" Cả cuộc đời ba không có gì để lại cho các con ngoài số vốn kiến thức mà ba mẹ tảo tần nuôi các con ăn học.Mong các con trở thành những người hữu ích cho xã hội" ( trích từ TT "Vững Niềm Tin")
Thứ Sáu, 3 tháng 6, 2016
LUẬN VỀ CỜ
BS Nguyễn Văn Thịnh
Người Việt xưa không có khái niệm “quốc kỳ”. Bà con thường gọi “cờ vua” biểu trưng cho một hoàng triều và “cờ xí” biểu trưng cho một đạo quân. Cờ và xí thường có ký tự bằng chữ Hán. Trong các dịp lễ hội còn được trang trí bằng những lá cờ vuông ngũ sắc có diềm tua và những giải phướn đủ màu.
Sau khi Pháp bình định xong Đông Dương, lá cờ tam tài ra đời từ thời cách mạng 1789 ngạo nghễ phủ khắp xứ Đông Pháp xa xôi. Sang thế kỷ XX mới thấy xuất hiện những lá cờ biểu trưng một đoàn thể, một chính thể, một vùng lãnh thổ hay một quốc gia. Để tìm hiểu xuất sứ và ý nghĩa của những lá cờ xuất hiện trong lịch sử Việt Nam cận hiện đại, người viết sưu tra tư liệu, đọc hồi ký của nhiều nhân vật lịch sử, tham khảo ý kiến của hiếm hoi vị lão niên từng là chứng nhân qua các thời kỳ, giới thiệu với bạn đọc. Dù chưa thỏa ý nhưng chí ít cũng giúp bạn đọc hiểu được phần nào.
1/ Cờ đỏ sao vàng:
Khởi thủy, lá “cờ đỏ sao vàng” (ngôi sao năm cánh nằm chính giữa) xuất hiện trong cuộc khởi nghĩa Nam kỳ 1940 lúc ấy là xứ trực trị của Pháp. Dù bị dìm trong biển máu nhưng lá cờ thật sự là biểu tượng của truyền thống yêu nước Việt Nam, ý chí đoàn kết đấu tranh giành thống nhất non sông, độc lập quốc gia và chủ quyền dân tộc. Theo Sơn Tùng thì tác giả của lá cờ là nhà cách mạng Nguyễn Hữu Tiến, quê Nam Định, là một trong tám chiến sỹ bị giặc tử hình ở Ngã ba Giồng. Theo Lê Tú Lệ thì tác giả là nhà cách mạng Lê Quang Sô, quê Mỹ Tho. Việc xác minh những sự kiện lịch sử trong điều kiện hết sức khắc nghiệt thật vô cùng khó khăn vì sự việc phải giữ kín tuyệt đối mà chứng nhân phần lớn đã hy sinh và người còn lại thì khiêm nhường không muốn kể công mình. Cách mạng tháng Tám thành công, Quốc hội của nước Việt Nam độc lập, thống nhất họp kỳ đầu tiên vào ngày 2/3/1946, quyết định lấy tên nước là VNDCCH; cũng như sau chiến thắng vĩ đại của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Quốc hội khóa VI họp ngày 24/6/1976, quyết định đổi tên nước là CHXHCNVN và đều nhất trí lấy lá “cờ đỏ sao vàng” làm biểu tượng quốc gia và bài hát “Tiến quân ca” của Văn Cao làm quốc ca như đề xuất trước đó tại Hội nghị quốc dân họp ở Tân trào chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay ngoại bang xâm lược.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Lá cờ đỏ sao vàng đã thấm máu đồng bào ta trong Nam kỳ khởi nghĩa”. Một bài hát giải thích ý nghĩa của ngôi sao năm cánh là: “Sỹ-Nông-Công-Thương-Binh hợp lực xây nước nhà”. Dưới ngọn cờ ấy toàn dân Việt Nam “thề đem xương máu hết lòng chiến đấu cho tương lai”, đã lập nên bao chiến công kỳ tích để có được một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập hôm nay. Lúc đầu, một số người cực đoan quyết liệt phản đối, tới mức đòi tử hình người “vẽ” ra lá “cờ đỏ có sao vàng năm cánh” vì theo họ, cờ cách mạng chỉ có thể là “cờ đỏ búa liềm” (1a) biểu trưng của phong trào cộng sản quốc tế! Nhưng rồi cũng qua. Lá “cờ đỏ sao vàng” theo cao trào cách mạng từ Nam ra Bắc, lại từ Bắc vào Nam.
Vượt bao gian khó hy sinh, năm 1945, kết thúc gần một trăm năm mất nước, lá cờ tung bay trên khắp non sông Việt Nam thống nhất và độc lập; năm 1954, lá cờ được giương cao trên chiến trường Điện Biên Phủ vang động địa cầu, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp; và năm 1975, Sài Gòn ngợp trời cờ đỏ sao vàng, chứng kiến sự bất lực của đội quân viễn chinh hùng hậu nhất trong lịch sử loài người cùng với đội quân tay sai hàng triệu người thảm bại, trước sự kính phục của nhân dân yêu chuộng tự do công lý trên toàn thế giới. Trong lịch sử Việt Nam, đó là lá cờ duy nhất biểu tượng cho một nước Việt Nam thống nhất và độc lập. Trong lịch sử loài người có lá cờ nào biểu trưng cho lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh quật cường kiên trì giành độc lập tự do, lại trải qua bão táp phong ba, thăng trầm mà oanh liệt vẻ vang như thế?
2/ Cờ long tinh:
Sang đầu thế kỷ XX, sau khi bình định xong xứ viễn đông, người Pháp thành lập Liên bang Đông Dương còn gọi là Đông dương thuộc Pháp, gồm các vùng lãnh thổ: Bắc Kỳ (Tonkin), Trung Kỳ (An Nam), Nam kỳ (Cochinchine), Campuchia, Lào, và Quảng Châu Loan (nhượng địa của nhà Thanh). Hà Nội được đặt làm thủ phủ xứ Đông Pháp xa xôi này. Riêng ba vùng lãnh thổ An Nam, Campuchia và Lào, được người Pháp cho duy trì chế độ quân chủ dù chỉ là về hình thức vì trên mỗi ông vua còn có một nhiếp chính quan người Pháp gọi là Khâm sứ quyết định mọi việc kể cả đặt ai ngồi trên cái ngai hoàng đế. Họ để cho mỗi vương triều được có một lá cờ làm biểu tượng riêng. Cụ thể hoàng triều An Nam kể từ đời vua Thành Thái (1889-1907) có “long tinh kỳ” (hai giải bên màu vàng, giải giữa màu đỏ), mang ý nghĩa trên đất hoàng triều này có dòng máu của người Lạc Việt. Người viết may mắn được nghe vị giáo sư lão thành khả kính, người gốc Huế hát cho nghe một đoạn bài quốc ca “Đăng đàn cung” như sau: “Kìa núi vàng biển bạc/ Đã có sách trời định phân/ Một dòng ta gây non sông vững chắc/ Đã ba ngàn mấy trăm năm/ Nước non cùng một nhà con Hồng cháu Lạc/ Văn minh đào tạo màu phấn hoa còn đượm/ Rạng vẻ dòng giống tiên long/ Ấy công dựng từ ngàn xưa đã khó nhọc….”. Thực sự“long tinh kỳ” chỉ được thượng lên tại hoàng thành và vùng lãnh thổ Trung kỳ hoặc theo nhà vua mỗi khi xa giá, nên chỉ xuất hiện đôi lần ở Bắc kỳ, chưa từng xuất hiện ở Nam kỳ. Vì thế “long tinh kỳ” không thể là biểu trưng cho một quốc gia Việt Nam thống nhất và độc lập.
3/ Cờ quẻ ly:
Thời kỳ đầu của Thế chiến II, chính quốc Pháp mau chóng đầu hàng phát xít Đức, thì chính quyền thực dân ở Đông Pháp xa xôi cũng mở rộng cửa rước quân phát xít Nhật vào! Để rảnh tay lo việc chiến tranh, Nhật sử dụng Đông Dương như một căn cứ tiền phương mở đường hành quân và cung cấp hậu cần cho vùng Đông Nam Á. Bộ máy cai trị thực dân ở đây muốn tồn tại phải phục vụ đắc lực ý đồ của Nhật. Chính quyền tay sai bản sứ nhẫn nhục cam phận bù nhìn. Nhân dân Đông Dương lâm vào cảnh một cổ hai tròng, càng thêm điêu đứng! Vào cuối cuộc Thế chiến II, nước Pháp được quân Đồng minh giải phóng. Không chịu để bị đâm từ phía sau lưng nên ngày 9/3/1945 phát xít đảo chính thực dân. Trong thế cờ tàn, Nhật bày trò trao trả độc lập cho mấy nước Đông Dương. Hoàng đế Bảo Đại đưa ra lời tuyên cáo hão huyền thoát ly hoàn toàn khỏi mọi ràng buộc của thực dân Pháp, kiến tạo nền độc lập của cái gọi là đế quốc Việt Nam, dù trên ngài vẫn là bộ máy cai trị của Nhật thay thế hoàn toàn ách cai trị của Pháp trước kia? Ngày 17/4 dưới sức ép của Nhật, học giả Trần Trọng Kim đứng ra thành lập chính phủ. Vua nào tôi nấy, nhà nho đầy bụng chữ mà mụ mẫm ra lời tuyên cáo với đồng bào: “Quốc dân phải cố gắng sức làm việc, chịu nhiều hy sinh hơn nữa và phải thành thật hợp tác với nước Đại Nhật Bản”! Trước đó, tháng 2/1945, Thủ tướng Nhật Bản – Hoàng tử Fumimaro Konoe, đã viết thư cho Hoàng đế Hirohito, “Nhi thần rất tiếc phải kính bẩm với Đức Kim Thượng rằng thất bại của Nhật Bản là không thể tránh khỏi”! Ông Lưu Văn Lang, người mà giới trí thức Nam kỳ nể trọng như bậc đàn anh, từ chối thẳng thừng khi được mời tham gia chính phủ: “Tôi già rồi không thể làm tay sai cho ai được nữa!”.“Cờ quẻ ly” (tượng trưng cho lửa, chỉ sự sáng suốt của đấng quân vương) thay thế “cờ long tinh” cũng không cứu nổi đứa hài nhi lọt lòng lúc mẹ nó đang hấp hối! Tuy nhiên cũng có một số trí thức muốn giúp đồng bào trong lúc quốc gia hữu sự. Song lúc này, nước Nhật đã kiệt quệ lại bị người Mỹ dội hai trái bom nguyên tử đẩy nhanh quá trình suy sụp. Quân đội Mỹ đặt được chân lên đất Nhật, cùng lúc Hồng quân Liên Xô đánh tan đội quân Quan Đông, chiếm được vùng lãnh thổ Mãn Châu rộng lớn. Trong khi tại Việt Nam, thừa cơ lúc quân Pháp bỏ chạy, quân Nhật đầu hàng, chính quyền phong kiến bản địa gần như tê liệt, phong trào Việt Minh phát triển nhanh và rộng khắp, lôi cuốn nhân dân Việt Nam nhất tề đứng lên tự giải phóng mình. “Quẻ ly” (có ba sọc đỏ mà sọc giữa thì đứt ra làm hai khúc) bị người Huế biếm ngôn là “vương rút ruột”, ám chỉ một thực tế là vương triều Nguyễn lúc đó chẳng còn giá trị gì! Ngày 31/8/1945, lễ thoái vị của vua Bảo Đại tại quảng trường Ngọ môn, trước quốc dân đồng bào, nhà vua tuyên bố: “Trẫm quả quyết thoái vị để nhường quyền điều khiển quốc dân lại cho một Chính phủ dân chủ cộng hòa”. Lá “cờ quẻ ly” bị kéo xuống và thay thế bằng lá “cờ đỏ sao vàng” trước sự hân hoan phấn chấn của hàng vạn người dân, chứng kiến sự chấm dứt của chế độ phong kiến hàng ngàn năm và hàng trăm năm của một vương triều nô lệ tay sai.
1- Cờ đỏ sao vàng
1a- Cờ đỏ búa liềm
2- Cờ long tinh
3- Cờ quẻ ly
4/ Cờ Thanh niên tiền phong:
Khi Thế chiến thứ II sắp kết thúc, phát xít Nhật ngoài trò trao trả độc lập cho mấy nước Đông Dương, còn muốn nắm lực lượng thanh niên để phục vụ cho mưu đồ riêng của chúng.
Theo hồi ký của Trần Văn Giàu thì Thống đốc Nhật ở Nam kỳ là Minoda và Tổng lãnh sự là Ida mời bác sỹ Phạm Ngọc Thạch và kỹ sư Ngô Tấn Nhơn đứng ra tổ chức. Bọn Nhật hoàn toàn không biết Phạm Ngọc Thạch là đảng viên cộng sản và càng không biết đứng sau anh là Xứ ủy Nam kỳ đang tìm kiếm một hình thức tổ chức công khai trong hoạt động thể thao văn hóa của thanh niên không đi theo phương hướng Đại Đông Á, mà nằm trong phương hướng chính trị yêu nước và độc lập dân tộc. Cũng phải nói thật nếu không được Hà Huy Giáp và Trần Văn Giàu đồng ý thì bác sỹ Thạch chẳng chịu đứng ra tổ chức thanh niên Nam kỳ theo đề nghị của Nhật đâu. Mà dầu có đứng ra làm thì cũng không gây được một phong trào rộng lớn. Và nếu việc quan trọng đó không được một đồng chí có nhân cách, tài ba như Phạm Ngọc Thạch và các bạn thân thiết của anh đứng ra phụ trách, tập hợp thanh niên thì Xứ ủy cũng không biết lấy ai đảm nhiệm công việc lớn lao này. Tháng 5/1945, tại vườn Ông Thượng Sài Gòn, tổ chức Thanh niên tiền phong do Xứ ủy gợi ý ra đời với một ban lãnh đạo đầy uy tín, có nhiều khả năng. Thanh niên tiền phong tuyên bố mang “tinh thần mới, theo mục đích mới”, lấy “cờ nền vàng sao đỏ” làm biểu tượng và hoạt động rất sôi nổi, cuốn hút giới thanh niên.
5/ Cờ Thanh niên tiền tuyến:
Cùng thời gian đó, ở Trung kỳ, nhà cầm quyền Nhật cũng vận động luật sư Phan Anh và giáo sư Tạ Quang Bửu đứng ra lập thanh niên. Ông Phan là Bộ trưởng Thanh niên trong chính phủ Nam triều; ông Tạ là thầy giáo với tài năng và tinh thần yêu nước, có ảnh hưởng rất lớn trong giới học sinh ở Huế. Hai ông mở trường “Võ bị thanh niên tiền tuyến”, mời ông Phan Tử Lăng – chỉ huy lực lượng Bảo an binh ở Trung kỳ, làm Hiệu trưởng. Nhà trường kêu gọi: “Đất nước ta sẽ rất cần thanh niên có học, có hiểu biết về quân sự” và hứa: “Học xong không bắt buộc ra làm việc cho chính phủ”. Số người ghi danh vào học khá đông, có cả một số sinh viên từ Hà Nội vào theo học. Lá “cờ quẻ kiền” (nền vàng ba sọc đỏ, tượng trưng cho người quân tử), được lấy làm biểu tượng của thanh niên Võ bị. Người viết có cơ may được vị lão tướng quân đậu thủ khoa tú tài Toán tại trường Quốc học Huế năm 1945, dự học khóa đầu tiên của trường Võ bị, kể rằng:
Lúc ấy phong trào Việt Minh lan rộng khắp miền Trung. Ngày 5/8, chính phủ Trần Trọng Kim đổ, nhưng trước đó giáo sư Tạ Quang Bửu và ông Phan Tử Lăng đã tiếp xúc với Việt Minh Nguyễn Tri Phương (Huế). Trường Võ bị hầu như đã được Việt Minh hóa. Số vũ khí của nhà trường coi như đã nằm trong tay quân cách mạng. Học sinh của trường chủ yếu là con em các gia đình trong phố, có học thức, có đạo đức và hoạt động rất sôi nổi nhiệt tình, được nhân dân Huế tin tưởng, thương yêu. Cách mạng thành công, đổi tên là “Trường võ bị Thuận Hóa” và mở rộng thành phong trào “Thanh niên tiền tuyến”, góp phần đẩy mạnh phong trào “Nam tiến” sôi động trong cả nước, bổ sung tiếp ứng kịp thời cho mặt trận phía Nam. Cuộc trường kỳ kháng chiến giành thống nhất, độc lập kết thúc thắng lợi, tám học viên khóa đầu của Trường võ bị được phong quân hàm cấp tướng.
Điều cần lưu ý bạn đọc là nhiều đoàn viên tích cực của phong trào thanh niên Tiền phong và Tiền tuyến là những “tráng sinh” của tổ chứcHướng đạo sinh do nhà giáo Hoàng Đạo Thúy xuất thân từ một gia tộc nho giáo có truyền thống yêu nước, sáng lập ra từ năm 1930. Hoạt động phong phú của phong trào rất hấp dẫn giới thanh niên. Số đông thanh niên học thức này đều trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ và nhiều vị trở thành những cán bộ cao cấp trong các lĩnh vực quân sự, khoa học, văn hóa và giáo dục. Trước mắt là từ những phong trào này đã đào tạo ra nhiều cán bộ làm nòng cốt trong việc xây dựng và phát triển lực lượng võ trang cách mạng ở Nam bộ và Trung bộ hồi đầu kháng chiến.
Nước nhà vừa độc lập thì bước ngay vào cuộc kháng chiến từ Nam lan nhanh ra Bắc. Tổ chức thanh niên Tiền phong và Tiền tuyến chấm dứt vai trò lịch sử, hợp nhất vào tổ chức “Thanh niên cứu quốc” trong“Mặt trận Việt minh”.
4-Cờ Thanh niên tiền phong
5 và 6- Cờ quẻ kiền - Cờ quốc gia
7- Cộng hòa Nam Kỳ quốc
8- Cờ Hoàng triều cương thổ
9- Cờ giải phóng
6/ Cờ quốc gia:
Trước khi quân Pháp mở rộng chiến tranh xâm lược ra Bắc kỳ, cố vấn Vĩnh Thụy được cử đi công cán ở nước ngoài để tranh thủ dư luận thế giới ủng hộ Việt Nam nhưng đã đào tẩu, ở lại Hồng Kông. Chủ trương“Tốc chiến tốc thắng” thất bại, buộc quân viễn chinh phải chuyển sang đánh lâu dài với chiến lược “Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh – Dùng người Việt đánh người Việt”. Giữa năm 1948, nhằm gạt bỏ chính phủ kháng chiến Hồ chí Minh ra, tìm đại diện cho nhân dân Việt Nam theo ý của mình, Pháp ký với đại diện của Bảo Đại cái hiệp định Hạ Long, công nhận nền độc lập của Việt Nam (?) nằm trong khối Liên hiệp Pháp.
Mối tình chủ tớ gá cạp dễ hợp dễ tan! Ông chủ lôi từ tay áo ra cái chính phủ Việt Nam thống nhất lâm thời, do Nguyễn Văn Xuân làm thủ tướng. Ông tướng thuộc địa này quên hết tiếng mẹ đẻ, chỉ biết nói tiếng vợ đầm. Trong đám quân sư có người từng tham gia các phong trào thanh niên ở Sài Gòn và Huế đề xuất phục dựng lá “cờ quẻ kiền” (nền vàng có ba sọc đỏ) làm quốc kỳ và lấy bài hát “Tiếng gọi thanh niên” của Lưu Hữu Phước nghe hào hùng khí thế làm quốc ca.
Đám quân sư hưởng ứng tán vào: Màu vàng gợi nhớ thuở hoàng triều và “quẻ kiền” tượng trưng người quân tử trọng điều nghĩa hiệp! Ba sọc là ba dòng máu Bắc-Trung-Nam hợp lại, người theo Chúa thì nghĩ tới ba ngôi trong kinh Thánh… Ông Thủ tướng mất gốc chỉ biết nghe và gật. Ngồi chưa nóng chỗ, ông chủ lại đặt Bảo Đại lên ngai Quốc trưởng kiêm luôn vai Thủ tướng! Cái gọi là “Quân đội quốc gia” gấp rút được nặn ra. Với lệnh Tổng động viên, học sinh trung học ở các thành thị trong vùng tạm chiếm bị dồn vào các trường sỹ quan trù bị Nam Định, Thủ Đức và Võ bị Đà Lạt. Từng được theo học trường chính trị ở nước mẹ Đại Pháp nhưng vốn tính háo sắc, mê bài bạc và ham săn bắn, chuyện chính sự đã có “mẹ” lo, cựu vương chẳng quan tâm! Đúng như nhận xét của ông Nguyễn Cao Kỳ: “Là một người dễ dãi, ít yêu sách đòi hỏi cho quyền lợi của người Việt và nuôi vài hy vọng hão huyền, Bảo Đại hoàn toàn không có khả năng cầm quyền”. Lá “cờ quẻ kiền”đương nhiên đại diện cho chính thể quốc gia trong hoàn cảnh ấy. Từ đấy nó hết đi sau những lá “cờ tam tài” rồi lá “cờ hoa” trong những cuộc trà sát khủng bố của quân ngoại bang xâm lược trên khắp đất nước ta.
Gần ba mươi năm sau, hết trào thuộc Pháp tới trào thuộc Mỹ, hết thể chế phong kiến rồi qua thể chế cộng hòa mà chưa có văn bản pháp quy nào hợp hiến xác nhận quốc kỳ với quốc ca biểu trưng cho một quốc gia!
Lá cờ với bài ca vốn ra đời từ phong trào yêu nước sôi nổi chống ngoại xâm nhưng đã bị đánh tráo để thành phản bội mục tiêu chân chính của những chủ nhân đích thực! Bà con ta mỉa mai gọi là “cờ ba que” như cách nói nhạo báng dân gian. Chiến tranh càng kéo dài, hận thù càng sâu. Cái danh “quốc gia”, “cộng sản” càng bị ngộ nhận và xuyên tạc. Kết cục là ngày 30/4/1975, trong khi lá “cờ hoa” được viên đại sứ già xếp vội vào cặp, ôm chặt vào lòng cùng con chó cưng lên máy bay lao ra tàu đợi ở ngoài khơi, thì bà con ta ở phía nam khắp chợ cùng quê chứng kiến cảnh lá “cờ quốc gia” tả tơi nhàu nát nằm lẫn lộn trong những đống vũ khí, quân dụng, áo quần, giầy mũ… rải khắp đường mòn, lộ lớn, những bãi trống, những bến tàu xe… giữa hàng triệu sỹ quan, binh lính quân lực Việt Nam cộng hòa mình trần chân đất tranh nhau tháo chạy!
7/ Cờ Nam kỳ quốc:
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, nhân dân ta giành lại độc lập thống nhất giang sơn. Dù đã yếu thế trong khối đồng minh nhưng thực dân Pháp vẫn dã tâm tái chiếm Việt Nam. Năm 1946, trong khi đại diện chính quyền Việt-Pháp đang bàn việc kiến tạo hòa bình và nối tình hữu nghị giữa hai dân tộc thì thế lực hiếu chiến Pháp cho ra đời cái gọi là Cộng hòa Nam Kỳ quốc, với lá cờ biểu trưng “hai giải vàng kẹp giải trắng ở giữa có ba sọc xanh” đại diện cho ba con sông Tiền, sông Hậu và sông Đồng Nai – huyết mạch của vùng lục tỉnh, nơi trước đó gần một trăm năm, Phan Thanh Giản đã lừa vua dối dân cắt dâng cho giặc! Cái chính phủ này người Việt Nam coi chẳng ra gì! Chỉ sau mấy tháng, ông bác sỹ Thủ tướng chết treo ngay tại phòng mạch của mình lấy làm Văn phòng chính phủ ở giữa Sài Gòn mà chẳng ai cần biết vì lý do gì! Đầu năm 1949, ông chủ lại bày trò ký hiệp định Élysée, giải thể cái Nam kỳ quốc, trao cho Bảo Đại một quốc gia Việt Nam gọi là đã hoàn toàn thống nhất! Sự thật lịch sử là trong năm 1945, đất Nam kỳ đã ba lần đổi chủ: Đầu tháng 3, Nhật đảo chính Pháp, lấy gọn Việt Nam trong đó có cả Nam kỳ, giao cho Nam triều. Ông vua An Nam mơ được tháo cũi sổ lồng dù biết nền độc lập ấy chỉ là giả hiệu! Hai tháng sau Nhật thua trận, quân Đồng minh ở phía Nam là Anh-Ấn, ở phía Bắc là Tàu, vào giải giáp đám hàng binh Nhật đưa về cố quốc! Nhân dân Việt Nam ủng hộ và hợp tác với Đồng minh, gặp vận hội kết đoàn vùng lên tự giải phóng mình. Ngày 31/8, Tại Huế, trước thần dân trăm họ, vị hoàng đế giãi tỏ nỗi lòng: “Sau hai mươi năm ngai vàng bệ ngọc, đã biết bao ngậm đắng nuốt cay. Từ nay Trẫm lấy làm vui được làm dân tự do của một nước độc lập”. Ngày 2/9, giữa thủ đô Hà Nội, trước hàng chục vạn công chúng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân danh Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam phát lời Tuyên ngôn độc lập: “Sự thật là nhân dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp… Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập.”. Nhân dân cả nước và thế giới đều nghe. Nước Việt Nam thật sự đã là của người Việt Nam. Người Pháp không còn cơ sở pháp lý nào dính dấp đến xứ sở xa xôi này nữa. Tổng thống Pháp trao cho Quốc trưởng bù nhìn của ăn cướp mà họ không giữ được! Ngài Quốc trưởng đa tình ôm vào lòng cái bóng mỹ nhân!
8/ Cờ Hoàng triều cương thổ:
Quốc sách của quân xâm lược thời nào cũng thế: vừa dùng vũ lực vừa thực hiện chính sách chia để trị. Năm 1948, quân chiếm đóng Pháp dựng lên tại biên giới tây-bắc một khu gọi là Liên bang Thái tự trị gồm các cư dân Thái, Lôlô, Hmông… Năm 1950, sáp nhập thêm cao nguyên Trung phần, gọi chung là Hoàng triều cương thổ, lấy biểu tượng lá “cờ hai giải bên màu lam, kẹp giải trắng giữa có ngôi sao đỏ 16 cánh”. Mỗi cánh biểu thị một vùng thổ cư các sắc tộc sinh sống giữa núi rừng xa xôi trùng điệp. Cờ chỉ được treo tại mấy trại lính thổ dân vùng sơn cước. Năm 1955 khi quân Pháp rút khỏi Việt Nam thì đám tàn quân thổ phỉ này bầy đàn tan tác. Lá cờ ấy quăng ở sườn đồi khe suối nào không ai còn nghĩ tới!
9/ Cờ giải phóng:
Theo hiệp định Genève 1954, nước ta tạm chia làm hai miền, lấy vĩ tuyến 17 có sông Bến Hải làm giới tuyến và hai năm sau, hai miền Nam-Bắc sẽ tổ chức tổng tuyển cử thống nhất nước nhà. Năm 1956, chính quyền miền Nam được Mỹ hậu thuẫn, không chấp nhận hiệp thương tổng tuyển cử, mà lại ngang ngược hô hào “lấp sông Bến Hải” mở đường “Bắc tiến”. Để “giành lại chính nghĩa từ tay cộng sản”, họ ra sức đàn áp khốc liệt những người từng tham gia kháng chiến chống Pháp và đòi hòa bình thống nhất đất nước. Năm 1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, lấy biểu tượng lá “cờ giải phóng” (nửa xanh nửa đỏ, có ngôi sao vàng chính giữa), với sự hưởng ứng của nhiều nhà trí thức, tiêu biểu như Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát… Lá cờ tập hợp đông đảo dân chúng phía Nam. Được sự chia sẻ chi viện tối đa của hậu phương phía Bắc, sau 15 năm chiến đấu cực kỳ gian khổ mà anh dũng, lá cờ đã hoàn thành sứ mạng giải phóng miền Nam, hòa bình thống nhất nước nhà. Từ đây tổ quốc Việt Nam sang trang sử mới.
**Lời bàn:
Mỗi lá cờ đều có xuất xứ riêng, mang một ý nghĩa riêng và có tác động tới xã hội khác nhau. Hoàn cảnh đến dưới cờ của mỗi người một khác. Có thể là chủ động theo ý nguyện của mình, có thể là tình cờ hay do một sự đẩy đưa của số phận. Trong bối cảnh lịch sử khắc nghiệt đã qua, mỗi người không dễ chọn một lá cờ. Nhưng khi đất nước đã thống nhất độc lập rồi thì quốc kỳ không thể đại diện riêng của phe này phái nọ. Nó được định đoạt bởi quyền lực của nhân dân thông qua hiến pháp.
Dù sao những lá cờ cần được lưu giữ trong các bảo tàng như những chứng tích lịch sử, có ghi chú rõ ràng. Khi lớp người sau được biết tận tường sự tích mỗi lá cờ hẳn sẽ không có chuyện một lá cờ nào đó xuất hiện lạc lõng vô duyên giữa nơi công chúng.
Tiến sỹ vật lý Trần Chung Ngọc là một nhà khoa học chân chính mà hoàn cảnh lại trớ trêu. Nhưng ông dám nói: “Tôi là người thua cuộc nhưng khi nói Việt Nam thắng Pháp ở Điện Biên Phủ và thắng Mỹ, tôi rất tự hào!”. Tuy nhiên tại bàn làm việc của ông, ngoài tấm hình Phật Thích Ca đặt nơi trang trọng, ở một góc kệ vẫn treo lá cờ nhỏ “ba sọc đỏ nền vàng”. Đó là kỷ niệm một thời của riêng ông. Tuy vậy, thái độ ông rõ ràng dứt khoát: “Quốc kỳ là biểu tượng của một quốc gia có chủ quyền, có một lãnh thổ riêng biệt. Những người dân trong một quốc gia thường có cùng một nguồn gốc, và theo nghĩa lịch sử, có cùng tổ tiên và các hậu duệ. Vì lẽ đó lá “cờ vàng ba sọc đỏ” đã không đại diện cho bất cứ ai, khoan nói là đại diện cho hơn hai triệu người Việt di cư”. Đó là một trí thức sở học vững vàng, có bản lĩnh và nhân cách lớn.
Hai ông Trần Chung Ngọc và Nguyễn Cao Kỳ đều là học sinh cùng thời ở trường Chu Văn An Hà Nội, cùng lứa học viên khóa đầu trường sỹ quan Nam Định. Vào Sài Gòn, mỗi người một địa vị khác nhau. Sau năm 1975, định cư ở Mỹ, mỗi người một nghề. Bởi cá tính mỗi người một khác nên không bao giờ quan hệ với nhau. Tuy nhiên, hai ông có cùng một cách nhìn về một lá cờ. Trong hồi ký “Đường về”, ông Nguyễn Cao Kỳ viết: “Ngày xưa tôi đã từng phục vụ dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ. Từ Tổng thống Mỹ cho đến vua Thái Lan… đều phải đứng nghiêm chào khi lá cờ được thượng lên. Việc giữ gìn màu cờ sắc áo không phải là chuyện muốn đem cờ ra vẫy ở đâu cũng được, mà là vẫy ở chỗ nào và vẫy như thế nào? Nếu không làm tăng được giá trị của nó, tại sao không mang cất đi trong tâm khảm, trong một chỗ nào mình trân quý, có phải hay hơn không?”.
Lẽ phải bao giờ cũng có sức hấp dẫn lớn và tính thuyết phục cao. Một viên chức ở Quận Cam viết: “Bất cứ tổ chức chính quyền nào của Hoa Kỳ ủng hộ lá cờ cũ (vàng ba sọc đỏ) là lá cờ chính thức của Việt Nam đều vi phạm luật quốc tế. Những người chống Cộng quên rằng Mỹ đã coi lá cờ đó như là một cái gì expendable, muốn bỏ đi lúc nào thì bỏ. Trước khi lên án các quốc gia khác về vi phạm nhân quyền, nên nhìn vào hồ sơ nhân quyền của nước Mỹ. Kỳ thị chủng tộc chắc chắn là vi phạm nhân quyền, và kỳ thị chủng tộc thì vừa là hệ thống vừa là định chế ở nước Mỹ. Về tham nhũng thì ở Mỹ cũng không thiếu gì các viên chức tham nhũng, nhưng họ che đậy kỹ hơn. Ai cũng biết rằng phải có rất nhiều tiền, thường là từ những tổ chức đóng góp để mưu lợi, để thắng trong một cuộc bầu cử ở Mỹ”. Một sinh viên USC trao đổi với bạn: “Cuộc tranh đấu ngày nay tuyệt đối không thể là cuộc tranh đấu Quốc-Cộng như khi xưa mà phải là cuộc tranh đấu để xây dựng, cải thiện xã hội”.
Từ chuyện những lá cờ rút ra bài học: Chính là phận người, phận nước quyết định phận cờ.
Tuần báo Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh
Số 402 Thứ năm ngày 19 tháng 5 năm 2016
Tài liệu tham khảo:
- Lịch sử Quốc hội Việt Nam
- Hồi ký Trần Văn Giàu
- Hồi ký Mai Xuân Tần – Thiếu tướng QĐNDVN
- Hồi tưởng – NGND Trần Thanh Đạm
- Người vẽ cờ đỏ sao vàng – Bài viết của Sơn Tùng
- Chỉ cờ đỏ sao vàng ở lại – Bài viết của Lê Tú Lệ
- Các bài viết của Trần Chung Ngọc
- Đường về - Hồi ký Nguyễn Cao Kỳ
- Hồi ký Đỗ Mậu – Thiếu tướng QLVNCH
- Wikipedia: Hình ảnh cờ Việt Nam qua các thời kỳ
** Giới thiệu tác giả:
Bác sỹ Nguyễn Văn Thịnh, sinh năm 1940 tại Hà Nội, hội viên Hội Nhà văn TPHCM. Năm1966 tham gia kháng chiến chống Mỹ ở chiến trường Nam Bộ. Ông viết nhiều thể loại: Tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch. Có tác phẩm được giải thưởng của Thành phố và Ban tuyên giáo trung ương. Ông còn viết chính luận, phê bình văn học đăng trên các báo, được dư luận quan tâm.
Nguyễn Văn Thịnh
Hoa Tàn Nguyệt Tận
Minh Chánh
Phân biệt là một khái niệm chia chẻ hiện tượng, nên chi trong quan điểm mà ý thức hình thành, luôn chất chứa những thứ rác rưởi khiến cuộc đời trở nên chát chúa khổ đau. Hoang tàn rồi lại hoang tàn, dòng tư tưởng cứ ùa về theo kiểu ba mứa mà thực tại vốn dĩ là thế. Bến bờ sâu thẳm của nhận định cũng chỉ là khái niệm vu vơ, nó thường lấy đi tất cả những gì quý giá của hiện tượng.
Một buổi sáng, trên đồi hoang vu với tinh mơ còn vương chút nắng mới, những cánh hoa khép mình điêu tàn dưới bình minh tràn đầy nhựa sống. Tuy nhiên, cũng có những nụ hoa mới hé nở đang mơn trớn với thanh khí của đất trời giữa bao la thiên biến. Bên kia vòm trời, mây vẫn bay cho những cuộc mộng tàn phai trong từng phút giây sinh diệt. Con bướm đa tình cũng vờn dưới nắng mai giữa hoa tàn nguyệt tận của kiếp đời lưu biến. Sự sanh diệt của hiện tượng vạn hữu vẽ nên một bức tranh muôn màu cho thiên thu bất tận. Cái huyền diệu của cuộc đời hầu như phô diễn trùng trùng trước thiên di tuyệt náo. Khung trời mới của trăm nay hay nghìn năm về lại tắm gội dòng biến hiện giữa ngàn thu tuế nguyệt.
Trước những biến động của xum la vạn hữu, có cái còn sót lại, cũng có cái ra đi vĩnh viễn trong vô biên của sự thể. Những cánh hoa tàn vương vãi khắp nẻo đường về của dòng hiện khởi. Những đóa hoa chớm nở cho thiên nhiên thêm rực rở ánh hồng. Trăng tàn rồi lại khuyết theo trùng trùng duyên khởi như chưa hề có sự phân ly. Rồi trên đỉnh cao của núi đồi bạt ngàn một màu xanh vô tận, chiếc lá vàng nhường chổ cho những chồi non mơn mởn vươn ra mặc dù bản thân nó rơi đầy ngõ vắng úa tàn. Cái trùng trùng chuyển biến dường như không thiếu vắng trên bộ mặt đích thực của hiện tượng. Sự phân ly dù rằng trong khoảnh khắc cũng chưa hề lộ ra theo chiều hướng phân biệt.
Phân biệt là một khái niệm chia chẻ hiện tượng, nên chi trong quan điểm mà ý thức hình thành, luôn chất chứa những thứ rác rưởi khiến cuộc đời trở nên chát chúa khổ đau. Hoang tàn rồi lại hoang tàn, dòng tư tưởng cứ ùa về theo kiểu ba mứa mà thực tại vốn dĩ là thế. Bến bờ sâu thẳm của nhận định cũng chỉ là khái niệm vu vơ, nó thường lấy đi tất cả những gì quý giá của hiện tượng. Một nhà thơ, một nhà văn, một nhà triết học hay hiền triết đi nữa thì họ không bao giờ ghánh vác nổi cái gọi là hiện tượng vô biên. Hầu như đa phần họ đem khái niệm để nhìn về hiện tượng, nên hoàn toàn bóp méo sự thực để mặc sức bay nhảy trên diễn đàn tư tưởng mà họ cho là tuyệt đối. Con đường dẫn đến hiện tượng giới là chính bản thân nó chứ không ai khác. Chúng ta thường cho rằng mình tồn tại trong đời là do thứ này hay thứ khác, nguyên nhân này hay nguyên nhân khác, nhưng thực chất chúng ta tồn tại là tồn tại. Bởi vậy, các vĩ nhân, những người thực chứng, không bao giờ đem khái niệm của mình ra để phân định hiện tượng. Các vị luôn nhìn thấy đời mầu nhiệm dù khi cần xử lý công việc trong cuộc đời. Cái mà các vị thực hiện cho trùng trùng biến hiện ở đỉnh cao của tư tưởng là “niêm hoa vi tiếu”[1].
Tuy nhiên, cách xử lý ấy nó phải được kiểm nghiệm qua từng hành động đích xác chứ không phải dựa trên ngôn từ. Ngôn từ chẳng qua là công cụ để chuyển tải ý tưởng, nhưng chính ý tưởng vốn đã băng hoại, nên ngôn từ cũng trở thành tàn dư của băng hoại. Tôi nói, tôi viết, tôi đọc…là gì nhỉ? Là một sự lừa dối về hiện tượng. Sự lừa dối ấy cứ thiên thu vĩnh kiếp bám lấy con người mà chính bản thân con người có hề hay biết đâu. Nếu họ hay biết, thì không bao giờ để cho hiện tượng bị ý tưởng của mình áp đặt và trở thành vật tế thần của chính bản thân họ. Hơn bao giờ hết, sự bám chấp trở thành thảm họa của toàn thể nhân loại. Nó xuất hiện trong từng ngỏ ngách của hiện tượng và ngay cả tư tưởng. Bởi vậy, nó giết chết biết bao mầm móng của an vui khiến cho hoa tàn nguyệt tận.
Bám chấp là một sự lừa dối bất tận gây ra nhiều trắc ẩn thương tâm cho toàn thế giới. Bám chấp làm cho con người và hiện tượng trở nên già cỗi lụi tàn. Do vậy, nếu muốn thế giới này luôn luôn sinh động trong ý tưởng của mình, chúng ta đừng bao giờ bám chấp mà buông thả theo tự nhiên của nó. Hành trình của bám chấp trước các hiện tượng phô diễn là hệ lụy của các khái niệm bảo thủ. Chúng ta luôn luôn nắm lấy hiện tượng rồi áp đặt chúng một cách phi lý theo định kiến của mình. Tuy nhiên, cái thực chất của hiện tượng vốn vẫn thế như chưa bao giờ tuân theo các khái niệm của mình. Do vậy, khổ đau và bực bội cứ rìn rập chúng ta mà chính chúng ta là tác nhân. Muốn thoát khỏi chấp thủ, chúng ta phải nổ lực thực sự trong quá trình nhìn nhận về hiện tượng. Điều này có nghĩa đừng bao giờ áp đặt bất cứ khái niệm nào lên hiện tượng. Hãy để cho nó trôi chảy tự nhiên theo chiều hướng tự do của nó. Nếu càng bám chấp, chúng ta đánh mất tự do của chính mình.
Mỗi sớm mai thức dậy, chúng ta hãy tự quán chiếu các pháp trôi chảy mầu nhiệm theo chiều hướng tự nhiên của dòng đời để hạn chế bám chấp. Tâm chúng ta phải thực sự bình lặng trước mọi đắc thất vô thường và đừng bao giờ có khái niệm nắm bắt. Nếu cố ý nắm bắt, dù là một hạt bụi, chúng ta cũng sẽ rơi vào tình huống khổ đau. Chúng ta phải thực sự quán chiếu để tâm mình bình yên trước mọi biến cố của dòng đời. Nếu biết quán chiếu một cách sâu sắc, chúng ta sẽ nhận thức rõ hiện tượng là một dòng chảy mầu nhiệm vô biên trong từng giây từng phút. Dòng hiện tượng ấy cứ tiếp nối bất biến giữa trùng khơi sóng dội. Mọi thứ dù có lưu biến đến đâu thì nó vẫn tạo nên một vòng tròn khép kính nhường chỗ cho nhau như một dây chuyền cú liên tục hoạt động. Dù rằng trong quá trình diễn biến, có những thứ hoại diệt, nhưng sự hoại diệt ấy thể hiện một bản chất đích thực của chưa từng hoại diệt.
[1] Niêm hoa vi tiếu (zh:拈花微笑, j: nenge-mishō) nghĩa tiếng Việt: cầm hoa mỉm cười đây là một giai thoại thiền, ghi lại sự kiện Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đưa cành hoa lên khai thị, tôn giả Ca Diếp phá nhan mỉm cười.
Thứ Năm, 2 tháng 6, 2016
MCT siêu Mini( lá lớn )- giá 150k
MCT siêu Mini( lá lớn )- giá 150k-ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh
Thứ Tư, 1 tháng 6, 2016
Con chim nhỏ trong lồng.
Elena Pucillo Truong
Nguyên tác : L’uccellino in gabia
Của Elena Pucillo Truong
(Bản dịch của Trương Văn Dân)
Ngồi lên cạnh giường, đôi mắt tôi hết nhìn bàn tay khẳng khiu đặt trước bụng đến nhìn chiếc va li nhỏ mà trong đó phải bỏ vào tất cả đời mình.
– – Má chọn những thứ cần đem theo, còn việc khác cứ để con lo! Trong tai tôi còn lùng bùng giọng nói thiếu thân thiện, ngạo mạn và không chút kính nể của đứa con dâu lúc mang chiếc vali để tôi thu xếp những thứ cần thiết trước khi dời đến nhà mới.
Vậy là tôi phải vĩnh viễn rời bỏ căn nhà rộng rãi và thoáng mát, nơi mà tôi từng sống như một người vợ được yêu thương và hạnh phúc. Được yêu thương… cho tới lúc chồng còn sống… Còn sau đó… thì tôi sống mà như đã chết… sống như một kẻ lạ mặt trong nhà của mình vì đứa con dâu mới thật là bà chủ, là người quyết định, và bằng thủ đoạn tàn nhẫn và nham hiểm nó còn cướp mất lòng yêu thương của đứa con trai rồi từng ngày, từng ngày nó còn xéo nát từng mảnh tim tôi.
Khó nhọc đứng lên, tôi bước đến chiếc tủ quần áo, cảm giác như vừa mở ra cuốn album với những tấm ảnh vàng vọt bởi thời gian. Bao nhiêu là quần áo! Treo, móc đó mà bấy lâu nay tôi chưa bao giờ đụng tới! Đây rồi, hai chiếc áo sơ mi, hai chiếc quần, một bộ đồ, vài mảnh đồ lót… chỉ có thế mà chiếc vali đã đầy ứ rồi, tôi còn có thể bỏ thêm gì vào nữa?
Nhưng thực ra tôi có cần gì những thứ áo quần! Cái mà tôi cần chính là chiếc khung hình đặt trên chiếc bàn nhỏ bên giường. Bao năm rồi tôi chưng khung hình lên đó để nó là hình ảnh cuối cùng mà tôi nhìn thấy trước khi ngủ và cũng là hình ảnh đầu tiên khi tôi vừa tỉnh dậy. Đứa con dâu khốn nạn có thể lấy đi hết thảy, nhà cửa, quần áo, vàng bạc, con trai… nhưng không thể cướp đoạt những giây phút hạnh phúc của tôi và chồng đứng ôm nhau quay lưng về phía biển trong một buổi sáng rực rỡ ánh mặt trời.
Một khoảnh khắc tuyệt vời đã được giữ lại, mãi mãi, và gợi nhớ biết bao kỷ niệm.
Bao nhiêu say mê, bao nhiêu tình yêu đã từng có trong đời tôi! Tôi nhìn tôi trong tấm kiếng khi đóng lại cửa tủ, tuổi trẻ đã đi qua và mái tóc bồng bềnh như mây của tôi cũng đã điểm bạc hồi nào không hay. Trên khuôn mặt nhăn nheo chỉ còn lại đôi chút ấu vết của thời gian đó, màu biển trong mắt, nhưng khi mở ra trước sự thật tôi chỉ thấy bóng tối của nỗi cô đơn.
Hai hốc mắt của tôi vẫn còn xanh nhưng không có chút ánh sáng. Sự thiếu thốn tình cảm đã và đang dồn ép tôi vào giữa những bức tường quen biết ở nhà mình. Không ai đoái hoài gì đến tôi, chẳng ai thèm hỏi ý kiến và chẳng có ai bận tâm là tôi sẽ khổ sở biết bao khi phải sống trong căn hộ của một chung cư mà chỉ vừa nghĩ đến tôi đã thấy mình ngộp thở.
&
Và đúng như vậy, chỉ sau một tháng tôi đã thấy đời sống ở căn hộ ở tầng thứ 15 thật ngột ngạt. Với tôi, đời sống chỉ có ở bên ngoài cửa sổ, dưới đó tôi được nhìn những con người và đồ vật liên tục chuyển động giống đàn kiến hấp tấp, vội vã trước cơn mưa chiều.
Bị giam hãm giữa bốn bức tường, tôi như chết từng ngày, lặng lẽ ngồi cô đơn trên thành giường mà chẳng có căn phòng riêng nào để trú ẩn. Những tiếng động bên kia bức tường là của những người xa lạ, của những người hàng xóm không quen, lạnh lùng, vô cảm trước những nỗi đau của tôi.
Chẳng biết có chuyện gì xảy ra mà tôi thấy khó thở và không ngủ được. Nhiều đêm tôi mò mẫm đi dọc theo tường nhà, như muốn tìm một lối thoát không hề có. Sự khiếp đảm và kinh hoàng đẩy tôi qua lại giữa những chồng gạch xây cao, như con chim bị nhốt trong lồng đang tuyệt vọng tìm cách vượt qua những chấn song để tìm tự do.
Cũng như chim, ý thức về sự bất lực của mình, tôi đành phải qui hàng, rồi thẫn thờ và mệt nhọc quay lại giường ngủ. Mở to mắt, tôi trừng trừng nhìn bóng đêm rồi nước mắt cứ trào ra, ướt gối. Bằng những ngón tay run rẩy tôi siết chặt cái kho tàng của mình, phút giây chớp nhoáng của niềm hạnh phúc, như thể nó sẽ giúp tôi thoát khỏi nơi đây, giải phóng khỏi những niềm đau.
Bởi tôi chẳng còn gì khác. Đứa con dâu đã vứt bỏ tất cả những gì còn lại trong căn nhà, quần áo, vật dụng, cuộc đời… và sự phiền hà duy nhất mà tôi mang lại cho cô ấy chỉ là một bát cơm… nhưng tôi cũng chẳng còn muốn nuốt… Rồi mọi ngày đều trở nên nhọc mệt, hơi thở mỗi ngày mỗi ngắn, như có ai hay có cái gì đang thít họng, may mà có một ngụm không khí từ cửa sổ tràn vào, tôi nhìn thấy những con người và mọi vật chuyển động như đàn kiến cuồng nhiệt trước cơn mưa, hơi thở mới thoát trong một cơn khò khè.
– Đủ rồi! Con không thể nào sống như thế này được! Con còn phải đi làm và cần phải ngủ! Má phải bỏ cái tật đi lung tung khắp nhà như một mụ điên!
Thằng con trai của tôi đã hét lên như thế.
Giống tiếng kẽo kẹt từ mấy khúc xương sắp xụm, tôi ngã xệp lên chiếc ghế, toàn thân như bị băm vằm vì lời lẽ nhọn hoắc như những nhát dao. Biết bao đau đớn tôi đã sinh ra nó, một đời thương yêu và chăm sóc… thế mà giờ nó không chịu được tôi, xem như một sự phiền hà cần phải loại bỏ. Đó là lỗi tại tôi cưng chiều quá, và giờ thì tôi hiểu là mình vẫn còn có thể làm thêm một điều nữa cho nó. Và có lẽ cũng là làm cho chính mình.
Từ vài ngày qua tôi cảm thấy mình vui, đi đứng bình thường hơn giữa những bức tường và chiếc giường. Thỉnh thoảng trên môi tôi còn nở một nụ cười, nhất là lúc tôi nhớ lại những giai điệu của một bài hát tình yêu cũ… Lâu lắm rồi, tôi không còn nhớ trọn lời ca, chỉ mang máng nhớ điệp khúc nói là mùa xuân đang trở lại… và tôi cũng ước muốn có một mùa xuân mới.
Đêm nay có một vầng trăng tuyệt đẹp trên bầu trời, chỉ có một phần rất nhỏ bị che bởi một sợi mây. Tôi bỏ khung hình vào túi áo, đó là kho tàng của tôi, và từ cửa sổ tôi nhìn xuống thành phố đang ngái ngủ. Tia mắt tôi dõi theo ánh đèn màu đỏ của một chiếc xe hơi dọc theo hàng trụ đèn đường.Yên lặng quá. Từ trên cao ánh sáng chiếu xuống mềm mại như bông làm tôi có cảm giác như mình cũng đang đứng trên một cụm mây.
Chỉ vài giây thôi! Tôi nhoài người, bay qua khung cửa sổ, rơi tự do trong không khí. Trên môi tôi vẫn nở một nụ cười, thật ngọt ngào, để khỏi phải hét lên, sợ làm phiền người khác.
Elena Pucillo Truong
AI LÀ TỔ CỦA DÂN VIỆT?
Lịch sử hình thành dân Việt được chia làm hai giai đoạn chính :
1. Giai đoạn tiền sử trước khi hình thành dân tộc.
2. Giai đoạn hình thành dân Việt, mở mang bờ cõi đất nước Việt.
1. Giai đoạn tiền sử trước khi hình thành dân Việt
Vào thời xa xưa, khi còn thời bộ lạc ở các hang động, chưa định cư và cất nhà,những bộ lạc từ Ðông-Nam-Á theo con mồi đi lên tận miền Bắc Trung Hoa đến TriềuTiên và Nhật Bản. Họ định cƣ và sống ở đó. Thời gian nầy không có sự phân chia dân tộc nầy, hay chủng tộc khác; không có sự phân biệt người Mã Lai, hay Nam Dương hoặc Việt Nam hay Trung Hoa hoặc Chàm v.v…Họ phát xuất từ vùng Ðông-Nam-Á.
Họ sống bằng nghề săn bắn và thu lượm, chồng đi bắt hay săn thú, vợ đi đào củ hay hái trái rừng. Họ sống thành từng nhóm, rải rác khắp nơi. Trong số những người đi lên phía Bắc đó thì có hai bộ lạc lớn họp lại với nhau, một bộ lạc mang tên là Hồng lấy Chim làm biểu tƣợng, và một bộ lạc mang tên Bàng lấy Rồng làm biểu tượng. Hai bộ lạc nầy xuất hiện từ thời gian nào, chúng ta không biết; họ ra sao, chúng ta cũng không rõ. Nhờ vào ngành Khảo cổ và Nhân chủng học hợp với sự phân tích và định nghĩa văn tự Hồng và Bàng cho chúng ta biết họ xuất hiện trước thời định cư , tức là trước 10 ngàn năm, có nghĩa là trong thời Canh Tân (Pleistocene) hay còn gọi là thời Cựu Thạch (Palaeolithic), khoảng từ triệu năm đến 10 ngàn năm. Nguồn gốc dân Việt khởi điểm rất xa xưa qua họ Hồng Bàng. Có thể nói họ là “ Sơ tổ” của dân Việt.
Từ Hồng Bàng cho tới ế Minh là một khoảng trống rất lớn, xảy ra rất nhiều vấn đề trong đó, và trong phạm vi nhỏ b của bài viết này, tôi không thể nào đƣa hết tất cả mọi vấn đề ra ở đây đƣợc, tôi chỉ có thể đƣa một phần rất nhỏ liên quan đến truyền thuyết họ Hồng Bàng mà thôi, xin bạn thông cảm!
Sau đó đến thời chăn nuôi, định cư và trồng trọt bắt đầu từ khoảng 14 ngàn năm trở về sau nầy, chúng ta thấy xuất hiện Phục Hi, Nữ Oa và Thần Nông. Chúng ta cũng không biết họ như thế nào. Chúng ta chỉ biết Phục Hi tượng trưng cho chă n nuôi và Thần Nông tƣợng trƣng cho trồng trọt qua Khảo cổ và Nhân chủng học. Họ ra sao chúng ta cũng không biết, chỉ biết là họ thuộc vùng Kinh nằm dọc sông Trường Giang (Dương Tử) được xem là miền Nam Trung Hoa. Họ bị các sử gia và học giả Trung Hoa xem như “ngoại lai” tức không thuộc vào dân tộc Trung Hoa.
Rồi đến Ðế Minh,cháu ba đời vua Thần Nông. Ông lấy Vụ Tiên nữ ở vùng Ngũ Lĩnh còn gọi là vùng Lĩnh Nam. Ông có hai ngƣời vợ, ngƣời vợ đầu truyền thuyết không nhắc tên, bà sanh ra Đế Nghi; và người vợ sau là Vụ Tiên nữ sanh ra Lộc Tục.
Đế Minh chia vùng đất Cổ Việt bao gồm Trung Hoa và miền Bắc Việt Nam cho hai người con là Đế Nghi và Lộc Tục. Ðế Nghi làm vua phương Bắc và Lộc Tục làm vua phương Nam.
2. Giai đoạn hình thành dân Việt, mở mang bờ cõi đất nước.
Lần đầu tiên truyền thuyết họ Hồng Bàng xác định vua đầu tiên là Lộc Tục lên ngôi vào năm Nhâm-tuất, các sử gia của chúng ta tính ra là 2879 trƣớc Tây Lịch. Ðây là thời điểm xác nhận sự hình thành dân tộc với sự xuất hiện của vị vua đầu tiên là Lộc Tục lấy hiệu là Kinh-Dương vương tức là làm vua hai châu gộp lại là Kinh châu và Dương châu.Tên nước của Lộc Tục là Xích-Quỷ . Lộc Tục lấy Long Nữ sanh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ sanh 100 trứng nở ra 100 ngƣời con, và người con cả trong đó nối ngôi cha dựng nước gọi là Văn Lang tiếp tục cai trị bởi 18 đời Hùng Vương.
Trong phần phân tích ở trên cho thấy Lộc Tục xác định thời lập quốc của dân tộc Việt và Hùng Vương bành trướng đất nước Việt. Bạn và tôi, chúng ta chỉ biết tới đó mà thôi. Câu hỏi đƣợc đặt ra ở đây : Ai được dân tộc Việt thờ kính ?
AI ÐƯỢC DÂN TỘC VI ỆT TH Ờ KÍNH ?
Một hôm anh bạn của tôi mang đến cho tôi một quyển sách dày trên 400 trang với tựa đề “Văn hóa Luy Lâu và Kinh Dương Vương”, trong đó có một bức ảnh chụp lăng Kinh Dương Vương và cho biết có thờ Kinh Dương Vương , Lạc Long Quân và Âu Cơ . Lăng nầy hiện ở làng Á Lữ, thuộc Luy Lâu. Nay là Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh
A. LĂNG KINH DƯƠNG VƯƠNG- LẠC LONG QUÂN VÀ ÂU CƠ
Tôi xin chép lại nguyên văn trong sách như sau:
“ Tương truyền, lăng được xây dựng từ thời Trịnh – khoảng thế k 17. Cũng tương truyền, lăng được sửa đổi nhiều lần.
Bia ở lăng đề : “Minh Mệnh, nhị thập nhất niên”1840. Có l năm ấy có sự trùng tu quan trọng.
Trong lăng có hai câu đối:
“ Nghĩa Lĩnh cổ kinh thành
Ðức Giang kim lăng miếu”
Tức là:
Ở núi Nghĩa Lĩnh (Phú Thọ) có kinh thành cổ.
Ở sông Ðức Giang (còn gọi sông Ðuống, thuộc Bắc Ninh) có lăng miếu mới.
Khu đất của lăng dài trên 800 thƣớc, rộng 80 thước, hình thoi. Lăng được xây theo kiểu cổ diềm 8 mái, có đao đối, chung quanh có tuờng chắn.
Từ bãi, phải đi lên chín bậc mới đến sân lăng. Hai bên cửa ra vào có hai con rồng (xây bằng vôi cát). Giữa có lối đi thẳng vào chính tẩm. Xung quanh lăng là rừng cây cối tốt tươi.Lăng rộng mỗi bề 10 thước, bốn gốc có bốn cột trụ, cửa vào có hai cột.
Tại lăng có đôi câu đối :
“Vạn cổ giang sơn tư tụy tổ
Nhất khâu phong vũ ngật hồng bi
Tức là:
Từ vạn cổ cả nước non này đã suy nghĩ về ngọn nguồn tiên tổ.
Một nấm mồ nhỏ thôi nhƣng trải bao mưa gió vẫn sừng sững một tấm bia hồng.
Trên trán lăng có hai đại tự (chữ lớn) “ ẤT V ” ( K Ô T Ể MẤT).
Sau đây lời tùy bút của ông Nguyễn Phan Hách viết tiếp trong bài “ Lăng mộ thiêng liêng” ở trang 418 – 426, khi ông đi thăm Lăng Kinh Dương Vương. Tôi xin tóm lược nhƣ sau :
Suốt dọc các làng tiếng trống hội xuân râm ran. Nơi Chùa Bút Tháp ô tô từ Hà Nội về văn cảnh tấp nập. Tôi dừng lại một nơi cách Bút Tháp 2 cây số trước tấm biển
“ Di tích lăng mộ Kinh-Dương Vương – Lạc Long Quân – Âu Cơ”.
Trước mắt tôi, một bãi cát ngoại đê bát ngát. Những lùm cổ thụ gạo và xà cừ.
Vòng qua tấm bia “Hạ Mã”, tôi bƣớc vào khu Lăng Mộ. Không gian vắng hoe. Chỉ có mình tôi với chiếc lá vàng và những bông gạo đỏ rụng sớm.
Khu di tích đơn sơ. Một cái lăng nhỏ rêu phong giống hình cái miếu, trong có bia đá chữ Nho ghi rõ đây là di tích mộ Kinh Dương Vương – Lạc Long Quân – Âu Cơ – THỦY TỔ NƯỚC NAM.
Mộ trước cửa lăng xây nổi hình một cái hƣơng án. Tất cả chỉ có thế. Còn lại là cỏ xanh…
Lòng rưng rưng tôi thắp nén nhang. Câu chuyện Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh bọc 100 trứng, trứng nở 100 trai, 50 con theo mẹ lên núi, 50 con theo cha xuống biển… không một ngƣời Việt Nam con Rồng cháu Tiên nào không biết.Và hôm nay, đến đây, lẽ nào tôi quên!
Tôi chỉ muốn bật khóc trước cảnh hiu quạnh. Tiếng trống hội mùa xuân các làng dọc triền đê nao nức thế. Sao riêng đây vắng lặng. Tôi đi nhặt những chiếc lá vàng rơi quanh Mộ, nhặt những bông hoa gạo đỏ, và ngắm làn khói nhang mong manh.
Một bé gái cắt cỏ mom men đến gần xem tôi chụp ảnh.
-Ðây là Lăng Mộ gì cháu nhỉ ? Tôi giả vờ hỏi.
- Kinh Dương Vương
-“Ông ta” là ai thế?
- Cháu biết đâu đấy !
- Cháu có biết chuyện cổ tích: “ Lạc Long Quân Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng” ?
- Có chứ. Truyện học trong sách giáo khoa.
- Ðây chính là di tích của truyền thuyết ấy đấy!
Cô b cười ngờ vực, chả tin.
Tôi đến bên một bà già đang xới ngô ngoài bãi.
-Khu Lăng, nhiều ngƣời thăm viếng không bà?
- Hồi tôi còn bé ở đây có miếu đền to lắm! Hàng năm có tế lễ hội hè. Nhưng rồi đền bị thực dân Pháp đốt trụi chỉ còn thế này. Bây giờ thỉnh thoảng có các cụ trong làng ra thắp hương.
-Bà đi lễ đền Hùng lần nào chưa?
- Có chứ. Ðền Hùng lớn lắm. Ðấy là đất Tổ của nước Nam mình. Phải về lễ Tổ chứ.
- Nhưng thưa bà, Ðức Kinh Dương Vương ở quê mình đây sinh ra Lạc Long Quân.Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh ra trăm con. Hùng Vương là con trưởng. Như vậy đây cũng là đất Tổ chứ. Sao vắng hoe thế nầy ?
Bà lão chớp mắt thoáng buồn:
-Thỉnh thoảng tôi cũng thấy có vài người từ tỉnh về chụp ảnh lăng mộ, nhặt mấy cái lá vàng, mấy bông hoa gạo đỏ, hỏi dăm ba câu chuyện, nhƣ anh, rồi sau đó đi, thế thôi…
Bà già đưa tôi qua đê vào làng Á Lữ, cách đó chừng 500 thước.
-Ngoài đê là Lăng Mộ Ngài. Còn trong nầy là đình làng tôi thờ Ðức Ngài – Bà nói.
Trước mắt tôi là khu sân gạch rộng có v nhƣ là sân kho thời Hợp tác xã. Không có vẽ giống sân đình, vì quanh đó có thềm nhà văn phòng Ủy ban, hay Hợp tác gì đó…
Còn Ðình và Chùa liền nhau, một dẫy nhà ngói đơn giản như nhà dân. Không phải kiến trúc đình chùa. Không mái cong. Không đắp hình Rồng Phượng. Tôi mở cửa bước vào. Hai cậu thợ mộc đang đục đẽo cạnh đấy bảo:
- Chú đừng vào. Các Ngài ở đây thiêng lắm. Các Ngài sẽ “quở”, sẽ “vật” chú ốm đấy !
- Tao là đứa con hiếu thảo của Ðức Thủy Tổ. Tao vào để quỳ lạy Ngài chứ tao làm gì mà “vật” tao ốm!
Bọn thợ mộc cười khì :
- Thì cháu tưởng chú vào nhâng nhâng nháo nháo chụp mấy kiểu ảnh rồi tếch thẳng như bao người khác!
Bao ngƣời khác là ai? Lòng tôi chợt gợn buồn. Tại sao hàng ngàn làng khác đình miếu nguy nga ( mà thần phả bình thường). Còn ở đây Thành hoàng là hẳn THỦY TỔ NƯỚC NAM, là “ông nội” , là cha và mẹ của Vua Hùng, thì đình chỉ là ngôi nhà ngói vài gian ?
Tôi bước vào. Những bức hoành phi câu đối vẫn còn ghi rõ, giải thích rõ ý nghĩa lớn lao thiêng liêng của ba vị tổ tiên dân tộc này. Ðặc biệt là bức Ðại tự “ NAM TỔ MIẾU” khá cổ kính.
- Ngày xưa đình cũng nguy nga lắm. Nhưng cũng lại bị Pháp đi càn đốt cháy. Dân đây còn nghèo, nên chỉ tu tạo lại đƣợc thế này thôi -Mấy cậu thợ mộc nói.
Phải. Ðâu ai dám trách dân sở tại. Ðây là di tích cả nƣớc phải lo, chứ đâu phải của
riêng một làng…
… Mở sách “Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư”, thấy Ngô Sĩ Liên viết: “Kinh Dương Vương là vua bắt đầu được phong của nước Ðại Việt ta, cùng với Ðế Nghi cùng thời,cho nên trong sách này tôi ch p Năm Ðầu ngang năm đầu của Ðế Nghi”.
Nếu nói lịch sử nƣớc ta đã trải qua 4000 năm, thì những cái Năm đầu đó phải chăng là thời của Kinh Dương Vương.
Tôi không hiểu nhiều lắm về cổ sử. Mà “vụ này” nào mấy ai đã biết rõ! Chỉ biết nơi đây có lăng, có mộ, có hoành phi “ NAM TỔ MIẾU” … nhưng tất cả chưa được tu tạo thỏa đáng.
Và cả tôi nữa. Bây giờ tôi mới giật mình. Tôi sinh ra và lớn lên ở làng Mão Ðiền – cách Lăng Kinh Dương Vương chỉ 3 cây số. Tôi là nhà văn, trước đó là “nhà nghiên cứu văn hóa” của Ty văn hóa Hà Bắc. Tôi đã đi thăm vài chục ngôi chùa, di tích lịch sử khắp nơi mọi miền đất nước, nhưng bây giờ, đây là lần đầu tiên trong đời tôi đến thắp hương trước Lăng Mộ KINH DƯƠNG VƯƠNG – THỦY TỔ NƯỚC NAM.
Thế là thế nào? Không còn hiểu ra làm sao nữa ?
Tôi có nên buồn không ? Và có lo Ðức Ngài quở nhƣ mấy cậu thợ mộc ở Ðình Kinh Dương Vương nói không?
Sở dĩ tôi ghi lại bài tùy bút của Nguyễn Phan Hách, cốt ý trƣớc là để chúng ta tự suy nghĩ, sau là để cho chúng ta thấy rằng đến ngày hôm nay không ai để ý đến và cũng không biết đến Lăng Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và u Cơ là gì! Các Ngài là những vị “THỦY TỔ NƯỚC NAM”.
Tôi ƣớc mong bài viết nầy sẽ giúp thêm cho chúng ta hiểu thêm vể Tổ, để đến ngày Giỗ Tổ, các cộng đồng ngƣời Việt ở khắp nơi, biết rằng “ THỦY TỔ NƯỚC NAM” bao gồm KINH DƯƠNG VƯƠNG – LẠC LONG QUÂN – ÂU CƠ – VÀ CÁC HÙNG VƯƠNG .
Từ trước đến giờ, chúng ta mỗi lần mừng giỗ tổ chỉ nhắc đến các vị vua Hùng mà thôi,chứ chúng ta không biết rằng dân Việt đã thờ Kinh Dƣơng Dƣơng – Lạc Long Quân - Âu Cơ từ lâu. Trong quyển “Văn Hóa Luy Lâu và Kinh Dương Vương” có ghi là có 138 đình và miếu trên nƣớc Việt Nam thờ Lạc Long Quân và u Cơ, nhƣng chỉ có làng Á Lữ thuộc Luy Lâu xưa, nay là Thuận Thành, thuộc tỉnh Bắc Ninh là có lăng Kinh Dương Vương nơi đó thờ Kinh Dương Vương – Lạc Long Quân và Âu Cơ .
B ÐỀN HÙNG
Ðền Hùng ở xã Hy Cương, Phong Châu, tỉnh Vĩnh Phú.
Khu di tích lịch sử ở trên núi Nghĩa Lĩnh cao 175 thƣớc.
Ðền với kiến trúc hiện nay về đại thể được tổng đốc Nguyễn Bá Nghi đứng ra xây dựng năm 1874 theo sắc dụ của vua Tự Ðức. Những lần tu sửa đáng kể là vào các năm Duy Tân 6 (1912), Khải Ðịnh 7 (1922) và 1962.
Từ chân núi theo bậc lên cổng đền, qua tam quan, đến đền Hạ, rồi đền Trung và cuối cùng là đền Thƣợng nơi đó thờ các vị vua Hùng.
Dưới chân núi có đền Giếng thờ hai con gái vua Hùng thứ 18 là Tiên Dung và Ngọc Qua. Ðền có Giếng Ngọc.
Hội đền Hùng tổ chức trọng thể vào ngày 10 tháng 3.
Hai lăng : Lăng Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Âu cơ cùng với Lăng Hùng Vương (Ðền Hùng) là những chứng tích cho chúng ta thấy ai là THỦY TỔ NƯỚC NAM. Chúng tôi mong đợi trong những ngày Giỗ Tỗ sắp tới chúng ta s nhận định rõ ràng về những vị tổ của dân tộc Việt.
Có lẽ bạn thắc mắc, tại sao dân trong nước không biết gì về Kinh-Dương Vương, Lạc Long Quân và Âu-Cơ, bạn nói với tôi rằng ngƣời Việt tự hào là “Con Rồng cháu Tiên” mà, vậy thì họ là con của ai và là cháu của ai?
Lạc Long Quân lấy u-Cơ sinh ra trăm trứng tƣợng trƣng cho 100 người con trai và truyền thuyết gọi là Bách Việt, tức là trăm giống Việt. Trong danh xưng Lạc Long Quân thì có chữ Long có nghĩa là Rồng. Trăm giống Việt đó có người Cha là Lạc Long Quân lấy biểu tượng là Rồng, vì đó gọi là “con Rồng” tức là con của Lạc Long Quân.
Cha của Lạc Long Quân là Lộc Tục và mẹ của Lạc Long Quân là Long nữ.
Ông nội của Lạc Long Quân là ế Minh và bà nội của Lạc Long Quân là Vụ Tiên nữ.
Cháu tiên có nghĩa là cháu của bà Vụ Tiên.
Vậy “con Rồng cháu Tiên” có nghĩa là con của Lạc Long Quân và cháu của bà Vụ Tiên. Tất cả những điều này đều nằm trong truyền thuyết, vì đó khi dân Việt nói họ là “con Rồng cháu Tiên” là họ nói theo truyền thuyết họ Hồng Bàng.
Nếu xưng mình là “Con Rồng cháu Tiên”, thế thì tại sao ngày Giỗ Tỗ lại gạt bỏ Lạc Long Quân và Vụ Tiên nữ, không mừng Giỗ của các Ngài?
Ai đã chủ mƣu làm cho dân Việt không biết đến tiền nhân trong ngày Giỗ Tỗ?
Ai đã chủ ý cắt bỏ truyền thuyết họ Hồng Bàng ra khỏi các bộ sử của Việt Nam? Ai đã cố ý dẹp bỏ truyền thuyết họ Hồng Bàng để dân Việt không còn biết đâu là cội nguồn?
Thƣa bạn, đây là một đề tài phức tạp và rộng lớn, cần phải chứng minh và phân tích đầy đủ, để cho dân Việt hiểu tại sao văn hóa và nguồn gốc bị phá hủy tận gốc. Tôi thiết nghĩ bài viết nhỏ bé nầy không phải là chỗ dành cho một đề tài rộng lớn như vậy,xin bạn thông cảm.
Trước khi kết thúc, tôi xin chứng minh cho bạn, điểm vượt trội của văn hóa Việt trên văn hóa Trung Hoa, xin bạn đọc tiếp phần dưới đây:
TRUNG HOA BỎ VĂN HÓA TRUNG NGUYÊN VÀ CHẤP NHẬN VĂN HÓA CỦA TIỀN NHÂN NGƯỜI VIỆT
Vào năm 1998, tờ báo Beijing Review số 41 ngày 23-3-1998, là tờ báo của chính quyền Trung Hoa, ở trang 31 có đăng một bài với tựa đề “Archaeology finds give clues to 10,000 year Chinese history (dịch : những khám phá của khảo cổ cho biết lịch sử Trung Hoa lên tới 10,000 ngàn năm)”. Tác giả của bài báo viết như sau :
“Chinese history can now be dated back 10,000 years. This conclusion is drawn by Chinese historians across the Taiwan Straits, disproving the common belief that China has a 5,000-year civilization which first originated along the Yellow River”
Tạm dịch : “Ngày nay sử Trung Hoa đã được minh định thời gian lên tới 10,000 năm. Ðây là kết luận của các sử gia Trung Hoa qua tới Eo Ðài Loan, bác bỏ niềm tin thông thƣờng rằng nền văn minh Trung Hoa chỉ có 5,000 năm, khởi điểm bắt nguồn từ sông Hoàng Hà”.
Câu kết luận trên đƣa ra những thay đổi tận gốc sử và văn minh Trung Hoa :
1. Bác bỏ nền văn hóa của sông Hoàng Hà trong đó có nền văn hóa Trung Nguyên, và nếu nói rõ hơn là chối bỏ “chủ thuyết Trung Nguyên” mà trƣớc đây học giả kể cả sử gia Trung Hoa, cho rằng vùng Trung Nguyên là văn minh nhất,là “cái nôi” của văn hóa Trung Hoa, vùng nầy đã đem ánh sáng văn minh đến cho tất cả các vùng bán khai chung quanh, bị coi là “man di mọi rợ”.
2. Chối bỏ “Truyền thuyết Hoàng Ðế đƣợc xem là gốc phát xuất dân tộc Trung Hoa, vào khoảng trên hai ngàn năm trước Tây Lịch,khởi điểm từ vùng sông Hoàng Hà.
Nếu đưa 10,000 năm vào thì ai sẽ là tiền nhân của dân Trung Hoa? Chỉ có truyền thuyết họ Hồng Bàng chứng minh được mà thôi!
Câu hỏi ở đây là khảo cổ Trung Hoa tìm được cái gì và ở đâu để đưa văn minh Trung Hoa lên tới 10,000 năm ?
Bài báo cho biết vào cuối mùa đông năm 1998, khoảng 50 thành viên là những nhà chuyên môn nghiên cứu về sử Trung Hoa (gồm cả Trung Hoa và Ðài Loan), đã hợp lại tại đảo Hải Nam thuộc lãnh thổ Trung Hoa (Hải Nam, một hòn đảo của Trung Hoa ngày nay nằm gần Việt Nam), đã cho rằng Sử Ký Tƣ Mã Thiên không đủ để đưa ra một hình ảnh trung thực về sử liệu. Và họ kêu gọi duyệt lại những lời kết luận của sử gia Tư Mã Thiên.
Họ cho rằng các nhà khảo cổ đã tìm đƣợc lụa, định tuổi vào khoảng 6,000 năm tại vùng Giang Tô và Chiết Giang (tức là vùng Dương châu, nếu dựa theo truyền thuyết họ Hồng Bàng) . Nhưng quan trọng hơn hết là những đổ nát, tàng tích là di tích văn hóa ở địa điểm Bành Ðầu Sơn (Pengtoushan) tại tỉnh Hồ Nam ( tức là vùng Kinh châu, nếu dƣa theo truyền thuyết họ Hồng Bàng), chứng minh một nền văn hóa cổ có trên 9,000 năm. Ngoài ra các nhà khảo cổ cũng tìm được những đống xương của cá ông và cá mập cùng với các mái chèo đào đƣợc tại Hà Mỗ Ðộ (Hemudu) thuộc tỉnh Chiết Giang (tức là vùng Dương châu nếu nói theo truyền thuyết họ Hồng Bàng) và được định tuổi thời gian là 7,000 năm.
Trong truyền thuyết họ Hồng Bàng, cho biết Lộc Tục tức là Kinh-Dương vương làm vua hai vùng Kinh châu và Dương châu, đồng thời là nguyên quán của Lạc Long Quân. Kinh điển gồm có Thượng Thư chứng minh rằng hai vùng Kinh Châu và Dương châu là trù phú, mầu mỡ hơn các vùng khác của 9 châu, về tài nguyên cũng như đặc sản. Bộ Sử Ký Tư Mã Thiên gọi hai vùng là Kinh Man trong phần “Ngô Thái Bá thế gia”. Bộ Trúc Thư Kỉ Niên tìm được trong mộ của vua nước Ngụy gọi hai vùng nầy là Việt (hay là nước Việt). Ngày nay sử gia Trung Hoa gọi hai vùng nầy là nền văn minh lâu đời nhất dẫn tới 10,000 năm, kiến tạo ra văn hóa Trung Hoa!
Tôi xin viết tiếp nguyên văn lời kết của tờ Beijing Review nhƣ sau: “These
prove that China, instead of being a simple agrarian nation centered on the Yellow
River area, is a melting pot of multi-cultures with a history of about 10,000 years”
Tạm dịch : “ Tất cả những điều trên chứng minh rằng Trung Hoa, không chỉ là một quốc gia nông nghiệp tập trung ở sông Hoàng Hà, mà còn là một địa điểm pha trộn của nhiều văn hóa khác nhau cùng chung một lịch sử của khoảng 10, 000 năm”,điều nầy truyền thuyết họ Hồng Bàng đã chứng minh từ trước !
Hôm nay ngày Giỗ Tổ, tôi đã trình bày cho bạn thấy tầm quan trọng của truyền thuyết họ Hồng Bàng, trong đó họ Hồng Bàng được coi là “SƠ TỔ ” của thời chưa lập quốc của dân Việt .
Đến giai đoạn lập quốc, thì Lộc Tục cùng cha là Đế Minh và mẹ là Vụ Tiên nữ, cùng vợ là Long nữ , và con là Lạc Long Quân, dâu là Âu Cơ cùng đám cháu là các vị Hùng Vương là “THỦY TỔ ” của thời lập quốc, vì đó chúng ta gọi là “Quốc Tổ”, tức là Tổ của thời lập quốc. ây là Gia phả của dân Việt, mà sau nầy nếu có dịp tôi sẽ bàn đến chi tiết và mở rộng hơn.
Bất cứ một cuộc nghiên cứu nào cũng còn những điểm thiếu sót, bất cứ một việc làm nào cũng cần có những bổ túc, và sửa sai. Thời gian là tƣ liệu lấp đầy những lỗ hổng, là căn bản trám vào những khuyết điểm, thưa bạn, tôi cần rất nhiều thời gian học hỏi cũng như nghiên cứu thêm để bổ túc những khuyết điểm trong bài viết nầy.
Vậy nếu bài viết nầy có gì sơ xuất xin các bậc cao thâm thông cảm và thứ lỗi, tôi xin thành thật rất cám ơn.
LĨNH NAM ẨN SĨ
Trên núi có một con lừa ngốc, đến chết vẫn không hiểu nguyên do
Tác giả: Theo Ntdtv | Dịch giả: Tiểu Thiện
Donkey (Equus asinus), Alps, France
Trên núi có một con lừa ngốc, chết rồi vẫn không biết vì sao mình chết, một câu chuyện ý nghĩa mà bất kì ông chủ nào cũng có thể truyền cho nhân viên đọc để bản thân hiểu hơn về giá trị con người.
Một ngôi chùa trên núi có nuôi một con lừa, mỗi ngày nó đều ở trong phòng xay thóc lúa vất vả cực nhọc kéo cối xay, thời gian lâu dần, lừa ta bắt đầu chán ghét cuộc sống vô vị này. Mỗi ngày nó đều trầm tư,“nếu như có thể ra ngoài xem xem thế giới bên ngoài, không cần kéo cối xay nữa, như thế thật là tốt biết mấy!”
Không lâu sau, cơ hội cuối cùng đã đến, vị tăng nhân trong chùa muốn dẫn lừa ta xuống núi để thồ hàng, lòng nó hứng khởi mãi không thôi.
Đến dưới chân núi, vị tăng nhân đem món hàng đặt lên lưng nó, sau đó trở về ngôi chùa. Thật không ngờ, khi những người đi đường trông thấy lừa ta, ai nấy cũng đều quỳ mọp ở hai bên đường cung kính bái lạy.
Lúc bắt đầu, lừa ta không hiểu gì cả, không biết tại sao mọi người lại muốn dập đầu bái lạy nó, liền hoảng sợ tránh né. Tuy nhiên, suốt dọc đường đều như vậy cả, lừa ta bất giác hiu hiu tự đắc hẳn lên, lòng thầm nghĩ thì ra mọi người sùng bái ta đến thế. Mỗi khi nhìn thấy có người qua đường thì con lừa lập tức sẽ nghênh ngang kiêu ngạo đứng ngay giữa đường phố, yên dạ yên lòng nhận sự bái lạy của mọi người.
Về đến chùa, lừa ta cho rằng bản thân mình thân phận cao quý, dứt khoát không chịu kéo cối xay nữa.
Vị tăng nhân hết cách, đành phải thả nó xuống núi.
Lừa ta vừa mới xuống núi, xa xa đã nhìn thấy một nhóm người đánh trống khua chiêng đang đi về phía mình, lòng nghĩ, nhất định mọi người đến để nghênh đón mình đây mà, thế là nghênh ngang đứng ngay giữa đường lộ.
Thực ra, đó là đoàn người rước dâu, đang đi lại bị một con lừa chắn ngang đường, người nào người nấy đều rất tức giận, gậy gộc tới tấp…Lừa ta vội vàng hoảng hốt chạy về chùa, khi về đến nơi thì cũng chỉ còn lại chút hơi tàn. Trước khi chết, nó căm phẫn nói với vị tăng nhân rằng: “Thì ra lòng người hiểm ác đến thế, lần đầu khi xuống núi, mọi người đều đảnh lễ bái lạy ta, nhưng hôm nay họ lại ra tay tàn độc với ta đến thế”, nói xong liền tắt thở.
Vị tăng nhân thở dài một tiếng: “Thật đúng là một con lừa ngu ngốc! Hôm đó, thứ mà mọi người bái lạy chính là bức tượng Phật được ngươi cõng trên lưng mà thôi”.
Cảm ngộ:
Điều bất hạnh lớn nhất trong đời người, chính là cả một đời mà không nhận thức được bản thân mình.
Đôi khi chúng ta là chính mình, nhưng cũng có những lúc ta đánh mất bản thân, có những lúc để nhận thức được bản thân còn khó hơn cả việc nhận thức được thế giới chung quanh. Mỗi ngày chúng ta đều soi gương, nhưng khi soi gương, có ai từng hỏi bản thân mình một câu rằng: “Bạn đã nhận thức được chính mình chưa?”
Nếu như bạn có tiền tài, điều người ta sùng bái chẳng qua là tiền tài của bạn, chứ không phải chính bản thân bạn, nhưng bạn lại ôm ảo vọng rằng họ đang sùng bái mình.
Nếu như bạn có danh vọng, điều người ta tôn kính chẳng qua là danh vọng của bạn, chứ không phải chính bạn, nhưng bạn lại lầm tưởng rằng người khác đang tôn kính mình.
Nếu như bạn có dung mạo đẹp đẽ, điều người ta mến mộ chẳng qua chỉ là dung mạo đẹp đẽ mà tạm thời bạn đang có, chứ không phải chính bạn, nhưng bạn lại hoang đường cho rằng người khác đang ngưỡng mộ chính bản thân mình.
Khi tiền tài, danh lợi, vẻ đẹp của bạn không còn nữa, thì cũng là lúc bạn bị vứt bỏ…có bao giờ bạn nghĩ đến điều ấy chưa…?
Điều mà người khác tôn sùng chẳng qua chỉ là những ước muốn trong tâm, chứ không phải là chính bạn.
Giá trị một con người xuất phát từ nội tâm chứ không phải những thứ bề ngoài, lao tâm khổ sở vì nó thật là điều bất hạnh nhất trên đời.
Vậy nên nhìn rõ chính mình là điều vô cùng quan trọng và cần thiết vậy!
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)