Thứ Tư, 20 tháng 5, 2015

Chung quanh vấn đề nhận thức và đánh giá Hồ Chí Minh hiện nay



Lê Kỳ Sơn

Bốn mươi lăm năm đã qua kể từ ngày Hồ Chí Minh qua đời, lịch sử dân tộc và nhân loại đã trải qua bao biến thiên dữ dội, sự kiện lớn nhất là sự sụp đổ nhanh chóng, bất ngờ của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới từng tồn tại hơn 70 năm – như một cuộc động đất chính trị, có thể sánh ngang với sự sụp đổ của đế chế La Mã hồi đầu công nguyên.

Việt Nam giành được thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp thống nhất đất nước với cái giá máu xương phải trả được coi là chưa từng có trong lịch sử kháng chiến của dân tộc. Nhưng thắng lợi quá lớn đã làm cho những người chiến thắng say sưa, sinh ra chủ quan, kiêu ngạo; thiếu tinh thần khoan dung của người thắng cuộc để chủ động thực hiện hòa giải, hòa hợp dân tộc ; ta cũng đã không biết tận dụng sức mạnh của niềm vui, niềm tự hào chiến thắng, sự yêu mến, cảm phục và sẵn sàng viện trợ của bạn bè quốc tế để tranh thủ đưa cả nước chuyển sang một thời kỳ mới: chung tay hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng lại Tổ quốc, sớm đi tới phồn vinh, thịnh vượng.

Trái lại, cũng do chủ quan, hẹp hòi, tầm nhìn thiển cận, chúng ta đã liên tiếp mắc phải những sai lầm nghiêm trọng trong chính sách đối nội và đối ngoại. Tiếng súng vừa mới im được vài năm, ta đã phải đương đầu với hai cuộc chiến tranh Tây Nam và chiến tranh biên giới phía Bắc; việc đem quân vào Campuchia, rồi sa lầy ở đó hơn 10 năm; vụ ‘nạn kiều” và hàng triệu người Việt ồ ạt bỏ nước ra đi,…dẫn đến Việt Nam bị thế giới bao vây, cấm vận, làm cho nền kinh tế đất nước và đời sống của nhân dân lâm vào hoàn cảnh khó khăn chưa từng thấy. Gỡ ra được cũng đã bị chậm đi mất vài chục năm.

Hiện nay, nền kinh tế thị trường “định hướng xã hội chủ nghĩa”, với những cơ chế bất cập do “lỗi hệ thống” gây ra, đã tạo điều kiện cho các “nhóm lợi ích” trong bộ máy công quyền lợi dụng thao túng, nền kinh tế đất nước ngày càng suy thoái, tụt hậu, thua kém cả Lào và Campuchia. Nạn tham nhũng lan tràn từ trên xuống dưới, quan to ăn to, quan nhỏ ăn nhỏ, đám thư lại thả sức hạch sách, nhũng nhiễu dân đen, không chuẩn mực đạo đức và pháp lý nào tiết chế nổi. Dân oan khiếu kiện mất đất, mất nhà,…diễn ra hàng ngày ở huyện, ở tỉnh, không ít đoàn kéo lên ăn chực, nằm chờ ở cổng phủ Chủ tịch,…Tiếng kêu than vang vọng đến cả trời xanh, nhưng không vụ việc nào được giải quyết triệt để. Trí thức lên tiếng góp ý, phê phán, đấu tranh, chính quyền đã không chiụ nghe, lại còn bị đe dọa, bắt bớ. Chưa bao giờ phản ứng của người dân lại trở nên công khai, gay gắt, quyết liệt như hiện nay. Phải chăng đó là những nhân tố đang tạo nên những “tổ mối hổng” có thể dẫn đến “sụt toang đê cũ”?

Điều gì đã gây ra bi kịch này, nguyên nhân sâu xa là từ đâu? Ai sẽ phải chịu trách nhiệm trước lịch sử về sự trì trệ, suy thoái nghiêm trọng của đất nước và nguy cơ sụp đổ của chế độ?…Trả lời những câu hỏi đó không tránh khỏi ít nhiều có liên quan đến vấn đề đánh giá vai trò và trách nhiệm cá nhân của Hồ Chí Minh.

Trong bối cảnh lòng dân ly tán hiện nay, sự đánh giá Hồ Chí Minh đang diễn ra theo hai chiều đối nghịch, vậy cần có nhận thức và đánh giá như thế nào để đạt tới sự chính xác, công bằng, khách quan, phù hợp với thực tế lịch sử?

Công lao to lớn của Cụ Hồ đối với sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc là điều không ai có thể phủ nhận. Từ đưa Yêu sách 8 điểm gửi Hội nghị Versailles đến Tuyên ngôn Độc lập, rồi chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu,…chặng đường đấu tranh nửa thế kỷ ấy gắn liền với tên tuổi huyền thoại của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, Cụ vẫn được coi là người Cha tinh thần đã khai sinh ra chế độ này, vậy Cụ có thể có những liên đới trách nhiệm gì với thực trạng đáng buồn hiện nay không?

Những người phê phán Hồ Chí Minh thường cho rằng mọi tai họa mà dân tộc và đất nước phải gánh chịu hơn nửa thế kỷ qua, phải được xét từ gốc, từ nhân tố khởi nguyên: ấy là do Hồ Chí Minh đã du nhập chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam! Sự thật là như thế nào rất cần được làm rõ.

Đánh giá vai trò của một học thuyết hay một vĩ nhân cần đứng vững trên quan điểm lịch sử cụ thể. Lịch sử không đứng yên, mà luôn luôn vận động, biến đổi. Chủ nghĩa tư bản ở thời kỳ hoang dã, đi xâm chiếm thuộc địa, thì từ đầu đến chân nó đều thấm bùn và máu; khác với chủ nghĩa tư bản hiện đại, biết phát huy sức mạnh của văn hóa, khoa học-công nghệ, dân chủ, pháp quyền,…để dần dần lột xác, trở thành văn minh. Cũng như vậy, chủ nghĩa cộng sản đầu thế kỷ XX và Quốc Tế 3 thời Lênin cũng khác với chủ nghĩa cộng sản đã bị Stalin hóa, Mao-ít hóa sau này. Nếu Quốc Tế 3 không công khai ủng hộ các dân tộc thuộc địa – nếu cũng chỉ như Quốc Tế 2 – chắc gì Nguyễn Ái Quốc đã ngả theo chủ nghĩa cộng sản?

Thứ hai, cũng cần phân biệt điều mà Hồ Chí Minh tự giác, chủ động lựa chọn với điều mà tình thế bắt buộc ông phải chấp nhận (khi không còn con đường nào khác), lại càng khác xa vớinhững điều người khác nhân danh Hồ Chí Minh đã làm!

Vai trò của vĩ nhân là ở chỗ có biết nắm bắt thời cơ và tận dụng được thời cơ do thời cuộc mang lại để thành đạt mục tiêu độc lập, thống nhất hay không; còn cá nhân một lãnh tụ, dù lỗi lạc đến đâu – nhất là lãnh tụ của một nước thuộc địa nghèo nàn, lạc hậu như nước ta – làm sao có thể vượt qua được vị thế yếu kém của mình, để tác động vào thời đại, nhằm thực hiện thắng lợi lý tưởng, hoài bão mà mình theo đuổi?

Người viết thử mạo muội góp phần đưa ra mấy kiến giải sau đây.
Ai là người đầu tiên đưa chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam?

Chủ nghĩa cộng sản là một trào lưu tư tưởng, một khuynh hướng chính trị hình thành từ nửa cuối thế kỷ XIX; khi chủ nghĩa tư bản đã hiện nguyên hình tàn bạo, đáng nguyền rủa của nó, thì chủ nghĩa cộng sản đang là một khuynh hướng chính trị-xã hội cấp tiến, có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với phần đông trí thức Châu Âu thời bấy giờ. Sang đầu những năm 20 của thế kỷ XX, nó bắt đầu được truyền tới Trung Quốc bởi những trí thức Tây học như Trần Độc Tú, Lý Đại Chiêu, Cù Thu Bạch,…dẫn tới việc thành lập Đảng CS Trung Quốc năm 1921.

Ở Việt Nam, vào thời điểm đó, Nguyễn Ái Quốc là người dân đầu tiên của một nước nô lệ, sau những thất bại của lớp chí sĩ cha anh, đã rời nước ra đi tìm một con đường mới cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Cái khó của Hồ Chí Minh là cái khó của người đi trước thời đại. Vào đầu thế kỷ XX, khi chủ nghĩa đế quốc đã trở thành một hệ thống thế giới, làm thế nào để giải phóng các dân tộc thuộc địa, vẫn còn là một vấn đề quá mới, chưa có lời giải. Chính Engels đã từng viết (đại ý): Các dân tộc thuộc địa rồi sẽ được giải phóng, khi một dân tộc này đi áp bức một dân tộc khác, dân tộc đó không có tự do. Nhưng “quá trình ấy sẽ phát triển như thế nào, điều này thật là khó nói”; “về điều này, tôi nghĩ rằng hiện nay chúng ta chỉ có thể đề ra những giả thuyết khá bâng quơ mà thôi”[1].

Vào thời điểm Nguyễn Tất Thành ra đi khảo sát thế giới, từ Á sang Âu, chưa có dân tộc bị áp bức nào đấu tranh giành được tự do, chưa có tấm gương thắng lợi nào để soi vào. Ở phương Tây, các đảng Xã hội thuộc Quốc tế II, sau chiến tranh thế giới 1914-1918, do chủ nghĩa dân tộc bản vị, về cơ bản họ vẫn ủng hộ chính sách thuộc địa của các chính phủ tư sản nước mình, họ cũng “đề ra những nghị quyết rất hay (về vấn đề thuộc địa) nhưng để sau đó đưa vào các viện bảo tàng”!

Chỉ duy nhất có Đảng CS Nga, với Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, công khai tuyên bố ủng hộ và giúp đỡ thiết thực cuộc đấu tranh của các dân tộc phương Đông bằng những việc làm cụ thể. Nguyễn Ái Quốc đã từng đặt chân tới nhiều nước phương Tây, từng chìa bàn tay hữu nghị ra với họ, nhưng không được ai nắm lấy! Chính lúc ấy, ông đã tìm thấy ở Luận cương của Lênin một chỗ dựa, một hướng đi mới, nên đã ngả theo Quốc tế 3, gia nhập hàng ngũ cộng sản, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Đó là một thực tế ai cũng đều đã biết.

Nhưng Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa cộng sản không phải với động cơ của một người đi tìm chủ thuyết, như một bộ phận trí thức cấp tiến phương Tây thời bấy giờ, chán ghét bất công của chế độ tư bản, họ đã tìm thấy ở chủ nghĩa cộng sản một viễn cảnh đầy hy vọng về một “mùa xuân mới của nhân loại”. Còn ông Nguyễn đến với Quốc Tế 3 từ một nhu cầu cấp bách của dân tộc là đi tìm một phương sách, một con đường cứu nước mới, sau khi các phong trào Đông du và Duy tân đã hoàn toàn thất bại, chứ không phải ông đến với Quốc Tế 3 từ sự giác ngộ sâu sắc về lý tưởng cộng sản. Vào thời điểm ấy, ông chưa có điều kiện nghiên cứu chủ nghĩa Mác một cách hệ thống, nên đã không được thừa nhận là một người cộng sản thuần thành, vì người ta thấy ông rất ít trích dẫn kinh điển mácxít, màchỉ chú trọng vào vấn đề dân tộc thuộc địa.

Nói Nguyễn Ái Quốc là người cộng sản Việt Nam đầu tiên có thể đúng, nhưng là người đầu tiên truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam lại là một nhận định cần được xem xét kỹ. Hãy nhìn lại, từ bài phát biểu ở Đại hội Tours, đến các bài báo trên Le Paria, rồi tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp xuất bản tại Pháp năm 1925,… không có bài viết nào trực tiếp tuyên truyền cho chủ nghĩa cộng sản, tất cả đều đứng trên lập trường người dân thuộc địa mất nước mà tố cáo tội ác cai trị tàn bạo, cướp bóc man rợ của chủ nghĩa thực dân; kêu gọi đồng bào thức tỉnh, đứng dậy, đoàn kết đấu tranh giành lại độc lập, tự do.

Giữa năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô lần đầu tiên để tham dự Hội nghị Quốc tế Nông dân, tiếp theo là Đại hội V Quốc tế Cộng sản, rồi Đại hội các tổ chức quần chúng như Thanh niên Quốc tế, Phụ nữ Quốc tế,…Nội dung các bài phát biểu của Nguyễn Ái Quốc tại các diễn đàn này nói chung đều không đề cập đến những vấn đề đang đặt ra trong phong trào cộng sản bấy giờ, mà chỉ tập trung vào một chủ đề duy nhất: “Tôi đến đây để không ngừng thức tỉnh các đồng chí về vấn đề thuộc địa”! Điều này đã gây cho Staline ấn tượng không mấy thiện cảm về Nguyễn Ái Quốc, coi ông “không phải một người cộng sản chân chính mà là một người còn mang nặng tinh thần dân tộc chủ nghĩa ít có”[2].

Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc tới Quảng Châu, với danh nghĩa thành viên trong phái bộ của Borodine, để xúc tiến công tác tổ chức và huấn luyện, ươm mầm những hạt giống cho cách mạng Việt Nam, sau đó lập ra Hội Việt Nam Thanh niên cách mạng (chứ chưa phải lập Đảng cộng sản). Theo Trần Dân Tiên viết trong “Hồ Chí Minh truyện” thì từ tôn chỉ, mục đích đến điều lệ của Hội đều được ông mô phỏng theo chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Dật Tiên là dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc.[3]

Trong nội dung các bài giảng cho các lớp huấn luyện chính trị tại đây (sau được tập hợp thành cuốn “Đường cách mệnh” ) cũng như trong các bài viết của ông trên báo Thanh Niên, chưa thấy nói gì đến mục tiêu thực hiện chủ nghĩa công sản ở Việt Nam, tất cả chỉ chú trọng nói đến nội dung của dân tộc cách mệnh(như khẳng định: dân tộc cách mệnh thì chưa phân chia giai cấp, sĩ nông công thương đều nhất trí chống lại cường quyền); cách mệnh muốn thành công phải có đảng cách mệnh, đảng phải có chủ nghĩa làm cốt, phải đoàn kết, lấy công nông làm gốc, vì họ là số đông nhất và bị áp bức nặng nề hơn cả; muốn làm tròn nhiệm vụ cách mệnh, người cách mệnh phải có đạo đức cách mệnh, phải bền gan, phải hy sinh,…

Nói chung, nội dung lý luận của những sách báo đó đều còn sơ giản, để phù hợp với trình độ của phần đông hội viên thanh niên lúc bấy giờ, nên sau này đã bị Hà Huy Tập – người thấm nhuần lý luận “giai cấp chống giai cấp” của Đại Hội VI Quốc tế Cộng sản – phê phán là “cực kỳ sơ đẳng, mang dấu ấn của thứ lý luận hợp tác giai cấp, không xác định động lực của cách mạng Đông Dương, và không hiểu đúng vai trò độc quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản,…”[4].

Năm 1927, Quảng Châu khởi nghĩa thất bại, Nguyễn Áí Quốc phải theo phái bộ Borodine trở về Moscow, sau đó cả phái bộ đều bị Staline cách chức, rồi lần lượt bị thanh trừng. Nguyễn Ái Quốc bị bỏ rơi, phải tự tìm đường về Xiêm để hoạt động. Năm 1928, Đại hội QTCS lần thứ VI khai mạc, Nguyễn Ái Quốc không được triệu tập về dự.
Đảng CS Việt Nam thành lập, có phải do Nguyễn Ái Quốc chủ xướng?

Đầu năm 1930, trước sự xuất hiện và chia rẽ của ba nhóm cộng sản ở trong nước (điều này ngoài dự kiến của Nguyễn Ái Quốc, vì theo ông, điều kiện ở Việt Nam chưa chín muồi cho việc thành lập ĐCS); song với vai trò, trách nhiệm của mình, ông vẫn đứng ra triệu tập Hội nghị hợp nhất, lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, vì vậy ông được suy tôn là người sáng lập. Các văn kiện do ông thảo ra, như Chính cương, Sách lược vắn tắt, Điều lệ Đảng, Lời kêu gọi, dưới ký tên: Nguyễn Ái Quốc: Thay mặt QTCS và Đảng CS Việt Nam, đều thấm nhuần những quan điểm của Lênin đã nêu ra trong Luận cương. Nhưng khi gửi sang Liên Xô báo cáo, đã bị QTCS bác bỏ, bởi vì lúc này họ đã xa rời những quan điểm ấy của Lênin, chỉ nhấn mạnh một chiều lý luận “giai cấp chống giai cấp” theo tư tưởng chỉ đạo của Staline tại Đại hội VI Quốc tế Cộng sản 1928.

Sau đó, Trần Phú được cử về, triệu tập Hội nghị TƯ tháng 10-1930, phê phán Hội nghị hợp nhất “chỉ lo đến việc phản đế mà quên mất lợi ích giai cấp đấu tranh, ấy là một sự rất nguy hiểm”, lại còn “chia địa chủ ra làm đại, trung và tiểu địa chủ”, lại nói “phải lợi dụng bọn tư bản mà chưa rõ mặt phản cách mạng” cùng một số “sai lầm” khác, rồi ra nghị quyết thủ tiêu các văn kiện của Hội nghị hợp nhất, thông qua Luận cương Chính trị 1930, đổi tên đảng thành Đảng CS Đông Dương, bầu ra BCH TƯ mới, do Trần Phú làm Tổng Bí thư. Cương lĩnh, Điều lệmới đều quán triệt quan điểm “giai cấp chống giai cấp”. Phải chăng, chính khuynh hướng “tả” của Luận cương Trần Phú, sau khi được phổ biến xuống tới các địa phương, đã là một trong những tác nhân góp phần thổi bùng lên phong trào Xô viết ở Nghệ-Tĩnh?

Cần nói thêm rằng, phong trào đó có thể còn bị ảnh hưởng bởi một tổ chức mácxít khuynh tả nữa là Liên Đoàn CS Nam Dương – một chi nhánh của Đảng CS Trung Quốc đã hiện hữu tại Đông Nam Á và Nam Việt Nam từ những năm 1928-1930. Ta được biết, sau Đại hội VI QTCS, Lý Lập Tam, nguyên là đại diện của ĐCS Trung Quốc bên cạnh QTCS, một nhân vật cực tả, đã được Staline chú ý, đưa vào Ban Chấp Hành QTCS, rồi trở thành người đứng đầu Đảng CS TQ. Chính nhân vật này đã đưa Đảng CS TQ đi vào con đường phiêu lưu tả khuynh trong một thời gian dài, gây nên những tổn thất to lớn cho Đảng của họ. Chính họ Lý đã chỉ đạo đẩy mạnh việc tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản, xây dựng và phát triển tổ chức CS trong người Hoa ở Thái Lan, Mã Lai, Nam Việt Nam ,…( trụ sở đặt tại Singapore, nên tổ chức này còn có tên gọi làLiên Đoàn Tân Gia Ba), nhằm phát huy ảnh hưởng của ĐCS Trung Quốc tại Đông Nam Á. Khi Đảng CS Đông Dương thành lập, cử ra Ban TƯ lâm thời gồm bảy người, theo quan điểm quốc tế, họ đã mời một đại diện của tổ chức CS người Hoa ở Sài-Gòn-Chợ Lớn tham gia BCH, đó là Lưu Lập Đạo (tức “A Lầu”). Phải chăng, khẩu hiệu cực tả “trí, phú, địa, hào-đào tận gốc, chốc tận rễ” là do ảnh hưởng từ Liên đoàn này? (Đây là vần đề cần được nghiên cứu thêm).

Những sự việc nói trên đều diễn ra ngoài ý muốn của Nguyễn Ái Quốc , vì lúc này, ông vẫn đang ở nước ngoài và đã hoàn toàn bị vô hiệu hóa, chỉ còn là “cái thùng thư” chuyển tiếp giữa Quốc tế CS và Ban TƯ trong nước. Góp phần tuyên truyền cho chủ nghĩa CS ở Đông Dương còn phải kể đến báo chí công khai ở Việt Nam thời bấy giờ. Năm 1926, Phan Văn Trường, lần đầu tiên ở Việt Nam, đã cho đăng toàn văn Tuyên ngôn đảng cộng sản của Marx-Engels trên tờ La Cloche Féléecủa ông, từ số 53 đến số 60 (bằng tiếng Pháp). Báo chí của chính quyền thuộc địa, lo sợ trước nguy cơ bùng phát mạnh mẽ của phong trào cộng sản, cũng cho đăng nhiều bài xuyên tạc, nói xấu chủ nghĩa cộng sản để cảnh giới, răn đe, vô tình cũng đã làm một việc tuyên truyền không công chủ nghĩa CS. Đó là chưa nói đến hoạt động và sách báo tuyên truyền của nhóm đệ tứ của Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm,…và nhà xuất bản Hàn Thuyên trong những năm 1930 sau này. Trong khi đó, Chính cương, Sách lược vắn tắt,…do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, gửi đi Moscow, bị coi là không quán triệt đường lối “giai cấp chống giai cấp”, nên đã bị thủ tiêu ngay từ trong trứng, chưa mấy ai được biết đến các văn kiện này (cho tới khi lần đầu tiên được đưa vào Hồ Chí Minh Toàn tập, t.1, xuất bản lần đầu năm 1980).

Để hiểu được Hồ Chí Minh, cần thiết phải nhận thức trong sự so sánh quan điểm, đường lối của ông với đường lối tả khuynh của Staline và QTCS sau khi Lênin qua đời, nhất là từ sau Đại hội VI 1928. Đặc điểm của chủ nghĩa tả khuynh dưới sự áp đặt của Staline là nhấn mạnh độc quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản, nôn nóng thực hiện ngay cách mạng vô sản khi các điều kiện kinh tế-xã hội chưa chín muồi, đề cao chuyên chính vô sản và bạo lực cách mạng, sử dụng guồng máy chuyên chính để đàn áp, sẵn sàng bắt bớ, thủ tiêu những người có ý kiến khác biệt; mang nặng chủ nghĩa biệt phái, đề cao công nông nhưng không trọng dụng trí thức; không cho phép các ĐCS được liên minh tạm thời với các Đảng Dân chủ Xã hội, không đánh giá đúng mức sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc ở thuộc địa, không cho phép người cộng sản hợp tác tạm thời với các đảng phái yêu nước và dân chủ ở các nước họ…Nói chung là Staline đã từ bỏ những quan điểm đúng đắn của Lênin mà Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu và kiên trì bảo vệ.

Quan điểm, đường lối chính trị của Hồ Chí Minh hình thành từ nền tảng văn hóa phương Đông của ông. Sớm đi sang phương Tây, văn hóa Hồ Chí Minh còn là sự chưng cất tinh hoa văn hóa ÂuTây, đặc biệt là lý tưởng Tự do-Bình đẳng-Bác ái của cách mạng Pháp, vì vậy, tư tưởng chính trị của ông cũng không đóng khung trong một học thuyết duy nhất nào. Hồ Chí Minh từng viết: “Khổng tử, Jésus, Marx, Tôn Dật Tiên,…đều có những điểm chung giống nhau, đó là cùng mưu cầu hạnh phúc cho loài người. Tôi cố gắng là người học trò nhỏ của các vị ấy”[5]. Như vậy, mọi lý thuyết, chủ nghĩa đối với ông đều có cái hay, đều cần phải nghiên cứu, tham khảo, học lấy cái đúng, cái tốt, nhưng tất cả đều chỉ là phương tiện để đạt mục đích là giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Đó là tóm tắt học thuyết “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Hồ Chí Minh.

Nói cách khác, tư duychính trị Hồ Chí Minh luôn phấn đấu hướng theo những giá trị chung của nhân loại. Cuốn sách đầu tiên mà Nguyễn Ái Quốc dịch sang tiếng Việt không phải “Tuyên ngôn đảng cộng sản” mà là “Tinh thần pháp luật” của Montesquieu!

Do đó, tuy đã gia nhập hàng ngũ cộng sản, nhưng trong căn cốt, ông vẫn là người yêu nước, ông dám vượt qua một số nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa cộng sản ngay cả khi đang sống giữa trung tâm của nó ở Moscow. Sau khi phân tích những đặc điểm kinh tế-xã hội-văn hóa-lịch sử của các dân tộc Viễn Đông, ông khẳng định:“Cuộc đấu tranh giai cấp ở đó (tức Đông Dương) không diễn ra giống như ở phương Tây”, “Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước…,người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên cái động lực vĩ đại và duy nhất của đời sống xã hội của họ”[6].

Ông không coi đấu tranh giai cấp là động lực duy nhất mà lấy đại đoàn kết dân tộc làm trọng; không nhấn mạnh chuyên chính vô sản mà đề cao nhà nước dân chủ; đề cao và tin dùng trí thức, kể cả trí thức cũ. Ông chủ trương lấy dân làm gốc, lúc nào cũng tâm niệm: Tổ quốc trên hết, dân tộc trên hết, nhân dân trên hết; lợi ích của giai cấp, của bộ phận phải phục tùng lợi ích chung của cả quốc gia, dân tộc. Học thuyết của ông có thể tóm tắt trong 9 chữ “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”.

Dựa theo những cứ liệu đó, nhà sử học Pháp Pierre Brocheux – người đã dành cả cuộc đời nghiên cứu về Hồ Chí Minh – từng đưa ra ý kiến riêng: “Tôi cho rằng ông Hồ Chí Minh về bản chất thực ra là một người theo Khổng giáo. Ông luôn cố gắng kết hợp những ý tưởng của Khổng giáo – một truyền thống ý thức hệ Đông Á – với các dòng tư tưởng châu Âu, từ chủ nghĩa Mác đến chủ nghĩa Lênin…Theo tôi, trước sau ông là một người tốt, một người Khổng giáo. Những gì người ta nói về ông ở Việt Nam hiện nay, chỉ đúng một phần thôi. Ông đã cố gắng đưa vào thực tế tính nhân văn và tính công bằng xã hội theo kiểu Khổng giáo”[7]. Đó là một ý kiến được nhiều học giả trong, ngoài nước chú ý và chia sẻ.

Sau những trải nghiệm đau buồn riêng của Nguyễn Ái Quốc qua hai thời kỳ sống, hoạt động, học tập ở Liên Xô, niềm tin của ông vào Liên Xô và QTCS như là chỗ dựa duy nhất cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam, không còn nguyên vẹn như xưa. Ông nhận thấy cách mạng Việt Nam có thể và cần phải có thêm nhiều chỗ dựa khác, do đó cần chủ động tìm ra những phương thức liên minh tạm thời, hợp tác rộng rãi (theo tinh thần của Lênin) nhằm tranh thủ mọi sự giúp đỡ có thể và có lợi cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập của Việt Nam.

Sau khi Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô cuối năm 1938, tình hình thế giới đã có những biến chuyển lớn: chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, Liên Xô đã hợp tác với Anh, Mỹ , Pháp,…hình thành phe Đồng minh chống phát xít; năm 1943, QTCS tuyên bố tự giải tán, để các ĐCS được quyền chủ động hơn, phù hợp với điều kiện của mỗi nước. Ở Trung Quốc, hai phe Quốc-Cộng lại hợp tác với nhau lần thứ hai để cùng chống Nhật. Sau khi bắt được liên lạc với tổ chức Đảng trong nước, Nguyễn Ái Quốc lập tức tranh thủ về nước chỉ đạo phong trào.

Lúc này, Ban TƯ cũ chịu ảnh hưởng của xu hướng Trần Phú, Hà HuyTập hầu hết đã bị bắt và hy sinh, Ban TƯ lâm thời được thành lập trên cơ sở Ban lãnh đạo Xứ ủy Bắc Kỳ- gồm những người vốn có quan điểm “ôn hòa” hơn (Ban Xứ ủy Bắc Kỳ thời kỳ Trịnh Đình Cửu làm bí thư, vẫn cho rằng đường lối của QTCS mà Trần Phú là đại diện, không phù hợp với thực tế Việt Nam, nên không tán thành, không tích cực thực thi, thường bị Trần Phú nhắc nhở, phê phán, đe dọa kỷ luật). Nguyễn Ái Quốc trở về trong hoàn cảnh Ban TƯ lâm thời tự lập, do Trường Chinh đứng đầu, đang cần được thừa nhận chính thức, nên đã xem Nguyễn Ái Quốc như là đại diện của Quốc tế và suy tôn như là lãnh tụ tối cao của Đảng. Có thể coi đây là cuộc gặp gỡ lịch sử, nếu không có cơ sở quần chúng cách mạng do Xứ ủy Bắc Kỳ gây dựng, không có sự suy tôn và nhất trí hợp tác của Trường Chinh, chưa chắc Cách mạng tháng Tám 1945 đã có thể bùng nổ thuận lợi và thành công như đã diễn ra!

Dưới sự chỉ đạo của Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị TƯ 8 – 1941 đặt lên hàng đầu nhiệm vụ chống đế quốc, giành độc lập dân tộc; còn nhiệm vụ chống phong kiến, đem lại ruộng đất cho dân cày sẽ thực hiện từng bước và phải phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc. Nghị quyết Hội nghị vạch rõ: “Trong lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải được đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc; không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”[8]. Nghị quyết Hội nghị TƯ 8 – 1941 thực chất là sự trở lại với đường lối, quan điểm đã được Nguyễn Ái Quốc vạch ra trong Chính cương, Sách lược vắn tắt từ Hội nghị hợp nhất đầu năm 1930.

Sau Hội nghị, Nguyễn Ái Quốc viết thư kêu gọi: “Hỡi đồng bào! Hỡi các bậc phụ huynh! Hỡi các bậc hiền huynh chí sĩ! Hỡi các bậc phú hào yêu nước, thương nòi! Hỡi các bạn công, nông, binh, thanh niên, phụ nữ, công chức, tiểu thương! [9], nghĩa là nhằm vào mọi tầng lớp nhân dân, chứ không phải chỉ chú ý kêu gọi Hỡi công nông như Trần Phú ngày trước. Ta hiểu vì sao, sau năm 1945, Hồ Chí Minh đã thực tâm dùng Cựu hoàng Bảo Đại làm Cố vấn tối cao, đã mời các trí thức, quan lại trong chính quyền thực dân, phong kiến cũ, tham gia vào Chính phủ mới sau cách mạng; đã trả lại tự do cho Ngô Đình Diệm, cũng như sau này đã không loại trừ khả năng sẵn sàng đàm phán với ông ta để tìm ra một giải pháp cho công cuộc hòa bình, thống nhất đất nước…

Việc ông Nguyễn chủ động liên hệ với Tướng Claire Chennault-Tư lệnh không đoàn 14 của Mỹ mang tên “Cọp bay” đóng ở Côn Minh và với đơn vị OSS (Cơ quan phục vụ chiến lược Mỹ )- nhân vụ trao trả trung úy phi công Shaw cho họ – là một cơ hội để tuyên truyền, giới thiệu, nêu cao thanh thế của phong trào Việt Minh, nhằm tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của lực lượng Đồng minh – ít nhất là trên danh nghĩa – cho cuộc đấu tranh giành độc lập của Việt Nam. Việc ông lên đường đi Trùng Khánh năm 1942 để tìm gặp Tưởng Giới Thạch, cũng là nhằm tìm kiếm sự hợp tác chống kẻ thù chung của hai dân tộc Hoa-Việt là phát xit Nhật,…Tất cả những việc làm đó đều nằm trong chiến lược tranh thủ liên minh, hợp tác quốc tế rộng rãi của Hồ Chí Minh, nhất là trong điều kiện Quốc tế 3 đã tuyên bố tự giải tán.

Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập nhưng không được một quốc gia nào công nhận. Quá khứ cộng sản của Hồ Chí Minh đã làm các nước Đồng minh e ngại. Tình báo Xô viết thừa biết Hồ Chí Minh là ai, nhưng Kremlin vẫn giữ thái độ im lặng, thực tế như đã bị bỏ rơi. Lúc này, để vượt qua nguy cơ mất còn, Hồ Chí Minh đã khôn khéo thi hành một đối sách hòa hoãn cực kỳ mềm dẻo mà cũng phi thường dũng cảm, đó là:

– Đối với Tầu Tưởng, ông tuyên bố Đảng CS Đông Dương tự giải tán, thực chất là rút vào hoạt động bí mật. Hai là, chấp nhận cải tổ Chính phủ, rút bớt các thành viên cộng sản ra ngoài, lui ngày Tổng tuyển cử, tạo điều kiện cho các đảng đối lập có thêm thời gian chuẩn bị tham gia; sau bầu cử, lại chấp nhận cho họ thêm 70 ghế đại biểu không qua bầu cử; trên cơ sở đó Quốc hội cử ra Chính phủ liên hiệp gồm 10 bộ, trong đó Việt Minh 2, Dân chủ 2, Việt quốc 2, Việt cách 2, không đảng phái 2 (vẻ như Việt Minh chỉ là thiểu số).

– Đối với thực dân Pháp, Hồ Chí Minh biết rõ người Pháp chưa chịu từ bỏ chính sách tái thuộc địa hóa Đông Dương, họ đàm phán với Tưởng rồi ký Hiệp định Pháp-Hoa ngày 28-2-1946, bằng cách trả lại những tô giới thuộc Pháp trên đất Tàu, bán lại đường sắt Lào Cai-Vân Nam, cho phép Tưởng dùng cảng Hải Phòng để vận chuyển hàng hóa quá cảnh miễn thuế qua đường Việt Nam, …Đổi lại quân đội Pháp được phép đem quân ra miền Bắc thay thế quân Tưởng. Nhưng muốn đem quân ra Bắc êm thấm, không gặp đụng độ quân sự, Pháp buộc phải điều đình với Chính phủ Hồ Chí Minh. Tình thế trên đây đặt ra câu hỏi: ta phải quyết đánh hay tạm hòa với Pháp?

Cân nhắc tương quan lực lượng, Cụ Hồ chọn giải pháp tạm hòa. Từ cuối tháng 2-1946, hai bên xúc tiến đàm phán. Điều khoản gay cấn nhất là ta đòi Pháp phải thừa nhận quyền độc lập và thống nhất của Việt Nam; còn Pháp chỉ muốn công nhận Việt Nam là một quốc gia tự trị. Nếu Hiệp định Pháp- Việt chưa được ký kết thì quân Tưởng chưa thể rút đi, quân Pháp chưa được phép đổ bộ vào Hải Phòng, xung đột đổ máu giữa các bên sẽ vẫn tiếp tục nổ ra. Để tháo gỡ tình hình, Hồ Chí Minh đưa ra giải pháp nhân nhượng:

– Nước Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do (état libre, thay cho từ indépendance,độc lập) có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng, ở trong Liên bang Đông Dương và trong khối Liên hiệp Pháp. Chính phủ Pháp phải cam đoan thừa nhận kết quả của cuộc trưng cầu dân ý về vấn đề thống nhất ba kỳ.

– Nước Việt Nam thuận để 15.000 quân Pháp được vào Bắc Việt Nam thay thế quân đội Trung Hoa và sẽ phải rút hết sau thời hạn 5 năm.

Đây là một giải pháp “Câu Tiễn”, nhờ đó, Hiệp định sơ bộ 6-3 đã được ký kết. Nhưng các đảng phái đối lập lại muốn phá, vì nếu đánh nhau, Việt Minh sẽ thua, họ sẽ được lợi, nên đã ra sức vu cáo Hồ Chí Minh là “bán nước”. Nhưng đại đa số dân chúng Việt Nam lại chấp nhận một thỏa hiệp tạm thời với Pháp cốt để đuổi được gần 20 vạn quân Tầu về nước, bởi chính họ mới là kẻ thù truyền kiếp của dân ta, đã mấy ngàn năm nay, chưa bao giờ họ từ bỏ dã tâm xâm lược và đồng hóa dân tộc ta. Vì vậy, ở thời điểm này, Hồ Chí Minh đã phải nói ra một câu – mà báo chí “lề phải” ở Việt Nam chưa bao giờ dám nhắc lại:“Thà chịu ngửi phân của người Pháp trong 5 năm còn hơn là phải ngửi phân của người Tầu trong hàng nghìn năm!”[10]. (Điều này chứng tỏ Hồ Chí Minh không mơ hồ gì về kẻ thù truyền kiếp của dân tộc).

Nếu Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 được Pháp nghiêm chỉnh thực hiện thì Việt Nam đã không phải tiến hành cuộc kháng chiến 9 năm gian khổ và chủ nghĩa thực dân Pháp đã không bị chôn vùi ở Điện Biên Phủ; Việt Nam sẽ ở trong Khối Liên hiệp Pháp (Union Français) và biết đâu, chắc gì Việt Nam đã buộc phải ngả theo CS Tàu sau năm 1949, trong khi Staline vẫn ngoảnh mặt làm ngơ? Là một nhà chính trị thực tiễn, Cụ Hồ đã nhận thấy mục tiêu cộng sản là điều còn rất xa vời, nên từng nhiều lần tuyên bố: “Tôi là người cộng sản, nhưng điều quan tâm lớn nhất của tôi là nền độc lập của Việt Nam. Tôi bảo đảm với các ngài rằng sau 50 năm nữa, chủ nghĩa cộng sản vẫn sẽ chưa được thực hiện ở Việt Nam !”[11].

Do thái độ không thức thời của giới cầm quyền Pháp lúc đó, tiêu biểu là De Gaulle, nên cơ hội này đã bị tuột mất. Hai mươi năm sau, chính De Gaulle đã có sự nhìn nhận muộn màng về trách nhiệm của ông ta trong chính sách của Pháp ở Đông Dương thời đoạn 1945-1946. Trong thư gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 8-2-1966, ông viết: “ Giá có một sự hiểu biết nhau tốt hơn giữa người Việt Nam và người Pháp ngay sau Đại chiến thế giới 2 thì đã có thể tránh được những sự biến tai ác đang giày xéo đất nước Ngài hôm nay”[12].

– Đối với Mỹ và phương Tây: Sự kiện Tổng thống F. Roosevelt tuyên bố sau chiến tranh kết thúc sẽ không trao trả các thuộc địa cũ ở Đông Dương cho Pháp, mà sẽ cho các nước này được hưởng chế độ “ủy trị” của Liên Hiệp quốc; rồi người Mỹ đã đi trước thực hiện trao trả độc lập cho Philippines ngay sau chiến tranh kết thúc,… Những sự kiện đó đã có sức hấp dẫn rất lớn đối với Hồ Chí Minh, nên thông qua mấy nhân vật quen biết trong nhóm OSS, Hồ Chí Minh đã tìm mọi cách tranh thủ sự ủng hộ của Mỹ đối với nền độc lập của Việt Nam .

Trong 2 năm 1945-1946, Hồ Chí Minh đã viết 8 bức thư gửi tới Tổng thống Harry Truman và 3 thư gửi Bộ trưởng Ngoại giao James Byrnes, nhằm kêu gọi Mỹ, với tư cách một quốc gia bênh vực và bảo vệ Công lý thế giới, sẽ có những bước đi mạnh mẽ trong việc ủng hộ nền độc lập của Việt Nam; đồng thời bày tỏ nguyện vọng của Việt Nam muốn được hợp tác toàn diện với Mỹ, muốn được gửi 50 thanh niên Việt Nam sang Mỹ học tập, nhằm tiếp thu thành tựu kỹ thuật hiện đại của Mỹ. Ông cũng tuyên bố sẵn sàng để cho Mỹ đặt căn cứ hải quân tại Cam Ranh,…Chính Hồ Chí Minh đã sớm chủ động cho thành lập Hội hữu nghị Việt-Mỹ, và tham dự lễ ra mắt của Hội này tại Hà Nội, cùng với sự có mặt của tướng Mỹ Gallagher, v.v..

Đầu tháng 12-1946, Hồ Chí Minh đã tiếp Abbott Low Moffatt, giám đốc Vụ Đông Nam Á Bộ Ngoại giao Mỹ, được cử sang Đông Dương tìm hiểu tình hình. Sau buổi tiếp, Moffatt đưa ra nhận xét: “Hồ Chí Minh trước hết là một người yêu nước, nhiệt tình đấu tranh cho nền độc lập của Việt Nam, ông có thể được coi như là một Titô ở châu Á”[13].

Những ứng xử trên cho thấy Hồ Chí Minh là một nhà yêu nước thức thời, ôn hòa, giỏi ứng biến, chứ đâu phải là một người cộng sản cứng nhắc, cực đoan! Nếu những nỗ lực trên của Hồ Chí Minh được phía Mỹ tiếp nhận thì Việt Nam đã là một nước cộng hòa dân chủ không bị chia cắt, đã mở cửa, sớm phát triển nền kinh tế thị trường, Mỹ đã không phải đổ của, đổ người vào cuộc chiến tranh Việt Nam, rồi sa lầy tại đây trong khoảng hơn 20 năm! Tiếc thay, lịch sử lại không hề biết đến chữ “nếu”!

Bên cạnh đó, Cụ Hồ còn cử nhiều phái đoàn thân thiện của Việt Nam đi thăm các nước khác: Phạm Văn Đồng dẫn đầu Đoàn đại biếu Quốc hội Việt Nam đi thăm hữu nghị nước Pháp; cử Thứ trưởng Ngoại giao Nghiêm Kế Tổ (là đại biểu của Việt Nam Quốc dân đảng trong Chính phủ Liên hiệp) dẫn đầu Đoàn ngoại giao, trong đoàn có Cố vấn tối cao Vĩnh Thụy, sang Trùng Khánh để xin tiếp kiến Tưởng Giới Thạch; cử Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch-với tư cách đại diện đặc biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh – sang Pháp gặp M. Thorez, sang Ý gặp Đại sứ Liên Xô Koulajenkôp, đến Ấn Độ gặp J. Nehru, để thông báo về tình hình Việt Nam và đề nghị giúp đỡ vật chất, tinh thần cho cuộc đấu tranh giành độc lập của Việt Nam. Tiếc rằng các hoạt động đó đều không đạt kết quả mong muốn.
Hồ Chí Minh tái hòa nhập với Moscow và phe xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh nào?

Do đánh giá sai tình hình, Pháp muốn đánh nhanh, thắng nhanh vào lúc lực lượng vũ trang của Việt Nam vừa thành lập, số lượng nhỏ, trang bị kém, khó có thể chống lại một quân đội nhà nghề được trang bị tối tân như quân đội Pháp, giỏi lắm cũng chỉ tồn tại được trong vài ba tuần lễ! Họ ra sức khiêu khích, gây ra những vụ tàn sát đẫm máu đối với đồng bào ta ở nhiều nơi, buộc ta phải chống lại. Chiến tranh đã nổ ra. Để bảo toàn lực lượng, ta phải bỏ thành phố, rút về nông thôn, lên miền núi, xây dựng căn cứ địa, thực hiện phương châm “kháng chiến trường kỳ”.

Thu-Đông 1947, ta bẻ gãy được cuộc tiến công 2 gọng kìm của Pháp lên chiến khu Việt Bắc, địch tổn thất nặng nề, nhưng xuýt nữa, quân nhảy dù của họ bắt được cơ quan đầu não của ta! Nếu họ đủ sức mở tiếp cuộc tiến công thứ 2, liên minh được với Tưởng, thực hiện dưới đánh lên, trên đánh xuống, thì cuộc kháng chiến của quân dân ta có nguy cơ bị dập tắt hoàn toàn! Bởi lấy gì mà chống lại, khi số vũ khí, đạn dược ít ỏi ta lấy được của Nhật, mua lại của Tầu, đã được dùng hết! Ta lại đang trong thế bị bao vây tứ bề, thoát ra bằng cách nào? Tình hình đó buộc Cụ Hồ phải tìm cách cầu hòa với Chính phủ Tưởng Giới Thạch, nếu không được giúp đỡ thì cũng phải trung lập hóa vai trò của họ. Một phái đoàn được cử sang Nam Kinh, với lễ vật hậu hĩnh, để thuyết phục Tưởng tuân theo tôn chỉ “phù nhược, ức cường” của Tôn Trung Sơn, ủng hộ các dân tộc nhược tiểu đang đấu tranh chống các cường quốc thực dân, giành lại độc lập dân tộc.

Chuyến đi chưa được giải mã, chỉ biết rằng sau đó tình hình quốc tế có những chuyển biến rất nhanh chóng: Giải phóng quân Trung Quốc “thần tốc Nam hạ”, buộc quân Tưởng phải bỏ chạy ra Đài Loan; tháng 10-1949, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập, rồi nước CHDC Đức cũng ra đời, hình thành nên hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới từ Tây sang Đông.

Thắng lợi của cách mạng Trung Quốc khiến cho Mỹ lo ngại: nếu Pháp thất bại ở Đông Dương, dưới ảnh hưởng của Trung Quốc, một số nước Đông Nam Á có khả năng ngả theo con đường cộng sản hóa, Mỹ thấy đã đến lúc phải can thiệp vào Đông Dương. Một mình ta đánh nhau với Pháp đã khó, nay lại có thêm sự can thiệp của Mỹ, ta sẽ đối phó thế nào, phải hành xử ra sao?

Nhẫn nại, kiên trì hòa hoãn mãi với phương Tây mà không thành, để thoát khỏi nguy cơ xấu nhất, Hồ Chí Minh chỉ còn một con đường duy nhất: bắt mối quan hệ với Đảng CS Trung Quốc, thông qua họ để nối lại quan hệ với Kremli, tái hòa nhập phong trào cộng sản quốc tế.

Mao hưởng ứng ngay, vì phù hợp với ý đồ của họ: cần có một “phên dậu” ở phía Nam, giúp Trung Quốc tránh phải đụng độ trực tiếp với đế quốc – điều kiện cần để họ tập trung vào xây dựng và phát triển trong hòa bình.

Song việc thuyết phục Staline đồng tình lại không đơn giản. Thứ nhất, Việt Nam là một nước nhỏ, lại ở quá xa Liên Xô, chưa có vai trò gì trong chiến lược đối ngoại của Liên Xô lúc bấy giờ. Hai là, Việt Nam vốn là thuộc địa cũ của Pháp, mà Pháp hiện đang là đối tác chiến lược Liên Xô cần tranh thủ ở Tây Âu, hai nước đã ký với nhau Hiệp định hợp tác,bất tương xâm Pháp-Xô (1944-1964) hiện vẫn đang còn giá trị; đối với Staline, Việt Nam không quan trọng bằng Pháp. Ba là, bản thân Staline vốn từ trước đã không mấy tin tưởng vào Hồ Chí Minh; nay theo báo cáo của KGB thì Hồ Chí Minh có vẻ như đang muốn ve vãn phương Tây, nhất là qua hai bức thư của Trần Ngọc Danh (em trai Trần Phú) gửi Staline, phê phán Hồ Chí Minh đang đi theo con đường của chủ nghĩa dân tộc tư sản, từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, từ bỏ chủ nghĩa quốc tế vô sản và học thuyết đấu tranh giai cấp của Mác,…Vì vậy, ban đầu Staline đã từ chối không nhận tiếp Hồ Chí Minh. Sau nhờ sự kiên trì thuyết phục của Mao và Chu, Staline đồng ý tiếp, nhưng không công khai, mà tiếp trong phòng làm việc riêng của mình, với sự có mặt hạn chế của vài nhân vật lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Chính phủ Liên Xô.

Trong cuộc tiếp, Staline đã thẳng thắn phê bình Hồ Chí Minh ba điều: vấn đề tự ý giải tán Đảng, vấn đề thành phần Chính phủ (lắm nhân sĩ, trí thức, quan lại cũ, …ý nói không phải chính quyền công nông), việc không chịu tiến hành cải cách ruộng đất. Sau đó, yêu cầu Hồ Chí Minh phải viết một bài tự phê bình về các vấn đề trên, để đăng trên tờ báo của Cục thông tin Quốc tế Cộng sản (Kominform) “Vì một nền hòa bình lâu dài, vì một nền dân chủ nhân dân”[14] . Còn vấn đề viện trợ cho cuộc kháng chiến của Việt Nam, Staline phân công cho Trung Quốc đảm nhiệm, vì ở ngay sát Việt Nam, đồng thời nhắc nhở Việt Nam phải ra sức học tập kinh nghiệm của Trung Quốc. Rõ ràng là Liên Xô không muốn công khai dính líu đến vấn đề Việt Nam ở thời điểm nhạy cảm này.

Dù chỉ được đón tiếp lạnh nhạt, chuyến đi của Hồ Chí Minh đến Liên Xô đã giúp Việt Nam thoát ra khỏi thế cô lập, tái hòa nhập với phong trào CSQT, mở ra hậu phương lớn, nhờ đó đưa cuộc kháng chiến của ta đi đến thắng lợi ở Điện Biên Phủ. Nhưng cũng từ đây sẽ phát sinh những hệ lụy phức tạp mà Hồ Chí Minh phải gánh chịu về sau này. Sự viện trợ về quân sự và kinh tế đi liền với những áp đặt về quan điểm chính trị, về cơ chế, tổ chức,…theo mô hình của Trung Quốc. Từ đây, Hồ Chí Minh rất khó có thể giữ được hoàn toàn độc lập, tự chủ như ở giai đoạn trước.

Mặc dù có sự thúc ép rất mạnh của Trung Quốc, Hồ Chí Minh vẫn nấn ná, trì hoãn trong thực hiện các chỉ thị của Staline. Phải sang đầu năm 1951, ông mới tiến hành Đại hội toàn quốc lần thứ II, đưa Đảng CS ra công khai, nhưng đổi tên thành Đảng Lao Động Việt Nam; năm 1953 mới phát động quần chúng thực hiện giảm tô, năm 1954 mới thí điểm cải cách ruộng đất ở một vài vùng trung du; sau hòa bình 1955-56 mới triển khai rộng rãi trên toàn miền Bắc. Đặc biệt, họ đòi ta phải cải tổ quân đội, đặt ra hệ thống chính ủy, ép ta phải thay thế những tướng tá, cán bộ chỉ huy các cấp có nguồn gốc xuất thân trí thức, tiểu tư sản bằng những cán bộ gốc gác công nông! (thực ra là muốn tạo ra một đội ngũ tướng tá mới để dễ bề thao túng hơn). Vị tướng phụ trách Tổng cục cán bộ đã trình lên Hồ Chí Minh một danh sách hàng trăm người phải thay thế, trong đó có cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp! Song Cụ Hồ đã kiên quyết phản đối: “Gạt ra một lúc từng này người, lấy ai mà chỉ huy? Phải đốt ngay danh sách đó đi!”. Nhưng rồi có điều Cụ cũng phải nhượng bộ, chấp nhận đề bạt thêm một đại tướng xuất thân công nông, phụ trách chính trị để cân bằng với Võ Nguyên Giáp! (mà theo lý thuyết của Mao thì chính trị vẫn cao hơn quân sự).

Dưới sức ép của các cố vấn Trung Quốc, hàng loạt sai lầm tả khuynh đã diễn ra sau đó, đau đớn nhất là sai lầm trong cải cách ruộng đất; là không khí đấu tố căng thẳng trong chỉnh huấn, chỉnh quân, có người đã phát điên, có người phải tự vẫn! Nhiều văn nghệ sĩ, trí thức, xuất thân gia đình lớp trên, lo sợ, đã từ bỏ kháng chiến về thành. Sau Hiệp định Giơ-ne 1954, hàng chục vạn đồng bào đã bỏ quê hương di cư vào Nam. Cụ Hồ rất đau đớn trước nhưng tổn thất đó, Người đã phải khóc, nhận lỗi trước Quốc hội và thực tâm Cụ muốn điều chỉnh lại chính sách. Nhưng phía Trung Quốc đã có phản ứng tiêu cực. Chu Ân Lai từng phát biểu thẳng với ta (đại ý): Thắng lợi trong cải cách là cơ bản, còn oan sai-dù có lên tới ngàn vụ- nếu so với cải cách ruộng đất ở Trung Quốc liệu có thấm thá gì mà phải làm ầm ỹ đến như thế! Lưu Thiếu Kỳ thì đã phát biểu trong Hội nghị TƯ Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày 25-03-1963 rằng: “Hồ Chí Minh xưa nay vẫn là tay hữu khuynh…Sau chiến cuộc 1954, ông ta vẫn còn chần chừ, không dứt khoát chọn chế độ tư bản hay xã hội chủ nghĩa. Chính chúng ta (tức ĐCS Trung Quốc) đã phải quyết định cho ông ta”[15]!.

Một dân tộc nhược tiểu muốn đánh thắng một đế quốc hùng mạnh, không thể không tranh thủ liên minh, liên kết quốc tế, lợi dụng sức mạnh thời đại để chiến thắng kẻ thù, theo sách lược phù hợp với từng giai đoạn cụ thể. Mặc dù đã rất khôn khéo điều chỉnh và chấp nhận thỏa hiệp nhất định với thực tế cay nghiệt của hoàn cảnh nhằm đạt được mục tiêu cao cả nhất là độc lập, thống nhất cho dân tộc, song Hồ Chí Minh đã không thể dự kiến hết được mọi diễn biến phức tạp về sau, nên đã phải gánh chịu những điều tiếng nặng nề, nhất là về sau này, khi “người đồng chí quốc tế vô sản” đã hiện nguyên hình là “kẻ thù xâm lược bành trướng Đại Hán”!

Nhưng không thể vì những éo le đó của lịch sử, mà đi đến quy kết những nhân nhượng của Cụ Hồ khi phải ký Hiệp định sơ bộ 6-3 là hữu khuynh; không thể coi việc từng bước phải chấp nhận những áp đặt đường lối của Mao sau 1950, là đã rơi vào “tả” khuynh; cũng như không thể cho là đã mắc sai lầm khi phải chấp nhận ký vào bản Hiệp định Genève 1954 mà kết quả của nó không phản ánh đúng tương quan lực lượng trên chiến trường, …Đơn giản vì xưa nay một nước nhỏ, trong thế phụ thuộc vào những nước lớn, khó có thể tự quyết định được số phận của mình. Đó là những ràng buộc khắc nghiệt của hoàn cảnh mà Hồ Chí Minh và Đảng CS Việt Nam đã không thể vượt qua. Chân lý “không gì quý hơn độc lập, tự do” được Cụ đúc kết từ những trải nghiệm qua nhiều mối quan hệ, trong đó có cả quan hệ với ông bạn “vàng” từng được coi “vừa là đồng chí, vừa là anh em”. Cảm quan về nỗi “cay đắng” này từ sớm đã được Cụ viết ra thành thơ:

Trên đời ngàn vạn điều cay đắng,
Cay đắng chi bằng mất tự do.
Mỗi việc, mỗi lời không tự chủ,
Để người ta dắt tựa trâu bò.
(“Nhật ký trong tù”)
Vai trò và trách nhiệm của Hồ Chí Minh giai đoạn sau 1954.

Chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu được coi là một trong những sự kiện lớn nhất của thế kỷ XX, nó đã đào mồ chôn chủ nghĩa thực dân Pháp đồng thời mở đầu cho sự sụp đổ không gì cứu vãn nổi của hệ thống thuộc địa trên phạm vi toàn thế giới, làm cho tên tuổi Việt Nam –Hồ Chí Minh được cả loài người biết đến và hết lòng khâm phục. Nhân loại đã nhất trí suy tôn Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà yêu nước vĩ đại của Việt Nam , đồng thời là chiến sĩ tiên phong của phong trào giải phóng các dân tộc thuộc địa”! Có lẽ, đây là sự vinh danh cao cả nhất, đúng đắn nhất, xứng đáng nhất với Hồ Chí Minh – một người đã nửa thế kỷ không ngừng đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình và cho sự nghiệp giải phóng các dân tộc bị áp bức. Một cuộc đời như thế, tuy chưa thật trọn vẹn, nhưng có thể nói là đã hoàn toàn xứng đáng đứng vào hàng các vĩ nhân của nhân loại trong thế kỷ XX.

Nhưng khi đất nước chuyển sang thời kỳ hòa bình, xây dựng, thực hiện thống nhất nước nhà, vai trò của Hồ Chí Minh như thế nào, Cụ có những nhược điểm, hạn chế gì không?

Như một tấm huân chương có mặt phải, mặt trái; con người cũng có mặt ưu, mặt nhược, mà như người ta thường nói: có khi nhược điểm lại là cái bóng nối dài của ưu điểm. Vĩ nhân cũng chỉ là một con người, mà con người nào chẳng bị giới hạn bởi đời sống trần thế. Hồ Chí Minh là một nhân vật lịch sử nên cũng chịu sự ràng buộc của điều kiện lịch sử. Ông là người Việt Nam nên cũng chung đúc cả tinh hoa lẫn nhược điểm của dân tộc Việt Nam. Từ buổi đầu dựng nước, dân tộc ta đã phải liên tục đứng lên chống giặc ngoại xâm, những nhân vật được nhân dân phong “thánh”, từ Thánh Gióng, Đức thánh Trần, đến Hồ Chí Minh,…đều là những anh hùng chống ngoại xâm. Trí tuệ dân tộc dồn tất cả cho sự nghiệp giữ nước, nên thành tựudựng nước không mấy dồi dào, lịch sử nước ta thiếu những nhân vật “kinh bang, tế thế” lỗi lạc, mở ra cho dân tộc những thời kỳ phát triển rực rỡ về kinh tế, văn hóa, tư tưởng,… Do bị ngoại thuộc sớm ngay khi vừa lập quốc, trong hàng ngàn năm Bắc thuộc, ta chưa kịp sáng tạo ra chữ viết riêng, nên cũng không có triết học riêng, tôn giáo riêng,… nói chung là đều du nhập,vay mượn từ nước ngoài, mà ta cũng không tiếp thu cái gì cho thật hoàn chỉnh, sâu sắc, hệ thống để từ đó vượt lên, sáng tạo ra cái riêng, với tư cách là sản phẩm của Việt Nam.

Vì vậy, các nhà nghiên cứu suy tôn Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng, nhà lý luận, hay nhà văn hóa,…kèm theo những tính từ rất cao, cũng chỉ là một cách bồi dưỡng niềm tự hào cho nhân dân mình, còn Hồ Chí Minh – với bản chất khiêm nhường – ngay từ lúc còn sống, Cụ đã khước từ mọi danh hiệu người đời gán cho. Ví như Cụ từng nói: Nhà thơ gì tôi? Trong tù, đi ngang được ba bước, đi dọc được sáu bước, không biết làm gì thì làm thơ, thế thôi! Tôi chỉ là người có chút duyên nợ với báo chí, gọi tôi là nhà cách mạng chuyên nghiệp là đúng nhất.

Để góp phần đánh giá khách quan về Hồ Chí Minh ở thời kỳ sau hòa bình, ta hãy thử xét qua một vài phương diện cơ bản:

A. Về xử lý mối quan hệ giữa đức trị và pháp trị:

Hồ Chí Minh vốn là một môn đệ của Nho giáo, nên rất coi trọng đức trị, lấy đức làm gốc; bản thân suốt đời nêu gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư,…Trong kháng chiến, Cụ chưa có điều kiện chăm lo đến xây dựng nền pháp trị. Dù đã từng lập ra Bộ Tư pháp ngay từ năm 1945, song chịu sức ép của quan điểm mao-ít, lại giải thể nó đi trong hơn 10 năm, nên đến lúc qua đời năm 1969, Cụ Hồ cũng chỉ mới thông qua được có 16 đạo luật, còn lại, toàn là sắc lệnh.

Song không phải Cụ coi nhẹ vai trò của pháp luật, khi cần nghiêm khắc, Cụ vẫn rất nghiêm khắc để giữ vững kỷ cương, phép nước, như đã từng ký lệnh xử tử hai cán bộ cao cấp (Đại tá Trần Dụ Châu và Thứ trưởng Trương Việt Hùng), điều mà những người kế tục ông sau này chưa ai theo được tấm gương ấy – mặc dù mức độ tham nhũng và sa đọa của những kẻ phạm pháp hiện nay còn lớn gấp trăm nghìn lần hơn so với hai nhân vật được nhắc đến ở trên.

Không hình thành được ý thức và tập quán “sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”trong cán bộ và nhân dân, có nguyên nhân sâu xa từ trong truyền thống “phép vua thua lệ làng” của xã hội phong kiến-tiểu nông ngày xưa (có lúc còn được ta đề cao như là biểu hiện của tinh thần phản kháng). Dù sao Cụ Hồ cũng phải chia sẻ một phần trách nhiệm trong vấn đề này, vì chưa nhận thức được nhược điểm cố hữu của dân tộc, để sớm xử lý đúng đắn mối quan hệ tương hỗ giữa pháp trị với đức trị.

Người ta thường nói: pháp luật là đạo đức tối thiểu, đạo đức là pháp luật tối đa. Trong môi trường làng xã nhỏ hẹp ngày xưa, các gia đình, dòng họ sống với nhau nhiều đời, hiểu biết về nhau rất kỹ, chỉ làm một việc xấu, dù nhỏ, cũng lan đi rất nhanh, cả làng đều biết. Sống ở làng, dư luận có vai trò điều tiết đạo đức rất lớn, nên ai cũng phải giữ gìn. Nhưng đi vào xã hội đô thị hiện đại, chỉ riêng đạo đức thôi không đủ, phải tăng cường vai trò của pháp luật, phải luật hóa những chuẩn mực đạo đức tối thiểu, buộc ai cũng phải tuân theo, để từ cưỡng chế trở thành thói quen tự giác của toàn xã hội.

Đạo đức cách mạng không phải là những chuẩn mực bình thường, mà là những yêu cầu đạo đức rất cao, không thể đạt được chỉ bằng kêu gọi và nêu gương, mà phải được quán triệt vào trong cơ cấu, thể chế, tổ chức, biến nó thành pháp luật,…buộc ai cũng phải thực hiện, nếu không muốn bị pháp luật trừng trị hay đào thải. Do những chuẩn mực đạo đức không sớm được thể chế hóa thành luật, nên bản thân tấm gương đạo đức của Cụ Hồ cao đẹp, hấp dẫn đến như thế mà vẫn không đủ sức ảnh hưởng, thấm sâu vào ngay các đồng chí, học trò gần gũi chung quanh mình, thì làm sao ảnh hưởng tới được đông đảo cán bộ và nhân dân bên dưới?

Ở phương Tây, người ta đâu có rao giảng nhiều về đạo đức, kể cả Mác, nhưng họ lại rất coi trọng xây dựng thể chế, tổ chức, pháp luật, khép con người vào quy củ, dùng cưỡng chế của pháp luật, biến đạo đức thành tập quán, thành nếp sống tự nhiên của toàn xã hội. Ai làm trái đều bị công luận lên án, pháp luật xử trí, từ đó mà dẫn đến sự hình thành văn hóa tự xử: Quan chức có sai lầm thì lập tức tự nguyện xin từ chức, thậm chí có người còn đi đến tự vẫn (do xấu hổ, không chịu nổi áp lực phê phán của xã hội). Một xã hội hình thành được những thể chế và tập quán như thế sẽ “làm cho những lời kêu gọi về đạo đức trở nên thừa”.

Ở ta hiện nay, tuy văn bản pháp luật không thiếu, nhưng đang bị vô hiệu hóa, người ta xét xử không nhân danh Công Lý, mà nhân danh Nhà nước, nên xét xử như thế nào đều ở trong sự dàn xếp giữa các “nhóm quyền lực”, Thần công lý chỉ còn là một anh hề, vì vậy chưa thể nói đến bao giờ ta mới có văn hóa tự xử!Các quan chức tham nhũng, tha hóa, đồi trụy vẫn cứ nhơn nhơn, đâu biết xấu hổ là gì mà phải tự vẫn! Trong bối cảnh ấy mà cứ kêu gọi “đẩy mạnh học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” một cách hình thức và nhàm chán, một khi “trái núi chỉ đẻ ra những con chuột” tham nhũng thì dễ biến thành một trò hề, hơn nữa còn là một sự nhạo báng đối với Cụ.

B. Về đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc:

Vào những năm 60 thế kỷ trước, tâm trí Cụ Hồ có phần dành nhiều hơn cho miền Nam và sự nghiệp thống nhất đất nước, song đây vốn là một trong hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng cả nước; có lẽ do thiếu cả lý luận lẫn thực tiễn, Đại hội III (1960) của Đảng vẫn chưa thể vạch ra được một chiến lược rõ ràng và đầy đủ cho một “tổng lộ tuyến” đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam .

Xây dựng chủ nghĩa xã hội có nội dung quan trọng hàng đầu là kinh tế, đây lại là mặt yếu của nhà chính trị Hồ Chí Minh. Theo đuổi mục tiêu cứu nước, Cụ Hồ chưa có điều kiện đi sâu tìm hiểu các học thuyết kinh tế của A. Smith, D. Ricardo, kể cả Tư bản luận của Marx, chưa nói gì đến các học thuyết kinh tế hiện đại. Nho giáo xưa vốn rất ít bàn về sản xuất và kinh tế. Vì vậy, chưa thể nói đến tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh một cách đầy đủ và hệ thống, bản thân Cụ cũng chưa từng một lần nhắc đến khái niệm kinh tế thị trường.

Hồ Chí Minh sống đến 1969, khi đó Quốc tế xã hội chủ nghĩa, sau chiến tranh, đã phục hồi và phát triển, tới Đại hội thứ 23, đã có 170 tổ chức thành viên từ 126 nước tới dự, trong đó có 29 đảng đang cầm quyền, 23 đảng tham gia liên minh cầm quyền. Chủ nghĩa xã hội dân chủ kiểu Bắc Âu ngay từ sinh thời Cụ đã có những thành tựu được cả thế giới biết đến. Hồ Chí Minh do bị chi phối bởi tư tưởng đối đầu thời kỳ chiến tranh lạnh, chưa có điều kiện tìm hiểu, nên chưa biết đến những thành tựu này của chủ nghĩa xã hội dân chủ.

Tuy sinh thời, Hồ Chí Minh từng nói: Việt Nam chúng ta không giống với Liên Xô và Trung Quốc, ta cần thiết phải tìm ra con đường khác để đi lên chủ nghĩa xã hội. Song đây chỉ có ý nhấn mạnh là phải biết xuất phát từ đặc điểm riêng của mỗi nước, chưa phải do đã nhận thức được những nhược điểm, sai lầm, khuyết tật trong mô hình chủ nghĩa xã hội cực quyền của Staline – cái mà ngày nay chúng ta gọi là “những lỗi của hệ thống”! Vì vậy, trong các phát biểu, cả trong Di chúc, chưa thấy Cụ Hồ có cảnh báo nào phải đề phòng, để tránh không mắc vào những khuyết tật ấy. (Di chúc có nói đến “phải chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”, nhưng chưa đề cập tới hai chữ “đổi mới” với hàm nghĩa như là phải cải tổ).

Nhận thức về vai trò và sức mạnh của khoa học và công nghệ:

Nếu so sánh có thể thấy: sinh thời Marx còn chưa biết đến đèn điện, thời Engels chưa có máy bay, thời Lênin đã có điện ảnh, vô tuyến điện, nhưng chưa có vô tuyến truyền hình,… sinh thời Hồ Chí Minh đã được chứng kiến những thành tựu khoa học-công nghệ làm thay đổi thời đại: sức mạnh năng lượng nguyên tử, máy điện toán, công nghệ thông tin, công nghệ biến đổi gien, con người đã bay vào vũ trụ,… Tuy nhiên, Hồ Chí Minh còn ít nói về vai trò và sức mạnh của khoa học-công nghệ, có nói, nhưng chưa đủ, chưa đến độ, nhất là chưa ráo riết trong tổ chức, đào tạo, nghiên cứu, vận dụng, phát triển khoa học-công nghệ , để nhanh chóng đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu.

Có thể đổ tại hoàn cảnh chiến tranh, đất nước bị chia cắt,…nhưng nếu so với Bắc Triều Tiên cùng hoàn cảnh như ta, mà từ lâu họ đã chế tạo được vũ khí hạt nhân, tên lửa đạn đạo, đã có nền công nghiệp quốc phòng hiện đại, khiến cho các cường quốc láng giềng phải vì nể. Trong khi đó, đến nay ta vẫn chưa có một nền công nghiệp cơ khí chế tạo đủ sức tự sản xuất hoàn chỉnh một chiếc ôtô, một cái máy chuyên dùng cho công nghiệp hay nông nghiệp,… thế mà cứ “hồn nhiên, vô tư” nói rằng đến năm 2020 (tức là chỉ 5 năm nữa) nước ta sẽ trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại!

Hiện nay, ta đã có hai viện hàn lâm khoa học nhưng lại không có những “viện sĩ” đúng nghĩa; có nhiều giáo sư, tiến sĩ nhưng lại không có phát minh, sáng chế được quốc tế biết đến và công nhận,…Đó không phải là lỗi của cá nhân mà thuộc lỗi của đường lối, của tầm nhìn lãnh đạo, chưa vạch ra được một chiến lược quốc gia về phát triển khoa học-công nghệ với những định hướng mục tiêu cơ bản cần đạt trong các kế hoạch trung hạn và dài hạn.

Con người Việt Nam vốn thông minh, năng động, khéo tay nhưng cũng mang những hạn chế của một cư dân nông nghiệp sản xuất nhỏ (giỏi bắt chước nhưng kém độc lập, sáng tạo) lại cộng thêm di chứng của Nho giáo, trọng danh hơn trọng thực, nên mới có tình trạng thừa thầy mà thiếu thợ, thừa quan chức mà thiếu chuyên gia, như Cụ Hồ nói: thừa người đi tuyên truyền mà thiếu người giỏi quản trị hành chính; sính làm thơ, sáng tác “văn chương” hơn là say mê, tìm tòi, phát minh khoa học-kỹ thuật,…(Vì vậy, đã có người phải loa lên rằng “Toàn dân yêu thơ, sơn hà nguy biến!). Trong hoàn cảnh đó, những anh “Hai Lúa” chế ra được máy bay trực thăng, tàu ngầm mini, cải tiến xe bọc thép,…đáng phong anh hùng lao động sáng tạo, lại không được Nhà nước tuyên truyền, đề cao, nên ta mới chỉ có loại anh hùng “sao văn tế”!

Khoa học-công nghệ của ta muốn phát triển, giáo dục-đào tạo phải khắc phục được những nhược điểm cố hữu nói trên của con người Việt Nam, nhất là Nhà nước phải tháo gỡ những vướng mắc trong cơ chế, chính sách đang là rào cản sự phát triển của khoa học-công nghệ hiện nay:

– một là, lựa chọn, cắt cử người lãnh đạo khoa học-công nghệ phải là những nhà khoa học tâm huyết, có thực tài, có khát vọng sáng tạo, tìm tòi cái mới và truyền được khát vọng đó cho đồng nghiệp và học trò (như thế hệ các giáo sư Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Bửu,… thời Cụ Hồ ngày xưa). Muốn thế, phải biết quý, biết trọng những người có bộ óc lỗi lạc, có tầm vóc khoa học, chứ không phải coi họ như những “sai nha” quen xun xoe, nịnh hót quanh mình.

– hai là, phải hình thành đồng bộ một đội ngũ các nhà khoa học đầu ngành có trí tuệ, có sức sáng tạo mạnh, có công trình nghiên cứu được thế giới biết đến, có quan hệ rộng rãi với các nhà khoa học nước ngoài, có khả năng đào tạo được các nhà khoa học trẻ, đảm bảo tính kế thừa và phát triển tiếp nối ở mỗi chuyên ngành nghiên cứu. Đáng tiếc, ở ta hiện nay đang có sự đứt gãy, hụt hẫng giữa các thế hệ, lớp sau không kế thừa được lớp trước.

– ba là, phải làm trong sạch môi trường học thuật đang bị ô nhiễm nặng: các chuẩn mực khoa học không được triệt để tôn trọng; nạn “học giả, bằng thật”, nạn mua bằng, bán điểm; nạn lũng đoạn, tham nhũng đáng xấu hổ trong việc giành giật các chương trình, đề tài nghiên cứu, …Muốn thế, phải trả lương cho các nhà khoa học đủ sống để họ có thể theo đuổi lý tưởng sáng tạo khoa học, biết đứng cao hơn mọi cám dỗ vật chất, danh vị, tiền tài; phải tiến tới xóa bỏ “nền khoa học bao cấp”, bỏ “cơ chế xin cho” trong nghiên cứu khoa học!

Không coi trọng chỉ đạo và đầu tư tương xứng cho khoa học-công nghệ, tức là không quán triệt trong thực tế quan điểm coi cách mạng khoa học-công nghệ là then chốt, đó là lỗi của Đảng và Nhà nước, trong đó có phần nào trách nhiệm của người đặt nền móng, là Cụ Hồ.

*

Lịch sử dân tộc ta đã ghi lại không ít tên tuổi sáng chói của những anh hùng cứu nước, chống ngoại xâm, như hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,…GS Hoàng Xuân Hãn, trong một thư gửi Đại tướng Võ Nguyên Giáp, có đoạn viết: tuy nước ta có nhiều cuộcchiến thắng ngoại xâm, nhưng “chỉ có hai cuộc giải phóng mà thôi: thời 1416-1427 với Lê Lợi cùng Nguyễn Trãi và thời 1945-1975 với Bác Hồ cùng các Anh” [16] . Ý GS Hãn muốn nói: cần phân biệt giữa chiến thắng chống ngoại xâm với sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước, một bên có sẵn một hệ thống nhà nước với quân đội hùng hậu được trang bị và tổ chức chặt chẽ, được nhân dân cả nước sẵn sàng góp người, góp của để bảo vệ Tổ quốc; với bên kia là cuộc đấu tranh giải phóng đất nước (đang bị ngoại bang thống trị với hệ thống cảnh sát, máy chém, nhà tù), phải khởi sự từ hai bàn tay trắng, phải bí mật nhen nhóm, thức tỉnh lòng yêu nước và căm thù của nhân dân, phải rất giỏi tổ chức quần chúng, từ nhen từng đốm lửa nhỏ đến đốt cháy cả đồng cỏ rộng…Muốn thế, người lãnh tụ phải có đạo đức rất cao mới hấp dẫn được quần chúng đi theo mình; lại phải rất trí tuệ, rất tài năng trong phân tích tình hình, khéo liên minh, liên kết, biết thêm bạn, bớt thù, giỏi nắm bắt thời cơ, chớp thời cơ để giành lấy thắng lợi cuối cùng.

Nếu kể từ ngày Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước, đến 1941 trở về gây dựng và làm cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, rồi lãnh đạo cuộc kháng chiến 9 năm, kết thúc vẻ vang với Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ 1954, là gần trọn 45 năm! Đó là một sự nghiệp vô cùng gian nan, cực khổ nhưng cũng vô cùng vinh quang.Vào nửa đầu thế kỷ XX, ở Việt Nam không một nhân vật lịch sử nào có thể so sánh với tầm vóc của Cụ được!

Lịch sử rất công minh trong phán xét ai là kẻ có tội, ai là người có công. Chúng ta vững tin rằng năm tháng qua đi, hận thù được xóa bỏ, dân tộc hòa hợp lại, lịch sử sẽ đánh giá đúng công lao, sự nghiệp của Hồ Chí Minh: “Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà yêu nước vĩ đại, chiến sĩ tiên phong của phong trào giải phóng các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ XX”./.

Tháng 5-2015

Chú thích:

[1] Thư Enghels gửi Karl Kautsky ở Viên. Xem Mác-Ănghen Tuyển tập, t. V, nxb Sự Thật, Hà Nọi, 1983, tr. 684-85

[2] Dẫn lại theo A. Schenalder, trong sách Chủ thuyết của chúng ta, ấn hành tại CHDC Đức 1981, tr. 83.

[3] Xem Trần Dân Tiên giả, Hồ Chí Minh truyện, Trương Niệm Thức dịch, Bát nguyệt xuất bản xã ấn hành 6-1949, bản Trung văn, tr. 90.

[4] Văn kiện Đảng Toàn tập, t. 4, tr. 367.

[5] Xem Hồ Chí Minh truyện, sđd, tr. 90.

[6] Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, Hồ Chí Minh Toàn tập, xb lần thứ 2, t. 1, tr. 464-466.

[7] Bài nói chuyện của ông về cuốn sách mới có tựa đề “Việt Nam Exposé and New biography of Hồ Chí Minh “, tại Toronto, Canada, ngày 29-10-2003. Dẫn lại theo bản tin BBC, Ban Việt ngữ.

[8] Văn kiện Đảng Toàn tập, t. 7 (1940-1945), Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, năm 2000, tr. 113.

[9] Hồ Chí Minh Toàn tập, t. 3, tr. 198.

[10] Dẫn lại theo P. Messmer, trong cuốn Les blans s’en vont, Albin Michel, 1998, p. 35. Nguyên văn tiếng Pháp: “Plutôt flairer la crotte des Français pendant cinq ans, que flairer celle des Chinois pendant mille ans”!.

[11] Ý này Hồ Chí Minh nói 2 lần, lần đầu với Trương Phát Khuê tại Liễu Châu 1944, lần 2 với các ký giả Pháp tại Paris 1946. TBT Nguyễn Phú Trọng nay còn có tầm nhìn xa hơn: “Chưa biết đến cuối thế kỷ này (21), chúng ta đã có chủ nghĩa xã hội đích thực hay chưa!”.

[12] Dẫn theo Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 2002, tr. 91.

[13] Dẫn lại theo Tucker, Spencer ed., The Encyclopedia of the Vietnam War, NY, Oxford University Press, 2000, p. 422.

[14] Xem bài Thư từ Việt Nam, ký tên LIN, trong Hồ Chí Minh Toàn tập, t. 7, tr. 100.

[15] Trich tham luận của Yang Kuisong “Mao Zedong and the War in Indochina” (Mao Trạch Đông và chiến tranh Đông Dương), đọc tại Hội tháo Khoa học tại Hong Kong ngày 11,12 tháng 1 năm 2000. Dẫn lại theo P. Brocheux, trong cuôn tiểu sử của ông về Hồ Chí Minh , Nxb Biographie Payot, Paris, 2003, p. 245.

[16] Thư của GS Hoàng Xuân Hãn gửi Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ngày 2 tháng 1 năm Bính Tý 1996.

ĐỘNG BƯỚM



Phút say đắm tột cùng em mở toang động bướm
Giữa khu rừng rậm rạp nguyên sơ
Nàng thơ thẫn thờ si mê hưng phấn
Bướm của em chứa cả thánh thần lẫn yêu ma…

Có ai chưa em đã vào khai phá?
Để bướm vẫy vùng, bướm thỏa ước ao
Và khi ấy em sẽ không còn là trinh nữ
Bờ bãi đời người bướm vẫn lượn như sao.

Thân nhi nữ một thế giới mênh mông hoang dại
Cấu thành bên trong bao yếu tố mĩ miều
Tự thiên thai chẳng phải vẽ vời nắn gọt
Lạc vào vườn em trái cấm ngọt hương tươi.

Tình yêu từ đâu anh không biết?
Mà rung cảm tâm hồn, lay động trái tim!
Nhưng yêu nhất là bướm em
có sức chinh phục diệu huyền
Đêm đêm bướm thường bay ra trong phòng ngủ…

Bướm của em trên đời mãi còn quý giá
Đến lúc cần bướm lại sinh con…
Không lời thơ nào tả hết được vẻ đẹp bướm em
Nam-mô-a-di-đà!

Thứ Ba, 19 tháng 5, 2015

Mai


Lời mở đầu- Dưỡng sinh Năng lượng (1)





 Mỗi người trong chúng ta đều có một năng lực tiềm ẩn mà chúng ta chưa biết đến nên chưa có cơ hội để khai thác. Các tiềm năng này ở một số người đã được sử dụng mà không mảy may ý thức được. Thường đa số chúng ta không nhận ra nó bởi trực giác còn mơ hồ mà chỉ ở một số người phát hiện được khả năng này. Mục đích của Học Viện Nghiên Cứu Tâm lý (Institut détudes psychiques - Houston, Texas, USA) nhằm làm sáng tỏ các khả năng đặc biệt của con người
Cuộc nghiên cứu của chúng tôi giúp chứng minh rằng nhờ trung gian của một chất thể vật lý do cơ thể quản lý mà các khả năng này sẽ được hiện ra nhờ tập luyện. Đó là chất thể mà chúng ta gọi là “Năng lượng thể hào quang “Nội lực tự sinh“, cũng là loại chất thể mà các “yogi” gọi là “Prana”, các môn đồ của giới võ thuật gọi là “Khí” và các liệu pháp tâm lý gọi là “Năng lượng sinh học – Bio-Énergie”.
Mọi sinh vật đều tự sản sinh năng lượng nội tại. Năng lượng Sinh học là căn bản đối với mọi hoạt động sống và tham gia vào tất cả các giao tiếp giữa các vật thể với con người. Năng lượng sinh học là một chất liệu cụ thể, một cái trụ chống đỡ tinh vi, nhẹ nhàng và phân tán mà con người có thể tập hợp và tạo thành hình ảnh giúp cho các giác quan của con người có thể cảm nhận được. Năng lượng sinh học hiện diện khắp mọi nơi trong cuộc sống của chúng ta. Sự cảm nhận và kiểm soát được năng lượng sinh học rất cần thiết cho sự phát triển hài hoà khả năng của năng lượng tinh thần.
Muốn phát triển tiềm năng nội tại, điều cần thiết phải tập luyện, biết sử dụng nó một cách có ý thức để có thể làm chủ được Năng lượng nội tại (năng lượng ý thức). Tất cả điều này có thể thực hiện được khi sự tự chủ (thần khí) được thực hành liên tục và chính xác. Cần luyện tập và trau dồi tài năng trên các lĩnh vực tự nhiên, xã hội, tư duy nhằm làm thăng hoa một cách trọn vẹn.
Học Viện Nghiên Cứu Tâm Lý cho biết rằng sự phát triển các khả năng tinh thần đã giúp cho rất nhiều người trong các hoạt động nghề nghiệp và trong cuộc sống hàng ngày. Chúng tôi muốn chia sẻ quan điểm ấy, tức là khả năng tinh thần phải được thể hiện một cách tự nhiên và dễ dàng để có thể giúp cho cuộc sống và các giao tiếp được thuận tiện hơn. Cũng vì mục tiêu ấy mà Bộ môn Năng lượng Cảm xạ học được thành lập và bắt đầu hoạt động từ tháng 12/1998, trực thuộc Liên Hiệp Khoa Học - Công Nghệ Tin Học Ứng Dụng UIA và Hội Đồng Khoa Học UIA , mục đích thực hiện đề tài : Nghiên cứu và Thực nghiệm Dưỡng sinh Năng lượng Cảm xạ học (đề tài khoa học 812/LH.UIA).
Mục tiêu thực hiện đề tài gồm 4 điểm chính:1. Triển khai phương pháp phòng chống bệnh bằng sự luyện tập phương pháp Rung động thư giãn với Năng lượng Cảm xạ học.2. Khai thác những người có khả năng về Cảm xạ.3. Xây dựng Năng lượng Cảm xạ học thành môn Dưỡng sinh Năng lượng học một cách khoa học, có hệ thống và đại chúng.4. Góp phần bổ sung kinh nghiệm trong việc chẩn đoán và điều trị Y học Cổ truyền Dân tộc Việt Nam.
Chương trình nghiên cứu này được mở ra nhằm giúp cho các bạn thấy rằng có sự hiện diện thực sự của năng lượng nội tại mang tính vật lý và các khả năng tinh thần mà nó sản sinh ra được sẽ mang lại nhiều lợi ích đáng kể trong cuộc sống.
Các bài tập trong quyển sách này được dự trù cho 2 hay nhiều người cùng tập. Luyện tập với một người khác sẽ nhận được sự phản hồi (feed-back). Lần lượt qua các bài tập bạn sẽ cảm nhận được các phản ứng do năng lượng tạo ra trên cơ thể bạn và bạn có thể quan sát được các tiến bộ của người cùng tập. Các bài tập được sắp xếp theo một trình tự tiệm tiến có sự liên kết mạch lạc cộng với sự tập luyện hàng ngày sẽ giúp cơ thể bạn có đủ những năng lượng cần thiết cho các công việc quan trọng hơn. Những bài tập bổ túc tiếp theo dành cho những ai có những cảm xạ viên sống quanh mình muốn cùng thực hành với bạn. Các bài tập này đi từ dễ đến khó, từ giản đơn đến phức tạp.
Các tiến bộ sẽ đạt được lần lượt qua việc tập luyện cũng như các điều bạn thực hành cần phải được bạn ghi lại trong nhật ký. Có thể là sau đó, do thiếu luyện tập hoặc siêng năng luyện tập, nhật ký này sẽ giúp bạn nhận rõ sự tiến bộ hay không.
Điều quan trọng khác là bạn phải luôn thoải mái trong lúc tập luyện. Nếu bạn không cảm nhận được bất cứ năng lượng nào hoặc tưởng rằng năng lượng nội tại không có thật thì vô tình bạn đã làm đình trệ mọi nhận thức có thể có. Cần nhấn mạnh là bạn đừng bỏ lỡ bất cứ cơ hội nào, cần phải kiên trì và khách quan trong việc phân tích các kinh nghiệm sống của bạn. Nhật ký sẽ cấu thành một trong nhiều yếu tố quan trọng giúp đánh giá một cách khách quan sự tiến bộ của bạn.
Phải biết điều khiển và chế ngự năng lượng nội tại của chính bạn, của người khác và của môi trường nơi bạn đang sinh sống. Cần có sự chuyển đổi năng lượng liên tục giữa người này với người khác và với thiên nhiên. Sự chuyển đổi này cực kỳ quan trọng mặc dầu thoạt nhìn trông rất bình thường. Việc nhận thức được năng lượng bao quanh ta cũng tương tự như loài cá ý thức được môi trường nước nơi nó tung tăng. Đó là một thực tế mà con người chưa để ý đến.
Học được cách chế ngự khả năng nội lực của bạn, bạn sẽ thấy rằng chúng rung động trên các tần số khác nhau, kéo theo các cảm xúc và các thông tin khác nhau. Ngoài ra bạn còn thấy rằng năng lượng của mỗi người hoạt động trên một tần số nào đó phản ánh sự rung động của cá nhân người ấy mà thôi, không hề có sự giống nhau cho tất cả mọi người. Do đó đôi lúc, để có thể liên lạc với những tần số năng lượng sóng khác với năng lượng sóng của chúng ta, bạn phải tìm một tần số chung với chúng. Đây là phần trọng yếu của khoá học và là một yếu tố cần thiết cho sự nhận thức. Hơn nữa bạn có thể làm gia tăng khả năng trực giác và cảm nhận mà không làm lộ các nhược điểm của bạn nhờ sử dụng kỹ thuật tự bảo vệ (bảo vệ thần khí).
Nhờ khoá học, bạn sẽ nhận thức được các thông tin truyền đạt từ năng lượng nội tại. Các vật dụng, các tư trang có thể được xem như vật truyền mang năng lượng nhằm cung cấp thông tin cho bạn. Bạn sẽ học cách đọc và khai thác các thông tin từ các vật chứng này cũng như bạn tập đọc và khai thác các nguồn thông tin của người khác. Bạn sẽ thấy rằng các liên hệ ấy là những trạm thông tin giúp cho việc liên lạc được dễ dàng và cũng là để thực hiện sự hoà điệu bên trong cộng đồng.Với các bài tập trong tập tài liệu này, người cùng tập với bạn dần dần sẽ gia tăng về sức mạnh tinh thần rồi từ đó khả năng cảm nhận cũng như sự kiểm soát năng lượng nội tại của bạn và người cùng tập sẽ được dễ dàng hơn. Bạn sẽ khám phá được các khả năng nội tại của bạn nằm trong khu vực nào để bạn có thể tăng cường tập luyện để khai mở các vùng yếu kém. Chúng tôi tin chắc rằng các bài tập trong quyển sách này sẽ làm bạn hài lòng và giúp bạn gặt hái nhiều thắng lợi.
BS. Dư Quang Châu

THÁI CỰC LUẬN Chương 8. Tổng luận




Chúng ta đã bàn giải nhiều về Thái Cực. Bây giờ chỉ cần thâu tóm và nhắc lại ít nhiều điểm chính yếu.

1. Đối với các Thánh Hiền Trung Quốc, Thái Cực sinh xuất Vạn Hữu. Thái Cực vừa bao quát Vạn Hữu, vừa lồng trong vạn vật, Vạn Hữu. Thái Cực là Bản Thể của vũ trụ, bất biến, bất thiên, bất sinh, bất hoại, nhưng lại vẫn chủ trì mọi cuộc biến thiên của vũ trụ và của con người.

2. Đứng về phương diện vũ trụ khởi nguyên, Dịch Kinh chủ trương Thái Cực sinh Vạn Hữu. Đó là Nhất Nguyên Chủ Nghĩa. Thái Cực tuy là Nhất, là Nguyên nhưng lại biến hóa, vô cùng tận. Vả Thái Cực cũng lại là Vô Cực, là Thần, là Thượng Đế, siêu xuất trên cơ cấu Âm Dương, cho nên quan niệm Thái Cực có thể nói được là hoàn bị hơn những quan niệm Apeiron của Anaximandre, quan niệm Duy linh của Platon, quan niệm Ngũ Hành của Aristote.

3. Quan niệm Thái Cực tương tự như quan niệm Atman của Bà La Môn, quan niệm Logos của Âu châu, hay quan niệm đấng Christ vũ trụ của Teilhard de Chardin.

4. Vì chủ trương rằng Thái Cực chẳng những là Bản Thể của vũ trụ, mà còn là Vô Cực, là Trời, nên quan niệm Thái Cực không phải là một quan niệm Triết lý thông thường, mà còn là một đề tài đạo giáo hết sức quan trọng.

5. Đối với các Triết gia Trung quốc, Thái Cực tiềm ẩn ngay trong lòng Vạn Hữu, trong lòng con người. Nhưng chỉ có con người mới nhận được Chân lý ấy, mới cảm thông được với Thái Cực, mới trở về được với Căn nguyên.

6. Như vậy, quan niệm Thái Cực mở lối cho một phương pháp tu thân, một phương pháp trở về với Thượng Đế, với Căn Nguyên gốc gác của mình. Đó là con đường Hướng Nội, con đường Nội Tâm mà xưa nay các Thánh Hiền khắp thế giới đều đã nhất luật băng qua.

Cho nên muốn học Dịch, trước tiên phải tìm hiểu cho rành rẽ Vô Cực và Thái Cực. Hiểu được điều huyền vi, ảo diệu này là đã hiểu được chính ý Dịch Kinh, vì Dịch Kinh không phải là một quyển sách bói toán như người ta thường hiểu, mà chính là một phương pháp chính yếu để tìm Đạo, tìm Trời, trở về với Đạo, với Trời

Không phải nguyên nghe bình luận, mà còn cần phải có tâm thần thanh tịnh mới hiểu được Thái Cực. Tâm thần có thanh tịnh, sẽ thấy được Thiên Địa Chi Tâm, sẽ thấy được Thái Cực. [1]

[1] Ngô chi thần thanh, tắc Thái Cực chi lý tự minh. Thảng năng nhất niệm bất khởi cửu cửu trừng thanh, hư cực tĩnh đốc chi thời, tắc hư thất sinh bạch, kim cơ phi điện, phục kiến thiên địa chi tâm nhi tự minh hĩ. 吾 之 神 清 則 太 極 之 理 自 明. 倘 能 一 念 不 起 久 久 澄 清, 虛 極 靜 篤 之 時, 則 虛 室 生 白, 金 機 飛 電 復 見 天 地 之 心 而 自 明. — Tính Mệnh Pháp Quyết, quyển 1, trang 4.

QUÊN NHAU



cucvang832002




Tháng 4 bỏ đi mất tích
Ai ngồi ngốc nghếch bên đường
Biết làm sao tìm lại
Huệ tàn, đến chẳng còn hương…

Cà phê bỏ đi mất tích
Một chiều ngồi khuấy lên trời
Chỉ thấy mây tan rất nhẹ
Thờ ơ đắng một làn môi

Thành phố bỏ đi mất tích
Để lại phố cũ thành dòng
Người người đi qua xa lạ
Cười cười một nụ quên trong

Thanh xuân bỏ đi mất tích
Ga xép rối những đường tàu
Ở một quãng đường xa nọ
Có người thực sự quên nhau…

Bàn Về Chữ Không Trong Phật Giáo Nguyên Thủy




Thích Nữ Nhuận Bình






Chúng ta thấy thời Phật giáo Nguyên thủy đã đề cập đến vấn đề “không” một cách rất thâm thúy, với các tầng bậc ý nghĩa giá trị, phục vụ cho đời sống tu tập của hai bộ đại tăng. Tuy nhiên, khái niệm không này không chỉ dừng lại ở thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy, mà đến thời kỳ Bộ phái, tư tưởng này cũng được đem ra bàn luận, mổ xẻ và có lẽ đỉnh cao của khái niệm không, chính là thời kỳ của Phật giáo Đại thừa.



I. ĐẶT VẤN ĐỀ

“Như tuyết rơi trên sa mạc, tan rất nhanh sau đó và chẳng lưu lại dấu vết nào”. Trạng thái tuyết rơi, tan nhanh sau đó và không lưu lại dấu vết nào là một ám hiệu chỉ cho sự rỗng không, trống không của vạn pháp. Nhiều người cứ lầm tưởng, những gì hiện hữu trước mặt ta, bên cạnh ta và xung quanh chúng ta là những thứ thật có và tồn tại mãi với thời gian. Từ đó, con người cố chấp, bám víu vào nó, thậm chí, suốt một hành trình cứ đi tìm thứ hạnh phúc tạm bợ, mong manh, tìm mãi, tìm hoài mà chẳng bao giờ thấy được hạnh phúc chân như. Vì theo thời gian, vạn vật quay theo dòng xoáy của sinh, trụ, dị, diệt, từ không trở thành có và từ có lại trở về không.

Hiểu được như thế chúng ta mới thấy giáo lý không của đạo Phật thâm thúy, thật thâm thúy biết dường nào, chẳng những nó đáp ứng cho nhu cầu giải thích sự hình thành và biến thiên của vạn pháp, mà còn giúp cho những người chưa giác ngộ, những người đang vướng kẹt vào tự ngã tháo gỡ được mọi gút mắc, tìm cho mình lối đi thanh thản, hạnh phúc chân thật giữa cuộc đời.

Nhiều người lầm tưởng cho “không” là giáo lý phổ quát, đặc trưng của Phật giáo Đại thừa do Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) khởi xướng, nhưng kỳ thật, giáo lý này được chính đức Phật đã dạy cho chúng đệ tử ứng dụng tu tập khi Ngài còn tại thế. Điều đáng nói ở đây, giáo lý này theo thời gian rất phát triển và ứng dụng. Chẳng những Bộ phái đã bàn nhiều về vấn đề này, mà Long Thọ còn làm cho nó phát triển đến tột bậc.

Lịch sử nghiên cứu về giáo lý không đã được rất nhiều học giả bàn luận. Nguồn tài liệu chủ yếu mà chúng tôi sử dụng vẫn là những bản kinh trong văn tạng Nikaya và Agama. Bên cạnh đó, rất nhiều học giả đã nói về vấn đề này như cố HT. Thích Minh Châu với cuốn “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi”, Thích Hạnh Bình với cuốn “Triết học có và không của Phật giáo Ấn Độ” và còn rất nhiều những tác phẩm khác nói đến vấn đề này. Thu thập từ những nguồn tài liệu trên, chúng tôi đã tiếp nhận, nắm bắt, học hỏi và ứng dụng vào bài viết của mình bằng cách hiểu của riêng cá nhân.

II. CHỮ “KHÔNG” TRONG PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

Để phân tích về chữ “không” tức “Sùnyatà” trong Phật giáo Nguyên thủy, chúng tôi sẽ dựa trên những bản kinh của Pàli và Hán để trình bày, phân tích, chứng minh cho bài Nghiên cứu này.

1. “Không” là sự chấm dứt các phiền não của tâm

Không là một khái niệm xuất hiện khá sớm trong thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy, trải dài đến Phật giáo Đại thừa, tư tưởng không này cũng được Long Thọ xiển dương một cách triệt để. Tuy nhiên, tùy theo tiến trình của dòng chảy lịch sử mà khái niệm không này cũng mang nhiều ý nghĩa khác nhau.

Đọc qua các bản kinh Hán tạng và Pàli chúng ta đều thấy rất rõ, khái niệm không trong thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy mang những ý nghĩa giản đơn, mô tả đời sống thực của hàng xuất gia. Không lúc này của chúng đệ tử Phật chính là từ bỏ những ràng buộc của đời sống thế tục, sống đời sống không nhà cửa, ruộng vườn, vợ con, tài sản. Đức Phật cũng nhấn mạnh với chúng đệ tử rằng: Ngài vì an trú, không nên an trú rất nhiều. Trongkinh Tiểu Không theo văn bản Pàli và Hán tạng đã đề cập đến vấn đề này như sau:

“Này Ànanda, Ta nhờ an trú không nên nay an trú rất nhiều”[1] (Suññatāvihārenāhaṁ, Ānanda, etarahi bahulaṁ viharāmīti)[2]. Và “Này Anan, những lời của Ta nói, Thầy thật sự biết rõ, nhận rõ và nhớ kỹ. Vì sao? Vì từ trước đến nay, ta phần nhiều an trú nơi không”[3]. Mục đích đức Phật nói bài kinh này để khuyến tấn, khích lệ chúng Tỳ kheo nên hành trì không tánh một cách thiết thực. Vì chỉ có an trú vào tánh không, đệ tử Phật mới thật sự toàn tâm toàn ý cho vấn đề tu tập. Tục ngữ Việt Nam có câu nói rất hay: “Thứ nhất tu gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa”. Ý câu này thì tu ở nhà là khó nhất, khó thứ hai là tu ở chợ và cuối cùng dễ nhất là tu ở chùa. Điều này rất dễ hiểu, vì chùa là môi trường sống dành riêng cho người xuất gia. Môi trường này tách biệt hoàn toàn với đời sống thế tục. Những người ở đây đều chuyên tâm tu niệm, không vướng bận chuyện gia đình, tài sản, lợi danh. Nếu có chút tà tâm nào móng khởi, lập tức sẽ có những bậc phạm hạnh đồng tu nhắc nhở, thức tỉnh. Người tại gia khó có thể thực hiện được điều này vì họ còn vướng bận nợ trần, hằng ngày đối diện với đời sống ngũ dục, cơ hội học tập và thực hành chánh pháp của họ là một điều rất khó. Đó cũng là lý do mà chúng ta nhận thấy thời Phật còn tại thế, chỉ có người xuất gia mới chứng quả A La Hán, còn người tại gia thì không thấy đề cập đến.

Do đó, đức Phật nhắc các Tỳ kheo phải an trú vào không là vậy. An trú vào không ở đây chính là đời sống tu tập không vướng bận. Ngài đã lấy một ví dụ để minh họa cho điều này: “Này Anan, ví như giảng đường Lộc Mẫu này trống không, không có voi, ngựa, trâu, dê, tài vật, lúa, thóc, nô tỳ, nhưng có cái trống không, đó là chỉ có chúng tỳ kheo. Cho nên, này Anan, nếu những gì không có ở trong giảng đường này, thì vì thế ta thấy là không; nếu những thứ khác mà có, thì ta thấy thật sự là có. Này Anan, đấy gọi là chơn thật an trú tánh không, không điên đảo”[4].

Đức Phật dạy chúng Tỳ kheo phải an trú vào chơn thật không, tức cái gì không thì cứ quán là không có, cái gì có thì cứ thấy nó là có. Nhìn sự vật ở trạng thái đang là của nó. Ở đây, điều mà chúng ta thấy đức Phật đang khuyên các Tỳ kheo nên sống trong thực tại, chánh niệm tỉnh giác ngay đây và bây giờ. Đây là sự thực tập buông bỏ. Xem tất cả là không để thấy cuộc đời là giả tạm, xem tất cả là không để dẹp bỏ sự đam mê về vật chất, tiền tài, danh vọng, dẹp bỏ mọi hưởng thụ dục lạc, dẹp bỏ những ước mơ có đời sống sung túc. Đây mới chính là tâm nguyện của những người xuất gia chơn chánh.

“Cũng vậy, này Ànanda, Tỳ kheo không tác ý thôn trưởng, không tác ý nhơn trưởng, chỉ tác ý sự nhất trí do duyên lâm tưởng, tâm của vị ấy được thích thú, hân hoan, an trú, hướng đến lâm tưởng. Vị ấy tuệ tri như sau: “Các ưu phiền do duyên thông trưởng không có mặt ở đây, các ưu phiền do duyên nhân tưởng không có mặt ở đây, và chỉ có một ưu phiền này, tức là sự nhất trí do duyên lâm tưởng”. Vị ấy tuệ tri: Loại tưởng này không có thôn trưởng”. Vị ấy tuệ tri: “Loại tưởng này không có nhân tưởng, và chỉ có một cái này, không phải không, tức là sự nhất trí (ekattam) do duyên lâm tưởng”. Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây, vị ấy tuệ tri: “Cái kia có, cái này có”. Như vậy, này Ànanda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh”[5].

Qua đoạn dẫn ở trên, chúng ta thấy người xuất gia là người đang tìm cầu con đường giác ngộ, buông bỏ mọi phiền não của trần tục để có được đời sống phạm hạnh thanh cao, giải thoát mọi khổ đau, tìm về chân thiện mỹ. Đối với họ, nhu cầu sống hàng ngày rất đỗi bình dị, giản đơn, ba tấm y vàng che thân, chiếc bát dùng để khất thực, sàn tọa ngồi thiền và ít thuốc men để duy trì mạng sống. Một cuộc sống nói không với tất cả tài, sắc, danh, thực, thùy. So sánh với ngày nay, đời sống xuất gia của một số Tăng Ni không còn giữ được phạm hạnh như thế, ngày đầu bước vào đạo với tâm hoan hỷ bao nhiêu, buông bỏ bao nhiêu, thành kính đối với ba ngôi Tam bảo bao nhiêu, giữ giới hạnh bao nhiêu, sơ tâm xuất gia mạnh mẽ là thế, chân thành là thế, nhưng rồi khi đã thấm tương chao thì nghiệp cũ quay đầu. Chẳng những không buông bỏ mà còn muốn giữ thật nhiều, sẵn sàng đánh đổi mọi thứ để mua ghế, mua chức, chưa nói đến khi đụng chuyện là nỗi đóa sân si, giới hạnh lung lay vì không còn sơ tâm tịnh khiết. Thế mới thấm thía lời của cổ đức đã dạy: “Nhất niên Phật tại tiền, nhị niên Phật thăng thiên, tam niên bất kiến Phật” là thế. Đau lòng hơn nữa chính những người xuất gia lại nhúng tay vào những điều không phải là việc làm và hạnh nguyện của một kẻ xuất gia, đi ngược lại với tôn chỉ của Phật là “thượng cầu hạ hóa”. Có lẽ hơn ai hết đức Phật đã quá hiểu những đứa con không được ngoan sau này của mình nên đã cảnh tỉnh bằng những bài kinh thiết thực như thế. “Ngài đã giảng kinh này để khích lệ các vị Tỳ kheo nên hành trì không tánh một cách chơn thực không điên đảo”[6]. Vì chỉ có thấy mọi thứ là không, người xuất gia mới trọn vẹn tâm nguyện của một người đang tìm cầu sự giác ngộ, giải thoát. Mới thật sự buông bỏ những cái mà cuộc sống của những người trần tục có và nắm giữ, trở về trạng thái không của ban đầu là mới sanh ra, lúc mới hai bàn tay trắng đến với cuộc đời này. Từ đó đức Phật mới dạy: “Trong lâu đài Lộc Mẫu này không có voi, bò, ngựa, ngựa cái, không có vàng và bạc, không có đàn bà, đàn ông tụ hội, và chỉ có một cái không duy nhất”[7].

Khi đã ý thức được điều này, “....cũng vậy, này Ānanda, Tỷ Kheo không tác ý thôn tưởng, không tác ý nhơn tưởng, chỉ tác ý sự nhất trí, do duyên lâm tưởng; tâm của vị ấy được thích thú, hân hoan, an trú, hướng đến lâm tưởng”[8]. Lâm tưởng ở đây là khung cảnh Già lam thanh tịnh, là khu rừng thanh vắng chỉ dành cho những bậc chân nhân tu hành, hoàn toàn không có của cải, vợ con, cha mẹ, không có tiền tài, danh vọng, địa vị,... Tất cả mọi thứ đều không. Vị ấy như người đã đặt gánh nặng xuống và chỉ chuyên tâm tu hành, không còn các phiền lụy quấy nhiễu tâm thức. Tâm thanh tịnh và chính nơi ấy là Thiền định: “Này các Tỷ Kheo, ở đây, Tỷ Kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống (suññatāgāra-gato), ngồi kiết già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt”[9], đó chính là vị thế của thiền định.

2. “Không” là trạng thái của Thiền

Ý nghĩa lời dạy của đức Phật rất thâm thúy, rất sâu sắc, không chỉ hiểu một chiều, một tầng bậc mà nó bao hàm rất nhiều tầng bậc ý nghĩa khác nhau. Ngoài những gì đã phân tích ở trên, ý nghĩa chữ “không” sâu sắc hơn trong kinh Tiểu Không liên quan đến các trạng thái thiền định. Có bốn bậc thiền mà một vị Tỳ kheo nên đạt để làm rõ khái niệm “không” và an hưởng Niết-bàn: “Các phiền não do duyên lâm tưởng, địa tưởng không có mặt ở đây và chỉ có một phiền não tức là sự an tĩnh của Không vô biên xứ tưởng”[10]. Không vô biên xứ chính là tầng thiền thứ năm, và Kinh Tiểu Không đức Phật không chỉ dạy giới hạn ở tầng thiền này mà còn bao gồm tất cả các tầng thiền: Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, và Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Hành giả “vượt qua các thiền chứng về vô sắc giới, vị ấy không tác ý Vô sở hữu xứ tưởng không có tác ý Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chỉ tác ý sự nhất trí do vô tướng tâm định. Nghĩa là vị này chứng được tâm định nhờ dùng một đối tượng không có tướng nên gọi là vô tướng tâm định”[11].

Trong luận Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga), Ngài Long Thọ (Buddhaghosa) viết vào thế kỷ thứ năm, đã có nêu ẩn dụ phù hợp với bốn tầng thiền định đầu tiên như sau: “Một kẻ lữ hành đi trong sa mạc, không mang theo nước, và càng lúc thì càng khát. Cuối cùng, anh ta nhìn thấy một hồ nước ở đàng xa, anh ta tràn đầy hân hoan, vui sướng”. Kẻ lữ hành lang thang trong sa mạc càng đi càng thấy khát, ước mơ duy nhất của họ lúc này chính là tìm ra nước để giải thoát cơn khổ về khát. Như vậy, cơn khát này tượng trưng cho sự khát khao về một nội tâm an tĩnh và hạnh phúc của tâm hồn mà thế giới trần tục bên ngoài không làm sao đáp ứng được. Đây là trạng thái của thiền định lạc trú khi đã buông xả, đã chào thua với những thứ tạm bợ của cuộc đời, tức là lúc nói không với tất cả. Hạnh phúc của người lữ thứ chính là khi đã nhìn thầy hồ nước ở đằng xa. Đó là lý do vì sao, đức Phật bảo với ngài Anan: “Này Anan, nhờ an trú vào (khái niệm) “không” mà bây giờ ta được an trú viên mãn nhất”. Do đó, cần hiểu một điều rằng, nghĩa không ở kinh Tiểu Không chính là tùy thuộc vào các cấp bậc thiền chứng, những gì thật không có thời quán là không có, còn những gì thực có thời quán là thực có, nhìn sự vật như lúc đang là của nó thì Thiền cũng chính là không. Cho nên trong kinh mới mô tả rằng: “Trong cung điện của Lộc mẫu (Migāra) này không có voi, bò, ngựa và lừa cái, không có vàng, bạc, không có sự tập hợp của đàn ông, đàn bà, mà chỉ có tăng chúng Tỳ-kheo yên tĩnh”[12].

(Seyyathāpi ayaṃ. Migāramātu pāsādo suñño hatthigavāssavaḷavena, suñño jātarūparajatena, suñño itthipurisasannipātena; atthi c”ev” idaṁ asuññataṁ yadidaṁ bhikkhusaṁghaṁ paṭicca ekattaṁ.)[13]

Bước lên tầng bậc cao hơn của Không chính là Thiền định để đạt đến nội không và ngoại không mà trong kinh Đại không, đức Phật dạy một Tỳ Kheo muốn an tịnh vào bên trong Đại không, cần phải: “Ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và an trú trong thiền thứ nhất…, thứ hai…, thứ ba…, thứ tư…. Ngay cả như vậy, A-nan, vị Tỳ Kheo vững vàng, trầm tĩnh, nhất tâm và an định nội không”[14]. Ở đây chúng tôi không trích dẫn hết nguyên đoạn kinh dài, nhưng ứng vào chữ nghĩa, chúng ta có thể hiểu một cách ngắn gọn như sau: hành giả muốn an định vào nội không thì trước tiên cần phải “ly dục”, đó là xa lìa hay dứt bỏ những ham muốn của đời sống trần tục. Khi không dứt được lòng dục, lập tức các tập nhiễm phiền não sẽ dấy khởi trong tâm. Chỉ một niệm bất giác thôi, mãi mãi vị ấy không bao giờ tìm được niềm an lạc vĩnh cửu của tâm hồn. Nhưng muốn lìa dục, vị ấy cần phải xem tất cả là không, chỉ như thế vị ấy mới thật sự buông bỏ, thật sự ly dục và ly các bất thiện pháp. Chỉ khi chúng ta thật sự sống trong trạng thái không tĩnh lặng, thì cơ hội chứng và an trú vào các cấp độ thiền định từ thứ nhất đến thứ tư mới thật sự thành công. Ngay lúc này chính là đã an trú vào nội không. Chúng ta sẽ thẩm thấu hơn về điều này trong lời dạy của đức Phật:

“Và này Ānanda, như thế nào Tỷ kheo an chỉ, an tọa, chuyên nhất và an định nội tâm? Ở đây, này Ānanda, Tỷ kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú Sơ thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Diệt tầm và tứ, chứng và trú Nhị thiền, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhứt tâm... chứng và trú Tam thiền… chứng và trú Tứ thiền. Như vậy, này Ānanda, Tỷ kheo an chỉ, an tọa, chuyên nhất và an định nội tâm.

Vị ấy tác ý nội không... Vị ấy tác ý ngoại không… Vị ấy tác ý nội ngoại không… Vị ấy tác ý bất động”[15], làm cho tâm đưa đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

Cao hơn một bậc về cách quán nội không và ngoại không, đức Phật còn dạy về sự quán sát cả nội ngoại đều không. Trong kinh Đại Không, đức Phật đã dạy về việc quán và diệt trừ năm thủ uẩn, vì chính năm thủ uẩn này mà chúng sanh bị rối ren, bị đọa xứ, bị khổ đau. Cho nên phải xem nó là không, là không có “Này Ānanda, có năm thủ uẩn. Ở đây, Tỷ kheo cần phải đoạn tận chúng khi vị ấy tùy quán sự sanh diệt. Đây là sắc, đây là sự tập khởi của sắc, đây là sự đoạn diệt của sắc. Đây là thọ, đây là sự tập khởi của thọ, đây là sự đoạn diệt của thọ. Đây là tưởng... Đây là hành... Đây là thức, đây là sự tập khởi của thức, đây là sự đoạn diệt của thức. Trong khi vị ấy an trú, tùy quán sự sanh diệt của năm thủ uẩn này, nếu có ngã mạn nào (asmiṃmāno) (khởi lên) đối với năm thủ uẩn, ngã mạn ấy được đoạn tận. Sự kiện là như vậy, này Ānanda, Tỷ-kheo tuệ tri như sau: “Phàm có ngã mạn nào đối với năm thủ uẩn (khởi lên) nơi ta, ta đã đoạn tận ngã mạn ấy.” Ở đây, vị ấy ý thức rõ ràng như vậy. Những pháp này, này Ānanda, thuần nhất liên hệ đến thiện, đều thuộc Hiền Thánh, siêu thế, vượt ngoài tầm của Ác ma”[16]. Đến đây, hành giả đã hoàn thiện được nội không, ngoại không và nội ngoại đều không. Nhờ đó, hành giả sẽ đạt được giác ngộ, giải thoát.

Có thể nói, Thiền là phương pháp tu tập phổ quát được hầu hết các nhà tư tưởng Ấn Độ thực tập. Nếu bảo rằng Thiền định do đức Bổn Sư khai sáng là một điều rất sai lầm. Trước khi đức Thích Tôn xuất thế, Thiền định đã có mặt tại Ấn Độ. Minh chứng rõ ràng nhất là khi bắt đầu trên con đường tìm đạo, Thái tử Tất Đạt Đa đã từng đến tu tập với trưởng lão Alara Kalama. Đây là một vị tu hành khá nổi tiếng thời bấy giờ. Vì thông qua con đường Thiền định, Ông đã đạt đến tầng thiền thứ 7, tức Vô sở hữu xứ định. Nhưng vì không bằng lòng với quả vị tu chứng này mà Tất Đạt Đa đã từ giã thầy của mình sau khi cũng tu tập để chứng đến cấp độ này. Ngài tiếp tục tìm đến vị đạo sư nổi tiếng hơn với công năng tu tập uyên thâm hơn, đó là Uddaka Ramaputta. Vị này được xem là người giỏi nhất lúc bấy giờ vì chứng đến quả thiền thứ 8, tức Phi tưởng phi phi tưởng xứ định.

Chỉ trong một thời gian ngắn, Thái tử Tất Đạt Đa đã thực tập và chứng ngang hàng với thầy mình. Không bằng lòng với quả vị đang có, dù được thầy Uddaka Ramaputta mời ở lại để cùng làm giáo chủ của phái, nhưng Thải tử vẫn từ chối và ra đi vì vẫn chưa thỏa chí mong cầu. Trải qua sáu năm tu khổ hạnh, Ngài quyết định tìm đến con đường Trung đạo. Chỉ trong vòng thiền định 49 ngày đêm, Ngài đã tìm thấy ánh sáng chân lý dưới cái nhìn của tuệ giác. Mở một lối đi mới cho chúng sanh, mở một lối đi mới, rất riêng so với các tôn giáo đương thời.

Như thế, Thiền định của đức Phật chính là Ngài đã thừa hưởng tinh hoa từ những người đi trước, nhưng Ngài đã làm cho nó toàn mỹ hơn, sáng hơn, đẹp hơn, hoàn thiện hơn nhờ sự thực tập, tu chứng và trí tuệ thâm sâu của Ngài. Do đó, Đại Không Kinh mà Ngài giảng dạy chủ yếu thức tỉnh các vị Tỳ kheo nên an trú vào thiền quán của nội không, ngoại không và nội ngoại không để tu tập trong khi đi, đứng, nằm, ngồi. Đó là cách duy nhất để tìm ra con đường và lối đi phù hợp trên lộ trình tìm hạnh phúc nội tại của tự tâm.

Thế nhưng, để các đệ tử của mình chấp nhận buông bỏ cái “có” (tài, sắc, danh, thực, thùy,...) để chấp nhận cái “không” của cuộc đời áo vải khất sĩ, đức Phật đã dạy về nghĩa “không” chính là sự vô thường, biến đổi của vạn pháp.

3. “Không” là sự vô thường, biến đổi, không thật

Vạn pháp trên thế gian luôn đi theo quy luật thành, trụ, hoại và không. Do đó, tuổi thọ của các pháp dù là người hay vật đều rất ngắn ngủi, tạm bợ và mong manh. Các pháp đến rồi đi, sinh rồi diệt, hợp rồi tan. Ôn Như Hầu đã từng thẩm thấu sự biến đổi này mà thốt lên những câu thơ nghe chua chát trong Cung Oán Ngâm Khúc:

“Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán,
Chết đuối người trên cạn mà chơi.
Lò cừ nung nấu sự đời,
Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương”. (Câu số 73 - 76)

Hay:

“Phong trần đến cả sơn khê,
Tang thương đến cả hoa kia cỏ này.
Tuồng huyễn hóa khéo bày ra đấy,
Kiếp phù sinh trông thấy mà đau”. (Câu 99 - 102)

Sự thay đổi của vạn pháp, sự mong manh tạm bợ đó đã làm cho con người đau khổ. Thế nhưng, khi nhìn sâu vào sự vật trên thế gian, chúng ta phải chấp nhận một sự thật hiển nhiên rằng; các pháp vốn từ cái không mà sinh ra thành có, và rồi từ cái có thay đồi biến hoại và lại trở về không. Khoảng thời gian thay đổi biến hoại ấy, Phật giáo tạm gọi nó là vô thường, tức chỉ cho trạng thái biến đổi, không thường nhiên của vạn pháp. Không đợi đến Phật giáo Đại thừa, ngay khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã chỉ ra thực tướng, thực tánh của vạn pháp để chúng Tỳ kheo lấy đó mà tu tập. Thế nên, nói về “Không” cũng còn là cách để đức Phật thức tỉnh hàng Tỳ kheo tinh tấn tu hành, bởi cuộc sống này vốn là vô thường tạm bợ, sinh rồi diệt, diệt rồi sinh. Trong Kinh Tương Ưngđức Phật dạy:

“Ví như, này các Tỳ kheo, sông Hằng này chảy mang theo đống bọt nước lớn. Người có mắt nhìn đống bọt nước ấy, chuyên chú, như lý quán sát. Do nhìn chuyên chú, như lý quán sát nó, đống bọt nước ấy hiện rõ ra là trống không, hiện rõ ra là rỗng không, hiện rõ ra là không có lõi cứng. Làm sao, này các Tỳ kheo, lại có lõi cứng trong đống bọt nước được? Cũng vậy, này các Tỳ kheo, phàm có sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần, vị Tỳ kheo thấy sắc, chuyên chú, như lý quán sát sắc. Do vị Tỳ kheo nhìn chuyên chú, như lý quán sát sắc, sắc ấy hiện rõ ra là trống không, hiện rõ ra là rỗng không, hiện rõ ra là không có lõi cứng. Làm sao, này các Tỳ kheo, lại có lõi cứng trong sắc được?...Ví như, này các Tỳ kheo, trong tháng cuối mùa hạ, vào đúng giữa trưa đứng bóng, một ráng mặt trời rung động hiện lên. Một người có mắt nhìn chuyên chú, như lý quán sát nó. Do người ấy nhìn chuyên chú, như lý quán sát, nên ráng mặt trời ấy hiện rõ ra là trống không, rỗng không, không có lõi cứng... Làm sao, này các Tỳ kheo, lại có lõi cứng trong ráng mặt trời được?”[17].

Cách đây gần 3.000 năm, đức Phật đã nhìn rõ cuộc đời là không có cái gì thường nhiên thực tại, tất cả đang trong vòng biến đổi, sanh diệt, diệt sanh. Ngài đã lấy bọt nước trôi lững lờ trên sông Hằng để làm ví dụ thực tiễn, chỉ cho chúng Tỳ kheo lấy đó mà tu tập. Vạn pháp trên cõi đời có khác nào bọt nước trôi nổi trên sông, phút trước nhìn thấy là thật có, nhưng như lý quán sát một thời gian rất ngắn, từ cái có nó chuyển thành cái không, nó mong manh, tạm bợ đến chẳng ai ngờ. Mặt trời, mặt trăng và các vì sao cũng thế, nhìn chúng hiện hữu đó cứ ngỡ rằng thật có, nhưng kỳ thật chúng di chuyển từng phút từng giây, rồi từ có thành không và từ không thành có.

Từ sự thay đổi của vạn sự vạn vật, chúng ta suy ra được thân phận con người trên cuộc đời này cũng thế, cũng không tồn tại vĩnh cữu mãi với thời gian. Đức Phật lấy kiếp sống của chùm bọt nước trên sông Hằng để ví cho thọ mạng ngắn ngủi của tất cả chúng sanh. Ngỡ rằng thân này sẽ tồn tại vĩnh cữu, nhưng nào ai hay sự sống chết thật vô thường. Sở dĩ thân này có là vì năm uẩn hòa hợp nên có, nhưng đến khi tứ đại bất hòa, lập tức nó từ cái có chuyển thành cái không. Đã bao lần ta đau khổ trước sự mất mát chia li, đã bao lần ta thức trắng đêm tiếc nuối cho tuổi thanh xuân đi qua cuộc đời một cách vô vọng. Ta khổ đau, ta vật vã khi xa người mình yêu, khi thương mà người vẫn chết. Sự vô thường, làm cho vạn pháp rỗng không đã chi phối toàn bộ đời sống của con người, chính nó làm cho con người vui và cũng chính nó làm cho con người đau khổ.

Sự vô thường, trống không, đến và đi không báo trước, và nó cũng không chỉ dành riêng cho người thế gian mà ngay cả các bậc xuất gia tu hành cũng không thoát khỏi quy luật này. Đức Phật đã từng cảm thương sự ra đi của các đệ tử mình như sau: “Ta nhìn đại chúng, thấy đã trống không, vì Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đã vào Niết-bàn”[18]. Đây là thâm tình của một người thầy dành cho đệ tử, của một người cha dành cho con. Bởi lẽ khi còn tại thế, Xá Lợi Phật và Mục Kiền Liên chính là hai vị để tử thượng thủ, đắc lực của Phật, được ví như cánh tay phải, tay trái của Ngài. Mỗi lần đức Phật thuyết pháp, bao giờ Phật cũng nhìn thấy hai vị ấy ngồi ở hàng đâu tiên, vì đó là những vị để tử lớn trong tăng đoàn, lại là hai vị có trí tuệ đệ nhất và thần thông đệ nhất trong chúng Tỳ kheo. Do đó, sự vắng bóng của hai vị chính một mất mát lớn của tăng đoàn. Đức Phật là một con người, Ngài không phải là gỗ đá vô tri, chính vì không phải gỗ đá vô tri nên Ngài thẩm thấu được sự mất mát, nỗi đau của tất cả chúng sanh. Nếu Ngài không có lòng cảm thương như thế, làm sao Ngài ôm trọn chúng sanh vào trái tim mình. Chính sự cảm thương này đã nuôi lớn lòng từ bi của Phật để xem tất cả chúng sanh như con.

Thế nhưng, khi nhắc đến hai vị để tử đã ra đi, cũng chính là nhắc nhở hàng Tỳ kheo phải ý thức được sự rỗng không của vạn pháp. “Hãy quán một cách đúng đắn rằng năm thủ uẩn là vô thường, đau khổ, bịnh tật, thay đổi, phiền muộn, không và vô ngã...”. Và dù cho Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên là những vị tu hành đã chứng thánh quả, nhưng các Ngài còn mang tấm thân vật lý, nghĩa là còn phải chịu sự chi phối của nghiệp lực và sự vô thường biến đổi của thời gian. Tấm thân huyễn mộng của các Ngài đã ra đi, nhưng pháp thân bất diệt về trí tuệ và đức hạnh thì mãi còn ở lại, soi sáng cho bao thế hệ của ngàn sau. Qua đây để biết rằng, người xuất gia không phải là người đã thoát khỏi sự chi phối của vô thường, trống không, mà chính là những người đã giác ngộ, nhờ công năng tu tập mà thấu rõ được quy luật vô thường, trống không này để vượt ra ngoài tam giới của sinh, già, bệnh và chết. Trong Tương Ưng Bộ Kinh, tập III đức Phật dạy:

“Này các Tỳ kheo, sắc là vô thường. Cái gì vô thường cái ấy là khổ. Cái gì khổ, cái đó không có tự ngã. Cái gì không có tự ngã, “Cái đó không phải là của ta, ta không phải là nó, nó không phải là tự ngã của ta”. Đó là với trí tuệ quán sát thực tại như nó là. Cảm thọ là vô thường…, giống như tưởng…, hành…Thức là vô thường. Cái gì vô thường cái ấy là khổ. Cái gì khổ, cái đó không có tự ngã. Cái gì không có tự ngã, “Cái đó không phải là của ta, ta không phải là nó, nó không phải là tự ngã của ta”. Đó là với trí tuệ quán sát thực tại như nó là”[19].

(Rūpam bhikkhave aniccaṁ, yad aniccam taṁ dukkhaṁ yaṁ dukkhaṁ tadanattā, yad anattā taṁ netam mama neso ham asmi na meso attā ti. Evam etaṁ yathabhūtaṁ sammappaññāya daṭṭhabbaṁ. Vedanā, aniccā yad aniccaṁ taṁ dukkhaṁ yam dukkhaṁ tad anattā Yad anattā taṁ netam mama neso ham asmi na meso attātii Evam etaṁ yathābhūtaṁ sammappaññāya daṭṭhabbaṁ Saññā aniccā, Saṇkhārā aniccā Viññāṇam aniccam yad aniccaṁ taṁ dukkhaṁ, yaṁ dukkhaṁ tad anattā, Yad anattā tam netam mama nesoham asmi na me so attā ti. Evam etaṁ yathābhūtaṁ sammappaññāya daṭṭhabbaṁ. Evam passaṁ, la, nāparam itthattāyāti pajānātīti)[20].

Chỉ có cách này, chỉ có quán tất cả các pháp là vô thường, là vô ngã, là không có một thực thể tồn tại thường nhiên mới mong tìm được chân hạnh phúc trong cuộc đời. Nếu cứ chấp thân này là của tôi, là tự ngã của tôi thì đường sanh tử mở lối thênh thang, sáu nẻo luân hồi đắm chìm trong tam giới. Với trí tuệ siêu việt, đức Phật dạy các vị Tỳ kheo nên dùng tuệ giác quán chiếu, biết rõ cái khổ không có tự ngã, nó không phải là ta, ta không phải là nó và nó cũng không phải là tự ngã của ta. Sự rỗng không trả về cho rỗng không, vì thế giới này là thế giới của sự rỗng không. “Trống rỗng là thế giới! Trống rỗng là thế giới!” Đức Phật đã dạy như vậy. Bạch Đức Thế Tôn vì sao câu nói này được tuyên bố như vậy? Này A-nan, bởi vì thế giới này là không có tự ngã hoặc những gì thuộc về tự ngã, cho nên nói thế giới này trống rỗng”.[21]

(Suñño loko suñño loko ti bhante vuccati. Kittāvata nu kho bhante suñño loko ti vuccati ? Yasmā ca kho Ānanda suññam attena vā attaniyena vā. Tasmā suñño loko ti vuccati)[22].

Việc đến hay đi trên cuộc đời này tất cả đều do duyên. Duyên hợp thì vạn pháp hội tụ, duyên hết thì các pháp ly tan, nhưng dù hội ngộ hay chia ly thì tất cả cũng bắt đầu cho một chữ không. Vì từ không mới chuyển thành có và cũng từ có biến chuyển thành không. Như vậy, không cũng chính là trùng trùng duyên khởi.

4. “Không” là trùng trùng duyên khởi

Nếu như những nhà tư tưởng của Ấn Độ cho rằng “nước là khởi nguyên của vạn vật” hay Thượng đế là đấng sáng thế. Trong khi đó Phương Tây lại có rất nhiều quan điểm cho vấn đề này. Ví dụ: Ông Thales cho rằng khởi nguyên của Vũ trụ là nước, Anacimen lại cho là khí, Heraclite thì cho là lửa, Pythagora thì cho là những con số, Empedocle thì chủ trương nước, đất, khí và lửa cấu thành vạn vật, Platon đưa ra thuyết nhị nguyên, Aristote thì đưa ra thuyết siêu hình học và thiên nhiên học,... và còn rất nhiều những quan điểm về sự hình thành của thế giới. Riêng Phật giáo lại cho rằng, vũ trụ luận của thế giới quan không tách rời nhân sinh quan. Danh từ chung để chỉ cho cả nhân sinh và thế giới được gọi là Pháp. Đức Phật đã từng nói rằng: “Tất cả pháp hòa hợp mà sinh nên Như Lai gọi là nhân duyên” (ye dhamma hetuppabhava tesam hetum tathagats – Assaji). Nói như thế, con người và vạn pháp do nhân duyên hòa hợp mà có, tức tất cả đều bắt đầu từ không, rồi mọi thứ làm nhân, làm duyên cho nhau, hòa hợp lại mà hình thành con người và thế giới. Như vậy, nói đến duyên khởi, cũng chính là nói đến không, ngược lại, khi phân tích về không, tức là đã nói về giáo lý trùng trùng duyên khởi.

Trong kinh Tương Ưng bộ, đức Phật đã dạy về giáo lý duyên khởi được biểu hiện qua 12 chi phần như sau:

“Do vô minh (avidyā) duyên hành (saṁskāras); hành duyên thức (vijñāna); thức duyên danh sắc (nāma-rūpa); danh sắc duyên lục nhập (sad-ayatana); lục nhập duyên xúc (sparsa), xúc duyên thọ (vedanā); thọ duyên ái (tṛṣṇā); ái duyên thủ, thủ duyên hữu (upādāna); hữu duyên sanh (bhava); sanh duyên già, bịnh, chết (jāti), sầu, bi, khổ, ưu, não. Đó là sự sanh khởi của toàn bộ tiến trình. Này các Tỳ kheo, đây gọi là sự sanh khởi toàn bộ khổ uẩn”[23].

(Avijjāpaccayā bhikkhave saṇkhārā, saṇkhārāpaccayā viññanaṁ, viññaṇapaccayā nāmarūpaṁ, nāmarūpapaccayā saḷāyatanaṁ, saḷāyatanapaccayā phasso, phassapaccayā vedanā, vedanāpaccayā taṇhā, taṇhapaccayā upādānaṁ, upādānnpaccayā bhavo, bhavapaccayā jāti, jātipaccayā jarāmaraṇaṁ soka-parideva-dukkbadoiuanassupāyasā sambhavanti. Evam etassa kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hoti. Ayaṁ vuccati bbikkhave samuppādo)[24]

Qua lời dạy trên của đức Phật, chúng ta có thể nhận thấy 12 chi phần duyên khởi hòa hợp mắc xích với nhau không thể tách rời. Thế nên, cái nguyên nhân đâu tiên để sanh ra vô minh hoàn toàn không có thực thể, không có khởi đầu, hoàn toàn do nhân duyên sinh khởi. Cả hành, thức, danh sắc,... cũng thế. Chúng xuất hiện, hỗ tương nhân quả cùng nhau. Ví như do vô minh mà có hành, do hành mà có thức, do có thức nên danh sắc hiện hữu, từ danh sắc phát sinh lục nhập, rồi xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh và lão tử. Đã thế thì nó không thực có, mà nó ở dạng không, trống rỗng, chỉ hòa hợp hội tụ, rồi ly tan.

Từ đó, ta suy ngược lại của 12 chi phần nhân duyên: Nếu “không có sinh thì khổ đau không có mặt, không có hữu thì không có sinh. Không có thủ thì không có hữu, không có ái thì không có thủ. Không có thọ thì không có ái, không có xúc thì không có thọ. Không có lục nhập thì không có xúc, không có danh sắc thì không có lục nhập. Không có hành thì không có danh sắc, không có vô minh thì không có hành”[25].

Qua đoạn trích trên, chúng ta có thể hiểu được không cũng chính là trùng trùng duyên khởi. Do nó không có cái này thì cũng không có cái kia, ngược lại có sự xuất hiện của chi phần này, lập tức chi phần khác hiện hữu. Cũng giống như: khổ đau được chấm dứt do vì không có sinh, và muốn không có sinh thì nên chấm dứt hữu, vì hữu chính là sự hình thành của năm uẩn, của vạn pháp. Cứ như thế, bất kỳ một chi phần nào trả về không, thì kéo theo sau đó những chi phần còn lại sẽ trở về không. Và trong 12 chi phần ấy, nếu một chi phần nào đó bị cắt đứt, lập tức 11 chi phần kia biến mất, trả về trạng thái không ban đầu của con người và thế giới. Trong kinh tạng Pāli, 12 nhân duyên được tóm tắt bằng công thức đơn giản như sau:

“Do đây sanh, kia sanh; do sanh đây, kia sanh; Do đây không sanh, kia không sanh; do diệt đây, kia diệt”.[26]

(Iti imasmiṁ sati idaṁ hoti imassuppādā idam uppajjatill imasmiṁ asati idaṁ na hoti imassa nirodhā idaṁ nirujjhati)[27].

Lời dạy trên đã chứng minh rất cụ thể, 12 chi phần nhân duyên chính là nguyên nhân của sự hình thành, tập khởi của con người và thế giới, cũng chính 12 móc xích này lại là nguyên nhân để đưa đến sự hủy diệt, trống không của vạn pháp và nhân sinh. Về ý nghĩa này, đức Phật đã từng giải thích rất rõ ràng trong kinh Tương Ưng như sau:

“Này các Tỳ kheo, nay ta sẽ dạy cho các ngươi sự sanh khởi và tiêu diệt thế giới. Đó là cái gì?

Do mắt duyên sắc khởi nhãn thức. Ba pháp này họp lại nên có xúc. Do xúc có thọ. Do thọ có ái. Do ái có hữu. Do hữu có sanh. Do sanh có già, bịnh, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Đây là sự sanh khởi thế giới”.

Do tai duyên âm thanh khởi nhĩ thức…, Do mũi duyên hương…, Do lưỡi duyên vị…, Do thân duyên xúc…, Do ý căn duyên pháp trần…, Ba pháp này họp lại nên có xúc. Do xúc có thọ. Do thọ có ái. Do ái có hữu. Do hữu có sanh. Do sanh có già, bịnh, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Đây là sự sanh khởi thế giới. Và này các Tỳ kheo, cái gì đưa đến sự tiêu diệt thế giới?

Do mắt duyên sắc… Do thọ có ái. Do ly tham, đoạn diệt khát ái hoàn toàn nên thủ diệt. Do thủ diệt hữu diệt. Do hữu diệt sanh diệt. Do sanh diệt già, bịnh, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Đây là sự tiêu diệt của toàn bộ tiến trình. Này các Tỳ kheo, đây là sự tiêu diệt thế giới”.[28]

(Lokassa bhikkhave samudayañca atthagamañ ca desissāmi, taṁ suṇātha, Katamo ca bhikkhave lokassa samudayo. Cakkhuñca paṭicca rūpe ca uppajjati cakkhuviññāṇaṁ, tiṇṇam saṇgati phasso, phassapaccayā vedanā, vedanāpaccayā taṇhā, taṇhāpaccayā upādānaṁ, upādānapaccayā bhavo, bhavapaccayā jāti, jātipaccayā jarāmaraṇaṁ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā sambhavanti ayam lokassa samudayo. Sotañ ca paṭicca. Ghānañ ca paṭicca. Jivhañ ca paṭicca|. Kāyañ ca paṭicca. Manañ ca paṭicca dhamme ca uppajjati manoviññāṇaṁ, tiṇṇaṁ saṇgatiphasso, phassapaccayā vedanā, vedanāpaccayā taṇhā, tanhāpaccayā upādānaṁ upādānapaccayā bhavo, bhavapaccayā jāti jātipaccayā jarāmaraṇaṁ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā sambhavanti, ayaṁ kho bhikkhave lokaesa samudayo. Katamo ca bhikkhave lokassa atthagamo.

Cakkhuñca paṭicca rūpe ca uppajjati cakkhuviññānaṁ tiṇṇaṁ saṇgatiphasso phassapaccayā vedanā vedanāpaccayā ṭaṇhā tassāyeva taṇhāya asesavirāganirodhā upādānanirodho pe. Evam etassa kevalasaa dukkhakkhandhassa nirodho hoti. Ayaṁ kho bhikkhave lokassa atthagamotill)[29].

Đoạn kinh trên đã chứng minh cho chúng ta thấy rằng: “Tất cả các pháp sanh và diệt đều có nguyên nhân”, cho nên “Do đây sanh, nên kia sanh”[30]. Tư tưởng này đã đánh đổ khái niệm tự ngã, cho rằng bản ngã thật sự tồn tại, hiện hữu, hay tất cả hiện tượng của con người và thế giới đều do thượng đế sáng tạo nên. Giáo lý duyên khởi đã chứng minh rõ vạn pháp là giai không, nên nó không có một thực thể tồn tại nào của ngã. Liễu ngộ được điều này chính là ranh giới để bước lên bậc thềm giải thoát mọi triền phược nhiễm ô. Cũng chính sự thậm thâm, vi diệu của giáo lý không – Duyên khởi, mà ngài Anan (Ānanda) và đức Phật đã tán thán thế này:

“Sâu sắc là giáo lý Duyên khởi! Thậm thâm là giáo lý Duyên khởi! Vì không giác ngộ và thâm nhập giáo lý này mà chúng sanh hiện tại giống như ổ kén lộn xộn, cuộn chỉ rối ren, giống như cỏ munja và cây bấc lao xao, không thể nào vượt qua khỏi cảnh khổ, ác thú, đoạ xứ, luân hồi”[31].

(Gambhīro cayaṁ Ānanda paticca-samuppādo gainbhīrāvabhāso ca. Etassa Ānanda dhammassa ananubodhā appaṭivedhā evam ayaṁ pajā tantākulaka-jātā gulā-guṇṭhika-jātā muñja-babbaja-bhūtā apāyaṁ duggatiṁ vinipātaṁ saṁsāraṁ nativattati)[32].

Bàn về khái niệm “Không” (空) và 12 nhân duyên (因 緣 生 起), trong Tiểu Nghĩa Thích Kinh (Cūla Niddesa) thuộc Kinh tập của Tiểu bộ đã phân tích rất rõ ràng về sự sanh khởi của các pháp. Đó là do nhãn căn tiếp xúc với sắc trần nên nhãn thức sanh khởi; nhĩ căn tiếp xúc với âm thanh nên nhĩ thức sanh khởi…Tương tự như thế mà vạn pháp từ rỗng không bắt đầu sanh khởi thành giả có. Cũng vậy, từ sáu căn (āyatana, 處) nên sáu trần (phassa, 觸) sanh khởi, tùy thuộc vào sáu trần mà thọ (vedanā, 受) sanh khởi, từ thọ mà ái (Tanha, 愛) sanh khởi, rồi từ ái mà thủ (upàdànac, 取) sanh khởi, từ thủ mà hữu (bhava, 有) sanh khởi… cứ thế vạn pháp sanh khởi theo 12 chi phân nhân duyên.

Để hiểu thêm về ý nghĩa của không, chúng ta sẽ tìm hiểu thêm trong kinh Tạp A Hàm, số 335 có ghi lại như sau: “Thế nào là đệ nhất nghĩa không? Này các Tỳ kheo, khi mắt sanh thì nó không có chỗ đến; lúc diệt thì nó không có chỗ đi. Như vậy, mắt chẳng thật sanh, sanh rồi diệt mất; có nghiệp báo mà không có tác giả. Ấm này diệt rồi, ấm khác tương tục, trừ pháp tục số. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng nói như vậy, trừ pháp tục số. Pháp tục số tức là nói, cái này có thì cái kia có, cái này khởi thì cái kia khởi, như vô mình duyên hành, hành duyên thức, nói chi tiết đầy đủ thành một khối khổ lớn tập khởi. Lại nữa, cái này không thì cái kia không, cái này diệt thì cái kia diệt, vô minh diệt nên hành diệt, hành diệt nên thức diệt. Như vậy, nói rộng cho đến thuần một khối khổ lớn tụ diệt”[33].

Từ ý nghĩa này chúng ta có thể quán chiếu: “Không là nhãn thức, không cũng là nhĩ thức,…”. Tất cả mọi hiện tượng căn, trần và thức đều trả về không. Chúng ta dễ nhận thấy giáo lý Duyên khởi và cũng dễ dàng nhận ra “không” khi quán chiếu, thực nghiệm tất cả các pháp: Vì “Không” (Suññatā, 空) là chân lý của vũ trụ, là quyết định căn bản của giáo lý Duyên khởi. Tuệ tri về “không” là tuệ tri về vô thực thể: “Suññatānupassanā ti anattānupassanā va”[34]. Cũng vậy, vạn pháp “… Chúng là vô ngã, vô thường, không có bản thể, không có bản chất của thường hằng, hạnh phúc hoặc ngã”. Cho nên, nói về không cũng chính là bàn luận về vạn pháp là trùng trùng duyên khởi.

III. KẾT LUẬN

Qua tất cả những đề mục mà chúng tôi đã chứng minh ở trên, chúng ta thấy thời Phật giáo Nguyên thủy đã đề cập đến vấn đề “không” một cách rất thâm thúy, với các tầng bậc ý nghĩa giá trị, phục vụ cho đời sống tu tập của hai bộ đại tăng. Tuy nhiên, khái niệm không này không chỉ dừng lại ở thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy, mà đến thời kỳ Bộ phái, tư tưởng này cũng được đem ra bàn luận, mổ xẻ và có lẽ đỉnh cao của khái niệm không, chính là thời kỳ của Phật giáo Đại thừa. Hay nói khác hơn, Đại thừa đã làm cho “không” trở nên vi diệu, tuyệt vời, trở thành giáo lý nền tảng của Phật giáo sau này. Như vậy, xuyên suốt từ thời Phật giáo Nguyên thủy đến Đại thừa, khái niệm này chưa bao giờ chấm dứt, mà nó phát triển một cách rầm rộ. Để mọi người cùng hiểu rằng, sau khi đức Thế Tôn nhập diệt, giáo lý của Ngài đã phát triển tột bậc. Từ đó có thể chứng minh, không chính là một trong những tư tưởng căn bản, cốt lõi của giáo lý đạo Phật, từ Nguyên thủy, Bộ phái đến Đại thừa.

***

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Kinh điển

- Đại tạng kinh Việt Nam, Kinh Trung A Hàm, tập IV, kinh Tiểu Không, số 190, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, 1992.

- Kinh Tương Ưng, tập II, Thích Minh Châu dịch, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, 1993.

- Trung Bộ II, Thích Minh Châu dịch, Tiểu Không Kinh, số 121, NXB Tôn Giáo Hà Nội, 2012.

- Trung Bộ III, Thích Minh Châu dịch, Viện NCPHVN ấn hành 2001.

- Kinh Trung Bộ II, Kinh Đại Không, số 122, Thích Minh Châu dịch, NXB Tôn Giáo Hà Nội, 2012.

- Kinh Tương Ưng, tập 3, Thích Minh Châu dịch, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành 1993.

- Kinh Tạp A Hàm, kinh số 639, Thích Đức Thắng dịch, Hội văn hóa Giác dục Linh Sơn Đài Bắc xuất bản, 2000.

II. Sách nghiên cứu

- Edward Conze’s Buddhist Thought in India, Ann Arbor: University of Michigan Press, 1967.

- Hạnh Bình – Quán Như (dịch), Lược giảng Luận Trung Quán (của HT. Ấn Thuận), NXB Phương Đông, 2010.

- Huyền Trang (dịch), Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh, (T05, No. 0220, p. 687a-b).

- 三 藏 鳩 摩 羅 什 譯: 《金 剛 般 若 波 羅 蜜 經》卷1:「凡 所 有 相,皆 是 虛 妄。若 見 諸 相 非 相,則 見 如 來。」(ĐCT, tập 08, No. 235, tr. 749, a24-25).

- Quảng Liên (dịch), Trung Quán Luận, viện Quảng Đức, 1994

- Shohei Ichimura, Buddhist Critical Spirituality: Prajñā and Śūnyatā, Delhi: Motilal Banarsidass, 2001.

-《般 若 波 羅 蜜 多 心 經》卷1 (ĐCT, tập 08, no. 251, p. 848, c7-8)

- Thích Pháp Hiển (dịch), Đại Niết Bàn Kinh, CBETA, T 12, no. 374, P. 516, b 16 – c2.

-《中 論》卷4〈24 觀 四 諦 品〉(ĐCT, T30, No. 1564, p. 33, b11-12).

- Thích Minh Châu, Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, NXB Tổng Hợp TP.HCM, 2012.

- Thích Hạnh Bình, Triết học có và không của Phật giáo Ấn Độ, NXB Phương Đông, 2008.

- Thích Thiện Siêu dịch và tóm tắt, Trung luận, NXB. TP. HCM, 2001

- Tuệ Sĩ, Thiền và Bát Nhã, NXB Phương Đông, 2010.

[1]. Trung Bộ II (2012): 433.

[2]. M, III, trang 104.

[3]. Đại tạng kinh Việt Nam, Kinh Trung A Hàm, tập IV (1992): 226.

[4]. Đại tạng kinh Việt Nam, Kinh Trung A Hàm, tập IV (1992): 226.

[5]. Trung Bộ II, Tiểu Không Kinh, số 121 (2012): 434.

[6]. Thích Minh Châu, Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi (2012):173.

[7]. Trung Bộ II, Tiểu Không Kinh, số 121 (2012): 433

[8]. Trung Bộ II, Tiểu Không Kinh, số 121 (2012): 433.

[9]. Trung Bộ III (2001): 291- 293.

[10]. Minh Châu dịch, Trung Bộ III, (Tiểu không kinh), số 121.

[11]. Thích Minh Châu, Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi (2012): 174.

[12]. Minh Châu dịch, Trung Bộ III, (Tiểu không kinh), số 121.

[13]. Majjhima-Nikāya, III, số 121.

[14]. Kinh Trung Bộ II, Kinh Đại Không, số 122 (2012): 440 - 441.

[15]. Kinh Trung Bộ II, Kinh Đại Không, số 122 (2012): 441.

[16]. Kinh Trung Bộ II, Kinh Đại Không, số 122 (2012): 444.

[17]. Kinh Tương Ưng, tập 3 (1993): 252 - 253.

[18]. Kinh Tạp A Hàm, kinh số 639 (2000): 335.

[19]. BKS, III, I. Tương Ưng Uẩn, I. Phẩm Nakulapita, IV. Cái gì vô thường, tr. 21.

[20]. S, III, trang 22.

[21]. Minh Châu dịch, Tương Ưng IV, Tương ưng sáu xứ.

[22]. Saṃyutta Nikāya V.

[23]. BKS, II, tr. 2; IV, 53-4; DB, II, tr. 52.

[24]. S, II, tr. 1.

[25]. Duyên Khởi, http://www.google.com.vn/url?sa=t&rct=j&q=&esrc=s&source=web&cd=3&ved=0CDYQFjAC&url=http%3A%2F%2Fwww.vbu.edu.vn%2Fapplication%2Fuploads%2Fsubjects%2Fmedia%2520khoa2-hk1%2FPhat%2520hoc%2520khai%2520luan%2Fpractiya.sam.doc&ei=1SqzUa_pGYiuiAfJmYDYCw&usg=AFQjCNFrCH709dD9pD1djCeV31RBmWyGGg&sig2=yShmNGz64ZO41HJyBkYdUA&bvm=bv.47534661,d.aGc,

[26]. KS, II, tr. 23.

[27]. S, II, tr. 28.

[28]. BKS, IV, I. Tương ưng sáu xứ (d), 107. IV. Thế giới, tr. 53-4.

[29]. S, IV, tr. 87.

[30]. MLS, III, tr. 151-2.

[31]. DB, II, số 15. Kinh Đại duyên (Mahanidana sutta), tr. 50-51.

[32]. D, II, tr. 55.

[33]. Kinh Tạp A Hàm, kinh số 335 (2000): 995 – 996.

[34]. Vi, II, tr. 695.

Khi đất nước tôi bị nói xấu




TTO giới thiệu câu chuyện của du học sinh Nguyễn Hữu Công từ New Zealand.

Trà đá Việt Nam


Chuyện xảy ra trong lớp học Quản trị đa văn hóa của chúng tôi. Xin được gọi là thầy - như cách tôn trọng người làm giáo dục của người Việt mình - đang trong chuyến về thăm trường sau hai năm sinh sống và làm việc tại Việt Nam với vai trò tuyển sinh quốc tế và dạy tiếng Anh tại một trung tâm ngoại ngữ ở TP.HCM.

Thầy được mời chia sẻ những kinh nghiệm đối phó với khác biệt văn hóa khi từ New Zealand sang Việt Nam sinh sống, lúc chúng tôi đang học về Cultural Intelligence (viết tắt là CI - am hiểu văn hóa).

Trước khi mở đầu câu chuyện, thầy giới thiệu mình đã đặt chân đến hơn 40 quốc gia khác nhau nên tự tin về chỉ số am hiểu văn hóa CI của mình.

Thầy mang một Việt Nam còn khá xa xôi trong mắt bạn bè tôi ở xứ sở Chúa Nhẫn qua những câu chuyện của mình, mà mỗi một câu chuyện là một lần tôi nhói tim, bẽ bàng.

“Thật là “horrible” (tởm lợm) khi người Việt cho đá vào mọi thứ nước uống. Người ta có thể phán vào mặt bạn rằng “mày giống siêu mẫu đấy, nhưng mày mập quá”. Ở Việt Nam, người ta quăng rác ngoài đường để tạo công ăn việc làm cho người khác, hay vỉa hè là nơi để chạy xe…”.

Tôi không thể chịu đựng cách nói chuyện này và đứng dậy thưa với thầy: “Em nghĩ thầy cần nhiều thời gian hơn để am hiểu văn hóa Việt Nam. Mỗi quốc gia đều đối mặt với vấn đề xã hội của riêng mình và em tin rằng thầy chia sẻ những điều này ở một lớp học Quản trị đa văn hóa là không phù hợp”.

Lòng tự tôn của tôi cần một lời xin lỗi.

Tôi viết email cho cô hiệu phó trường, đại ý rằng: “Gần hai năm sống ở New Zealand, em hiểu rằng mỗi quốc gia đều có những vấn nạn xã hội riêng. Không có nơi đâu là hoàn hảo. Tuy nhiên, khách mời được mời đến để chia sẻ kinh nghiệm đối mặt với đa văn hóa thì chỉ tập trung vào chỉ trích vấn nạn xã hội của quốc gia ấy, nơi thầy đã sinh sống, kết hôn với người Việt và thậm chí là kiếm tiền từ chính người dân địa phương. Chúng ta không có quyền đánh giá văn hóa của một quốc gia bởi nó “không giống” với mình, và ở trường hợp này thầy dùng tính từ “horrible” (tởm lợm) càng không phù hợp. Và chẳng có gì khó hiểu khi người dân ở một xứ nhiệt đới như Việt Nam thích cho đá vào đồ uống để làm mát thân nhiệt của họ”.

Tôi nhận được sự đồng cảm từ cô hiệu phó, và một buổi gặp mặt trực tiếp để nói lời xin lỗi từ thầy. Thầy giải thích rằng ông không cố ý xúc phạm tôi và ông yêu Việt Nam rất nhiều. “Tôi lẽ ra nên dùng từ “surprising” (ngạc nhiên) để diễn tả tâm trạng của tôi lúc ấy thay vì “horrible” (tởm lợm)” – ông nói.

Dẫu lời xin lỗi ấy chân thành nhưng những tổn thương, bẽ bàng thì không thể xóa nhòa. Tôi sẽ chẳng thể nào gỡ bỏ hết ấn tượng đầu tiên về hình ảnh một Việt Nam xấu xí trong mắt bạn bè bản xứ và du học sinh trong lớp qua những câu chuyện có phần định kiến của thầy.

Hai nhà nhân loại học người Mỹ Kevin Avruch và Peter W. Black đã chỉ ra rằng khi đối mặt với một sự tương tác mà chúng ta không am hiểu, con người có khuynh hướng tự giải nghĩa rằng những người kia là “bất thường”, “lạ đời”, hay “sai biệt”. Khuynh hướng này, nếu được nuông chiều, sẽ càng làm gia tăng mức độ cá nhân về các định kiến.

Như thế để thấy rằng khi nhìn nhận văn hóa của một cộng đồng, một quốc gia khác, hãy giữ cho mình đôi mắt trẻ thơ và một tâm hồn trong trẻo, để mọi sự khác biệt kia khi đến với người tiếp nhận, sẽ trở thành cảm hứng sáng tạo hơn là bó hẹp trong góc nhìn thiển cận rằng đó là bất bình thường hay ngược đời.

Và ở nam Thái Bình Dương xa xôi, tôi hay chạnh lòng nghĩ về quê nhà, trời nóng gần 40 độ C, má tôi ngoài Trung cũng như bao nhiêu người Việt khác, cho thêm ít đá vào nước chanh uống cho mát trước khi ra đồng thu mua lúa thì có gì là xấu xa chăng?

Dù đã nhận được lời xin lỗi, tôi không giấu được câu chuyện này đã để lại trong lòng tôi một nỗi buồn khó tả.

Thứ Hai, 18 tháng 5, 2015

BÊN KHUNG CỬA SỔ




Có những hạnh phúc vô biên khi mang lại hạnh phúc cho người khác bất chấp hoàn cảnh của riêng mình. Nỗi khổ được sẻ chia sẽ vơi nửa , nhưng hạnh phúc được sẻ chia sẽ nhân đôi.

Hai ngưòi đàn ông đều bệnh nặng, được xếp chung một phòng tại bệnh viện. Một người được phép ngồi dậy mỗi ngày một tiếng vào buổi chiếu để thông khí trong phổi . Giường ông ta nằm cạnh cửa sổ duy nhất trong phòng. Người kia phải nằm suốt ngày. Hai người đã nói với nhau rất nhiều. Họ nói về vợ con, gia đình , nhà cửa , công việc, những năm tháng trong quân đội và cả những kỳ nghỉ đã trải qua.


Một chiều, khi được ngồi dậy , người đàn ông cạnh cửa sổ dành hết thời gian để tả lại cho bạn cùng phòng những gì ông thấy được ngoài cửa sổ. Người kia , mỗi chiều lại chờ đợi được sống trong cái thời khắc một tiếng đó - cái thời gian mà thế giới của ông được mở ra sống động bởi những hoạt động và màu sắc bên ngoài.


Cửa sổ nhìn ra một công viên với một hồ nhỏ xinh xắn. Vịt , ngỗng đùa giỡn trên mặt hồ trong khi bọn trẻ thả những chiếc thuyền giấy. Những cặp tình nhân tay trong tay đi dạo giữa ngàn hoa và ráng chiều rực rỡ. Những cây cổ thụ xum xuê toả bóng mát , và xa xa là đường chân trời của thành phố ẩn hiện.

Khi người đàn ông bên cửa sổ mô tả bằng những chi tiết tinh tế , người kia có thể nhắm mắt và tưởng tượng ra cho riêng mình một bức tranh sống động. Một chiều, người đàn ông bên cửa sổ mô tả một đoàn diễu hành đi ngang qua. Dù không nghe được tiếng nhạc, người kia vẫn như nhìn thấy được trong tưởng tượng qua lời kể của người bạn cùng phòng.

Ngày và đêm dần trôi.....

Một sáng , khi mang nước tắm đến phòng cho họ , cô y tá phát giác người đàn ông bên cửa sổ đã qua đời êm ái trong giấc ngủ. Cô báo cho người nhà đến mang ông ta về.

Một ngày kia , người đàn ông còn lại yêu cầu được chuyển đến cạnh cửa sổ. Cô y tá đồng ý để ông được yên tĩnh một mình. Chậm chạp gắng sức, ông nhổm dậy bằng hai cùi chỏ và ngắm nhìn thế giới bên ngoài. Ông căng thẳng nhìn ra cửa sổ. Đối diện với cửa sổ chỉ là một bức tường xám xịt. Ông hỏi cô y tá cái gì khiến cho người bạn khốn khổ cùng phòng của ông đã mô tả cho ông nghe những điều tuyệt diệu qua cửa sổ. Cô y tá cho biết rằng người đàn ông đó bị mù và thậm chí ông ta cũng không thấy được bức tường nữa. Cô nói:" Nhưng có lẽ ông ta muốn khuyến khích ông can đảm hơn.”
Heart Spk