Thứ Ba, 19 tháng 4, 2016

Cần ứng xử có văn hóa với thiên nhiên





Nằm ven bờ Biển Đông quanh năm cuồn cuộn sóng, đất nước ta đã và đang phải đương đầu với những cơn cuồng nộ của thiên nhiên nhằm trả thù hành vi dại dột của con người triền miên phá hủy môi trường sống của chính mình.
Những nguy cơ của biến đổi khí hậu và nước biển dâng đang trực tiếp tác động vào cuộc sống thường ngày của mỗi chúng ta. Đối diện với hiểm họa đó, ở phương Tây, sinh thái học từ một lĩnh vực triết lý trở thành một phong trào xã hội nhằm tái lập cuộc đối thoại giữa con người, xã hội với thiên nhiên mà thời đại công nghiệp đã phũ phàng vứt bỏ. Triết lý ấy lập luận rằng người, thiên nhiên và các sinh vật chỉ là những hình thái sống khác nhau mà thôi.

Một vị đại biểu của triết lý này, Michel Serres, quan niệm rằng: “Ta đánh mất vũ trụ(…). Ta biến tất cả sự vật thành hàng hóa…Vũ trụ (…) tự cống hiến nó cho chúng ta. Sẽ có sự bất công, sẽ có sự bất quân bình nếu ta nhận sự cống hiến đó một cách miễn phí, không trả lại cái gì cả. Sự công bằng buộc chung ta phải trả, ít nhất là ngang mức ta nhận, nghĩa là vừa đủ”.

Phát triển hướng tư duy đó, Aldo Leopold tiếp tục đưa ra một quan điểm đạo đức “Một việc là tốt, là thiện, nếu có khuynh hướng bảo tồn sự toàn vẹn, sự vững chắc và vẻ đẹp của cộng đồng sinh thái. Một việc là xấu, là ác, nếu trái lại!”

Lévi Strauss còn mạnh mẽ hơn, triệt để hơn khi ông phê bình gay gắt triết lý về chủ thể đã biến con người thành chúa tể thống trị một cõi riêng, giam con người trong lãnh địa văn minh của mình, tách biệt khỏi thiên nhiên vì thiên nhiên bị xem như “không có văn hóa”. Chỉ con người là có văn hóa, vì thế con người tách mình khỏi thiên nhiên. Cái luận đề đó hình thành đổng thời với quá trình đô thị hóa ở châu Âu, song song với đà phát triển văn minh công nghiệp đã cắt đứt con người thành thị ra khỏi giới tự nhiên. Kết quả, con người đã hủy diệt tất cả những gì không phải là chính mình, bắt đầu từ thiên nhiên ấy.

Nếu phương Tây phải tốn hai mươi thế kỷ để bắt đầu nhìn thấy và quyết liệt cảnh báo thì ở phương Đông, vấn đề ấy đã được đặt ra từ rất lâu, với ứng xử quen thuộc:Tương thân, tương ái, tương kính với thiên nhiên. Quan điểm ấy là xuyên suốt, chủ đạo trong triết học nhà Phật: “Cây cỏ, đất đá, đồi núi, tất cả yếu tố của vũ trụ đều có Phật tính”. Và rồi, văn hóa dân gian Việt Nam cũng biểu đạt triết lý ấy, nhưng giản đơn hơn: “Người ta là hoa của đất”.

Ở Việt Nam, còn vô khối câu ca dao cổ biểu tả sự gắn bó giữa con người với tự nhiên, chẳng hạn một chuyện tình: “Trèo lên cây bưởi hái hoa. Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân. Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc. Em có chồng rồi anh tiếc lắm thay. Ba đồng một mớ trầu cay. Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không. Bây giờ em đã có chồng. Như chim vào lồng, như cá cắn câu. Cá cắn câu biết đâu mà gỡ. Chim vào lồng biết thuở nào ra?”. Miễn cho lời bình về nỗi đắng cay uất ức trong lòng cô gái trước sự “tiếc lắm thay” nhạt hều của chàng trai, chỉ xin được nói về thiên nhiên ngập tràn trong tình yêu của đôi trai gái ấy:

Nào hoa bưởi, hoa tầm xuân, nào cây cà, cây bưởi, nào con chim, con cá… Cho dù có nỗi đau quằn quại của chim đã bị nhốt trong lồng, cá đã bị móc vào lưỡi câu oan nghiệt, câu chuyện lứa đôi kia vẫn ngạt ngào mùi hương hoa bưởi, vẫn “xanh biếc” màu xanh của “nụ tầm xuân” mới nở. Mà nào có gì cao xa đâu, cũng chẳng hề biết đến cuộc tranh luận về “triết lý chủ thể” và “triết lý về sự sống” [cho dù là cực kỳ cần thiết và phải biết trân trọng], đây là khung cảnh hết sức gần gũi và quen thuộc của cuộc sống làng quê đã từng xao động tâm hồn của mỗi chúng ta.

Thật ra, không tranh luận, nhưng nếu nói đến triết lý thì đây cũng là một triết lý tiềm ẩn trong tâm thức Việt đó là chữ “Hòa”. “Hòa” trong mối quan hệ giữa người với người, giữa người với thiên nhiên, hòa trong chính mình. Đây là một đặc trưng của tính cách phương Đông thể hiện trong lối sống và văn hóa Việt Nam. Triết lý ấy biểu hiện một nếp tư duy thiên về tổng hợp, kết hợp hơn là phân tích chia cắt, thiên về liên tục hơn là gián đoạn, thiên về tinh thần hơn là vật chất.

Đó là những gì ta cảm nhận từ lời mẹ dạy cho con, bà truyền cho cháu qua lời ru, qua cách ứng xử giữa đời thường. Sự cảm nhận ấy đã truyền đạt một cách dung dị hồn dân tộc trong cuộc sống, trong không khí để thở, trong gầu nước giếng mát để uống, trong mùi thơm của bát cơm gạo mới, vị ngọt của trái chín cây, mùi hương của hoa trong đêm… Đời này qua đời khác kết nối những cảm nhận ấy lại như một thứ “gien” di truyền, chìm sâu trong tâm thức của con người vốn đã sinh ra, hít thở khí trời, uống dòng nước mát, ăn bát cơm thơm trên đồng đất quê hương.

Trân trọng giữ gìn, chăm chút cảnh sắc thiên nhiên quanh ta, một gốc cây, một ngọn cỏ, một nhành hoa, một ngọn lá… là cả một ứng xử văn hóa. Ứng xử ấy cần trở thành một thói quen, một tập quán để định hình một lối sống, một cách sống. Trong cái xô bồ của cuộc sống hiện tại, phải thấy cho ra cái chữ “hòa” ấy trong cội nguồn văn hóa Việt Nam.

Thấy ra để làm gì? Để tự hào về ông cha mình, tự hào về dân tộc mình, đồng thời cũng thấy được những khiếm khuyết mà càng thêm day dứt vì chúng ta đã không thực hiện tốt lời răn dạy của ông cha. Đại Việt Sử ký Toàn thư, Bản kỷ, Quyển III, Kỷ Nhà Lý, triều Lý Nhân Tông, chép rằng: “Năm Bính Ngọ [1126] “Mùa xuân, tháng giêng mở hội đèn Quảng Chiếu bảy ngày đêm. Tha người có tội (giam) ở phủ Đô hộ. Cấm dân chúng mùa xuân không được chặt cây”. Bình về điều cấm này, giáo sư Cao Huy Thuần viết: “Luật của cây cối là: xuân sinh, hạ trưởng, thu thâu, đông tàn. Xuân sinh: hãy nhìn một lộc non vừa nhú lên trong mùa xuân, bao nhiêu là hạnh phúc, bao nhiêu là sức sống. Chặt cây cối trong mùa xuân là kết án tử hình sự sống. Chặt cây cối trong mùa xuân là kết án tử hình mùa xuân. Chưa bao giờ chân lý, thiện và mỹ được nâng cao đến mức ấy”.

“Được nâng cao đến mức ấy” tự bao giờ? Thưa rằng: từ cách đây gần 900 năm, non một thiên niên kỷ! Thì ra, trong sâu thẳm của triết lý nhân sinh, tư duy của loài người bắt gặp nhau ở những điểm tiệm cận trên vòng xoáy trôn ốc của tiến trình phát triển. Ông cha ta từ xa xưa đã có những phương cách bảo vệ môi trường sinh thái hữu hiệu, phù hợp với trình độ phát triển của kinh tế. Đây là mức độ có thể đo đếm được qua những chặng đường thời gian. Nhưng sự nông sâu trong triết lý, trong nguồn mạch của tư duy thì không dễ gì đo đếm một cách thô thiển và vụng dại được! Chính từ đây, từ cái mẫu số chung của thời đại mà suy ngẫm về sựbắt gặp và nối liền nguồn mạch của tư duy hiện đại với sâu thẳm cội nguồn của triết lý đã dẫn dắt, tạo dựng, bảo vệ và phát triển non sông gấm vóc ông cha bao đời để lại cho thế hệ chúng ta hôm nay.

Với quá trình đô thị hóa một cách xô bồ thiếu sự cẩn trọng cần thiết, rồi chuyện “công nghiệp hóa” tràn lan chưa có sự nghiêm túc và thật sự khoa học trong tính toán, lại “hiện đại hóa” nóng vội, bộc lộ sự thiếu hiểu biết, đã vô tình biến đất nước mình thành bãi thải công nghiệp, thành phòng thí nghiệm cho những “dự án” hàm hồ mà cái giá phải trả là rất đắt. Để rồi dòng người từ nông thôn hối hả chuyển vào đô thị gây nên sự quá tải ngày càng trầm trọng về cơ sở hạ tầng, về chất lượng văn hóa của cuộc sống. Xót xa nhất là dần dà nông thôn trở thành nơi không ai muốn ở, nông nghiệp đang là ngành ít ai muốn đầu tư, nền văn hóa làng, cội nguồn của bản sắc văn hóa Việt Nam đang bị mai một, những giá trị truyền thống bị phôi pha, các thế hệ tương lai sẽ bỏ rơi nông thôn.

Tuy nhiên, với một nền tảng văn hiến được xây cất trên một triết lý “người ta là hoa của đất”, nếu biết định hình một chiến lược phát triển đất nước coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển, thì sẽ tìm ra được một cách đi đúng, tránh những xô bồ chứa nhiều hiểm họa như hiện nay. Văn hóa chính là chìa khóa mở ra cánh cửa cho những giải pháp về kinh tế, xã hội trong sự phát triển của đất nước.

Để có thể là “chìa khóa”, phải thấy được văn hóa là một cấu trúc có bề sâu. Cuộc sống nhân sinh được phản chiếu ở cả bề nổi và bề chìm. Dưới tầng nước mặt, văn hóa được phân chia theo những tầng khác nhau, thường tiềm ẩn, kỳ bí vô cùng và tưởng chừng như vô thức. Ở độ sâu này, có một sự sắp xếp của các quy tắc văn hóa điều chỉnh bề mặt ở bên trên. Chính sự tiềm ẩn và tưởng như là vô thức này nằm chìm trong đời sống của dân tộc, làm nên bản lĩnh và cốt cách, tạo nên sức mạnh cho dân tộc ấy. Chính vì lẽ đó, vun đắp văn hóa không thể làm theo cách ăn xổi ở thì kiểu “mì ăn liền”. Văn hóa được hình thành theo quy luật thẩm thấu dài lâu.

Để vun đắp một nền văn hóa ứng xử với tự nhiên, phải biết “thăm dò cái gốc của nó, lại phải tưới tắm cái ngọn của nó, mở rộng cái nguồn của nó, lại phải buông lơi cái dòng của nó” như lời bàn của Nguyễn Văn Siêu, danh sĩ nổi tiếng Việt Nam cách đây gần hai thế kỷ. Muốn làm được việc này, phải có thời gian, đổng thời cần sự kiên tâm nhất định của những người làm công tác tuyên truyền, giáo dục.

<Theo congdanvietnam2

Ân tình






Khi trong tim mặt trời đã tắt
Chung quanh ta chỉ có giao mùa
Lối đi về đâu còn hiện hữu
Nơi ta ngồi rộng lớn mênh mông
Có thể với em chỉ là nấm đất
Nhưng với ta là vạn nẻo ân tình...

Con bê vàng






Sùng bái con bê vàng (tranh Nicolas Poussin)

Cao Huy Thuần

Thánh kinh kể:

Moïse lên núi để gặp Thượng đế vì quần chúng tin rằng ông là trung gian giữa Thượng đế và dân Do Thái. Ông hẹn sẽ trở về trong vòng 40 ngày. Bốn mươi ngày và bốn mươi đêm không ăn uống, ông nghe Thượng đế đọc và khắc trên phiến đá những huấn lệnh nhằm tổ chức đời sống của bộ lạc mà ông là người lãnh đạo. Quá 40 ngày không thấy Moïse xuống núi, quần chúng tụ họp xung quanh Aaron và nói: “Xin tạo ra một vị thần để dẫn chúng ta đi, vì ta không biết chuyện gì đã xảy ra cho Moïse, người đã lãnh đạo chúng ta ra khỏi Ai Cập”. Aaron trả lời: “Hãy lột khuyên vàng ra khỏi tai của vợ các ngươi, con trai các ngươi, con gái các ngươi, và mang đến đây cho ta”.

Tức khắc, quần chúng lột khuyên vàng ra khỏi tai và mang đến cho Aaron. Aaron nhận khuyên, ném vào khuôn đúc, tạo ra một con bê. Quần chúng reo lên: “Israël! Thần của ta đây rồi, thần của ta đã dẫn chúng ta ra khỏi Ai Cập!” Aaron bèn thiết một bàn thờ trước con bê, rồi lớn tiếng loan báo: “Ngày mai, sẽ làm lễ vinh danh Đấng Vĩnh Hằng”. Ngày hôm sau, từ sáng sớm, quần chúng đã hiến súc vật để tế thần. Sau đó họ ngồi ăn uống rồi đứng dậy tiêu khiển.

Đấng Vĩnh Hằng nói với Moïse: “Hãy xuống núi vì dân chúng mà ngươi đã dẫn ra khỏi Ai Cập đang hành động rất xấu. Chúng đã đi ngược với con đường mà Ta đã chỉ dẫn. Chúng đã tạo ra một con bê từ kim loại chảy ra. Chúng đã quỳ lạy trước nó và đã dâng tế vật mà nói rằng: “Israël, đây là vị thần của ta, đã dẫn chúng ta ra khỏi Ai Cập!” Rồi Đấng Vĩnh Hằng nói thêm: “Ta thấy dân tộc ấy là một dân tộc phản loạn. Và bây giờ, hãy xem ta hành động: giận dữ của ta sẽ bốc lửa trên chúng. Nhưng ta sẽ làm cho ngươi thành một dân tộc cường thịnh”.

Rồi Moïse cầu khẩn Đấng Vĩnh Hằng, Thượng đế của ông, hãy thương xót. Ông nói: “Kính Đấng Vĩnh Hằng, tại sao giận dữ của Ngài bốc cháy trên dân tộc của Ngài mà Ngài đã dẫn ra khỏi Ai Cập bằng sức mạnh ghê gớm như vậy? Tại sao dân Ai Cập nói rằng chính Thượng đế của họ đã dùng ác ý để đẩy dân Do Thái ra khỏi xứ sở của họ, làm cho dân Do Thái chết trong vùng núi non, xóa sạch chúng ta ra khỏi trái đất? Xin Ngài hãy nguôi giận và đừng đem đau khổ đến cho dân tộc của Ngài”. Lúc đó, Đấng Vĩnh Hằng mới thôi.

Moïse xuống núi trở về, tay cầm hai phiến đá khắc Liên Minh giữa Thượng đế và dân tộc Do Thái. Từ xa, ông đã nghe tiếng hát. Đến gần, ông chợt thấy con bê và nhiều người vừa ca hát vừa nhảy múa. Nổi giận lôi đình, ông ném hai tảng đá xuống đất, đá vỡ ra từng mảnh dưới chân núi. Ông nắm con bê, vứt vào lửa, đốt nó chảy thành bụi, rải tro trên sông, rồi bắt các người Do Thái uống nước ấy. Rồi ông hỏi Aaron: “Dân chúng này đã làm gì cho ông mà ông dẫn họ vào một tội lỗi tày đình như thế?” Aaron đáp: “Xin ông bớt giận. Chính ông biết rằng dân tộc này có khuynh hướng làm bậy. Họ nói với tôi: Hãy tạo ra một vị thần để dẫn chúng tôi, vì Moïse, người đã đưa chúng ta ra khỏi Ai Cập, không biết bây giờ đang ở nơi nào. Vì vậy, tôi nói với họ: Ai có vàng hãy tháo vàng ra! Họ đem vàng đến cho tôi, tôi đun vào lửa cho chảy ra, rồi đúc nên con bê này”.

Moïse thấy dân chúng bừng bừng khoái trá. Aaron cứ để mặc họ bày tỏ lòng khinh bỉ đối với kẻ thù của họ. Moïse đứng trước cổng trại, la lớn: “Ai đứng về phe Đấng Vĩnh Hằng hãy đến với ta!” Tất cả mọi người trong bộ lạc Lévi tiến đến phía Moïse. Moïse nói với họ: “Đây là lệnh của Đấng Vĩnh Hằng, Thượng đế của Israël: Tất cả sẵn sàng tuốt kiếm bên hông! Xông vào trại, lục soát khắp trại này đến trại khác, mỗi người phải giết, nếu cần, anh em, bạn bè, bà con thân cận!” Các người Lévi vâng lệnh, ngày hôm ấy chừng ba ngàn người bị giết chết. Moïse nói với dân Lévi: “Mỗi người chiến đấu chống lại chính con cái, anh em của mình. Các ngươi hôm nay đã phụng sự Đấng Vĩnh Hằng và hôm nay Ngài ban phúc cho các ngươi”.

Chuyện con bê vàng này trong Thánh Kinh, tất nhiên tín đồ phương Tây đều biết. Con bê vàng là ngụy đạo, tà đạo, dị giáo. Trước đây, ý nghĩa của nó là như vậy. Với thời gian, cụm từ “con bê vàng” thay đổi ý nghĩa: nó được dùng để chỉ các ông thần mới, các chúa tể mới, tranh ngôi Thượng đế với Thượng đế của tôn giáo. Quyền lực chính trị chẳng hạn được họ gọi là con bê vàng. Chủ nghĩa chính trị bắt tuyệt đối phục tòng cũng là con bê vàng. Nhưng bây giờ, sau khi chủ nghĩa sụp đổ cùng với một bức màn sắt và một bức tường chia đôi, có một con bê vàng ghê gớm thay thế, lấn Thượng đế trên bàn thờ: cái tên của nó là Tiền. Tiền vàng, tiền bạc, tiền giấy, tiền vô hình luân chuyển ngày đêm trong ngân hàng. Có tiền mua tiên cũng được. Không chừng mua được cả Thượng đế. Kinh tế càng tạo ra của cải vật chất, Thượng đế vật chất có cái tên là Tiền ấy đẩy Thượng đế tâm linh vào bóng tối trong chính các nước mà trước đây Ngài đã tuyệt đối ngự trị. Ai là Thượng đế ngày nay? Kinh tế hay tôn giáo?

Thật ra, tiến trình đã bắt đầu từ thế kỷ 19 khi một ông đại triết gia tuyên ngôn: “Con người bắt đầu khác con thú ngay khi bắt đầu sản xuất các phương thức sinh sống”. Mà thật vậy, để sống, con người tiền sử cần phải ăn, phải mặc, giải quyết các nhu cầu đầu tiên trước khi tưởng tượng ra các vị thần. Có thể nghĩ rằng phương thức sản xuất ảnh hưởng trên các tín ngưỡng hơn là ngược lại. Khi con người chỉ mới biết hái trái cây để ăn, chắc hẳn họ không có các vị thần giống như khi họ đã biết săn bắn, và từ đó các thần cũng thay đổi bộ mặt trong các xã hội từ du mục qua canh nông, từ xã hội phong kiến qua xã hội kỹ nghệ, xã hội tin học. Thế nhưng, làm sao cắt nghĩa thực tế này: Tuy rằng ngày nay phương thức sản xuất toàn cầu hóa lan tỏa khắp nơi, tuy rằng nếp sống, phong tục, cách suy nghĩ tiến dần đến tình trạng đồng nhất hóa, tuy vậy, tín ngưỡng vẫn mỗi nơi mỗi khác? Thậm chí, tuy dầu hỏa ở đâu cũng là dầu hỏa, tuy tài năng sử dụng tin học ở đâu cũng ngang nhau, trong cùng tín đồ Allah như nhau, sunnites và chiites giết nhau chí chóe?

Tại sao không những tôn giáo vẫn cứ tồn tại mà lại còn gây gổ chiến tranh không đội trời chung? Tại sao kinh tế không phải là Thượng đế? Tại vậy thôi: con người đâu phải chỉ sống vì miếng ăn? Từ khi con người biết họp nhau để săn bắn, xã hội đã thành hình, người này trao đổi, liên kết với người nọ, tất cả chia sẻ với nhau một đời sống chung, tuy rằng mỗi cá nhân có đời sống riêng. Mà làm sao có thể sống chung với nhau được nếu không có một ý muốn chung sống, nếu không thấy một ý nghĩa gì cao hơn, rộng hơn, sâu hơn vượt lên trên các đời sống riêng? Tín ngưỡng đem lại ý nghĩa, và vì vậy tôn giáo có thể đến sau phương thức sản xuất nhưng không thể thiếu vắng.

Hiển nhiên, kinh tế đem lại phồn thịnh, phồn thịnh xóa dần nghèo đói, nhân loại bớt khổ, an vui hơn. Nhưng phồn thịnh mà thôi không đủ để tạo ra văn minh, chắc gì nâng cao văn hóa, chắc gì mang lại hạnh phúc cho con người? Dù rách áo đói cơm, dù thừa thải bạc tiền, người nào cũng có một câu hỏi trong đầu về cuộc sống và nhất là về cái chết. Do câu hỏi chết sẽ đi đâu mà Ai Cập có kim tự tháp, Tần Thủy Hoàng để lại cả một đại quân bằng đất nung. Thì cũng vậy, kẻ rách đói nhất đời cũng lôi ông trời ra mà hỏi sinh ra tôi làm chi để khổ cực thế này. Đế vương cũng khổ, ăn mày cũng khổ. Câu hỏi về cái khổ mênh mông của con người, ngai vàng không trả lời được, áo cơm không trả lời được. Thì phải cầu viện đến tín ngưỡng! Mà tín ngưỡng là câu trả lời của tập thể, của môi trường trong đó họ sống chung. Vị thần họ tìm đến là vị thần chung. Tôn giáo không sản sinh ra phương tiện sản xuất nhưng tôn giáo vượt lên trên mọi phương tiện sản xuất.

Nói ra những điều này không có gì mới lạ, chỉ là đầu năm nhắc lại chuyện cũ. Nhưng cũng nên nói vì kinh tế hầu như là chuyện duy nhất để thu hút mọi quan tâm, để đánh giá mọi tiến bộ ngày nay, tất cả mọi chuyện khác đều dẹp vào thứ yếu. Có nhiều người lại đem chuyện ta để ví với chuyện Tàu: kinh tế là con mèo toàn năng. Không phải đâu, kinh tế chưa phải là Thượng đế của họ; Thượng đế để họ thờ phụng thế cho tôn giáo là tự hào dân tộc của họ, là dân tộc chủ nghĩa. Đối với họ, kinh tế chỉ là con bê vàng. Họ không chút nào lầm lẫn đâu, xin đừng bắt chước, xin đừng đặt con bê vàng lên bàn thờ.

Trong hỗn mang của xã hội ngày nay, giữa cái trống không tư tưởng trong đó chúng ta quờ quạng như người đi đêm trước hiểm họa Bắc phương, hãy có một tự hào Việt Nam để dẫn đường như một tôn giáo chung. Hãy có một lý tưởng chung, một ý nghĩa sống chung, một phương hướng để đi tới. Hãy biết đâu là con bê vàng, đâu là Thượng đế. Trong đời sống chính trị ngày nay của dân tộc Việt Nam, Thượng đế chỉ có thể là dân chủ mà thôi. Sự thật ấy ai cũng biết, trăm người như một. Hãy xem nó như một tín ngưỡng dân sự chung để sống chết với nó. Sự thật ngày nay, xin đừng lấy tay che mắt: Thượng đế không phải là kinh tế, lại càng không phải là chủ nghĩa. Chủ nghĩa chỉ là con bê vàng.

Thứ Hai, 18 tháng 4, 2016

TƯỞNG NIỆM 7 NĂM CỐ THỦ TƯỚNG BẠCH MAO VÕ VĂN KIỆT -(Tư liệu tham khảo)




Lời Phi Lộ: Đông Dương Thời Báo kính dâng tặng Ngài Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt và Ngài Nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu, một vài cảm quan về nước Mỹ, để quý Ngài hiểu Chế độ cai trị và dân chủ trong độc đảng Tư Bản Mỹ và cấp lãnh đạo chính sách và nhà nước Mỹ ( quan thầy ), xem quân cán chính VNCH là lũ người Việt gian tay sai của Mỹ , thế mà Ngài Võ Văn Kiệt lại viết về lũ người này như sau: “…. sống trong chế độ củ, hiện ở trong nước hay ở bên ngoài là những người yêu nước….”
(http://dongduongthoibao.net/view.php?storyid=131)



* Nhà bình bút phiếm luận và nhà nghiên cứu sử Mĩ nỗi tiếng, đã có những bài viết viết phiếm luận và tham luận trên các đại nhật báo New York Times, Los Angeles Times.v.v…là ông Gore Vidal đã được đài BBC phỏng vấn trong mục Tư Duy Thế Kỷ ngày 9/12/2000 đã cho thính giả biết như sau: “…Nước Mĩ và đảng Cộng Hòa thiếu người hay sao mà chọn ông Bush Con ….Nước Mĩ sống dưới chế độ độc đảng là Tập đoàn Tư Bản và Công An trị ….Tư bản Mĩ như là General Electric chế tạo từ cây kim, bỏng đèn, động cơ phản lực, xe tăng….cho đến vệ tinh phóng lên vũ trụ …Mọi người dân Mĩ đều bị Công An thống trị dưới sự chỉ đạo của tập đoàn Tư Bản….Từ Tổng thống cho đến Nghị viên thành phố là những Thằng Hề, nhuộm tóc xanh, đỏ, vàng, tím ..v.v…nhảy múa trên bục nghị trường khi được đắc cử….Hai đảng Dân Chủ và Cộng Hòa chỉ là hai cánh cửa mở ra của độc đảng Tư Bản cho chúng nhảy múa diễn tuồng mà thôi….”


* Bộ trưởng Quốc phòng Rumfield thời còn làm dân biểu đã phỉ nhổ VNCH là “ Chính quyền miền Nam ‘VNCH’ là chính quyền bù nhìn ”….

* Tổng thống Bush Con phỉ nhổ bọn người “ ăn hại đái nát VNCH của hai triều đại Việt gian Cần lao Công giáo Diệm-Thiệu và khối giáo dân Việt gian ngu nghiện đạo chỉ có 5% dân nắm toàn bộ quyền lực Hành pháp, Tư pháp và Quốc hội VNCH, làm tay sai cho thực dân đế quốc Vatican-Mĩ ”. Thật vậy, trong cuộc phỏng vấn của ông O’Reilly ngày 28 tháng 9 năm 2004, với TT Bush đã đặt câu hỏi: ‘ The South Vietnamese didn’t fight for their freedom which is why they didn’t have it today ” ( Người miền Nam VN đã không tranh đấu cho tự do vì thế ngày nay họ không có tự do ). TT Bush đã trả lời: “ Yes ” ( Đúng )



* Giáo sư F. Murray, trường báo chí Annenberg đại học USC đã xúc phạm đến quân lực VNCH, bằng một bài báo đăng trên tờ Los Angeles Times nói rằng quân lực này nổi tiếng"hiếp dâm và ăn cướp... " ( Nhật báo Viễn Đông, thứ Năm, tháng 10 năm 2002 )


BELIEVE IT OR NOT
VÕ VĂN KIỆT ĐẶT LẠI TÊN ĐƯỜNG
VÀ TƯỢNG DE RHODES TẠI T.P. HỒ CHÍ MINH


 

Vào đầu tháng 4, năm 2005, hệ thống truyền thống báo chí, Internet và phát thanh Việt gian phản quốc hải ngoại phổ biến lá thư của cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt ( có cả VOA, BBC, RFI, RFA…..những đài này do ngân sách nhà nước Mỹ-Pháp-Anh tài trợ dưới dạng NED = CIA ), nhất là đài Á Châu Tự Do (RFA) do thông ngôn Pétrus Key Nguyễn Ngọc Bích, trưởng ban chương trình tiếng Việt phổ biến đầu tiên ồn ào và liên tục cho đến khi nào tạo nổi loạn cách mạng đen do Ngài cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt móm mém 90 tuổi lãnh đạo, do Mỹ chỉ đạo?, đã thành công vài biến lọan ngụy danh cách mạng nhung, hồng, cam, vàng….một vài nước trong Liên Bang Nga,…



“ Thư cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt gửi Bộ Chính Trị đảng CSVN ”, vào ngày 11 tháng 1 năm 2005, nhân Đại hội Đảng lần thứ X, và được CHÚNG ngợi khen Ngài, giác ngộ tư tưởng “Quốc gia”, có nghĩa là Ngài đã và đang mạnh dạng kích động và tiến bước tham gia những phong trào phản động do những Việt gian phản quốc Hoàng Minh Chính, Trần Khuê, Nguyễn Thanh Giang…đã và đang nổi loạn trong nước. Trên hai triệu đảng viên CSVN rất khâm phục hiển lộ tâm chất cách mạng qua những đề nghị trong thư của Ngài cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt lắm lắm như là:

Đảng giữ vai trò hạt nhân trong lãnh đạo chứ không phải nhất thiết là người đứng đầu….. Đại biểu dự Đại hội có quyền(?) nêu các vấn đề mới và có quyền yêu cầu họp tiếp …” Ngài có biết là Ngài đang phá thối, xé nát nội quy, cương lĩnh đường hướng và tổ chức Đảng trên 70 năm nay không?….

….tổ chức thảo luận dân chủ và tự do tư tưởng trong các phiên họp toàn thể của Đại hội …thảo luận dân chủ và công khai trong toàn dân….Ngài LÚ rồi hay sao? đây là Đại hội đảng CSVN, chứ không phải là đại hội Quốc dân, để có tranh luận, thảo luận dân chủ, tự do tư tưởng và công khai trong toàn dân, mà mục đích toàn thể đảng viên đại biểu tham dự Đại hội nhất trí hợp thức hoá chính sách và đường hướng của Đảng mà thôi. Ngài cũng đã biết vụ Năm Cam còn mua được tướng Công an. Ngài có tiên liệu không? đế quốc Mỹ dư sức mua đa số đại biểu đảng viên phá thối đại hội Đảng trở thành họp chợ Khánh Hội và có thể mua được Thủ tướng, Quốc hội.… Ngài có trên 60 năm tuổi đảng và tham gia kháng chiến chống Pháp đánh Mỹ, Ngài thấy tổ chức Đảng như thế đó, sao Ngài không ra hồi chánh với Mỹ-Ngụy ,để Ngài thực hiện nền tự do dân chủ nô lệ và tham giaChính quyền bù nhìn miền Nam VNCH. …Cho đến khi Ngài được đảng CSVN giao quyền lực tột cùng làm Thủ tướng hai nhiệm kỳ, đứng đầu cơ quan hành chánh, Ngài không thực hiện dân chủ, trái lại Ngài phạm tội độc quyền, độc tài và áp đặt một vài cơ quan trực thuộc Ngài, bao che Võ hoàng gia dựa vào cường quyền và làm điều phi pháp…

Xin mạn phép đề nghị với Ngài, là vài tháng Ngài phải cải trang thăm dò lòng dân Sàigon đối với Ngài và Võ hoàng gia. Hy vọng Ngài sẽ ngộ để rồi kiên trì và trung thành tuyệt đối chỉ có một và chỉ một Đảng CSVN lãnh đạo Việt Nam giữ vững nền độc lập, thống nhất, chủ quyền, an ninh, hòa bình, xóa đói giảm nghèo, phát triển… và sẽ là Con Rồng Á Châu mà thôi. Và sẽ cứu Võ Hoàng Gia, đã và đang được Đảng ban phát nhiều ân sủng, đặc quyền đặc lợi có cuộc sống đế vương, thoát nạn tắm máu, tịch thâu toàn bộ ngân khố Võ hoàng gia và lưu đày vùng kinh tế mới , nếu đảng CSVN sụp đổ, kinh qua Ngụy quân, Ngụy quyền VNCH sau Đại Thắng Mùa Xuân 75 …..Ngài đứng đầu và chỉ đạo Cơ Quan Hành Chánh, thế mà Ngài lại vi phạm nguyên tắc sơ đẳng hành chánh do đâu vậy? xin đơn cử lời than cán bộ công nhân viên của Ngài như sau:

…Tôi không ngờ, Ngài Thủ tướng Võ Văn Kiệt dám làm qua mặt Đảng và nhất là Ngài vi phạm nguyên tắc sơ đẳng hành chánh, mà Ngài đứng đầu ngành Hành Chánh Nhà Nước. Tôi (NQT), chỉ ngờ thôi, có lẻ Ngài đã cấu kết ngoại bang, không thể nào tin được. Vào năm 1993?, sau nhiều lần Ngài công du Âu châu về. Hôm đó bốn anh em chúng tôi trong uỷ ban đặt tên đường thành phố Hồ Chí Minh đang làm việc, thì có anh Công Văn của Ngài Thủ tướng đưa vào mãnh giấy lộn nhỏ, và nói rằng “ Thủ tướng yêu cầu các đồng chí phải đổi tên đường liệt sĩ cách mạng Thái Văn Lung thành đường tên Alexandre De Rhodes (cố đạo gián điệp) gấp …Chúng tôi hỏi, như thế đồng chí có Văn thư hay Công văn của Thủ tướng không? để chúng tôi dễ dàng hơn…, xin lỗi các đồng chí, không có ạ! chỉ có mãnh giấy này thôi, mong các đồng chí thi hành….Chúng tôi quá ngao ngán “Ông nội chúng tôi có sống lại không dám phản đối Ngài Võ Văn Kiệt và thi hành”

Toàn dân và trên hai triệu đảng viên CSVN, trường kỳ kháng chiến và quyết tâm đánh đuổi thực dân đế quốc Pháp-Mỹ đô hộ Việt Nam trên 100 năm, cho đến khi vĩ nhân Hồ Chí Minh và đảng CSVN, thống nhất toàn dân lãnh đạo kháng chiến kiên cường và hoàn thành chiến thắng vinh quang vĩ đại nhất cho Dân tộc Việt vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Ngài Võ Văn Kiệt là một thành viên cấp lãnh đạo đảng CSVN, tham gia Nam Bộ Kháng Chiến đánh Pháp chống Mỹ, từ lúc còn trai trẻ nhiệt huyết, lý tưởng yêu nước, yêu dân, hy sinh tính mạng, có những lúc chém vè và ăn củ chuối, cách ly gia đình, trường kỳ kháng chiến và không biết chết lúc nào dưới đạn bom , đại pháo và mưa bom rãi thảm B52 của đế quốc Mỹ, nhất lòng đánh cho Mỹ cút Diệm-Thiệu nhào, dành thống nhất, độc lập, chủ quyền cho tổ quốc và vẻ vang dân Việt với những Chiến thắng Điện Biên 54, Điện Biên Trên Không 72, Điện Biên Đại Thắng Mùa Xuân 75, Điện Biên Tàu-Đặng 79….Ngài hy sinh cuộc sống và sinh mạng tham gia cách mạng kháng chiến đánh Pháp, chống Mỹ và bọn Việt gian Lính tập Công giáo… chính quyền Ngô Đình Diệm lê máy (chém) quần thảo khắp miền Nam… ( Võ Văn Kiệt “Tư lệnh” vùng đất thép, Tuổi trẻ online, 28/4/05). Ngài chỉ mơ ước làm sao đất nước độc lập, chủ quyền, thống nhất, sạch bóng ngoại nhân đô hộ và tận diệt Việt gian Công giáo bán nước. Ngài sẽ vui sướng với cuộc sống an bần lạc đạo nhìn thấy nhân dân thoát xiềng nô lệ, có cuộc sống thanh bình an lạc và hạnh phúc. Cho nên, Ngài tham gia kháng chiến với tấm lòng hy sinh quên mình vì nhân dân sống khổ đau ách đô hộ thực dân đế quốc Pháp-Mỹ, không có mơ tưởng dự phóng sau khi kháng chiến thành công, Ngài sẽ có quyền lực tột cùng như là: Thành ủy TP.HCM và Thủ Tướng lãnh đạo Việt Nam….

Đọc cuốn Mậu Thân Sàigon, do nhà Xuất Bản Trẻ - Thành phố Hồ Chí Minh – 1988, bài viết Nhật Ký Mậu Thân ( tr36 – tr 44 ) của Trần Bạch Đằng chỉ huy phócủaNgài, Bộ Tư Lệnh Tiền Phương II, đặc trách mũi tiến công Tây Nam Sàigon với những mục tiêu trong kế hoặch là: Tòa Đại sứ Mỹ, Dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu, Đài phát thanh, Bộ Tư lệnh hải quân, Tổng nha cảnh sát, kho xăng Nhà Bè và một phần sân bay Tân Sơn Nhất.(tr 5)

Đợt I, Mậu Thân Sàigon 68, cho dù không thành công Mỹ cút Thiệu-Kỳ nhào, nhưng là khởi điểm của Đại Thắng Mùa Xuân 75, là tạo cho đế quốc Mỹ hoảng sợ và cảm nhận chiến bại tháo chạy, đưa đến thống tướng Westmoreland tư lệnh chiến trường Việt Nam bị bãi chức và Tổng thống Johnson không ra tranh cử nhiệm kỳ II.

Đợt I, từ ngày mồng một Tết (30-1-68), cho đến ngày mông bảy Tết (5-2-68)…lực lượng vũ trang trong nội thành rút ra ven đô….mãi hằng tuần lễ sau mới cơ bản ra khỏi thành phố….dẫn theo vợ chồng Luật sư Trịnh Đình Thảo, giáo sư Nguyễn Văn Kiệt, anh Lê Hiếu Đằng …Cái khâu cuối cùng quan trọng nhất Nam Bến Lức, xã Bình Chánh, là gặp linh mục Nguyễn Ngọc Lan, giáo sư Châu Tâm Luân ( CG), Cao Hoài Hà (CG), nhà văn Thiếu Sơn (CG), các giáo sư Nguyễn Văn Chi (CG), Lê Văn Chí (CG)...chuyển toàn bộ sở chỉ huy II “chém vè” an toàn về cục R ( tr 36 – tr 44 ).

Chính những ông linh mục Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Trương Bá Cần,… Nguyễn Đình Đầu, dân biểu Nguyễn Văn Binh ( cháu của tên Đại Việt Gian Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình?* ) ….và ngay cả Tổng Tự Vệ Bùi Chu-Phát Diệm, linh mục Việt gian Hoàng Quỳnh…cũng tham gia cách mạng, đi vào mật khu, chiến khu, Lá Mặt Lá Trái, để cứu nguyGiáo hội Công Giáo Việt Gian giờ 25 và chui sâu trèo cao sau này, mà CHÚNG biết Mỹ chiến bại tháo chạy đã tạo vài cơ sở hoạt động nội thành, và dưỡng thương,* còn nếu Mỹ bỏ ý định thua cuộc thì những cơ sở, kể cả nhà thờ cho trú quân, dưỡng thương, quân báo nội thành …sẽ là những cái bẫy bắt tóm gọn VC cho Mỹ-Ngụy, mà ngày nào năm xưa linh mục Cao Văn Luận quân ủy đảng Cần Lao Công Giáo….và một số linh mục Lá Mặt Lá Trái biết chế độ Diệm suy tàn, khổ nhục kế phản Ngô và tham gia đấu tranh Phật giáo 63, chống tam đại Việt gian Ngô Đình Diệm cứu nguy Giáo hội, để xâm nhập chui sâu trèo cao vào Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng 63, cuối cùng đã lật được thế cờ sống lại chế độ Cần Lao Công Giáo Diệm Không Diệm.


Ngài biết rất rõ về Giáo Hội Công Giáo Việt Gian là luôn luôn hợp tác, tay sai thực dân đế quốc Pháp-Mỹ và phản quốc, CHÚNG chỉ có một và chỉ một tổ quốc là La Mã (Vatican). Thời niên thiếu, Ngài đã nhìn thấy đoàn quân Lê Dương thực dân Pháp và đoàn Lính Tập Công Giáo Việt Gian, tàn hại nhân dân trong những lần CHÚNG hành quân càn quét, lùng và diệt, đã đánh động dòng máu Đinh, Lê, Lý, Trần ….Văn Thân Cần Vương bùng sôi trong huyết quản chàng trai Nam bộ Vĩnh Long, tham gia trường kỳ kháng chiến và Tập kết ( những kháng chiến quân Nam bộ, tập kết ra Bắc, được Hồ Chí Minh và đảng CSVN, dành cho có cuộc sống ưu đải ). Thề quyết hy sinh đánh Pháp, chống Mỹ và diệt Việt gian Lính tập Công giáo …dày xéo quê hương.


Một vài tháng trước ngày 30 tháng 4 năm 2005, toàn dân Việt trong nước và hải ngoại nô nức chuẩn bị đón mừng kỷ niệm 30 năm Đại Thắng Mùa Xuân 75. Trong khi đó những thế lực phản động Việt gian hải ngoại, nhất là tại Mỹ, dưới sự chỉ đạo của tập đoàn Mafia Việt gian Công giáo Suy Tàn ( đón đọc Sự Suy Thoái Công Giáo Việt Nam Hải Ngoại Và Trong Nước, ĐDTB ) được sự ủy nhiệm của thực dân đế quốc bá quyền xâm lược Mỹ-Pháp-Anh-Úc cố tạo khấy động và kích động nổi loạn cách mạng đen Việt Nam, qua truyền thông báo chí, Internet và phát thanh, trong đó có VOA, BBC, RFI và RFI…do ngân sách nhà nước Mỹ-Anh-Pháp-Úc tài trợ dưới dạng NED = CIA, cũng tổ chức tưởng niệm 30 năm Chiến Bại Tháo Chạy Theo Đế Quốc gọi là Quốc Hận Mất Nước ( nước nhà thì độc lập, thống nhất, chủ quyền và sạch bóng ngoại nhân đô hộ….)

Trong suốt 30 năm Việt gian Công giáo cam chịu khổ nhục kế để chui sâu trèo cao mà ngày nay có thể CHÚNG móc nối được tổ chức Ngài Võ Văn Kiệt và tạo dựng được Tạ Tốn Võ Văn Kiệt? mà trong tháng 4/2005, Ngài không ngần ngại thăm dò đảng CSVN, sẽ có biện pháp gì đối với những phát biểu của Ngài qua một số bài trên các trang web, mà trước đây đàn em của Ngài, ông Lê Văn Nuôi là thành viên Công Giáo Tiến Hành*, chui sâu trèo cao đến chức Tổng biên tập báo Tuổi Trẻ, trên tờ báo Xuân Tuổi Trẻ năm 2001, đã thăm dò thử lửa nội lực đảng CSVN có còn như trong thời kháng chiến chống thực dân đế quốc Pháp-Mỹ không? bằng cách diễn tuồng thăm dò dư luận ( Poll ) để xóa hào quang vĩ nhân nhân loại Hồ Chí Minh (39%), không được dân Việt ngưỡng mộ bằng ma đạo siêu tư bản Bill Gate (89%) bị Âu Châu bắt bồi thường gần 2 tỷ dollars về tội tranh thương bất chính.

Báo Tuổi Trẻ & Online ( cơ quan chính thức văn hóa tư tưởng của Ngài Võ Văn Kiệt? ), tuần báo Quốc tế và bức thư “ Thư cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt gửi Bộ Chính Trị đảng CSVN ”, ngày 11 tháng1 năm 2005, đăng trên trang web đài Á Châu Tự Do ( RFA ), ngày 4 tháng 3 năm 2005 ( 2005-03-04 ), các tờ báo đảng Việt gian Công giáo và một số tờ báo LÁ CẢI sống bằng nghề chống cộng và một số trang web … Nội dung bức thư có vài đoạn phản đông cũng được ghi lại trên một số bài viết như là: Tuổi 30 và Những Đòi Hỏi Mới Của Thời Cuộc được phân tích dưới đây.

Xin Ngài lượng thứ, có những đôi dòng cảm nhận về Ngài giống giống một nhân vật trong bộ truyện kiếm hiệp của Kim Dung đó là

Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn là một nhân tài tuyệt thế võ công trong truyện kiếm hiệp Cô Gái Đồ Long của Kim Dung, tự phế bỏ tuyệt thế võ công,trốn ở ốc đảo và chờ chết cho những ai tham vọng cướp đoạt Đồ Long Đao. Cũng như Ngài là Bạch Mao Thủ Tướng Võ Văn Kiệt, có tấm lòng kiên trì và tài trí đấu tranh cách mạng đánh Pháp, chống Mỹ, diệt Việt gian Công giáo và một thời nắm quyền lực tột cùng lãnh đạo Việt Nam và Võ hoàng gia có cuộc sống đế vương. Thế mà Ngài lại phủ nhận thành quả hy sinh cách mạng của Ngài, là Ngài mong muốn khép lại quá khứ và ca ngợi Việt gian, tay sai, bù nhìn VNCH* ….sống trong chế độ củ, hiện ở trong nước hay ở bên ngoài là những người yêu nước …

Đã được Thượng tướng Lê Ngọc Hiền phủ bác “ ….Nhưng như thế không có nghĩa là ta lãng quên lịch sử, lãng quên tất cả những gì đã diễn ra, lãng quên những người đã hy sinh xương máu làm nên chiến thắng vĩ đại để có cuộc sống hôm nay…Lịch sử có giá trị khách quan , bền vững, có sự công bằng của nó. Không ai, không thế lực nào có thể xuyên tạc, bóp méo.” bài trả lời phỏng vấn từ tuần báo Quốc Tế của Ngài Võ Văn Kiệt “ Những Đòi Hỏi Mới Của Thời Cuộc ”…và “ TUỔI 30”

Ngài mơ tưởng rằng với số tuổi gần 90 tuổi, Ngài hợp tác với bọn Việt gian và đế quốc Mỹ, có cơ may tạo cách mạng đen, sẽ được CHÚNG cho làm Tổng thống và Võ hoàng gia vẫn còn quyền lực để làm những điều phi pháp như hiện nay. Ngài có LÚ không? Ngài đã viết tội ác tam đại Việt gian Ngô Đình Diệm là Thánh tổ Việt gian Công giáo như thế này “… chính quyền Ngô Đình Diệm lê máy (chém) quần thảo khắp miềnNam…” ( Võ Văn Kiệt “Tư lệnh” vùng đất thép, Tuổi trẻ online, 28/4/05). CHÚNG đã dành cho Ngài và Võ hoàng gia một vé tàu lên thiên đàng xử dị giáo giàn hỏa và bó đuốc trong tình yêu thương của Chúa Nhân Lành nếu nhà nước Việt Nam sụp đỗ, không nhân đạo như đảng và nhà nước cách mạng, kinh qua Ngụy quân Ngụy quyền sau ngày 30/4/1975 ( trích kể một vài câu chuyện của một số ngụy quân hồ hởi kể công thành quả đóng góp cách mạng diễn tuồng như Ngài, đã bị xử bắn tại chợ ngày 30/4/75, ở phần ghi chú ).

Xin thưa cùng Ngài, những gì Ngài và Võ hoàng gia đã và đang làm đều được ghi báo từng chi tiết ở Bộ Công An. Nhưng với luật chơi và công lao cách mạng của Ngài, Ngài và Võ hoàng gia vẫn đựợc đảng và nhà nước ưu đãi đặc quyền đặc lợi có cuộc sống đế vương như hiện nay cho dù vài năm nữa Ngài được CHÚA gọi về, mong Ngài đừng “sợ” mà cách đây mấy năm, khi hay tin Ngài Lê Đức Anh bị tai biến mạch máu não, Võ hoàng hậu lo âu đã vội đưa Ngài vào bệnh viện khám tổng quát…với điều kiện kinh doanh đầu tư chân chính và tuân hành pháp luật như mọi công dân Việt đang sinh sống tại Việt Nam ….

Bây giờ, xin mạn phép phân tích những đoạn Ngài trả lời phỏng vấn tư tuần báo Quốc Tế ( 31/3/05 ) “ Những Đòi Hỏi Đổi Mới Của Thời Cuộc ” và bài viết “ Tuổi 30 ”.

Suy nghỉ của tôi…làm sao để không còn những nhà lãnh đạo phải trưởng thành từ chiến tranh…Chiến tranh đã qua cách đây ba chục năm…chuyển giao quyền lãnh đạo cho thế hệ kế tiếp….có nghĩa là tôi mong chiến tranh thật sự thuộc về quá khứ. Một quá khứ mà chúng ta mong muốn khép lại

Thật lòng không Ngài? lúc Ngài 70 tuổi, lên làm Thủ tướng là nhà lãnh đạo trưởng thành từ chiến tranh với quyền lực tột cùng, sao Ngài không từ nhiệm chức ấy giao cho thế hệ 25 - 30 tuổi, chẳng hạn như đàn em thân tín Lê Văn Nuôi, nghe đâu có đấu đá và Ngài đại thắng. Cở Lê Văn Nuôi hay ít tuổi hơn không trưởng thành từ chiến tranh thì làm sao có đủ bản lĩnh đối đầu và đánh bại đế quốc Mỹ, cuộc chiến Việt Nam II từ năm 1976 đến 1996. Hiện nay cho đến năm 2025, thành phần lãnh đạo Việt Nam vẫn phải trưởng thành từ chiến tranh chống Mỹ cứu nước, và cần học những kinh nghiệm lãnh đạo trong thờiđổi mới bền vững không có tăng tốc, ( dục tốc bất đạt ), kinh qua Liên sô của ông Ngốc-Mà-Chết ( Góoc Ba Chóp ) từ những lão thành cách mạng như Ngài, thì hy vọng đánh bại ý đồ đế quốc Mỹ xâm lăng Việt Nam III bởi Diễn Biến Hòa Bình sẽ tạo nổi loạn ngụy danh cách mạng đen…

Trong lúc Ngài: “…Nói như thế có nghĩa là tôi mong chiến tranh thật sự thuộc về quá khứ. Một quá khứ mà chúng ta mong muốn khép lại….”. Thưa Ngài, quá khứ mà Ngài đã tham dự là một quá khứ vĩ đại nhất của thế kỷ 20, vẻ vang dân Việt, quân sử thế giới và lịch sử thế giới của các quốc gia trên thế giới kể cả đế quốc Mỹ cũng bái phục dân Việt, đã đánh bại đế quốc Mỹ hùng mạnh nhất địa cầu này, bởi sức người, ý chí quyết tâm của toàn dân với nắm cơm vắc và muối đã làm nên trang sử hào hùng nhất của nhân loại đã được Tướng John Abizaid, Tư lệnh Mỹ ở Iraq, sau khi đi thị sát Iraq ba ngày đã tuyên bố:“…Ở Việt Nam, sự nổi dậy mang tính chất toàn quốc. Đối phương mô tả đó là cuộc tổng nổi dậy và quả thật là thế….BBC, ngày 15/2/05 ” .



Trong khi đó suốt 30 năm, ở hải ngoại Việt gian Công giáo chỉ có “cái mõm C” ồn ào làm nghề chống cộng nào là giải thể CSVN tức khắc và tận diệt người đảng viên cuối cùng….và hà hiếp đa số Việt kiều thầm lặng muốn yên thân để lo cuộc sống trả BILLS…với bao nhiêu khổ đau đang chờ họ nào là nhà tù* ( ở Mỹ làm cái gì cũng có thể vào tù bạn ạ! ), trộm cướp, đĩ điếm và Công An Tri ….tại Mỹ. Một quá khứ dơ dáy, bỉ ổi, vô liêm sĩ và phản bội tổ quốc làm tay sai Việt gian, Lính tập Công giáo và chính quyền bù nhìn VNCH. CHÚNG không muốn khép lại quá khứ dơ bẩn ấy, mà lại còn to mồm “C” vinh danh chính quyền bù nhìn VNCH* và QĐVNCH anh hùng thiện chiến đánh đâu thắng đó, chiến thắng vĩ đại cuối cùng của CHÚNG là vất bỏ quân phục mình trần,vũ khí, đơn vị và bám vào phương tiện quan thầy chiến bại đế quốc Mỹ cùng tháo chạy , đã được Giáo sư F. Murray, trường báo chí Annenberg đại học USC đã xúc phạm đến quân lực VNCH của CHÚNG bằng một bài báo đăng trên tờ Los Angeles Times nói rằng quân lực này nổi tiếng "hiếp dâm và ăn cướp... " ( Nhật báo Viễn Đông, thứ Năm, tháng 10 năm 2002 )

Ngài Võ Văn Kiệt, “ thiền sư ngộ đạo lục hòa” đáng kính yêu và tôn quý, Ngài đã kêu gọi một cộng đồng hòa hợp…”khép lại” như sau: “…..Sau 30 năm qua, tôi nghỉ mọi người VN chúng ta, cả đôi bên đều nhận thấy khi không còn sự can thiệp từ bên ngoài nữa, chúng ta có thể trở về bên nhau, cùng nhau xây dựng. Và VN sẽ thêm phát triển khi mọi người Việt dù ở đâu cũng đều ở trong một cộng đồng hòa hợp” …Ngài nói thật lòng ư? hay là Ngài ngây thơ chính trị hay là Ngài âm mưu gì đây ru ngủ nhân dân mất đề cao cảnh giác âm mưu thực dân đế quốc da trắng Mỹ-Âu Châu đã và đang xủ dụng Việt gian Công giáo, Việt gian Tin lành ( Tin Ác ) và một số sư Việt gian CCCĐ* Huyền Quang, Quảng Độ….bám vào danh tướng của cái xác ma GHPGVNTN I&II, qua Diễn Biến Hòa Bình mà Ngài đã đấu trí hay móc nối tạo phản loạn Tây Nguyên, trong hai nhiệm kỳ Thủ tướng với những biến dộng nỗi loạn nhà thờ Vinh Sơn, dòng Đồng Công Thủ Đức tại TP. HCM, Trà Cổ ở Bà Rịa, Việt Bắc của tên Đèo Văn Long, nỗi lên đòi tự trị thành lập quốc gia lấy Tin lành giáo làm quốc giáo vào năm 1999 và Tây Nguyên vào những năm 2001 – 2004,

Không biết Ngài dựa vào đâu? Ngài xác quyết: “….không còn sự can thiệp từ bên ngoài nữa,….”. Hãy nhìn những ông bí thư thứ nhất của tòa Lãnh sự và Đại sứ quán thực dân đế quốc bá quyền Mỹ vẫn mơ màng như là quan Thái thú miền Nam VN ngày nào năm xưa, đứng chung với những thân nhân phạm nhân trước tòa án tuyên xử những tên phạm nhân đại Việt gian phản quốc Hoàng Minh Chính, Nguyễn Đăng Quế, Nguyễn Thanh Giang, Trần Khuê, Phạm Hồng Sơn, Phạm Quế Dương, Lê Chí Quang, Dương Thu Hương, Nguyễn Vũ Bình, Hà Sĩ Phu, Tiêu Dao Bảo Cự…đi thăm những phạm nhân Việt gian Quảng Độ, Huyền Quang, Nguyễn Văn Lý…đang thụ án quản thúc tại gia và đi thăm quan nổi loạn Tây Nguyên …tạo cho những phạm nhân Việt gian mơ tưởng rằng được Mỹ nhận làm tay sai Việt gian…đó là Diễn Biến Hòa Bình, xía vào nội trị Việt Nam.Đã được cái ông thông ngôn Petrús Key Nguyễn Ngọc Bích đài Á Châu Tự Do (RFA) nhận trợ cấp lương trên $75,000/a year, từ ngân sách NED = CIA, chuyên nghề móc nối phỏng vấn những tên đại Việt gian phạm nhân này, tên khùng sĩ đại Việt gian Nguyễn Gia Kiểng, tên Việt gian đào tỵ Bất Tín Bùi Tín và anh của Việt gian Nguyễn Đăng Quế …

Nhà nước và Đảng đã ban phát cho lũ Việt gian tháo chạy theo đế quốc Mỹ bằng nhiều cách. Trong giao thời thống nhất 30 tháng 4 năm 1975, Ngụy quân và Ngụy quyền con đường đào thoát là bỏ đơn vi, cởi bỏ quân phục, vũ khí….mình trần chỉ còn quần lót theo quan thầy Mỹ tháo chạy. Đến giai đoạn ổn định an ninh hoàn toàn đất nước với chiến thắng VIỆT NAM II, từ năm 1976 đến 1996, tận diệt toàn bộ lực lượng Mỹ gài lại bởichiến lược kháng chiến giả và diễn đàn dân chủ của Steven Young vào năm 1990 tại TP. Hồ Chí Minh, tạo Vượt Biên và tống xuất người Tàu về Trung quốc vào thập niên 80 và cho ra đi có trật tự di dân kinh tế HO & ODP. Cuối cùng Nhà nước và Đảng đặc xá không còn dùng từ Ngụy quân và Ngụy Quyền, mà là khúc ruột ngàn dặm hay kiều bàoViệt nước ngoài và được về thăm Việt Nam, để chữa trị bênh tâm thần điên điên khùng khùng…..

Đảng và nhà nước tạo không khí hòa hợp và khoan dung như thế đó. Nhưng CHÚNG vẫn mơ tưởng được đế quốc Mỹ nhận làm tay sai Việt gian bằng cách chống Cộng bằng mõm “C” là giải thể đảng CSVN tức khắc từ gần 30 năm nay, thề quyết giết sạch đảng viên CSVN cuối cùng và nhất là Ngài Sáu Dân và Võ hoàng gia được CHÚNG dự phóng rất ưu đãi hơn 20 năm, đưa vào căn nhà thiên đàng chứa toàn loại kiến ăn thịt người thuộc rừng nhiệt đới ( Amazon ), vui hưởng những năm tháng còn lại, khi đảng CSVN sụp đổ và Việt Nam bị đế quốc Mỹ-Vatican tái đô hộ do Ngài mơ tưởng phản quốc và phản đảng sẽ được trở thành Tổng thống móm mém ảo vọng……

Đại Thắng Mùa Xuân 75, chiến thắng vĩ đại nhất của nhân loại trong thế kỷ 20 và vẻ vang nhất của dân tộc Việt Nam. Chiến thắng dành độc lập, thống nhất đất nước, đánh đuổi ngoại xâm...hay những cuộc cách mạng ….của các quốc gia trên thế giới là phải trả giá cho chiến thắng bằng cả nỗi đau và nhiều mất mát (trên 3 triệu dân quân cách mạng và dân, vài trăm ngàn Ngụy quân và Ngụy Quyền và hàng triệu dân quân và dân bị thương tật bởi bom đạn và chất độc da cam, cùng với trên 58 ngàn quân xâm lược Mỹ thương vong, trên 100 ngàn cựu quân nhân Mỹ tự tử bởi hội chứng chiến tranh Việt Nam và vài trăm ngàn thương phế binh.....). Chiến thắng đó là niềm vui đại khối dân tộc Việt, tại sao Ngài lại bảo rằng “…nhưng chúng ta cũng đã phải trả giá cho chiến thắng bằng cả nỗi đau và nhiều mất mát…” , chỉ vì một thiểu số Việt gian trong đó có họ hàng của Ngài, buồn đau và nhiều mất mát quyền lợi và quyền lực làm Việt gian cho thực dân dân đế quốc Mỹ-Pháp mà thôi. Không những thế CHÚNG vẫn còn mơ tưởng thực dân đế quốc Mỹ, tiếp tục cho làm Việt gian qua Diễn Biến Hòa Bình từ ngày đất nước thống nhất.

Hai nhiệm kỳ Thủ tướng của Ngài cho đến hiện nay. Nhà nước và đảng CSVN luôn luôn mở rộng khoan dung, đặc xá và xoa dịu vết thương đau tội đồ Việt gian của CHÚNG, nhưng CHÚNG không hối cải, mà lại tiếp tục Việt gian đánh phá tổ quốc làm vết thương tiếp tục rỉ máu qua Diễn Biến Hòa Bình để đế quốc Mỹ, xía vào nội trị Việt Nam và áp lực ngoại thương…mà theo Ngài, bây giờ việc cần làm tiếp là gì? như sau:“ …Chiến thắng của chúng ta là vĩ đại, nhưng chúng ta cũng đã phải trả giá cho chiến thắng đó bằng cả nỗi đau và nhiều mất mát. Lịch sử đã đặt nhiều gia đình người dân miền Nam rơi vào hoàn cảnh có người thân vừa ở phía bên này,vừa ở phía bên kia, ngay cả họ hàng tôi* cũng như vậy. Vì thế, một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là một vết thương của dân tộc cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục rỉ máu”

Ngài đã nghỉ ra phương án để lành vết thương này phải có sự tham gia của mọi người Việt?. Sao Ngài không dùng từ hòa hợp hòa giải và đa nguyên đa đảng của tên đại Việt gian Nguyễn Gia Kiểng …mà chỉ nói “ khoan dung và hòa hợp” kỳ thế?. Chỉ có toàn dân và một chỉ một đảng CSVN nắm quyền lãnh đạo đất nước mà thôi. Ngài có biết một số di dân Việt gian hải ngoại là khối tạp nhạp đa nguyên bầy nhầy và dân chủ Mafia, chỉ có cái MÕM “C” , mà lại luôn luôn quyết giải thể và tàn sát đảng CSVN, và không bao giờ không bao giờ hòa hợp hòa giải, thế mà Ngài: “ Đây là một vấn đề lớn. Chúng ta đang nắm quyền lãnh đạo đất nước, muốn để mọi người Việt cùng chung tay hàn gắn, chúng ta tạo dựng thì chúng ta phải thực tâm khoan dung và hòa hợp. Sau 30-4-75, khi đồng chí Lê Duẩn vào Sàigon, vừa xuống thang máy bay đồng chí nắm tay đưa lên cao, giọng đầy cảm xúc nói: ‘ Đây là thắng lợi của cả dân tộc, không phải của riêng ai’. Sau 30 năm, tôi thấy không phải dễ dàng làm cho mọi người VN cảm nhận được điều đó.”



Trước những tháng ngày Đại Thắng Mùa Xuân 75, Ngài là thành phần lãnh đạo Xứ Ủy Nam Kỳ, trong đó có Quân khu 9. Ngài biết rất rõ quân khu 9 đã binh vận Tư lệnh Vùng IV Ngụy Quân VNCH Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam như thế nào?.và Ngài cũng đã biết Việt gian Công giáo đã được thực dân Pháp bật đèn cho biết Pháp sẽ trở lại VN thay Mỹ bỏ chạy và được Trung Quốc liên kết hợp tác không?...

Ngài cũng biết rõ chế độ bù nhìn miền Nam VNCH là chế độ Cần Lao Công Giáo Diệm Không Diệm, với số giáo dân vào khoảng 7% dân số miền Nam, ước độ 1.260.000 giáo dân ( một triệu hai trăm sáu mươi ngàn ) của khoảng 18 triệu dân miền Nam vào ngày 30 – 4- 1975, trong khi đó số tín đồ Cao Đài trên 2 triệu , và Phật Giáo Hòa Hảo trên 2 triệu là những chiến lũy thành đồng vách sắt chống lại truyền bá đạo Việt gian Công giáo vào miền Nam ( Đông và Tây Nam Bộ). Thế mà, Đô trưởng Sàigon là bác sĩ Văn Văn Của, em rễ của Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan phóng đại số giáo dân vào thời tướng Kỳ nắm quyền lực trước Mậu Thân 68, vào khoảng 2 triệu giáo dân. ( có lẻ bác sĩ Văn Văn Của gom lai số giáo dân miền Bắc cho cả nước thì có thể tin được )

Với số giáo dân chừng ấy, dưới 1,3 triệu giáo dân ( suốt 21 năm từ 1954 – 1975 ), mà nắm 2/3 Quốc hội và chính quyền bù nhìn VNCH, thao túng miền Nam, do Mỹ ủy nhiệm làm tay sai, phản quốc để chiếm đoạt tài sản miền Nam gởi về nhà nước Mafia Vatican.

Trước đó 2/3 Dân biểu và Nghị sĩ Việt gian Công giáo bù nhìn VNCH, chống và ngăn chận Đại tướng Dương Văn Minh nắm lại quyền lực nếu có bầu cử dân chủ, mà tuyệt đại đa số dân miền Nam từ Bến Hải đến Cà Mâu rất kính mến và ủng hộ.

Thế là toàn bộ 2/3 Dân biểu và Nghị sĩ này, chuyển ngãm đứng đàng sau tướng Minh theo lệnh quan thầy Pháp,Lá Mặt Lá Trái và Chui Sâu Trèo Cao do thủ lĩnh Chủ tịch Công giáo Tiến Hành, chủ tịch Hạ Viện VNCH đại Việt gian Nguyễn Văn Huyền lăng xăng đứng phó tổng thống, cùng số Việt gian cài lại ( Công Giáo Tiến Hành trong đó có ông Lê Văn Nuôi ) gồm có: Ngô Công Đức, Lý Qúy Chung, Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Văn Binh, Nguyễn Đình Đầu,….bao vây chung quanh tướng Minh, hy vọng có biến chuyển mới theo kế hoặch Pháp vạch sẵn. Nhưng đã bị tướng Minh nhìn rõ thực chất của đám tàn quân VNCH và kinh qua bản chất Việt gian Công giáo sau Cách Mạng 63, tướng Minh đã tâm sự nỗi lòng với tướng Nguyễn Khoa Nam như sau:

…Đất nước chúng ta đã hơn 1000 năm đô hộ giặc Tàu, và 100 năm đô hộ giặc Tây…. ông cha ta đã trường kỳ kháng chiến dành độc lập chủ quyền VN và kiên cường bảo vệ tổ quốc mà bao lần Tàu xâm lăng và chiến bại bởi các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần và Nguyễn Quang Trung…. thời Cận đại thì có Văn Thân Cần Vương, cho đến khi Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn dân kiên cường trường kỳ kháng chiến đánh thắng Pháp , đáng lý thống nhất đất nước vào năm 1954, nhưng Mỹ nhảy vào thay (đá) Pháp thống trị miền Nam ( hợp ý với Trung Quốc là không muốn VN thống nhất ), để thử nghiệm chủ thuyết Chiến Tranh Lạnh và trút đổ vũ khí tồn kho thế chiến II, trên đầu dân Việt, kéo dài gần 21 năm, giết hại trên 3 triệu dân Việt cùng với di họa Chất Độc Da Cam. Nhưng cuối cùng Mỹ đã chiến bại mà theo tôi được biết Mỹ có ý định bỏ chạy từ khi căn cứ Khe Sanh sống dưới, trên 10 ngàn đạn mưa pháo hằng ngày, suốt trên một tháng, cùng theo đó Tổng Công Kích Mậu Thân 68….và có những ngày, có vài trăm binh sĩ Mỹ tử thương…có lẻ anh Nam cũng biết những người bạn thân và sĩ quan đi tu nghiệp quân sự các phân ngành tại Mỹ đều có được số bạn Mỹ học cùng khóa khuyên ở lại Mỹ, đừng về Việt Nam…mong anh Nam là đất nước cơ may ngàn năm mới có ngày thống nhất… dân Nam và tài sản thoát nạn mưa pháo….toàn bộ QĐVNCH đã tan hàng từ lâu…không những thế số tướng lãnh hưu trí được tôi kêu gọi trở lại nắm quyền thay số tướng tá bỏ chạy, thì họ lại lợi dụng chức vụ tạm thời để bỏ chạy mà thôi ….Nếu chúng ta vội tin Pháp và Trung Quốc như kế hoặch đã đinh…và giữ được miền Nam thì đất nước cũng bị lệ thuộc…. và nhất là Trung Quốc có chịu rút quân về không? sau khi chiếm Hà Nội và một số tỉnh miền Bắc…chắc chắn chúng ở lại…..thế thì đất nước lại bị đô hộ giặc Tàu-Tây có thể trên 1000 năm, bao lâu nữa con cháu ta dành lại độc lập, chủ quyền Việt Nam, anh Nam?...chúng ta sẽ có đại tội với tổ quốc và dân tộc … con cháu chúng ta đã bị đồng hóa thành dân Tàu?....Chúng ta chờ xem đất nước thống nhất, hy vong nhà nước CHXHCNVN và đảng CSVN đối xử dân miền Nam chúng ta không đến nỗi gì...nhưng dù sao còn hơn bị đô hộ Tàu-Tây phải không anh Nam?... mong anh nhất trí cùng tôi là anh sẽ ra lệnh quân đoàn anh buông súng, tan hàng về quê, mà trong vòng vài ngày nữa tôi sẽ tuyên bố đầu hàng để cứu dân, binh sĩ và mừng đất nước thống nhất….tôi hiểu tâm trạng và nỗi lòng của anh … nhưng vì quyền lợi tối thượng dân tộc…binh đoàn chúng ta đã tan hàng và sẽ chiến bại….. sức chúng ta chẳng còn có gì ngay cả siêu cường hùng mạnh số một cũng chiến bại và tháo chạy….” ( trích đoạn tài liệu đặc biệt của anh K trao cho vào năm 2004, tại T.P. Hồ Chí Minh, hy vọng một số dự kiện tài liệu này sẽ có trong cuốn Hồi Ký Đại Tướng Dương Văn Minh )

Để thẩm định mức độ chuẩn xác của tài liệu anh K. Thì đây là phần ghi tóm lược chương trình đặc biệt Phỏng Vấn Hội Thoại nhân ngày Quốc Hận Mất Nước 30 – 4 – 75 ( nước nhà thống nhất, độc lập, chủ quyền không bị ngoại bang thống trị và đô hộ Tàu-Nga-Pháp Mỹ…thế mà CHÚNG điên khùng gọi là mất nước ) của đài Sàigon Houston do chủ đài ông Dương Phục vào ngày thứ hai 25 tháng 4 năm 2005, diễn giả phỏng vấn hôm nay là chuẩn tướng Mạch Vân Trường cho biết như sau:

….chuẩn tướng Mạch Vân Trường tư lệnh sư đoàn 21, sau những trận đụng độ một số sư đoàn thiện chiến Bắc Việt…. đã rút về tử thủ căn cứ không quân Trà Nóc…quân số còn lại vào khoảng trên 10 ngàn hay 12 ngàn binh sĩ….đang bay thị xác mặt trận ….thì được thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam điện khẩn gọi về Bộ Tư Lệnh Quân Khu IV, nhận lệnh….tướng Trường bay vội về Bộ Tư Lệnh…gặp chuẩn tướng Lê Văn Hưng, tư lệnh phó qua vài điều tâm sự… đi lên ngay văn phòng tướng Nam… được thiếu tướng gọi về không biết tôi phải làm gì đây?...sau vài phút trao đổi về tình hình đơn vị và tinh thần sĩ quan và binh sĩ sư đoàn 21…tinh thần chiến đấu cao, hiện nay bảo vệ căn cứ không quân Trà Nóc quyết tử chiến với Cộng quân….sau đôi lời tâm sự và với nỗi đau khổ trên khuôn mặt uất ức và chán nản….thiếu tướng Nam có đôi lời nhắn nhủ với tôi là khi trở lại sư đoàn, yêu cầu tất cả buông súng, tan hàng trở về nhà lo cuộc sống mới….tướng Trường vội hỏi tướng Nam, như thế kế hoặch như đã định chúng ta hủy bỏ hay sao thiếu tướng?....chúng ta đã có Pháp trợ lực tư thủ miền Tây vững mạnh…sau đó kéo về giải cứu thủ đô Sàigon…thêm vào Trung Quốc sẽ kéo đại quân đánh chiếm vào Hà Nội và một số tỉnh miền Bắc, buột đại quân CSBV phải rút về chống đỡ ….và cuối cùng QĐVNCH chúng ta chiếm lai từ Cà Mâu đến Bến Hải, diệt tan quân CSBV, coi như chúng ta đại thắng thiếu tướng ạ!....anh cứ nghe theo lệnh tôi mà thi hành buông súng, tan hàng về quê…một số sư đoàn vùng IV bị xóa sổ và chỉ còn là những đám tàn quân, chỉ có sư đoàn anh còn tạm đủ quân số cố thủ bao lâu….và nhất là dân chúng sẽ như thế nào mà anh đã thị sát dân tình Cần thơ đã rõ lắm thật tội nghiệp…còn kế hoặch như chúng ta đã dự định không thực hiện được ….anh nhớ rằng tổ tiên ta đã hy sinh hơn 1000 năm trường kỳ kháng chiến đánh đuổi Tàu đô hộ, để có đất nước VN ngày hôm nay…..với kế hoặch này chỉ có lợi cho Tàu chiếm VN và không rút quân về thì chúng ta mang tội với tổ quốc và dân tộc… và đến khi nào con cháu chúng ta đánh đuổi Tàu ra khỏi đất nước đây, vài ngàn năm sau ư!....mong anh ra lệnh buông súng, tan hàng về quê… chừng một lúc sau thì có một số vị đại diện tham mưu tư lệnh quân khu 9 đến gặp thiếu tướng Nam, để cùng hợp tác thi hành kế hoặch buông súng, tan hàng về quê…thiếu tướng Nam có đề nghị bên kia vì trời tối, tạm thời án binh bất động để chờ sáng mai thực hiện ….thưa thiếu tướng nếu CS gian manh thì sao? ...thì chuẩn tướng làm theo ý chuẩn tướng ….thêm vào đó thân hào nhân sĩ thị xã Cần Thơ cũng đã đến than khóc và quỳ lại thiếu tướng Nam cứu dân thoát nạn mưa pháo vài ngày trước đây…. Sáng hôm sau tôi đến từ giả thiếu tướng Nam… tôi thấy thiếu tướng Nam gục chết….tôi chạy qua phòng tướng Lê Văn Hưng cũng gục chết với liều thuốc độc cực mạnh….” ( mong ông Dương Phục ghi lại và phổ biến khúc đoạn về kế hoặch Pháp và Trung Quốc móc nối và tướng Nam chỉ chọn con đường buông súng và tan hàng về quê …., đã làm ông Dương Phục kinh ngạc biến cố lịch sử này và bái phục trí nhớ tướng Trường quá tốt )


Thật ra Đại tướng Minh cũng muốn Quân đội VNCH đo sức với đại quân thiện chiến CSBV, bằng cách rút về tử thủ miền Tây như kế hoặch đã định. Nhưng tướng Minh nhận được nhiều tin Quân báo và Tình báo gởi về liên tục là một số sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn …kể cả hai sư đoàn thiện chiến Dù và Thủy Quân Lục Chiến từ từ chiến bại, bỏ chạy tan hàng, cướp của giết người, hảm hiếp, vất bỏ quân phục vũ khí và cướp tàu dân ở các bến cảng trốn chạy ra hạm đội 7…. chỉ còn lại một số tiểu đoàn hay đại đội không rõ tình hình vẫn còn tử thủ chiến đấu trong tuyệt vọng. Như trên, một số tướng tá hưu trí được phục chức và trao binh quyền thì CHÚNG lợi dụng phương tiện suy tàn của quân đội để gia đình chúng trốn chạy, đáng ghê tởm là ông tướng Vĩnh Lộc quyền Tổng Tham Mưu Trưởng QĐVNCH.

Trong tài liệu này, tướng Minh cho biết thêm như sau: “…Tôi cảm nhận hầu như khối Công giáo bao vây quanh tôi chặt chẻ dưới sự chỉ đạo của tòa Tổng Giám Mục, mà những năm tháng trước đây quyết ngăn chận và quyết diệt tôi trở lại quyền lực nếu có bầu cử trong sạch và dân chủ…..không những thế những tín hiệu của Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình, cho biết HĐGMCGVN và giáo dân quyết tâm ủng hộ Đại tướng về miền Tây, tái phối trí và tử thủ như kế hoặch đã định…..Pháp-Trung Quốc đã từng thương nghị với Đại tướng…giáo dân chúng tôi đã được Ngài Merillon đại sứ Pháp và Ngài Khâm sứ, khuyên bảo hợp tác với Đại tướng và tạo hỗn loạn sau khi Sàigon thất thủ….

….Sự tử thủ như kế hoặch đã định chỉ làm cho dân chúng miền Nam, khổ đau trong chiến loạn, nhất là thủ đô Sàigon và Cần Thơ….sẽ ngập trong biển máu , mà trước đây thân hào nhân sĩ Cần Thơ đã quỳ lạy van xin thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam buông súng tan hàng về quê….đại tội với tổ quốc và dân tộc rước thực dân Pháp trở lại đô hộ Việt Nam và Công giáo Việt Nam sẽ tái lập cai trị độc hại hơn Công giáo Diệm-Thiệu tại miền Nam….miền Bắc thì Trung Quốc sẽ chiếm đóng….Tôi hoảng sợ lắm, vì không khác gì tướng Nguyễn Khánh sau khi chỉnh lý Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng 63, Công giáo vây phủ Khánh cho đến khi nắm trọn quyền lực thì đưa Khánh lưu đày biệt xứ….chẳng qua sau khi cách mạng 63 thành công, Tôi và HĐQNCM vì nhân hậu đã không giải giới và tống vào tù toàn bộ quân cán chính Cần Lao Công Giáo Ngô Đình Diệm, mà hậu quả sau này đã tạo nhiều biến loạn, để cuối cùng chúng vực dậy chế độ Cần Lao Công Giáo Diệm Không Diệm Nguyễn Văn Thiệu….trong giai đoạn giao thời chưa ổn định an ninh tổ quốc và cấm vận của Mỹ, lãnh đạo nhà nước CHXHCNVN rất sáng suốt cho toàn bộ quân cán chính VNCH vào trại Cải Tạo Học Tập và cùng toàn dân ăn BoBo ( tôi không oán hận nhà nước làm việc này, kinh qua tôi và HĐQNCM 63 đã sai lầm vì nhân hậu đàn bà )…đưa đến hai lần chiến thắng quân Trung Quốc vào năm 1979…


..Để lại những dòng lịch sử cho con cháu sau này…tôi đã có cảm nghỉ muốn góp ý với nhà nước vào những năm tháng dân Việt vượt biên…. cơ hội may ngàn năm để triệt hậu hoạn phản loạn sau này là nhà nước nên tống xuất toàn bộ linh mục và giáo dân Việt cho ra biển Đông, ngụy tạo Đức Mẹ Di Cư Qua Mỹ mà ngày nào năm xưa Mỹ đã ngụy tạo Đức Mẹ Di Cư Vào Nam….tạo khủng bố giả với các linh mục và sau đó cung cấp cho linh mục và giáo dân phương tiện Vượt Biên… tôi tin rằng Công giáo biết Pháp-Mỹ sẽ trở lại bang giao và ngoại thương với Việt Nam ….Công giáo là đại họa cho đất nước từ ngày đạo này cùng thực dân Pháp xâm lăng Việt Nam….kinh qua sau khi tôi bị Nguyễn Khánh chỉnh lý….
Nổi loạn nhà thờ Vinh Sơn ở T.P Hồ Chí Minh, Dòng Đồng Công ở Thủ Đức, Trà Cổ ở Bà Rịa…và chôn dấu vũ khí vài địa điểm…..tôi quyết định buông súng dầu hàng trước sức mạnh toàn dân quyết tâm dành độc lập, chủ quyền và thống nhất đất nước….VNCH và QĐVNCH chẳng còn gì, chỉ là đám tàn quân mà tướng tá chỉ huy bỏ đơn vị, chạy thoát thân theo Mỹ….thảm cảnh dân chúng vô tội sẽ chết thảm dưới đạn pháo tôi không thể cam tâm…đành lòng chấp nhận buông súng đầu hàng cứu dân….mang nỗi nhục Bại Tướng hay Hàng Tướng gì cùng được, lịch sử sẽ ghi chép Công hay Tội của tôi…. Nhưng tôi, vui sướng là dân lành không còn bị chết dưới bom đạn, thống nhất đất nước, và sạch bóng thực dân đế quốc trên quê hương Việt Nam….”


Thưa Ngài Võ Văn Kiệt, vào thời điểm đó Ngài ở trong thành phần lãnh đạo Xứ Ủy Nam Kỳ và “ tư lệnh” vùng đất thép….được điều động về hoạt động Khu ủy Gia Định và hợp nhất Khu ủy Sàigon-Gia Định, hình thành tam giác sắt. Ngài hiểu rõ từng chi tiết nguồn tình báo, quân báo nội thành Sàigon-Gia Định …”…Sự xuất hiện trở lại trên chính trường của ông Minh chính là kết quả của hoạt động tích cực của lực lượng thứ ba, lực lượng những người đấu tranh trong lòng chế độ Sàigon …” Ngài ngụy ngôn, ngụy danh lực lượng thứ ba, thật ra là lực lượng Công giáo Việt Nam Lá Mặt Lá Trái, bao vây chung quanh tướng Minh lúc đó, đã được tướng Minh vạch rõ âm mưu, tiếp tay thực dân Pháp trở lại thay Mỹ đô hộ Việt Nam lần nữa theo tài liệu ở trên, và giúp Mỹ tháo chạy hợp pháp mà thôi, và hầu như thành phần lực lượng thứ ba này đã và đang làm cố vấn hậu trường cho Ngài?. Tướng Minh buông súng và đầu hàng khi nhìn QĐVNCH, chẳng còn gì, chỉ là đám tàn quân chiến bại và uất hận những cấp chỉ huy tướng tá tham tàn bất tài bỏ chạy trước, nhờ thế cứu được dân tránh được biển máu dưới mưa pháo.

Đã được Thượng tướng Lê Ngọc Hiền trả lời Ngài như sau: “…Tôi xin khẳng định Dương Văn Minh chỉ là con bài của Mỹ hòng tranh thủ giải pháp thỏa hiệp. Anh em bộ đội và quần chúng nhân dân rất bất bình ý kiến này….Sàigon giữ được nguyên vẹn hoàn toàn không có chút gì vai trò của Dương Văn Minh…Tôi cho rằng ý kiến này có ác ý, coi Dương Văn Minh là “cơ sở” của công tác địch vận , qua đó phủ nhận toàn bộ hy sinh xương máu của đồng bào, đồng chí, đồng đội trong suốt 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cũng như ngay trong chiến dịch cuối cùng, quyết định là chiến dịch Hồ Chí Minh…” ( QĐND Cuối Tuần, ngày 28/4/75 )


Ngài Võ Văn Kiệt ơi! Ngài hối tiếc nếu giá như đổi mới sớm hơn không phải trả giá đắt như giai đoạn 1975-1985. Ngài quá LÚ rồi! đế quốc Mỹ quá tàn bạo trả thù chiến bại bằng cách Cấm Vận suốt từ 1975-1994, Trung Quốc áp lực kinh viện và chiến bại hai lần kéo đại quân xâm lăng Việt Nam vào năm 1979, và Sô Viết đang trên đường Sô Viết Tan Hoang bởi ông Ngốc-Mà-Chết ( Góoc-Ba-Chóp ) và ông Đi -Ăn-Xin ( Boris Yelsin ). Cho nên quân cán chính nhà nước Việt Nam, đảng viên CS cùng toàn dân và tù cải tạo VNCH chỉ có ăn BoBo xuyên suốt nhiều năm trời kiên cường bảo vệ chủ quyền và thống nhất đất nước, có muốn đổi mới kinh tế sớm hơn thế nào đây hả Ngài?

Tuy thế cũng là cái may cho đất nước Việt Nam , bởi chính sách bạo tàn sai lầm Cấm Vận của Mỹ gần 20 năm và áp lực của Trung Quốc. Việt Nam tống xuất người Hoa khắp nước ra biển Đông và về Trung Quốc, và nhất là chiến thắng VIỆT NAM II tận diệt các cuộc nỗi loạn nhà thờ Vinh Sơn, dòng Đồng công Thủ Đức, Trà Cổ ở Bà Rịa Vũng Tàu,….và diệt trọn những tổ chức Mỹ gài lại bằng kháng chiến giả và Diễn Đàn Dân Chủ Tự Do tại T.P. HCM của Steven Young và Nguyễn Đình Huy, năm 1990.

Sau chiến thắng hai lần đại quân Trung Quốc, các quốc gia Đông Nam Á thấy Việt Nam có tiềm năng kinh tế và khả năng ngăn chận ý đồ xâm lăng thống trị Á Châu của Trung Quốc, thêm vào đó Nhật và Âu Châu bất chấp lệnh cấm vận của Mỹ đã giao thương với Việt Nam từ năm 1988. Từ đó đảng CSVN đề ra chính sách đổi mới Kinh Tế Thị Trườnglà phát triển kinh tế bền vững và thận trọng.

Đất nước ta có nền kinh tế lạc hậu què quặc nhất thế giới bởi chiến tranh. Cho nên bước đi kinh tế phải lúc thúc bền vững, không nên nhanh chân và tăng tốc ( dục tốc bất đạt ), kinh qua Sô Viết Tan Hoang thế mà Ngài: “….Nhưng nhìn lại quá trình kể từ khi kết thúc chiến tranh thì tôi thấy tiệc Gía như đổi mới sớm hơn thì chúng ta có thể đã không trả giá đắt như giai đoạn 1975-1985….Nếu chúng ta không tự khắc phục lực cản, không phát huy được nguồn lực bên trong cũng như bên ngoài để có được mức tăng trưởng hai con số trong những năm tới thì khoảng cách của sự tụt hậu so với khu vực….chúng ta phải nhanh chân….”.

Đọc bài viết TUỔI 30, Ngài đã đổi dọng hay đã trở lại đạo và cải tạo tư tưởng rồi, y như là giáo dân Công giáo gốc hơn hẳn Ngài Trương Tấn Sang, cũng một thời là Thành ủy TP HCM, trong thư gởi Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình, về vụ ông Nguyễn Văn Thuận ( không gọi là TGM Thuận ), gọi là cụ Nguyễn Văn Bình, không có như Ngài quên mình trong vâng phục y là giáo dân đạo gốc “ đức tổng giám mục NVB” hay “ cố đức tổng giám mục NVB”. Ngài ạ! Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình là tên đại Viêt gian, đã từng kêu gọi Mỹ tiếp tục oanh tạc cày nát từng tất đất miền Bắc, giết sạch dân chúng miền Bắc trong đó có Võ hoàng gia được đảng và nhà nước CSVN bao bọc an toàn, để Ác nhân Nguyễn Văn Bình lên Thiên đàng, đã kêu gọi như sau: “ TGM Nguyễn Văn Bình ở Sàigon, được mọi quan sát viên Tây phương xem là người ôn hoà nhất trong số những nhà lãnh đạo Thiên Chúa giáo ở Việt Nam, mới đây đã chấm dứt yên lặng khi tuyên bố chống lại việc Mỹ ngưng oanh tạc miền Bắc “( báo Le Monde ngày 22 – 10- 1968 )
Không những thế Ngài đã viết ra những lời phân biệt để minh định kháng chiến Việt Minh ( CS ) là phản loạn đánh Pháp chống Mỹ, nhằm vinh danh Việt gian “Quốc Gia”, phản quốc, tay sai thực Pháp-Mỹ, mà suốt cuộc đời Ngài đánh Pháp chống Mỹ gọi những người “quốc gia” là Việt gian, Ngụy quân, Ngụy quyền như sau: “…khi giữ cương vị bí thư Thành ủy TP HCM…..Một lần cố đức tổng giám mục đến thăm các cháu thiếu nhi vui chơi trong vườn Tao Đàn, tôi nói với cụ: “ Nhìn những cháu bé đang chơi với nhau ấy, làm sao có thể phân biệt được cháu nào có đạo, cháu nào không, cháu nào là “ quốc gia ”, cháu nào là con cháu cộng sản?....” ( Ngài quên mất gọi là cháu ngoan Bác Hồ )
Thưa Ngài nội lực Đảng CSVN có tí chao đảo thôi, bởi một số đảng viên phản đảng, LÚ và hưu trí mơ màng tưởng rằng hợp tác với Việt gian Công giáo Suy tàn và mong được Mỹ chấp nhận làm tay sai để tạo biến loạn cách mạng đen, không khác gì vào thập niên 80 hình thành những tổ chức kháng chiến giả

Hy vọng Ngài, tỉnh ngộ là trung kiên và góp ý xây dựng Đảng vững manh. Chỉ có một và chỉ một đảng CSVN lãnh đạo đất nước Việt Nam như độc đảng tập đoàn tư bản Mỹ lãnh đạo nước Mỹ. Ngài không có sống trong cộng đồng di dân kinh tế Việt tại Mỹ thì ắt hiểu cộng đồng đa nguyên, đa đảng, đa hội vô tổ chức bầy nhầy, dơ dáy chỉ có cái MÕM “C” và dân chủ Mafia mà thôi

Làm sao có dân chủ trong đảng chính trị, mà chỉ có thi hành và học tập cương lĩnh, điều lệ và nội quy đảng phải không Ngài? muốn được thu nhận trở thành đảng viên CSVN phải qua bao nhiêu thử thách cam go lắm, không như các đảng phái Việt gian miền Nam và hải ngoại bầy nhầy dơ dáy này. Được thâu nhận làm đảng viên CSVN chắc chắn không có tư tưởng dân chủ trong đảng, mà chỉ thi hành và học tập đường hướng chính trị do Đảng đề ra từ cấp chi bộ, phân bô, khu bộ …trung ương. Lần đầu tiên nhân loại được nghe Belive It or Not, hiện tượng đảng viên sinh hoạt đảng phái chính trị là có dân chủ trong đảng chính trị được Ngài Võ Văn Kiệt có trên 60 tuổi đảng sáng tạo tuyệt vời.....

Đông Dương Thời Báo
ngày 30/5/05



* Vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông Thiếu tá trưởng ty an ninh quân đội tỉnh Sađéc, hồ hởi kể công với cách mạng, đã từng cứu rất nhiều cán bộ CS, trước ngày ra pháp trường trốn thoát về rừng là nhờ móc nối với CS phải chạy kiếm số tiền chuộc hàng triệu đồng VNCH đưa cho ông ta. Thành tích tham gia cách mạng của ông ta đã được cách mạng trả ơn bằng những phát súng ân tình trước phố chợ Sađec. Ngài Võ Văn Kiệt và những ai đã và đang phản đảng có còn nhớ Ngụy quân và Ngụy quyền sau ngày thống nhất 30 tháng 4 năm 75?. Cũng xin nhắc thêm những ai có chén cơm làm văn hóa, truyền thông báo chí hiện nay và mọi phân ngành sẽ.,,,sẽ như thế nào? khi nhà nước và đảng CSVN sụp đỗ ….xin quý Ngài bỏ vài phút giây hình dung ngày đẹp trời đó…

* Nguyễn Văn Binh là trung tá quận trưởng Gò Vấp, đắc cử dân biểu thời Thiệu và đi đâu mồm loa mép giải là cháu của tổng giám mục Nguyễn Văn Bình, cũng như Ngô Công Đức cũng tự nhận là cháu TGM Bình

* Toàn bộ Công giáo Tiến Hành: Ngô Công Đức, Nguyễn Văn Binh, Hồ Ngọc Nhuận, Lý Quý Chung, Nguyễn Đình Đầu ....là cố vấn hậu trường cho Ngài Võ Văn Kiệt.

* Tổng Tự Vệ Bùi Chu - Phát Diệm linh mục Hoàng Quỳnh, tham gia cách mạng vào mật khu và chiến khu chống Mỹ cứu nước, được Đảng và Nhà nước CHXHCNVN, hiểu thấu con người này, nên đã ân tình đưa vào Thiên Đàn Khám Chí Hòa an dưỡng thành tích cách mạng, khác phòng luật sư Đào Văn ( có bà chị là phu nhân tướng Song Hào, không bảo lãnh được em vì lý tưởng và hào khí cách mạng toàn dân lúc đó )....Linh mục Hoàng Quỳnh một thời oanh oanh liệt liệt càng quét, thủ tiêu, uống máu Việt Minh (CS) và dân Lương trong những lần tấn công cướp của vào các làng xã dân Lương, trước khi chết chỉ thèm ăn một đùi gà, nhưng Ý CHÚA chỉ cho chết thèm .




*


Trăn Trở Của Giuse “Võ Văn Kiệt” Đúc Tượng Và Dựng Tượng De Rhodes Tại Hà Nội

Trong thư, điêu khắc gia Phạm Văn Hạng cho biết ý tưởng về việc dựng tượng đài tri ân cụ Alexandre de Rhodes ngay tại thủ đô của nước VN được chính cố thủ tướng Võ Văn Kiệt trăn trở nhiều năm sau khi ông rời chính trường nghỉ hưu, rồi chính ông khởi xướng, đôn đốc thực hiện....

* Alexandre de Rhodes không phải là người sáng tạo ra chữ Việt?



Võ Văn Kiệt đã thành công đặt lại tên đường Alexandre De Rhodes, trong nhiệm kỳ làm Thủ tướng, và trước khi về hầu chân “C” trên nước Thiên đàn hằng sống, Võ Văn Kiệt đã trăn trở làm thế nào để đúc một bức tượng Alexandre De Rhodes và đặt tại Thủ đô Hà Nội nhân ngày Đại lễ 1000 năm Thăng Long-Hà Nội. Thế nà, Võ Văn Kiệt, điêu khắc gia Phạm Văn Hạng và nhà sử học Dương Trung Quốc ngồi với nhau mà bàn về việc tạc tượng De Rhodes, mà ông tin chắc tượng sẽ được đặt nhân ngày Đại lễ này, với quyền lực vẫn còn mạnh và rất nhiều đàn em tay chân đầy quyền lực trong Đảng và nhà nước, buột Đảng và nhà nước CHXHCNVN phải đặt tượng và nhân cơ hội tiến lên giải tán đảng CSVN, như Đi-Ăn Xin [Boris Yeltsin] đã làm.

May thay cho đất nước và tổ quốc Việt Nam là Võ Văn Kiệt, được “C” yêu thương gọi về Hưởng Nhan Thánh Chúa vào ngày 11/6/2008, không thì Đảng phải thanh trừng hoặc tử hình để dẹp loạn DBHB trước ngày Đại lễ 1000 năm Thăng Long, do Kiệt và bè lũ phản Đảng [là phản quốc], phản dân hại nước….nổi loan

Nay có bức tượng Alexandre De Rhodes – Hàn Thuyên quyện bên nhau [nếu Ngài Hàn Thuyên sống dậy, ngài rất đau khổ tột cùng, là ngài đứng bên cạnh tên cố đạo gián điếp De Rhodes xúi Pháp xâm lăng], vào ngày 23/2/2009 tại trí giao lộ giữa đường Lê Duẩn và Phạm Ngọc Thạch,....


VỀ ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Theo Nguyên Tổng Bí thư Ban C


chấp hành T.Ư Ðảng Đỗ Mười, ngày nay, có không ít người dao động, phai nhạt lý tưởng cách mạng, với nhiều dạng biểu hiện khác nhau: có người ngượng ngùng khi nói "chủ nghĩa xã hội" hoặc khi nói"định hướng xã hội chủ nghĩa; có ngườinói một đằng làm một nẻo; thậm chí có người biện hộ, ca ngợi một chiều chủ nghĩa tư bản, trong khi phản bác, bôi nhọ và gieo rắc nghi ngờ về chủ nghĩa xã hội... Nguyên nhân dẫn đến sự dao động này có nhiều và rất phức tạp.....



BÚT CHIẾN: CỰU THƯỢNG TƯỚNG LÊ NGỌC HIỄN VÀ CỰU THỦ TƯỚNG VÕ VĂN KIỆT :....

Chiến tranh đã qua 30 năm. Những đồi cây bị bom đạn phá trụi, xám xịt, đã xanh trở lại. Các cao ốc, biệt thự đã dần thay thế những ngôi nhà đổ nát. Một thế hệ sau chiến tranh đã trưởng thành. Khép lại quá khứ, xây dựng tương lai, đoàn kết dân tộc để hàn gắn vết thương chiến tranh là điều mà chúng ta luôn hướng tới. Nhưng như thế không có nghĩa ta lãng quên lịch sử, lãng quên tất cả những gì đã diễn ra, lãng quên những người đã hy sinh xương máu làm nên chiến thắng vĩ đại để có cuộc sống hôm nay....

ĐOÀN THẬP TỰ QUÂN ĐINH XUÂN HẢI TÁI SANH TRÊN LÃNH THỔ KHU ỦY VÕ VĂN KIỆT Hồng


Y Sepe viếng GH KiTo tại VN vừa về, hàng loạt sự kiện chớm nở xẩy ra thử thách phản ứng của chính phủ VN, trong đó, chùa Hiển Quang nằm trong giáo xứ Vinh Sơn bị đốt, tuy thiệt hại vật chất trên dướI 200 triệu, không đáng kể, nhưng di chứng tệ hại về tinh thần và tình cảm giữa hai tôn giáo anh em có thể bị phương hại....


Không Phải Ngài LÊ DUẨN Mà Là Sáu Dân VÕ VĂN KIỆT Giải Nghiệp THẦY:

.....Nhóm này có trách nhiệm gì không trong quyết định ngang nhiên vô hệ thống, phi hành chánh của Võ văn Kiệt trong việc đổi tên đường liệt sĩ Thái văn Lung thành đường Alexandre de Rhodes, một cố đạo gián điệp của Pháp? Nhóm này có trách nhiệm gì khi mới đây, Võ văn Kiệt lên tiếng ca tụng GM Lê hữu Từ lãnh chúa khu tự trị Bùi Phát, kẻ từng dùng tiền bạc súng đạn của Pháp chống lại Việt Minh. Đám tàn dư này có dính líu đến mức nào trong quyết định của Võ văn Kiệt-Đỗ trung Hiếu trình xin trung ương bắt nhốt Thầy Thiện Minh?...

Nếu Nhà Nước CHXHCNVN Và Đảng CSVN Sụp Đổ....Ba Triệu Đảng Viên CSVN Sẽ Ra Sao? :...."Nhà Cách Mạng Fidel Castro, vào năm 1991, đã tuyên bố: "...Chúng ta không nhân nhượng kẻ thù, dù theo hệ thống độc đảng hay kinh tế tập trung, bởi vì khi bạn nhượng bộ một bước , thì họ sẽ đòi tất cả và cuối cùng họ đòi cái đầu bạn " ( U.S. News & World Report 24/6/1991, Chu Văn Trình dịch )



ĐẠI HỘI ĐẢNG KHÓA X & TẠ TỐN BẠCH MAO VÕ VĂN KIỆT ÔNG LÀ AI?

Chỉ còn vài tháng nữa, đất nước ta như có Hội Nghị Diên Hồng Trong Thế Kỷ 21, đó là Đại Hội Đảng Lần Thứ X,quyết tâm đánh tan ý đồ xâm lược Việt Nam III của đế quốc Mỹ qua Diễn Biến Hòa Bình( nhà Trần ba lần đánh bại đại quân Nguyên Mông tiến chiếm nước ta ). Đời Trần nhân dân ta có Hịch Đại Vương Trần Hưng Đạođánh thắng quân Nguyên Mông, thì thế kỷ 21, nhân dân ta và đảng CSVN, có Hịch Tổng Luận Tư Tưởng “ Về Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa Trong Xây Dựng Đất Nước Ta Hiện Nay ”,...


Con chó Từ Tâm Nguyễn- Hơn cả yêu thương lại tiếp tục" ăn trộm"


PHỤ NỮ SINH RA ĐỂ ĐƯỢC YÊU THƯƠNG.



Tôi có may mắn được sống cả một thập niên 80 của thế kỷ trước tại trời Âu để thưởng thức một thập kỷ đỉnh cao nhất của dòng nhạc POP ÂU - MỸ, với hàng loạt những tên tuổi lẫy lừng kể không hết. Đặc biệt những nữ Ca sĩ nổi đình nổi đám với Nana hay Sandra của Đức. Madonna, Cindy Lauper, Laura Branigan, Kim Wills, Withney Houston của Mỹ... Sandra Kim của Bỉ... Kể cả chương trình Sanremo thường niên của Ý với những tên tuổi lớn như cặp vợ chồng Ý Mỹ là Al Bano và Romina hay Toto Cutugno... Cuối tuần lại dán mắt cả đêm vào tivi để xem và nghe các bản TOP TEN Âu Mỹ...

Hôm nay tôi mời các bạn nghe bản hit "Like a Virgin" của nữ hoàng nhạc Pop Madonna để thấy rằng "Phụ nữ sinh ra để được yêu thương".


Đằng sau tinh thần nổi loạn, bản hit kinh điển của "nữ hoàng nhạc Pop" Madonna ẩn chứa khao khát về một tình yêu đẹp và trọn vẹn.

Mùa thu 1984, Madonna khiến người yêu nhạc khắp thế giới quay cuồng trong giai điệu dance - pop củaLike a Virgin. Ca khúc là đĩa đơn trích từ album cùng tên và cũng là đĩa đơn đầu tiên của cô giành vị trí quán quân bảng xếp hạng Billboard. Bài hát không chỉ làm thay đổi sự nghiệp âm nhạc của Madonna, biến cô trở thành biểu tượng nữ quyền trong nhiều thập kỷ mà còn tạo hiệu ứng xã hội sâu sắc, mở đường cho các quan niệm mới mẻ về giá trị của tình yêu.


Hai nhà đồng sáng tác Like a Virgin là Billy Steinberg và Tom Kelly đã không thể tưởng tượng nổi thành công và sức ảnh hưởng của ca khúc khi phát hành. Lời ca là tiếng nói của một cô gái trẻ muốn được sống trọn vẹn và tự do trong tình yêu mà không bị ràng buộc bởi bất cứ giáo điều nào.


Đĩa đơn "Like a Virgin" của Madonna.



... Em từng đi tới chốn hoang vu ấy
Dù thế nào em cũng đã vượt qua nó
Em đâu hay em đã lạc lõng như thế nào
Cho đến khi tìm được anh.
Nhịp đập con tim em còn đang dang dở
Em từng như thế, buồn bã và tuyệt vọng
Nhưng anh đã làm cho em cảm thấy
Anh đã khiến em thấy thật tươi mới và rạng rỡ biết bao...



Like a Virgin mở đầu với hình ảnh Madonna tràn đầy sức sống, nhún nhảy trên chiếc thuyền gondola ở Venice, Italy. Cô giãi bày về sự lạc lõng, đơn độc trong quá khứ một cách nhẹ nhàng và thản nhiên. Khó có thể tưởng tượng được cô gái vui tươi, yêu đời ấy từng "buồn bã và tuyệt vọng" thế nào. Dường như tình yêu đã thổi một luồng gió mới vào tâm hồn, khiến cô trở nên "tươi mới và rạng rỡ" hơn bao giờ hết. Tâm trạng phơi phới ấy đẩy lùi cảm giác cô độc từng vướng bận tâm hồn cô.


...Nỗi sợ của em như đang lụi tàn dần
Em đã giữ gìn và trao tất cả cho anh
Bởi tình yêu là vĩnh cửu...



Madonna diện váy cưới biểu diễn "Like a Virgin" trên sân khấu giải thưởng Video Music Awards vào năm 1984.




Tình yêu là một phương thuốc kỳ diệu có thể hàn gắn những vết thương. Nếu như trước đó, cô gái chìm đắm trong những nỗi buồn thì giờ đây, cô lại tin tưởng trọn vẹn vào sự vĩnh cửu của tình yêu. Khi thăng hoa trọn vẹn trong cảm xúc, con người ta không còn phải giấu giếm nhau bất cứ điều gì: những lỗi lầm trong quá khứ, những tổn thương đã qua... bởi tình yêu là sự an ủi, chở che, cảm thông. Niềm hạnh phúc ấy khiến Madonna hát vang về một sự sở hữu gần như tuyệt đối:
... Anh thật tuyệt và anh là của em
Em sẽ là của anh đến trọn đời
Và anh khiến em cảm thấy không còn gì phải che giấu nữa...
Điệp khúc của bài hát được lặp đi lặp lại khiến người nghe cảm nhận được một tình yêu ở độ chín muồi. Vào thập niên 1980, hiếm cô gái nào có thể bạo dạn thổ lộ những tuyên ngôn sống sượng đến vậy. Madonna từng chia sẻ: "Thời điểm ấy chắc chắc tôi không phải là một trinh nữ, cũng chẳng phải dạng gái ngoan hiền nhưng tôi cực kỳ thú vị với ý tưởng bài hát. Nó vừa bóng gió, mỉa mai, châm biếm, kích động, mát mẻ. Ý tưởng hiện ra ở đây là làm thế nào để bạn có thể giống một trinh nữ ? Đó là đề tài gây xáo trộn suy nghĩ và mọi người sẽ phải nói đến nó liên tục".

Lúc bấy giờ, trong khi các phụ huynh cật lực phản đối Like a Virgin vì cho rằng bài hát cổ súy lối sống dễ dãi của thanh thiếu niên thì giới trẻ lại phát cuồng vì Madonna. Cô là người dẫn đường cho họ đến với một thế giới yêu đương tự do và trọn vẹn mà trong đó, tình dục là kết tinh cao nhất của tình yêu.

Like a Virgin không đơn thuần chỉ đề cập đến vấn đề tình dục và cổ vũ quan niệm yêu đương tự do. Bài hát là một khúc hành hương của tình yêu. Hành trình ấy trải dài từ lúc người phụ nữ còn chìm đắm trong sự đơn độc đến khi chạm được đích đến cao nhất của tình yêu. Đó là tiếng nói của một người phụ nữ độc lập, sống hết mình và chân thật với bản thân.


Madonna cùng Britney Spears và Christina Aguilera tái hiện màn biểu diễn "Like a Virgin", kết hợp với ca khúc "Hollywood" vào năm 2003 trên sân khấu Video Music Awards.




Trước khi đĩa đơn của bài hát ra mắt, Madonna đã làm nổ tung sân khấu MTV Video Music Award năm 1984 với phần trình diễn Like a Virgin. Cô đứng trên một chiếc bánh kem khổng lồ, mặc bộ váy cưới trắng và trình diễn những động tác vũ đạo gợi cảm. Madonna dựng lên trên sân khấu và cả trong MV bài hát hình tượng cô dâu gợi cảm, mãnh liệt, căng tràn sức sống và không ngần ngại thể hiện những khao khát đời thường.


Năm 2003, Britney Spears, Christina Aguilera và Madonna tái hiện màn trình diễn kinh điển này với pha "khóa môi" gây sốc, nhưng dường như chừng ấy vẫn chưa đủ để vượt qua ấn tượng mà "nữ hoàng nhạc Pop" đã ghi dấu trước đó.

Đến nay, Like a Virgin đã bán tại thị trường Mỹ gần hai triệu bản, album cùng tên tiêu thụ đến con số 21 triệu bản. Sau hơn 30 năm, Like a Virginvẫn luôn được đánh giá là một trong những ca khúc về nữ quyền hay nhất mọi thời đại. Không đơn thuần là một trào lưu, Like a Virgin còn truyền tải thông điệp giàu tính nhân văn - Phụ nữ sinh ra để được yêu thương.








Được đăng bởi TỪ TÂM NGUYỄN vào lúc 23:14
Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên TwitterChia sẻ lên FacebookChia sẻ lên Pinterest

Nhãn: Âm nhạc

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Trân trọng những ý kiến chân thành mang tính đóng góp và xây dựng của Qúy vị. Xin cảm ơn !

(http://honcayeuthuong.blogspot.com/2016/04/phu-nu-sinh-ra-e-uoc-yeu-thuong.html)




Và đây :


Like a Virgin' - phụ nữ sinh ra để được yêu thương


Đằng sau tinh thần nổi loạn, bản hit kinh điển của "nữ hoàng nhạc Pop" Madonna ẩn chứa khao khát về một tình yêu đẹp và trọn vẹn.


Mùa thu 1984, Madonna khiến người yêu nhạc khắp thế giới quay cuồng trong giai điệu dance - pop của Like a Virgin. Ca khúc là đĩa đơn trích từ album cùng tên và cũng là đĩa đơn đầu tiên của cô giành vị trí quán quân bảng xếp hạng Billboard. Bài hát không chỉ làm thay đổi sự nghiệp âm nhạc của Madonna, biến cô trở thành biểu tượng nữ quyền trong nhiều thập kỷ mà còn tạo hiệu ứng xã hội sâu sắc, mở đường cho các quan niệm mới mẻ về giá trị của tình yêu.

Hai nhà đồng sáng tác Like a Virgin là Billy Steinberg và Tom Kelly đã không thể tưởng tượng nổi thành công và sức ảnh hưởng của ca khúc khi phát hành. Lời ca là tiếng nói của một cô gái trẻ muốn được sống trọn vẹn và tự do trong tình yêu mà không bị ràng buộc bởi bất cứ giáo điều nào.



Đĩa đơn "Like a Virgin" của Madonna.

... Em từng đi tới chốn hoang vu ấy
Dù thế nào em cũng đã vượt qua nó
Em đâu hay em đã lạc lõng như thế nào
Cho đến khi tìm được anh.
Nhịp đập con tim em còn đang dang dở
Em từng như thế, buồn bã và tuyệt vọng
Nhưng anh đã làm cho em cảm thấy
Anh đã khiến em thấy thật tươi mới và rạng rỡ biết bao...

Like a Virgin mở đầu với hình ảnh Madonna tràn đầy sức sống, nhún nhảy trên chiếc thuyền gondola ở Venice, Italy. Cô giãi bày về sự lạc lõng, đơn độc trong quá khứ một cách nhẹ nhàng và thản nhiên. Khó có thể tưởng tượng được cô gái vui tươi, yêu đời ấy từng "buồn bã và tuyệt vọng" thế nào. Dường như tình yêu đã thổi một luồng gió mới vào tâm hồn, khiến cô trở nên "tươi mới và rạng rỡ" hơn bao giờ hết. Tâm trạng phơi phới ấy đẩy lùi cảm giác cô độc từng vướng bận tâm hồn cô.

...Nỗi sợ của em như đang lụi tàn dần
Em đã giữ gìn và trao tất cả cho anh
Bởi tình yêu là vĩnh cửu...



Madonna diện váy cưới biểu diễn "Like a Virgin" trên sân khấu giải thưởng Video Music Awards vào năm 1984.

Tình yêu là một phương thuốc kỳ diệu có thể hàn gắn những vết thương. Nếu như trước đó, cô gái chìm đắm trong những nỗi buồn thì giờ đây, cô lại tin tưởng trọn vẹn vào sự vĩnh cửu của tình yêu. Khi thăng hoa trọn vẹn trong cảm xúc, con người ta không còn phải giấu giếm nhau bất cứ điều gì: những lỗi lầm trong quá khứ, những tổn thương đã qua... bởi tình yêu là sự an ủi, chở che, cảm thông. Niềm hạnh phúc ấy khiến Madonna hát vang về một sự sở hữu gần như tuyệt đối:

... Anh thật tuyệt và anh là của em
Em sẽ là của anh đến trọn đời
Và anh khiến em cảm thấy không còn gì phải che giấu nữa...

Điệp khúc của bài hát được lặp đi lặp lại khiến người nghe cảm nhận được một tình yêu ở độ chín muồi. Vào thập niên 1980, hiếm cô gái nào có thể bạo dạn thổ lộ những tuyên ngôn sống sượng đến vậy. Madonna từng chia sẻ: "Thời điểm ấy chắc chắc tôi không phải là một trinh nữ, cũng chẳng phải dạng gái ngoan hiền nhưng tôi cực kỳ thú vị với ý tưởng bài hát. Nó vừa bóng gió, mỉa mai, châm biếm, kích động, mát mẻ. Ý tưởng hiện ra ở đây là làm thế nào để bạn có thể giống một trinh nữ? Đó là đề tài gây xáo trộn suy nghĩ và mọi người sẽ phải nói đến nó liên tục".

Lúc bấy giờ, trong khi các phụ huynh cật lực phản đối Like a Virgin vì cho rằng bài hát cổ súy lối sống dễ dãi của thanh thiếu niên thì giới trẻ lại phát cuồng vì Madonna. Cô là người dẫn đường cho họ đến với một thế giới yêu đương tự do và trọn vẹn mà trong đó, tình dục là kết tinh cao nhất của tình yêu.

Like a Virgin không đơn thuần chỉ đề cập đến vấn đề tình dục và cổ vũ quan niệm yêu đương tự do. Bài hát là một khúc hành hương của tình yêu. Hành trình ấy trải dài từ lúc người phụ nữ còn chìm đắm trong sự đơn độc đến khi chạm được đích đến cao nhất của tình yêu. Đó là tiếng nói của một người phụ nữ độc lập, sống hết mình và chân thật với bản thân.



Madonna cùng Britney Spears và Christina Aguilera tái hiện màn biểu diễn "Like a Virgin", kết hợp với ca khúc "Hollywood" vào năm 2003 trên sân khấu Video Music Awards.

Trước khi đĩa đơn của bài hát ra mắt, Madonna đã làm nổ tung sân khấu MTV Video Music Award năm 1984 với phần trình diễn Like a Virgin. Cô đứng trên một chiếc bánh kem khổng lồ, mặc bộ váy cưới trắng và trình diễn những động tác vũ đạo gợi cảm. Madonna dựng lên trên sân khấu và cả trong MV bài hát hình tượng cô dâu gợi cảm, mãnh liệt, căng tràn sức sống và không ngần ngại thể hiện những khao khát đời thường.

Năm 2003, Britney Spears, Christina Aguilera và Madonna tái hiện màn trình diễn kinh điển này với pha "khóa môi" gây sốc, nhưng dường như chừng ấy vẫn chưa đủ để vượt qua ấn tượng mà "nữ hoàng nhạc Pop" đã ghi dấu trước đó.

Đến nay, Like a Virgin đã bán tại thị trường Mỹ gần hai triệu bản, album cùng tên tiêu thụ đến con số 21 triệu bản. Sau hơn 30 năm, Like a Virginvẫn luôn được đánh giá là một trong những ca khúc về nữ quyền hay nhất mọi thời đại. Không đơn thuần là một trào lưu, Like a Virgin còn truyền tải thông điệp giàu tính nhân văn - Phụ nữ sinh ra để được yêu thương.

Theo VnExpress

(http://www.baomoi.com/like-a-virgin-phu-nu-sinh-ra-de-duoc-yeu-thuong/c/18833708.epi)

Không cần phải bàn về sự vô liêm sĩ của con chó Từ tâm Nguyễn- Hơn Cả yêu thương - Nguyễn Tất Toàn

Làm Sao Để Luôn Thấy Vui Vẻ Và Hạnh Phúc Trong Mọi Hoàn Cảnh?






Có một thanh niên 16 tuổi đến bái lạy vị thiền sư cao tuổi với vẻ mặt u sầu và thất vọng. Anh ta hỏi vị thiền sư: “Thưa ngài, con phải làm thế nào mới trở thành một người vui vẻ hạnh phúc ạ? Và làm thế nào mới có thể đem lại niềm vui cho mọi người".


Vị thiền sư nhìn người thanh niên trẻ tuổi vừa cười vừa nói: “Cậu bé! Ở tuổi của cậu mà có nguyện vọng như vậy là đáng quý nhưng cũng khó đạt. Rất nhiều người lớn tuổi hơn cậu, cũng có câu hỏi như thế này nhưng cho dù có giải thích cho họ bao nhiêu thì họ vẫn không hiểu được đạo lý trọng yếu”


Người thanh niên trẻ tuổi vẫn chăm chú nghe từng lời của vị thiền sư.
Vị thiền sư nói tiếp: “Ta tặng cho cậu 4 câu. Câu thứ nhất: Hãy đặt bản thân mình trở thành người khác. Cậu có hiểu hàm nghĩa của câu này không?”
Người thanh niên trả lời: “Có phải là khi mình khổ sở, nếu như coi bản thân mình là người khác thì nỗi khổ sẽ tự nhiên giảm bớt đi. Còn khi mình vui mừng quá mức mà coi mình là người khác thì mình sẽ bình tĩnh trở lại và thản nhiên hơn không ạ?”


Vị thiền sư gật đầu rồi nói tiếp: “Câu thứ hai là đặt người khác trở thành bản thân mình.”
Người thanh niên suy nghĩ một lúc rồi trả lời: “Khi đặt người khác trở thành bản thân mình, mình có thể hiểu được nỗi khổ cũng như những mong muốn nguyện vọng của họ để thông cảm và giúp đỡ họ khi cần thiết, phải không ạ?’


Vị thiền sư vui vẻ biểu lộ ra sự hài lòng rồi nói tiếp câu thứ ba: “Xem người khác là chính bản thân họ.”
Người thanh niên nhanh nhảu trả lời: “Thưa ngài, câu này có phải có ý là: Tôn trọng sự riêng tư của mỗi người, không xâm phạm vào điều của riêng người khác.”


Vị thiền sư bật cười ha ha rồi nói: “Tốt lắm, tốt lắm, đứa trẻ này cũng rất dễ dạy bảo! Câu thứ tư chính là xem bản thân mình là chính bản thân mình!”


Câu nói này có vẻ khó với người thanh niên trẻ, cậu ta suy nghĩ mãi một hồi lâu rồi mới chậm rãi nói: “Thưa ngài, câu nói này con nhất thời chưa thể hiểu được. Nhưng trong bốn câu nói này con thấy có sự bất đồng, con phải làm thế nào để thống nhất chúng lại ạ?”
Vị thiền sư trả lời: “Rất đơn giản cậu bé ạ! Con hãy dùng thời gian và kinh nghiệm của bản thân mình rồi con sẽ làm được!”


Người thanh niên không hỏi thêm mà quỳ gối cáo biệt vị thiền sư. Nhiều năm sau này, cậu thanh niên đã trở thành một người đàn ông trưởng thành rồi một ông lão vui vẻ hạnh phúc. Ông cũng thường xuyên đem bài học này và kinh nghiệm của mình chia sẻ với những người xung quanh, đặt biệt là những thanh niên trẻ tuổi. Sau khi trãi qua nhiều điều trong cuộc sống, ông đã hiểu được 4 câu nói vủa vị thiền sư khi xưa là:


1. Khi đặt bản thân mình là người khác để đối đãi thì chính là vô ngã.
2. Khi đặt người khác là bản thân mình để đối đãi thì đó chính là từ bi.
3. Khi đặt người khác chính là bản thân họ để đối đãi thì đó chính là trí tuệ.
4. Khi đặt bản thân mình là bản thân mình để đối đãi thì đó chính là tự tại.


Tạp chí Sức Khỏe (Theo GĐXH)

Bốn Dạng Người Của Thế Gian -






Các nhà tâm lý học, xã hội học cũng như các nhà khoa học, kinh tế gia, chính trị gia và giới lãnh đạo cầm quyền... luôn tìm hiểu, nghiên cứu về con người để phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau. Mặc dù họ vẫn còn tranh cãi và chưa đi đến một sự đồng thuận hoàn toàn nhưng họ đã bước đầu đồng ý với nhau về căn bản trong cách phân chia nhân loại nói chung ra làm bốn loại người chính sau đây:

1. Nhóm người điềm tĩnh, hiền lành, không ồn ào, to tiếng, không chửi bới cãi vả, không tranh chấp và có tâm địa tốt và luôn làm chuyện tốt, có ích cho nhân quần xã hội, không làm tổn thương ai và luôn giúp đỡ mọi người . Vừa tốt bề ngoài vừa tốt bên trong. Dạng người này rất ít, chỉ chiếm chưa tới 1% dân số .



2. Nhóm người nóng nảy, ồn ào, trực tính, sẵn sàng nói thẳng ra những lời khó nghe có thể làm tổn thương người khác, thích cãi vả tranh chấp, không chịu thua ai, không chịu nhường nhịn ai cả ... nhưng tâm địa lại tốt, không hiểm độc, không hại người, và có ý giúp người, thương người. Bề ngoài có vẻ hung hăn nhưng bên trong là tốt. Dạng người này có nhiều chiếm khoảng 33% dân số.


3. Nhóm người ít nói, kín đáo, thâm trầm, không ồn ào, không thích nói thẳng, nói thật ý mình ra, không thích cải vả, tranh cãi nhưng lại rất hiểm độc, ưa trả thù, ghi nhớ những chuyện người khác làm xấu cho mình rất lâu và tìm cách trả thù tàn bạo, ném đá giấu tay, xúi giục người khác gây rối gây hại . Đặc điểm của dạng người này nguỵ quân tử, Nhạc Bất Quần, giả nhân giả nghĩa. Có vẻ tốt bề ngoài nhưng bên trong vô cùng hiểm độc, độc ác. Dạng người này cũng chiếm 33% dân số .


4. Nhóm người nóng nảy, ồn ào, trực tính, sẵn sàng nói thẳng những điều nghĩ trong đầu mà không cần biết đúng hay sai và hậu quả như thế nào, thích cãi vả, tranh chấp và cũng không chịu thua ai, không bao giờ nhường nhịn ai nhưng đồng thời cũng hiểm độc, mưu mô ác độc, ném đá giấu tay, xúi giục người khác, Nhạc Bất Quần, nguỵ quân tử, nói một đằng làm một nẻo. Bề ngoài cũng xấu mà bên trong cũng xấu. Dạng người này chiếm 33% dân số .

Trần Minh Hiền Orlando

Hãy Cứ Hồn Nhiên Như Trẻ Nhỏ







Trong đời, ai cũng có đôi lần mong cho thời gian quay trở lại chẳng phải vì tiếc nuối mà đôi khi chỉ vì niềm thương nhớ chính mình với nụ cười còn vô tư lắm và ánh nhìn vẫn thanh thản trong veo.


Khi người ta đủ lớn, người ta bỗng thấy thuở ấu thơ sao tràn đầy màu sắc đến thế. Cánh đồng xanh mê mải. Trời mây trắng dịu êm. Chuồn chuồn ớt thắm đỏ. Màu mực trong vở tím ngắt. Mèo vàng sưởi nắng lim dim. Trận mưa rào trên mái tôn xám. Da đen nhẻm chạy dưới trưa hè. Cả một thế giới rạng rỡ, tuyệt vời và trong vắt. Để rồi khi lớn lên, cái thế giới ấy chỉ còn là một miền hoài niệm, mà dù người ta có gắng đi tìm, có ngắm nhìn qua một góc kính nào thì cũng không thể nào tái hiện lại được. Không một sắc trắng nào vi vút như gió lùa qua khe cửa ngày đông, không một sắc tím nào bềnh bồng như bằng lăng ngang trời mùa hạ, không một sắc hồng nào khác lạ như nụ hoa mới biết yêu thủa ban đầu …


Khi người ta đủ lớn, người ta bỗng thấy lúc bé đời sao đơn giản thế, mà lại tươi đẹp thế. Và ta lại đặt câu hỏi, sao khi lớn lên, người ta có thể ăn bất kì món đặc sản cầu kỳ nào mà lại không thấy vui miệng bằng cây kem mút ăn vội trước cổng trường giờ tan học. Người ta có thể mua sắm cho mình bất cứ thứ quần áo hợp mốt nào mà lại không thấy háo hức bằng lúc khoác lên mình chiếc áo ba mẹ mua cho diện Tết. Người ta có thể đi cùng người yêu trên chiếc xe hơi đắt tiền mà lại chẳng thấy tim mình xao xuyến như lúc ngồi sau xe đạp của cậu bạn lơ đãng ngày xưa. Thế đấy, người ta có thể đạt được mọi thứ mình muốn, để rồi nhận ra rằng, khi cuộc sống quá dư giả, thì có những giá trị mà chỉ khi thiếu thốn ta mới có thể cảm nhận được.


Khi người ta đủ lớn, thì cái tôi cũng lớn lên theo. Người ta không còn vui được nữa bởi chính sự kiêu hãnh và định kiến của mình cùng những người xung quanh. Người ta rồi giới hạn mình trong những định mức, để mọi điều là vừa đủ. Để không quá tha thiết, không quá say mê, không quá cuồng si một cái gì. Ước mơ không theo đuổi, yêu thương chẳng tỏ bày. Làm gì cũng suy tính, sẽ ra sao ngày sau. Rồi bằng lòng cho rằng vậy thì sẽ không buồn khổ. Nhưng rồi làm như thế, có chắc rằng đời đã hạnh phúc hơn không?


Khi người ta đủ lớn, người ta không còn nhìn thấy những sắc màu tuyệt đối. Thay vào đó là sự điều hòa, lẫn lộn. Trong trắng có đen, trong thật có giả, trong gần có xa, trong gặp gỡ có ly biệt, trong nụ cười có âu lo, và trong tình cảm có đắn đo cân nhắc. Người ta cũng biết giữ những khoảng cách, để rồi thi thoảng bỗng thấy mình quá đỗi cô đơn. Cô đơn không phải là những khi một mình không có ai bên cạnh, mà là khi ở giữa cuộc vui thấy mình u uẩn, giữa tiếng cười rộn ràng thấy trong lòng mưa rơi, giữa yêu thương thấy dửng dưng vời vợi. Khi không ai thấu hiểu và chia sẻ. Khi thấy mình không thuộc về một nơi chốn hay một người nào cả. Ai cũng muốn gần nhau đấy, mà sao rồi ai cũng rất lẻ loi?


Khi người ta đủ lớn, người ta bắt đầu mong bé lại. Người ta bắt đầu mong trở về là mình những xa xưa. Khi vui buồn thật lòng với những điều nho nhỏ, khi yêu ghét được vô tư tỏ bày, khi thế giới trong sáng là những ô cửa ngập nắng, những ngày xào xạc gió, những đêm học thi mê mải hay những buổi tụ tập bạn bè thật vui.


Nhưng, ngày hôm qua thì đã qua rồi. Như cái cây đã lớn rồi thì không thể nào non trẻ lại, con người đã lớn thì phải học cách đứng vững vàng trong gió trong mưa. Thế nên bạn hãy cứ đi đi, giữ cho mình niềm yêu đời thiết tha, bằng lòng với những điều đẹp đẽ, những dấu ấn nhiều khi bé nhỏ nhưng khó phai trong đời và đừng bận tâm về những bắt đầu hay sau cuối.


Khi người ta đủ lớn, người ta nhận ra trong cuộc sống không phải lúc nào mọi thứ cũng rõ ràng. Không phải lúc nào nhìn lên thì trời cũng xanh, mây cũng trắng. Có những lúc trời bạc một màu quên lãng và có những lúc mây mang màu ngũ sắc như cầu vồng sau mưa. Nhưng dù không thể bé lại thì xin cứ sống hồn nhiên như trẻ nhỏ, để thấy đời vẫn rất đẹp tươi!
Và đó mới là điều quan trọng.


Theo Henrylongnguyen.com

Chủ Nhật, 17 tháng 4, 2016

Nhà thơ và cuộc lưu đày xứ mộng*







Lịch sử văn minh của nhân loại đã trải qua những phát kiến khám phá vĩ đại về khoa học kỹ thuật và vũ trụ nhưng sự bí ẩn của tâm linh con người thì vẫn luôn là thách thức chưa thể giải mã.

Khám phá bí mật sự xung động quá trình sáng tạo của nhà thơ cũng chính là lạc vào thánh đường hun hút của tâm linh con người. Hành trình của nhà thơ đi từ nỗi ám ảnh của vô thức đến sự ra đời hoàn chỉnh của bài thơ trên trang giấy dài thăm thẳm và là cuộc “lưu đày” bất tận vào xứ mộng. Cuộc “lưu đày” vào xứ mộng diễn ra trong từng khoảnh khắc sáng tạo và cả cuộc đời của nhà thơ. Người ta có thể đếm được xác phù du gục chết dưới chân sau khi lao vào xứ sở của ánh sáng nhưng lại chẳng thể biết được có bao nhiêu nhà thơ giữa cuộc lưu đày vào xứ mộng đã vĩnh viễn đem theo xuống mồ nỗi hoài vọng về cái đẹp và sự khát khao hòa điệu với sự sống.

Nhà thơ chính là kẻ “lưu đày” âm thầm tự nguyện vào xứ ở của sự cô đơn và cõi mộng. Trên đường hướng về xứ mộng nhà thơ phải xa lánh mọi vinh hoa và phú quý tống tiễn mọi cám dỗ của trần thế để lựa chọn sự dấn thân bất chấp hiểm nguy nhằm cứu chuộc cái đẹp trong bản ngã chính mình và vũ trụ. Xứ mộng là vương quốc bao la là xứ sở của sự an nhiên và tự tại là nơi hội tụ của mọi thái cực như hạnh phúc và bất hạnh ảo và thực ánh sáng và bóng tối… Xứ mộng không ở đâu xa nó thấp thoáng đâu đây nó ẩn sâu trong bản ngã nhưng chúng ta không nhìn thấy nó chính là do chúng ta bị những “thị dục” của trần thế lôi cuốn và che lấp. Mộng và thực hư ảo và trần thế là hai cõi đi về của nhà thơ trong quá trình sáng tạo. Nhà thơ chính là gạch nối kỳ diệu giữa mộng và thực thiên đàng và địa ngục thế giới ngày nay và sự sống ngày mai…

Nhà thơ tự “thôi miên” chính mình và bạn đọc bằng linh cảm về sự du dương của nhạc điệu và sự liên tưởng cùng những hình ảnh huyền ảo quyến rũ bất ngờ. Nhà thơ sáng tạo thế giới thi ca chính là tạo dựng một thế giới mộng mơ. Thế giới mộng mơ liên hệ với thế giới loài người đang sống như hai chiếc bình thông nhau trong thế giới ngôn từ thi ca. Trong quá trình sáng tạo nhà thơ tri giác và suy tưởng không hướng về thực tại mà “siêu thoát” về thế giới kỳ ảo huyền diệu của mộng mơ. Thi ca dù sáng tác theo trường phái lãng mạn hay hiện thực ấn tượng hay tượng trưng cũng đều hướng về sự mơ hồ lung linh hình ảnh ý nghĩa và sự gợi cảm tạo hình của ngôn từ tạo vật. Thi hào Tagore từng viết: “Tình yêu là sự ảo hóa”! Vâng chính sự ảo hóa đã làm cho tình yêu thêm kỳ diệu và là chất men khiến tình yêu thêm sinh sôi tràn đầy sức sống. Không gian vũ trụ và tâm tưởng của các cuộc gặp gỡ giữa Romêo và Julliett giữa Trần Quân Thụy và Thôi Oanh Oanh giữa Kim Trọng và Thúy Kiều giữa Chí Phèo và Thị Nở đều tràn đầy sự mơ mộng lung linh và huyền ảo. Thi ca cũng vậy. Chính sự ảo hóa đã khiến thi ca còn cần thiết với tâm linh con người. Thi ca là sự ảo hóa và nhà thơ thường sáng tạo trong sự ảo hóa của tâm linh và sự vật. Không hiếm những bài thơ tuyệt tác đã ra đời trong cơn mơ hoặc giữa sự chập chờn của lý trí và cảm xúc giữa mộng và thực. Thi sĩ Coleridge sau một cơn say á phiện trong giấc ngủ mơ màng đã sáng tạo nên một bài thơ bất hủ nhan đề “Hốt Tất Liệt Hán”. Thi sĩ Tô Đông Pha cũng viết về sự liên hệ hòa nhập giữa mộng và thực tùy thuộc vào khoảng cách của “tầm nhìn” tâm linh con người:

Khói ngút non lô sóng Triết Giang
Khi chưa đến đó luống mơ màng
Đến rồi hóa vẫn không gì khác
Khói ngút non lô sóng Triết Giang

Nếu con người là “cây sậy biết tư duy” thì nhà thơ phải là người biết mộng mơ và có khả năng biểu hiện nỗi mộng mơ của mình lên trang giấy. Đừng xem thường giấc mộng. Giấc mộng là một nửa cuộc đời của một con người nhưng lại là cả cuộc đời của nhà thơ. Một mùi hương xa xôi thoang thoảng có thể gợi nhớ lâu dài và bền vững hơn cả lâu đài thành quách hàng triệu năm. Một giấc mộng cũng có thể làm biến đổi cuộc đời một con người hơn cả một giáo lý một tư tưởng triết học. Khả năng mộng mơ phần nào bộc lộ phẩm hạnh thi ca của nhà thơ. Những nhà thơ nào mà tâm hồn cạn kiệt nguồn suối mộng mơ thì có thể xem như thi ca của họ đã giãy chết. Đã có thời người ta cho rằng cõi mộng là sự thoát tục đối lập với thực tế. Thực ra lý luận về phản ánh hiện thực đối với quá trình sáng tạo thi ca của nhà thơ thật chẳng khác gì việc nhốt gió mây trăng sao vào chiếc rọ chật hẹp tù hãm. Lịch sử thi ca đã minh chứng rằng tất cả các trường phái ấn tượng siêu thực tượng trưng lãng mạn và hiện thực cũng chỉ là “bước quá độ” của hành trình thi ca hướng về xứ mộng với nguồn thơ tràn đầy năng lượng tâm linh ẩn chứa cả cái mộng và cái thực vén mở và hòa nhập với cõi uyên nguyên bí ẩn của vũ trụ.

Sự sáng tạo của nhà thơ trên hành trình đi đến xứ mộng chính là sự “vượt thoát” của bản ngã qua mọi rào cản ranh giới và hố thẳm để hòa nhập với hồn của tạo vật và vũ trụ. Nhà thơ chắp cho chiếc lá hòn đá và cánh chim hơi ấm của linh hồn vừa như một sự ân sủng vừa như một sự trả ơn. Thi hào Puskin và Victo Hugo từng bị lưu đày theo đúng nghĩa đen nhưng hai ông vẫn “vượt thoát” khỏi chốn tăm tối của tù ngục để hướng về cõi mộng mơ thẳm sâu của tâm hồn vũ trụ và đã để lại cho hậu thế những bài thơ bất hủ. Đấy chính là một trong vô vàn biểu hiện về sự “lưu đày” xứ mộng của nhà thơ vào sâu thẳm tâm linh và tạo vật…

Ngôn ngữ thi ca của nhà thơ hàm chứa sự bí ẩn với những hình ảnh như trong một giấc mơ được sắp xếp liên hệ với nhau theo một cơ cấu riêng mà lý trí thường không thể giải mã nổi. Trong quá trình tiếp nhận ngôn ngữ và hình tượng thi ca sẽ “phát sáng” trong trường mộng mơ của tâm hồn bạn đọc. Nó sẽ chìm sâu vào tiềm thức và khuấy động tất cả những gì thẳm sâu nhất của tâm hồn. Khi ấy xứ mộng của nhà thơ lại hồi sinh và giao hòa với cõi mộng của tâm linh con người.



V.T.C



* (Rút trong tập tiểu luận phê bình: “Nhà thơ và cuộc lưu đày xứ mộng”)