Thứ Hai, 18 tháng 4, 2016

Bốn Dạng Người Của Thế Gian -






Các nhà tâm lý học, xã hội học cũng như các nhà khoa học, kinh tế gia, chính trị gia và giới lãnh đạo cầm quyền... luôn tìm hiểu, nghiên cứu về con người để phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau. Mặc dù họ vẫn còn tranh cãi và chưa đi đến một sự đồng thuận hoàn toàn nhưng họ đã bước đầu đồng ý với nhau về căn bản trong cách phân chia nhân loại nói chung ra làm bốn loại người chính sau đây:

1. Nhóm người điềm tĩnh, hiền lành, không ồn ào, to tiếng, không chửi bới cãi vả, không tranh chấp và có tâm địa tốt và luôn làm chuyện tốt, có ích cho nhân quần xã hội, không làm tổn thương ai và luôn giúp đỡ mọi người . Vừa tốt bề ngoài vừa tốt bên trong. Dạng người này rất ít, chỉ chiếm chưa tới 1% dân số .



2. Nhóm người nóng nảy, ồn ào, trực tính, sẵn sàng nói thẳng ra những lời khó nghe có thể làm tổn thương người khác, thích cãi vả tranh chấp, không chịu thua ai, không chịu nhường nhịn ai cả ... nhưng tâm địa lại tốt, không hiểm độc, không hại người, và có ý giúp người, thương người. Bề ngoài có vẻ hung hăn nhưng bên trong là tốt. Dạng người này có nhiều chiếm khoảng 33% dân số.


3. Nhóm người ít nói, kín đáo, thâm trầm, không ồn ào, không thích nói thẳng, nói thật ý mình ra, không thích cải vả, tranh cãi nhưng lại rất hiểm độc, ưa trả thù, ghi nhớ những chuyện người khác làm xấu cho mình rất lâu và tìm cách trả thù tàn bạo, ném đá giấu tay, xúi giục người khác gây rối gây hại . Đặc điểm của dạng người này nguỵ quân tử, Nhạc Bất Quần, giả nhân giả nghĩa. Có vẻ tốt bề ngoài nhưng bên trong vô cùng hiểm độc, độc ác. Dạng người này cũng chiếm 33% dân số .


4. Nhóm người nóng nảy, ồn ào, trực tính, sẵn sàng nói thẳng những điều nghĩ trong đầu mà không cần biết đúng hay sai và hậu quả như thế nào, thích cãi vả, tranh chấp và cũng không chịu thua ai, không bao giờ nhường nhịn ai nhưng đồng thời cũng hiểm độc, mưu mô ác độc, ném đá giấu tay, xúi giục người khác, Nhạc Bất Quần, nguỵ quân tử, nói một đằng làm một nẻo. Bề ngoài cũng xấu mà bên trong cũng xấu. Dạng người này chiếm 33% dân số .

Trần Minh Hiền Orlando

Hãy Cứ Hồn Nhiên Như Trẻ Nhỏ







Trong đời, ai cũng có đôi lần mong cho thời gian quay trở lại chẳng phải vì tiếc nuối mà đôi khi chỉ vì niềm thương nhớ chính mình với nụ cười còn vô tư lắm và ánh nhìn vẫn thanh thản trong veo.


Khi người ta đủ lớn, người ta bỗng thấy thuở ấu thơ sao tràn đầy màu sắc đến thế. Cánh đồng xanh mê mải. Trời mây trắng dịu êm. Chuồn chuồn ớt thắm đỏ. Màu mực trong vở tím ngắt. Mèo vàng sưởi nắng lim dim. Trận mưa rào trên mái tôn xám. Da đen nhẻm chạy dưới trưa hè. Cả một thế giới rạng rỡ, tuyệt vời và trong vắt. Để rồi khi lớn lên, cái thế giới ấy chỉ còn là một miền hoài niệm, mà dù người ta có gắng đi tìm, có ngắm nhìn qua một góc kính nào thì cũng không thể nào tái hiện lại được. Không một sắc trắng nào vi vút như gió lùa qua khe cửa ngày đông, không một sắc tím nào bềnh bồng như bằng lăng ngang trời mùa hạ, không một sắc hồng nào khác lạ như nụ hoa mới biết yêu thủa ban đầu …


Khi người ta đủ lớn, người ta bỗng thấy lúc bé đời sao đơn giản thế, mà lại tươi đẹp thế. Và ta lại đặt câu hỏi, sao khi lớn lên, người ta có thể ăn bất kì món đặc sản cầu kỳ nào mà lại không thấy vui miệng bằng cây kem mút ăn vội trước cổng trường giờ tan học. Người ta có thể mua sắm cho mình bất cứ thứ quần áo hợp mốt nào mà lại không thấy háo hức bằng lúc khoác lên mình chiếc áo ba mẹ mua cho diện Tết. Người ta có thể đi cùng người yêu trên chiếc xe hơi đắt tiền mà lại chẳng thấy tim mình xao xuyến như lúc ngồi sau xe đạp của cậu bạn lơ đãng ngày xưa. Thế đấy, người ta có thể đạt được mọi thứ mình muốn, để rồi nhận ra rằng, khi cuộc sống quá dư giả, thì có những giá trị mà chỉ khi thiếu thốn ta mới có thể cảm nhận được.


Khi người ta đủ lớn, thì cái tôi cũng lớn lên theo. Người ta không còn vui được nữa bởi chính sự kiêu hãnh và định kiến của mình cùng những người xung quanh. Người ta rồi giới hạn mình trong những định mức, để mọi điều là vừa đủ. Để không quá tha thiết, không quá say mê, không quá cuồng si một cái gì. Ước mơ không theo đuổi, yêu thương chẳng tỏ bày. Làm gì cũng suy tính, sẽ ra sao ngày sau. Rồi bằng lòng cho rằng vậy thì sẽ không buồn khổ. Nhưng rồi làm như thế, có chắc rằng đời đã hạnh phúc hơn không?


Khi người ta đủ lớn, người ta không còn nhìn thấy những sắc màu tuyệt đối. Thay vào đó là sự điều hòa, lẫn lộn. Trong trắng có đen, trong thật có giả, trong gần có xa, trong gặp gỡ có ly biệt, trong nụ cười có âu lo, và trong tình cảm có đắn đo cân nhắc. Người ta cũng biết giữ những khoảng cách, để rồi thi thoảng bỗng thấy mình quá đỗi cô đơn. Cô đơn không phải là những khi một mình không có ai bên cạnh, mà là khi ở giữa cuộc vui thấy mình u uẩn, giữa tiếng cười rộn ràng thấy trong lòng mưa rơi, giữa yêu thương thấy dửng dưng vời vợi. Khi không ai thấu hiểu và chia sẻ. Khi thấy mình không thuộc về một nơi chốn hay một người nào cả. Ai cũng muốn gần nhau đấy, mà sao rồi ai cũng rất lẻ loi?


Khi người ta đủ lớn, người ta bắt đầu mong bé lại. Người ta bắt đầu mong trở về là mình những xa xưa. Khi vui buồn thật lòng với những điều nho nhỏ, khi yêu ghét được vô tư tỏ bày, khi thế giới trong sáng là những ô cửa ngập nắng, những ngày xào xạc gió, những đêm học thi mê mải hay những buổi tụ tập bạn bè thật vui.


Nhưng, ngày hôm qua thì đã qua rồi. Như cái cây đã lớn rồi thì không thể nào non trẻ lại, con người đã lớn thì phải học cách đứng vững vàng trong gió trong mưa. Thế nên bạn hãy cứ đi đi, giữ cho mình niềm yêu đời thiết tha, bằng lòng với những điều đẹp đẽ, những dấu ấn nhiều khi bé nhỏ nhưng khó phai trong đời và đừng bận tâm về những bắt đầu hay sau cuối.


Khi người ta đủ lớn, người ta nhận ra trong cuộc sống không phải lúc nào mọi thứ cũng rõ ràng. Không phải lúc nào nhìn lên thì trời cũng xanh, mây cũng trắng. Có những lúc trời bạc một màu quên lãng và có những lúc mây mang màu ngũ sắc như cầu vồng sau mưa. Nhưng dù không thể bé lại thì xin cứ sống hồn nhiên như trẻ nhỏ, để thấy đời vẫn rất đẹp tươi!
Và đó mới là điều quan trọng.


Theo Henrylongnguyen.com

Chủ Nhật, 17 tháng 4, 2016

Nhà thơ và cuộc lưu đày xứ mộng*







Lịch sử văn minh của nhân loại đã trải qua những phát kiến khám phá vĩ đại về khoa học kỹ thuật và vũ trụ nhưng sự bí ẩn của tâm linh con người thì vẫn luôn là thách thức chưa thể giải mã.

Khám phá bí mật sự xung động quá trình sáng tạo của nhà thơ cũng chính là lạc vào thánh đường hun hút của tâm linh con người. Hành trình của nhà thơ đi từ nỗi ám ảnh của vô thức đến sự ra đời hoàn chỉnh của bài thơ trên trang giấy dài thăm thẳm và là cuộc “lưu đày” bất tận vào xứ mộng. Cuộc “lưu đày” vào xứ mộng diễn ra trong từng khoảnh khắc sáng tạo và cả cuộc đời của nhà thơ. Người ta có thể đếm được xác phù du gục chết dưới chân sau khi lao vào xứ sở của ánh sáng nhưng lại chẳng thể biết được có bao nhiêu nhà thơ giữa cuộc lưu đày vào xứ mộng đã vĩnh viễn đem theo xuống mồ nỗi hoài vọng về cái đẹp và sự khát khao hòa điệu với sự sống.

Nhà thơ chính là kẻ “lưu đày” âm thầm tự nguyện vào xứ ở của sự cô đơn và cõi mộng. Trên đường hướng về xứ mộng nhà thơ phải xa lánh mọi vinh hoa và phú quý tống tiễn mọi cám dỗ của trần thế để lựa chọn sự dấn thân bất chấp hiểm nguy nhằm cứu chuộc cái đẹp trong bản ngã chính mình và vũ trụ. Xứ mộng là vương quốc bao la là xứ sở của sự an nhiên và tự tại là nơi hội tụ của mọi thái cực như hạnh phúc và bất hạnh ảo và thực ánh sáng và bóng tối… Xứ mộng không ở đâu xa nó thấp thoáng đâu đây nó ẩn sâu trong bản ngã nhưng chúng ta không nhìn thấy nó chính là do chúng ta bị những “thị dục” của trần thế lôi cuốn và che lấp. Mộng và thực hư ảo và trần thế là hai cõi đi về của nhà thơ trong quá trình sáng tạo. Nhà thơ chính là gạch nối kỳ diệu giữa mộng và thực thiên đàng và địa ngục thế giới ngày nay và sự sống ngày mai…

Nhà thơ tự “thôi miên” chính mình và bạn đọc bằng linh cảm về sự du dương của nhạc điệu và sự liên tưởng cùng những hình ảnh huyền ảo quyến rũ bất ngờ. Nhà thơ sáng tạo thế giới thi ca chính là tạo dựng một thế giới mộng mơ. Thế giới mộng mơ liên hệ với thế giới loài người đang sống như hai chiếc bình thông nhau trong thế giới ngôn từ thi ca. Trong quá trình sáng tạo nhà thơ tri giác và suy tưởng không hướng về thực tại mà “siêu thoát” về thế giới kỳ ảo huyền diệu của mộng mơ. Thi ca dù sáng tác theo trường phái lãng mạn hay hiện thực ấn tượng hay tượng trưng cũng đều hướng về sự mơ hồ lung linh hình ảnh ý nghĩa và sự gợi cảm tạo hình của ngôn từ tạo vật. Thi hào Tagore từng viết: “Tình yêu là sự ảo hóa”! Vâng chính sự ảo hóa đã làm cho tình yêu thêm kỳ diệu và là chất men khiến tình yêu thêm sinh sôi tràn đầy sức sống. Không gian vũ trụ và tâm tưởng của các cuộc gặp gỡ giữa Romêo và Julliett giữa Trần Quân Thụy và Thôi Oanh Oanh giữa Kim Trọng và Thúy Kiều giữa Chí Phèo và Thị Nở đều tràn đầy sự mơ mộng lung linh và huyền ảo. Thi ca cũng vậy. Chính sự ảo hóa đã khiến thi ca còn cần thiết với tâm linh con người. Thi ca là sự ảo hóa và nhà thơ thường sáng tạo trong sự ảo hóa của tâm linh và sự vật. Không hiếm những bài thơ tuyệt tác đã ra đời trong cơn mơ hoặc giữa sự chập chờn của lý trí và cảm xúc giữa mộng và thực. Thi sĩ Coleridge sau một cơn say á phiện trong giấc ngủ mơ màng đã sáng tạo nên một bài thơ bất hủ nhan đề “Hốt Tất Liệt Hán”. Thi sĩ Tô Đông Pha cũng viết về sự liên hệ hòa nhập giữa mộng và thực tùy thuộc vào khoảng cách của “tầm nhìn” tâm linh con người:

Khói ngút non lô sóng Triết Giang
Khi chưa đến đó luống mơ màng
Đến rồi hóa vẫn không gì khác
Khói ngút non lô sóng Triết Giang

Nếu con người là “cây sậy biết tư duy” thì nhà thơ phải là người biết mộng mơ và có khả năng biểu hiện nỗi mộng mơ của mình lên trang giấy. Đừng xem thường giấc mộng. Giấc mộng là một nửa cuộc đời của một con người nhưng lại là cả cuộc đời của nhà thơ. Một mùi hương xa xôi thoang thoảng có thể gợi nhớ lâu dài và bền vững hơn cả lâu đài thành quách hàng triệu năm. Một giấc mộng cũng có thể làm biến đổi cuộc đời một con người hơn cả một giáo lý một tư tưởng triết học. Khả năng mộng mơ phần nào bộc lộ phẩm hạnh thi ca của nhà thơ. Những nhà thơ nào mà tâm hồn cạn kiệt nguồn suối mộng mơ thì có thể xem như thi ca của họ đã giãy chết. Đã có thời người ta cho rằng cõi mộng là sự thoát tục đối lập với thực tế. Thực ra lý luận về phản ánh hiện thực đối với quá trình sáng tạo thi ca của nhà thơ thật chẳng khác gì việc nhốt gió mây trăng sao vào chiếc rọ chật hẹp tù hãm. Lịch sử thi ca đã minh chứng rằng tất cả các trường phái ấn tượng siêu thực tượng trưng lãng mạn và hiện thực cũng chỉ là “bước quá độ” của hành trình thi ca hướng về xứ mộng với nguồn thơ tràn đầy năng lượng tâm linh ẩn chứa cả cái mộng và cái thực vén mở và hòa nhập với cõi uyên nguyên bí ẩn của vũ trụ.

Sự sáng tạo của nhà thơ trên hành trình đi đến xứ mộng chính là sự “vượt thoát” của bản ngã qua mọi rào cản ranh giới và hố thẳm để hòa nhập với hồn của tạo vật và vũ trụ. Nhà thơ chắp cho chiếc lá hòn đá và cánh chim hơi ấm của linh hồn vừa như một sự ân sủng vừa như một sự trả ơn. Thi hào Puskin và Victo Hugo từng bị lưu đày theo đúng nghĩa đen nhưng hai ông vẫn “vượt thoát” khỏi chốn tăm tối của tù ngục để hướng về cõi mộng mơ thẳm sâu của tâm hồn vũ trụ và đã để lại cho hậu thế những bài thơ bất hủ. Đấy chính là một trong vô vàn biểu hiện về sự “lưu đày” xứ mộng của nhà thơ vào sâu thẳm tâm linh và tạo vật…

Ngôn ngữ thi ca của nhà thơ hàm chứa sự bí ẩn với những hình ảnh như trong một giấc mơ được sắp xếp liên hệ với nhau theo một cơ cấu riêng mà lý trí thường không thể giải mã nổi. Trong quá trình tiếp nhận ngôn ngữ và hình tượng thi ca sẽ “phát sáng” trong trường mộng mơ của tâm hồn bạn đọc. Nó sẽ chìm sâu vào tiềm thức và khuấy động tất cả những gì thẳm sâu nhất của tâm hồn. Khi ấy xứ mộng của nhà thơ lại hồi sinh và giao hòa với cõi mộng của tâm linh con người.



V.T.C



* (Rút trong tập tiểu luận phê bình: “Nhà thơ và cuộc lưu đày xứ mộng”)

Tục thờ chó đá của người Việt







Trong quan niệm của người Việt xưa, chó là con vật trung thành và mang lại nhiều may mắn. Chó bình thường chỉ coi được phần dương, muốn canh giữ phần âm thì phải nuôi chó đá. Tục thờ chó được biểu hiện dưới nhiều hình thức. Người Việt thường chôn chó đá trước cổng như một linh vật với ý nghĩa cầu phúc, trừ tà hoặc đặt chó đá trên bệ thờ và coi như một bậc thần linh. Chó đá trong nhà thường nhỏ, mang dáng vẻ hiền lành, không to lớn như chó đá ở đình, đền, phủ.



Trong khi nhiều công sở, di tích đền chùa sử dụng linh vật ngoại lai để gác cửa thì ở nhiều địa phương người dân vẫn giữ tục chôn chó đá trước cửa, thậm chí thờ và kính cẩn gọi là cụ Thạch, Thần cẩu, quan lớn Hoàng Thạch. 

Trong quan niệm của người Việt xưa, chó là con vật trung thành và mang lại nhiều may mắn. Chó bình thường chỉ coi được phần dương, muốn canh giữ phần âm thì phải ''nuôi'' chó đá. Tục thờ chó được biểu hiện dưới nhiều hình thức. Người Việt thường chôn chó đá trước cổng như một linh vật với ý nghĩa cầu phúc, trừ tà hoặc đặt chó đá trên bệ thờ và coi như một bậc thần linh. Chó đá trong nhà thường nhỏ, mang dáng vẻ hiền lành, không to lớn như chó đá ở đình, đền, phủ.





Chó đá canh trước phủ quận công Nguyễn Ngọc Trì (Hát Môn, Phúc Thọ, Hà Nội) 

Phủ thờ quận công Nguyễn Ngọc Trì ở làng Hát Môn, xã Hát Môn (Phúc Thọ, Hà Nội) có 4 con chó đá, 2 con nghê đá, toàn bộ bằng đá xanh nguyên phiến. 4 con chó đá đặt trước và sau phủ gọi là thạch cẩu, hai chân trước đứng, chân sau như sắp nhổm lên sủa. Trước tượng chó đá có bát hương để thờ.



Ông Nguyễn Ngọc Toàn, con cháu họ Nguyễn Ngọc, cũng là người trông coi không biết những con chó đá này có từ bao giờ, chỉ biết thạch cẩu ngồi đây có ý nghĩa để canh gác cho phủ, giống như những con chó bình thường khác canh nhà cho người dân. "Chó đá có từ khi dựng phủ này vào thế kỷ 18, dòng họ Nguyễn Ngọc bao đời nay đều thờ cúng cẩn thận", ông Toàn cho hay.





Chó đá ở làng Địch Vĩ (Phương Đình, Đan Phượng)
được đặt trên bệ thờ lớn ở cạnh đình

Dân làng Địch Vĩ, xã Phương Đình (Đan Phượng, Hà Nội) thờ chó đá như một vị thần và gọi là quan lớn Hoàng Thạch. Con chó đá cao 1,4 m, đầu hướng về phía núi Ba Vì, dưới chân còn có một đàn chó nhỏ. Quan lớn Hoàng Thạch ngự ở giữa làng, bên cạnh đình và chùa Địch Vĩ. Trước đây, người dân thờ chó đá ở mô đất thấp. Sau này, họ xây bệ thờ và rước ngài lên, không xây cổng, tường bao quanh để ngày lễ, đầu tháng, ai cũng có thể thắp hương cầu bình yên, may mắn.



Những người cao tuổi nhất trong làng như ông Phạm Văn Toàn (84 tuổi) không biết con chó ở đó từ bao giờ. Chỉ biết trong tâm thức của người Địch Vĩ bao đời, con chó đá này chính là vị thần che chở, mang đến bình yên cho cả làng. "Có tiếng chó sủa thì ma quỷ không dám bén mảng tới nhà. Nuôi chó cũng chính là để đánh động cho người làng biết mỗi khi có giặc giã, trộm cướp", ông Toàn cho hay.
Chó đá đặt trong đình làng Phù Trung (Thượng Mỗ, Đan Phượng) lại được người dân gọi là thần cẩu hay hoàng thạch cẩu. Chó đá được đặt lên bệ thờ ở bên phải, vừa để trông coi đình, vừa được thờ cúng như một vị thần. Làng Phù Trung hình thành từ vài trăm năm nay, con chó đá trước được thờ ở gò đất đầu làng. Sau này gò bị phá, các cụ cao niên rước chó đá về đặt trong đình.

Ông Hà Văn Gia (82 tuổi), Trưởng ban di tích làng Phù Trung cho biết: "Mỗi khi làng có việc, các chủ tế xướng tên vị thành hoàng làng rồi sau đó là xướng đến thần cẩu. Nhiều đời nay, vị thần cẩu này cùng với các vị thành hoàng làng được dân thờ cúng cẩn thận, không dám lơ là".

Hình thức thờ chó đá khá phổ biến ở nông thôn, các vùng quanh Hà Nội như Hà Tây (cũ), Bắc Ninh, Bắc Giang, Hưng Yên… Sau năm 1954, ở mé nam ngã tư Trung Hiền (phố Đại La tiếp giáp với Minh Khai (Hà Nội) ngày nay) có con chó đá khá lớn trấn giữ nên nơi đây còn được gọi là cửa ô Chó Đá. Qua thời gian, chó đá không còn và tên cửa ô này chỉ tồn tại trong tâm trí rất ít người sống gần đó.

Ở mỗi vùng, hình thức thờ chó đá cũng khác nhau. Người Tày, Nùng một số nơi ở Lạng Sơn có tục chọn ngày tốt để đặt con chó đá trước cửa trông nhà và trừ tà ma. Với người Dao, hình ảnh con chó được biểu hiện trên trang phục. Người Pa Cô trong tộc người Cơ Tu còn kiêng giết thịt, coi con chó như vật tổ truyền. Ngày nay, người Việt một số nơi không chôn chó đá ở trước cửa nhưng vẫn mua chó gốm về để bày trong nhà, vừa xua đuổi tà ma, vừa làm vật trang trí.
Nhiều tài liệu lịch sử cũng ghi chép việc thờ cúng chó đá. Cuốn Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú viết "Nghi môn ở điện Lam Kinh có hai con chó đá rất thiêng" ở phần Dư địa chí ghi chép về trấn Thanh Hoa. Trong cuốn Việt Nam văn hóa sử cương, học giả Đào Duy Anh từng nhắc: "Xưa kia, cửa ngõ thường không làm đúng chính giữa nhà và sân để cho người ngoài đừng nhìn thẳng vào trung tâm nhà. Người ta cũng thường kiêng không để cho có con đường đâm thẳng vào nhà, hay là có đền chùa ở trước nhà. Nếu bất đắc dĩ không tránh được những điều kỵ ấy thì người ta chôn ở trước nhà một con chó đá hay là treo một cái gương ở trên cửa chính để yểm tà khí".

Giáo sư Ngô Đức Thịnh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và bảo tồn văn hoá tín ngưỡng Việt Nam, ủy viên Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia, cho biết tục thờ chó đá đã có từ lâu. Thời vua Lý Công Uẩn đã cho dân lập đền thờ Cẩu Nhi ở hồ Trúc Bạch (Tây Hồ, Hà Nội). Đây là phong tục đẹp trong tín ngưỡng của người Việt, nên được gìn giữ và mở rộng.

Theo giáo sư Thịnh, chó đá, nghê đá là những con vật gần gũi với tâm linh người Việt, nên được dùng để thay thế sư tử ngoại lai trong một số đình, chùa hiện nay. "Chó canh cửa là điều hợp với thực tế cuộc sống, cũng là biểu tượng của điềm lành. Người xưa quan niệm chó đến nhà là tốt nên nhiều nơi thờ cúng không chỉ trước đây mà còn ở giai đoạn cận, hiện đại. Sư tử chủ yếu được người Trung Quốc dùng để canh lăng mộ. Mang sư tử về trước cơ quan, đình, chùa là việc học đòi mà không hiểu gì về văn hóa", giáo sư Thịnh phân tích.

(Theo VnExpress)


Lẽ sống chết






Người ta ở đời, kẻ thì mến đời không muốn chết, hoặc có kẻ lại chán đời không muốn sống. Như thế đều là nhầm cả. Sự sống chết không phải tự cho mình có chủ quyền được, thì mình đem tâm lo nghĩ, cầu khẩn về việc sống, chết, mà có ích gì!

Mạnh Tôn Dương hỏi Dương Tử: “Có kẻ mến đời, yêu thân, cầu cho không chết có nên không?”.

Dương Tử nói: “Có sống thì phải có chết, lẽ nào mà không chết được?”.

- Thế cầu sống có nên không?

- Lẽ nào sống lâu được? Người ta không phải thích sống mà sống mãi được, yêu thân mà thân còn mãi được. Vả chăng, sống lâu để làm gì? Thế tình hay dở, xưa cũng như nay; thân thể an nguy xưa cũng như nay; việc đời vui khổ, xưa cũng như nay; biến đổi trị loạn, xưa cũng như nay; cái gì cũng đã nghe thấy, đã trông thấy, đã từng trải cả rồi, thì sống trong khoảng trăm năm cũng đủ lấy làm chán, huống còn cầu lấy sống lâu để cho khổ làm gì?”.

Mạnh Tôn Dương nói: “Nếu như thế, thì chóng chết còn hơn là sống lâu. Ta nên xông vào gươm giáo, nhảy vào nước lửa để chết ngay đi có thỏa không?”.

Dương Tử nói: “Không phải thế. Đã sinh ra đời thì lúc sống cứ tự nhiên mặc, muốn làm gì thì làm, cho đến lúc chết. Lúc sắp chết, cũng tự nhiên mặc, muốn hóa ra gì thì hóa cho đến lúc cùng. Lúc sống, lúc chết, lúc nào cũng tự nhiên như không, hà tất phải quan tâm sống lâu hay chóng chết làm gì?”.

Dương Tử[1]

Lời bàn:

Người ta ở đời, kẻ thì mến đời không muốn chết, hoặc có kẻ lại chán đời không muốn sống. Như thế đều là nhầm cả. Sự sống chết không phải tự cho mình có chủ quyền được, thì mình đem tâm lo nghĩ, cầu khẩn về việc sống, chết, mà có ích gì!

Thà rằng: Từ lúc sống đến lúc chết, việc mình, mình làm, còn ngoại giả phó mặc ở sự tự nhiên cho gọi là số, là mệnh, là tạo hóa cũng không cần. Thói đời, thường tình vẫn tham sống, sợ chết. Nhưng chết, vị tất là khổ hẳn. Mà sống, cũng không ai bảo là toàn sướng được! Như xưa có kẻ sống hơn trăm tuổi, ai chẳng cho sống lâu là quý! Thế mà người ấy thường vẫn ta thán rằng: “Sống làm chi cho nhục!”. Sống lâu cho vô ích mà chỉ trông nhiều cảnh tang thương thì có hay gì.

(Theo “Cổ học tinh hoa” của Nguyễn Văn Ngọc và Trần Lê Nhân – NXB Trẻ)




------------------------------

[1] Dương Tử: Người thời Chiến Quốc tên là Tử Cư, tôn chỉ học thuyết là: “Mất một cái lông mà lợi thiên hạ cũng không cho, được cả thiên hạ phụng sự một mình cũng không làm, người nào cũng không chịu thiệt, người nào cũng không ham lợi thì thiên hạ tự nhiên thái bình”. Học thuyết ấy rất thịnh hành thời Chiến Quốc và người đời bây giờ cho là học thuyết “Vị ngã
”.

Âm nhạc trong truyện Kim Dung




Võ Công Liêm




Tiểu thuyết võ hiệp là một hình thái đặc biệt trong văn học Trung Quốc; nó có một lịch sử lâu đời, bắt nguồn từ hai truyện Du Hiệp Liệt Truyện và Thích Khách Liệt Truyện trong bộ sử ký Tư Mã Thiên, được biên soạn vào đời Hán; thuật lại những chuyện thời Xuân Thu chiến quốc như Kinh Kha Nhiếp Chính cho đến tiểu thuyết Chí Quái thời Ngụy Tấn và các truyện truyền kỳ đời Đường gồm những tác phẩm Câu Nhiệm Khách,Côn Luân Nô,Hồng Tuyến Nữ.Về sau nhiều tác giả đã dựa vào đó mà xây dựng thành tiểu thuyết đương đại; trong số đó phải kể đến tiểu thuyết gia Trà-Lương-Kim-Dung.


Từ khi truyện kiếm hiệp Kim Dung tung ra thị trường đã lôi kéo hằng triệu đọc giả khắp nơi trên thế giới,người ta đọc say mê truyện “chưởng” không những ở Trung Quốc mà ngay cả Việt Nam.Ngoài chuyện đọc tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung, người ta còn đổ xô xem phim ảnh một loại phim chuyện được dàn dựng theo mẫu mực của Kim Dung những hoạt cảnh thần kỳ, biến hóa thần thông của những võ lâm cao thủ, kỷ nghệ điện ảnh Hồng Kông khởi từ đó khuấy động thị trường phim thuật. Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Quốc dựa vào thị hiếu quần chúng cũng làm những phim võ hiệp tương tự nhưng rồi cũng lùi bước trước phim chuyện võ hiệp Kim Dung.



Trong 12 bộ truyện kiếm hiệp;tác giả đã dựa trên bối cảnh lịch sử đấu tranh của người Hán chống lại sự xâm lăng của các bộ tộc.Truyện của Kim Dung đầy tính hùng ca và sử thi; ông xử lý rốt ráo những kiến thức , hiểu biết về nền văn hóa Trung Quốc mà ông đã dày công nghiên cứu và học tập, từ đó ông vận dụng sở học một cách tài tình và lý giải trọn vẹn chân lý nghĩa hiệp một phần dựa vào lịch sử cổ đại và lịch sử huyền thoại mà ông hài hòa trong cách viết dã sử,bố cục chặt chẻ làm sống lại một bề dày sử liệu Trung Quốc kể cả các thuật như quyền thuật, y thuật, bút thuật về nghệ thuật thì có hội họa,thi phú, âm nhạc, ẩm thực và nhất là rượu và nhạc Kim Dung viết đến độ gần như đi tới tôn giáo hóa Tửu đạo và Nhạc đạo vậy.

Tất cả tình tiết của mỗi bộ truyện tác giả đều lồng vào một triết lý tâm sinh lý và tính nhân bản, ngoài ra bộ môn âm nhạc đều có mặt trong hầu hết bộ truyện của Kim Dung và đóng một vai trò không nhỏ.

Tác giả Kim Dung đã viết ra 12 tác phẩm: Thư Kiếm Ân Cừu Lục,Bích Huyết Kiếm,Anh Hùng Xạ Điêu,Thần Điêu Đại Hiệp,Bích Sơn Phi Hổ,Phi Hổ Ngoại Truyện, Ỷ Thiên Đồ Long Đao,Liên Thành Khuyết,Thiên Long Bát Bộ,Hiệp Khách Hành,Tiếu Ngạo Giang Hồ và Lộc Đỉnh Ký. Ông đã viết những bộ truyện trên gần như một trường thiên tiểu thuyết và đến năm ông 48 tuổi (1972) ông gác bút.

Âm nhạc trong truyện là một dữ kiện giữa cuồng nộ và hòa mình giữa tàn bạo với tình yêu; ông muốn chuyển hóa từ có sang không , từ tình thương xóa bỏ hận thù đập tan mọi vọng niệm mà tự cổ chí kim lòng hoài vọng đó không bao giờ tiêu diệt được.Và cũng từ đó ông nhận thức rằng âm nhạc biện minh cho những lý lẽ đã nêu và cũng là nhạc khí (võ khí) một khí giới “tuyệt chiêu” là sức mạnh siêu lực ngăn chận mọi tham vọng và ảo tưởng của con người.

Khởi từ thời Xuân Thu chiến quốc đưa Trung Quốc tới suy tàn,thảm bại nhất vào thời kỳ Hán tộc.Kim Dung nhìn nhận rằng:” Âm nhạc như một thứ võ công, giúp người ta lắng dịu cơn đau, điều trị,mê hoặc và kiềm chế kẻ địch” Ông muốn cho người đời thấy rằng nội lực của âm nhạc là “sứ giả của hòa bình” âm nhạc xử lý mọi hoàn cảnh, mọi hình thức của nội giới và ngoại giới, trở thành ngọn sóng thần đẩy lùi mọi sát khí. Một khí giới mà Kim Dung cho là tuyệt chiêu hơn những tuyệt chiêu khác.Cho nên ông chọn âm nhạc như một hòa giải và được coi như vai trò quan trong trong suốt những bộ truyện võ hiệp của ông. Kim Dung lý luận cụ thể giữa hai bề mặt của hai thế giới nội tại và ngoại tại ; cái “bề ngoài” là sự tranh hùng của võ lâm đầy sát khí nhưng cái “bề trong” chính là tâm hồn thanh thoát vị tha của kẻ sĩ. Kim Dung tả những nhân vật kiếm khách với ý nói đến hai chữ “nghĩa khí” mà nghĩa khí là cơ bản nồng cốt của người hùng kiếm khách, đó là quan niệm đạo đức xử thế và hành xử của những người hiệp sĩ đạo. Nghĩa là bộ phận không thể thiếu vắng trong truyện Kim Dung; chính Khổng Mạnh cũng thừa nhận rằng : Nghĩa là chính nghĩa, hợp lý và thích nghi.Cho nên tinh thần trọng nghĩa được đề cao trong chuyện Kim Dung là điều tất yếu.

Trong tất cả tác phẩm của ông, Kim Dung đã dùng nhiều loại hình âm nhạc khác nhau, ông vận dụng trí tuệ của mình, đưa âm nhạc vào truyện là cả mục đích diễn tả mọi tình huống qua từng thời kỳ, từng thời đại, cốt tủy truyện Kim Dung lấy văn minh tứ phương du nhập vào nền văn minh Trung Quốc và mười phương thống lĩnh địa bàn.

Nhưng rồi ông vẫn nhìn nhận âm nhạc xử lý toàn diện.Tiếu Ngạo Giang Hồ là một trường hợp cụ thể.Tiếu Ngạo Giang Hồ thật ra không phải là câu chuyện hiệp khách hay hành hiệp dựng lên tiền đề; mà chính là một nhạc phẩm lừng danh về đờn và sáo (cầm tiêu) có tựa đề Tiếu Ngạo Giang Hồ. Nhạc phẩm có một nội dung, ám chỉ giữa hai hệ phái Bạch đạo và Hắc đạo giữa chính và tà. Đó là một bản hợp soạn giữa hai nghệ sĩ trong giới võ lâm quyền bá, đối địch nhau.

Lưu Chính Phong chưởng phái Hành Sơn và Khúc Dương Trưởng lão thuộc phái Triêu Dương cả hai môn phái nầy thù “bất cộng đái thiên” thù vạn đợi trong việc tranh bá.Nhưng rồi trở thành bạn tâm giao giữa Lưu-Khúc.Phát sinh từ âm nhạc mà ra. Đọc đến đây ta thấy tác giả duy trì cái nghĩa khí lớn lao, đưa tình vào thù. Lưu và Khúc hai tay có biệt tài xử dụng nhạc khí đạt tới mức vô tiền khoáng hậu rồi tự nhiên cảm hóa qua tài năng mà trở thành hiền hữu. Kim Dung xử lý ngọn bút về âm nhạc quá tài tình và điệu nghệ. Kim Dung cho hai tài năng biểu diễn để đi tới tri kỷ với âm nhạc.Lưu Chính Phong trong tay đàn, Khúc Dương tay tiêu hòa nhịp với nhau lên khúc bi hùng ca, đạt tới chỗ tột đỉnh của âm nhạc, điệu nhạc giao thoa vào nhau kết thành bè trong điệu ngủ cung; khoan thai trung chính, tiếng khoan tiếng sập vỗ vào nhau lúc bỗng lúc trầm; đi vào truyện mới thấy ngón nghề âm nhạc Kim Dung tuyệt hảo tới mức nào. Chơi xong tấu khúc Lưu-Khưu tương thông tâm ý.Khi phát hiện ra chân lý của âm nhạc , đạt tới chân như tối thượng .Lưu rủ áo giang hồ lui về ẩn dật ở tuổi lục tuần, gác kiếm vui thú điền dã,ung dung tự tại giữa chốn giang hồ khí phách, nhưng bụi trần lại kéo đến Tả Lãnh Thiền thuộc phái Trung Sơn huy động toàn lực Hoa Sơn,Hành Sơn,Thái Sơn vây hảm hành động của Lưu Chính Phong, vu oan Lưu theo tà giáo,buộc Phong phải ra tay ám hại Khúc Dương, chặt đứt mối quan hệ với Triêu Dương thần giáo phái.Không thể hành động như thế được,với con người mã thượng coi việc bán sống cầu vinh là bất nghĩa.Kim Dung sắp xếp câu chuyện giữa tà với chính giữa thù và không thù, tác giả vẫn duy trì chữ nghĩa trong truyện, ông đưa nhân vật về với lương tâm đạo đức con người, nghĩa khí của hiệp khách, trọng tài hơn danh.Tiếng đàn của Phong là tiếng đàn cảm khái mà Khưu thầm phục trang nghĩa hiệp nầy.

Lưu Chính Phong đang ở trong một tình huống khó xử, một thảm kịch đau đớn.Khúc Dương hiểu được nỗi khổ của bạn ra tay cứu nguy,giải phóng Lưu đưa vào Thất Sơn Hành ẩn trú nơi đây, trả hết cho đời, đôi tài tử không còn là hiệp hành kiếm khách và biến mình vào thi nhạc, đàn địch hợp tấu khúc để đời trước khi đi vào cõi tịch.Nhưng chưa hết;Kim Dung kéo dài giá trị âm nhạc một lần nữa,sang tay cho kẻ hậu sinh, tác giả không muốn người đọc mất đi cái truyền bí âm nhạc, ông đưa những nhân vật khác tiếp tục sứ mạng và giữ lấy như việc trao ngôi. Những khúc bi hùng ca về sau giao lại cho Lệnh Hồ Xung thừa kế phái Hoa Sơn; cầm trong tay tấu khúc của hai vị tiền bối.Lệnh Hồ Xung lên ngựa phiêu bạt giang hồ, hóa thân thành một kẻ lang thang, thân tàn ma dại giữa rừng gươm đao. Phải chăng khát vọng của Tiếu Ngạo Giang Hồ không bao giờ thực hiện được hoài bão giữa một xã hội thời bấy giờ đầy mưu lược, thù độc, chia rẽ, bè phái tranh giựt quyền lực ? Tác giả Kim Dung muốn nhấn mạnh ở điểm này; lòng ham muốn dục vọng của con người triền miên trong kiếp đọa đày; ông muốn kéo con người về với nghĩa khí, cốt cách nghĩa hiệp dù ở bất cứ hoàn cảnh nào hôm nay hay ngày mai .

Kim Dung làm cho người đọc chạy theo ông những mạch chuyển, những tàng ẩn trong từng nhân vật truyện, những cuộc tranh hùng hay những mối tình lâm ly bi đát từ thâm cung hay chốn phường hoa ong bướm,chốn lầu xanh hay trà đình, tửu quán; ông vẫn đưa cái thế nhân sinh vào từng vai trò xử lý trên nguyên bản “nghĩa khí” đó là “nội công thâm hậu”của Kim Dung mà về sau chúng ta thấy cái thuật võ công đó qua từng nhân vật;cái gọi là nội công hay chưởng lực được tác giả vận dụng như trí tuệ, cái sức mạnh trí tuệ đã đánh ngã địch thất điên bát đảo; có phải là độc chiêu thâm hậu ?

Lệnh Hồ Xung cho rằng đó là một thể loại bí lục vô cùng thượng thặng giữa Lệnh Hồ Xung và người đẹp Doanh Doanh hai người gặp nhau trong ngõ Lục Trúc thuộc thành Lạc Dương; nơi đây Lệnh Hồ Xung gói gém niềm đau của mình với Doanh Doanh người mà hắn thầm yêu trộm nhớ, mối tình đầu tan vỡ.

Tác giả Kim Dung hoán giải cuộc tình tan hợp qua âm nhạc vẫn là chủ đề chính mà ông muốn chứng tỏ, bằng cách cho Doanh Doanh trổ tay nghề, dạy những ngón gảy tuyệt chiêu vô tiền khoán hậu cho Lệnh Hồ Xung những khúc lừng lẫy trong ca khúc Thanh Tâm Phổ Thiện Trú đó là khúc nhạc giữ gìn sanh mạng những lúc lâm nguy. Âm nhạc mà Kim Dung sử dụng trong truyện võ hiệp là một thứ âm nhạc siêu lực giải nguy,cứu chửa, giải bệnh. Đọc giả sẽ sửng sờ khi đọc đến đoạn chơi nhạc của Doanh Doanh truyền tập cho Lệnh Hồ Xung là liều thuốc hóa giải căn bệnh tâm thần,trầm cảm vựt Lệnh Hồ Xung trở lại trạng thái bình thường và hồi phục chức năng, khí thế võ lâm anh hùng. Nhưng cũng nhờ vào tấu khúc đó mà Lệnh Hồ Xung và Doanh Doanh nối lại cuộc tình tưởng như không bao giờ hàn gắn lại được giữa hai kẻ giang hồ khí phách. Đọc ở đoạn nầy ta thấy Kim Dung nâng âm nhạc lên đỉnh cao. Âm nhạc trong Tiếu Ngạo Giang Hồ đã giao thoa giữa ẩn và hiện, giữa chính với tà đầy triết lý nhân sinh; khát vọng của Tiếu Ngạo Giang Hồ xây dựng trên tình yêu và nghệ thuật âm nhạc.Tác giả Kim Dung muốn con người từ chỗ vị tha nhân ái, từ chỗ nhiệt tình và lòng tự phụ,xoa dịu tất cả mọi tình huống qua một thứ âm nhạc trường cửu.

Kim Dung đã xử dụng nhạc lý qua nhiều loại hình âm khác nhau của âm nhạc không những thể loại âm nhạc có chiều sâu, kích thích cảm xúc, lay động nội tại lòng hiếu thắng đưa âm nhạc vào đời để hoán chuyển. Kim Dung tiên sinh còn chơi một thể nhạc khác có tính cách phường chèo đó là loại nhạc lang thang ,vất vơ của môn phái Hành Sơn. Như vậy với hoàn cảnh địa lý,nhân văn tác giả đều xử dụng trọn vẹn giá trị âm nhạc.

Riêng Tiếu Ngạo Giang Hồ chúng ta còn bắt gặp những tiết nhạc mà tác giả còn cho thấy sự vi diệu của nhạc điệu siêu thoát như Tiêu Tương Dạ Khúc của Mạc Đại tiên sinh. Mạc Đại vóc dáng “điêu linh cổ quái” từ chối bả lợi danh,quyền thế để du thân vào một cuộc đời du mục,rày đây mai đó hoà mình trong câu hò tiếng hát, gác kiếm giữa chốn giang hồ và chỉ móc trên vai một cây đao cấm có dấu một thanh kiếm mỏng như lá lúa. Phải thừa nhận Kim Dung rất chi ly từng nhân vật một cách độc đáo trong truyện của ông . Kiếm để diệt hung tàn, đao cấm để giữ vững tâm hồn.Kim Dung lúc nào cũng xây dựng nghĩa khí. Nhưng tiếc thay Mạc Đại chưa thoát tục bởi khúc Tiêu Tương.Mạc Đại tiên sinh chơi nhạc buồn, sương khói, lênh đênh không nói lên được cốt cách của một đạo sĩ mà vô tình tiên sinh hóa thân một kẻ du ca. Đọc tới cái đoạn Mạc Đại ta mới thấy tác giả Kim Dung “thâm hậu” đưa độc giả đi theo với âm nhạc không ngừng nghỉ. Ông lý luận tài tình : Mạc Đại là một trích tiên nhập thế để hành thế.

Trong âm nhạc ông còn thể hiện hết sức kỳ lạ; khúc Sơn Ca Phúc Kiến của Lâm Bình Chi, lấy nhạc của Lâm đem về núi Hoa Sơn dạy cho Nhạc Linh Sơn ca bài”Chị Em Lên Núi Hái Chè” ca khúc này đã làm cho Lệnh Hồ Xung tương tư nàng đó là tương ngộ của một tay tráng sĩ đa tình. Kim Dung tiên sinh cho thấy âm nhạc ngoài tài nghệ nó còn ma lực làm xiêu lòng,quyến rủ,vổ về,mơn trớn. Nhạc Linh Sơn gảy tiếng đàn lúc trầm lúc bổng như dấu trong đó nỗi niềm thầm kín với Lâm Bình Chi.Lệnh Hồ Xung biết thâm ý đó.Chàng đau khổ vô hạn.

Âm nhạc trong truyện võ hiệp Kim Dung nghiêng về nội tâm hơn ngoại giới. Phấn chấn nhưng cũng có suy tàn, một lối chơi nhạc hết sức kỳ bí .

Trong bộ Ỷ Thiên Đồ Long Ký; tác giả giới thiệu một nét đặc thù khác của âm nhạc,mang tính chất siêu tưởng.Kim Dung muốn chứng tỏ nguồn nhạc Trung Quốc không những đa dạng mà nó còn chứa cả âm thanh lôi cuốn cả vạn vật vũ trụ cùng hòa nhập,chim muông nghe tiếng nhạc réo rắc mà ngỡ như tiếng hót của chim về đậu trên vai người nghệ sĩ.Từ chỗ nhân sinh vô úy của kiếm khách chính giáo còn tạo được một yếu tố khác là tình yêu,tình yêu luôn luôn hiện diện trong 12 tập truyện võ hiệp của Kim Dung, âm nhạc cũng là võ công,chinh phục tình yêu và được coi như liều thuốc giải thoát …

Ông đưa ra nhân vật Côn Luân Tam Thánh tức Hà Túc Đạo; Hà ngoài tứ tuần, gương mật thô gầy xấu xí nhưng bên trong Côn Luân chứa đựng ba thiên tài mà hiếm có trong thiên hạ : kiếm, cờ và đàn; hành trang với ba thứ độc chiêu bước vào thế giới võ lâm kiếm khách,thử có ai dám thi thố ? Tài múa kiếm như sấm chớp,cờ xuống những nước bí quỉ khốc thần sầu bên cạnh đó Côn Luân xuất chúng với “nội công” chơi đàn.Kim Dung cho chúng ta thấy từng nhân vật trong truyện là những tài tử lừng danh từ bao đời nay ông gián tiếp nói lên cái văn hóa đa dạng của Trung Quốc muôn màu muôn vẽ từ hạ đến thượng;một nền móng cố hữu và lâu đời.

Côn Luân Tam Thánh có một khúc đàn tuyệt vời mỗi lần gảy tiếng đàn tạo nên một âm thanh cao vút,chim muông tụ lại nhảy múa; ông gọi “Bách điểu triêu phụng” không biết có thật như vậy không hay huyền thoại ? Kim Dung diễn tả tiếng đàn khi bổng khi trầm,khi líu lo,khi đùa cợt trong văn chương tiểu thuyết của Kim-Dung , thường tạo ra điển cố đó là lý lẽ hay chủ động trong con người của tác giả. Kim Dung viết dưới một dạng thức ẩn dụ “metaphor” làm cho câu chuyện trở nên phiêu lưu kỳ bí,những hình ảnh thực hư, hư thực thần thông biến hóa làm say người đọc, tài ở cái chỗ người đọc sống trong”vô ảnh” mà hình tượng vẫn sống động với trí tuệ và nhận thức được tiếng vó ngựa,tiếng đàn tiếng địch ngân vang trong vô ảnh, kể cả vật lộn với tình yêu say đắm, đều hiện nguyên hình ,những hình ảnh thể hiện trung thực trong cái gọi là vô ảnh.Người đọc nghe được tiếng đàn của Hà Thúc Đạo, tiếng nhạc của người tài hoa đã làm say mê nhiều người đẹp và đem lòng yêu Tam Thánh, đôi khi nghe như lời biệt ca của một cuộc tình ai oán vậy. Đến đây Kim Dung định nghĩa giá trị của âm nhạc, ông cho rằng cái hay,cái tuyệt mỹ của âm nhạc còn nói lên tinh thần nhân bản qua bài Hỏa Ca của giáo chủ Minh Giáo truyền từ Ba Tư sang Trung Quốc;bài nầy được hát trên đỉnh Quang Minh khi quần hùng Trung Quốc vây tỏa Minh Giáo vì cho rằng Ba Tư giáo là tà giáo.Kim Dung dựa vào bài thơ của nhà thơ Ba Tư là Omar Khayam(Ôn Ca Mạc) tựa đề Hỏa Ca :



Đốt tàn thân xác của ta
Ngọn lửa thành bốc cháy đỏ rực
Sống chẳng là có chỉ hạnh phúc thôi
Thì chết đi đâu có khổ gì

Hỷ lạc sầu bi xin gởi về cát bụi
Tội tình thay người đời hoạn nạn lắm thay.

Trương Vô Kỵ nghe bài ca đó và nhận ra Minh Giáo là một tôn giáo nhân bản cho Ba Tư tà giáo là một lý lẽ xuyên tạc vô căn cứ.Từ đó Trương Vô Kỵ được Minh Giáo ngợi ca như anh hùng dân tộc Trung Quốc. Tác giả đưa nhân hòa làm căn bản cho thế gian; một triết lý nhân hậu và đạo đức.

Ở Lục Mạch Thần Kiếm, âm nhạc lại càng phong phú hơn. Nói đến âm nhạc trong truyện nầy phải ghi lại hai nhạc sĩ quái dị trong nhóm Hàm Cốc Bát Hữu (tám bạn ở Hàm Cốc) là Cẩm Tiên Khang Quảng Lăng và Lý Qúi Lỗi. Khang đánh địch bằng sáu cây đao cầm, nghe tiếng đàn của Cẩm Tiên tim óc bấn loạn. Tài đâu mà chơi một lúc sáu cây đàn ? Kim Dung giải quyết rất tài tình về những bí tích đó. Khang Quảng Lăng đặt sáu cây đàn ở mỗi vị trí khác nhau rồi vận chỉ công,khinh công mà đánh vào phím đàn.Hóa ra tiếng đàn của Lão lúc bổng lúc trầm,khi thăng khi giáng , tiếng tơ đồng réo vào nhau phát ra những khúc ngân xuất quỉ nhập thần kinh khiếp , ào ạt như gió thổi như mưa tuôn người ta nghe mà không định lường được nguồn nhạc xuất phát từ đâu cái âm thanh kỳ quái đó.Nhạc của Khang quả là thứ nhạc làm rối tâm can, kẻ địch phải “chạy làng”.

Lúc này Lý Qúi Lỗi ở đâu ? Kim Dung đặt nhân vật này vào vai trò xướng ca mà thôi và hát phụ để làm nổi bậc tiếng đàn của Khang Quảng Lăng, tuy Lỗi xuất hiện ít hơn trong truyện nhưng để lại nhiều ấn tượng cho người đọc.

Ngoài tiếng đàn, tác giả còn cho chúng ta biết qua tiếng địch(sáo). Đàn và địch là hai nhạc khí đặc thù văn hóa của Trung Quốc, thực ra tiếng sáo rút ra từ âm nhạc của Hồ Tăng,Hồ thổi sáo ống đến độ kích thích được loài rắn độc,sai khiến rắn tấn công kẻ địch. Kim Dung giới thiệu với đọc giả Hồ Tăng tức là Ba La Tinh và Triết La Tinh là người nước Tây Vực tức Ấn Độ ngày nay,xứ nầy có thủ thuật thổi kèn ống.Tác giả Kim Dung còn cho chúng ta biết thêm về âm nhạc của đám hạ lưu, đám đầu đường xó chợ, đám ăn xin; đại cái bang cũng có đờn ca, tuy không xuất chúng;như bài “Xin Cơm” cũng có âm hưởng độc đáo.

Truyện Lộc Đỉnh Ký ở đây chúng ta sẽ bắt gặp hai danh sĩ cuối đời Minh đầu Thanh đó là Ngô Mai Thôn và Trần Viên Viên.Tiên sinh mô tả Trần Viên Viên cực kỳ lộng lẫy “mắt đẹp như mắt Quan Âm “ tuy nhiên Viên Viên có một cuộc đời trầm luân “hồng nhan đa truân” tất cả những đau khổ,bi thương đó được đúc kết thành bài ca Viên Viên Khúc cho tới khi nàng xuất gia vào cửa Phật, bài ca vẫn còn được hát;trong số những người thưởng thức nhạc của Viên Viên đạt đến chân như ; tác giả muốn nói lên cái tuyệt chiêu của âm nhạc thì có Ngô Tam Quế nghe được vài chục câu, Hồ Dật Chi nghe đâu dăm ba câu chỉ có Vi Tiểu Bão nghe trọn bài. Kim Dung muốn cho ta thấy rằng âm nhạc cũng có hồn riêng, có nghĩa là nhạc đến với người có cơ may và giới hạn, nhạc không đến với người không có lòng.Thì tại sao Vi Tiểu Bão lại được nghe ? mặc dầu Vi chẳng hiểu gì về âm nhạc mà lại được thưởng thức trong lúc đó có người muốn được nghe thì lại không. Kim Dung giải thích :” Âm nhạc nó đến với người có duyên tình, có một nội công thâm hậu thì âm nhạc đến rất tự nhiên “.

Viên Viên Khúc là một bài ca buồn, đúng là bài ca mất nước chẳng khác gì Hậu Đình Hoa của Lý Hân trong thơ Đổ Mục :

Gái chơi đâu biết hờn vong quốc
Bên sông còn hát Hậu Đình Hoa.

Lộc Đỉnh Ký còn có loại nhạc tự kỷ ám thị dùng trong lúc đánh nhau. Được Kim Dung viết với giọng văn ít học hợp với”trình độ” giáo phường ngu dốt :

Hồng giáo chủ thần thông quảng đại
Giáo chúng ta đánh bại khắp nơi
Địch nhận thấy bóng chạy tơi bời
Cứng rắn cũng tan tành xác pháo.

Trong truyện võ hiệp Kim Dung; âm nhạc xuất hiện khắp nơi trên đất nước Hoa Lục.Trong Lãnh Nguyệt Bảo Đao ta nghe được tiếng hát vùng Sơn Đông,Chiết Giang của tiểu anh hùng Hồ Phỉ trong Độc Bá Hồng Quần và tiếng hát của Islam Hồi Giáo Y Tư Mỹ; nhạc rút ra từ kinh Coran (Kha Lan kinh) là một thể nhạc khát vọng hòa bình dưới dãi lụa mềm trong sa mạc hoang vu,nhạc Y Tư Mỹ chơi nghe vi vu như gió thổi lồng vào cát bụi.

Trong Lộc Đỉnh Ký ta còn nghe được bài Trầm Giang hùng tráng trích từ tác phẩm dân ca Đào Hoa Phiến, ngợi ca người yêu nước Sử Các Bộ.Nhưng không phải ai cũng dể hát khúc Trầm Giang nầy. Đêm mưa gió trên sông Liễu Giang, cả mấy chục người trong khoang thuyền mà chỉ có Trần Cận Nam Tổng đường chủ và Ngô Lục Kỳ của Thiên Địa hội mới đủ nội công cất cao tiếng hát át cả tiếng cuồng phong :

Non nước ngàn năm để tiếng truyền
Đau lòng huyết lộ khắp Tây Xuyên


Đọc Lục Mạch Thần Kiếm ta còn nghe được tiếng hát “Hái Sen ở Giang Nam” hòa với tiếng hồ cầm,thánh thót của A Bích tại Yến Tử Ổ ở Giang Nam

Giang Nam ta hãy hái sen
Lá sen dày khít mọc chen thành đồng
Cá đùa bên lá phía đông
Cá đùa bên lá sen hồng phía tây.


Những tiếng hát đẹp nhất mang nặng tính chất triết lý vẫn là tiếng hát Tiểu Siêu cô gái lai Ba Tư.Tiểu Siêu trở thành ả hầu của Trương Vô Kỵ; 16 tuổi mà đã thầm yêu Trương Vô Kỵ. Nàng biết đó là điều tuyệt vọng,nỗi đau đó khi nàng hát cho Minh chủ Trương Vô Kỵ nghe. Bài ca nầy cũng rút ra từ thơ của Ôn Ca Mạc và được tác giả Kim Dung chuyển ngữ sang Quan Thoại nói lên khát vọng giữa tử sinh :

Lai như lưu thủy hề thệ như phong
Bất tri hà xứ lai hề hà sơ chung.

(Chợt đến như dòng sông nước chảy,thoát tan như gió qua mau.Chẳng biết đâu mà đến,cũng chẳng biết nơi đâu mà về)

Kim Dung tiên sinh đưa âm nhạc vào tiểu thuyết võ lâm;bởi vì theo quan niệm của tác giả âm nhạc là võ công là hóa giải từ lòng thù hận đến lòng yêu thương,từ vô thủy vô chung đến đạo làm người giữa người và bá tánh, ông xây dựng bối cảnh lịch sử trong truyện qua âm nhạc, thần tượng hóa các nhân vật trong truyện từ lịch sử hay huyền thoại, từ cái “vô ảnh” sang hình ảnh hiện thực,tiềm tàng trong lịch sử đấu tranh của người Trung Quốc từ thời Xuân Thu chiến quốc cho đến thời kỳ cách mạng văn hóa ngày nay.

Kim Dung viết tiểu thuyết không nhất thiết là truyện “chưởng”,bên cạnh đó tác giả lồng vào những chuyện tình đầy tính lãng mạn,pha lẫn tính hài hước dí dõm để truyện trở nên phong phú,sâu sắc thần kỳ. Nhất là âm nhạc Kim Dung đã biện minh bằng một lý lẽ nhân sinh tương quan giữa người với người.

Vì vậy đọc truyện kiếm hiệp Kim Dung, ta lắng nghe chất nhạc qua từng thời kỳ,từng triều đại với địa danh lịch sử Trung Quốc.Kim Dung thần tượng hóa trong các bộ môn nghệ thuật. Chính trong cái dung nạp này;Kim Dung chứng tỏ được rằng ông rất điêu luyện về âm nhạc trong kỷ thuật viết truyện võ hiệp.

Thứ Bảy, 16 tháng 4, 2016

Thế nào là giàu? Thế nào là sang?




Tác giả: Nguyễn Thanh Lâm





——————-



Hai câu hỏi “thế nào là giàu?”, “thế nào là sang?” nghe rất đơn giản nhưng không hề là “đang giỡn”.

Giàu là có nhiều tiền, và sang là ăn mặc hàng hiệu đắt tiền, xức nước hoa xịn, đi xe trị giá hàng chục tỉ đồng…, nghĩa là cũng phải nhờ có tiền mới sang. Rất nhiều người đã hiểu theo cái nghĩa cực kỳ hạn hẹp như thế.

Ý thức ngày xưa có thể bị đóng khung trong suy nghĩ của vàng bạc, nhung lụa, áo mão cân đai… nên hiểu giàu sang đơn giản là thế. Đọc những dòng chữ của ông tổ sáng tạo ra chữ quốc ngữ là Alexandre de Rhodes, viết về lễ lên ngôi hay đám tang vua ở cố đô Huế, ai cũng thấy sự phô trương giàu sang để thể hiện vương quyền thật hợm hĩnh và lố bịch như thế nào trong một đại dương nghèo khổ và thất học của người dân. Như thế thì mất nước cũng là điều dễ hiểu.

Ý thức ngày nay rộng mở, nhưng chúng ta tiếp nhận được đến đâu; hiểu sâu xa về giàu và sang đến đâu; dạy về giàu và sang ở nhà trường như thế nào?

Thử định nghĩa lại chữ “giàu”

Giàu là có nhiều tiền, đúng vậy, nhưng đó là giàu vật chất. Tiền là cơ bản, là nền tảng, là phương tiện nuôi thân, nuôi gia đình hay cho những mục tiêu tốt thật đáng hoan nghênh. Ai cũng cần tiền, nhưng cách có được tiền, cách làm ra tiền nên dựa trên sự thông minh, tài năng và lao động lương thiện. Nếu có tiền nhờ có ông bố tham nhũng, hay nhờ một cú lừa đảo lớn, hay do được sinh ra từ “bọc điều” trong một gia đình giàu nứt vách thì cũng nên hạn chế khoe khoang và tự phụ.

Người giàu lòng nhân ái là người biết yêu người, là người mà như nhà thơ Bertolt Brecht đã viết cho một xã hội gần với không tưởng (utopia/utopie) là “lòng tốt trở nên thừa thãi”. Đã có những con người huyền thoại như thế – nhân văn và đầy lòng bác ái. Đã có rất nhiều người nghèo nhưng giàu lòng nhân ái, họ rất đáng được kính trọng hơn những trọc phú đốt tiền và quăng tiền qua cửa sổ.

Người giàu có là người cho đi nhiều nhất. Vì có mới cho đi được. Họ có thể làm việc từ thiện như nhiều nhà tỉ phú hiện nay. Họ có thể đóng góp nhiều sáng tạo tinh thần, như những nhà văn hóa, nhà giáo dục, nhà văn, nhà phát minh, nhà hoạt động xã hội…

Người giàu có là người có nhiều bạn, nhiều người yêu mến. Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một người giàu bạn, được nhiều người yêu mến, vì đám tang của ông không xa xỉ, phô trương mà hàng vạn người vẫn ra đứng ngoài đường để tiễn ông từ Hà Nội về đến Quảng Bình quê ông.

Làm người giàu của xã hội hiện đại rất cần có ý thức xã hội, lòng nhân ái, có sự mến phục và nể trọng, có nhiều bạn.

Trăm người bạn vẫn là quá ít, mà có một kẻ thù đã là quá nhiều.

Thử định nghĩa lại chữ “sang”

Chỉ mới đây thôi, những đám cưới rình rang trong một lâu đài lộng lẫy ở Nam Định với quà tặng cô dâu là một vương miện 100 cây vàng, thực đơn 18 món. Một đám cưới khác ở Bạc Liêu cũng khoảng 2.000 người. Một họ nhà trai ở Hà Tĩnh thuê máy bay riêng để rước dâu… Có lẽ chẳng có chuyện cổ tích nào dám kể chi tiết ăn chơi như thế. Có chăng cũng chỉ là “mọi người nơi nơi chúc tụng và cùng chung vui”.

Những thiếu gia với dàn xe Maybach, Bentley, Lamborghini, Rolls-Royce…, những chuyện cặp bồ với ca sĩ nổi tiếng và ai cũng biết mình là vua tê giác, kim cương và nhiều câu chuyện tương tự khác đang được phát tán nhan nhản, được dư luận theo dõi chi tiết còn hơn cả những mối hiểm họa khác đang rình rập đất nước và thế giới.

Như thế là sang hay sao? Có cần phải như thế không?

Xin thưa, nếu hiểu sang là “nở mặt, nở mày” theo kiểu tung tiền khoe của, và đã có trường hợp ngay sau đám cưới tưng bừng thì phá sản và quỵt nợ công nhân, xấu hổ đổ xuống sông Hậu cũng không hết; nếu hiểu sang là chơi trội để chứng tỏ mình thuộc giới đại thượng lưu (high society) bất chấp nhân, lễ, trí, văn, thiện, mỹ, thì ấy là cốt cách phi văn hóa.

Ngay cả một bộ phận truyền thông đại chúng và một số mạng xã hội cũng hùa theo các chiêu trò lá cải ấy, đã vô tình phát tán bừa bãi những vi trùng xã hội vô cùng nguy hiểm: một mặt là lòng ganh ghét, sự khinh ghét người giàu và người nổi tiếng – một trong những lý do gây ra nhiều xung đột đẫm máu trong lịch sử loài người; mặt khác là sự lệch lạc trong giáo dục thế hệ trẻ, sự định hướng rất sai lầm khi chạy theo những thần tượng lố bịch. Đó là những cách PR hạ cấp và truyền thông nên dứt khoát nói không với nó.

Những trò kệch cỡm của thế hệ con nhà giàu thứ hai ở Trung Quốc hiện nay (phú nhị đại/fuerdai) là một tấm gương tối để xã hội tránh xa. Lẽ ra, sang thì phải như ông Điền Văn nước Tề, tức Mạnh Thường Quân, vừa là tướng quốc, vừa là người biết tiêu tiền để chiêu hiền đãi sĩ, trong nhà luôn có khoảng 3.000 thực khách, môn khách, văn có, võ có.

Rất nhiều người dễ rơi vào bệnh tưởng Molière đã viết Le Malade imaginaire và Le Bourgeois gentilhomme cách đây gần 350 năm, và hình ảnh ông Jourdain thật đáng nực cười. Nhưng hình như ngày nay, không riêng gì ở Việt nam, sự suy đồi về đạo lý đã đẻ ra những sự kệch cỡm quái dị mà Molière, Mark Twain, Vũ Trọng Phụng… cũng không nghĩ ra!

Sang là vẻ đẹp của tri thức, của văn hóa, của cách cư xử đúng mực và có ảnh hưởng tốt, là làm những việc đắc nhân tâm. Và như thế, dù không giàu tiền bạc vẫn có thể sang. Bài viết này chủ yếu kêu gọi các doanh nhân đại gia và con cháu của họ (không kêu gọi các đại gian) hãy nhìn xuống những người bất hạnh, hay ngước lên nhìn ông Trời, hay nhìn ra chung quanh để thấy bà con và đồng bào mình, để cố gắng sáng với hai chữ giàu và sang, chứ không để sự giàu sụ của mình tối và tồi.

Mong lắm thay hỡi những người thông minh và tài giỏi, vì chỉ cần nghĩ đến đạo lý sống trên đời.

—————–

http://www.thesaigontimes.vn/144948/The-nao-la-giau-The-nao-la-sang.html

Thứ Sáu, 15 tháng 4, 2016

Ongbeo66@gmail.com của con chó Hơn cả yêu thương-Từ Tâm Nguyễn- Nguyễn Tất Toàn sử dụng lại được G tìm ra con chó Hòn Sỏi

Ongbeo66@gmail.com của con chó Hơn cả yêu thương-Từ Tâm Nguyễn- Nguyễn Tất Toàn sử dụng lại được G tìm ra con chó Hòn Sỏi. Hi hi...đúng là chuyện lạ có thật

Ông Kẹ là ai?



Đó chính là một tướng lĩnh người Carthaginian (Tunisia hiện tại), người đã đánh bại Đế quốc La mã trong trận đánh tên là Cannae, chỉ với 50,000 quân chống lại 90, 000 quân thiện chiến.


Trận Cannae, năm 216 trước Công Nguyên (tranh không rõ tác giả)

Trong trận đánh đó, thay vì bố trí một chính diện mạnh để chống xuyên phá như thông thường, ông đã găm lực lượng tinh nhuệ ở hai cánh. Trong quá trình phát triển của trận đánh, ông chủ động lùi khối trung tâm, tạo thành một vòng cung lõm bao lấy đội hình địch. Khi chính diện của địch đã bị kéo giãn theo vòng cung, thì lực lượng kỵ binh ở 2 cánh phát triển thành hai gọng kềm, cơ động vu hồi khép kín vòng vây, và sau đó chia cắt đội hình La Mã ra từng khối và tiêu diệt.


Bố trí trận Cannae (từ trang emersonkent.com)

Kể từ sau trận đó, Hannibal, tên của ông, trở thành Ông Kẹ mà người La Mã ngày xưa và người Ý ngày nay dùng để doạ trẻ nít khi khóc. Còn bản thân trận đánh trở thành bài học kinh điển về chiến tranh, mà trong đó vận động chiến thuật để tạo thành thành các mũi cơ động vu hồi (tấn công đối phương từ bên sườn hoặc sau lưng) bao vây địch được nâng lên tầm nghệ thuật.

Có phải cứ có vua thì gọi là “phong kiến”?





Phong kiến vốn là gọi tắt lại của “phong tước kiến địa” (ban tước hiệu và đất đai).

Chữ này bắt nguồn từ chế độ ban đất Trung Quốc thời Chu với các nước chư hầu dưới thiên tử. Các chư hầu thời ấy được chia làm 5 tước, từ cao xuống thấp: Công, Hầu, Bá, Tử, Nam. Nhà Chu phong đất và tước cho con cháu họ hàng và công thần, làm thành các nước chư hầu bao quanh đất của Thiên tử nhà Chu.


Vị trí của nhà Chu so trên bản đồ Trung Quốc ngày nay

Như vậy tương đương trong tiếng Tây, chữ phong kiến là feudalism – một chế độ xã hội châu Âu thời Trung đại, khi các nước được chia thành các lãnh địa, cai trị bởi các Lãnh chúa được nhà vua ban tước (các lãnh chúa được phong làm 5 hoặc 6 bậc tùy theo hệ thống từng quốc gia).


Thứ bậc trong chế độ phong kiến ở Âu châu. Trên cùng là tăng lữ, kế là vua, kế nữa là lãnh chúa. Hình từ Internet

Ở Nhật Bản, chế độ phong kiến là các daimyō lãnh chúa địa phương dưới Thiên hoàng hoặc Shōgun. Sau cải cách Minh Trị, chính quyền Nhật cận đại đã dẹp bỏ chế độ này, phân chia lại đẳng cấp quý tộc theo 5 bậc của hệ thống triều đình Anh quốc, nhưng dùng các chữ Hán của nhà Chu Công-Hầu-Bá-Tử-Nam để dịch các tước hiệu.


Chế độ phong kiến xưa ở Nhật: trên cùng là vua, kế là Shōgun, dưới là các daimyō, dưới nữa là nông dân. Các samurai phục vụ cho cả hai tầng lớp shogun và daimyo. Hình từ Internet

Khi chủ nghĩa Marxist phát triển ở Việt Nam, chữ “phong kiến” được dùng quá nhiều đến nỗi bây giờ chúng ta thường hiểu một cách nhập nhằng “phong kiến” là “quân chủ”. Quân chủ là hình thái nhà nước có ông vua cai trị. Còn phong kiến là khi ông vua chia đất và phong tước cho các quý tộc, mỗi vùng được phong đất giống như một nước riêng. Nhiều học giả nước ta đầu thế kỷ 20 (điển hình là Phan Khôi, xem link [2]) cho rằng Việt Nam không có chế độ phong kiến nếu xét đúng về mặt xã hội. Thời kỳ gần giống “phong kiến” nhất có lẽ là Loạn 12 sứ quân trước thời Đinh và thời Trần lúc các vương gia được phong thái ấp.

Trong các nước quân chủ hiện nay, không còn nước nào là “phong kiến”. Chế độ “phong kiến” vừa mới được chính thức bãi bỏ ở Scotland về mặt pháp lý năm 2000, sau khi đạo luật “Bãi bỏ Chiếm hữu Phong kiến năm 2000″ được thông qua.


Lâu đài Eilean Donan ở Scotland có từ thế kỷ 13, giờ thì có thể thuê để trú thử vài đêm hưởng cảm giác. Hình từ trang này

Tuy nhiên “tàn dư” phong kiến vẫn còn sót lại trong tên của một số nước châu Âu như “Công quốc Monaco”, “Công quốc Liechtenstein” (đều là dịch từ chữ Principality) hay “Đại công quốc Luxembourg” (Grand Duchy). Người đứng đầu Luxembourg không phải là Hoàng đế hay Vua mà là một vị đại Công tước (Grand Duke hay Großherzog). Người đứng đầu Monaco hay Liechtenstein là một vị mang tước Prince. Tước vị Prince đáng lẽ dịch đúng thì phải là Vương tử, hay Thân vương, ở dưới vua một tí và cao hơn Công tước một tí, khi dịch sang tiếng Việt thì gặp một số trục trặc vì dịch là Vương thì bị nhầm với vua (“vương quốc” thì dùng để dịch chữ kingdom rồi), nên người ta hay gom Prince với Duke vào chung và dịch là Công tước hết. Vài chỗ (ví dụ wikipedia tiếng Việt) gọi là Thân vương quốc, nhưng chữ này có vẻ rất luộm thuộm.


Prince Alois và Princess Sophie của Liechtenstein đến dự lễ lên ngôi của Vua Willem Alexander và Hoàng hậu Maxima của Hà Lan tại New Church, 30. 4. 2013, Amsterdam, Hà Lan.

Anh là một nước có người đứng đầu là vua nên gọi là vương quốc. Trong liên hiệp Anh có nước Wales, và trên danh nghĩa thì thái tử nước Anh luôn được ban tước Thân vương xứ Wales (Prince of Wales), tức là người đứng đầu xứ Wales, nên về mặt lý thuyết, Wales cũng có thể coi là một Công quốc, nằm trong Vương quốc Anh.


Thái tử Charles, Prince of Wales, và thái tử phi Diana (ở Việt Nam hay gọi là Công nương Diana), Princess of Wales, (1961 – 1997) tại lâu đài Balmoral, Scotland nơi họ hưởng tuần trăng mật. Ảnh Getty

*