Thứ Ba, 24 tháng 11, 2015

Dẫn vào thế giới Văn học Phật giáo





Tuệ Sỹ
nguồn: http://phatviet.com/html/gioithieu/thichtuesy.htm


I. GIỚI HẠN CỦA VĂN HỌC PHẬT GIÁO

Ý nghĩ đầu tiên của một người vừa bước đến văn học Phật giáo, tất nhiên sẽ coi đây chỉ là một nền văn học tôn giáo không hơn không kém, trong tính cách "văn dĩ tải đạo" của nó. Đối với ý nghĩ bàng quan này, một nền văn học như vậy chỉ có nội dung là đủ, còn hình thức diễn đạt chỉ là vấn đề phụ thuộc…; rượu ngon không hệ trọng ở bình chứa. Sự kết cấu của văn học không hệ trọng bằng chân lý tôn giáo đã có sẵn: chân lý thành kiến. Bởi vì chỉ có nội dung, hình thức không cần thiết lắm, do đó, chân lý của tôn giáo sẽ tùy nghi được phô diễn bằng cách vay mượn bất cứ thể tài văn học nào đã được thông dụng. Người ta sẽ không đòi hỏi tác giả phải có một phong cách độc đáo trong đường lối phô diễn; y khỏi phải nỗ lực vận dụng mọi khả năng sáng tạo đến mức tuyệt động, vốn là giá trị đặc sắc của một tác giả văn học – thuần túy. Như vậy, một khi nội dung của kinh nghiệm tôn giáo càng được nới rộng, thể tài văn học càng bị thu hẹp lại. Cho đến một lúc nào đó, lúc mà kinh nghiệm tôn giáo được mở rộng đến vô hạn và tận cùng trong tuyệt đối bất khả tri, người ta bị bắt buộc phải khước từ mọi phương tiện diễn đạt qua các thể tài văn học. Đây là một song quan luận của phương tiện (văn học) và cứu cánh (tôn giáo). Khai triển phương tiện đến tận cùng thì cứu cánh sẽ vắng bặt. Ngược lại, nếu tiến đến chỗ tuyệt đối cứu cánh, phương tiện sẽ hết còn là phương tiện. Nói cách khác, hình như cứu cánh tôn giáo, với những chân lý thành kiến của nó, lúc nào cũng sẵn sàng phản bội mọi tính cách sáng tạo của văn học. Văn học không phải là phương tiện của bất cứ một chân lý cứu cánh nào, thành kiến hay không thành kiến, dù là chân lý về sự sống và cuộc đời; vấn đề sẽ mở sang một chiều hướng khác: đâu là phương tiện, và đâu là cứu cánh của văn học?

Ở đây, chúng ta có hai lãnh vực mà sự diễn đạt của văn học có thể vươn tới. Trước hết, là hai trích dẫn điển hình, thường được nhắc nhở rất nhiều:

Thứ nhất, kinh Tương ưng bộ (Samyutta – Nikàya): "Thánh nhân không tranh luận với thế gian. Những gì kẻ trí trong thế gian nói là không, ngài cũng nói là không. Những gì kẻ trí trong thế gian nói là có, ngài cũng nói là có."

Trong trích dẫn này, mọi diễn tả của ngôn ngữ không được phép vượt qua giới hạn của tri thức thường nghiệm. Chân lý chỉ tuyệt đối ở tự thân của nó, nhưng là tương đối ở lãnh vực diễn đạt của ngôn ngữ. Vì vậy, các tác giả của Phật học có thói quen mở đầu tác phẩm của mình bằng một thái độ khiêm tốn: những gì họ sẽ trình bày không liên hệ đến tự thân của chân lý mà họ muốn hướng đến. người ta không thể nhầm lẫn giữa ngón tay và mặt trăng. Dĩ nhiên, ngôn ngữ ở đây tác động trong những tâm trí bình thường. Hậu quả của nó sẽ là khuôn mẫu để phân tích và phân loại các sự thực của kinh nghiệm. Tức là ngôn ngữ của triết lý.

Thứ hai, kinh Bát nhã (Prajnàpàmità-sùtra): "Bất hoại giả danh nhi thuyết thật nghĩa." Giả danh, tức biểu tượng và danh ngôn trong tính cách ước lệ của chúng. Những thứ này không liên hệ đến chân lý tuyệt đối, tức thật nghĩa. Do đó, muốn đạt đến chân lý tuyệt đối này, phải vượt qua mọi khả năng của ngôn ngữ và biểu tượng, như người ta cần lìa bỏ tầm mắt khỏi ngón tay để nhìn thẳng vào mặt trăng. 
Tuy nhiên, trích dẫn của chúng ta nói: ngay nơi biểu tượng và ngôn ngữ mà thể nhận chính bản thân của sự thật. Và đây chính là lý tưởng của văn học Đại thừa. Bởi vì, theo lý tưởng này, vắn tắt, không phải do người nói đã nói ra như vậy, rồi người nghe theo đó mà nghe như vậy và sự thực được phô diễn như vậy nên có ý nghĩa như vậy; nhưng, chính sự thật là như vậy. Những vị đã từng làm quen với văn học Bát nhã sẽ không lấy làm thắc mắc quá đáng về lề lối diễn tả như vậy. Theo tinh thần này mà nói, cái cảm hứng đưa đến sự thành hình của một tác phẩm, bất kể dưới cách thức phô diễn nào, phải là một cảm hứng toàn diện, trong đó không có giới hạn phân biệt giữa một nhãn quan – một ý tưởng – cần được phô diễn và hình thức phô diễn. Tất cả, từ tác giả cho đến độc giả, phải được đặt trong mối tương quan vô phân biệt, như sự phản chiếu giữa các mặt kính đối diện nhau, phản chiếu trong một thế giới trùng trùng vô tận.

Vì vậy, kinh điển Bát nhã thường chọn những vị chưa chứng ngộ chân lý về tánh Không mà lại có tư cách giảng thuyết về tánh Không. Tất nhiên, trong trường hợp này người ta phải hiểu rằng tánh Không tự phô diễn lấy chính nó, mà người giảng thuyết, sự thực được giảng thuyết, cho đến người nghe, tất cả chỉ như là ráng nắng, mộng ảo, huyễn hóa… Từ đây gợi lên cho chúng ta ý tưởng rằng, một tác phẩm, dù là luận thuật tư tưởng hay văn học thuần túy, không thể nào vượt qua khỏi giới hạn của ngôn ngữ. Nhưng, chính cái cảm hứng bàng bạc từ đầu đến cuối tác phẩm mới tạo cho nó một kích thước rộng rãi, một sức hàm chứa vô biên. Lẽ cố nhiên, cảm hứng thì không thể bị điều động bởi bất cứ ý tưởng nào, mà bộc phát với một thế giới kỳ diệu đột nhiên xuất hiện. Một cách khác, chúng ta nói rằng, tất cả các tác phẩm của văn học Phật giáo đều cố gắng cắm sâu gốc rễ vào tánh Không. Rồi sau đó, vươn mình khỏi lòng đất với tàn lá sầm uất của một thế giới trong trùng trùng vô tận.

Trong ý nghĩa vừa nói, một tác phẩm xứng đáng với một kích thước rộng lớn, nó phải khởi lên từ cảm hứng của thực tại; vì rằng, ngay qua đó, người ta sẽ thấy một cách như thực đâu là tiếng nói của thực tại và đâu là tiếng nói của lòng người: thực tại tức là lòng người. Và cũng từ đó, người ta sẽ tìm thấy đâu là khát vọng sâu xa đang ẩn kín trong lòng người. Một tác phẩm mà không đủ sức chấn động lòng người để mở ra một thế giới như vậy không thể xứng danh là một tác phẩm văn học. Bởi vì, một tác phẩm tường thuật, về triết lý v.v…, chỉ cần ý tưởng, cần nội dung súc tích là đủ; những gì đáng nói đã được nói hết. Hình thức phô diễn chỉ là phương tiện tùy cơ duyên mà thôi. Nhưng một tác phẩm văn học phải đặt hết tâm tình và cảm xúc ngay ở hình thức phô diễn; và đây không phải là tâm tình và xúc cảm được khơi dậy bởi một chân lý thành kiến nào đó. Như vậy ngay nơi tác phẩm văn học, không phân biệt giữa nội dung và hình thức, mà ngay nơi tính cách phô diễn đương trường của nó, là cả một thế giới sống thực triền miên. Y như Phật quả Viên Ngộ Thiền sư (Bích nham lục); "Ẩn mật toàn chân, đương đầu thủ chứng."Đấy chính là khởi điểm và cũng chính là đích điểm của văn học Đại thừa Phật giáo.

Quan điểm của chúng ta sẽ được tóm tắt như sau:

1. Sơ khởi văn học Phật giáo không từ chối vai trò "truyền đạo" của nó. Tức là, chân lý của tôn giáo này, tùy trường hợp, được phô diễn tự do trong mọi thể tài văn học, và coi văn học chỉ như một phương tiện, thứ yếu, không quan trọng cho bằng nội dung.

2. Nhưng, chân lý ở đây mang tính cách nội tại và cá biệt nơi mỗi người, do đó, sự phô diễn của nó cũng bắt đầu như sự bắt đầu của một tác phẩm văn học, nghĩa là, khởi đi từ cảm hứng bột phát trước một thế giới của kinh nghiệm tâm linh.

3. Trên khía cạnh tôn giáo, chân lý được chứng ngộ là phản ảnh của một thế giới sống động. Trên phương diện diễn đạt của văn học là cảm hứng tự phát của một tình tự cá biệt. Do đó, lấy tánh Không làm chất, lấy thế giới trùng trùng vô tận làm văn. Văn và chất phản chiếu lẫn nhau tạo thành thề giới toàn diện của văn học Phật giáo.

Như vậy, chúng ta có thể nhớ lại phát ngôn của Tăng Triệu (Tựa kinh Duy ma cật):

Thánh trí vô tri nhi vạn phẩm cu chiếu
Pháp thân vô tượng nhi thù hình tịnh ứng
Chi vận vô ngôn nhi huyền tịch di bố
Minh quyền vô mưu nhi động dữ sự hội


Hoặc giả, của Ngạn Hòa Thích Huệ Địa: (Văn tâm điêu long)

Tịch nhiên ngưng lụ, tứ tiếp thiên tải
Tiểu yên động dung, thị thông vạn lý


Vân… vân…

II. KHỞI ĐIỂM CỦA VĂN HỌC PHẬT GIÁO: CẢM HỨNG TỪ ĐỜI SỐNG CÁ BIỆT:

Đời sống cá biệt là hình ảnh nổi bật nhất trong các kinh điển của Nguyên thủy Phật giáo. Đó là hình ảnh lẻ loi của tăng lữ tại các núi rừng, bởi vì, luôn luôn, "một vị tỳ khưu hãy đi cô đơn như con tê giác". Chế độ tăng lữ nguyên thủy không cho phép một thầy tỳ khưu sống giữa đám đông, giữa các thành phố rộn rịp, và chứa đựng tư hữu. Họ không sống quá xa làng mạc, nhưng cũng không quá gần gũi. Tư hữu chỉ gồm một ít vật dụng cần thiết: ba chiếc y, một bình bát, một đảy lọc nước, một khăn ngồi, một dao cạo, và kim chỉ. Trừ những trường hợp khẩn thiết, họ không định cư ở đâu hết; và hình ảnh của đức Phật được mô tả là: Một bình bát với cơm ăn của thiên hạ. Một mình lẻ bóng lang thang trên khắp mọi nẻo đường. Một mục đích duy nhất của đời sống là giải quyết vấn đề sống chết. Một sứ mệnh duy nhất là cởi bỏ mọi ràng buộc cho chúng sinh:

Nhất bát thiên gia phạn
Cô thân vạn lý du
Kỳ vi sinh tử sự
Giải thoát độ quần mê.

Hình ảnh này là nguồn cảm hứng bất tận của văn học Phật giáo nguyên thủy. Và cả nơi Đại thừa, nhưng với cường độ khốc liệt và cực đoan hơn: "Nhất thiết vô úy nhân, nhất đạo xuất sinh tử;" tất cả các bậc Vô úy, không còn sợ hãi, chỉ có một con đường độc nhất phải đi là qua bên kia bờ của sự sống và sự chết. Qua bên kia bờ là chứng ngộ tính tịch diệt của Niết bàn, nơi đây chính là thế giới của cô liêu tuyệt đối. Thực sự, lối diễn tả rầm rộ của văn học Đại thừa sau này, với thế giới quan trùng trùng vô tận, với khả năng được nói là biện tài vô ngại, tất cả chỉ làm cho hình ảnh cô liêu của đức Phật càng tuyệt đối khốc liệt. Kinh Pháp hoa (Saddharma – Pundarika), một tác phẩm quan trọng của Đại thừa, là một thí dụ điển hình cho chúng ta. Đức Phật xuất hiện giữa thế gian như sư tử giữa đám thú rừng, không sợ hãi gì hết. Nhưng cũng cô đơn như người cha già cả sống giữa đám tùy tùng, chỉ mong đợi duy nhất ngày trở về của đứa con hoang. Khi hội diện, lại còn phải dùng bao nhiêu phương tiện, phải chờ đợi biết bao nhiêu cơ duyên, đứa con hoang mới nhận ra đây quả thực là cha già của nó.

Theo hình ảnh lý tưởng đó, một vị tỳ khưu, trước khi thể hiện được chân lý tuyệt đối của sự sống, đã phải nỗ lực cho một cuộc đời "lẻ bóng": "Người ngồi một mình, nằm một mình, đi đứng một mình không buồn chán; người ấy ưa tìm sự vui thú trong chốn rừng sâu". (Dhammapada, 306). Đây là một lối diễn tả, về đời sống cô liêu, độc đáo nhất trong văn học Phật giáo nguyên thủy.

Rồi ra, hương vị của chánh pháp là gì? Chính là sự cô liêu ấy. Chánh pháp là dòng suối mát và ngọt của sự sống, rửa sạch tất cả những uế trược của cuộc đời. Bởi vậy, một tâm hồn khi đã chứng nhập chánh pháp, cũng trong và mát như dòng suối ngọt ấy. Kinh Pháp cú (Dhammapada) có câu: "Ai đã từng nếm mùi vị cô liêu, người ấy càng ưa nếm hương vị của chánh pháp." Bởi vì, Chánh pháp là Niết bàn tịch tĩnh. Trong nguồn cảm hứng này, mọi luận biện về Niết bàn, rằng đây là hư vô, đây là bất tử, đây là vân vân, thảy đều không quan hệ. Mà vắn tắt, có thể nói, Niết bàn là gì? Là cõi miền trầm lặng sâu xa, nơi đó vắng bặt mọi uế trược và mọi náo động tạp loạn, mọi tranh chấp thế tục của sự sống. Cố nhiên, đây là hình ảnh Niết bàn tịch tĩnh hay tịch diệt trong nguồn cảm hứng văn học chứ không thể trong suy tư triết lý. Và như vậy, cùng một đoạn trong kinh Pháp cú: "Như một hồ nước sâu, trong suốt và yên lặng; kẻ có trí sau khi nghe Pháp thì cũng trầm lặng sâu xa như vậy." Sự trầm lặng này, nếu không phải là khí vị hiu hắt của cô liêu, thì là gì? Thế là, cô đơn trong hành đạo, những người theo đạo Phật trước kia, như một con tê giác, một mình lẻ bóng giữa cuộc đời trên một con đường cô đơn từ đầu đến cuối. Bàng Uẩn, một tục gia đệ tử của Thiền tông Trung hoa, thời nhà Đường, đặt câu hỏi: "Ai là kẻ trơ trọi không cùng Vạn Pháp làm bạn lữ?"

Trong cuộc đời ấy, cô đơn là người bạn. Nhưng, đồng thời nó lại là một kẻ thù sinh tử. Làm thế nào để chịu đựng đời sống cô liêu giữa núi rừng hoang dại? Câu hỏi này được đặt ra bởi một người Bà la môn tên Janussoni. Phật trả lời rằng: "Tất cả những ẩn sĩ, với những hành vi của thân, miệng và ý mà không trong sạch, khi họ sống trong sự cô liêu của núi rừng, vì các hành vi bất tịnh của họ, khiến họ nổi lên sợ hãi, run rẩy khôn cùng. Còn Tôi, mà các hành vi thảy đều trong sạch, tôi sống trong sự cô liêu của núi rừng. Nếu có những bậc Thánh mà các hành vi thảy đều trong sạch, sống trong sự cô liêu của núi rừng, Tôi là một trong những vị đó. Này, Bà la môn, khi tôi sống đời sống trong sạch của các hành vi của tôi thì hương vị của đời sống cô liêu thâm nhập trong tôi."

Vậy ra, đời sống cô liêu không chỉ là con đường hành đạo, mà còn là kết quả của những hành vi đã rủ sạch mọi bất tịnh.

Chúng ta thấy rõ, phần lớn của nền văn học Phật giáo nguyên thủy bàng bạc những hình ảnh của đời sống cô liêu. Tuy nhiên, chủ đích không phải là trình bày một thứ cá nhân chủ nghĩa nào đó, mà đời sống của Tăng lữ phải rút lui khỏi thế gian, đắm mình trong hư vô chủ nghĩa. Nhưng vì chân lý được nhắc nhở trong các kinh điển nguyên thủy vốn được coi là sở đắc nội tại và cá biệt. "Tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình là nơi nương tựa cho chính mình," đây là lời dạy cuối cùng của đức Phật, được ghi lại trong kinh Đại bát Niết bàn. Chúng ta có thể trích dẫn dài hơn một chút: kinh chép, khi A nan xin Phật để lại những lời dạy dỗ cuối cùng, Phật trả lời: "Này A nan da, Như lai không nghĩ rằng: ‘Ta sẽ là vị cầm đầu chúng Tỳ kheo,’ hay ‘chúng Tỳ kheo chịu sự giáo huấn của Ta,’ thời, này A nan da, làm sao Như lai có lời di giáo cho chúng Tì kheo… Vậy nên này A nan da, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình y tựa chính mình, chớ y tựa một cái gì khác."

Văn học nguyên thủy hay Tiểu thừa không chỉ dừng lại nơi đây. Mặc dù, đây là thời kỳ mà đời sống của Phật giáo duy nhất là đời sống hành đạo của tăng lữ; tất cả mọi nỗ lực đều cốt chinh phục khổ não và hệ lụy nhân sinh; giải thoát và Niết bàn là mục đích tối thượng; và đời sống của tục gia đệ tử không liên hệ gì đến Phật pháp, ngoại trừ công việc hộ đạo. Nhưng ở vài nơi, kinh điển nguyên thủy cũng đã dành chỗ cho các sinh hoạt mang tính cách thế tục. Về điểm này, chúng ta phải kể đến trước tiên là văn học Jataka và kế đến là văn học Avadana.

Jataka hay Bản sinh truyện là những mẫu chuyện tiền thân của đức Thích tôn, trải qua nhiều kiếp với những hành vi như một anh hùng hiệp sĩ vĩ đại xuất hiện giữa thế gian, luôn luôn đem cả thân mạng làm lợi ích cho mọi người. Những mẫu chuyện này, ngoài ước vọng giải thoát để làm lợi ích toàn diện cho thế gian của đức Thích tôn, không chứa đựng giáo lý cốt yếu nào hết. Vì ở đây, Bồ tát (Bodhisattva) – một danh hiệu trước khi Thích tôn thành đạo, sống giữa thế gian, làm tất cả những gì mà thế gian cần có không phải vì giải thoát tối thượng, mà vì sự an lành trong cuộc sống bình nhật. Ngài là một mẫu hiệp sĩ cứu khổ phò nguy, giữa quần chúng bình dân, yếu đuối, bất lực dưới mọi bất công.

Đằng khác, văn học Avadana hay Thí dụ, vốn là những mẫu chuyện ngắn mô tả những xấu xa, ngu muội của mọi người trong đời sống bình nhật; cũng không liên hệ nhiều với giáo pháp cốt yếu của đạo Phật.

Đấy là hai nền văn học đặc trưng của Phật giáo trong sinh hoạt nhân gian. Chúng có cùng tính chất với loại văn chương bình dân. Vai trò của chúng không phải là không quan trọng. Bởi vì, trong nguyên thủy, đời sống tăng lữ vốn ở giữa nhân gian, không quá xa, cũng không quá gần; không mang tính chất của sinh hoạt thị thành. Tùy cơ duyên, các tăng lữ sáng tác những mẫu chuyện vừa tầm để nhắc nhở mọi người đời sống hướng thiện.

Đối với những hạng người ít bị sinh kế quẫn bách, kinh điển dành cho họ vai trò hộ đạo tích cực hơn. Đời sống của họ, ngoài bổn phận của một người cha trong gia đình, công dân trong một nước, họ còn có bổn phận hộ trì Chánh pháp, và tìm những cơ duyên thuận tiện để học hỏi Chánh pháp, gieo hạt giống tốt trong Chánh pháp để một khi thời cơ đến họ sẽ hiến mình trọn vẹn cho mục đích tối thượng là giải thoát và Niết bàn.

Đoạn kinh trích dẫn dưới đây cho thấy điều đó. Kinh mô tả cơ duyên theo đạo Phật của ông Cấp Cô Độc (Anathapindika), một phú hộ đương thời Thích tôn tại thế.

Trưởng giả Anathapindika, ở thành Rajagaha (Vương xá), nước Magadha (Ma kiệt đà), một hôm, vào lúc tản sáng, đến thăm một thân nhân. Vị này, thức dậy từ sáng sớm đang bận rộn với các tôi tớ, hình như đang sửa soạn một bữa tiệc gì đó. Anathapindika tự nghĩ: "Trước kia, khi ta thường đến đây, vị gia chủ này gác lại mọi công việc, không làm gì hết, trao đổi những lời chào hỏi với ta. Nhưng nay ông có vẻ bận rộn, đang vui vẻ với các tôi tớ, học thức dậy từ sáng sớm và nấu nướng rất nhiều món. Họ đang làm tiệc cưới chăng? Hay đang sửa soạn một cuộc tế lễ lớn lao gì đây, hay sáng mai họ mời vua Tần-bà-sa-la (Seniya Bimbisara) của nước Magadha, cùng với đoàn tùy tùng của vua?" Rồi ông hỏi vị gia chủ. Vị này đáp

"Không có tiệc cưới, cũng không phải mời vua Seniya Bimbisara và đoàn tùy tùng. Nhưng tôi đang sửa soạn một cuộc lễ lớn để cúng dường chúng tì khưu và Phật"

"Ông nói đức Phật phải không?"
"Đúng thế, tôi nói đức Phật."

Ba lần hỏi, và ba lần trả lời như vậy. Anathapindika muốn gặp đức Phật. Vị gia chủ nói:

"Không phải hôm nay, mà sáng mai."

Rồi Anathapindika tâm niệm đức Phật đến độ ông thức dậy ba lần trong đêm vì tưởng rằng trời tản sáng. Khi ông tới cổng thành để đi đến động Thanh lương, có hàng phi nhân mở cho. Nhưng khi ông ra khỏi thành phố, ánh sáng biến mất và bóng tối hiện ra, thế rồi trong lòng ông nổi lên mối kinh sợ, hãi hùng, khiến ông muốn quay trở lại. Nhưng thần dạ xoa (yakkha) tên là Sivaka, vị thần vô hình, thốt lên lời này:

"Một trăm voi, ngựa hay xe với những con la cái,
Một trăm nghìn thiếu nữ trang sức những hoa tai,
Thảy không bằng phần mười sáu của một bước dài.
Này trưởng giả, hãy bước tới, hãy bước tới.
Hãy nên bước tới, đừng thối lui."


Tức thì, bóng tối biến mất, ánh sáng hiện ra, và nỗi kinh sợ hãi hùng của Anathapindika cũng tiêu tan.

Rồi ông đi tới động Thanh lương và khi đức Thế tôn đang đi lên đi xuống trong hư không, ngài thấy ông, liền bước xuống khỏi nơi ngài đang đi lến đi xuống, ngài gọi Anathapindika:

"Lại đây, Sudatta".

Sudatta là tên riêng của Anathapindika. Ông nghĩ: "Đức Thế tôn gọi chính tên ta", bèn cúi đầu dưới chân đức Thế tôn mong ngài sống an lạc. Đức Thế tôn đáp:

"Đúng vậy, bậc Tịnh hạnh đã đạt đến Niết bàn luôn luôn sống trong an lạc. Ngài không bị nhiểm ô bởi khát ái, không còn sợ hãi, không còn tái sinh. Đã cởi bỏ mọi ràng buộc, xa lìa tâm ái dục,

Ngài sống tịch tĩnh trong an lạc, đã đạt được sự thanh bình của tâm trí."

Rồi đức Thế tôn giảng giải nhiều điều cho trưởng giả Anathapindika; về Thí, về giới, về thiền; ngài cắt nghĩa sự nguy hiểm, sự phù phiếm, sự bại hoại của những vật dục, sự ích lợi khi trừ bỏ chúng. Khi đức Thế tôn biết rằng tâm trí của trưởng giả Anathapindika đã thành thục, nhu nhuận, dứt khỏi những ngăn che, cao diệu, hòa duyệt, ngài mới giảng thuyết cho ông về Pháp (Dharma) mà chư Phật đã tự mình tỏ ngộ: khổ, tập, diệt và đạo. Và cũng như một chiếc áo sạch không có những vết đen, thì sẽ dễ nhuộm, cũng vậy, ngay từ chỗ ngồi này, với Pháp nhãn, không nhiểm ô, đã trổi dậy trong trưởng giả Anathapindika, rằng "Những gì có sinh tất có diệt," Rồi thì, sau khi đã thấy Pháp, chứng Pháp, biết Pháp, thâm nhập Chánh pháp, sau khi đã vượt lên nghi ngờ, dứt trừ sự bất định, tự mình tín thuận giáo huấn của đấng Đạo sư, Anathapindika bạch đức Thế tôn rằng:

"Hay thay, bạch đức Thế tôn. Cũng như một người dựng dậy những gì bị ngả xuống, vén mở những gì bị che đậy, chỉ đường cho kẻ lạc lối, rọi đèn vào chỗ tối tăm để những ai có mắt thì có thể thấy; cũng vậy, Chánh pháp được đức Thế tôn giảng dạy bằng nhiều thí dụ. Bạch đức Thế tôn, nay con xin nương mình theo Thế tôn, nương mình theo Chánh pháp và chúng tỳ kheo. Xin đức Thế tôn nhận con làm đệ tử tại gia từ đây cho đến trọn đời. Và, bạch đức Thế tôn, xin ngài nhận thọ trai tại nhà con vào sáng mai cùng với Chúng Tì khưu." Đức Thế tôn nhận lời im lặng.

Sau đó, Anathapindika mua khu rừng của Thái tử Jeta, thiết lập tinh xá để Phật dừng chân giảng pháp. Đây là một trong những tinh xá lớn nhất và nổi tiếng trong thời đức Thích tôn tại thế, gọi là Kỳ viên hay Kỳ hoàn (Jetavana).

Những hạng người như Anathapindika, tâm trí đủ mở rộng để lãnh hội Chánh pháp. Nhưng chỉ đến một giới hạn nào đó. Đời sống của họ không được coi là ở giữa lòng Chánh pháp. Thực sự, văn học nguyên thủy phần lớn chỉ dành cho hạng người xuất gia, với lý tưởng khước từ tuyệt đối. Vì Chánh pháp chỉ có thể thực hiện ở những nơi tịch tĩnh của núi rừng. Nhân cách lý tưởng mà nền văn học này mô tả chính là các vị A la hán (Arhat), là đức Như lai. Và chúng ta đã biết, đó là nhân cách của đời sống cô liêu tuyệt đối:

Ta hành đạo không thầy dạy dỗ
Chỉ hành đạo một mình, không bè bạn
Tích chứa một hạnh mà thành Phật
Tự nhiên thấu suốt nẻo thành đạo.


Theo gương đó, ước vọng của những người theo đạo Phật bấy giờ là:

"Như giữa lòng biển sâu không gợn sóng, mà hoàn toàn yên lặng tịch mịch; thầy Tì khưu cũng vậy, hãy trầm lặng, không buông lung dù ở bất cứ đâu."

Như vậy, đủ để chúng ta tóm tắt rằng, từ nguồn suối của đời sống cá biệt vì những gì sở đắc đều cá biệt và nội tại, cảm hứng của văn học Phật giáo nguyên thủy bộc phát:

– Từ nhân cách với đời sống của đức Phật;

– Từ Chánh pháp, tức chân lý cao cả về khổ đau của sự sống và về lẽ tịch tĩnh của Niết bàn.

Trên tất cả là hương vị cô liêu tuyệt đối. Bởi vì, hương vị của Chánh pháp chính là hương vị cô kiêu của sự sống.

III. CẢM HỨNG TRONG VĂN HỌC ĐẠI THỪA

Tư tưởng Đại thừa bắt đầu xuất hiện với nền văn học bát nhã. Nội dung của các kinh điển thuộc văn học Bát nhã đều thuyết minh về ý nghĩa tánh Không. Tư tưởng này là triết lý hành động của lý tưởng Bồ tát đạo.

Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại Trí và Đại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu. Đại bi hay Đại hạnh là tác dụng của Trí tuệ siêu việt ấy trong một thế giới quan được mô tả là trùng trùng vô tận. Như vậy, cỗ xe của Bồ tát (Bồ tát thừa) có hai bánh, Trí và Bi, cùng song song vận chuyển (Bi Trí song vận) để đạt đến giải thoát tối thượng.

Bởi vì tác dụng của Trí tuệ là khả năng soi thấu bản tính của hiện hữu, do đó, lấy tánh Không làm nền tảng. Tuy nhiên, trên phương diện luận thuyết triết lý, chúng ta biết rằng tánh Không có hai tác dụng: phá hủy và kiến thiết. Cả hai tác dụng đều qui tâm trên một mối: tương quan hiện hữu hay lý duyên khởi. Hiện hữu do tương quan, do đó hiện hữu không thực tính. Đây là tác dụng phá hủy. Và do không thực tính, nên hiện hữu mới có thể có tương quan để hiện khởi. Đây là tác dụng kiến thiết.

Kinh Lăng già mô tả sự vận dụng Đại Trí và Đại Bi của bậc giác ngộ rằng:

Thế gian ly sinh diệt
Do như hư không hoa
Trí bất đắc hữu vô
Nhi hưng Đại bi tâm
Nhất thiết pháp như huyễn
Viễn ly ư tâm thức
Trí bất đắc hữu vô
Nhi hưng Đại bi tâm
Viễn ly ư đoạn thường
Thế gian hằng như mộng
Trí bất đắc hữu vô
Nhi hưng Đại bi tâm.

Hiện hữu của thế gian như hoa đốm giữa trời, không từng có sinh khởi, không hề có hủy diệt. Tất cả các pháp như huyễn hóa, vượt ngoài mọi tác động của tâm thức; vượt ngoài mọi ý nghĩa thường tồn và gián đoạn, vì rằng như một giấc mộng. Do đó, trong sở đắc của Trí tuệ chân thật, không có ý nghĩa hữu hay vô. Từ Trí tuệ không còn bị ràng buộc ở hữu hay vô đó mà các bậc đã giác ngộ, hay những vị đang đi trên con đường tiến đến sự giác ngộ, phát khởi tâm nguyện Đại bi.

Tri nhân pháp vô ngã
Phiền não cập nhĩ diệm
Thường thanh tịnh vô tướng
Nhi hưng Đại bi tâm.

Các ngài thấy và biết rõ rằng mọi hiện hữu đều không có tự tánh, tự thể hay bản thể. Phiền não chướng và sở tri chướng vốn thanh tịnh, vô tướng. Từ bi kiến đó mà các ngài khởi lên tâm nguyện Đại bi.

Nhất thiết vô Niết bàn
Vô hữu Niết bàn Phật
Vô hữu Phật Niết bàn
Viễn ly giác sở giác
Nhược hữu nhược vô hữu
Thị nhị tất câu ly.


Hoàn toàn không có cái gì mệnh danh là Niết bàn. Không có một vị Phật nào chứng nhập Niết bàn, cũng không có Niết bàn mà Phật chứng nhập. Vượt ra ngoài nhân cách giác ngộ và chân lý được giác ngộ. Hữu hay vô hữu, cả hai đều bị vượt qua.

Nói cách khác, trong lý tưởng hành động, trước tiên Bồ tát phải quan sát để thể chứng tánh Không. Tức là, sự xuất hiện của thế gian như hoa đốm giữa trời, bản chất của nó không bị ràng buộc bởi ý nghĩa xuất hiện hay biến mất. Từ sở chứng đó, Trí tuệ không bị ràng buộc giữa hữu hay vô, và chính nơi đây là cứ điểm để Bồ tát thể hiện tâm nguyện Đại bi của mình. Nếu vậy, phải chăng Bồ tát hành đạo giữa thế giới của hư vô, của mộng tưởng? Thế giới này là hư vô, và mộng tưởng, hầu như là một nhãn quan không thể chối cãi, vì đấy là hình ảnh bàng bạc trong các tác phẩm Đại thừa, Kinh Kim cang nói:

Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng, huyễn, bào, ảnh,
Như lộ, diệc như điện
Ứng tác như thị quán.

Tất cả mọi hiện hữu do tương quan đều y như là mộng, huyễn, bọt nước, bóng trong sương; như sương mai, như điện chớp.

Làm thế nào để thể hiện tâm nguyện Đại bi trong cái thế giới dẫy đầy tính cách mộng tưởng, không hư như vậy? Nạn vấn này không thể không biết tới. Lối diễn tả trong các kinh điển Bát nhã không nói theo thông lệ. Do đó, sơ khởi, người ta chấp nhận mọi mâu thuẫn nội tại như là lý lẽ đương nhiên. Thí dụ, sinh tức vô sinh, vân vân. Lý luận của tánh Không ban đầu còn theo thông lệ, nhưng đến một lúc, nó trở thành cực đoan không thể tả. Nghĩa là, trước hết, người ta còn có thể vay mượn những gì đã được chứng kiến trong kinh nghiệm thông tục để diễn tả: như ráng nắng, như mộng tưởng, như sao xẹt, như hoa đốm giữa trời… đến kỳ cùng, là Pháp nhĩ như thi: Như vậy là như vậy. Một trong danh hiệu của Phật, Như lai, vốn chỉ cho ý nghĩa này. Luận Đại trí độ nói: "Như pháp tướng mà hiểu. Như pháp tướng mà giảng thuyết. Như con đường an ổn của chư Phật mà đến… nên gọi là Như lai." Nói gọn hơn, Như lai tức là đến như vậy và đi như vậy. Đây mới thiệt là lý tưởng hành động của Bồ tát đạo. Công nghiệp đó sẽ được mô tả như là những dấu chân của con chim trong bầu trời. Bồ tát đến với thế gian cũng vậy. Tất cả mọi công trình đã từng thực hiện và đã để lại cho thế gian chẳng khác nào như sự tích lũy của bao nhiêu dấu chân của cánh chim bay giữa bầu trời. Lối diễn tả này quả thực mang một khí vị văn chương đặc biệt. Theo thuật ngữ, hành động này được mệnh danh là Vô công dụng hạnh: hành động không cần dụng công, ví như hư không. Đây là ý nghĩa: "Như pháp tướng mà hiểu, như pháp tướng mà giảng thuyết".

Ý nghĩa sáng tác (văn học) của Đại thừa cũng theo đó. Kinh Bát nhã nói: "Các đệ tử của Phật làm gì có chuyện giảng thuyết. Tất cả đều do năng lực của Phật. Bởi vì họ y theo những gì Phật đã dạy mà học tập, nhờ đó mà chứng được các pháp tướng. Sau khi đã chứng, tất cả những gì được họ nói ra đều không trái với pháp tướng. Vì chính năng lực của pháp tướng vậy." Đại ý đoạn kinh này nói là sự giảng thuyết của đệ tử Phật không phải do họ muốn bày tỏ một quan điểm nào đó của mình, nhưng đấy là sự bộc phát tự nhiên của những gì mà họ đã chứng đắc.

Bình thường mà nói, đây há không phải là lý tưởng sáng tác của bất cứ một tác giả nào, kể riêng gì các nhà Đại thừa? Một tác phẩm văn học phải xuất hiện từ nguồn cảm hứng chân thành và bộc phát tự nhiên.

Trên đây, chúng ta lấy Tánh Không làm khởi điểm của cảm hứng văn học trong Phật giáo Đại thừa. Tuy nhiên, cảm hứng này phần lớn đi vào đường hướng minh giải triết lý, hơn là cảm thức văn chương. Rồi từ nền tảng tánh Không ấy mà mở tầm mắt vào thế giới trùng trùng vô tận, đây mới thật là phong cách văn chương, theo nghĩa thông tục của chữ này.

Trong bất cứ nền văn học nào của Phật giáo, chúng ta có thể thấy rằng, dù khởi sự từ đâu, tất cả mọi nguồn cảm hứng đều qui về nhân cách và đời sống của đức Phật. Đây là điều mà chúng ta không thể quên, khi bước vào thế giới văn học Phật giáo. Nếu ở nguyên thủy, nhân cách của Thích tôn là hình ảnh của một con người, thì tất cả cảm hứng văn học đều khơi nguồn từ lẽ vô thường, từ tính chất mong manh của cuộc sống. Còn ở Đại thừa, đức Phật là một nhân cách siêu việt, do đó cảm hứng văn học cũng được khơi nguồn từ thế giới siêu việt. Tất cả tùy thuộc quan niệm về Phật thân.

Có hai quan niệm chủ yếu về Phật thân: Sanh thân và Pháp thân. Sanh thân chỉ cho thân thể thụ bẩm của cha mẹ. Pháp thân vốn là hiện thân của chân lý. Nơi nguyên thủy, hay cả Tiểu thừa, Pháp bao gồm lý Tứ đế và Niết Bàn. Đích thực, đây là Pháp duyên khởi. Pháp duyên khởi này được đức Phật giảng dạy để đưa đến chỗ chứng nghiệm về những chân lý cao cả của Khổ, Tập, Diệt, Đạo, cuối cùng là đạt đến giải thoát và Niết bàn. Các nhà Đại thừa sau này mang đến cho Pháp duyên khởi nhiều giải thích mới mẻ. Đặc biệt là triết học về tánh Không của Long Thọ (Nàgàrjuna). Đại khái, nguyên thủy, pháp Duyên khởi có nhiệm vụ giải thích nguồn gốc của sự khổ, để bộc lộ những đặc tính vô thường và vô ngã của sự sống, và từ đó quyết định đường hướng diệt khổ. Nhưng các nhà Đại thừa y cứ trên pháp Duyên khởi để chứng tỏ rằng tự tính của vạn hữu là Không. Tức là, do duyên khởi nên không tự tính. Như vậy, sơ bộ, pháp Duyên khởi chứng tỏ rằng tất cả hiện hữu – nhất thiết pháp – đều là giả ảo, không có bản tính chân thực. Rồi kỳ cùng, không có sự thực nào ngoài giả ảo đó. Do kết quả này, các nhà Đại thừa quả quyết rằng những gì đức Phật nói thảy là chân lý ước lệ, tạm bợ, bởi vì chân lý cứu cánh siêu việt tri kiến và siêu việt ngôn thuyết. Điều đó bắt buộc chúng ta không thể quên thắc mắc này: với danh hiệu Như lai, mà Đại thừa giải thích rằng Pháp Như vậy thì Phật giảng thuyết Như vậy, tại sao sự thực lại không được bao hàm ngay trong tính cách Như vậy đó? Chúng ta có thể tìm thấy một vài giải thích, trực tiếp trong các kinh điển Đại thừa. Thứ nhất, kinh Pháp hoa tuyên bố:"Bản tính của các pháp là vắng bặt mọi dấu vết của tri kiến và ngôn thuyết. Nhưng chính do phương tiện, phát xuất từ Đại bi tâm vô lượng mà đức Phật giảng thuyết những pháp gọi là chân lý cao cả như Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Kỳ thực, chân lý cứu cánh không nằm ở trong đó." Kinh Bát nhã (tiểu phẩm), quyết liệt hơn: Dù có Pháp nào cao cả hơn Niết bàn cũng là Không nốt. Đây là nói về mối tương quan giữa những gì được nói và những gì không thể nói. Tăng Duệ, trong bài tựa viết cho bản dịch Trung quán luận (tác phẩm của Long Thọ), giải thích ý nghĩa tương quan này: "Thật phi danh bất ngộ, cố ký Trung dĩ tuyên chi. Ngôn phi thích bất tận cố giả luận dĩ minh chi, kỳ thật ký tuyên, kỳ ngôn ký minh, ư Bồ tát tọa đạo tràng chi chiếu lãng nhiên huyền giải hỉ." Theo đó, Thật hay Thật tướng, chân lý cứu cánh, nếu không có Ngôn thuyết thì không thể có con đường dẫn đến tỏ ngộ. Do đó, mới tựa vào con đường giữa để công bố. Con đường giữa tức là con đường không bị ràng buộc bởi những siêu việt và nội tại, giữa khả thuyết và bất khả thuyết. Đó chính là con đường im lặng trong nói năng và nói năng trong im lặng. Và rồi, như vậy, ngôn thuyết phải cần được minh giải để có thể lãnh hội thấu đáo. Do đó, mượn hình thức một tác phẩm luận thuyết để tỏ bày. Sau cùng, một khi sự Thật đã được công bố nơi Ngôn thuyết, và Ngôn thuyết đã được tỏ bày thấu đáo trong cõi miền trầm lặng, thì bấy giờ, trong giây phút chứng ngộ tuyệt đối, Bồ tát soi tỏ thấu suốt tất cả tương quan giữa Danh và Thật.

Giải thích trên có thể biện hộ cho công trình của một tác giả Phật học. Biết rằng những gì mình nói đến không liên hệ đến sự Thật tuyệt đối, dù vậy, vẫn có thể nói và không trái ngược với sự thật. Nghĩa là, mọi tác giả đều có khả năng nói láo, nhưngtrong cái láo đó lại có thể phản ảnh cái Thật. Không có giới hạn phân biệt giữa cái Thật và cái Láo.

Từ quan niệm vừa kể, chúng ta có một hệ luận vô cùng quan trọng để thấy phong độ các tác giả Đại thừa. Ngôn ngữ không phải là chân lý tuyệt đối, nhưng cũng chính ngôn ngữ vốn là biểu tượng của chân lý tuyệt đối. Nếu vậy, không chỉ riêng ngôn ngữ, mà bất cứ một sự thể nào cũng là biểu tượng của chân lý tuyệt đối. Tức là, theo một khẩu quyết của Đại thừa: sinh tử tức niết bàn. Theo hệ luận này, chúng ta sẽ bắt gặp trong các tác phẩm Đại thừa hai phong cách diễn đạt. Hoặc bằng ngôn ngữ, hoặc bằng ảnh tượng. Và chúng ta được gán cho hai lối thuyết pháp của Phật. Hoặc thuyết trong khi ngài nhập định. Hoặc thuyết trong khi ngài ra khỏi thiền định. Khi nhập định, ánh sáng từ thân thể đức Phật tỏa ra. Ngang qua ánh sáng này, những bậc thượng trí trực ngộ ngay pháp sâu xa mà Phật muốn giảng thuyết. Khi ra khỏi cơn thiền định, ngài sẽ dùng ngôn ngữ, với lời lẽ khúc chiết, với thí dụ điển hình, với âm thanh dịu ngọt, Phật sẽ phân trần, giải thuyết những gì cần phải nghe, phải hiểu cho hạng người căn tính thấp hơn.

Hai cách thuyết pháp phù hợp với quan niệm về Phật. Ứng thân (một danh hiệu khác của sanh thân) xuất hiện giữa thế gian, chịu theo mọi qui ước của thế gian, nên sự thuyết pháp phải chọn con đường ngôn ngữ: phải nói theo thứ tự khoảng đầu, khoảng giữa, khoảng cuối, vân vân. Pháp thân, vốn là bản thân của chân lý siêu việt, do đó sự giảng thuyết cũng siêu việt. Bởi vì chân lý siêu việt là thực tại toàn diện, nên người nói và người nghe cũng tương ứng trong toàn diện. Ở đây, Pháp không được bộc lộ theo một tình tự có qui ước, mà là đốn khởi, hay trực khởi toàn diện. Do đó, chúng ta thường bắt gặp những diễn tả điển hình như: trên đầu mỗi sợi lông của đức Phật, khi ngài nhập chánh định, xuất hiện tất cả mười phương thế giới, không chỉ những thế giới đang hiện hữu, mà cả trong quá khứ và vị lai. Nghĩa là, tất cả mọi thế giới trong thời gian vô cùng và không gian vô tận. Rồi mỗi thế giới, của vô số thế giới như cát sông Hằng này, trong mỗi thế giới đều có đức Phật đang ngồi nhập Chánh định, và trên đầu mỗi sợi lông đó lại cũng xuất hiện tất cả muời phương thế giới trong quá khứ, hiện tại, vị lai. Đó là cái toàn diện cực đại bao la hiện diện ngay trong cái cá biệt vi tiểu cực hạn: Một là Tất cả và Tất cả là Một. Sự diễn tả này là trọng tâm của Pháp giới duyên khởi.

Trong tư tưởng Đại thừa, có hai quan niệm đặc trưng về duyên khởi. Quan niệm thứ nhất, y theo duyên khởi để đạt đến Pháp Không, thể hiện khả năng siêu việt hữu vô đối đãi, như đã thấy. Quan niệm khác, y trên pháp duyên khởi để chứng nhập thế giới tương giao trong trùng trùng vô tận, tức là Pháp giới duyên khởi. Ở đây, cũng giải thích về tương quan hiện hữu. Nhưng mỗi hiện hữu được quan niệm là một thực tại toàn diện – vì sinh tử tức Niết bàn – do đó, mối tương quan hiện hữu cũng toàn diện. Thí dụ, tương quan giữa hai tấm kính đối diện. Một mặt kính không phải chỉ duy là một mặt kính; nó bao hàm tất cả những gì không phải nó nhưng có quan hệ với nó. Như vậy, hai mặt kính phản chiếu nhau không chỉ là hai, mà là Tất cả, và Tất cả. Danh từ Pháp giới muốn nói rằng tất cả giới hạn vô biên và toàn diện của sự thực đều ở ngay nơi sự thực cá biệt đó. Vậy, Pháp tức là Pháp giới, và như vậy, Pháp thân tức là Pháp giới thân.

Phật giáo Mật tông gọi Pháp thân hay Pháp với Thân là pháp giới thể tánh trí và biểu tượng là Mặt trời: Đại nhật như lai. Ánh sáng mặt trời vốn bình đẳng và phổ biến. Pháp thân cũng vậy. Chỉ cần có mắt là có thể thấy. Hễ thấy được mặt trời là thấy được tất cả vạn vật. Các Thiền sư thường nói:

Thanh thanh túy trúc
Tận thị Pháp thân
Uất uất hoàng hoa
Vô phi Bát nhã.

Trúc biếc xanh xanh, đâu cũng là pháp thân. Hoa vàng rậm rạp, đâu cũng là Bát nhã. Như vậy, lý tưởng của các nhà Đại thừa là không chỉ học hỏi Chánh Pháp từ kinh điển. Họ học bất cứ ở đâu, từ những sự thể vụn vặt trong cuộc sống hằng ngày. Để có thể được như vậy, phải trải qua những thời đào luyện tâm linh, sao cho tâm trí sẵn sàng mở rộng để đón nhận những chân lý cao cả được giảng thuyết nơi từng hạt bụi. Họ nói: Phá vi trần xuất kinh quyển. Chẻ hai hạt bụi ra thì sẽ thấy kho tàng bất tận của chân lý. Tâm hồn của chúng ta có thể chỉ là đá cuội, nhưng phải đào luyện nó cho đến khi một ngọn gió nhẹ thoảng qua, như một bài thuyết pháp bất tận, là đá cuội ấy gật đầu. Rồi sau đó, đến lượt ta: gia lai thuyết pháp, ngoan thạch điểm đầu, đến lượt ta khi ta lên tiếng thì (những) đá cuội (khác) cũng gật đầu đáp lại. Đây mới chính là lý tưởng của văn học Đại thừa. Nó có thể là không tưởng, nhưng chỉ với một khát vọng bao la như vậy cũng đủ lần hồi trải rộng tấm lòng của chúng ta khắp cả đại thiên thế giới. Kinh Phổ hiền Hạnh nguyện nhắc nhở lý tưởng ấy rằng: "Hư không hữu tận, ngã nguyện vô cùng". Hư không còn có thể có chỗ tận cùng, nhưng tâm nguyện (Đại bi) của ta thì không bao giờ có thể cùng tận.

Nếu chúng ta không hay biết tí gì về tâm nguyện đại bi ấy mà mong bước vào thế giới văn học Đại thừa, đây mới thật là một không tưởng trên mọi không tưởng. Không tưởng này được bộc lộ quá lộ liễu và thô thiển khi nguời ta đánh giá một tác phẩm Đại thừa qua cái gọi là sự khám phá về những thế giới bên ngoài thế giới này, Thế giới vô cùng, vô tận, mà các tác phẩm Đại thừa thường mô tả, có thực như vậy hay không chẳng có gì quan hệ phải bận tâm. Nếu tâm trí của chúng ta không mở rộng kịp với thế giới vô tận được mô tả ấy, thì dù đó có là sự thực, cũng chỉ là sự thực của bóng vẽ. Nghĩa là, nói tóm lại, hương vị của Chánh pháp vẫn là hương vị cô liêu của sự sống. Và đây mới đích thực là tinh chất của toàn thể văn học Phật giáo, bao trùm tất cả mọi khuynh hướng, mọi tông phái của nó.

Dân chủ? Vẫn là mơ thôi?


 Cao Huy Thuần




Các anh chị thân mến, vấn đề mà tôi đặt ra hôm nay đã cũ rích, cũ mèm, nghe nói đã mòn tai mà chính chúng ta cũng đã nói mòn lưỡi trong bao nhiêu năm Hội Thảo Hè này. Vậy tại sao lần này vẫn đem cái chuyện "dân chủ" cũ mèm ấy ra mà nói nữa? Có lẽ vì đề tài của Hội Thảo Hè năm nay: "Nhìn lại 40 năm" chăng? Nhìn lại thì phải nói chuyện cũ. Nhưng nhìn lại cũng phải để nói chuyện mới. Vậy thì cái chuyện gì mới phải nói lần này? Trong 40 năm qua, chúng ta vẫn chưa đi được bước nào trên con đường dân chủ. Vậy chuyện mới phải chăng chính là cái bước đầu phải đi? Nhưng đi thế nào? Thế nào để không xa thực tế? Tôi đề nghị một cách đặt vấn đề mới. Một câu hỏi khác. Bốn mươi năm đã qua, ngay cả tình trạng dân chủ ở các nước Tây phương cũng đã biến chuyển cùng với thời đại toàn cầu hóa. Dân chủ ở đấy không tránh khỏi vài du nhập độc đoán. Ngược lại, các chính thể độc đoán, không nhiều thì ít, bị bắt buộc phải vay mượn vài cơ chế dân chủ. Một mặt, chính dân chủ cũng bất toàn, cho nên khái niệm "dân chủ hóa" cũng mất bớt đi tính chính xác. Một mặt, các chính thể độc đoán có đi vài bước dân chủ thật, nhưng không phải để tiến đến dân chủ mà để củng cố chế độ. Vậy nếu chúng ta cũng đi được vài bước như thế, chúng ta phải nghĩ như thế nào? Rằng: ta đang ở trên quá trình "dân chủ hóa"? Hay rằng: ta đang củng cố độc đoán? Rằng: ta cũng nên tạm bằng lòng? Hay rằng: ta nên thất vọng? Tôi biết: cách đặt vấn đề và câu hỏi như thế này phát xuất từ một tâm trạng bi quan. Bi quan trước lo ngại khủng hoảng dân chủ ở Tây phương. Bi quan trước triễn vọng dân chủ ở các nước độc đoán, triễn vọng ấy có thể bị tương lai hứa hão. Bốn mươi năm rồi, chưa đi một bước mà lạc quan thì mới lạ. Nhưng chính phải bi quan như vậy để đừng bắt đầu với những mơ mộng cao xa, tách lìa thực tế. Tôi bắt đầu với bi quan thứ nhất của tôi: vấn đề "dân chủ hóa" bị lu mờ, trên sân khấu thế giới cũng như trong học thuyết. 

 Khi các nước Á Phi mới độc lập, vấn đề dân chủ hóa đã sôi nổi ngay, trong chính trị quốc tế cũng như giữa các lý thuyết gia. Từ đó cho đến gần đây, học thuyết về dân chủ hóa xoay quanh một câu hỏi: làm thế nào để các chế độ độc đoán trở thành dân chủ? Câu hỏi đó hàm ý: độc đoán là tạm thời, dân chủ là cái đích. Trong khoảng một phần tư thế kỷ đầu, lý thuyết ngự trị trên tư tưởng dân chủ hóa mang tên là "phát triển chính trị" (political development). Lấy ý từ lý thuyết phát triển kinh tế, dân chủ hóa cũng phải trải qua nhiều giai đoạn mà giai đoạn đầu là "cất cánh". Các lý thuyết gia vạch ra nhiều điều kiện tất yếu để cất cánh mà các nước dân chủ Tây phương đã hội đủ trong lịch sử phát triển chính trị của họ. Phát triển kiểu này, chắc chúng ta đành lắc đầu thôi, vì chẳng lẽ chúng ta phải để cả trăm năm để hội đủ điều kiện? Được tán dương hoặc bị chỉ trích, lý thuyết ấy tiếp tục sống dai cho đến khi khối Liên Xô sụp đổ, các nước Đông Âu cháy bỏng nhu cầu dân chủ hóa. Lý thuyết "phát triển chính trị" nhường chỗ cho một cao trào lý thuyết khác, ào ạt như thủy triều, mang tên là lý thuyết "chuyển tiếp", có tham vọng trở thành cả một khoa học, cả một transitologie. Đồng thời với các nước Đông Âu, khắp nơi trong "thế giới thứ ba", Á Phi, Trung Đông, nhất là Nam Mỹ, bùng lên nhiệt huyết dân chủ, thủy triều Đông Âu dâng lên thành triều cường của cả thế giới. Không còn tranh cãi gì nữa, vấn đề duy nhất còn lại là làm thế nào để chuyển tiếp. Chuyển tiếp là tất nhiên, giống như "lịch sử chấm dứt" của Fukuyama cũng là tất nhiên. Nhưng lịch sử đã không chấm dứt như vậy. Nước Nga không chuyển tiếp. Phi châu không chuyển tiếp. Nếu có chuyển tiếp thì chuyển tiếp từ chính thể độc đoán này đến chính thể độc đoán khác. Nước Pháp có đem viện trợ ra để dọa phải dân chủ hóa thì mới viện trợ, chẳng nước nào tin. Chỉ Nam Mỹ là có thay đổi, nhưng chuyển tiếp lại không vững chắc, hoặc quân đội lại lên thay dân sự, hoặc dân sự khác lên thay nhưng dở hơn. Một tiếng thở dài thốt ra trên sách vở của Pháp: désenchantement!. 

1 Vỡ mộng!

 Các lý thuyết gia của trường phái chuyển tiếp xoay giấy mực qua đề tài mà họ cho là then chốt của quá trình chuyển tiếp: củng cố. Làm sao củng cố thành quả của chuyển tiếp. Nhưng cách nhìn vấn đề của họ vẫn như từ đầu, nghĩa là: độc đoán là tạm thời, dân chủ là cái đích, và dân chủ đó là dân chủ Tây phương. Thế nhưng, ngày nay, dưới áp lực của toàn cầu hóa, chính dân chủ Tây phương lại đang trăn trở trên tình trạng khủng hoảng của mình. 

 Một mặt, dân chúng khinh khi giới chính trị, cử tri không thèm đi bỏ phiếu, đảng phái làm mất lòng tin, Quốc Hội yếu kém, bất mãn diễn ra ngoài đường, dư luận thờ ơ trước chính sự. Một mặt, việc đối phó với khủng bố, với cực đoan tôn giáo, với làn sóng di tản từ khắp nơi tràn vào, làm các chính quyền Tây phương hụt hơi, giải quyết nạn an ninh và nạn thất nghiệp chưa xong, hơi sức đâu nữa mà lo toan dân chủ hóa cho thiên hạ. Thay vì dân chủ hóa, ngôn ngữ chính trị của Tây phương chuyển qua nhân quyền, mà cũng chỉ nhân quyền ở đầu môi chót lưỡi để hù kẻ yếu. Nước Pháp, quê hương của nhân quyền, thay kép chính trên sân khấu ngoại giao, cổ võ cho "ngoại giao kinh tế" để bán máy bay cho các nước độc tài. Trên sân khấu chính trị cũng như ở trong lòng xã hội Tây phương, các khuynh hướng cực đoan khuynh loát dư luận, ảnh hưởng lên chính trị, len vào Quốc Hội, ngự trong các cơ quan dân cử. Dân chủ Tây phương, từ Aristote, đặt nền móng trên tinh thần ôn hòa (modération); ngày nay cực đoan đe dọa đánh cắp gia bảo ấy. Nguy cơ diễn ra trên chính nước Pháp. Ở Bắc Âu, nguy cơ đã thành sự thật. Tại Phần Lan, bầu cử tháng 4 vừa qua, 2015, các bác cực hữu đứng vào hàng thứ hai, bây giờ đã vào chính quyền. Tại Thụy Điển, cũng các bác mỵ dân cực hữu ấy trở thành lực lượng chính đảng thứ ba, chấm dứt mô hình dân chủ xã hội mà thế giới vẫn hằng ca tụng. Tại Đan Mạch, cực hữu đứng đầu trong bầu cử Quốc Hội Âu châu năm ngoái 2014, đứng đầu trong bầu cử Quốc Hội năm nay, 18-6-2015, đang chơi nước cờ đứng ngoài chính quyền để mặc cả chính sách với giá cao nhất. Tại Na Uy, ôi thôi, các bác ấy cũng đã dõng dạc kéo ghế chính quyền. Có cần phải nói thêm dân chủ nước Mỹ, gương mẫu cho cả thế giới? Có cần phải nhắc lại đạo luật Patriot Act 2001 biểu quyết để chống khủng bố nhưng gây phản cảm lớn trong giới bảo vệ tự do, nhân quyền? Phải chăng cái mầm độc đoán đã thâm nhiễm vào các chính thể dân chủ Tây phương? Tôi trích ở đây một câu của một luật gia danh tiếng Pháp, bà Mireille Delmas-Marty, cảnh báo về mối đe dọa mà khủng bố đang đè nặng trên chính dân chủ Âu Mỹ: "Chúng ta đã có thể phải sợ rằng Ben Laden đã thắng cuộc trong thách thức. Y muốn đánh đổ dân chủ, chí ít y đã thấy trước y sẽ ném dân chủ vào vòng tay của Big Brother". Chứ gì nữa! "Chiến tranh chống khủng bố" mà ông Bush mở màn từ 2001 ngày nay đã hội đủ nguyên liệu để trở thành "một nội chiến toàn cầu và thường xuyên", chữ của bà DelmasMarty.

2 Đã đi vào "chiến tranh", mà lại là "nội chiến", mà lại là "toàn cầu", mà lại là "thường xuyên", làm sao tự do, làm sao nhân quyền, làm sao dân chủ khỏi sa vào cái bẫy của những luật pháp ngoại lệ? 

Từ tình trạng ấy, học thuyết bắt đầu bàn luận trên hiện tượng lai giống: chính thể dân chủ lai giống độc đoán. "Không một chế độ dân chủ nào, ngay cả ở châu Âu, được bảo vệ khỏi áp lực của độc đoán", một tác giả có uy tín trong đại học Pháp khẳng định như vậy. 

3 Chính mình đã không còn nguyên chất nữa, dạy dân chủ cho ai? Trong sách vở, xuất hiện nhiều khái niệm kỳ quái: "dân chủ độc đoán", "độc đoán dân chủ".4 Toàn cầu hóa làm xâm nhập ảnh hưởng lẫn nhau giữa hai loại chính thể vốn được coi là đối kháng, khiến dân chủ không còn trinh bạch mà độc đoán cũng không hẳn là sở khanh. Bên này có "dân chủ độc đoán" thì bên kia có "độc đoán dân chủ". Vậy thì làm sao còn nói "quá trình dân chủ hóa" được nữa? Quá trình ấy có đưa đến "dân chủ" như mẫu mực cổ điển đâu? Vậy thì "độc đoán dân chủ" là tương đương với "dân chủ hóa"? Lấy ví dụ Vénézuela. Cựu tổng thống Chavez là độc đoán chăng? Đúng thế. Nhưng ông được bầu lên hẳn hoi trong một cuộc bầu phiếu có tranh cử hẳn hoi. Hơn thế nữa, ông chấp nhận thất bại khi bị thiểu số trong trưng cầu dân ý. Vậy là độc đoán hay là đã dân chủ hóa rồi? Nước Nga hiện nay: dân chủ hay độc đoán? Sao không gọi là dân chủ được khi Putin thực sự được bầu lên, tam quyền phân lập là nguyên tắc? Nhưng sao không khỏi mang tiếng là độc đoán khi truyền thông bị áp lực, ký giả Anna Politkavskaïa bị ám sát ngay giữa thủ đô, khi Putin mạnh không thua gì Sa Hoàng, lấn lướt một Quốc Hội yếu xìu, đẩy vào bóng tối các chính đảng? Ấy là độc đoán hóa? Ấy là dân chủ hóa? Iran là độc đoán chăng? Hiển nhiên. Mà còn độc đoán thần quyền. Nhưng cựu tổng thống Ahmadinejad được bầu lên trung thực rồi bị mất chức trung thực trong cuộc bầu cử tiếp theo. Ấy là gì? Dân chủ hóa? Đâu phải! Các chính thể cứ lai nhau như vậy, đến nỗi học thuyết đã bắt đầu đặt câu hỏi: phải chăng mọi chính thể ngày nay đều là chính thể lai?5 Rồi sáng tác ra nhiều khái niệm mà nếu Montesquieu hay Rousseau sống lại chắc tưởng là quái vật. Về dân chủ thì: "dân chủ hậu toàn trị", "dân chủ ủy nhiệm", "dân chủ bán phần", "dân chủ bầu cử", "dân chủ bất tự do"... Về độc đoán thì: "bán độc đoán", "độc đoán tự do hóa", "độc đoán có chứa dân chủ", "chuyên chế dịu dàng", tyrannie douce, nghe rất nên thơ. Một bên thì xôi đậu. Một bên thì đậu xôi. Chỉ khác nhau ở chỗ bên này nhiều nếp hơn đậu, bên kia nhiều đậu hơn nếp. Nhưng nhiều nếp bao nhiêu cũng không phải là xôi. Chỉ là xôi đậu. Đâu nữa khái niệm nguyên thủy "dân chủ hóa"? 
 Có "dân chủ hóa" bởi vì có một bên là dân chủ, một bên là độc đoán, ranh giới phân minh. Ranh giới ấy, Raymond Aron đã vạch ra hồi 1965, khi thế giới còn phân ra hai khối. Ranh giới ấy là đa nguyên. Bên này bức màn sắt là đa đảng, bên kia độc đảng. Bên này là dân chủ, bên kia là toàn trị. Trong vòng 50 năm nay, quanh đi quẩn lại, học thuyết chính trị không ra khỏi khái niệm căn bản ấy. Nhưng ngày nay, anh nói: đa nguyên? Đâu chẳng có! Bên này hay bên kia đều có. Có thể, bên này có thật, bên kia có dỗm, nhưng đều có. Có thật là dân chủ? Có dỗm là dân chủ hóa? Bởi vì thà dỗm còn hơn là độc một mình? Tiêu chuẩn đa nguyên đang bị khủng hoảng. Một tác giả danh tiếng, Juan Linz, cố hiện đại hóa tiêu chuẩn của R. Aron, sáng tác ra khái niệm "đa nguyên hạn chế",6 nhưng không phải ai cũng nghe. Nhiều tác giả còn bác bỏ cả lối phân ranh lưỡng cực vì ranh giới đã nhoè nhoẹt khi hai bên xâm nhập lẫn nhau. Có tác giả, cũng danh tiếng không kém, bi quan thở dài: "Thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ của độc đoán".
 Hết thật rồi chăng ước mơ dân chủ hóa? 

 Tôi tiếp theo với bi quan thứ hai của tôi

Bởi vì tôi sắp lấy ví dụ Trung Quốc để tự hỏi: chính thể Trung Quốc có phải là một chính thể lai? Một chính thể độc đoán đang lai giống dân chủ? Đang đi vào quá trình... dân chủ hóa? Hay để củng cố chế độ? Tôi biết câu hỏi đó sẽ làm nhiều người phản đối vì một phản biện rất đúng: chế độ Trung Quốc là một chế độ riêng biệt, không giống ai, không theo mẫu mực nào, nếu có dính dáng gỉ đến dân chủ thì không phải là dân chủ hóa mà là "dân chủ với màu sắc Trung Quốc" như bất cứ sản phẩm chính trị nào khác. Vâng, đúng vậy, nhưng giả thuyết tôi sắp nói có phải là dân chủ hóa đâu? Lai thôi mà. Và lai để làm gì? Không thiếu gì giới học thuật cũng như giới chính khách hoặc doanh nhân ở Mỹ đánh cuộc với tương lai rằng Trung Quốc của họ trước sau gì rồi cũng phải dân chủ như họ. Bao nhiêu lâu? Năm chục năm, trăm năm? Trước mắt, và ngay cả trung hạn, khó mà ngây thơ như họ. Tuy vậy, ai cũng phải nhìn nhận và ngã mũ chào khả năng chuyển biến để thích nghi với hoàn cảnh mới từ thời Đặng Tiểu Bình đến nay. Tất nhiên đó không phải là những canh tân chính trị, lại càng không phải là "đệ ngũ hiện đại hóa" (dân chủ) như Wei Jingshen đã 6 Juan Linz, Totalitarian and Authoritarian Regimes,  khản cổ kêu gào. Đó chỉ là những biện pháp cụ thể nhắm canh tân một vài cơ chế, nhưng có thể gây ảnh hưởng gián tiếp trên tiến trình của chế độ. Xin kể sơ lược một vài biện pháp đó: 8 Về bộ máy hành chánh: đào tạo hàng ngũ cán bộ có khả năng hơn; xây dựng một thế hệ công chức hữu hiệu hơn nhờ lương bổng cao hơn và quy chế ổn định hơn; đơn giản hóa thủ tục hành chính; sửa đổi thẩm quyền của các cơ quan chính phủ (bộ, ban, ngành...) không phải để quản lý trực tiếp nữa mà để chịu trách nhiệm về việc thực hiện các chính sách liên hệ... Về các cơ quan chuyên môn: hiện đại hóa các ngành thuế, ngân hàng, chứng khoán, hưu bổng, an sinh xã hội... Quan trọng hơn và liên quan đến vấn đề ta đang bàn cãi hơn: ban cấp cho các hội đồng nhân dân vài thẩm quyền - hạn chế - để góp phần vào quá trình lập pháp; thử nghiệm bầu cử ở cấp độ địa phương với ít nhiều cạnh tranh; sửa đổi luật lệ để đem lại nhiều bảo đảm hơn cho người dân và cho các doanh nghiệp ngoại quốc nhất là từ khi vào WTO; mở mang thêm các biện pháp giải quyết các tranh chấp xảy ra giữa xã hội và Nhà nước mà họ gọi là "Nhà nước pháp quyền": trọng tài, hòa giải, thủ tục tố tụng, khiếu nại...; phát triển việc thăm dò ý kiến để tìm hiểu tâm lý, nguyện vọng của người dân. Xin kể đại khái như vậy thôi, không cần dông dài, các anh chị quá biết. Chỉ nói thêm về "pháp quyền": đây là điều mà Tập Cận Bình được xem như đang quyết tâm thực hiện. Kể như vậy để đặt câu hỏi: Các biện pháp ấy nhắm mục đích gì? Dân chủ hóa? Hay để nắm vững trong tay tình trạng bất bình đẳng kinh tế và xã hội, để quản lý chặt chẽ hơn, giải quyết hiệu quả hơn, tránh trước những tranh chấp, những tình trạng nguy hiểm, cốt bảo đảm ổn định xã hội, quan tâm hàng đầu của Đặng Tiểu Bình? Dù sao đi nữa, dù chẳng liên quan gì đến "đệ ngũ hiện đại", ai dám nói các biện pháp ấy không liên quan gì đến thể chế? Nó còn làm tăng tính chính đáng của chế độ trước mắt người dân thường và càng tăng hơn nữa trước mắt thế giới. Chỉ có điều là cách thức ổn định ấy tránh rất kỹ, không du nhập toàn vẹn một biện pháp nòng cốt của chế độ dân chủ: định chế hóa. Định chế hóa là để bảo đảm ổn định, an ninh của người dân đối với chính quyền. Ngược lại, cứ để mỗi biện pháp lửng lơ, tùy nghi áp dụng, tùy hoàn cảnh, tùy địa phương, là để bảo vệ an ninh của chính quyền, ổn định của chế độ. Thiếu định chế hóa, cho nên các quyết định đều làm trong bóng tối của bí mật và tùy tiện, chẳng ai biết tại sao vị này được bầu vào Bộ chính trị, vị kia lên chức bí thư, ai là "nhóm Thượng Hải", ai là "nhóm Bắc Kinh", ai tống ai xộ khám. Tôi lấy nhiều chi tiết và khái niệm "độc đoán sáng suốt" từ đây.

 Ngoài các biện pháp kể trên, bất cứ ai cũng nói rằng phồn thịnh kinh tế đã làm xuất hiện một giai cấp xã hội mới, một loạt "tư bản đỏ" lớn nhỏ, một thế lực kinh tế làm ăn với chính quyền nhưng cũng cạnh tranh với chính quyền và với nhau, đưa đến hiện tượng mới là đa nguyên quyền lợi. Tây phương nghĩ rằng các thế lực kinh tế này càng ngày càng muốn thoát ra khỏi cái khung chật hẹp của chế độ chính trị, càng ngày càng muốn có tiếng nói mạnh hơn: đa nguyên kinh tế, đa nguyên xã hội sẽ đưa đến đa nguyên chính trị. Vậy thì, theo họ, dù muốn dù không, yếu tố trụ cột của dân chủ, đa nguyên, không hẹn vẫn đến. Thế nhưng, lại thế nhưng, hai thế lực ấy ở Trung Quốc đang liên minh với nhau. Là thống soái, chính trị nói: anh liên minh với tôi, chúng ta cùng hưởng lợi. Kết quả là một thề chế chính trị nhiều tiếng nói tư vấn, nhiều hợp tác ý kiến hơn, nhưng tập trung ở quan hệ thượng đỉnh. Và chúng ta thấy gì? Ra đời lý thuyết chính trị "tam cá đại biểu" mà Giang Trạch Dân đã quảng bá hồi 2001. Từ nay, đảng Cộng sản đại diện cho "những lực lượng sản xuất tiến bộ, văn hóa tiên tiến, và những quyền lợi thiết yếu của đa số quần chúng". Đâu rồi, công nhân và nông dân? " Đa số quần chúng" đứng vào hạng bét. Đầu đàn là giai cấp quý tộc đỏ. Giới quân tử đỏ ấy được ban cấp một thứ tự do ngôn luận nội bộ, tin tức không được lộ ra ngoài cho thứ dân. Đại gia, thê tử của các vị lãnh đạo nắm giữ các xí nghiệp công và bán công, cả một nomenklatura thượng tầng xã hội ấy sống trên pháp luật, được tập tục riêng của chế độ bảo vệ. Ngay cả doanh nghiệp tư và bán tư ở cấp địa phương cũng được chính quyền địa phương ưu đãi, ban phát cho thông tin riêng. Đứng vào hàng thứ hai trong bảng sắp hạng của Giang Trạch Dân, "văn hóa tiên tiên" cũng được ăn theo hưởng lợi chung: đại học, trung tâm nghiên cứu, think tank được ban cấp một thứ tự do hàn lâm rộng rãi, viết lách, tranh luận thoải mái nhưng cẩn thận không phát tán. Sinh viên được biểu tình, nhưng để rốc máu nóng dân tộc chủ nghĩa vào đấu tranh chống Mỹ Nhật, tuy rằng thỉnh thoảng cũng để phản đối bất an ninh trong khu đại học. Đại học sản xuất ra chuyên gia, chuyên gia xuất hiện để được tư vấn. Còn gì vinh dự hơn được lãnh đạo nghiêng tai? Vậy là chuyên gia tranh nhau bày tỏ lời vàng tiếng ngọc, tuy rằng quyết định đã có trước rồi. Ngây thơ là bệnh kinh niên của trí thức, nhưng dù vậy chăng nữa, một khi khung cửa hẹp được mở ra cho ý kiến, một khi chính quyền biết nghĩ rằng mình không phải là ông thánh nắm hết mọi tri thức chuyên môn của thời đại, tư vấn với thiện chí học hỏi cũng giúp ích phần nào cho quá trình lấy quyết định hoặc để quyết định được trau chuốt hơn. Nóí khác đi, đa nguyên quyền lợi, đa nguyên ảnh hưởng, đa nguyên áp lực, đa nguyên thế lực, đa nguyên thương lượng, đa nguyên mặc cả... tất cả không khỏi đưa đến đa nguyên nội bộ, đa nguyên phe nhóm, đa nguyên cấu xé nhau như thế giới đã thấy sau hậu trường của Tập Cận Bình. Bộ máy chính trị vẫn vận hành theo lối sắp xếp nội bộ, nhưng sắp anh hay sắp tôi tùy thuộc vào nhiều tiêu chuẩn mới làm bằng những quan hệ đan xen nhau giữa lãnh đạo chính trị và giai cấp tân quý tộc. Bề ngoài, bộ máy ấy vẫn vững như đồng, khó mà tin rằng những phần tử "thiên dân chủ" dám liều mạng đem quyền lợi đang hưởng của mình đánh đổi một cuộc phiêu lưu chính trị, nhưng ai dám nói chắc một biến đổi xã hội bất ngờ sẽ không bao giờ xảy ra trong bối cảnh bất bình đẳng cao độ hiện nay? Kết quả: một chế độ độc đoán đang thành công, thành công ở cấp trên nhờ ban cấp nhiều tự do và quyến lợi, thành công ở cấp dưới nhờ thành quả kinh tế và tự hào dân tộc được vuốt ve. Không ai chối cãi tính chính đáng của chế độ độc đoán ấy, tuy rằng tham nhũng vẫn hoành hành, truyền thông bị bóp nghẹt, nhân quyền bị coi rẽ, toà án và luật lệ bất công. Khó mà nghĩ rằng đa nguyên trong lòng chế độ sẽ đưa đến dân chủ. Thực tế mà xét, cái tài thích nghi của chế độ chỉ đưa ta đến kết luận rằng: trước mắt, cái thứ độc đoán có lai chút ít giống dân chủ ấy, dù có lai thêm đi nữa, cũng là để củng cố độc đoán thôi, đừng hòng nói dân chủ hóa với phát triển chính trị. 

Tôi dông dài cho đến đây cũng chỉ để hỏi các anh chị một câu: Ví thử các anh chị sống trong chế độ ấy, tự hào với nó vì nó đưa đất nước lên địa vị thống soái thế giới, và ví thử các anh chị biết rằng đòi hỏi dân chủ chỉ đưa đến một chế độc tài được củng cố hơn, dễ chấp nhận hơn, mềm dịu hơn, các anh chị còn đòi hỏi dân chủ không hay bằng lòng như thế? Nói cho rõ hơn: phải chăng một chế độ độc đoán mềm dịu và hữu hiệu có thể thay thế đòi hỏi dân chủ hóa? Hay là cả hai là một, tương đương với nhau? Ngày trước, Voltaire ca tụng Cathérine II của nước Nga, nữ hoàng của một chế độ mà lịch sử học thuyết chính trị gọi là "chuyên chế sáng suốt" (despotisme éclairé). Các anh chị nghĩ sao nếu bước chân đòi hỏi dân chủ của các anh chị dẫn đến một chế độ mà tôi muốn bắt chước để gọi là "độc đoán sáng suốt"? 3 Nói vậy chứ tôi không bi quan. Bởi vì tôi biết rằng nước chúng ta là một nước trung bình, không lớn mênh mông như Trung Quốc, nên không có những vấn đề như Trung Quốc, không thể lấy mô hình chính trị của một nước cực lớn được. Từ trước đến nay, hễ nói đến chính thể độc đoán là ai nấy đều chỉ vào Singapore. Hễ hỏi có chính thể độc đoán nào thành công không, ai nấy cũng chỉ vào Singapore. Chỉ có nước ấy xứng đáng để gọi là thành công. Vậy, tôi đặt câu hỏi: họ có muốn dân chủ hóa không? Hay là bằng lòng thành công với độc tài sáng suốt? Tôi đặt câu hỏi tại một thời điểm thích hợp: trên sân khấu  chính trị của Singapore không còn ông Lý Quang Diệu. Các lý thuyết gia muốn nghiên cứu chuyển tiếp, không đâu bằng đến đây. Các lý thuyết gia chủ trương "chính thể lai giống", đến đây cũng tìm ra chất liệu. Độc đoán: mẫu mực không ai đúng hơn ông Lý Quang Diệu. Một mình ông làm thủ tướng từ 1959, trước khi nước ông độc lập, cho đến 1991 mới nhường ghế kế vị cho người được ông lựa chọn. Ghế ây lại trao cho con ông, năm 2004. Nhưng ông đâu có từ bỏ chính trường: chế độ gia trưởng mà ông mở đầu tiếp tục đi theo ông cho đến phút cuối. Cũng như ông, đảng PAP (People's Action Party) của ông nắm quyền một mình. Mãi đến 1981, đối lập mới chiếm được một ghế trong Quốc Hội. Một ghế! Vậy mà ông đã lo cảnh giác, siết chặt báo chí, kềm kẹp đối lập, ra luật cho phép bắt giữ không cần xét xử trong một thời gian vô hạn định. Dân biểu đối lập ChiaThye Poh nằm khám 32 năm mà chưa hề ra tòa. Năm 2010, trang nhất của báo chí quốc tế đồng loạt phản đối việc một nhà báo Anh bị bắt vì dám chỉ trích chính quyền. Trước đó, Singapore được sắp hạng 133 trên 175 nước vặt lông báo chí ưu tú nhất. Thế nhưng, trong bàn tay sắt của ông, không phải không có vài yếu tố dân chủ. 

Có đa nguyên chăng? Có chứ, vì có một đảng đối lập hoạt động công khai, hợp pháp, đảng Worker's Party. Đã đành, đảng ấy hiện hữu như một ngón tay thừa trong bàn tay năm ngón, nhưng trong suốt 56 năm cầm quyền, đảng PAP chịu tranh cử hẳn hoi và chưa bao giờ bắt chước trò hề suýt soát 100% như các đảng độc quyền trong các nước độc đoán khác. Tuyển cử cuối cùng, năm 2011, PAP chiếm tỷ lệ trên 66% số phiếu, con số cao nhất từ trước đến nay. Đồng thời, số ghế của đối lập trong Quốc Hội tăng lên thành 6. Một dấu hiệu dân chủ được hân hoan chào đón như một rạng đông của lịch sử mới. Một vinh dự cho cả đảng PAP vì tính chính đáng của chế độ càng được xác nhận thêm. Không quan sát viên nào không tán dương những thành quả xuất chúng của Singapore: tư pháp độc lập, luật pháp được tôn trọng từ trên chóp bu, bộ máy hành chánh trong sạch, công chức có trình độ học thức cao, giáo dục tiên tiến, an sinh xã hội được bảo đảm, y tế phát triển, và nhất là, nhất là, sao giỏi thế, tham những bị quét sạch. Một "chế độ lai" thành công đến mức ấy, tương lai sẽ cứ là "độc đoán sáng suốt" như vậy mãi hay là sẽ dân chủ hóa lần hồi để càng ngày càng dân chủ? Hỏi người dân: muốn củng cố cái gì, củng cố độc đoán hay củng cố từng bước đi của dân chủ, cam đoan chẳng mấy ai, kể cả ở bên Tàu, trả lời độc đoán. Bởi vì dân chủ là ước muốn tự nhiên của con người, nhất là sau khi cơm áo đã có. Ở tầng lớp dưới, người dân muốn dân chủ để thoát ra khỏi cường hào. Ở tầng lớp trên, phồn thịnh kinh tế đưa đến một xã hội trung lưu phức tạp, vừa trong cách sống, vừa trong cách suy nghĩ, và cách cai trị một xã hội đa dạng, đa diện, phức tạp, nếu muốn tiếp tục thành công, không thể là cách cai trị  một đàn cừu. Chính ông Lý Quang Diệu đã thấy điều đó. Chính ông nói: thế hệ trẻ không còn nhìn quan điểm của ông với cùng một trọng lượng và đồng tình như giới già đã nhất loạt quy tụ xung quanh ông trong giai đoạn khó khăn của thời độc lập.9 Giữa già với trẻ, giữa giới thủ cựu và giới tân tiến, quan điểm khác nhau, kể cả trên những vấn đề đạo đức. Đồng tính luyến ái, lưỡng tính, chuyển tính, dục tính, quan hệ nam nữ trước hôn nhân, vợ chồng không hôn thú, cái roi của đức Khổng mà ông Lý lăm lẵm trong tay để biến nước ông thành con rồng không làm giới trẻ cúi đầu nữa. Một xã hội phức tạp không cần cây roi để lãnh đạo bằng cái còi. Cái còi của người trọng tài. Các người kế vị ông Lý không học ở ông nghệ thuật cầm roi bằng nghệ thuật trọng tài. Trọng tài giữa nhiều quan điểm, nhiều xu hướng khác nhau tất nhiên phải có trong một xã hội phức tạp. Trọng tài để giải quyết những căng thẳng trong xã hội cũng là trọng tài cần thiết để giải quyết những căng thẳng trong chính trị chắc chắn phải xảy ra. Làm sao giải quyết trong ôn hòa? Làm sao tránh những vấp váp của thời chuyển tiếp mà các con rồng khác đã trải qua? Làm sao đừng thấy diễn ra cảnh hai ông cựu tổng thống Hàn Quốc, một ông vô tù, một ông tự tử? Làm sao để dân chúng khỏi xuống đường như ở cả ba con rồng kia? Trong quá khứ, dân trao trọn quyền cho ông Lý và khoanh tay chờ quyết định. Ngày ấy qua rồi, các trí thức Singapore quả quyết như vậy."Chúng ta không bao giờ trở lui về lại được nữa sự nhất trí cao độ mà chúng ta đã được hưởng hàng chục năm qua. Rạn nứt sẽ xảy ra".

 Xã hội mới, họ báo trước, chắc chắn sẽ đem lại nhiều phản đối. Làm thế nào để xuôi buồm giữa các chiều gió nghịch? Trí thức Singapore đặt vấn đề như vậy. Họ tự hỏi: làm sao thuận buồm xuôi gió để qua bờ bên kia, bờ dân chủ? Họ đâu có tự hỏi: làm sao củng cố cái thuyền cho chắc để ở lại yên ổn với bờ bên này, bờ độc đoán? Họ đâu có muốn lai mãi lai hoài một thứ chính thể dù thành công vượt mức? GDP đâu phải là mục đích thiên thu của con người? Mục đích thiên thu của con người là tự do. Singapore là bài học đáng để chúng ta suy ngẫm hơn cả. Bởi vì, cũng như ta, họ đang suy nghĩ về bước đi đầu tiên. Họ đã chờ cho đến khi Lý Quang Diệu mất để đặt vấn đề cái bước đầu tiên ấy. Họ có đủ điều kiện để bước: một xã hội tân tiến, một xã hội trọng luật, một xã hội có giáo dục cao, một xã hội lành mạnh, một xã hội phồn vinh. Vậy mà trí thức của họ rất khiêm tốn trong bước đi. E rằng ta cũng phải khiêm tốn như họ chăng?

Tôi chọn một người trí thức có uy tín ở Singapore và trên quốc tế để đọc: đó là Kishore Mahbubani mà tôi vừa trích câu nói ở trên.11 Đọc ông, rồi đọc những bài viết đăng trên báo chí sau khi Lý Quang Diệu mất, tôi thấy có hai chữ sáng lên như một cặp đèn pha trong sương mù: "normal" và "consensus". Bình thường và đồng thuận. Singapore sẽ, và sẽ phải là, một chính thể "bình thường". Một chính thể bình thường là một chính thể không cần đến anh hùng vĩ đại. Vĩ nhân chỉ xuất hiện trong những giai đoạn bất bình thường. Xong nhiệm vụ bất bình thường, vĩ nhân bay lên trời như Phù Đổng, để mặt đất lại cho anh, cho tôi, cho chúng ta, những người bình thường. Những người bình thường cần định chế vững chắc để sống chung với nhau trong hòa bình. Định chế ấy phải được xây dựng trên nền tảng dung hòa, bởi vì đa nguyên quyền lợi là tình trạng bình thường trong xã hội. Nói đến dung hòa là nói đến đồng thuận. Nếu không thì là cưỡng chế và cưỡng chế là bất bình thường. Đồng thuận là đồng thuận trong xã hội và đồng thuận giữa chính quyền và người dân. Nếu không thì là áp bức và áp bức là bất bình thường, chẳng ai ưa áp bức cả, ai cũng muốn thở không khí tự do, vì tự do là bình thường. Làm cách thế nào để "thoát Lee", thoát ly ra khỏi tình trạng bất bình thường của một bàn tay sắt, khi cái roi "nhất trí" không còn hợp thời nữa, khi chính tinh thần nhất trí phải nhường chỗ cho đồng thuận? Tôi lắng nghe ông Mahbubani nói, bởi vì chẳng lẽ chúng ta cũng cứ ở mãi trong tình trạng bất bình thường từ bốn chục năm qua? Cứ chiến tranh với nhau hoài? Cứ hận thù hoài? Cứ đánh gục mọi ý kiến khác, dù đầy thiện chí, như nả súng cối vào kẻ thù? Cứ đặt vòng kim cô trên đầu xã hội với mệnh lệnh và khẩu hiệu? Tôi lắng nghe ông Mahbubani nói để xem ông có giải quyết được giùm tôi cái vòng luẩn quẩn mà một tác giả danh tiếng của đại học Mỹ cứ làm tôi khổ sở hoài: "Chỉ một Nhà nước dân chủ mới tạo ra được một xã hội dân chủ, chỉ một xã hội dân chủ mới nâng lên được một Nhà nước dân chủ". 
 Làm sao đi bước đầu trong cái vòng luẩn quẩn ấy? Tôi cám ơn ông bạn trí thức lân bang của ta, ông nói: Chỉ có cách phát triển một văn hóa chính trị mới, một political culture, lấy dung hòa làm căn bản thay cho mệnh lệnh. Khiêm tốn thế thôi. Các anh chị thân mến, tôi chưa bao giờ mơ tưởng đa đảng như là bước đi đầu tiên. Cũng chưa bao giờ nghiêm túc sử dụng Hán văn "tam quyền phân lập". Tôi không dám mơ tưởng xa xôi khi vấn đề định nghĩa chính xác thế nào là "đảng lãnh đạo" chưa được chính thức đặt ra để cả nước cùng góp ý kiến trong bầu không khí tin tưởng, cỡi mở, tự do. Tôi chỉ có thể làm một người trí thức bình thường, khiêm tốn trong  mơ ước. 

Văn hóa là chuyện bình thường của chúng ta. Và văn hóa dung hòa là chuyện quá bình thường trong văn minh của Việt Nam. Nhưng làm thế nào để nói lên cái văn hóa ấy? Làm thế nào để tháo ra cái vòng luẩn quẩn, để mở đầu với cái chìa khóa xã hội dân chủ? Đố ai có thể tìm ra được một câu trả lời nào khác: không có quyền ngôn luận thì không có cả văn hóa, nói gì văn hóa chính trị. Đó là bước đầu, trước khi nói đến cái gì khác. Tôi đề nghị: Với quyền ngôn luận thẳng thắng, trong sáng, tự do, và với tinh thần trách nhiệm, hãy bước cái bước đầu sau 40 năm dằng dai, trên câu hỏi đầu tiên: thế nào là "đảng lãnh đạo"? Thế nào là "đảng lãnh đạo" trong tình trạng "suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng" hiện nay, kể cả tận "cấp cao"? 

 Đâu là biện chứng giữa lãnh đạo và đồng thuận trong bối cảnh không còn là bất bình thường nữa của chiến tranh? Thế thôi, khiêm tốn, bước đầu. Nhưng đó là bước đầu để đi đến dân chủ. Dù chỉ là giấc mơ, dân chủ vẫn là lý tưởng. Không ai mơ độc tài, dù là sáng suốt. 

Vĩ thanh: Khi tôi viết bài này xong thì được GS Trần Ngọc Vương gửi cho bài viết của anh về Tập Cận Bình, trong đó tôi vô cùng thích thú thấy anh cùng đưa ra luận điểm "độc tài sáng suốt". Xin đọc bài rất đặc sắc của GS Trần Ngọc Vương, "Thử giải mã Tập Cận Bình", Tạp chí Người Cao Tuổi, số Tết 2015. CHT © Thời Đại Mới 13Ngày nay, chữ "suy thoái" đã quá phổ thông trên mọi lĩnh vực, kể cả... kinh tế. Nhưng đặc biệt ở đây, trong bối cảnh của bài này, chữ ấy lại càng có ý nghĩa khi đi vào Nghị quyết 4 Trung ương: “một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên kể cả cấp cao, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng”.

Đơn kiến nghị của con trai ông Kim Quốc Hoa, TBT báo Người Cao Tuổi





Tác giả: Nguyễn Quốc Dũng


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập-Tự do-Hạnh phúc

—o0o—

ĐƠN KIẾN NGHỊ


Kính gửi: – Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng;

– Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam Trương Tấn Sang;

– Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng;

– Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng;

– Đại tướng Trần Đại Quang, Bộ trưởng Bộ Công an;

– Viện trưởng Viện Kiểm sát NDTC Nguyễn Hòa Bình




Ông Kim Quốc Hoa, TBT báo Người Cao Tuổi. Nguồn: báo TP

Tên tôi là: Nguyễn Quốc Dũng, sinh ngày 12 tháng 8 năm 1973.

CMND số: 001073000757, do Cục CSĐK cư trú và QLQG về dân cư cấp ngày 12/12/2013. Điện thoại: 0913383111.

Hiện tôi trú tại: A 1504 Tòa nhà Sky City, 88 Láng Hạ, quận Đống Đa, TP Hà Nội;

Tôi là con trai nhà báo Kim Quốc Hoa (tức Nguyễn Quốc Hoa), cựu Tổng Biên tập Báo Người cao tuổi, TW Hội Người cao tuổi Việt Nam.

Bản thân tôi cũng là nhà báo, đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, nên hơn ai hết, tôi hiểu rõ nội dung vụ việc.

Kính thưa ông!



Sau khi Bộ Thông tin-Truyền thông (Bộ TTTT) thanh tra đột xuất Báo Người cao tuổi, rồi chuyển hồ sơ đề nghị khởi tố hình sự xảy ra tại Báo Người cao tuổi, khởi tố bị can bố tôi và suốt quá trình điều tra, dưới sự chỉ đạo của Bộ TTTT cấm các báo đưa tin, bình luận vụ việc (tại buổi giao ban báo chí ngày 10/2/2015) nhưng Đài Truyền hình Việt Nam, một số báo Bộ TTTT độc quyền đăng tin, bình luận một chiều, phê phán gay gắt, khiến nhiều độc giả hiểu chưa đúng bản chất sự thật. Trong khi, Tổ chức Bảo vệ nhà báo quốc tế, báo chí nước ngoài và các trang mạng đăng tải nhiều nội dung sát với thực tế, có những bình luận đúng bản chất vụ việc, bày tỏ sự ủng hộ Báo Người cao tuổi và bố tôi.

Suốt 8 năm làm TBT Báo Người cao tuổi (3/2007 – 3/2015), mặc dù tuổi đã cao nhưng đầy tâm huyết với nghề báo, với Người cao tuổi nên bố tôi không tiếc công, tiếc sức đưa báo Người cao tuổi từ bờ vực phá sản, có nguy cơ giải thể, một tuần 1 số lên một tuần 4 số, không thương mại hóa, được người cao tuổi cả nước đón nhận, bạn đọc tin tưởng, sản lượng phát hành tăng 12 lần so với trước. Không chỉ khi làm TBT Báo Người cao tuổi bố tôi mới dám đấu tranh, mà trong suốt quá trình làm báo, là người lãnh đạo 6 cơ quan báo chí bố tôi luôn giữ vững lập trường, quan điểm, vì trong sạch bộ máy, vì sự vững mạnh của Đảng nên không ngừng đấu tranh với cái ác, cái xấu và những biểu hiện tiêu cực của đời sống xã hội. Nhất là, từ khi có Nghị quyết Trung ương VI (lần 2) khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) bố tôi hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, Nhà nước với tinh thần cương trực, thẳng thắn của người “lính cầm bút” luôn tiên phong trong, hăng hái trong lĩnh vực đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, quan liêu.

Cùng thời điểm Báo Người cao tuổi đăng những bài bị cho là có sai phạm, thì nhiều tờ báo, tạp chí khác ở Trung ương cũng có nhiều bài cùng nội dung, lời lẽ mạnh mẽ không kém Báo Người cao tuổi, hoặc cùng đăng vụ việc nhưng hầu hết không thấy báo nào bị xử lý. Trong 8 năm qua, mọi cá nhân, tổ chức gửi đơn, thư khiếu nại, khiếu kiện, đều được Báo Người cao giải quyết minh bạch, đúng pháp luật. Vậy mà khi kết luận thanh tra, Bộ TTTT không hề đề cập, đánh giá trong khi báo phanh phui mấy nghìn vụ việc với hàng chục nghìn bài phóng sự, điều tra, bình luận, phát hiện và phản ảnh hàng loạt vụ thành công, mang lại niềm tin cho Nhân dân và đem về cho Nhà nước nhiều lợi ích, được dư luận xã hội hoan nghênh. Điển hình như một số vụ: Chỉ ra sai phạm của ông Nguyễn Trường Tô, Chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang; vụ việc ở Công ty xây dựng Bến Tre; Một số vụ thu hồi đất trái pháp luật ở Bà Rịa – Vũng Tàu và nhiều tỉnh, thành; vụ bà Đặng Thị Hoàng Yến, Đại biểu Quốc hội (Khóa VIII); vụ Giám đốc Công an tỉnh Thái Bình Trần Văn Vệ; vụ sai phạm trong đào tạo và thu chi của trường Đại học Kinh tế Quốc dân và một số trường ĐH khác; vụ việc liên quan ông Trần Văn Truyền, cựu Tổng Thanh tra Chính phủ; ông Ngô Văn Khánh, Phó Tổng TTCP; vụ tuyển lẻ Nguyễn Quốc Đức không đủ tiêu chuẩn chính trị vào bộ đội Hải quân ra đảo Trường Sa bằng cách làm giả hồ sơ cán bộ,…

Trong 8 năm bố tôi làm Tổng Biên tập, Báo Người cao tuổi và bố tôi được Chủ tịch nước thưởng Huân chương Lao động, Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen , được Hội NCT Việt Nam, Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ TTTT, Hội Nhà báo Việt Nam, UBND thành phố Hà Nội, TW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam… tặng rất nhiều Bằng khen, cờ thi đua xuất sắc mà không có nhắc nhở, hay chỉ ra sai lầm, khuyết điểm. Vậy mà sau gần 3 tháng thanh tra, Bộ TTTT “vạch ra” hàng loạt sai sót, rồi đề nghị khởi tố vụ án hình sự xảy ra tại Báo Người cao tuổi (ngày 9/2/2015) và khởi tố bị can bố tôi (ký ngày 9/5) về tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”, xử phạt báo gần 700 triệu đồng, thu hồi tên miền trang tin điện tử Người cao tuổi như đòn trừng phạt, sự trả thù. Trong khi Việt Nam có Luật Báo chí; Đảng, Nhà nước luôn kêu gọi báo chí tích cực tham gia chống tham nhũng, cần bảo vệ người chống tham nhũng, cơ quan quản lý báo chí hô hào mở rộng tự do cho báo chí chống tham nhũng nhưng khi cơ quan báo chí có sai sót lại không được bảo vệ, thậm chí còn “vùi dập”, tạo điều kiện cho một số người bị báo phanh phui, phản ánh sai phạm tố cáo quá thời hiệu, dẫn tới cơ quan ANĐT thiếu khách quan trong quá trình xác minh.

Nếu Báo Người cao tuổi và bố tôi sai phạm như kết luận Thanh tra cũng mặc nhiên thừa nhận Bộ TTTT vi phạm khoản 10 Điều 17 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí (Nội dung quản lý nhà nước về báo chí) quy định: “Hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chế độ, chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí và việc chấp hành pháp luật về báo chí, thi hành các biện pháp ngăn chặ hoạt động báo chí trái pháp luật; giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm trong hoạt động báo chí”.

Bằng cách làm cắt xén, trích đoạn nội dung các bài viết, thanh tra Bộ TTTT suy luận theo cảm tính chủ quan, áp đặt, không cho Báo Người cao tuổi và bố tôi cơ hội giải trình theo quy định của Luật Thanh tra, vội vàng ký Kết luận số 01/KL-BTTTT ngày 5/2/2015, chuyển hồ sơ cho cơ quan ANĐT đề nghị khởi tố Báo Người cao tuổi cùng ngày công bố kết luận thanh tra.

Khi nhận được hồ sơ do Bộ TTTT chuyển sang, thay vì thận trọng xem xét, sau 4 ngày Cơ quan An ninh điều tra ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự (số 04/ANĐT-P3) “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” xảy ra tại Báo Người cao tuổi. Ngày 11/5/2015 Cơ quan ANĐT, Bộ Công an ra Quyết định khởi tố bị can (số 20/ANĐT-P3) đối với bố tôi cũng với tội danh trên.

Ngày 9/10/2015, vẫn với lối cắt xén nội dung các bài báo chứ không hề chỉ ra được sai phạm nào cụ thể, không chứng minh được mức độ (định lượng) mức độ ảnh hưởng đến ai, uy tín, danh dự, vật chất của tập thể, cá nhân nào, ai là đại diện cho Nhà nước bị bố tôi xâm phạm lợi ích, mà chỉ căn cứ vào Bản kết luận giám định (ngày 18/9/2015) của Bộ TTTT về các bài báo theo Quyết định số 91/ANĐT-P5 (ngày 3/8/2015) trưng cầu Bộ TTTT giám định nội dung 25 bài viết đăng trên Báo Người cao tuổi (việc này khác nào Bộ TTTT vừa đá bóng vừa thổi còi), Phó thủ trưởng Cơ quan ANĐT, Bộ Công an ký Kết luận điều tra số 25/KLĐT, nêu căn cứ vào Điều 162, Điều 163 Bộ luật Hình sự nước CHXHCN Việt Nam, Quyết định chuyển Bản kết luận điều tra cùng toàn bộ hồ sơ vụ án đến Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (Vụ 1), đề nghị truy tố bố tôi về tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”. Điều đáng lưu ý, Cơ quan ANĐT lại căn cứ vào Điều 162 (Tội lừa dối khách hàng), Điều 163 (Tội cho vay lãi nặng) của Bộ luật Hình sự. Điều này không chỉ cho thấy sự cẩu thả, vội vã mà còn thể hiện sự coi thường pháp luật của Cơ quan ANĐT.

Mặt khác, trong số 23 bài báo mà Cơ quan ANĐT cho rằng có “sai phạm” có tới 12 bài liên quan đến ngành Công an, 4 bài liên quan đến ngành Thanh tra, thử hỏi kết luận điều tra và đề nghị xử lý Báo Người cao tuổi truy tố bố tôi liệu có khách quan, vô tư hay không?

Báo NCT là một tờ báo của Nhà nước chứ không phải là báo tư nhân. Tờ báo là sản phẩm của tập thể, do cá nhân phụ trách. Việc viết, biên tập bài, duyệt đăng của người đứng đầu cơ quan báo chí thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao chứ không phải là sự bộc phát, mang tính cá nhân. Do đó, cơ quan quản lí Nhà nước cần phải căn cứ quy định của pháp luật, trân trọng công lao để xử lí sai sót (nếu có) cho thấu tình, đạt lí và công bằng. Chính vì lối hành xử không công bằng, “sát phạt” báo Người cao tuổi khiến các trang mạng quốc tế có nhiều bài bình luận cho rằng có sự phe cánh, Báo Người cao tuổi và bố tôi là nạn nhân, có trang mạng so sánh bố tôi với những người viết Blog bị bắt vì vi phạm Điều 258 Bộ luật Hình sự mấy năm qua…

Trong việc quy chụp Báo Người cao tuổi, Bộ TTTT không chỉ quên vai trò, trách nhiệm của cơ quan quản lý về báo chí, mà còn qua mặt cả Tòa án, vượt Hiến pháp, tự cho mình kiêm nhiệm vai trò của cơ quan tư pháp. Bởi, nếu có tổ chức, cá nhân nào đó bị ảnh hưởng quyền lợi, xúc phạm danh dự, uy tín thì họ có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện báo Người cao tuổi, việc đúng sai được tòa án phán xét chứ không phải Bộ TTTT. Hơn nữa, trong quá trình Bộ TTTT thanh tra Báo Người cao tuổi cũng như Cơ quan ANĐT khởi tố, điều tra, đều không áp dụng một trong những nguyên tắc được nêu trong Hiến pháp 2013 nhằm thể chế trong Bộ luật Tố tụng Hình sự, đó là nguyên tắc suy đoán vô tội, mà còn vận dụng sự suy đoán có tội. Điều đó đi ngược với Hiến pháp 2013 và trái với nguyên tắc cơ bản, được ứng dụng trong nền khoa học pháp lý hiện đại. Nguyên tắc này đã được công nhận trong Tuyên ngôn Nhân quyền năm 1948, Công ước quốc tế về Quyền chính trị, dân sự năm 1966 của Liên Hiệp Quốc. Nguyên tắc suy đoán vô tội được Việt Nam cam kết thực hiện thông qua sự kiện Việt Nam gia nhập Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ngày 24/9/1982. Những năm qua, nguyên tắc suy đoán vô tội không chỉ được đề cập rất nhiều trong những hội nghị khoa học và các hội nghị về tư pháp mà còn trở thành một yêu cầu bức thiết trong hoạt động xây dựng pháp luật cũng như trong hoạt động thực tiễn.

Hiện nay, Quốc hội đang bàn sửa đổi Bộ luật Hình sự. Nếu giữ nguyên nội dung Điều 258 Bộ luật Hình sự và cách xử lí nặng tính quy chụp, suy diễn như thế thì bất cứ ai đều có nguy cơ vi phạm. Trong phiên thảo luận thứ 41 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, cho ý kiến sửa đổi Bộ luật Hình sự (ngày 14/9/2015), Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, nhận định Bộ luật này rất quan trọng, do đó phải quy định chi tiết. Chủ tịch Quốc hội yêu cầu: “Tất cả các tội phải quy định vào trong này, những gì chưa quy định được về hành vi thế này thế khác, khung hình phạt phải làm rõ. Thế nào là cố ý làm trái gây hậu quả nghiêm trọng, thế nào là thiếu trách nhiệm… lâu nay các đồng chí vẫn xử án, phải tổng kết đưa vào đây. Các đồng chí không được để cơ quan xử án hoặc cơ quan kiểm tra tự ý cụ thể hóa bằng quan điểm cá nhân để buộc người ta vào tội cố ý, buộc người ta thiếu trách nhiệm”. Chủ tịch Quốc hội nêu thí dụ về tội “tuyên truyền chống phá nhà nước” và yêu cầu phải nói rõ các hành vi thế nào là chống phá nhà nước. “Tôi nói thật là ta phát biểu nhiều khi cũng vi phạm, bắt cũng được đấy. Nói như vậy để thấy là không thể để một cái tội chống nhà nước quy định chung chung như vậy, muốn bắt ai thì bắt, đâu có được”.

Kính thưa ông (bà), 8 năm làm TBT Báo Người cao tuổi, bố tôi có những đóng góp lớn đối với tờ báo, Hội Người cao tuổi qua các chương trình đền ơn đáp nghĩa, xã hội từ thiện như 2 Chủ tịch Hội Người cao tuổi Việt Nam (Nguyễn Tấn Trịnh, Cù Thị Hậu) đánh giá, mà hơn 50 năm cống hiến cho sự nghiệp cách mạng, 46 năm tuổi đảng, 25 năm trong quân đội, từng đứng đầu nhiều cơ quan báo chí, bố tôi không hề tính đếm những cống hiến hay vụ lợi cho gia đình, luôn vô tư, trong sáng. Hơn nữa, gia đình tôi là gia đình có công với nước, gia đình liệt sĩ, bố mẹ, vợ chồng tôi, em trai, em dâu tôi đều là đảng viên, thì lý gì bố tôi có đốt sạch những đóng góp, “xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”?

Trong 8 năm làm TBT Báo Người cao tuổi, đặc biệt sau khi bị khởi tố vụ án, khởi tố bị can, bố tôi và gia đình luôn nhận được sự quan tâm, sẵn lòng giúp đỡ của nhiều luật sư, sự cổ vũ, động viên của nhiều vị cán bộ lão thành, nhiều cựu chiến binh, người cao tuổi và đông đảo bạn đọc cả nước, kiến nghị bày tỏ niềm tin vào công lý và sự sáng suốt của các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các cơ quan chức năng.

Vì vậy, tôi làm đơn này đề nghị ông (bà) xem xét, chỉ đạo vụ việc, giải quyết khách quan trên cơ sở thực tế, không để oan sai cho Báo Người cao tuổi và bố tôi.

Tôi trân trọng cảm ơn!



Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2015

Nơi nhận:

– Như kính gửi NGƯỜI LÀM ĐƠN

-Thủ trưởng CQ ANĐT

-Vụ I Viện KSNDTC

-VP Luật sư Bách sự thuận; Nguyễn Quốc Dũng

-VP luật sư Hoàng và cộng sự;

-VP luật sư Trung Hòa.

————

Nguồn: TTXVH

Kết luận điều tra đề nghị truy tố ông Kim Quốc Hoa, điều 258


1
H2_____


Bình Luận Án

Băn khoăn việc Tổng biên tập báo Người Cao tuổi về truy cứu hình sự do hành vi “duyệt cho đăng” bài báo
LS Trần Hồng Phong

Báo chí hôm nay 1-11-2015 đưa tin Cơ quan an ninh điều tra Bộ Công an vừa có Kết luận điều tra, đề nghị truy tố ông Kim Quốc Hoa – nguyên Tổng biên tập báo Người Cao Tuổi về tội “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” theo điều 258 Bộ luật hình sự. Có lẽ đây là lần đầu tiên tổng biên tập một tờ báo – được pháp luật quy định là “cơ quan ngôn luận” bị truy tố về một tội danh liên quan đến quyền ngôn luận!

Theo báo Tuổi Trẻ, Cơ quan an ninh điều tra nhận định vụ sai phạm của ông Kim Quốc Hoa “là nghiêm trọng, liên quan đến lĩnh vực hoạt động báo chí”. Với vai trò là tổng biên tập, ông Kim Quốc Hoa bị cáo buộc đã “duyệt cho đăng 23 bài báo có những tiêu đề và nội dung sai sự thật, không có căn cứ, suy diễn chủ quan, đưa thông tin phiến diện, một chiều”.

(Bài gốc trên báo Tuổi Trẻ: Đề nghị truy tố nguyên tổng biên tập báo Người Cao Tuổi)



Trong đó, ông Hoa trực tiếp viết và duyệt đăng bài “Sự thật về “công tử” Hà thành ra Trường Sa” có nội dung sai sự thật như: “có tin cho rằng những năm gần đây, ở quần đảo Trường Sa vẫn tồn tại hiện tượng một số quân nhân nghiện ma túy nhưng vì gia đình có quan hệ nên vẫn được ra Trường Sa, lợi dụng danh nghĩa công tác để cai nghiện, rèn luyện”.

Ông Hoa cũng bị cáo buộc đưa thêm vào bài báo “Bàn về thị trường sao và vạch” nội dung sai sự thật như “trưởng công an các phường ở TP lớn hầu hết là đại tá…”.

Theo kết luận điều tra, còn có 11 cá nhân liên quan trong vụ án khi tham gia viết, biên tập các bài báo “có nội dung sai phạm” nhưng Cơ quan an ninh điều tra thấy chưa cần thiết phải xem xét xử lý hình sự.

___

Bình luận của luật sư Trần Hồng Phong:

Qua thông tin, thì thấy ông Kim Quốc Hoa bị cáo buộc đã “duyệt cho đăng 23 bài báo có những tiêu đề và nội dung sai sự thật, không có căn cứ, suy diễn chủ quan, đưa thông tin phiến diện, một chiều”. Như vậy, nói tóm gọn là ông Hoa đã bị đề nghị truy tố, kết tội từ chính hành vi trong hoạt động nghề nghiệp – hợp pháp – của mình. Vì rõ ràng với vai trò là Tổng biên tập một tờ báo, ông Hoa không những có trách nhiệm mà còn có quyền duyệt đăng các bài báo lên tờ Người Cao Tuổi. Đó là công việc tất yếu, hàng ngày của ông Hoa Và ông Hoa được nhận tiền lương về công việc này.

Thông thường, một bài báo được viết bởi phóng viên và trước khi đăng sẽ phải qua nhiều khâu như thẩm tra, biên tập và cuối cùng là Tổng biên tập duyệt đăng. Một bài đăng trên báo là sản phẩm của tập thể, nhân danh tên tờ báo đó.

Lẽ tất nhiên, không ai có thể chắc chắc được là những thông tin đăng trên báo là luôn luôn chính xác 100%.

Lẽ tất nhiên, một bài báo được đăng, là theo chủ ý hay kế hoạch định trước của con người.

Lẽ tất nhiên, trong bài báo sẽ luôn chứa đựng quan điểm, nhận định, kiến thức của phóng viên, biên tập viên và không loại trừ là cả quan điểm và sự dũng cảm của Tổng biên tập. Mà thậm chí không loại trừ cả những ý định “xấu xa” phía sau bài báo.

Với những đặc điểm đó, tất yếu là một bài báo luôn tiềm ẩn khả năng sẽ có thể phát sinh sự đụng chạm, không hài lòng hay thậm chí có thể xúc phạm, bôi xấu cá nhân hay tổ chức nào đó.

Thế nên, pháp luật đã quy định rất rõ (trong Luật báo chí, Bộ luật dân sự …vv) là nếu báo chí đăng tin bài không đúng sự thật, có nội dung xúc phạm danh dự, uy tín của cá nhân, tổ chức … thì báo phải đăng lời cải chính, xin lỗi.

Bản thân “nạn nhân” (người, tổ chức bị báo nói xấu, xúc phạm …) có quyền khởi kiện, yêu cầu báo đính chính, xin lỗi và bồi thường thiệt hại – cả về vật chất lẫn tinh thần.

Việc khi báo sai, đương sự kiện báo là điều rất bình thường, pháp luật quy định hướng giải quyết rõ ràng.

Ở nước ngoài cũng vậy. Hẳn mọi người không quên việc ông Nicolas Sarkozy, khi đang là tổng thống Pháp, đã nhiều lần kiện báo chí, vì cho rằng báo viết sai, xúc phạm uy tín của mình.

Chính bản thân tôi, qua thực tiễn hoạt động nghề nghiệp luật sư của mình, đã từng trực tiếp trải qua nhiều lần, nhiều vai (tức là có khi làm luật sư cho bên đi kiện báo, có khi làm luật sư cho báo bị kiện). Tôi xin kể ra một vài vụ việc để mọi người dễ hình dung.

– Tôi đã tham gia một vụ kiện báo Lao Động, do đăng một bài báo nói xấu một doanh nhân. Tòa án Quận 1 (TP. HCM) đã tuyên buộc báo Lao Động phải cải chính, xin lỗi.

– Tôi đã tham gia là luật sư cho báo Pháp luật TP.HCM, bị một Hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực vận chuyển rác kiện vì cho rằng đăng bài không đúng, xúc phạm. Tòa án quận 10 đã tuyên báo phải đính chính, hai bên đạt thỏa thuận dân sự.

– Tôi đã tham gia là luật sư kiện báo Người Lao Động trong một vụ kiện do báo này đăng hình một doanh nhân chụp chung với Giáo Hoàng với lời bình xấu. Tòa thánh Vatican đã yêu cầu doanh nhân phải làm rõ, vì Giáo Hoàng không liên quan. Tòa án Quận 3 TP. HCM đã tuyên báo Người Lao Động phải đính chính, xin lỗi.

– Tôi đã tham gia với tư cách là luật sư trong vụ một nhạc sỹ kiện báo Thanh Niên, vì báo đăng bài có hàm ý nói xấu, xúc phạm nhạc sỹ. Tòa án quận 1 TP. HCM đã tuyên báo Thanh Niên phải đính chính, xin lỗi.

– Và nhiều vụ khác nữa (hàng chục vụ) – mà tôi trực tiếp tham gia.

Từ trước tới nay, trong hoạt động báo chí, nếu báo đăng bài sai, có nội dung nói xấu, xúc phạm … thì phải xử lý và cách xử lý là như trên. Hầu như chưa từng có phóng viên hay tờ báo nào bị khởi tố hình sự do bài viết đăng trên báo của mình. Lưu ý là điều này phân biệt với việc phóng viên nhận tiền hối lộ, cố ý viết bài có nội dung theo ý mình – thì bị xử lý về tội nhận hối lộ.

Tôi đã có lần viết đơn đề nghị khởi tố một phóng viên về hành vi vu khống – qua việc viết một bài viết đăng trên báo. Nhưng Tòa án đã trả đơn, nói rằng đây là hoạt động báo chí, chứ không phải là chuyện cá nhân – cá nhân, chuyện hình sự, nên không thể khởi tố hình sự. Và tôi cũng đồng ý như vậy. (Việc viết đơn thực ra chỉ là “động tác”, nhằm thúc đẩy quá trình giải quyết vụ án).

Chính vì vậy, việc một Tổng biên tập bị khởi tố vì hoạt động và nghiệp vụ báo chí của mình, quả là điều rất hiếm. Thậm chí hình như chưa từng có tiền lệ.

Tôi sẽ không bất ngờ nếu ông Kim Quốc Hoa bị truy tố về các tội “bên ngoài hoạt động báo chí” như (giả sử thôi): nhận hối lộ, thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, cố ý làm trái…vv.

Việc Tổng biên tập một tờ báo, mà bị truy tố về hành vi “duyệt đăng các bài báo” – là công việc thuộc quyền hạn của mình – làm tôi cảm thấy thực sự đáng lo ngại. Phải chăng người ta đã hình sự hóa một vấn đề mang tính dân sự, nghiệp vụ?

Tôi tự hỏi tại sao trong vụ việc này, các “nạn nhân” hay “người bị hại” – của 23 bài báo đó – nếu có – không khởi kiện, yêu cầu báo Người Cao Tuổi đính chính, xin lỗi và thậm chí bồi thường thiệt hại? Nếu có kiện hay khiếu nại, thì tại sao không thấy kết quả giải quyết – về mặt hành chính, dân sự?

Thiết nghĩ, trong công việc, nghề nghiệp của mình – nhất là khi đó lại là hoạt động nghề nghiệp hợp pháp – mỗi người đều có quyền nêu quan điểm, chính kiến của mình. Quan điểm, chính kiến ấy có thể là không trùng khớp, có độ lệch, hay thậm chí trái ngược với quan điểm của Nhà nước, thì thiết nghĩ đó cũng là điều hết sức bình thường, pháp luật cho phép và bảo hộ. (Đó là quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí – quy định trong Hiến Pháp).

Chẳng hạn như ngay chính trường hợp ông Kim Quốc Hoa, giả sử tại phiên tòa xét xử, luật sư bào chữa cho ông Hoa có thể nói rằng hành vi của ông Hoa là “không phạm tội”. Quan điểm này rõ ràng trái ngược, chống lại quan điểm của Viện kiểm sát. Chẳng lẽ như vậy lại kết tội luật sư là đã “lợi dung quyền tự do dân chủ”? Thế thì nghề luật sư có còn cần thiết hay không? Có ý nghĩa gì không? Và liệu có ai dám làm nghề luật sư?

Cũng qua vụ này, thấy nghề báo có vẻ nhiều rủi ro quá. Nhất là khi viết hay đăng những bài có nội dung “tế nhị”, “nhạy cảm”!

———

Nguồn: TTXVH

CHA ĐỪNG KHÓC NGÀY CON LẤY CHỒNG


Nồng Nàn Phố
 


Tặng rồi sẽ đến một ngày những con chim non phải rời xa tổ


Ngày con lấy chồng cha có buồn không
Con chẳng biết đâu... nhiều khi đàn ông giỏi giấu che cảm xúc
Mẹ sẽ ôm và khóc rất nhiều... điều đó chắc không hề lạ
Cha sẽ cố gắng cười để biết con vui


Nhưng phải làm sao nếu cha cũng sụt sùi
Nghiêng mái đầu hoa râm chấm những giọt nước mắt lâu lắm rồi không chảy
Cha nâng ly rượu vợ chồng con dâng mà đắng lòng như thấy
Cả đất trời chao nghiêng

Cha ơi! Ngày con lấy chồng cha thật bảnh bao còn mẹ dịu hiền
Con chim nhỏ bắt đầu bay về chân trời mới
Chiếc tổ con xây sẽ bình yên hay buồn vời vợi
Khoảng không trên đầu nắng gió hay bão giông?
Con lấy chồng nghĩa là con tự gánh đời mình trên đôi cánh mỏng
Đôi cánh mẹ cha ban có đủ rộng
Cho con chạm nắng yên bình?

Ngày con lấy chồng cha lặng lẽ đứng một mình
Góc cha thường ngồi ngắm con chơi đồ hàng, học bài, và lắng nghe tuổi dậy thì con trỗi dậy
Góc cha đánh đòn khi con hư, khi con hờn, con lẫy
Cha đứng một mình và thấy trống cả không gian

Con về nhà chồng hứa sẽ hiền ngoan
Không cãi nửa lời... sẽ cắn răng ráng vượt qua đa đoan và nghiệt ngã
Sẽ ráng đon đả ngay cả những lúc chân con không đứng vững để trụ nổi đời mình

Chắc ngày đó cha sợ con không thấy bình minh
Nhà chồng con không đủ bao dung để cho con hạnh phúc
Chồng con vì một lẽ nào đó không
còn thương yêu... và không còn đủ đức
Ôm con vào lòng che chở và vượt qua
Những cạm bẫy giữa cuộc đời làm con gái cha phải khóc

Xin cha đừng lo cho con bé ngốc
Cha cứ mỉm cười vì con gái đủ đức để tin
Để nuôi lớn và giữ gìn
Mái ấm của chúng con bồi đắp
Cha đừng vì lo cho con khổ mà khóc
Nhưng nếu vì yêu con thì cha hãy khóc thật nhiều
Cha kính yêu ạ!

Ngày con lấy chồng nhìn cha gầy đi nhiều quá
Phải không?

Hoạt động xã hội (activism) là gì?




Tôn Thượng



« Vật thể chết có thể tự buông xuôi theo dòng, nhưng chỉ vật thể đang sống mới có thể lội ngược dòng chảy » – G.K Chesterton.

Hoạt động xã hội (activism) là gì?

Hoạt động xã hội đơn giản là việc hành động và tạo ra những thay đổi xã hội; điều này có thể xảy ra bằng hàng tỉ cách khác nhau dưới vô số hình thức khác nhau. Thông thường, hoạt động xã hội liên quan tới việc “thay đổi thế giới” thường thông qua việc thay đổi xã hội, chính trị, kinh tế và môi trường. Điều này có thể được thực thi bởi các cá nhân nhưng thông thường là bởi một tập thể đông đúc dưới hình thức các phong trào xã hội.



Nhà hoạt động xã hội (activist) hay hoạt động xã hội?

Bạn tới từ đâu không quan trọng; bạn sống ở đâu cũng chẳng quan trọng: điều quan trọng là bạn làm gì.
Nhiều người có thể được xem như là các nhà hoạt động xã hội và nhiều hành động có thể được xếp vào hoạt động xã hội, nhưng không có nghĩa tất cả các hoạt động xã hội đều được thực thi bởi các nhà hoạt động xã hội. Thuật ngữ nhà hoạt động xã hội (activist) gây khá nhiều tranh cãi vì những nhân tố nào cấu thành nên một nhà hoạt động xã hội và những hành động nào thì được xem là hoạt động xã hội thì vẫn còn đang được tranh luận. Chúng tôi, « Permanent Culture Now » do đó xin phép không sử dụng thuật ngữ « nhà hoạt động xã hội » với nghĩa quen thuộc vì nó dễ gây chia rẽ giữa những người tự xem mình là các nhà hoạt động xã hội với những người đang thực hiện các hoạt động xã hội. Chúng tôi cảm thấy rằng, điều quan trọng hơn là hãy chú ý vào các hành động đang được thực hiện thay vì nhìn nhận ai đang tự xem mình là gì. Chúng tôi không nhất thiết phải đồng ý hoàn toàn với Saul Alinsky về quyền này nhưng chúng tôi nghĩ rằng ông ta hoàn toàn có cái lý của riêng mình. Đúng vậy, như Andrew X đã tuyên bố trong bài báo Give up Activism do chính tay ông viết :

“Nhà hoạt động xã hội là một chuyên viên hay một chuyên gia trong lĩnh vực thay đổi xã hội. Tự xem mình là một nhà hoạt động xã hội có nghĩa là bạn đã tự xem mình có đặc quyền hoặc tiến bộ nào đó hơn những người khác về nhạy cảm cần thiết thay đổi xã hội, hay làm thế nào để có thể đạt được mục đích đó và lãnh đạo, đi đầu trong cuộc đấu tranh nhằm thay đổi xã hội đó thành công… Định nghĩa bản thân mình là nhà hoạt động xã hội có nghĩa là bạn đã tự định nghĩa hành động của mình sẽ mang tới thay đổi xã hội, do đó bạn đã tự khước từ ý nghĩa hoạt động của hàng triệu người không tự xem mình là hoạt động xã hội. Hoạt động xã hội dựa vào chính định nghĩa sai lầm rằng chỉ có các nhà hoạt động xã hội mới mang tới những thay đổi xã hội.



Tỉnh táo để nhận biết được cái bẫy tự định nghĩa sai lầm trên là điều vô cùng quan trọng, vì cái bẫy này có thể dẫn tới ảo giác rằng mình là người duy nhất mang tới thay đổi xã hội, nó còn khiến bạn tự tách mình ra khỏi cộng đồng đông đảo hơn, trong khi trong chính cộng đồng ấy, có khi sẽ có rất nhiều người có thể hỗ trợ bạn.

Cần nhấn mạnh lại lần nữa đó là bạn tới từ đâu không quan trọng; bạn sống ở đâu cũng chẳng quan trọng: điều quan trọng là bạn làm gì.

Permanent Culture Now cho rằng, tuy cần lựa chọn một lý tưởng hay xu hướng nào đó trên toàn bộ bối cảnh chính trị, bạn nên thật cẩn thận, vì khi gắn chặt bản thân mình vào một nền tảng cơ sở lý luận, cái nhìn của bạn về thế giới sẽ cực kỳ thiên lệch. Đúng vậy, các cuộc tranh cãi về lý tưởng này nọ, chủ nghĩa này kia có thể ngăn cản những thay đổi xã hội tích cực. Hiển nhiên, để tạo ra nền tảng cho các hoạt động chung, có nên xem xét điểm chung của chúng ta thay vì tập trung vào các điểm khác biệt? Chìa khóa ở đây chính là thực tiễn: bạn cần phải tự hỏi điều gì quan trọng hơn: tranh cãi xem định nghĩa này là gì và ông triết gia này nói điều này nghĩa là gì hay là việc người ngồi bên cạnh bạn có sẵn lòng và sẵn sàng tham gia vào các hành động thay đổi xã hội tích cực hay không ?

Những loại hình hoạt động xã hội khác nhau

Hoạt động xã hội có ba loại hình riêng biệt nhưng rất các khía cạnh của 3 loại hình này thường xuyên bị chồng chéo lên nhau.
Yêu cầu giải pháp cho các vấn đề hiện hành thông qua từ việc có lập trường chống đối cho tới thay đổi chính sách pháp luật: Đây là loại hình hoạt động xã hội có tính chiến dịch, bao gồm biểu tình, đình công… Điểm mấu chốt của loại hình này là nó được thúc đẩy bởi nhu cầu với mục tiêu thay đổi chính sách, thực thi hay các hoạt động. Thông thường các hoạt động xã hội này chỉ diễn ra trong ngắn hạn, nhưng cũng có thể có những chiến dịch dài hạn và bền bỉ.
Hoạt động xã hội bằng cách tạo ra những phương án thay thế cho hệ thống thống trị hiện hành thông qua việc xây dựng những cách thức hành vi xã hội mới. Chìa khóa của loại hình hoạt động xã hội này là việc tạo ra những cấu trúc mới có tính thay thế trong lòng xã hội, thường với hy vọng rằng chúng sẽ đóng vai trò như những khuôn mẫu để người khác có thể làm theo và phát triển. Thông thường, chúng liên quan tới cách sống và giải quyết được nhu cầu của con người về nhà ở, thức ăn và giáo dục. Ví dụ cho kiểu hoạt động xã hội này đó là các hợp tác xã nhà cửa và thực phẩm, các trung tâm xã hội, công đoàn… Loại hình hoạt động này thường do một nhóm đông người thực thi trong một khoảng thời gian dài, tuy không phải lúc nào cũng vậy.
Hoạt động xã hội có tính cách mạng với việc nhắm tới sự thay đổi cả về nền tảng xã hội và cả các tổ chức trọng yếu của nó: Loại hoạt động xã hội này tìm kiếm cách thức thay đổi căn bản hệ thống thống trị hiện hành để đi tới một cách sống mới, và thường không chỉ dừng lại ở cải cách hay thay đổi nhỏ lẻ trong thời gian dài. Tất nhiên các loại hình này có thể bị chồng chéo lên nhau. Ví dụ, một nhóm vô chính phủ có thể muốn chấm dứt chủ nghĩa tư bản và họ sẽ hiện thực hóa điều đó bằng cách điều hành các trung tâm xã hội, hợp tác xã thực phẩm và biểu tình chống lại các thay đổi về chính sách hiện hành đang ảnh hưởng tới cuộc sống của họ.

Có rất nhiều người tin rằng chính chủ nghĩa tư bản đang chi phối các hoạt động xã hội hiện hành và đó là nguyên nhân chủ yếu của việc xuất hiện các chiến dịch phản đối. Tùy thuộc vào khuynh hướng chính trị, bạn có thể coi điều trên là đúng, mặc dù sẽ rất khó để phủ nhận việc động cơ lợi nhuận và các động lực phát triển vô tận không ảnh hưởng đến thế giới và hầu hết cư dân trên mặt đất này. Nếu mục tiêu của chúng tôi là lật đổ của chủ nghĩa tư bản và thay thế bằng một hệ thống bền vững hơn, điều này đặt ra câu hỏi thiết thực về cách thức vận hành của xã hội trong khi vừa phải cố gắng tôn trọng những nguyên tắc công bằng. Có thể cho rằng, đây có thể là vai trò quan trọng nhất của hoạt động xã hội trong tương lai.

“The blessed unrest”- Liệu có chăng một phong trào của các phong trào xã hội?

Vậy hoạt động xã hội có ảnh hưởng đến thế giới hay không?


« Tất nhiên, một nhóm nhỏ với ý chí sắt thép vẫn có thể thay đổi thế giới. Thực vậy, ít nhất chỉ cần vậy thôi » – Margaret Mead, nhà nhân chủng học Hoa Kỳ (1901-1978)

Trong cuốn sách của mình có tên « Blessed Unrest », tác giả Paul Hawken nhấn mạnh quy mô của các hoạt động đang diễn ra trên thế giới, trong đó ông ước tính có khoảng hơn một triệu nhóm đang hoạt động vì ổn định sinh thái và công bằng xã hội hiện nay. Hawken cho rằng phong trào này là một liên minh phức tạp của các tổ chức con người cùng chung tay nhằm mang đến một thế giới tốt đẹp hơn. Có rất nhiều người đấu tranh chống lại đàn áp nhưng lại không tự xem mình là các nhà hoạt động xã hội hay chính trị, nhưng rõ ràng bằng các hành động của mình, họ đang đứng lên chống lại bất công và bóc lột. Thông qua cuốn sách này, tác giả rút ra một điều:


Tôi đã nhận thấy một làn sóng đang lại trỗi dậy, một làn sóng nhân văn có từ thời đồ đá, một làn sóng mà nhà thơ Gary Snyder đã từng gọi là “Làn sóng ngầm vĩ đại”. Hậu duệ của nó là những người đi hàn gắn, những nữ tu, triết gia, nhà sư, giáo sĩ, nhà thơ và các nghệ sĩ…. những người cất lên tiếng nói vì hành tinh này, vì những chủng loài khác, vì sự phụ thuộc lẫn nhau, một cuộc sống kéo dài bên dưới và xuyên suốt và rộng khắp các đế chế.” (trang 5)
Phong trào này không phải luôn luôn được thực hiện một cách minh bạch và thường chú trọng vào những vấn đề riêng lẻ, nhưng những vấn đề riêng lẻ này luôn đặt trong những bối cảnh rộng lớn hơn liên quan tới bất công và nền kinh tế tư bản tân tự do. Điều này không có nghĩa là nguyên nhân của tất cả các vấn đề này đều là bất công kinh tế, vì nhiều thực trạng khác cũng có thể gây ra vấn đề. Tuy nhiên, càng càng ngày mọi thứ càng trở nên rõ ràng hơn : nhiều vấn đề của chúng ta xuất hiện là do bất công và cường độ của bất công do hệ thống tư bản gây ra.



Nhận thức này càng trở nên rõ ràng hơn khi chúng ta có dịp chứng kiến nhiều phong trào chống đối tư bản và toàn cầu hóa trong những năm đầu của thế kỷ 21, khi nhiều tổ chức nhỏ lẻ cùng nhau lên tiếng chất vấn hệ thống kinh tế. Gần đây nhất là cuộc biểu tình chiếm phố Wall đã thách thức sự bất bình đẳng có tính nền tảng, được tạo ra bởi hệ thống kinh tế hiện hành và sự tập trung của cải khổng lồ vào tay của một số ít người.

Saul Alinsky và “Các nguyên tắc cần thiết cho các cuộc nổi dậy”

Về mặt kỹ thuật, có rất nhiều điều hữu ích có thể học hỏi về cách thức tổ chức hoạt động trong cộng đồng từ cuốn sách “Các nguyên tắc cho các cuộc nổi dậy” (Rules for Radicals) của tác giả Saul Alinsky . Tất nhiên có vô vàn các nguyên tắc khác nhau, nhưng ở đây chúng ta sẽ chỉ bàn tới một vài nguyên tắc điển hình.

Nguyên tắc thứ 1: sức mạnh ở đây không phải là thứ duy nhất bạn có, mà là thứ đối thủ của bạn nghĩ là bạn có. Nếu tổ chức của bạn nhỏ, hãy giấu kín con số thành viên và tung hỏa mù để mọi người nghĩ rằng tổ chức của bạn hiện đang có nguồn nhân lực lớn.

Nguyên tắc thứ 2: đừng bao giờ để hành động vượt quá tầm kinh nghiệm của các thành viên. Kết quả là tổ chức của bạn sẽ chỉ thấy băn khoăn, sợ hãi và muốn rút lui.

Nguyên tắc thứ 3: Bạn muốn đối thủ bối rối, sợ hãi và buộc phải tự rút lui? Bất cứ khi nào có thể, hãy chơi đòn “đánh úp” khiến đối thủ phải bất ngờ.

Nguyên tắc thứ 4: hãy khiến đối thủ phải vật lộn với chính luật lệ của họ. “Bằng cách này, bạn có thể gián tiếp góp phần đánh bại họ vì cơ bản, chẳng có nhóm người nào lại tuân thủ được đúng luật của chính mình hơn những con chiên Ki tô giáo sùng đạo”

Nguyên tắc thứ 5:
Khả năng châm biếm là vũ khí tiềm năng nhất của con người. Phản kháng lại sự châm biếm không hề dễ dàng, và châm biếm thường gây ra đối kháng và nếu có thể áp dụng, đây sẽ chính là lợi thế của bạn.

Nguyên tắc thứ 6:
Chiến lược tốt là chiến lược có được sự đồng tâm nhất trí trong toàn tổ chức “Nếu người của bạn không có gan thực hiện theo chiến lược đó thì có lẽ chiến lược đó đã có gì đó không ổn.”

Nguyên tắc thứ 7: Chiến lược được dùng quá lâu sẽ không còn tính cập nhật với tình hình hiện tại. Sự cam kết với chiến lược cũ có thể sẽ lơi lỏng dần khi các thành viên bắt đầu chuyển hướng quan tâm tới những vấn đề khác.

Nguyên tắc thứ 8:
Hãy duy trì áp lực lên đối thủ. Sử dụng các chiến lược và hành động khác nhau, sử dụng mọi tình hình có thể để phục vụ cho mục tiêu của bạn. “Điều kiện cần của chiến lược là chuỗi các hành động nhằm duy trì một áp lực liên tục lên đối thủ. Đây chính là điều khiến phản ứng của đối thủ sẽ đi theo chiều hướng có lợi cho bạn.”

Nguyên tắc thứ 9:
« Nỗi sợ hãi cái chết còn đáng sợ hơn chính cái chết ấy ». Khi Alinsky tiết lộ thông tin về một nhóm lớn những người nghèo khổ sẽ chiếm đóng khu vực vệ sinh công cộng tại sân bay O’Hare, chính quyền Chicago đã nhanh chóng đồng ý hành động theo một cam kết lâu dài với một tổ chức ghetto. Họ đã tưởng tượng đến sự hỗn loạn khi hàng ngàn hành khách rời máy bay và nhận ra tất cả mọi nhà vệ sinh đều bị chiếm dụng. Và rồi họ lại tưởng tượng rằng rồi cả thế giới sẽ làm họ bẽ mặt như thế nào chỉ vì vụ việc này.

Nguyên tắc thứ 10: Cái giá của một cuộc công kích thành công là một phương án mang tính xây dựng. Tránh rơi vào bẫy của đối thủ hoặc người hỏi bạn câu hỏi: “Thế tóm lại, anh sẽ làm gì?”

Nguyên tắc thứ 11: Chọn mục tiêu, hiện thực hóa nó, nhân cách hóa nó, phân cực nó. Đừng cố gắng tấn công một mục tiêu trừu tượng, một tổ chức hay bộ máy hành chính trừu tượng. Xác định người phải chịu trách nhiệm. Cố gắng bỏ qua sự đùn đẩy hay phát tán sự chỉ trích.

Theo Alinsky, nhiệm vụ chính của người lãnh đạo là nhử cho đối phương hành động. “Kẻ thù phản ứng với thái độ bức xúc và bị dắt mũi một cách hợp lý sẽ là lợi thế chính của bạn.”

Làm sao để thay đổi Thế giới và thực hiện được Permanent Culture Now?

Hoạt động xã hội là một công cụ nhằm vươn tới một thế giới mà chúng ta muốn và cần, và điều chỉ dẫn cho chúng tôi tại Permanent Culture Now là luân lý của văn hóa vĩnh tồn:

Chăm sóc trái đất
Chăm sóc con người
Chia sẻ công bằng

Chúng tôi không gắn mình vào một lý tưởng riêng lẻ và thấy rằng nhiều lý tưởng đều có những yếu tố hữu ích, nhưng một cách căn bản, chúng tôi tin vào thực tiễn. Những luân lý trên đây rất thực tiễn vì chúng quan tâm tới các hệ thống phát triển, nơi hành tinh và những cư dân của nó sinh sống có thể đạt được và phát triển trạng thái sinh tồn thông qua việc sử dụng tài nguyên một cách cân bằng. Thêm vào đó, tài nguyên không nên bị khai thác vì lợi ích cá nhân hay cá thể nào hết, vì điều này sẽ sớm khiến hệ sinh thái tự nhiên của chúng ta nhanh chóng bị hủy hoại và biến mất. Đây chính là lý do khiến chúng ta cần đến hoạt động xã hội.



Hoạt động xã hội thường thách thức lý tưởng thống trị hiện tại hoặc được thúc đẩy bởi những nguyên tắc phản lại các hiệu ứng tiêu cực. Điều này làm cho nó trở nên rất quan trọng trong việc thiết lập một Văn hóa vĩnh tồn, vì nhiều rào cản mà chúng ta thường phải đối mặt với đang bảo vệ quyền lợi và nhu cầu của hệ thống tư bản thống trị và giai cấp thống trị. Những quyền lợi của họ cần được thách thức để thay đổi có thể xảy ra và hoạt động xã hội là một cách làm điều đó.

Chúng ta thường được nhắc đi nhắc lại rằng chúng ta cần tăng trưởng và tăng trưởng có lợi cho chúng ta, thế nhưng trong thực tế tăng trưởng mang lại lợi ích chủ yếu cho giai cấp thống trị và các tập đoàn của họ. Kể từ năm 1970, chúng ta không thấy được một sự tăng thực sự nào về lương bổng nhưng chúng ta phải làm việc nhiều hơn và thường thì cả bố và mẹ đều phải làm việc. Thực sự vậy, việc tư nhân hóa các nguồn tài nguyên quan trọng đã đẩy mạnh chi phí thức ăn, năng lượng và giao thông, những chi phí thiết yếu trong cuộc sống của chúng ta. Điều này xảy ra ở các quốc gia phát triển. Phần còn lại của thế giới chúng ta lại phải chứng kiến sự tàn phá ghê gớm môi trường vì những theo đuổi tăng trường không có điểm dừng. Tất nhiên chúng ta không thể phủ nhận rằng tăng trưởng đang mang lại lợi ích cho nhiều người, nhưng điều này được mang lại từ việc bóc lột số đông và môi trường. Cho dù tăng trưởng có chia đều cho mọi người thì cách thức vận hành hiện nay cũng không bền vững vì chúng ta chỉ có một hành tinh và một trữ lượng dầu mỏ duy nhất.

Cuộc chiến vì một văn hóa vĩnh tồn sẽ không đơn giản vì chúng ta không thể có được một văn hóa vĩnh tồn nếu chúng ta không phân phối lại sự giàu có và tài nguyên. Điều này sẽ không được thực hiện thông qua các thỏa thuận nhỏ lẻ vì nó phải là một thay đổi có tính nền tảng thoát khỏi cơ chế Tư bản và sự theo đuổi tăng trưởng không điểm dừng của nó với chủ nghĩa tiêu dùng tham tàn phá hại. Cần nhận thức rằng sự thay đổi này là thiết yếu vì nó là rào cản chính để hướng tới một tương lai bền vững và công bằng hơn. Chúng ta không chỉ muốn tăng trưởng, mà tăng trưởng phải đi đôi với một cách sống bền vững, tăng trưởng trên sự sống an lành của con người, tăng trong cộng đồng, tăng trưởng trong công bằng và tăng trưởng trong công việc ý nghĩa. Danh sách này có thể kéo dài thêm nữa.

Vậy nếu chúng ta muốn có một thế giới tốt đẹp hơn thì chúng ta cần phải chủ động, sử dụng mọi hình thức hoạt động xã hội nhằm đưa thế giới hướng tới một tương lai bền vững và công bằng.

Theo: phiatruoc.info

Thứ Hai, 23 tháng 11, 2015

Cần coi nhân dân như cha mẹ



Trịnh Lữ chép lại






Trịnh Hữu Ngọc, “Vịnh Hạ Long” 1953

Khi dạy học, bố Ngọc thường làm cho mỗi học sinh một folder riêng. Bài vở và ý kiến qua lại giữa thày với trò đều viết ra giấy và để vào hồ sơ ấy, chứ không phải thư gửi riêng cho nhau qua bưu điện. Cũng có cái thư của trò sau khi ra trường gửi thầy thì nhận được qua bưu điện, nhận rồi bố lại cất vào hồ sơ.

Đây là một ví dụ trao đổi thư từ giữa thày và trò.

Thư thầy gửi trò:

Em P.,

Em tiếp thu tốt, ghi chép có hệ thống, viết có mạch lạc, ý thức phê phán phân tách khá sắc bén. Em chịu khó tập luyện theo phương pháp khoa học mới thế nào cũng đạt.

Thày có mấy nhận xét sau đây, nhắc em để em nhớ mà giữ một thái độ sống, một thái độ lao động ngoan lành hơn.

1. Em mắc cái bệnh chung của rất nhiều người hiện nay, là thích nghĩ đến “giáo dục nhân dân”, chê nhân dân kém văn minh, thiếu mỹ cảm, sống bừa bãi, vân vân… tuy tuổi em thì còn nhỏ, tài em chưa có gì, hiểu biêt về cuộc sống còn ít ỏi nghèo nàn, và sự ăn học của em hiện nay là do nhân dân đài thọ.

2. Em chưa được hướng dẫn giảng giải về trình độ thẩm mỹ rất cao của nhân dân ta qua các công trình lao động nghệ thuật. Em chỉ mới nghe một số người chê bai trên cơ sở một số vốn vay mượn thật sơ sài về nghệ thuật. Rồi em cứ thế nhắc lại một cách không có phê phán. Thày rất tiếc cho sự thông minh của em chưa được khai thác đúng đắn. Em nên thận trọng, và nhớ là phải có thái độ hiếu hạnh ngoan lành đối với nhân dân, coi nhân dân như cha mẹ, học hỏi nhân dân trên mọi mặt, thông cảm với nhân dân cả trên điều kiện ăn ở bừa bãi luộm thuộm hiện nay.


Họa sĩ Trịnh Hữu Ngọc dùng xe đạp mini đi vẽ trong Hà Nội.

3. Em chỉ có một mục đích, là tập luyện cho vững nghề, để biết làm ra những đồ dùng đẹp, tốt, rẻ, mai đây khi tất cả con em công nông đều có trình độ văn hóa cao, sự đòi hỏi hồ dùng tốt đẹp tự nhiên sẽ đến. Nếu em có đủ tài đáp ứng kịp thời, là em tự nhiên sẽ góp phần đắc lực vào cuộc cách mạng văn hóa mà em từng ao ước với ý thức “mệnh lệnh” ngày nay.

4. Ý ao ước những đồ kết hợp của em cũng thế. Em mới chỉ xem mẫu hàng ngoại quốc. Nghe nói đến sự áp dụng tiện lợi vào cuộc sống chật hẹp và nghe nhiều người xung quanh em ca tụng tác dụng tốt của những hàng ấy. Em chưa rõ thực tế cuộc sống hiện nay ở ta có thật sự cần đến, và có khả năng tiêu thụ những hàng sản xuất với nhiều công như thế không? Cho nên không có gì đáng sợ bằng sự hiểu biết mơ hồ. Vậy từ nay em nên thận trọng cân nhắc họi hỏi mọi vấn đề một cách thông minh hơn.

5. Em cần tập vẽ tốt hơn, làm việc với ý thức cầu tiến hơn.

Tháng 6. 1963


Ảnh chụp năm 1920 ở trường tiểu học Bắc Giang. Trịnh Hữu Ngọc ngồi hàng đầu bên phải. Khi xem ảnh, chẳng ai đoán được là ai, trừ cháu nội ông là Trịnh Minh Tuệ, lúc ấy mới 10 tuổi. Cháu bảo “Con đoán chỉ có người ấy là ông, vì vẻ mặt và dáng điệu chẳng giống ai. Bố cứ nhìn mà xem, chỉ có ông là bắt chân chữ ngũ như đang mải nghĩ chuyện gì chứ không để ý đến chụp ảnh. Mũ thì lại là mũ phớt chả giống như các bạn, mà lại để dưới đất…” Xin cảm ơn anh Nam chị Thơm đã lưu giữ và tặng lại cho gia đình bức ảnh hiếm có này.

*

Còn đây là thư của người trò gửi thày:

Kính thưa thày.

Em đã về nhận công tác ở đây được một tháng. Công việc cũng tạm ổn. Em đang thiết kế mẫu cho phòng khách của tỉnh ủy. Xa các thấy, cũng có phần nào bí, nhưng dù sao em cũng không chịu bằng lòng những mẫu mà người ta thích. Gặp nhiều khó khăn nhưng em đã chịu đựng được và dần dần sống dễ chịu hơn. Mai kia có lẽ em sẽ về nông thôn một thời gian khá dài để nghiên cứu.

Em đã lĩnh tháng lương đầu, lòng không khỏi bồi hồi xúc động; tuy số tiền kiếm được chẳng là bao nhiêu nhưng em sung sướng là đã có việc làm và đã thật sự tự lập. Em biết ơn rất nhiều ở các thày, cả những thầy mà không ưa em, em cũng rất nhớ. Em chỉ biết gắng làm thật tốt những công việc, tìm tòi và yêu nghề.

Em gửi biếu thày một ít bánh đậu xanh của Hải Dương. Món quà mà nhắc đến Hải Dương ai cũng nghĩ tới. Thầy nhận ở em món quà nhỏ và tấm lòng thành thực biết ơn của em đối với thày, và thày cũng dự vui với em tháng lương đầu trong cuộc đời của một đứa học trò thày.

Em kính chúc thày và gia đình mạnh khỏe.

Học trò thày,

P.

Nghĩa của tiếng Việt: “Nhũn như con chi chi”




Tiếng Việt có thành ngữ “Nhũn như con Chi Chi”. Nhiều người không biết con Chi Chi là con gì, đặc biệt là những người không sống ở miền Bắc hay không chơi bài tổ tôm hoặc dạng biến thể đơn giản của tổ tôm là bài chắn.


Chơi bài tổ tôm, tranh khắc dân gian Việt Nam



Bài tổ tôm khá phức tạp, do đó ngày xưa thường chỉ giới có học là chơi nhiều. Bộ bài này gồm 3 chất Văn, Sách và Vạn, đánh số từ 1 tới 9, ngoài ra còn 1 chất đặc biệt gọi là Yêu, gồm 3 con bài: con Chi Chi, con Ông Cụ và con Thang Thang. Con Chi Chi thuộc chất Yêu nên (hình như) có thể bị con nào đè cũng được, do đó nó bị gọi là nhũn. (Mình không rành bài Tổ Tôm nên ai rành hơn có thể vào dạy mình


Con chi chi

Cạnh đó, còn có vài chữ khác có gốc từ tổ tôm ra như chữ cửu vạn, hay con 9 Vạn, vốn có hình một ông đang khiêng đồ, cho nên người ta gọi những người làm nghề bốc vác là cửu vạn.


Con 9 vạn


Gàn bát sách cũng là một chữ ở miền Bắc hay dùng, con 8 Sách có hình một bà ngồi hút thuốc nên có lẽ nhìn gàn gàn chăng?


Con bát sách



Ngoài ra, còn có thuật ngữ cạ, nghĩa là hai con cùng số khác chất. Từ đó, có từ hợp cạ với lại cạ cứng, chỉ bạn thân BFF (Best Friends Forever) gì đó mà các bạn báo teen hay dùng.

Cái kỳ lạ của tổ tôm là loại bài này chủ yếu chỉ có người Việt chơi, thế mà hình minh họa toàn là hình người Nhật mặc đồ thời kỳ Edo, tàu bè, thành quách cũng toàn Nhật, trong khi người Nhật thì chẳng hề biết bài tổ tôm là cái gì. Cách lý giải đoán mò là người sáng chế ra tổ tôm có lẽ kiếm được đâu ra một bộ khuôn in hình Nhật nên dùng luôn.


Một số cây bài tổ tôm

Nếu đã đọc truyện Đôrêmon bản 1996, thì có thể các bạn còn nhớ có tập Chai-en tìm được một con vật hiếm gọi là con chi chi, nhìn nửa giống con rắn, nửa giống con giun. Ngày xưa nhờ đọc truyện Đôrêmon nên hồi bé mình toàn tưởng con chi chi là từ truyện Đôrêmon ra. Thật ra đó là do cụ dịch giả đã Việt hóa, chứ đúng truyện gốc nó là con Tsuchinoko. Con Tsuchi được biến thành con chi chi cho nó dân dã. (Còn con chi chi trong truyện Dragon Ball thì hoàn toàn không liên quan)


Con chi chi trong Đôrêmôn

*

Các bạn xem thêm về các từ khác ở FB Cùng học tiếng Việt nhé

Cái Sai Của Văn Học Hiện Thực Phê Phán




Hoàng Hữu Phước, MIB

Sau ngày giải phóng 30-4-1975, ở tất cả các trường trung học bắt đầu dạy về cái gọi là văn học hiện thực phê phán. Chính sự việc ngẫu hứng này đã dẫn đến những hệ quả nghiêm trọng trong đời sống xã hội Việt Nam ngày nay.

Trong tất cả các ngôn ngữ Âu Tây thống trị học thuật triết học văn học hàn lâm của toàn nhân loại thì có hai thể loại văn là fiction và non-fiction, với nội dung lần lượt theo thứ tự trước sau là giả tưởng và phi giả tưởng, vốn được trình bày rõ trong các giáo trình cấp tiểu học ở các nước Âu Mỹ.

Fiction

Fiction tức giả tưởng bao gồm tiểu thuyết kể cả tiểu thuyết trinh thám/phiêu lưu/mạo hiểm/kinh dị/hài, truyện ngắn, kịch nghệ, thơ ca, truyện thần thoại, truyện ngụ ngôn, truyện thần tiên, truyện dã sử, truyện dân gian, truyện truyền thuyết, truyện tranh, kể cả chương trình phát thanh, truyền hình, phim truyện, v.v., tức tất cả những gì đa số là hư cấu, không phải là sự thật, được sáng tác từ sự thăng hoa ý tưởng của tác giả, ngay cả khi đó là tác phẩm văn học về một nhân vật lịch sử có thật, vì lời thoại của nhân vật ấy cùng các nhân vật khác với nhau trong tác phẩm đó hoàn toàn không do – hoặc không có gì làm bằng chứng là do – các nhân vật ấy đã từng thực sự thốt ra với nhau trong đời y hệt 100% như lời thoại, đúng từ dấu phẩy dấu chấm câu, chưa kể thí dụ người đóng vai Tần Thủy Hoàng có tên trên chứng minh nhân dân không phải là Tần Thủy Hoàng và có nghệ danh mà giới điện ảnh đều biết đến, tức hư cấu về con người đang diễn xuất, hư cấu về nơi chốn đóng phim thành nơi chốn lịch sử thực sự, và hư cấu về lời thoại.

Non-fiction
Trái lại, tác giả non-fiction không được để trí tưởng tượng của mình xen vào tác phẩm. Non-fiction bao gồm những tác phẩm khảo cứu về các đề tài khoa học, kỹ thuật, quân sự, kinh tế, triết học, sử học, v.v.; các tiểu luận hay luận án; niên lịch almanac; nhật ký và hồi ký; từ điển, bách khoa toàn thư, và bản đồ atlas; sách sử và sách giáo khoa; diễn văn; sổ tay cẩm nang; bài báo; kể cả bài phê bình một tác phẩm fiction hay một tác phẩm non-fiction khác, hay khi đó là công trình nghiên cứu về tiểu sử của một nhân vật có thật (biên khảo về tiểu sử của một nhân vật tức biography hay biên khảo về tiểu sử của chính mình do chính nhân vật ấy tự viết ra tức auto-biography đều là non-fiction), các bộ luật, và phim tài liệu, v.v. Tóm lại, khi một công trình viết lách không là tiểu thuyết, không có cốt truyện, không có các nhân vật, không có bắt đầu câu chuyện – diễn biến câu chuyện – kết thúc câu chuyện, không có nêu vấn đề và giải quyết vấn đề, không cần đọc từ đầu đến cuối mới hiểu mà chỉ cần đọc đúng chương có chi tiết thông tin cần tham khảo hoặc đọc bất kỳ chương nào trước cũng được, và tất nhiên không phục vụ nhu cầu giải trí mà chỉ phục vụ nhu cầu cung cấp thông tin tham khảo (với dẫn chứng hình vẽ từ xa xưa hay hình chụp thời đại đã có máy ảnh, dẫn chứng ghi âm hay thu hình, và dẫn chứng nhiều nguồn tư liệu chính thức có thể kiểm chứng được) thì đó là non-fiction tức thuần dựa trên dữ kiện có thật hoặc mang tính thuyết phục để được tin là sự thật. Kinh kệ của các tôn giáo cũng được xem thuộc loại non-fiction nhưng không với hàm ý rằng tất cả là sự thật mà với hàm ý rằng rất đông người trên thế giới tin đó là sự thật.

Văn Học Hiện Thực Phê Phán Ở Việt Nam

Khi ở Việt Nam nêu lên tên gọi Văn Học Hiện Thực Phê Phán, điều này có nghĩa toàn bộ những người có trách nhiệm về văn học nước nhà đã không biết gì về sự phân biệt giữa fiction và nnon-fiction trong văn học. Khi đã là tiểu thuyết thì không bao giờ là hiện thực, mà đã không là hiện thực thì không thể có việc phê phán cái chẳng sai nào đó không có thật trong hiện thực ấy. Để phục vụ mục đích tuyên giáo, người ta thi nhau sáng tác và gọi đó là phê phán hiện thực; song, điều đáng ngạc nhiên là nếu một tồi tệ tiêu cực thực có trong xã hội thì nó phải bị pháp luật trừng trị thích đáng chứ không phải cứ tồn tại để làm bia nhắm bắn của phê phán, còn nếu đó là trí tưởng tượng thì sao lại bỏ công phê phán nó cứ như vung tay đấm mãi vào bột giặt siêu bọt, vào ảo ảnh hay ảnh ảo.

Khi sáng tạo ra tình huống xấu xa tiêu cực trong xã hội để phê phán, các tác giả đã tham gia ngụy tạo sự việc khiến không phát huy tác dụng phê phán nơi học sinh đối với các tiêu cực xấu xa có thực, chưa kể đã miêu tả cứ như thật và rất chi tiết về các xấu xa tiêu cực ấy, từ biển thủ công quỹ, từ mưu ma chước quỷ, từ ăn chơi trác táng, từ xài tiền như nước, từ hãm hại người ngay, đến cuộc sống xa hoa sa đọa dâm ô, khiến làm vấy bẩn tinh thần học sinh, lôi cuốn học sinh thiên về các tiêu cực đầy ma lực hấp dẫn ấy. Một khi hiện thực phê phán cứ mãi miệt mài phán phê hiện thực, học sinh dễ nhận ra và thần phục khả năng bất khả chiến bại của tiêu cực trước thực tế tiêu cực trong xã hội càng phát triển mạnh hơn theo đà tấn công của văn học hiện thực phê phán, và từ đó nhiều học sinh khi trưởng thành đã trở thành tiêu cực với sự an tâm rằng sẽ không bị pháp luật trừng trị cho những sai trái của mình.

Nền văn học hiện thực phê phán đã chưa từng đóng góp gì cho việc làm xã hội và đạo đức xã hội tốt hơn. Nền văn học hiện thực phê phán lẽ ra đã phát huy tác dụng nếu chỉ ở thể loại non-fiction, nghĩa là nói về người thật và việc thật, các phóng sự điều tra, các tư liệu điều nghiên tội phạm, lôi được những kẻ phạm tội cụ thể ra trước vành móng ngựa chịu sự xử án nghiêm minh hiệu quả của luật pháp. Nền văn học hiện thực phê phán mà dưới dạng fiction tức tiểu thuyết và phim truyện thì tự động biến thành trò hề vì đã là tiểu thuyết và phim truyện thì thuần túy hư cấu, không bao giờ là hiện thực theo chuẩn học thuật Âu Mỹ.

Khi nhà báo ở Việt Nam viết bài với bút danh mà không với tên trên chứng minh nhân dân thì cũng đã vô tình hàm ý rằng những bài báo của mình là tác phẩm fiction của trí tưởng tượng mà không nói về sự thật vậy.

Hoàng Hữu Phước, Thạc-sĩ Kinh-doanh Quốc-tế