dân Việt Nam tại Sơn Mỹ có tự do, dân quyền, cả nhân quyền. Cộng sản Việt Nam – những người bị kẻ thù gán cho danh xưng lệch lạc “vô thần khát máu” – đã đưa hàng vạn quân nhân khiếp sợ của Việt Nam Cộng Hòa, những người đã vứt bỏ vũ khí, quân trang, quân dụng, đồng phục quân nhân đầy đường đến nỗi tắt nghẽn giao thông cả tuyến quốc lộ, vào những trại cải tạo để cất công cố gắng dạy cho họ biết nẻo chánh đường tà, thể hiện vai trò chuyên nghiệp của những nhà tâm lý học và tư vấn tâm lý nhân bản để giúp tù binh và hàng binh nhận thức đúng về vị trí mới và vô cùng quan trọng của họ trong việc cùng góp công xây dựng đất nước thống nhất xã hội chủ nghĩa. Quyền uy tối thượng mà Cộng sản Việt Nam, những người chiến thắng, đã thị uy không phải là cuộc tắm máu trừng trị như tuyên truyền của Việt Nam Cộng Hòa, mà là đức độ, lòng nhân, đại nghĩa, lý tưởng hòa hợp dân tộc, vì dân quyền và nhân quyền, thực sự vì quốc gia Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Đạo lý ấy của Đảng Cộng Sản Việt Nam quá lớn lao, quá vĩ đại, quá riêng biệt chưa quốc gia nào khác trên thế giới từng áp dụng, nên sẽ không tạo được bất kỳ một cơ hội nào – dù cỏn con – để manh nha một phản biện bất kỳ.
3) Lịch Sử Của Việt Nam Và Của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Những gì của lịch sử bao gồm – nhưng không chỉ giới hạn bởi – những chiến tích, những biến cố, những bài học, những di vật, di chỉ, v.v., mà những nghiên cứu dù có cho ra những nội dung trái ngược nhau, vẫn chỉ có giá trị tham khảo đơn thuần.
Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đánh thắng giặc Nguyên Mông. Phản biệnhàn lâm đối với đề tài này có thể là về những tình tiết mới phát hiện trong tàng thư cổ hay di tích mới được khai quật cho thấy có sự khác biệt về kích thước và chất liệu các cọc chông cắm dưới lòng Bạch Đằng Giang. Ý kiến nào cho rằng Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn lẽ ra đã thua xiểng liểng nếu giặc Nguyên Mông đừng gia tăng thêm hai tay chèo mỗi tàu thuyền có thể đủ chậm để kịp thấy cọc chông nhú lên không bao giờ là phản biện mà là một lảm nhảm điên rồ nhằm bôi nhọ thực tế lịch sử Việt Nam.
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã đánh thắng với trận Điện Biên Phủ trên không, khiến phá sản toàn bộ quá trình tham chiến của Mỹ tại Việt Nam, trói ghịt Mỹ vào thế phải rút khỏi Việt Nam. Phản biện hàn lâm đối với đề tài này có thể là về những tình tiết mới phát hiện trong tàng thư Mỹ hay vật chứng mới được phát hiện cho thấy có khác biệt về số hiệu phi đội, thời gian và địa điểm rơi, của chiếc máy bay cuối cùng bị bắn hạ, còn một cánh hay một phần tư của một cánh khi chạm đất. Ý kiến nào nói rằng Mỹ chỉ cần ném bom thêm một ngày là đã nhận được cờ trắng đầu hàng của Cộng Sản Bắc Việt không bao giờ là phản biện mà là một lảm nhảm điên rồ nhằm bôi nhọ thực tế lịch sử Việt Nam.
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đạt những kỳ tích chưa bao giờ Việt Nam có được từ thời Hùng Vương dựng nước, đặc biệt duy trì sự bền vững ổn định tối cần thiết cho sự phát triển kinh tế nước nhà, trở thành chỗ dựa chiến lược cho sự sinh tồn của các dân tộc toàn Đông Nam Á, và mô hình độc đáo của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã góp phần quyết định vào sự phát triển kinh tế thành công của Việt Nam. Phản biện hàn lâm đối với đề tài này có thể là về những tình tiết mới có từ thực tế thế giới tài chính run rẩy sụp đổ và biện pháp cứu nguy chỉ có thể là đặt cái gọi là kinh tế thị trường dưới sự giám sát hay can thiệp nhiều hơn từ chính phủ, cho thấy giá trị của đột phá tiên phong của Việt Nam đối với nội dung “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ý kiến nào nói rằng kinh tế Việt Nam sẽ lâm vào khủng hoảng nếu nhà nước Cộng sản Việt Nam không nhanh chóng mạnh dạn áp dụng các bài bản Âu Mỹ không bao giờ là phản biện mà là một lảm nhảm điên rồ nhằm bôi nhọ thực tế lịch sử Việt Nam.
E- Kết Luận: Phản Biện Diên Hồng
Phản biện là hành động chuyên nghiệp của người có học thức, có tri thức, có nghiên cứu thâm thúy về một đề tài thực sự mới để bổ sung hỗ trợ cái tốt đẹp đang có (như về một bài sonnet của Shakespeare, hay công trình 15 năm của các chủ nhân giải Nobel kinh tế) mà các bổ sung ấy đã có người nêu bật ra song chưa đủ đầy trước đó.
Phản biện không bao giờ là đối kháng, đối nghịch, hay làm loạn vì đó là phản động hay phản nghịch.
Phản biện ủng hộ tích cực và tuyệt đối một vấn đề thực sự lớn lao để các tồn tại –nếu chứng minh bằng các công trình khoa học chi tiết dài hạn rằng thực sự có – được khắc phục, và các yếu kém – nếu chứng minh bằng các công trình khoa học chi tiết dài hạn rằng thực sự có – được nâng cấp.
Phản biện không bao giờ là chuyện những tên hề lén lút biên soạn cương lĩnh chính trị, lén lút tụ họp ở ngoài nước với các phần tử chống phá quốc gia, mà mục đích là tiến hành lật đổ và đoạt các ngôi vị Tổng Thống hay Bộ Trưởng Kinh Tế.Phản biện ở đây hóa ra là một xảo biện đậy che phản động.
Chỉ có Đảng Cộng Sản Việt Nam mới bảo vệ được Việt Nam an toàn trước siêu cường Trung Quốc và mới xây dựng được kinh tế Việt Nam phát triển thần kỳ.Phản biện, do đó, có nghĩa là trên nền tảng đất nước Việt Nam phải có trước hết và trên hết sự ổn định về chính trị, chủ nghĩa xã hội được Việt hóa chỉnh chu, được đổi mới theo tiến trình hội nhập toàn cầu, sự đóng góp ý kiến qua các công trình nghiên cứu khoa học công phu giúp chính phủ cộng sản Việt Nam mạnh hơn, chủ nghĩa xã hội Việt Nam ưu việt hơn, nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam phát huy ưu thế hơn, các chính sách của Đảng và Nhà Nước Việt Nam được ủng hộ triệt để hơn.
Phản biện với ý nghĩa chống lại Đảng Cộng Sản, Chính phủ Việt Nam, thể chế hiện nay của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, đó dứt khoát là sự xảo trá bẻ cong ngôn từ và phản quốc. Không có Đảng Cộng Sản, Chính phủ Cộng sản, thể chế hiện nay của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, đất nước Việt Nam sẽ không bao giờ có thể tồn tại, kéo theo sự sụp đổ hiệu ứng domino của toàn Đông Nam Á.
Mỗi quốc gia trải nghiệm khác nhau trong suốt cuộc hành trình tồn tại của riêng mình. Chỉ có vài điểm chung hoàn toàn giống nhau giữa các dân tộc thí dụ như: cùng nhau không nín thở trọn đời, cùng nhau không uống nước biển trọn đời khi khát, cùng nhau không trọn đời nhai sỏi thay cơm. Kỳ dư, không còn bất kỳ điểm giống nhau nào khác, kể cả trong một tôn giáo (chẳng hạn gia đình thờ Chúa thường muốn con dâu con rể tương lai nếu ngoại đạo phải vào đạo, trong khi gia đình văn minh theo đạo Chúa ở Âu Mỹ thì tuyệt đối tôn trọng tín ngưỡng của người phối ngẫu). Người Việt Nam dùng dao gọt vỏ trái cây từ trái qua phải, từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài; trong khi người Mỹ dùng dao gọt ngược lại, tức từ phải qua trái, từ dưới lên trên, và từ ngoài vào trong. Người Việt sẽ cắt đứt tay nếu làm theo kiểu Mỹ; còn người Mỹ làm vỡ dĩa mẻ bàn gây sát thương người trước mặt nếu làm theo kiểu Việt.
Người Việt chưa hiểu phản biện là gì, còn lầm lạc giữa đóng góp ý kiến với phản biện, và nhất thiết cần hiểu rằng Chính phủ đang luôn sáng suốt xem bảo vệ đất nước là trên hết và rằng sự ổn định chính trị của Việt Nam có giá trị quyết định không những đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế Việt Nam mà còn đối với sự tồn tại của cả khu vực Đông Nam Á.
Người Mỹ luôn phát biểu ý kiến chỏi (không phải phản biện) thoải mái vì chính phủ của họ một mặt chẳng thèm quan tâm đến các phản đối của cá nhân họ, một mặt rất chuyên nghiệp trong đối phó hữu hiệu bất kỳ các phản đối tập thể nào nhằm chống lại thể chế liên bang: đó là đưa quân liên bang (Vệ Quân Quốc Gia) và quân CIA càn quét tiêu diệt như đã xảy ra khi có các phản đối tập thể lập ra các tuyên ngôn ly khai đòi độc lập của “nước” Cộng Hòa Vermont và “nước” Cộng Hòa Texas.
Quyết định 97/2009/QĐ-TTg ngày 24/7/2009 của Thủ Tướng Chính Phủ quy định các ý kiến phản biện về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà Nước cần được gởi về cho cơ quan Đảng, Nhà nước có thẩm quyền, chính là sự khẳng định chuyên nghiệp rất hàn lâm của Đảng và Nhà nước đối với các phản biện vềđường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà Nước; vì rằng
– đã là phản biện về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà Nước ắt phải là công trình rõ ràng, lô-gíc, đầy đủ bằng chứng, tỉ mỉ và công tâm, hình thành từ một quá trình tư duy biện chứng gồm phân tích và đánh giá về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà Nước theo các cách nhìn khác nhằm làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác của đường lối, chủ trương, chính sách ấy của Đảng, Nhà Nước;
– đã là phản biện về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà Nước ắt phải là công trình đáp lại lời kêu gọi của Đảng và Nhà Nước cho một đề tài thật cụ thể do Đảng và Nhà Nước đặt ra; và
– đã là phản biện về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà Nước do Đảng và Nhà Nước mời người dân tham gia tư vấn, thì tất nhiên phải gởi về cho cơ quan Đảng, Nhà nước có thẩm quyền vì đây vừa là sự trân trọng chính đáng của cơ quan Đảng, Nhà nước có thẩm quyền đối với người gởi phản biện về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà Nước được Đảng và Nhà Nước chính thức mời trên các phương tiện truyền thông đại chúng trước đó, vừa là cách chứng minh người gởi phản biện thực sự chuyên nghiệp, thực sự có tri thức, thực sự có hiểu biết, thực sự có tinh thần và ý thức trách nhiệm bản thân đối với việc phản biện đúng yêu cầu mà gởi phản biện đúng nơi là một trong những yêu cầu chính quy và chuyên nghiệp ấy.
Việt Nam đã là dân tộc đầu tiên trên thế giới đưa vào thực hiện quy trình phản biệnkhi các bô lão được Vua Trần Thánh Tông mời tham dự Hội Nghị Diên Hồng. Không phải Vua Việt bó tay không biết phải làm gì nên đùn đẩy trách nhiệm quyết định cho dân già; ngược lại, chính vì đã quyết tâm đánh giặc nên Vua mới tổ chức trọng thể Hội Nghị Diên Hồng như diễn đàn phản biện chính quy để hoàn thiện chiến lược đánh giặc và thắng giặc. Các bô lão không phải bỏ phiếu chọn Hòa hay Chiến, Đánh hay Đàm, nói Yes hay No. Các bô lão phản biện để thống nhất ý chí. Các bô lão không bàn lui vì phản biện không bao giờ là bàn lui, và vì các bô lão không có trình độ và kinh nghiệm quản lý nhà nước hay hoạch định chính sách chiến lược cấp nhà nước. Các bô lão Việt Nam cuối thế kỷ 13 đã phản biện theo đúng tinh thần của giải nghĩa từ ngữ của Bách Khoa Toàn Thư Wikipedia đầu thế kỷ 21: nghe cho biết, hỏi cho rõ để biết đúng và để ủng hộ cho hiệu quả, còn các nhà lãnh đạo tái kiên định chiến lược hoặc bổ sung chiến thuật qua sự trả lời các câu hỏi.
Góp ý kiến đúng đắn và nghiêm túc là quyền tự do của công dân có năng lực hành vi, thực hiện bằng cách gởi thư trực tiếp cho cơ quan chịu trách nhiệm hay gián tiếp nhờ báo đài chuyển. Ý kiến đóng góp không nhất thiết phải hàn lâm, đáp ứng các tiêu chuẩn nghiêm nhặt và chuyên nghiệp của phản biện. Góp ý kiến đúng đắn và nghiêm túc không có nghĩa là buộc Đảng và Nhà nước phải thực hiện các góp ý kiến đúng đắn và nghiêm túc đó, với nhận thức rằng 80 triệu người dân khác của Việt Nam cũng đều có quyền góp ý kiến, nghĩa là tối thiểu 80 triệu ý kiến của tối thiểu nửa triệu chùm (category) ý kiến khác nhau. Góp ý kiến đúng đắn và nghiêm túc không có nghĩa không cần có trách nhiệm cá nhân đối với sự an nguy của tổ quốc và thể chế của tổ quốc, vô tâm đặt vấn đề chẳng màng xem bản thân vấn đề có sẽ tạo cơ hội cho kẻ thù của quốc gia. Góp ý kiến đúng đắn và nghiêm túc càng không có nghĩa là cứ thấy bức xúc là nói, đặt giải tỏa cá nhân trọng hơn an nguy cộng đồng.
Còn phản biện về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà Nước là quyền tự do của công dân có năng lực hành vi và năng lực chuyên môn khi đáp ứng lời kêu gọi của cơ quan nhà nước cho một chính sách hay dự thảo luật đã soạn xong, với ý nghĩa người dân được mời tham gia cho ý kiến giúp những nhà lãnh đạo xem xét để sử dụng hay không sử dụng các góp ý ấy trong hoàn thiện chính sách hay dự thảo luật trước khi đem ra thảo luận chính thức tại Quốc Hội Việt Nam và ban hành.
Phản trong phản biện chưa bao giờ và sẽ không bao giờ là phản.
Hoàng-Hữu-Phước, Thạc-sĩ Kinh-doanh Quốc-tế
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)