Chủ Nhật, 12 tháng 6, 2016

Khế Đài Loan- gía 450k





Khế Đài Loan- gía 450k-ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh

https://www.facebook.com/Bonsaivanphong-1689990287898699/

Chùm nụm mini- giá 100k


Chùm nụm mini- giá 100k-ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh

https://www.facebook.com/Bonsaivanphong-1689990287898699/

Văn chương có đau mới hay




Tác giả: Trần Đình Sử

.


Gs Trần Đình Sử

.Không Tử xưa có nói “Thi (Kinh thi, thơ ca – TĐS) khả dĩ hưng, khả dĩ quan, khả dĩ quần, khả dĩ oán”. Khả dĩ hưng, là gây niềm hưng khởi, cổ vũ. Khả dĩ quan, nghĩa là giúp nhận thức, biết nhiều chuyện. Khả dĩ quần, nghĩa là tập hợp, gọi đàn. Khả dĩ oán, là nói lên niềm oán hận, đau đớn. Khổng Tử đã rất tinh ý khi để chữ oán ở vị trí cuối cùng, không coi là quan trọng hàng đầu, mặc dầu đã không bỏ quên nó. Vào những năm thời Mao Trạch Đông, trong một dịp đi sang giao lưu với giới văn chương Nhật Bản, nhà văn Trung Quốc Tiền Chung Thư có bài nói chuyện Thi khả dĩ oán (in trong Tiền Chung Thư văn tập, 2004, tr. 635 – 647).

Ông bảo người ta bỏ quên lời dạy này của Khổng Tử đã quá lâu, cho nên trong văn học tuyền chỉ nghe một thứ tiếng ngợi ca, ngọt ngào, hào sảng, mà không nghe thấy tiếng thương đau. Mà cuộc sống thì đâu phải chỉ có tiếng reo vui, tiêng hào hùng, tiếng phấn khởi. Tiền Chung Thư sau khi dẫn lời của Khổng, liền kiểm kê lại văn học Trung Quốc mấy nghìn năm, xem các thứ thơ hưng, quan, quần, oán trong lịch sử thế nào.



Ông dẫn rất nhiều rồi đi đến kết luận, tiếng vui, tiếng lạc chỉ có ít trong thơ, trong sử, phần nhiều không thật, còn tiếng đau, tiếng bi thì rất nhiều và thật. “Oán hận nhi ca” mới là tiếng thật. Nhạc phủ có “Bi ca hành”, mà không có lạc nhi hành. Tư Mã Thiên có câu “bất bình tắc minh” nghĩa là bất bình thì kêu lên. Ông lại có câu “phát phẫn trước thư”, nghĩa là có uất đau thì mới viết sách. Lưu Hiệp trong Văn tâm điêu long cũng nói “Trai đau mà thành ngọc.” Thi phẩm của Chung Vinh tuy có chỗ phân tán, song khi bình thơ “thượng phẩm”, phân biệt với trung phẩm và hạ phẩm đều nêu các bài thơ oán, thơ hận, thơ đau.



Nhà viết kịch Lí Ngư cho biết cả đời ông toàn là ủ ê đau đớn, không khi nào dược nở mày nở mặt, chỉ khi sáng tác hướng tới nơi ảo cảnh mới thật sự có được niềm vui. Cái cười của ông trong kịch là tương phản với nỗi đau của đời ông, chứ không phải phản ánh cuộc đời ấy. Hàn Dũ đời Đường đã nói “Đại phàm vật khi bất bình thì phải kêu (minh)”, rồi dẫn Khuất Nguyên, Tư Mã Thiên, Trang Chu, Tương Như, coi là những tiếng kêu đau mới hay, sau đó mới nói đến Mạnh Giao, rồi nói đến mình, đều cùng một loại. Văn học Trung Quốc cổ có rất nhiều bài bi thu, thương xuân, khóc tình, khóc đời kiệt tác. Tiền Chung Thư nói quan niệm thơ văn đau là tư tưởng chung có tính nhân loại.

Điều thú vị là các nhà văn nhà thơ suy nghĩ rất giống nhau. Nietsche cho rằng người làm thơ như con gà mái đau khi đẻ, nó có đau thì mới đẻ. Có đau thì mới sáng tác, chứ sướng vui thì chỉ có thi ca tầm thường. Kêu đau là tiếng tự nhiên, rất tự nhiên, không vì mục đích nào khác. Nhà thơ Áo Franz Grillparzer bảo, con trai đau không biết kêu thì nó cho ngọc. Flaubert cho rằng phong cách nhà văn toát ra từ nỗi đau của con trai, cũng cùng ý ấy. Heiner hỏi: “Thơ ca của con người phải chăng là hòn ngọc do đau đớn như con trai mà có?” Nhà thơ Anh A. E. Housman nói thi ca là một sự trút xả, như cây thông chảy nhựa nơi lở loét, hay như con trai cho ngọc ở nơi đau. Một nhà thơ Ý nói: Vui sướng khiến người ta khoa trương, ồn ào, còn đau thương khiến người ta nén lại.

Người Trung Quốc hay nói khi vui thì hoa lòng nở tung, trái tim mở ra (khai tâm), vui đến mức miệng không khép lại được. Như thế, tiếng vui bay hơi, hở hương, chẳng bao lâu mà nhạt. Trái lại khi buồn thì lòng nặng như đá đeo, lòng quặn thắt lại, lòng bị cắt đứt (đoạn trường). Goethe nói khi vui lòng như mang cái gì hình tròn, êm ái, khi đau lòng mang một vật hình nhiều cạnh. Cái hình tròn chỉ một loáng nó đi qua, cái hình có góc cạnh còn vướng mắc mãi.

Các nhà thơ lãng mạn phương Tây cũng nói rất nhiều nỗi đau. “Thơ ca đẹp nhất là những thơ ca nói lên niềm đau đớn”. Có người nói: “Thơ ca đích thực là thơ ca xuất phát từ trái tim đau nỗi đau của nhân loại, đồng loại”. Lại nói “Bài thơ đẹp nhất là bài thơ tuyệt vọng, chỉ thuần tuý là nước mắt”. “U uất là điệu tình cảm phù hợp nhất của thi ca”. Nhà mĩ học Ý là Croce nói “Thi ca là sản phẩm của sự bất như ý”. Một nhà lí luận Thuỵ Sĩ viết cuốn văn học sử bi kịch, cho rằng “thơ ca, văn học thường bắt nguồn tư nỗi đau ẩn giấu”. Tóm lại ông Tiền Chung Thư là nhà bác học, ông dẫn đủ cô kim, đông tây chỉ để khẳng định một điều, thơ ca, văn học nhân loại xưa nay có nhiều thứ, những chỉ những ai động đến nỗi đau con người thì văn chương mới hay.

Văn học Việt Nam cổ điển có nhiều tác phẩm tuyệt đỉnh cũng đều là văn thơ đau. Đó là thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Đặng Trân Côn, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Đình Chiểu. Thơ cười như Nguyễn Khuyễn, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…cũng đều do đau đớn với đời mà sinh ra. Không có ai vui, phấn khởi mà làm nên thơ văn vĩ đại, bất hủ.

Bảo Ninh là người lính chiến trường, chứng kiến biết bao đồng đội đã hi sinh, dồn nén nỗi đau mà thốt ra tự nhiên thànhNỗi buồn chiến tranh. Nguyễn Huy Thiệp phải đau đớn với đời mới có tiếng cười cay nghiệt. Văn chương đau ở ta vốn không nhiều, mà còn chưa được đánh giá đúng mức, nếu không muốn nói là còn định kiến và kì thị. Phải chăng nói đau thì thiếu lạc quan, thiếu tin tưởng, một tiêu chí của văn chương cách mạng? Niềm tin con người gắn với sự thật. Chính do nói nhiều điều không thật mà văn học một thời đã mất đi niềm yêu mến. Văn chương nói thật thì mới có niềm tin yêu lâu bền. Mà có tin thật thì mới có động lực trong cuộc sống. Không thể xây dựng niềm tin bằng ảo ảnh hoặc bằng che giấu.

Đã đến lúc chúng ta nên nhìn lại quan niệm văn học ta. Cuộc sống đâu phải chỉ có tiếng reo vui, tiêng hào hùng, tiếng phấn khởi. Tôi nhớ nhà văn Ngô Thảo có lần lấy câu tục ngữ Nga, “Một nửa cái bánh mì là bánh mì, nhưng một nửa sự thật không phải là sự thật”. Cũng vậy văn chương mà chỉ có tiếng khen, tiếng vui, không có tiếng oán thán, đớn đau thì cũng không phải là sự thật. Hàng ngày xem báo chí trong nước, báo giấy và báo mạng, xem tin vui nhiều hay tin buồn, tin đau đớn nhiều? Tin thành công nhiều hay tin thất bại nhiều? Tin lãng phí, thất thoát, nợ xấu nhiều hay tin chống được tham nhũng nhiều? Tin bị lấn chiếm nhiều hay tin giành lại lãnh thổ nhiều? Vậy mà văn chương ít có tiếng oán thì mới lạ.

Phải nói rằng báo chí chúng ta thật giỏi. Họ nhiều khi phanh phui được sự thật, hé lộ những sai sót chết người. Nhân dân sẽ mang ơn họ. Nhưng còn văn học thì sao? Đã có bao nhiêu tác phẩm nói được nối đau của người dân, của dân tộc? Đã có bao nhiêu tác phẩm nêu lời ai oán? Có bao nhiêu tác phẩm khóc cho các số phận bất công? Có tác phẩm nào kêu cho những mảnh đời tan vỡ? Tôi không có điều kiện đọc nhiều, không tự trả lời được. Nhưng theo quan niệm chung, văn học thiên về nêu gương, nêu người tốt việc tốt, nêu gương người tử tế khó mà xuất phát từ nỗi đau.

Ta đã có tác phẩm nào như Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn? Có tác phẩm nào như Cung oán ngâm khúc? Có tác phẩm nào như Ai tư vãn? Chẳng nhẽ nhà văn Việt Nam hiện thời không biết đau, không hiểu oán là thế nào? Tôi hoàn toàn không tin điều đó. Vậy có gì vướng mắc phải gỡ cho ra.

Tính từ thời đổi mới đã ba mươi năm qua rồi mà tác phẩm lớn được coi là chưa có, các tác phẩm cứ bằng bằng như đồi thấp, không có đỉnh. Lại có ý kiến cho rằng nhà văn ta thiếu tài. Tôi chưa bao giờ cho là như thế. Hãy nhìn lại xem, nhà văn ta đã sống sâu, sống thật với nỗi đau của nhân dân ta trong suốt mấy thế kỉ qua hay chưa? Đã thấy nỗi đau đứt ruột về nỗi tthống khổ của con người hay chưa? Làm gì có con trai có tài và con trai bất tài. Mọi con trai đau đớn đều cho ngọc. Cái tài tự nó chưa là gì cả, nó chỉ có nghĩa khi đem dùng vào việc gì. Rất có thể ta đã phí tài vào việc miêu tả những cái không quan trọng, dùng vào nơi không đúng chỗ.

Hãy bớt đi lời ngợi ca, bớt đi lời khen ngợi, hãy sống thật sự với nỗi đau của lòng mình, và để nó toát ra tự nhiên dưới đầu ngọn bút. Khi ấy ta sẽ thấy thiên tài xuất hiện. Hãy làm người bình thường, khi đau thì kêu. Xưa ta chê nhà thơ lãng mạn không đau mà rên, hàm ý là giả đối. Nhưng nếu đau thật mà không kêu thì có giả dối hay không? Nay mỗi người hãy tự hỏi mình có đau hay không? Nếu anh chị có đau thật, đau sâu, đau lớn, đau không thể chịu nỗi nữa, không thể ngồi yên, đau như chưa bao giờ đau như thế, tôi tin cậy hoàn toàn ở anh chị, tin hoàn toàn vào Văn học Việt Nam.

Viết trong những ngày khủng hoảng moi trường của biển miền Trung.

Thứ Bảy, 11 tháng 6, 2016

Kim giòn- giá 150k-


Kim giòn- giá 150k-ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh

https://www.facebook.com/Bonsaivanphong-1689990287898699/

Sự yên lặng quan trọng cho bộ não hơn là bạn tưởng




Carolyn Gregoire


 

Trong một thế giới ồn ào và gây sao lãng, tìm thấy những khoảng lặng có thể đem lại ích lợi cho cơ thể và não bộ của bạn.

Chúng ta sống trong một thế giới ồn ào và gây sao lãng, nơi mà sự im lặng ngày càng khó tìm thấy — và điều đó có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sức khoẻ của chúng ta.

Trên thực tế, một báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới năm 2011 gọi ô nhiễm tiếng ồn là một "dịch bệnh thời hiện đại", kết luận rằng "Bằng chứng mạnh mẽ cho thấy tiếp xúc với tiếng ồn môi trường có những ảnh hưởng có hại lên sức khoẻ của người dân."

Chúng ta liên tục lấp đầy lỗ tai của mình bằng âm nhạc, TV và những tin tức trên radio, các file dạng âm thanh và tất nhiên, vô số âm thanh không ngớt chúng ta tạo ra trong đầu mình. Hãy nghĩ về nó: Mỗi ngày bạn dành ra bao nhiêu khoảnh khắc hoàn toàn im lặng? Câu trả lời có lẽ là rất ít.

Khi môi trường bên trong và bên ngoài của chúng ta ngày càng ồn ào hơn thì có nhiều người đang bắt đầu tìm kiếm sự im lặng, cho dù thông qua thực hành ngồi im lặng trong 10 phút mỗi buổi sáng hay hướng đến một sự ẩn dật yên lặng trong 10 ngày.

Muốn có cảm hứng để đi tìm chút bình yên và tĩnh lặng? Sau đây là bốn cách khoa học ủng hộ rằng im lặng tốt cho bộ não của bạn - và dành thời gian cho nó có thể làm bạn thấy bớt căng thẳng, tập trung hơn và sáng tạo hơn ra sao.

1. Sự im lặng giải toả stress và căng thẳng

Florence Nightingale, một y tá và nhà hoạt động xã hội người Anh vào thế kỷ 19, từng viết rằng "Tiếng ồn không cần thiết là sự thiếu chăm sóc sức khỏe tàn nhẫn nhất có thể gây ra bệnh tật." Nightgale cho rằng những âm thanh thừa thãi, vô ích có thể gây ra lo lắng, mất ngủ và hoảng sợ ở những bệnh nhân đang hồi phục.

Hoá ra ô nhiễm tiếng ồn từng được phát hiện thấy là dẫn đến huyết áp cao và những cơn đau tim, cũng như làm suy yếu thính giác và sức khoẻ nói chung. Những âm thanh ồn ào làm tăng mức độ stress do kích hoạt hạch hạnh nhân của não bộ và làm phóng thích hóc mon stress cortisol, theo nghiên cứu.

Một bài báo chưa được xuất bản năm 2014 bởi nhà tâm lý học môi trường, tiến sỹ Craig Zimring cho rằng những mức độ ồn ào cao trong khu vực phòng chăm sóc đặc biệt cho trẻ sơ sinh làm tăng huyết áp, tăng nhịp tim và làm gián đoạn giấc ngủ của bệnh nhân.

Trong khi quá ồn ào có thể gây ra stress và căng thẳng, thì nghiên cứu phát hiện thấy sự im lặng có một tác động ngược lại, giải toả căng thẳng trong cơ thể và não bộ.

Một nghiên cứu năm 2006 được đăng trên tạp chí Heart phát hiện thấy hai phút im lặng đem lại sự thư giãn nhiều hơn là nghe nhạc "thư giãn", dựa trên những thay đổi về huyết áp và tuần hoàn máu trong não bộ.

2. Sự im lặng giúp bổ sung nguồn lực tinh thần

Trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, các giác quan đang phải hấp thụ rất nhiều kích thích từ mọi phía. Khi chúng ta có thể thoát khỏi những âm thanh gây mất tập trung, trung tâm chú ý của não bộ mới có cơ hội để khôi phục lại.

Những yêu cầu phải tập trung không ngừng trong cuộc sống hiện đại tạo ra một gánh nặng lớn lên vỏ não trước trán, vốn là nơi đảm nhiệm những suy nghi tập trung cao độ, quyết định và giải quyết vấn đề.

Kết quả là, các nguồn lực dành cho việc tập trung của chúng ta trở nên cạn kiệt. Chúng ta sẽ bị phân tâm và tinh thần mệt mỏi, và có thể phải vất vả để tập trung, giải quyết vấn đề và đưa ra các ý tưởng mới.

Nhưng theo lý thuyết phục hồi sự chú ý, bộ não có thể khôi phục lại những nguồn lực nhận thức có hạn của nó khi chúng ta sống trong những môi trường có ít tác động lên các giác quan hơn. Trong sự im lặng — ví dụ, sự tĩnh lặng bạn tìm được khi đi bộ một mình trong thiên nhiên — bộ não có thể giảm mức độ bảo vệ các giác quan của nó xuống.

3. Trong im lặng, chúng ta có thể chạm vào mạng chế độ mặc định của bộ não.

Mạng chế độ mặc định của bộ não được kích hoạt khi chúng ta dấn mình vào cái mà các nhà khoa học gọi là "nhận thức tự tạo", ví dụ như mơ mộng, thiền, tưởng tượng về tương lai hoặc chỉ cần để cho tâm trí chúng ta suy nghĩ lan man.

Khi bộ não nhàn rỗi và ngắt khỏi kích thích bên ngoài, chúng ta có thể chạm vào dòng suy nghĩ, cảm xúc, ký ức và ý tưởng bên trong của chúng ta. Tham gia vào mạng này giúp chúng ta chiêm nghiệm ra nhiều điều từ kinh nghiệm của mình, thấu cảm với người khác, sáng tạo hơn và suy ngẫm về trạng thái cảm xúc và tinh thần của mình.

Để làm điều này, cần thoát khỏi sự sao lãng khiến chúng ta nấn ná trên bề mặt nông cạn của tâm trí. Sự im lặng là một cách để đạt đến đó.

Hoạt động chế độ mặc định giúp chúng ta suy nghĩ sâu sắc và sáng tạo. Herman Melville từng viết rằng, "Tất cả những điều sâu sắc và cảm xúc được dẫn dắt và có sự tham dự của tĩnh lặng trong đó."

4. Sự yên tĩnh có thể tái tạo những tế bào não.

Sự im lặng theo nghĩa đen có thể làm bộ não phát triển.

Một nghiên cứu trên loài chuột năm 2013, được đăng trên tạp chí Brain, Structure, and Function, bao gồm việc so sánh những tác động của nhiễu môi trường, tạp âm trắng, tiếng kêu của chó con và sự im lặng lên bộ não của loài gặm nhấm. Mặc dù các nhà nghiên cứu chỉ định sử dụng sự im lặng như một cách làm dịu lại giữa các đợt thử nghiệm trong nghiên cứu, họ phát hiện thấy hai giờ im lặng mỗi ngày dẫn đến sự phát triển của những tế bào mới trong hồi hải mã, một vùng não quan trọng gắn liền với việc học tập, trí nhớ và cảm xúc.

Trong khi đó, những phát hiện sơ bộ cũng cho thấy sự yên tĩnh có thể được kết hợp để điều trị cho các bệnh như trầm cảm và Alzheimer, những bệnh có liên quan tới giảm tỷ lệ tái sinh tế bào thần kinh trong vùng Đồi Hải mã.

Dịch bởi Rubi / Tâm Lý Học Tội Phạm

Vô cảm và cực đoan sẽ cản đường hòa giải





Tác giả: Nguyễn Quang Dy (Viet-studies)


“Chúng ta không thể thay đổi được quá khứ nhưng chúng ta có thể sắp xếp lại tương lai”.(Dalai Lama)Bóng ma Việt Nam lại trỗi dậy



Theo một khảo sát của viện Gallup (11/2012) Việt Nam thuộc nhóm các quốc gia vô cảm nhất thế giới (đứng thứ 13 trong tổng số 150 nước). Đó là một tin buồn (bad news). Người Singapore vô cảm thì còn dễ lý giải và hiểu được, vì một quốc gia phát triển (high-tech) dễ làm con người vô cảm (thiếu high-touch). Việt Nam là một quốc gia chưa phát triển (low-tech) mà con người đã vô cảm thì khó lý giải và đáng lo ngại. Còn đáng lo ngại hơn khi vô cảm cộng với cực đoan (như anh em sinh đôi) sẽ cản đường hòa giải. Vì vô cảm và cực đoan dựa vào sức mạnh cứng và bạo lực, dẫn đến xung đột và tội ác, nên hòa giải đòi hỏi lòng nhân ái và vị tha, thái độ ôn hòa và thiện chí. Chỉ có sự tử tế và đồng cảm, vượt qua chấp và ngã, mới tạo được sức mạnh mềm, để hóa giải hận thù và định kiến, ngăn ngừa bạo lực và tội ác.

Là một cựu chiến binh đã nếm mùi Chiến tranh Việt Nam và tham gia quá trình hòa giải (đầy nan giải) trong thời hậu chiến, tôi có dịp kết giao với các cựu chiến binh tham gia chiến tranh cũng như hòa giải, góp phần tạo dựng và phát triển FETP. Tuy không ngạc nhiên, nhưng tôi hơi lo ngại khi “bóng ma Việt Nam” (và Thạnh Phong) lại trỗi dậy, làm u ám bầu không khí hòa giải do cuộc tranh cãi gây bất đồng về vai trò của Bob Kerrey, sau Cơn sốt “Obamania” đầy cảm hứng. Tuy tranh cãi có thể cần thiết, nhưng tranh cãi gây chia rẽ lúc này chỉ có lợi cho ông bạn láng giềng phương bắc. Một khi đã không tránh được tranh cãi thì hãy bình tĩnh lắng nghe nhau, tránh thái độ cực đoan cố chấp, để tìm mẫu số chung cho lời giải, và nên đặt vấn đề tranh cãi cụ thể trong một bức tranh rộng lớn hơn (in perspectives).



Câu chuyện Bob Kerrey và đại học Fulbright

Gần đây, dư luận ồn ào tranh cãi về Bob Kerrey khi được cử làm chủ tịch quỹ tín thác của Đại học Fulbright Vietnam (FUV). Sau một thời gian dài tưởng đã trôi vào quên lãng, quá khứ đau buồn của Bob Kerrey liên quan đến vụ thảm sát phụ nữ và trẻ em tại Thạnh Phong (25/2/1969) lại trỗi dậy như bóng ma ám ảnh Bob Kerrey (và tương lai của FUV). Năm 2001, New York Times và CBS News “60 Minutes” đã điều tra vụ thảm sát Thạnh Phong, để lại một vết đen lớn trong sự nghiệp của Bob Kerrey, nguyên thống đốc bang Nebraska và thượng nghị sỹ đảng Dân chủ. Năm 1992, Bob Kerrey đã ra tranh cử tổng thống, nhưng quyết định rút lui sớm khỏi cuộc đua (primary), trước khi bóng ma Thạnh Phong trỗi dậy.

Có một sự thật mà chắc nhiều người đều biết là Bob Kerrey đã thành tâm ân hận sám hối và làm nhiều việc có ích để chuộc lỗi lầm. Không thể phủ nhận vai trò và đóng góp quan trọng của Bob Kerrey, cũng như John McCain và John Kerry, trong quá trình hòa giải và bình thường hóa quan hệ Mỹ-Việt. Gần đây, nếu không có ba vị cựu chiến binh này dũng cảm đứng ra “chống lưng” thì chưa chắc Tổng thống Obama đã dám tuyên bố bỏ cấm vận vũ khí hoàn toàn cho Việt Nam, tạo ra một bước ngoặt mới cho quan hệ đối tác chiến lược (trên thực tế) giữa hai nước cựu thù, để đối phó với Trung Quốc tại Biển Đông. Kinh nghiệm về giáo dục của Bob Kerrey làm chủ tịch “New School University” (2001-2010) và dự án “Đại học Minerva” cũng là một vốn quý (asset) để đóng góp xây dựng FUV theo mô hình mới.

Nhưng có một sự thật mà chắc nhiều người khó quên là Bob Kerrey có vai trò chính trong vụ thảm sát Thạnh Phong, giết hại 21 thường dân (chủ yếu là phụ nữ và trẻ em) như một tội ác chiến tranh (dù trong hoàn cảnh nào). “Bóng ma Việt Nam” (hay Thạnh Phong) vẫn chưa chết, sẵn sàng trỗi dậy ám ảnh không những Bob Kerery mà còn nhiều người khác. Đừng quên bóng ma Việt Nam đã từng chia rẽ nước Mỹ, đang tiếp tục chia rẽ cộng đồng người Việt, và ám ảnh quan hệ Mỹ-Việt. Vì vậy, cần nhạy cảm với “bóng ma Việt Nam” tránh sa vào tranh cãi gây bất đồng, dễ bị mắc kẹt trong đường hầm không lối thoát (như “catch 22”). Đừng nên cố chấp biến mình thành “tù binh của quá khứ” (prisoners of the past), nhưng cũng đừng chủ quan coi nhẹ bóng ma chiến tranh còn đè nặng lên tâm thức nhiều người. Trong chiến tranh, những người lính (như Bob Kerrey) là nạn nhân của những luật chơi tàn bạo (như “Phoenix program”). Do cực đoan và vô cảm, cả hai phía đã gây ra nhiều tội ác, hận thù.

Muốn biến hận thù thành lòng nhân ái, phải biến gánh nặng (liability) của quá khứ thành vốn quý (asset) cho tương lai, “biến lưỡi gươm thành lưỡi cầy” (turning swords into ploughshares). Đó chính là sứ mệnh của FUV, đã trải qua gần hai thập kỷ “lên bờ xuống ruộng”, nay mới thành hiện thực, để làm đòn bẩy cho quan hệ hai nước. Vì vậy, sứ mệnh của FUV lớn hơn sự nghiệp của từng con người tham gia xây dựng nó. Bob Kerrey là một sự lựa chọn “táo bạo” vì những lý do thiết thực nói trên, nhưng lại gây tranh cãi (như đã từng gây tranh cãi tại New School). Phải chấp nhận rủi ro và cái giá phải trả cho sự lựa chọn đó. Hoặc là phải tránh ngay từ đầu, hoặc là phải kiên trì theo đuổi đến cùng để từng bước hóa giải gánh nặng của quá khứ bằng nỗ lực phi thường cho tương lai. Rút lui giữa chừng là chấp nhận thất bại.

Chiến tranh đã để lại hậu quả khôn lường cho cả hai bên, không chỉ mất mát to lớn về người và của mà còn để lại những vết thương dai dẳng về tinh thần và tâm thức. Đã bốn thập kỷ trôi qua nhưng bom mìn chưa nổ và chất độc da cam vẫn còn đang khủng bố những người dân vô tội, và người Việt Nam vẫn chưa hòa giải được với nhau, vẫn còn hận thù và định kiến. Người Việt cùng một phía cũng dễ bất đồng và xung khắc với nhau. Trong khi vụ cá chết hàng loạt gần đây tại Miền Trung gây ra thảm họa môi trường và khủng hoảng chính trị, làm phân hóa và xung đột xã hội, thì bộ phim “Terror in Little Saigon” đã khơi lại vết thương cũ thời hậu chiến trong cộng đồng người Việt. Phải chăng cũng là do cực đoan và vô cảm?

Trong khi đó, bộ ba cựu chiến binh như “ba ngự lâm pháo thủ” (John McCain, John Kerry và Bob Kerrey) là biểu tượng của hòa giải, là vốn quý (asset) mà Chiến tranh Việt nam để lại như một “hệ quả không định trước” (unintended consequence). Việc làm của họ đã cổ vũ hàng ngàn cựu chiến binh (của cả hai phía) đóng góp vào quá trình hòa giải và hàn gắn vết thương chiến tranh. Chuck Searcy (project Renew) vẫn đang lặng lẽ rà phá bom mìn tại Quảng Trị, Wayne Karlin (nhà văn) viết những cuốn truyện cảm động về hòa giải (Wandering Souls: the Journey of the Dead and the Living in Vietnam, Nation Books, 2009)…

Câu chuyện Obamania và Việt Nam

Cách đây hơn 8 năm, người Mỹ đã lên cơn sốt “Obamania”, đổ xô bầu cho Obama, một chính khách trẻ không có tên tuổi, nhưng đã nhạy cảm nắm bắt được tâm trạng cử tri đang muốn thay đổi. Khẩu hiệu “Change, yes we can” đã tạo ra cơn sốt “Obamania”. Nhưng nếu bây giờ (giả thiết) Obama ra tranh cử lần nữa thì chưa chắc thắng, vì giới trẻ “thiên niên kỷ” (Millenials) đã thất vọng và chán ghét các chính khách “nắm quyền lực” (establishment), đơn giản vì họ cho rằng những chính khách này chẳng quan tâm đến họ và không đem lại gì mới cho nước Mỹ, nên họ đã quay ra bầu cho Donald Trump và Burnie Sanders.

Khi sang thăm Việt Nam (23-25/6/2016), Obama đã một lần nữa chứng kiến cơn sốt Obamania lặp lại tại Việt Nam, khi thái độ ứng xử thân thiện và bài diễn văn đầy cảm xúc với “sức mạnh mềm” đã chiếm được “trái tim khối óc” (heart and mind) của người Việt đang thất vọng và bất bình vì những gì đang diễn ra và thèm khát sự thay đổi. Nếu Obama lúc này ra tranh cử (tại Việt Nam) thì chắc chắn sẽ giành được nhiều phiếu. Chuyến thăm Việt Nam chứng tỏ Obama không vô cảm và đã đem lại tầm nhìn mới cho quan hệ Mỹ-Việt. Nếu không khéo thì tranh cãi về Bob Kerrey sẽ tạo ra một sự “hẫng hụt” (như “anti-climax”).

Tuy chưa thay đổi được bức tranh nhân quyền tại Việt Nam, nhưng Obama đã đem lại hy vọng đổi mới cơ bản và lâu dài tại Việt Nam, nếu hai nước bắt tay hợp tác chiến lược để đối phó với mối đe dọa của Trung Quốc tại Biển Đông. TPP và quan hệ đối tác chiến lược sẽ hậu thuẫn cho thay đổi thể chế và nhân quyền (như đã hóa giải vấn đề MIA trước đây). Muốn hay không, quá trình đổi mới sẽ diễn ra theo quy luật (“đầu xuôi đuôi lọt”).

Câu chuyện Donald Trump và nước Mỹ

Tại sao đa số cử tri Mỹ bỏ phiếu cho Donald Trump, một tỷ phú lỗ mãng có xu hướng bảo thủ cực đoan, trở thành ứng cử viên đảng Cộng Hòa? Không phải vì người Mỹ quá yêu quý ông này mà chủ yếu vì họ quá chán ghét những ông kia, (thuộc “establishment”). Tuy xu hướng cử tri (lòng dân) đã thay đổi, nhưng lãnh đạo đảng Cộng Hòa và các chuyên gia (pundits) vẫn vô cảm và chủ quan coi nhẹ, trong khi đó Donald Trump và những người ủng hộ đã nhạy cảm hơn, nắm bắt được xu hướng cử tri, nên giành được nhiều phiếu hơn.

Nói cách khác, cử tri Mỹ đã nhiều lần cảnh cáo đảng Cộng Hòa (và cả Dân Chủ) bằng phong trào “chiếm phố Wall” (occupy Wall street) hay phong trào “tiệc trà” (Tea Party), nhưng dường như họ vẫn vô cảm. Khi lãnh đạo đảng Cộng Hòa tìm cách ngăn chặn Donald Trump thì đã quá muộn. Đảng Cộng Hòa thất bại là cái giá phải trả cho thái độ vô cảm đó. Nhưng nếu Donald Trump trở thành tổng thống Mỹ thì có thể là tai họa. Ông ấy có thể đưa nước Mỹ trượt theo xu hướng “biệt lập” (isolationism), quay lưng lại với TPP và “Pivot”.

Hillary Clinton là một sự lựa chọn tốt hơn, tuy con đường đến Nhà Trắng còn nhiều trở ngại và góc khuất (như hồ sơ Benghazi và sử dụng email cá nhân). Việc thắng cử (primary) để trở thành ứng cử viên đảng Dân Chủ chưa thể đảm bảo thắng lợi. Muốn đánh bại được Donald Trump, Hillary Clinton phải thay đổi hình ảnh và chiến lược để thuyết phục và giành được phiếu của giới trẻ “thiên niên kỷ” (Millenials). Dù Hillary Clinton có được Tổng thống Obama ủng hộ, thì khả năng thắng cử không hề dễ, chỉ vì bà là… Hillary Clinton!

Câu chuyện “Terror in Little Saigon”

Chắc nhiều người còn nhớ, khi bộ phim “Terror in Little Saigon” (của Frontline & ProPublica) được PBS công chiếu (12/2015) thì tranh cãi lại nổ ra trong cộng đồng người Việt tại Mỹ liên quan đến vụ giết hại 5 nhà báo gốc Việt bị nghi là do tổ chức “K-9” của “Mặt trận” Hoàng Cơ Minh (tiền thân của đảng Việt Tân) gây ra, để bịt miệng và răn đe những nhà báo đi tìm sự thật về những hoạt động mờ ám của tổ chức này (giai đoạn 1981-1990).

Câu chuyện đau buồn này vẫn chưa kết thúc, vì Nguyễn Thanh Tú (con trai một nhà báo bị giết hại) đang thu thập chứng cứ để khởi kiện, và yêu cầu FBI mở lại cuộc điều tra, với sự ủng hộ của Ủy ban Bảo vệ Nhà báo (CPJ). Điều đáng nói là điều tra trước đây của FBI đã bị đình chỉ, không có kết luận. Vì những lý do “nhạy cảm”, chính quyền Mỹ và cộng đồng người Việt đã im lặng (vô cảm) trước cái chết bí ẩn của các nhà báo gốc Việt, vì họ theo đuổi tự do ngôn luận, nên đã bỏ mạng vì khủng bố ngay trên đất Mỹ, như nạn nhân của bạo lực.

Nếu đủ chứng cứ, liệu FBI có mở lại cuộc điều tra một cách khách quan hay không là một phép thử đối với nền dân chủ và luật pháp Mỹ. Điều này có ý nghĩa không chỉ ổn định tâm lý cộng đồng người Việt tại Mỹ, mà còn củng cố lòng tin chiến lược cho quan hệ Việt-Mỹ trong bối cảnh khủng hoảng an ninh (và chiến tranh lạnh mới) tại Biển Đông.

Câu chuyện cá chết và Formosa

Hơn hai tháng qua, người Việt vẫn đang bị mắc kẹt trong câu chuyện cá chết hàng loạt tại Miền Trung gây thảm họa môi trường và khủng hoảng chính trị, làm bầu không khí bị đầu độc không kém gì nước Biển Đông bị nhiễm độc. Sự bất cập về truyền thông và lúng túng về xử lý khủng hoảng bộc lộ sự yếu kém và bế tắc về giải pháp, làm người dân lo lắng và bức xúc. Họ càng bất bình và phẫn nộ trước thái độ vô cảm của chính quyền đối với thảm cảnh của ngư dân và biện pháp trấn áp bằng bạo lực đối với biểu tình ôn hòa, trong khi không có biện pháp điều tra thích đáng đối với Formosa là nghi phạm chính. Trong bối cảnh thảm họa môi trường lớn đang de dọa cuộc sống của hàng triệu người gây khủng hoảng lòng tin, không thể đòi hỏi dân chúng bình tĩnh ngoan ngoãn ngồi yên chờ chính phủ giải quyết.

Câu chuyện Vũng Áng và Formosa làm bộc lộ không chỉ sự bất cập lớn về chủ trương đầu tư và bảo vệ môi trường, mà còn bất ổn lớn về lòng tin của dân chúng, là chỗ dựa chiến lược cho an ninh quốc gia và “quốc phòng toàn dân”. Điều này ảnh hưởng nhiều đến hình ảnh đất nước và lòng tin của cộng đồng quốc tế. Bên cạnh quan hệ công chúng tồi, công tác truyền thông cũng kém. Chương trình “đối thoại” (talk show) trên VTV “60 phút mở” (bắt chước chương trình “60 minutes” của CBS News) là một cố gắng cải tiến format có ích, nhưng lại vụng về (như “đấu tố”) nên đổ thêm dầu vào lửa, làm công chúng bất bình “ném đá”. Không chỉ những người làm chương trình vô cảm trước tâm trạng bức xúc của công chúng, mà đa số công chúng cũng cực đoan “ném đá” vùi dập một chương trình mới có ích.

Thay lời kết

Tại sao người dân Hà Nội và Sài Gòn đổ xô ra đường chào đón Obama như người thân (dù Mỹ từng là kẻ thù “nợ máu”), trong khi họ quay lưng lại với Tập Cận Bình như kẻ xa lạ (dù Trung Quốc là bạn vàng “bốn tốt”). Không phải vì họ yêu Mỹ hay ghét Tàu, mà đơn giản vì họ cảm nhận được sức mạnh mềm và dị ứng với sức mạnh cứng. Cũng như người Mỹ, họ chỉ muốn thay đổi cho dễ sống hơn. Vì vậy, hãy tìm cách hóa giải tâm trạng bất an và bức xúc của người dân để khôi phục lòng tin và làm chuyển hóa thái độ vô cảm và cực đoan của chính quyền, một nhân tố cản trở quá trình hòa giải cộng đồng, hội nhập quốc tế và đổi mới thể chế.

NQD. 10/6/2016

VEPR: Ngân sách chi 14.000 tỷ đồng mỗi năm ‘nuôi’ các tổ chức đoàn thể



Tác giả: Thanh Thanh Lan
.

.
Tổng chi phí xã hội cho các tổ chức quần chúng công ước tính khoảng 1,7% GDP, trong đó riêng ngân sách Nhà nước phải bỏ khoảng 14.000 tỷ – gấp đôi dự toán cho Bộ Giáo dục, Y tế và gấp 5 cho Khoa học Công nghệ.

Ngân sách bội chi 3 tỷ USD sau 5 tháng / Ngân sách chi hơn 64.000 tỷ đồng trả nợ và viện trợ


Báo cáo ước lượng chi phí kinh tế cho các tổ chức quần chúng công được nhóm chuyên gia của Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) cho thấy các đơn vị này được phân bổ lượng ngân sách lớn, hưởng nhiều ưu đãi nhưng hiệu quả hoạt động vẫn còn bỏ ngỏ. Theo đó, VEPR đã nghiên cứu, hệ thống hóa toàn cảnh sử dụng ngân sách của 6 tổ chức quần chúng công gồm: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, Đoàn thanh niên và Công đoàn.



Mỗi năm ngân sách dành hơn 14.000 tỷ đồng để bao cấp, hộ trợ cho các tổ chức quần chúng công, cao hơn nhiều so với chi tiêu cho giáo dục. Ảnh: Lê Hoàng.




Các tổ chức trên được nhà nước bao cấp hoặc hỗ trợ bằng ngân sách, và hưởng nhiều đặc quyền từ vị trí của mình trong xã hội. Theo ước tính của nhóm nghiên cứu, toàn bộ chi phí xã hội cho các tổ chức này tương đương 1-1,7% GDP của cả nước. Cụ thể, chi phí kinh tế của xã hội cho hệ thống các tổ chức quần chúng công hằng năm dao động từ 45.600 tỷ đến 68.100 tỷ đồng, trong đó chi ngân sách Nhà nước ước khoảng 14.023 tỷ đồng.

Như vậy, nếu so với dự toán chi tiêu năm 2016, số tiền ngân sách “nuôi” các tổ chức này thậm chí còn nhiều hơn hẳn con số 11.366 tỷ đồng cho Bộ Nông nghiệp và gấp đôi số chi dự tính cho Bộ Y tế, Bộ Giáo dục. Thậm chí, nếu so với các ngành như Bộ Văn hóa – Thể thao – Du lịch và Khoa học Công nghệ, số tiền này còn lớn gấp 5 lần.

Tuy vậy, theo đánh giá của VEPR, cơ chế phân bổ ngân sách cho hệ thống này vẫn chưa cụ thể, đặc biệt là ở hệ thống hội đặc thù. “Việc quyết định hội nào được nhận hỗ trợ từ nhà nước chưa có nguyên tắc rõ ràng, chưa có tiêu chí thống nhất, dễ dẫn đến tình trạng thiếu minh bạch, công bằng trong việc phân bổ ngân sách”, các chuyên gia của VEPR nói.

Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, tỉnh, thành phố có quy mô kinh tế càng lớn, chi cho các tổ chức quần chúng công càng nhiều. Điều này có thể xuất phát từ thực tế rằng khoản chi này phụ thuộc vào mức thu, phân bổ ngân sách từ trung ương của địa phương đó. Quan sát cho thấy Hà Nội và TP. HCM là vùng có số lượng chi cho các tổ chức quần chúng công lớn nhất.

Không chỉ vậy, VEPR cũng nhìn nhận, các tổ chức này đang rơi vào một quá trình Nhà nước hóa, hành chính hóa khá mạnh, thể hiện ở bộ máy biên chế cồng kềnh, thiếu linh hoạt, chồng chéo trong hoạt động. Thêm vào đó, mô hình tổ chức hoạt động còn chưa thích ứng với sự phát triển của xã hội,

Do đó, nhóm nghiên cứu của VEPR đề xuất, cần xây dựng một Luật riêng về các tổ chức quần chúng công, hoặc một phần quan trọng trong Luật về hội nói chung. Bên cạnh đó, các chuyên gia cũng cho rằng cần các tổ chức này công khai, minh bạch chi tiêu trong báo cáo tài chính trước ban giám sát và công chúng. “Cần phải có cơ chế giám sát, chất vấn hoạt động tài chính. Mặt trận tổ quốc Việt Nam, với tư cách là liên minh chính trị của các tổ chức trên, nên đảm trách nhiệm vụ này”, các tác giả của báo cáo đề xuất.

http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/vi-mo/vepr-ngan-sach-chi-14-000-ty-dong-moi-nam-nuoi-cac-to-chuc-doan-the-3417602.html

Linh sam SH ghép lũa - giá 650k



Linh sam SH ghép lũa - giá 650k -ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh

https://www.facebook.com/Bonsaivanphong-1689990287898699/

Thứ Sáu, 10 tháng 6, 2016

Chuổi ngọc -giá 150k-


https://www.facebook.com/Bonsaivanphong-1689990287898699/

Chuổi ngọc - 150k-ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh


Bán sỉ và lẻ

Sơn Liễu- giá 650k


Sơn Liễu- giá 650k-ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh


https://www.facebook.com/Bonsaivanphong-1689990287898699/