Thứ Ba, 24 tháng 2, 2015

Tiếng Việt quá nhiều tiếng Lóng và Ngôn Ngữ Chợ Búa



Văn chương và ngôn ngữ là di sản do tổ tiên để lại, là con cháu chúng ta phải chung lưng xây đắp sao cho mỗi ngày mỗi phong phú và sáng đẹp. Do đó, tôi xin tất cả những người đang cầm bút, đánh máy (trên máy điện tử) để truyền đi những bản tin hay viết một đề mục quảng cáo, bài bình luận hãy hết sức thận trọng.


Đào Văn Bình –Tiếng lóng (slang) là ngôn ngữ của các băng đảng, lưu manh côn đồ, cờ bạc, đĩ điếm, hoặc bọn du thủ du thực nói chuyện với nhau để không cho người ngoài biết hoặc che mắt cảnh sát, lực lượng an ninh, hoặc để tỏ ta đây “anh chị”, “hơn đời”. Trước năm 1975 cũng đã có khá nhiều tiếng lóng, chẳng hạn như:


- Cớm = cảnh sát. Cớm gộc = cảnh sát trưởng hoặc quan to.
- Ghế = gái
- Choạc = Chục
- Bò = Trăm
- Khứa = khách. Khứa lão = khách già, lớn tuổi
- Nhí (nhỏ) = Bồ nhí tức già rồi mà còn “chơi trống bỏi” tức cặp với cô gái/cậu trai nhỏ tuổi bằng con mình.
- Biến = Chạy đi
- Bỉ vỏ = Dân bỉ vỏ là dân cờ bạc
- Thổi = Lấy cắp
- Thuổng = Lấy cắp
- Khoắng = Vào nhà lấy trộm, trộm
- Cuỗm = Lấy đi. Thí dụ: Hắn cuỗm vợ của bạn hắn.
- Chôm/chôm chĩa= Lấy cắp. Chôm chĩa credit = Ăn cắp/cầm nhầm thành tích của ai.
- Xế hộp = Xe mới đắt tiền
- Ngầu = Hay, giỏi, đẹp, bảnh bao
- Chì: Gan lì


Ngay trong đại học, chẳng hạn như Đại Học Havard của Mỹ, cũng có rất nhiều tiếng lóng do sinh viên chế ra để nói chuyện với nhau, vừa nghịch ngợm (Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò) vừa để tỏ ra đây là “sinh viên” hay “Havard”. Dù do sinh viên hay Havard chế ra, tiếng lóng không bao giờ được coi là ngôn ngữ chính của đất nước. Quý vị cứ mở bất cứ cuốn từ điển Việt Ngữ – dù xuất bản trước hay sau 1975 xem có tiếng lóng nào không?


Thế nhưng không hiểu sao ngày nay, báo chí trong nước, tiếng Việt xuất hiện quá nhiều tiếng lóng. Nếu không phải là tiếng lóng thì lại là loại ngôn ngữ “ đường phố” hay “chợ búa” của những người ít học. Đọc những bài báo có loại tiếng lóng hoặc ngôn ngữ “đường phố” chúng ta nhận ra ngay phần lớn xuất phát từ Miền Bắc chứ không phải Miền Nam.


Hiện nay, mạng lưới truyền thông của cả nước đều do những người “nói tiếng Bắc” nắm giữ. Có thể nói không sợ sai lầm rằng tiếng Việt bây giờ bị thống ngự bởi “tiếng Bắc” và giết chết loại ngôn ngữ trong sáng, giản dị, lịch sự, dễ hiểu mà Miền Nam xây dựng trong 20 năm.


Xin nhớ cho ngôn ngữ, dù ở Đàng Trong hay Đàng Ngoài thời Trịnh – Nguyễn Phân Tranh và ngày nay Miền Nam hay Miền Bắc trong cuộc chiến “VietnamWar” thì cũng đều là tài sản chung của đất nước. Dù chính quyền có khả năng tác động tới ngôn ngữ nhưng ngôn ngữ của một đất nước không phải hoàn toàn do một chế độ hoặc chính quyền áp đặt hoặc chế ra. Ngôn ngữ của một dân tộc là sản phẩm đi lên từ cuộc sống – xây dựng bởi các học giả, khoa học gia, các giáo sư đại học, dịch giả, nhà ngôn ngữ học, nhà văn hóa, tiểu thuyết gia, các nhà thơ, nhạc sĩ, nhà báo lỗi lạc cống hiến cho cuộc sống chung rồi được công chúng và hệ thống giáo dục chấp nhận rồi trở thành khuôn thước cho cả nước. Chúng ta không nên úy kỵ, dị ứng hay kỳ thị bất cứ ngôn ngữ của vùng, miền nào nếu nó hay, đẹp, giản dị, dễ hiểu. Đất nước càng phát triển thì ngôn ngữ càng phong phú thêm. Và chúng ta cũng phải có can đảm loại bỏ loại ngôn ngữ thô lỗ, chợ búa, lai căng, xúc phạm, bát nháo, bất lịch sự và thấp kém (do ít học)… ra khỏi gia tài ngôn ngữ Việt Nam… dù là trên bảng quảng cáo, các trang báo điện tử v.v…


Báo chí là phương tiện truyền thông đại chúng cần phải trong sáng, dễ hiểu. Sự tường thuật một biến cố không những trung thực mà còn phải đúng mức (decent) nữa. Khi quần chúng đọc một bản tin là muốn biết một sự kiện diễn ra như thế nào, chứ không phải đọc chuyện tiếu lâm hay nghe anh hề diễu cợt trên sân khấu. Việc dùng tiếng lóng trong các bản tin làm người đọc khó chịu và liên tưởng tới tác giả có thể xuất thân từ giai cấp chợ búa hay băng đảng mới gia nhập làng báo. Xin nhớ cho: “Văn tức là người”.

Nói như thế không có nghĩa là cấm không được sử dụng tiếng lóng. Trong các tác phẩm văn chương, chẳng hạn khi mô tả một mụ tú bà gọi điện thoại nói chuyện với một tên ma-cô giắt mối, hoặc băng đảng nói chuyện với nhau… thì việc sử dụng tiếng lóng là hợp lý và làm tăng tính hiện thực của tác phẩm. Thế nhưng để cho độc giả dễ hiểu, nhà văn cũng cần cước chú vì không phải ai cũng hiểu hết tiếng lóng.

Nghe một nhóm người nói chuyện với nhau bằng tiếng lóng mình đã khó chịu rồi. Nhưng không có gì kinh hoảng cho bằng nghe một cô hoa hậu, người mẫu hay một sinh viên mở miệng nói ra toàn tiếng lóng hay ngôn ngữ “đường phố” chứ không phải “Cửa Khổng sân Trình” tức ngôn ngữ của người được cắp sách đến trường. Xin nhớ cho ngôn ngữ biểu lộ trình độ giáo dục và tư cách của con người. Nhà đạo đức nói lời xâu xa nghĩa lý. Nhà giáo nói lời bảo ban nhỏ nhẹ. Mẹ hiền nói lời nhẹ như ru. Nhà tu hành nói lời cứu độ. Kẻ trí thức nói lời lịch sự. Người hiền lành nói lời chân chất. Bọn côn đồ nói lời dao búa. Bọn trộm cướp, xã hội đen nói với nhau bằng tiếng lóng. Bọn trọc phú nói lời kênh kiệu. Kẻ ác tâm nói lời cay nghiệt. Kẻ buôn gánh bán bưng giành giật miếng cơm manh áo từng ngày nói lời “đường phố”.


Dưới đây là một số những minh chứng cho việc sử dụng quá nhiều tiếng lóng và ngôn ngữ “chợ búa” của tiếng Việt trong nước bây giờ:


- Cà- phể đểu = Đây là loại ngôn ngữ “chợ búa”. Tại sao không nói “Cà- phê giả” cho đứng đắn và rõ nghĩa?
- Bôi trơn sổ đỏ = Hối lộ, đút lót để được cấp sổ đỏ. “Bôi trơn” là một loại tiếng lóng.
- Bảo kê sòng bài, bảo kê xe quá tải qua mặt trạm cân = Đỡ đầu/bao che cho sòng bài, đỡ đầu/bao che cho xe quá tải vượt trạm cân. Hai chữ “bảo kê” ảnh hưởng từ phim bộ loại đâm chém, bắn giết của Hồng Kông như: Bảo kê, bảo tiêu.


- Nhập viện = Có rất nhiều “viện”, nào là: Viện Kiểm Sát Nhân Dân, Viện Hàn Lâm, Viện Uốn Tóc, Kỹ Viện, Viện Ung Bướu, Viện Bào Chế, Viện Dưỡng Lão, Viện Mồ Côi, …vậy “nhập viện” là nhập “viện” nào? Do đó, một cách rõ ràng và đầy đủ nhất phải nói, “vào bệnh viện” hay “đưa vào bệnh viện”. Thí dụ: “Ông Nguyễn Văn A đã phải vào bệnh viện” hoặc “Người ta đã đưa nạn nhân vào bệnh viện.” hoặc “Tối qua cháu bé lên cơ sốt nặng cho nên gia đình đã phải đưa cháu vào bệnh viện.”


- Trạm trung chuyển: Nghe có vẻ cầu kỳ, khó hiểu. Tại sao không nói, “trạm chuyển tiếp” vừa giản dị vừa dễ hiểu?


- Tuyển quốc gia: Có biết bao nhiêu thứ “tuyển” như: Tuyển quân, tuyển phu, tuyển mỹ nhân, tuyển thủ, tuyển chọn, tuyển lựa tài tử, tuyển cử…vậy “tuyển quốc gia” là gì? Là tuyển chọn xem quốc gia nào tốt, đẹp… chăng? Xin thưa đây là lối viết tắt rất “bát nháo” ở trong nước bây giờ của đội tuyển quốc gia. Hầu như trong nước bây giờ các chữ: đội tuyển thanh niên, đội tuyển Việt Nam, đội tuyển Bình Dương… đều viết thành: tuyển thanh niên, tuyển Việt Nam, tuyển Bình Dương. Thật bừa bãi quá sức tưởng tượng!


- Phượt, dân phượt: Tôi đố bạn ở hải ngoại hiểu “phượt” là gì ? Xin thưa bây giờ nó có nghĩa là “du lịch” đó. Tôi có cảm tưởng chữ này dịch từ tiếng Miên mà ra?


- Chuyên cơ: Nghe có vẻ cầu kỳ, làm dáng và khó hiểu. Chữ “cơ” có nghĩa là máy móc. Vậy “chuyên cơ” có nghĩa là “máy móc đặc biệt” chứ hoàn toàn không có nghĩa “phi cơ” hay “máy bay” gì cả. Tại sao không dùng: Phi cơ đặc biệt, phi cơ riêng đã có từ lâu ở Miền Nam cho giản dị và dễ hiểu?


- Các họa sĩ biếm lo ngại sau vụ Charlie Hebdo: Đây lại là một lối viết tắt vô cùng cẩu thả. “Họa sĩ biếm” là họa sĩ gì? Đúng đắn nhất nên viết: “Các họa sĩ vẽ tranh châm biếm lo ngại sau vụ Charlie Hebdo”


- Điều tra hợp tác xã chi khống tiền hỗ trợ nông dân: Chi khống là gì? Hai chữ này có vẻ địa phương hay đường phố hay là một loại tiếng lóng? Tại sao không nói “lập hồ sơ giả” cho rõ nghĩa? Nếu đúng thế thì tiêu đề sẽ là, “Điều tra hợp tác xã lập hồ sơ giả để lấy tiền hỗ trợ nông dân.”


- Mercedes- Benz trình làng mẫu xe tự lái cực “chất”: Cực chất là gì? Đúng là muốn viết gì thì viết và coi thường độc giả quá mức. Tại sao không viết, “Mercedes- Benz trình làng mẫu xe tự lái thật tối tân”, “Mercedes- Benz trình làng mẫu xe tự lái thật tiện nghi”. Đây là hậu quả của việc thiếu kiến thức cho nên bạ đâu viết đó.


- Huyền thoại đấm bốc Muhammad Ali đã được “giải bệnh”: Đây là một tiêu đề vừa chen tiếng Tây “ba rọi” (đấm bốc) vừa chế chữ, đùa giỡn một cách lố bịch. Được bệnh viện cho về sao có thể gọi là “giải bệnh” được? Giải bệnh có nghĩa là chữa bệnh. Do đó tiêu đề đúng đắn phải là, “Huyền thoại quyền Anh Muhammad Ali đã rời bệnh viện” hoặc “Tay đấm huyền thoại Muhammad Ali đã rời bệnh viện”.


- “Đại ca” mang súng “làm cỏ” đối thủ, bố bị chém chết, con nhận án tù”: Khi tường thuật một biến cố, phóng viên hay ký giả không được phép đùa giỡn mà phải dùng chữ cho đứng đắn. Hai chữ “làm cỏ” ở đây là tiếng lóng không nghiêm túc. Hơn thế nữa hai chữ “đại ca” cũng thừa thãi, vô bổ. Tiêu đề đứng đắn nên là, “Đem súng định thanh toán chủ nợ, bố bị chém chết, con nhận án tù”.


- Xét xử gã choai hiếp dâm trẻ em: Chữ “choai” ở đây không đứng đắn (có tính cách mỉa mai) cho một bản tường thuật về một sự kiện xã hội. Phóng viên hay ký giả không phải là “quan tòa”, “nhà đạo đức” hay một “anh hề” để phê phán, chế riễu bất cứ ai. Bổn phận của phóng viên là tường thuật – tức mô tả lại một cách đầy đủ, không thiên kiến, không nhận định riêng tư và bằng giọng văn mẫu mực. Không biết ông ký giả này có tốt nghiệp trường báo chí nào không và trường này dạy những gì?


- “Á hậu dính nghi án đập đá.” Thú thực, đọc tựa đề này tôi không hiểu ra làm sao. Tôi cũng thử đoán xem có phải cô này dính vào vụ “đập” hay “đá” ai đó (bạo hành). Thế nhưng khi đọc phần tin chi tiết mới biết cô á hậu này bị nghi là có cuộc sống trụy lạc, uống rượu và hút xì- ke ma túy nhưng đã được tác giả tường trình bằng loại tiếng lóng. Ngoài ra hai chữ “nghi án” hoàn toàn lạc điệu. Cô á hậu này có dính vào một vụ án nào đâu, mà có thể chỉ có cuộc sống bê tha thôi, sao gọi là “nghi án” được? Có thể nói, trình độ Việt ngữ của ông phóng viên này quá thấp đến nỗi không phân biệt được thế nào là “nghi ngờ” và thế nào là “nghi án”. Thật đáng buồn cho một nền báo chí như vậy!


- “Lương tiếp viên hàng không “khủng”hay “bèo?” Đây là lối nói của mấy tay mánh mung, buôn lậu đang ngồi ở một quán nhậu vỉa hè chứ không phải ngôn ngữ của báo chí “dòng chính” (mainstream).


- Kết cục buồn của bà nữ ĐBQH Châu Thị Thu Nga: Trời đất ơi! Đã “bà” rồi còn “nữ”. Đúng là loại tiếng Việt cẩu thả. Không biết tờ báo này có chủ nhiệm, chủ bút không? Hay có bài vở nào là cứ đăng bừa lên để chạy đua với báo khác mà chẳng để ý câu văn, nội dung ra sao? Đối với các hãng thông tấn quốc tế, các bản tin- dù do thông tín viên chuyên nghiệp gửi về, vẫn được chủ bút coi và duyệt lại trước khi phổ biến. Việc duyệt lại này được cước chú dưới bản tin. Có thể đây là một câu văn “để đời” cần đem vào sách giáo khoa để dạy học sinh. Nhưng cũng có thể ông nhà báo này quá cẩn thận. Đã dùng chữ “bà” rồi còn sợ người ta không hiểu và ngộ nhận là “đàn ông” cho nên phải thêm chữ “nữ” cho chắc ăn!


- Mồm không biết ngượng: Từ lúc cha sinh mẹ đẻ đến giờ tôi chỉ nghe nói “Nói không biết ngượng” chứ chưa bao giờ nghe nói, “Mồm không biết ngượng”. Đúng là loại ngôn ngữ “đường phố” và vô cùng thô lỗ.


- Quan chức Việt Nam “xạc” nhà thầu Trung Quốc (VOA tiếng Việt): Đây cũng là một loại tiếng lóng để chỉ “khiến trách”, “la mắng” xuất xứ từ tiếng Pháp “charge” nếu nói chuyện riêng tư với nhau thì được, nhưng thiếu đứng đắn khi loan tin về một biến cố liên quan đến hai quốc gia.


- Việt Nam hạ giá tiền đồng (VOA tiếng Việt): Không biết người dịch bản tin này ra Việt Ngữ có phải là người Việt Nam không? Hay ông ta là một ông Tàu hay ông Mỹ cho nên nó ngây ngô làm sao ấy. Cả 90 triệu dân Việt Nam không ai nói”tiền đồng” cả, mà họ chỉ nói “đồng bạc”. Do đó tiêu đề đúng là tiếng Việt phải là , “Việt Nam hạ giá đồng bạc”. Xin tác giả tiêu đề này nhớ cho: 1000 đồng là trị giá (mệnh giá) của đồng bạc. Tên của nó không phải là “đồng” mà tên của nó là “tờ giấy bạc Việt Nam” hay “đồng bạc Việt Nam”.

“Rất ít xã hội ngày nay tin vào tôn giáo hơn 40- 50 trước” (BBC tiếng Việt): Đây là câu văn dịch theo kiểu “mot à mot” cho nên làm người đọc nhức đầu. Câu văn bớt nhức đầu là, “Khác với 40, 50 năm trước, ngày nay xã hội tin vào tôn giáo ngày càng ít hơn.”


- “Năm 2015 sẽ kiểm tra về chất cấm trong thức ăn chăn nuôi”: Trời đất quỷ thần ơi! Các chữ “thực phẩm nuôi gia súc” đã có từ lâu lắm rồi sao không đem ra dùng mà lại còn chế ra “thức ăn chăn nuôi” nghe nó dị hợm làm sao ấy.
- “Chính thức chốt phương án nghỉ Tết Nguyên Đán dài 9 ngày”: Đây chỉ là quyết định của chính phủ cho phép nghỉ chín ngày trong dịp Tết Nguyên Đán mà dùng toàn những danh từ đao to búa lớn như “chốt”, “phương án” giống như một kế hoạch hành quân, phục kích. Muốn đơn giản và tránh nhức đầu, chỉ cần viết, “Thủ tướng chính thức quyết định Tết Nguyên Đán nghỉ 9 ngày ”.


- “Sao Barca khiêm tốn mừng chiến thắng không tưởng” và “Chiến thắng không tưởng của đội bóng Chelsea”: Với tiêu đề này, người viết thực sự không hiểu nghĩa của hai chữ “không tưởng” và “không thể tưởng tượng được”. Không tưởng (utopian) là một ảo tưởng không thể xảy ra và sẽ không bao giờ xảy ra. Thí dụ:
“Hắn là con của một gã ăn mày lang thang giữa chợ nhưng lúc nào cũng mơ kết hôn với công chúa. Đúng là chuyện không tưởng.”

“Trung cộng mơ chiếm hết Biển Đông, đánh gục nước Mỹ rồi trở thành siêu cường thống trị thế giới. Đúng là giấc mơ hão huyền, không tưởng.”

Còn “không thể tưởng tượng được” (unbelievable,unimaginable) có nghĩa là chuyện đã xảy ra nhưng ngoài dự liệu, ước mơ hay tiên đoán của mình. Thí dụ:

“Thật không thể tưởng tượng được một em bé sáu tuổi có thể nhảy xuống nước cứu người chị sắp chết đuối.” “Thật không thể tưởng tượng được một vị sư ở Ấn Độ nhịn ăn sáu tháng mà vẫn khỏe mạnh.”
“Thật không thể tưởng tượng được đội Đức hạ đội Ba Tây 5- 1 trong trận chung kết 2014.”
Do đó, hai tiêu đề trên chính ra phải viết như sau:
“Danh thủ Barca khiêm tốn mừng chiến thắng mà chính anh cũng không ngờ.”
“Chiến thắng không thể tưởng tượng nổi của đội bóng Chelsea.”

Tóm lại người viết tiêu đề này hoàn toàn không phân biệt được nghĩa của hai chữ “không tưởng” và “không thể tưởng tượng nổi” nhưng lại cố “sáng chế”, làm ra vẻ rành tiếng Việt lắm nhưng thực tế trái ngược.


- “Cuộc đua xe đạp Xuyên Việt 2014 Cúp Quân Đội diễn ra đầy kịch tính.”: Đọc tiêu đề này tôi có cảm tưởng cuộc đua diễn ra một cách tếu và hài hước như trên sân khấu. Nhưng khi đọc kỹ nội dung thì thấy cuộc đua đã diễn ra sôi nổi, nhiều màn bứt phá, bám đuổi với kết quả thật bất ngờ… nhưng đã được ông phóng viên nào đó phang cho một câu “đầy kịch tính” giống như chuyện đùa ở trên sân khấu.


- “Trận bóng đá giữa Than Quảng Ninh và Đồng Tháp diễn ra đầy kịch tính.”: Là ngươi mê đá bóng từ nhỏ, tôi thật sự không hiểu một trận đá banh đầy kịch tính là trận đá banh như thế nào? Phải chăng đó là một trận đấu đầy diễu cợt, trình diễn lộ liễu, có pha chút khôi hài, tếu nữa? Chẳng hạn như thủ môn nhào ra bắt bóng nhưng thực tế chỉ là biểu diễn và cố tình để bóng lọt lưới? Hoặc hàng hậu vệ cố tình đốn ngã trái phép một cầu thủ đối phương trong vòng cấm địa dù bóng không có gì nguy hiểm để phải chịu phạt đền… rồi nhe răng cười? Hoặc hàng hậu vệ đứng nhìn không chịu truy cản đối phương để họ dẫn bóng khơi khơi và ghi bàn? Nếu đúng thế thì đây là một trận đấu có sắp xếp trước giống như kiểu bán độ chứ làm gì có “kịch tính”? Do đó tiêu đề đúng đắn nhất nên là, “Trận đấu giữa Than Quảng Ninh và Đồng Tháp giống như được dàn xếp trước.” hoặc: “Quảng Ninh – Đồng Tháp: Một trận cầu hết sức lạ lùng.“ Hiện nay tại Việt Nam bất cứ sự kiện thể thao nào có cái gì là lạ như quá hào hứng, thắng đậm, thua đau, nhiều màn đi bóng hấp dẫn đều được “phang” cho một câu “ đầy kịch tính”. Đúng là một sự “sáng tạo” chữ nghĩa vô cùng bừa bãi. Xin hãy đọc:


- “Solo và Bolero đêm chung kết 4 đầy kịch tính.”
- “Đua xe đầy kịch tính theo phong cách ‘Fast &Furious’.”
- “Hai vụ bắt cóc con tin đầy kịch tính đang diễn ra tại Pháp.” (Nếu người Pháp đọc được bản tin này chắc họ sẽ vô cùng phẫn nộ vì đã diễu cợt nỗi đau của họ)
- Giá vàng kịch tính ngay những ngày đầu năm mới: (Tôi thật sự không hiểu giá vàng lên xuống có kịch tính hay không? Giá vàng lên- xuống cũng giống như thị trường chứng khoán, thời tiết – sáng nắng chiều mưa, làm sao tiên đoán được và làm sao có kịch tính? Các cụ ngày xưa nói không sai, “Đã dốt thường hay nói chữ.”
- “Mặt mộc mới nhất của sao Việt.”: Thật không thể tưởng tượng nổi là người ta có thể gọi mặt cô gái chưa trang điểm là “mặt mộc”. Đồng ý “gỗ mộc” là gỗ chưa sơn phết gì cả. Nhưng khi ứng dụng cho con người cũng cần phải nên ý nhị. Tại sao lại không thể nói, “Da mặt chưa trang điểm/da mặt tự nhiên của cô A, cô B…”


- “Soi da xấu-đẹp của kiều nữ Hàn khi để mặt mộc.”: Ngoài vấn nạn “mặt mộc”, trong nước bây giờ, khi chú ý đến người nào, phân tích , tìm hiểu chuyện gì, đồ vật gì… cũng đều dùng chữ “soi’ hay ‘săm soi’ ”. Chẳng hạn như “Săm soi chuyên cơ của Tổng Thống Obama.” Đây là một loại Việt ngữ thật quái đản. Tại sao không nói, “Thử ngắm nhìn làn da của các kiều nữ Đại Hàn khi chưa trang điểm.” hoặc, “Tìm hiểu phi cơ riêng của Tổng Thống Obama.” hoặc “Phi cơ riêng của Tổng Thống Obama có gì đặc biệt?” Hai chữ “săm soi” làm người ta liên tưởng tới một người cầm cái que chọc chọc vào đâu đó. Còn chữ “soi” làm chúng ta liên tưởng tới một người cầm chiếc đèn pin chiếu vào mặt người ta.


- “2 bé trai sành điệu ăn mặc cực ngầu gây sốt.”: Chữ “ngầu” là tiếng lóng ý chỉ “đẹp,bảnh bao” chỉ nên xử dụng trong lúc nói chuyện thân tình, riêng tư. Còn khi phổ biến trên báo chí là thiếu nghiêm túc.
- “Lác mắt xem người Nhật gói quà đẹp từng chi tiết.”: Hai chữ “lác mắt” là ngôn ngữ “hơi thấp”. Một cách đứng đắn và lịch sự, nên viết, “Ngạc nhiên trước nghệ thuật gói quà đẹp, tỉ mỉ của người Nhật.”
- “Phát cuồng siêu xe sang chảnh tựa ngôi nhà di động.”: Tôi tự hỏi không biết câu văn này có phải là tiếng Việt hay không? Đây là một tiêu đề quái dị, xử dụng ngôn từ “đường phố” văn bất thành cú.
- “Để sở hữu eo thon.”: Tức cười thật! “Để có eo thon” vừa giản dị, vừa thuần tiếng Việt không chịu nói, lại chen vào hai chữ “sở hữu” để chứng tỏ ta đây giỏi chữ Nho. Đúng là lối viết rởm đời. Ngoài ra lại còn “mục sở thị” nữa chớ! “Chính mắt nhìn/tận mắt nhìn” không chịu nói, lại bắt chước tiếng Tàu lạ hoắc!
- “Công an phát hiện trên xe có một cá thể hổ đã chết.”: Trời đất quỷ thần ơi! Một con hổ không chịu nói mà lại nói “một cá thể hổ”. Đúng là loại tiếng Việt điên khùng. Nếu loại tiếng Việt điên khùng này phổ biến rộng rãi thì sẽ có loại ngôn ngữ như sau:
- “Mẹ tôi vừa đi chợ mua một cá thể gà.”
- “Nhà tôi hôm qua mới ăn một cá thể cá.”
- “Bữa tiệc thật linh đình, có tới cả chục cá thể heo quay.”
- “Sân Long An bùng nổ, hơn 10.000 vé bị thổi bay”: Ý của người viết muốn nói, sân vận động Long An như muốn nổ tung. Mười ngàn vé bán hết trong chớp nhoáng. Nhưng khi dùng chữ “bị thổi bay” khiến người đọc có cảm tưởng 10,000 tấm vé bị ai lấy cắp. Chữ “thổi” trong chốn giang hồ là “ăn cắp”, chẳng hạn bọn trộm cắp nói chuyện với nhau, “Tao vừa “thổi” được một chiếc xế hộp” tức “Tao vừa ăn cắp được một chiếc xe đắt tiền.”
- “Top quán lẩu, nướng vỉa hè giới trẻ Hà Nội thích nhất”: Tôi đố các bạn hiểu câu văn chen tiếng Mỹ “ba rọi”, lủng củng và trình độ rất thấp này. Một cách rõ nghĩa và đứng đắn, tiêu đề nên viết, “Giới trẻ Hà Nôi ưa chuộng lẩu, thịt nướng vỉa hè.”
- “Món ngon Đà Nẵng tại Hà Nội, quán nào ổn?”: “Ổn” ở đây là ổn định, xong rồi hay cũng khá ngon? Không ai hiểu nổi câu văn bí hiểm này.
- “Toàn cảnh Sapa tuyết rơi lãng mạn qua ống kính dân phượt”: Tuyết, hoặc phong cảnh không thể “lãng mạn”. Lãng mạn là tình cảm ướt át của trai gái. Nhưng cảnh tuyết rơi có thể “gợi cảm” cho người ngắm, nhiếp ảnh gia… Ngoài ra giọng văn đang có không khí “lãng mạn” nhưng tác giả lại thêm vào chữ “phượt” làm người đọc cụt hứng. Chúng ta có thể góp ý với tác giả với vài câu như sau:
- Tuyết Sapa vô cùng gợi cảm trước ống kính của lãng tử.
- Tuyết rơi êm đềm trên đỉnh Sapa.
- Tuyết Sapa làm tâm hồn du lịch trở nên lãng mạn.
- “Thay mới vũ khí trên tuần dương hạm hạt nhân Nakhimov”: Thay vì viết, “Thay vũ khí mới trên tuần dương hạm Nakhimov”. Hiện nay, do dịch thuật từ báo chí ngoại quốc, trong nước đã xuất hiện loại tiếng Việt “đổi đời” phá hủy ngôn ngữ truyền thống Việt như: “Nga vừa đóng mới bốn tàu ngầm”, “xây mới mấy căn hộ”. Đúng văn phạm phải viết, “Nga vừa đóng thêm bốn tàu ngầm” và “Vừa xây thêm mấy căn nhà.” Viết như thế đương nhiên người đọc hiểu là đóng thêm tàu chiến mới, xây thêm căn nhà mới rồi. Xin nhớ cho, xây thêm hoặc đóng thêm đương nhiên là nhà mới, tàu mới. Không ai đóng tàu cũ, xây thêm nhà cũ cả. Do đó, thêm chữ “mới” là thừa. Tuy nhiên câu văn dưới đây, chữ “mới” không có nghĩa là “mới hay cũ” mà là “vừa mới”, ý chỉ thời gian. Thí dụ: “Mẹ mới mua cho anh em chúng tôi mấy bộ quần áo.”


- “Ngỡ ngàng với cô gái bán kẹo hát hay hơn ca sĩ…”: Ngỡ ngàng là tình cảm rất bất ngờ, không ưng ý, không đúng như dự đoán hay ước vọng của mình. Thí dụ: “Sau 25 năm xa cách, từ Mỹ trở về, tôi thật ngỡ ngàng không nhận ra cô nữ sinh khả ái năm xưa nay trở thành một bà già tiều tụy.” hay, “Tôi thật ngỡ ngàng và xấu hổ khi cô ta tự xưng là á hậu nhưng mở miệng nói ra toàn tiếng lóng và ngôn ngữ thô tục “. (Vì tôi cứ ngỡ rằng cô ta đẹp đẽ như thế thì lời ăn tiếng nói phải lễ độ và lịch sự)

Còn ở đây, thấy một cô gái bán kẹo mà hát hay hơn ca sĩ, chúng ta ngạc nhiên hoặc thích thú – tự hỏi sao có chuyện lạ như vậy chứ chẳng “ngỡ ngàng” gì cả. Xin tác giả bài này đọc thêm các tiểu thuyết giá trị của Việt Nam hoặc kiếm thày/cô dạy Việt Ngữ hỏi, lúc đó sẽ hiểu rõ nghĩa của hai chữ “ngỡ ngàng”.

Ngoài ra, trong nước bây giờ, để kiếm sống, các tờ báo thường xuyên cho đăng những hình ảnh quảng cáo cho các cô người mẫu, hoa hậu với những lời chú thích rất ngây ngô hoặc rẻ tiền như: đẹp hút hồn, đẹp ngỡ ngàng, đẹp khó cưỡng, đẹp gây sốt… Qua văn chương, báo chí, tôi đã từng học, từng biết về những vẻ đẹp như: đẹp mê hồn, đẹp não nùng, đẹp liêu trai, đẹp quyến rũ, đẹp yêu kiều, đẹp lả lơi, đẹp hấp dẫn, đẹp chết người, đẹp như chim sa cá lặn, đẹp như tiên nga giáng thế, đẹp như tiên, đẹp khuynh quốc khuynh thành (sau khôi hài thành đổ nước nghiêng thùng), đẹp như Tây Thi, đẹp kiêu sa, đẹp lộng lẫy, đẹp quý phái, đẹp thiên kiều bá mỵ, đẹp mặn mà, đẹp phúc hậu, đẹp thanh tao, đẹp tự nhiên, đẹp ngây thơ, đẹp mảnh mai, đẹp như búp- bê…nhưng chưa thấy… đẹp hút hồn, đẹp khó cưỡng, đẹp gây sốt, đẹp ngỡ ngàng. Có thể tại Việt Nam bây giờ có những cô gái “đẹp kinh khủng” như thế mà thế giới chưa biết chăng? Bạn nào gặp một cô gái có vẻ đẹp “gây sốt” chắc về nhà phải uống Aspirin hay Tylenol. Còn bạn nào gặp một cô có vẻ “đẹp khó cưỡng” chắc vào tù quá?


Tạm Kết Luận:


Chiến tranh đã qua rồi 40 năm. Đây là thời kỳ xây dựng con người, xây dựng tình cảm và xây dựng đất nước. Xin bỏ lại sau lưng tất cả những ngôn ngữ của thời kỳ chiến tranh. Chiến tranh nặng về tuyên truyền, căm thù, tranh thắng mà ngôn ngữ là khí cụ cho nên ngôn ngữ bị biến dạng. Thời bình không cần những loại ngôn ngữ đó nữa mà cần nhân ái, giản dị, hiền hòa, dễ hiểu, cảm thông, xây dựng. Xin đừng kéo lê những di sản nhức nhối của quá khứ để truyền cho những thế hệ mai sau.


Âm thanh hòa lòng người. Ngày xưa Khổng Tử đi qua nước Trần thấy âm nhạc nước này ủy mị quá ngài than chắc nước này diệt vong quá. Quả nhiên nước Trần sau bị xóa tên trên bản đồ. Âm nhạc, tiếng nói biểu hiện lòng người. Chẳng hạn như tại Iraq, Afghanistan, Ukraina, Yemen, Nigeria, Lybia bây giờ chắc chắn âm thanh sát phạt và nặng mùi tử khí. Âm nhạc kích động biểu hiện một xã hội cuồng loạn dễ đi tới cực đoan, quá khích. Âm nhạc hiền hòa là dấu hiệu của một xã hội êm đềm “Trăm họ âu ca”. Ngôn ngữ hiền hòa, lễ độ thể hiện một xã hội an lành, mọi người thương yêu tin tưởng nhau. Ngôn ngữ tràn đầy tiếng lóng và “đường phố” biểu hiện một xã hội bất ổn, mánh mung.
Ngoài ra, ngôn ngữ còn phản ảnh trình độ giáo dục của con người. 


Còn văn chương, chữ nghĩa lại phản ảnh trình độ văn học của một quốc gia. Khi một đất nước tiến lên không phải chỉ nhà chọc trời, xa lộ, cầu cống, đập thủy điện, các khu thương xá lộng lẫy, truyền hình, phim ảnh, thi hoa hậu, người mẫu, thời trang, đá bóng, son phấn, ipad, iphone, ăn mặc giống Mỹ là đủ… mà cần cử chỉ, cách đối xử với nhau, với người ngoại quốc và nhất là cách ăn nói sao cho lễ phép, nhã nhặn. Tôi cho rằng muốn có một sự thống nhất về mặt ngôn ngữ cho Việt Nam thì phải làm sao tổng hợp được nét văn chương, ý nhị, bóng bẩy của Miền Bắc với tính giản dị, trong sáng, dễ hiểu của Miền Nam.


Người Miền Bắc do đồng bằng nhỏ hẹp, kinh tế khó khăn cho nên trong quá khứ hễ có một tí của thì khoe khoang và thường hay ngoa ngôn, cường điệu và tính tình cay nghiệt. Còn người Miền Nam, do thiên nhiên ưu đãi, ruộng lúa bạt ngàn, cây trái đầy vườn cho nên tính tình cởi mở, hiền hòa, giản dị, chân chất…và không ưa kiểu nói dóc, một tấc lên trời hoặc viết hay nói theo kiểu “khó khăn” nhức đầu nhức óc.

Văn chương và ngôn ngữ là di sản do tổ tiên để lại, là con cháu chúng ta phải chung lưng xây đắp sao cho mỗi ngày mỗi phong phú và sáng đẹp. Do đó, tôi xin tất cả những người đang cầm bút, đánh máy (trên máy điện tử) để truyền đi những bản tin hay viết một đề mục quảng cáo, bài bình luận hãy hết sức thận trọng.


Muốn viết giỏi, ngoài năng khiếu còn phải đọc sách thêm rất nhiều. Nếu chưa tin vào trình độ Việt Ngữ của mình thì nên ghi danh theo học các lớp văn chương Việt Nam ở các đại học hoặc tham khảo các tác phẩm văn chương lớn như Kiều, Cung Oán Ngâm Khúc, Chinh Phụ Ngâm, các tác phẩm văn học của Cao Bá Quát, Hàn Thuyên, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Bình Khiêm, Ngô Gia Văn Phái… các tiểu thuyết của Thời Tiền Chiến, các cuốn biên khảo về lịch sử, triết học, xã hội học, tôn giáo, luật học…không ngoài mục đích trang bị cho mình thêm kiến thức hầu cống hiến cho độc giả những bài viết, bài bình luận, bản tin vừa hài lòng người đọc vừa làm mẫu mực cho các thế hệ mai sau. Đó chính là gia tài văn hóa quý báu của một quốc gia. Mong lắm thay!


Đào Văn Bình
(California ngày 14 Tháng 1, 2015)

Thứ Hai, 23 tháng 2, 2015

BÀI THƠ THẦN NĂM ẤT MÙI






Nguyễn Khắc Mai

Tôi chào đón năm Ất Mùi này (2015) với bài thơ Thần đã ra đời vào năm Ất Mùi 1655, đúng 360 năm trước. Lịch xưa tính đúng chẵn sáu hội (mỗi hội 60 năm). 

Đây là bài thơ đã được ghi lại trong Đại Nam Thực Lục – một bộ sử biên niên ghi lại thời kỳ các Chúa Nguyễn rồi Nhà Nguyễn trị vì đất nước.

Bấy giờ, Chúa Hiền, Nguyễn Phúc Tần, một đêm nằm mộng thấy thần nhân hiện lên đọc cho nghe bài thơ. Hôm sau nhà Chúa đã đọc lại cho đình thần nghe, và cho rằng đó là lời mách bảo của thần linh (xem ĐNTL TI, NXB Giáo Dục, tr63).

Nguyên văn :

Tiên kết nhân tâm thuận.
Hậu thi đức hóa chiêu.
Chi diệp kham tồi lạc.
Căn bản dã nan dao (diêu)

Dịch nghĩa:

Trước hết phải cố kết nhân tâm cho thuận.
Sau là thi hành (chính trị) đạo đức để quy tụ mọi người.
Dẫu cành lá có gãy rụng.
Gốc rễ chẳng hề lung lay.

Trong văn học Việt Nam, người ta cho rằng đây là bài thơ thần thứ hai. Bài đầu là bài thơ “Nam quốc sơn hà”, tương truyền đã vang lên trong đền thờ hai vị thần Trương Hống, Trương Hát, ở ven sông Như Nguyệt, nơi phòng tuyến chống quân nhà Tống xâm lược, thời Lý Thường Kiệt.

Nếu bài thơ trước (Nam quốc sơn hà) là tinh thần, ý chí của dân Việt quyết tâm bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ của Đất Nước, quyết đánh bại mọi kẻ thù xâm lăng, được coi như một tuyên ngôn Độc lập, thì bài thơ sau là một “minh triết” chính trị. Bài thơ góp vào, làm nên sự phong phú sâu sắc của tư tưởng, đạo trị nước của Việt Nam. Cũng nên lưu ý một tình tiết tế nhị. Đó là bài thơ xuất hiện lúc đất Nước còn phân ly. Lực lượng nào muốn thắng, gồm thâu thiên hạ, đều phải chú ý đến những vấn đề cốt tử: Thi hành đức hóa, cố kết lòng người…

Ngoại trừ hoàn cảnh xuất hiện, phân tích kỹ 20 chữ của bài ngũ ngôn tứ tuyệt này, có thể rút ra được nhiều điều bổ ích, thú vị. Điều ấy, không những có ích cho những người lãnh đạo quốc gia ở tầm vĩ mô, mà còn có lợi cho cả công việc ứng xử ở tầm cơ sở, vi mô, của một gia đình, một doanh nghiệp, một cộng đồng xã hội, một chính đảng…

Chữ tiên, (trước hết) là nói tầm quan trọng của vấn đề. Câu đầu, đưa ra ba triết lý quan trọng: kết, nhân tâm và thuận. Ba chữ này, là ba phạm trù rất cơ bản để nhận thức và ứng xử xã hội. Ngẫm về chữ kết, đã có điều thú vị, nó có vẻ dễ hiểu, thậm chí người ta nghe đã nhàm tai, nào kết đoàn ta là sức mạnh trong một bài hát Tàu, nào đoàn kết, đại đoàn kết…Chữ kết, người xưa viết với bộ “mịch”, có ý nói về sự bó bện cho bền chặt.Ý nghĩa là sự tập hợp cái nhiều (đa) thành cái một (nhất). Người ta phải “kết” cái nhiều lại để thành một cho mạnh cho bền chắc…nhưng không bao giờ lại thủ tiêu các thành viên, thành tố. Nếu hiểu kết mà chỉ nhăm nhăm coi trọng cái một mà bỏ cái nhiều, chỉ chú ý đến cái chung, mà bỏ cái riêng, thì chẳng còn ý nghĩa kết gì nữa. Đó là quy luật tự nhiên, huống chi là quy luật xã hội! Không thấy ý nghĩa “kết”, không thể gắn bó con người được. Phải hiểu và làm chữ kết trong thế vừa đề cao cái một, mà phải coi trọng cái đa, những thành tố riêng rẽ, để tạo thành cái “Kết”. Trong tự nhiên, người ta dễ hiểu và làm theo quy luật ấy. Như cái máy tính điện tử, nếu không coi trọng từng chi tiết, từng linh kiện, làm sao có thể có được chất lượng cao của bộ máy! Nhưng trong ứng xử xã hội, con người lại tầm thường đến độ ngu xuẩn, là muốn kết mà không muốn làm cho mọi thành tố mạnh lên!

Hai chữ nhân tâm cũng nên luận. Không nên chỉ hiểu đơn giản là lòng người. Phải thấy nhân là con người và cả cái tâm của nó. Nếu không biết nuôi dưỡng con người bằng một “politique” nhân văn, con người sẽ đói, sẽ khổ, sẽ méo mó bất thành nhân dạng, có thể thành quái thai, chỉ có phần con mà mất đi phần người.Trong trường hợp ấy, không thể có cái tâm đúng nghĩa.Tâm không chỉ là lòng người, nó là tổng hòa của cái trí, cái biết cái thức, thiếu tâm hồn, thiếu tri thức không thành người. Như vậy vấn đề nhân tâm không chỉ thuần túy là tinh thần, ý thức, tình cảm, tâm hồn. Phải tính cả những giá trị vật chất của con người cho con người, vì con người. Những thể chế, thiết chế, chế độ phản bội lại con người không thể gọi là nhân văn, lại có thể cố kết con người, làm mạnh con người. Còn chữ “Thuận”. Minh triết Việt biết đánh giá cao ý nghĩa chữ thuận – thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn. Nhưng thuận không chỉ có nghĩa là cùng nhau, còn có cái nghĩa là theo quy luật, theo thiên tính, nhân tính, nhân tình. Con người từng đánh mất chữ thuận, nên đã làm cho con người, cho xã hội không hòa, địa không lợi, thiên không còn thời.

Vì thế, sau cái tiên kết, là nói hậu thi. Những điều phải thi hành, phải làm tiếp theo để thể hiện cho được sự cố kết, làm vững mạnh con người, làm cho nhân tâm thuận, nghĩa là làm cho tiến hóa nhân cách, nhân vị, nhân sinh làm cho tiến hóa xã hội.

Thi hành “đức hóa”, nghĩa là thi hành một nền chính trị đạo đức, nhân văn, một nền kinh tế đạo đức, nhân văn; một nền văn hóa giáo dục đạo đức nhân văn. Mọi sự tuyên bố chủ nghĩa, lý thuyết này nọ mà không theo tiêu chí ấy, đều là lừa dối, chỉ đạt tới dự nhất thời, nửa vời, đẩy con người và xã hội đi tới ngày càng suy đồi, tan rã. Không phải ngẫu nhiên, mà ngày nay đang xuất hiện nhiều những cảnh báo về cái ác tràn lan*, và đang đề xuất những tư duy lành mạnh, cổ vũ cho một tinh thần, một thái độ, một tâm thức “minh triết” trong đời sống. Bruce Lloyd**(Anh quốc) tha thiết đề nghị hãy kiến tạo xã hội minh triết, kinh tế minh triết. Còn Gandhi (Ấn) từ 1934, đã hô hào xây dựng nền giáo dục minh triết.

Thi hành đức hóa còn có nghĩa là thực hiện một đường lối, một phương thức quản trị, điều khiển, tổ chức, quản lý có nhân văn, đạo đức, coi trọng con người hơn là coi trọng giá trị vật chất gia tăng. Những cộng đồng, những xã hội vĩ mô và vi mô chỉ nhăm nhăm lợi ích giá trị vật chất gia tăng, bỏ rơi, bỏ quên con người, xã hội của con người đều không thể biện hộ cho tính “phản động” của mình. Người ta đang phải nói nhiều về nền chính trị có khuôn mặt người, kinh tế có tính người, văn hóa có tình người…

Đó là sự nuôi dưỡng, vun trồng, bồi đắp cho cái gốc, cái rễ (căn và bản) của con người, của xã hội, của Đất Nước, của nhân loại. Đó chính là bài học, là triết lý, là phương châm để một gia đình, một doanh nghiệp, một chính đảng, một nhà nước vận hành đạt tới nhân văn, tiến hóa. Nhãn tiền sự thoái hóa trông thấy trên Đất Nước ta và cả trên thế giới đều có thể chiêm nghiệm từ ý nghĩa bài thơ Thần này.

Xin chép lại bài thơ Thần đã xuất hiện đúng năm Ất Mùi (1655) và đôi lời thô thiển, nói lên cảm nghĩ của mình để hầu chuyện ban đọc bên chén rượu, chén trà xuân, năm này, cũng là một năm Ất Mùi của Dân tộc.

Có ai biết đi Tây là khổ?



Người Việt ở Đức có nỗi khổ là không dám nói về nỗi vất vả của mình với bạn bè, người thân trong nước vì sĩ diện. Nhiều người rất thích "nổ", khi về nước hay "một tấc đến giời".

Nói tới Việt kiều ở Đức, phần lớn những người ở Việt Nam đều nghĩ rằng họ là những người lắm tiền, nhiều của, ăn sung mặc sướng. Dĩ nhiên đời sống ở Đức có nhiều ưu việt, nhưng cuộc sống của người Việt ở Đức cũng có những giọt nước mắt đời không biết“.


Trong những ngày Tết và những ngày giáp Tết, những người làm công ăn lương ở Việt Nam được nghỉ Tết tới 9 ngày, không khí Tết từng bừng ở các chợ hoa Hà Nội, trang trí trong nhà, ngoài đường cho dù còn rất ít nhà tự gói bánh chưng như trước đây.

Trong khi đó, người Việt ở Berlin nói riêng và ở Đức nói chung vẫn tất bật với công việc làm ăn, vì Tết năm nay không rơi vào cuối tuần nên không ai được nghỉ. Những người buôn bán, làm ăn tự lập cũng chỉ dám tự thưởng cho mình được nghỉ chiều 30 Tết để đến chợ châu Á mua sắm thức ăn về vội vàng nấu mâm cỗ Tết để cúng Giao thừa lúc 6 giờ chiều, tức là 0 giờ ở Việt Nam. Sang ngày mùng Một Tết, hầu hết mọi người đã phải đi làm lại bình thường, coi như đã hết Tết.

Mặc dù được đón hai cái Tết, Tết Dương lịch và Tết Nguyên đán cũng như Lễ Giáng sinh ở Đức, nhưng người Việt ở Đức không cảm thấy có một cái Tết nào trọn vẹn. Lễ Giáng sinh ở Đức là dịp sum họp gia đình, không khí chuẩn bị Giáng sinh và Tết Dương lịch ở Đức rất tưng bùng, sôi nổi, nhưng không phải là phong tục truyền thống, nên người Việt ở Đức vẫn luôn cảm thấy xa lạ, lạc lõng.

Khi đến Tết Nguyên đán, các gia đình người Việt vẫn cố gắng giữ gìn phong tục làm mâm cỗ cúng giao thừa, nhiều người đi lễ chùa, nhưng bên ngoài xã hội Đức lại hoàn toàn không có không khí ngày Tết, nên đây là dịp làm nhiều người da diết nhớ tới gia đình, người thân và quê hương, bản quán.

Không biết có bao nhiều người chạnh lòng rơi lệ trong những giờ phút như thế này. Nhưng rồi cảm xúc đó rồi cũng nhanh chóng qua đi để nhường chỗ cho những lo toan thường nhật.

Và có mấy ai hiểu được nỗi khổ của những người Việt bán hàng rong ở Đức. Dĩ nhiên ở đây không phải một đôi quang gánh, mà là một ô tô chở hàng với một quầy hàng di động bán quần áo, giầy dép, bít tất… ở các chợ phiên.



Những ngày hè nắng ấm thì còn đỡ, nhưng vào những ngày giá rét dưới không độ vẫn phải nghiến răng chịu đựng giá rét, quần áo dày cộp, to sụ tưởng chừng ngã xuống thì không đứng dậy nổi, vậy mà vẫn không ngăn nổi được cái lạnh thấu xương.

Có lẽ vì vậy mà nhiều nam thanh, nữ tú sang CHDC Đức lao động cuối những năm 80 mới ở độ tuổi mười tám, đôi mươi, giờ đây mới U 50 mà gặp nhau đã hay phàn nàn về bệnh khớp, bệnh thoái hóa đốt sống cổ hoặc đau thận… thậm chí có một số người đã trở thành người thiên cổ.

Khổ không biết tỏ cùng ai vì sĩ diện

Ngành bán hoa, một ngành mà người Việt đã hầu như làm chủ ở Đức, trông thì có vẻ thơ mộng, nhẹ nhàng, nhưng tìm hiểu kỹ mới thấy, thị trường này cũng là một chiến trường không tiếng súng.

Mô hình chung của một gia đình bán hoa của người Việt là người chồng dậy từ 2 giờ sáng, đến chợ đầu mối để có thể mua hoa đẹp và rẻ. Vào những dịp quan trọng như ngày Lễ Valentin hoặc Muttertag thì đúng nghĩa là tranh cướp hoa.

Sau khi người vợ đưa con tới trường thì ra bán hoa, người chồng về ngủ. Trời lạnh cũng không dám sưởi ấm vì sợ hoa héo, lại hay phải nhúng tay vào nước lạnh. Đây cũng là một ngành vất vả, nên có người phụ nữ liễu yếu, đào tơ muốn tìm hiểu để vào nghề bán hoa đã bị cảnh báo: "Cẩn thận kẻo người héo trước hoa".

Tuy nhiên, đây chỉ mới là một vài nỗi khổ nhãn tiền, còn nhiều nỗi khổ thể chất và tinh thần, nhất là đối với nhiều phụ nữ "không biết tỏ cùng ai".

Đã đành là ở đâu cũng phải vất vả làm ăn kiếm sống. Người Việt ở Đức có nỗi khổ là không dám nói về nỗi vất vả của mình với bạn bè, người thân trong nước vì… sĩ diện.

Nhiều người Việt ở Đức rất thích "nổ", khi về nước hay "một tấc đến giời“ làm như mình giàu có lắm, dễ kiếm tiền lắm, làm cho nhiều người trong nước lầm tưởng nước Đức là một thiên đường trên mặt đất, cứ sang là "xúc ra tiền“.

Mong rằng mọi người hãy thực tế, nói thực và sống thực với điều kiện và hoàn cảnh của mình: Nước Đức có hệ thống phúc lợi xã hội rất tốt, nhưng người ta cũng phải "làm thật“ mới có thể "ăn thật“, bảo đảm cuộc sống của mình.

Vũ Văn(Thoibao.de)

Chủ Nhật, 8 tháng 2, 2015

SA MẠC TÌNH YÊU



PILISZKY JÁNOS


( Một trong những bài thơ tình yêu địa ngục gây chấn động tâm can của Pilinszky János, nhan đề gợi nhớ đến cuốn tiểu thuyết của Mauirac (LE DÉSERT DE L'AMOUR) mà ông rất yêu mến, và nội dung ăm ắp cảm giác ê chề, bị sỉ nhục của giới văn nghệ sĩ Hungary phải chịu đựng những năm 1950 vì sự cấm đoán kiểm duyệt của chính quyền đương thời, làm sống lại những ấn tượng đã in khắc vào tâm trí nhà thơ khi chứng kiến những trại tập trung của Đức quốc xã, hủy diệt dân Do Thái cuối Đại chiến II.- NHN)



Một cây cầu, con đường bê tôn cháy bỏng,
nắng lột ngược mọi ngăn túi của mình,
hết thảy phô bày lần lượt.
Em - chính nỗi thờ ơ bất động giữa hoàng hôn.

Phong cảnh tựa đáy hố sâu nham nhở;
những vết sẹo rãy bỏng ảo ảnh bóng mờ.
Hoàng hôn đổ. Trân trân ánh rạng,
nắng chói chang. Mùa hạ, anh không bao giờ quên.


Là mùa hạ và nóng như chớp lửa.
Đứng im lìm, anh biết, những đôi cánh chẳng run
một đàn chim, như những thiên thần
trong lởm chởm tường gai, chuồng vây hãm.

Em còn nhớ không? Trước tiên là gió;
rồi đến đất; và rồi đến chuồng.
Lửa và phân. Đôi ngày
vài ba tiếng vỗ cánh, vài ba phản xạ.

Và cơn khát. Phút giây anh xin uống
đến hôm nay từng ngụm bỏng, anh vẫn nghe
anh gắng chịu bất lực như đá,
và dập tắt đi mọi ảo ảnh biến tan.

Tháng năm trôi, năm tháng và niềm tin-
như giữa rác rơm chiếc nồi nhôm lăn lóc.




Nguyễn Hồng Nhung dịch từ bản tiếng Hung

Trịnh công Sơn và những ngày Văn khoa



TỪ THỨC


Gởi những người bạn Sài gòn ngày xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ ?
(HĐL)


Một ngày đầu tháng tư (2001), tôi lên phi trường Charles de Gaulle đón một người bạn từ Việt nam qua. Trên xe về Paris, anh ta hỏi : cậu có nghe tin về Trịnh công Sơn ? Tôi gật đầu ; mấy hôm trước, có người gọi dây nói cho hay TCS vừa từ trần.
Anh bạn nói đám tang Sơn rất đông. Người ta ở đâu đổ về như kiến, chật cả đường phố. Quen có, lạ có. Không đủ chỗ đặt vòng hoa phúng điếu .Tôi nói với ông bạn : như vậy, cái xứ của ông vẫn còn văn minh, vẫn còn thuốc chữa.
Đó là cái tin lạc quan nhất về Việt nam mà tôi được nghe từ nhiều năm nay. Dostoievski nói : cái đẹp sẽ cứu vãn nhân loại. C’est la beauté qui va sauver le monde. Bỏ công ăn việc làm, đến tiễn đưa một thi sĩ-TCS là một thi sĩ-chứng tỏ người ta còn nghĩ đến cái đẹp, người ta còn có tâm hồn.
Tự nhiên tôi nghĩ đến bác sĩ Jivago của Boris Pasternak. Cũng như Sơn, Jivago là một thi sĩ. Cũng như Sơn, Jivago bị cuốn hút trong cơn lốc của lịch sử, bị quẳng vào một bi kịch kinh thiên động địa từ trời giáng xuống. Như hàng triệu người Nga, Jivago bị đánh bạt ra khỏi gia đình, quê hương khi cách mạng vô sản Nga ập xuống nước Nga, cuốn trôi tất cả : gia sản, vợ con, bè bạn, tình ái trong một xã hội thay đổi tận gốc rễ.
Chỉ có một điều không bao giờ thay đổi : là một thi sĩ, Jivago tiếp tục làm thơ. Lấy thơ làm nhân chứng, lấy thơ làm cái phao. Lấy thơ làm một nguồn hy vọng để vươn lên. Khi Jivago chết, người ta ở đâu đổ về rất đông, nhiều người không hề quen biết. Pasternak viết : người Nga yêu thơ, yêu thi sĩ. Nghĩa là yêu cái đẹp, nghĩa là chưa hoàn toàn tuyệt vọng. Chỉ hoàn toàn tuyệt vọng khi người ta không còn thiết tha đến điều gì, ngay cả cái đẹp. Đó là nét lạc quan nhất trong một cuốn sách đầy thảm kịch : chiến tranh, tang tóc, chia lìa, đổ vỡ. Một tia sáng loé lên trong bầu trời đen tối.



MƯA VẪN MƯA RƠI…



Khi Charles Trenet chết, hàng chục ngàn người kéo về đưa tang một thi sĩ hiện đại nổi tiếng nhất của Pháp. Đưa tang Trenet, người Pháp, trong vài giờ, quên mình đang sống trong một xã hội vật chất, suốt ngày túi bụi dành giựt. Trong vài giờ, thấy mình vươn lên, thấy đời có ý nghĩa hơn, bởi còn yêu cái đẹp. Trenet viết : Những thi sĩ đã qua đời, nhưngtiếng hát của họ vẫn bay nhẩy trên khắp đường phố.

TCS đã qua đời, nhưng tiếng hát của anh vẫn bay nhẩy trong các hang cùng, ngõ hẹp. Không phải chỉ ở Việt nam , mà trên khắp địa cầu. Người Việt, tan tác như một đàn gà mất mẹ, nương thân trên khắp nẻo đường thế giới, mang theo những kỷ niệm quê hương, mang theo mùi nước mắm, mùi sầu riêng, mùi phở, mang theo tiếng hát TCS.

Tôi đã nghe TCS qua tiếng hát nhừa nhựa khói thuốc của Khánh Ly ,tiếng hát thánh thót, không có tuổi của Thái Thanh, tiếng hát truyền cảm của Lệ Thu ; và rất nhiều tiếng hát vô danh, tiếng hát của những người sống ở ngoại quốc nhưng chỉ nói tiếng Việt, của những người thuộc thế hệ sau này, hát TCS với một thứ tiếng Việt pha giọng Mỹ, giọng Pháp, giọng Đức. Tôi đã nghe tiếng hát TCS vọng ra từ những căn nhà ở New-york, Tokyo, Budapest, Athène hay Palerme…Một buổi chiều tàn, trong một bìa rừng ở Brésil, cách Rio de Janeiro hàng ngàn cây số một nơi khỉ ho cò gáy, tưởng như không có hơi người, tôi nghe 1 giọng khàn khàn vọng ra từ 1 căn nhà gỗ. Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ. Dài tay em với những thoáng mây bay…Người hát là một ông già gốc Ấn Độ, sống ở Việt nam từ nhỏ.Vượt biển, thuyền đắm, ông già được tầu Ba tây vớt, ở lại Ba tây, làm nghề canh rừng. Suốt ngày, lủi thủi một mình, tháng năm dài đằng đẵng, ông già Ấn mơ đến những cơn mưa trên tầng tháp cổ ở một xứ ông đã nhận làm quê hương.

Một ngày ở ngoại ô La Havanne, trong một tiệm ăn nhỏ trên bờ biển, nơi người ta bán lậu tôm hùm cho du khách (tôm hùm là tài sản quốc gia, chỉ để xuất cảng hay bán trong những tiệm ăn quốc doanh), tôi nghe một giọng hát đàn bà, rất trong, rất ngọt từ trong bếp vọng ra .Ngày gió lớn, tai nghe môi gọi thầm. Gọi tên em, tên Việt nam, trong tiếng nói da vàng. Người hát là một bà Bắc kỳ, từ Hà nội tới Cuba, trong một chương trình hợp tác gì đó giữa hai nước ‘xã hội anh em’, có lẽ đã mệt nhoài sau nhiều năm thề ăn gan uống máu quân thù .

Tác phẩm TCS đã đi sâu vào tâm hồn dân tộc.Nước ta có trên 80 triệu dân. Trừ trẻ con và những người không biết đọc, biết viết, có khoảng 50 triệu người làm thơ. Sự thực, không cần phải biết đọc, biết viết mới biết làm thơ : tác giả những câu thơ đẹp nhất trong văn chương Việt nam – ca dao - là những người nông dân không biết đọc biết viết .Trong số 50 triệu người làm thơ, mỗi thế hệ cho vài ba thi sĩ. Những thi sĩ đi sâu vào tâm khảm đám đông, gặp gỡ tâm hồn một dân tộc còn hiếm hoi hơn nữa. TCS thuộc cái số hiếm hoi đó.


SAIGON, NHỮNG NGÀY XÁO TRỘN

Tiếng hát TCS đến với Sài gòn vào những năm 60, ở trường đại học Văn khoa Sàigon , nằm trên góc đường Gia Long-Nguyễn trung Trực, ngay trung tâm thành phố ; Sơn ở Bảo Lộc trôi giạt về, lai vãng thường xuyên vì cái sinh hoạt trẻ ở đó rất náo nhiệt. Trường đang rục rịch di chuyển một phần về cơ sở mới gần sở thú Sài gòn vì số sinh viên tăng rất nhanh, trường cũ không đủ chỗ. Văn khoa là trường đông sinh viên nhất ở Việt nam. Xa rồi, cái trường Văn khoa đầu tiên ngoài Bắc, do giáo sư Cao xuân Huy sáng lập năm 1949, với số sinh viên vỏn vẹn có bẩy người, gọi là thất hiền.(1).

Trường di chuyển, nhiều gỉảng đường bỏ trống. Gọi là giảng đường cho sang, sự thực đó chỉ là những căn nhà tiền chế. Tất cả những gì gọi là sinh hoạt văn hoá xã hội của giới trẻ Sai gòn kéo về, chiếm đóng những căn nhà tiền chế. Một phần dành cho CPS ( Chương trình Phát Triển Sinh Hoạt Thanh Niên Học Đường ), một phần dành cho hội hoạ sĩ trẻ, đoàn văn nghệ Nguồn Sống. Phần còn lại, một số sinh viên chúng tôi tịch thu làm Nơi tâp trung, hội họp. Hồi đó người ta tự hào thuộc giới trẻ, có lẽ vì thất vọng với những gì «lớp già » để lại. Gia tài của mẹ để lại cho con, gia tài của mẹ, một nước Việt buồn : hoạ sĩ trẻ, nhạc sĩ trẻ, ca sĩ trẻ… quên rằng người ta sớm muộn gì cũng …già. Các « cụ » trong nhóm Người Việt, Thế kỷ 21 ngày nay đều là những người trẻ ngày xưa ở sân trường Văn khoa.

Phải sống ở Văn khoa những ngày ấy mới thấy sinh hoạt văn nghệ, sinh hoạt xã hội là một nhu cầu thiết yếu của tuổi trẻ, và nếu có cơ hội , sinh hoạt ấy bùng lên, tuổi trẻ bùng lên, đất nước không còn là mộtnước Việt buồn

Sống ở đó rất tiện : Văn khoa nằm ngay trung tâm thành phố, đi vài bước là tới những tiệm cà phê nổi tiếng trên đường Catinat, vài bước tới Khai Trí, tiệm sách lớn nhất Sài gòn, tha hồ đọc sách cọp. Ông chủ Khai trí là một người mê sách, muốn phát triển văn hoá, ông ấy khuyến khích sinh viên đọc sách cọp. Nhà cửa điện nước đều của chùa, rất tiện, trong khi hầu hết chúng tôi đều nghèo kiết xác, từ những ông hoạ sĩ trẻ, những ông văn nghệ sĩ có tiếng nhưng không có miếng ở đất nước của Tản Đà (văn chương hạ giới rẻ như bèo), những ông ký giả đầu tháng đã hết lương, những ngày cuối tháng khó khăn, nhất là 30 ngày cuối tháng (Coluche), đến đám sinh viên trong đầu đầy những mộng đổi đời, cải tạo xã hội và trong túi không có đủ tiền uống một ly cà phê.

ĐẠI BÁC ĐÊM ĐÊM VỌNG VỀ…

Từ 1963, sinh hoạt giới trẻ Sài gòn cực kỳ náo nhiệt. Chúng tôi sống ở ngoài đường nhiều hơn ở trong nhà hay trong lớp học. Hết biểu tình, hội thảo chống đàn áp Phật giáo dưới thời ông Diệm, đến hội thảo, biểu tình chống các chính phủ thi nhau lên xuống. Xuống đường trở thành một sinh hoạt thường nhật. Giữa những cuộc biểu tình, những buổi hội thảo, thỉnh thoảng ghé vào giảng đường học vài chữ cho phải phép. Đó là giai đoạn giới trẻ tham gia tích cực vào đời sống chính trị xứ sở. Với lòng nhiệt thành, và cố nhiên với đôi chút ngây thơ. Ngây thơ tin vào sức mạnh vạn năng của tuổi trẻ, nhất là khi thấy chỉ vài buổi xuống đường cũng đủ lật đổ một chính phủ, một ông tướng, một chính khách ; quên rằng trong cái hỗn loạn của đất nước, người Việt chỉ là những quân cờ thí.

Trước tết Mậu thân, lớp trẻ Sài gòn còn tin tưởng, chưa hoàn toàn mệt mỏi, tuyệt vọng. Những ngày đầu thập niên 60, chiến tranh chưa thưc sự len vào thành phố, mặc dù hàng ngày vẫn đọc trên báo những cuộc đụng độ nẩy lửa ở Pleiku, Cà mau, Đồng Xoài, Bình giã ; thỉnh thoảng chứng kiến những vụ pháo kích ; thỉnh thoảng họp nhau, nhậu vài két la de, lạc rang, củ kiệu, tiễn một người bạn lên đường nhập ngũ. Chiến tranh còn ở xa, đại bác đêm đêm vọng về, người phu quét đường dựng chổi đứng nghe. Dân Sài gòn chưa thấy tận mắt những xác người nằm chết như mơ, những xác người nằm dưới mái sân chùa, trên giáo đường thành phố.

Sinh hoạt trẻ Sai gòn ồn ào, sinh hoạt trẻ Văn khoa còn náo nhiệt hơn nữa. Bên cạnh những hoạt động chính trị, những cuộc xuống đường, còn rất nhiều những đêm không ngủ, những hội Tết, những đêm văn nghệ Nguyễn Đức Quang, Nguồn Sống, những ngày túi bụi làm báo Xuân, nguyệt san Đối Thoại. Ở đó, (và ở trụ sở Tổng hội Sinh viên SG), Phạm Duy ra mắt trường ca Mẹ Việt nam, Vũ thành An ra mắt bài hát đầu tay. Chúng tôi, tuổi 20, kề vai nhau nghe Lệ Thu ngủ đi em, mộng bình thường ; ru em những tiếng thuỳ dương đôi bờ, nghe Thái Thanh ca tụng mẹ Việt nam không son không phấn, mẹ Việt nam chân lấm tay bùn ( Phạm Duy ); và thực tình xúc động với cái viễn ảnh Việt nam quê hương đất nước sáng ngời . Cái viễn ảnh ấy, trong những đêm không ngủ, tựa vai nhau, chỉ tưởng tượng cũng đã muốn khóc. Trước cái trống rỗng của hiện tại, và cái lo lắng cho một tương lại mù mịt, người ta ngồi sát lại nhau, người ta nắm tay nhau, xin chờ những rạng đông. Những câu hát đẹp như thơ của Sơn đã đi thẳng vào lòng người.

Phong trào hoạt động xã hội cũng phát triển rầm rộ. Ảnh hưởng của phong trào thanh niên chí nguyện quốc tế của Kennedy, những hội doàn như CPS, Thanh Niên Thiện Chí, Thanh Niên Chí Nguyện vv … mọc ra như nấm. Tuổi trẻ tích cực tham gia nhũng cuộc cứu lụt ngoài Trung, cải trang những xóm nghèo ở thành phố, leo lên những làng Thượng dạy học, đào giếng, chữa bệnh. Có anh tham dự những ngày cuối tuần, có anh bỏ học , hoạt động hai ba tháng, nhiều khi cả năm. Đó là một tuổi trẻ còn đầy lý tưởng, còn yêu đời, yêu người, còn đầy tình người trong mạch máu, ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau.

Điều đó chứng tỏ tuổi trẻ rất tha thiết dến dân tộc, sẵn sàng đóng góp cho đất nước. Nếu họ thờ ơ với đất nước như người ta than phiền, lỗi không phải ở họ : người ta đã không tạo cơ hội cho tuổi trẻ tham gia. Họ bị gạt ra ngoài lề. Đất nước không còn là đất nước của họ.

ĐƯỜNG PHƯỢNG BAY

TCS đến với Văn khoa trong bối cảnh đó. Sơn không phải sinh viên VK ; anh ở Huế vào, bỏ học vì hoàn cảnh gia đình. Những đêm trăng, chúng tôi ngồi trên baĩ cỏ trước quán Văn, nghe Sơn đàn, nghe Khánh Ly hát. Khánh Ly sinh ra để hát TCS, cũng như Thái Thanh sinh ra để hát Phạm Duy.

Quán Văn là một ngôi nhà tiền chế, nằm giữa sân trường VK. Một nhóm thổ công VK sửa sang lại, biến thành môt quán cà phê, làm nơi tụ họp, gặp gỡ. Đúng là môt cái quán, đơn sơ, nhưng đầy tình bè bạn. Giống như một cái quán ở miền quê, nơi người nông dân ghé qua, uống một bát chè tươi, hút một điếu thuốc lào, ngâm vài câu thơ, vài câu ca dao, tán gẫu với nhau sau những giờ lao động. Ở đó, chúng tôi khám phá ra cái đậm đà của tình bạn, cái thi vị của những buổi hẹn hò. Ở đó đã nở ra những mối tình, đôi khi dang dở, nhưng có nhiều cặp còn keo sơn tới ngày nay.

Người nhỏ bé, gầy gò, ăn nói nhỏ nhẹ, ôn tồn (tôi chưa hề thấy một TCS giận dữ, gây gổ ), Sơn trở thành bạn của mọi người một người một cách rất tự nhiên.

Đôi mắt tinh anh, láu lỉnh, nụ cười hiền lành như một thầy tu, Sơn có cái phong thái của một thi nhân, cái khiêm tốn của một người có thực tài. Từ cách nâng ly uống một ly rượu, tiếp truyện với bạn bè, cách trang phục, giản dị nhưng trang nhã, cái phong thái thi nhân ấy hiện diện ở Sơn, thường trực, tự nhiên. Đừng tưởng ông thi sĩ nào cũng có phong thái thi nhân. Sartre nói về Heidegger, một triết gia hàng đầu mà chính ông chịu nhiều ảnh hưởng : « có những người ta chỉ nên biết tác phẩm, không nên biết đến con người, nếu không muốn thất vọng ». Heidegger là một triết gia lỗi lạc, lại cũng là ngươi theo chủ nghĩa nazi. Tôi đã quen những ông thi sĩ, tác giả những câu thơ rất đẹp, ăn uống , cư xử như một con heo đực.

TCS ở ngoài đời rất giống TCS người ta tưởng tượng khi nghe những bản nhạc tình của anh.

Chúng tôi, mới đầu, ngạc nhiên thấy một gã người Huế, rất thanh nhã, rất ung dung, từ tốn ; không phải cái từ tốn của 1 ông già, mà là cái ung dung quí phái của một con mèo ; với nụ cười hiền hoà thường trực trên môi. Sơn học chương trình Pháp, nhưng xử dụng tiếng Việt một cách tài tình. Nhiều chữ rất tầm thường, với Sơn, chợt trở nên truyền cảm ; nhiều chữ do Sơn bịa ra, nhiều hình ảnh đến từ một trí tưởng tượng phong phú, nếu không nghe Sơn giải thích, chắn chắn không ai hiểu. Mặc dù vậy, người ta cũng vẫn rung động, vẫn thấy cái Sơn nói đến rất thực, rất gần gũi. Đó là cái ma lực của chữ nghĩa, của thơ. Khi thơ đạt, khi chữ nghĩa có duyên nợ với nhau. Nhiều chữ, nhiều câu rất cũ, đột nhiên ở Sơn trở thành rất mới. Nhiều chữ nhiều câu rất cầu kỳ, đột nhiên gần gũi. Khi thất tình - người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ-, khi tuyệt vọng , mùa thu không về, mùa xuân cũng ra đi,ngay cả khi nói đến chiến tranh tang tóc- xác người nằm như mơ-, TCS không lúc nào quên mình là thi sĩ.

TCS nói về những cái rất riêng tư, những kỷ niệm rất riêng tư, qua một ngôn ngữ rất riêng tư. Và lạ lùng, cái riêng tư ấy của thi sĩ thấm vào lòng người nghe. Người ta xúc động mặc dù không hiểu từng câu, từng chữ. Nhất là trong những bản nhạc tình. Nói về chiến tranh, ngôn ngữ TCS là ngôn ngữ của mọi người ; chiến tranh là một tai hoạ chung, một thảm kịch của cả một dân tộc, không phải là thảm kịch của một cá nhân, mặc dù mỗi cá nhân là một thảm kịch.

Một người bạn tôi nói khi nghe Sơn hát đường phượng bay mù không lối vào, anh thấy hình ảnh rất đẹp, rất mới , nhưng không biết tác giả nói gì, cho đến một hôm, ở một tỉnh nhỏ, anh thấy hoa phượng rơi, bị gió cuốn mịt mù, đỏ rực cả con đường trước mắt.

Nếu không quen Sơn, ít ai biết ngày mai nối bước Sơn khê, nói đến một người bạn gái tên Khê ; ngàn cây thắp nến hai hàng, mầu nắng bây giờ trong mắt em mô tả những tia nắng cuối cùng của một buổi chiều tà đọng trên những ngọn cây, giống như ngàn cây thắp nến. (2)

Ngôn ngữ TCS khác với ngôn ngữ Phạm Duy (PD). Ngôn ngữ PD là ngôn ngữ ca dao. Hình ảnh của PD là hình ảnh của ca dao. Nhiều câu, nhiều hình ảnh trong nhạc PD không hiểu là của PD hay mượn từ ca dao. Đó không phải một lời chỉ trích ; đó là một lời ca ngợi. Bởi vì dùng ngôn ngữ của một dân tộc, nói lên tình tự của dân tộc không phải ai cũng làm được, là một điều rất đáng tự hào. Lời ca của PD ai cũng hiểu, hình ảnh của PD ai cũng đã từng thấy, vì trong tiềm thức, chúng ta đã sống với ca dao từ hàng ngàn năm nay. Trong môt bài báo ngày xưa ở trong nước (3), tôi viết tiếng hát Thái Thanh không có tuổi, vì đã làm say mê ba thế hệ. Tôi nghĩ thêm : tiếng hát Thái thanh qua nhạc PD không có tuổi vì chúng ta vẫn nghe từ hàng ngàn năm nay. Tiếng hát ấy gợi ra trong đầu người nghe những cánh đồng lúa xanh, tiếng cười rúc rích cúa cô thôn nữ, những làn khói lam trên những mái nhà tranh, tiếng chuông chùa ngân nga, tiếng hò hát của người nông dân những ngày được mùa, tiếng nghẹn ngào của bà mẹ mù mắt chờ con đi chinh chiến, tiếng than vãn của những đời lầm than, đen tối.

PD sống với ca dao, thở với ca dao, cười khóc bằng ca dao. Ít có người Việt nam nào Việt nam hơn PD. Có lẽ có một người : Nguyễn Bính. Nguyễn Bính là ca dao, ca dao là NB .

HAI NGHỆ SĨ, HAI CUỘC CHIẾN

Trên bãi cỏ trường VK, trước quán Văn, TCS và Khánh Ly hát trước hàng ngàn người hay chỉ năm, bẩy anh em. Không phải chỉ hát cho tình yêu. Sơn càng ngày càng bị ám ảnh bởi chiến tranh. Từ hình ảnh lãng mạn của người phu quét đường dựng chổi đứng nghe, chiến tranh trở thành cụ thể hơn, ghê rợn hơn :

Một buổi sáng mùa xuân
Một đứa bé ra đồng
Một trái mìn nổ chậm
Xác không còn đôi chân.

Nhạc tình TCS là những tiếng thở dài, có buồn cũng chỉ buồn thoang thoảng : mùa đông vời vợ, mùa hạ khói bay, có trách cũng chỉ trách nhẹ nhàng : người tình bỏ ta đi, như những giòng sông nhỏ. Một thái độ rất thiền, rất ‘zen’ ; trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt, rọi xuống trăm năm một cõi đi về.

Nói về chiến tranh, TCS kêu gào, phẫn nộ. Chiến tranh không còn từ xa vọng về như những ngày đầu, nó ở trước mắt : Xác người nằm trôi sông ; phơi trên ruộng đồng ; trên nóc nhà thành phố ; trên những đường quanh co. Cùng với cuộc chiến càng ngày càng dữ dội, tiếng kêu gào của Sơn càng ngày càng thảm thiết. Anh nói đến những em bé loã lồ, suốt đời lang thang, đếnnhững xác người nằm bơ vơ, dưới mái hiên chùa, đến những trái mìn nổ chậm, người chết hai lần. Chiến tranh trở thành khốc liệt, tang tóc đổ xuống dân tộc kinh hoàng . Từng vạn chiếc xe , claymore lựu đạn. Hàng vạn chuyến xe mang vô thị thành. Từng vùng thịt xương, có mẹ có em. TCS của chiến tranh trở thành một người dở điên, dở dại, thất thểu, chiều đi trên đồi cao, hát trên những xác người. Hình ảnh bi thảm, ma quái . Một thi sĩ thất thểu trên bãi dâu, hát bên những xác người . Đi trên đồi cao, bên cạnh xác người là một hình ảnh bi thảm, nhưng hát bên những xác người, hình ảnh mang thêm một cái gì ma quái, điên dại. Bi đát như chiến tranh với những con ngựa hý điên cuồng trong tác phẩm Guernica của Picasso.

Ngôn ngữ TCS về chiến tranh khác với ngôn ngữ TCS về tình yêu. Chiến tranh trong nhạc TCS cũng khác chiến tranh trong nhạc Phạm Duy.

PD có ‘’ cái may ‘’ sống trong một cuộc chiến tranh chống Pháp, có địch, có thù, chiến tuyến phân minh. PD, 24 tuổi lên đường tham gia kháng chiến, như hàng ngàn hàng vạn thanh niên khác. Chiến tranh trong nhạc tiền chiến của PD nó hào hùng, nó bừng bừng khí thế. PD tiền chiến không có cái cấu xé, cái dằn vặt. Cái chọn lựa của PD nó hiển nhiên. Nhạc PD không có cái lưỡng lự, nó là một tiếng quân ca, tiếng gọi lên đường. Bên cạnh cái hào hùng là cái lãng mạn của một trí thức tiểu tư sản ở tuổi 20, của một nghệ sĩ giầu tình cảm. Đó là cuộc chiến của những cô nàng gánh lúa cho anh đi diệt thù, của những chiến sĩ dừng chân trên chiếc cầu biên giới tưởng tới người yêu ở quê xa.

Điều đó không có nghĩa là trong nhạc PD không có cái bi thảm của chiến tranh. Nhạc PD có bà mẹ Gio Linh lên đường đi kiếm xác con bị giặc chặt đầu, có bà mẹ đón người con thương binh trở về, tiếc rằng ta đôi mắt đã loà vì quá đợi chờ. PD nói ông làm tới ba bài người thương binh vì ông sống qua ba cuộc chiến. Tác giả Con Đường Cái Quan nói ông khác xa những nghệ sĩ khác thời tiền chiến vì họ chỉ làm nhạc hùng ; trong khi ông nói cả đến cái bi thảm của chiến tranh. Nhưng cái tàn phá của chiến tranh, cái thảm hoạ đổ lên đầu dân tộc càng khiến PD thấy cuộc chiến tranh của mình có ý nghĩa hơn. PD thuộc những người, như Malraux nói, không thích chiến tranh, ( bởi vì có những người thích chiến tranh, coi đó là lẽ sống) nhưng tham chiến một cách dứt khoát vì là chuyện phải làm.

Cuộc chiến của TCS khác, cái nhìn của TCS khác. Đối với Sơn, đó chỉ là một cuộc nội chiến tương tàn. Nạn nhân là nước Việt, người Việt :

Hàng vạn tấn bom trút xuống ruộng đồng
Cửa nhà Việt nam cháy đỏ cuối thôn


Lật xác người chết, chỉ thấy đồng bào, cha mẹ, anh em :

Bên xác người già yếu
Có xác còn thơ ngây
Xác nào là em tôi
Dưới hố hầm này
Trong vùng lửa cháy
Bên những vườn ngô khoai

Những câu hát làm người ta nghĩ đến chiến tranh của Quang Dũng :

Mẹ già tôi em có gặp đâu không
những xác già nua ngập cánh đồng
tôi cũng có đàn em nhỏ dại
bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông

Ngay cả ở cùng một thời điểm, cái nhìn về chiến cuộc của hai nhạc sĩ cũng khác nhau. Với TCS, đó là một cuộc nội chiến mà người Việt nam là nạn nhân. Với PD, đó là cuộc chiến Quốc Cộng nối dài, mặc dù sau này, Phạm Duy, vì cơm ăn áo mặc, hay vì một lý do gì khác, đã vứt bỏ cái hình ảnh của một nghệ sĩ dấn thân, đánh đổi vai trò thần tượng của một thế hệ để đóng vai trò ‘hàng thần lơ láo’.

Ca ngợi cái chết của một phi công-Phạm phú Quốc-PD gọi tên anh, anh là Quốc. Gọi tên anh, anh là nước. Đặt tình yêu nước vào nôi. Viết cho một phi công khác tử trận, TCS không nói đến chiến công, không ca ngợi anh hùng, chỉ nói đến một kiếp người : anh đã đến, đã bay cao trong vòm trời này, đã vui chơi trong cuộc đời này.

Trong « Em hỏi anh bao giờ trở lại » PD viết anh trở về bại tướng cụt chân. Nếu Sơn là tác giả, tôi nghĩ chắc Sơn viết anh trở về vì đã cụt chân. Đối với Sơn, không có chiến có bại ; chỉ có người Việt nam bị cuốn hút vào một cuộc chiến tương tàn. Nếu chưa bị cụt chân thì còn đánh nhau. Đó là một cái nhìn cực kỳ bi đát về cuộc chiến.




HUYỀN THOẠI DA VÀNG



Nhiều người trách cái ngây thơ chính trị của TCS. Nhưng cái ngây thơ chính trị của nghệ sĩ, của trí thức là chuyện rất phổ thông. Chỉ cần nêu trường họp Jean Paul Sartre, suốt đời hô hào ủng hộ cách mạng vô sản, nhắm mắt trước cái dã man, chà đạp nhân quyền trong những goulag. Chiến tranh, chính trị phức tạp hơn là tình cảm của nghệ sĩ.

Chẳng hạn, TCS day dứt về ‘thân phận da vàng’, đến kiếp nô lệ da vàng ; hết tiếng nói da vàng đến dư khúc da vàng. Làm như cái bất hạnh của dân tộc nằm trong cái nghiệp sinh ra từ mầu da, quên rằng nhiều dân tộc khác, cũng vàng khè không thua gì người An nam ta, đang tiến nhanh, tiến mạnh. Nhật Bản đã làm Tây phương thất điên bát đảo trên mọi phương diện, Đại hàn trở thành một cường quốc, Trung Hoa sẽ là một trong hai lãnh tụ thế giới, và những nước phát triển nhất trên địa cầu, Đài Loan, Singapore là những nước da vàng. Một triết gia nói : ‘có hai loại người, những người chấp nhận làm nô lệ và những người không chấp nhận’. Vàng, xanh, trắng, đỏ không liên hệ gì đến thân phận của một dân tộc. Ai đã gặp một người Nhật có mặc cảm da vàng ? Họ không muốn thua ai, không muốn bằng ai, họ muốn trên mọi người, đứng đầu thiên hạ, họ không biết hai chữ thân phận, vàng hay xanh.

Những câu hát phản chiến của TCS là những tiếng nói của tình cảm, không phải là một phân tách chính trị, không phải những hô hào chính trị. Đó chỉ là những giọt nước mắt, Giọt nước mắt thương đất, đất cằn cỗi bao năm, giọt nước mắt thương dân, dân mình phận long đong, thoát ra từ trái tim, mặc dù những giọt nước mắt đó, vì khả năng truyền cảm của nó, chắc chắn đã có ảnh hưởng đến chính trị, đến chiến cuộc.


CHỮ NGHĨA ÍCH GÌ

Từ nhũng năm 64-65 chiến tranh càng ngày càng dữ dội. Xã hội càng ngày càng xáo trộn, tình hình chính trị càng ngày càng nát bét. Ngay cả trong bối cảnh đó, trường Văn khoa vẫn sinh hoạt mạnh. Số sinh viên càng ngày càng đông. Ban giảng huấn đã rất tận tuỵ góp phần vàp việc phát triển Văn khoa Sai gòn. Cố nhiên, đó chưa phải là một trường đại học tân tiến, kiểu mẫu. Phương pháp giáo huấn còn cổ hủ, từ chương khoa cử, chưa thực sự có đối thoại, trao đổi giữa thầy và trò. Nhưng ngay cả ở Sorbonne, cũng vẫn còn cái cảnh ông thầy ngồi trên giảng đường, thao thao bất tuyệt, đám sinh viên ngồi dưới hí hoáy biên chép như các cụ đồ ngày xưa dạy học

Nền giáo dục Việt nam thời đó hoàn toàn miễn phí, từ mẫu giáo đến đại học. Trong một nước chiến tranh, thực hiện một nền giáo dục hoàn toàn miễn phí là một cố gắng đáng kể. Người ta có thể chê trách chế độ rất nhiều điểm, nhưng đó là một điểm son phải ghi nhận. Điểm son đó là nhờ ý thức của những người có trách nhiệm, hay nhờ truyền thống tôn trọng học vấn của 1 xã hội Khổng giáo ? Khổng giáo, ít nhất trên phương diện đó, có khía cạnh tích cực với xã hội VN. Điều chắc chắn : nếu không có nền giáo dục hoàn toàn miễn phí, hầu hết chúng tôi đã bỏ học từ lâu.

Một câu hỏi luẩn quẩn trong đầu tôi từ nhiều năm : một trường Văn khoa đóng vai trò gì trong một nước chiến tranh ? Chữ nghĩa ích gì cho buổi ấy ? (Nguyễn Khuyến). Bên cạnh bom nổ, thịt rơi, cái sống cái chết gần kề, có phi lý không khi ngồi đó mổ xẻ Tứ thư ngũ kinh, phân tích tư tưởng Socrate, tìm hiểu nguồn gốc chữ nôm. Bên cạnh cái nghèo đói của một xã hội lạc hậu, có vô nghĩa không khi ngồi đó tụng niệm kinh điển bách gia, rung động với Lord Byron hay Beaudelaire ? Sartre nói bên cạnh một đứa trẻ chết đói, cuốn La Nausée không có một giá trị gì.

Câu hỏi ấy lởn vởn trong đầu, rất nhiều năm, và tôi đã thực sự nhiều lúc hoài nghi, không tìm được câu trả lời.

Câu trả lời, mãi sau này tôi mới tìm ra. Câu trả lời tên là Céline, một cô bạn Pháp. Một buổi chiều thứ bẩy, tôi lên phi trường đón Céline từ Sarajevo về. Céline là một thiếu nữ thông minh, có bằng cấp, có chỗ làm tốt trong một công ty lớn, sống nhàn hạ trong cái xã hội hưởng thụ là cái xã hội Pháp. Weekend bay qua Madrid hay Marakech. Mùa đông trượt tuyết ở Courchevel, mùa hè nghỉ mát ở Bali hay Bora Bora. Tóm lại, cô nàng có đủ thứ để hạnh phúc. Nhưng thay vì hạnh phúc, Céline lúc nào cũng tất tả ngược xuôi, mệt mỏi cả thể xác lẫn tinh thần ; nhất là tinh thần. Rồi thuốc ngủ, thuốc an thần, hết Lexomil đến Prozac.

Một buổi, Céline dẹp hết, bỏ việc, bán nhà, bán xe. Và biệt tăm. Adieu Céline. Cho đến cái hôm ở phi trương, tôi gặp lặi Céline, nhưng một Céline khác, má rất hồng và miệng rất tươi. Céline nói sau khi vứt bỏ mọi chuyện, cô nàng gia nhập một ban hợp tấu, lưu diễn khắp nơi. Céline là một tay violon thiện nghệ, từ nhỏ vẫn mơ thành nhạc sĩ. Céline lãnh một số lưng tượng trưng, đủ cà- phê, thuốc lá, vì ban nhạc thường đi trình diễn ở những nước nghèo. Họ vừa ở Sarajevo về. Trình diễn hoà tấu ở Sarajevo, nơi người ta giết nhau như ngoé, nơi người ta thí mạng để cướp một ổ bánh mì, một cái mền ? Ở đó, người ta chờ bột mì, thịt cá, đường muối, bột giặt, aspirine, ai chờ Beethoven với Mozazt ? Ban đầu, Céline cũng nghĩ như vậy. Nhưng đêm trình diễn nào cũng đông nghẹt.

Trong một ngôi nhà thờ đổ nát, một trường học còn đang cháy dở, mưa dột vì mái nhà bị pháo kích loang lổ, người ta chen lấn nhau tới nghe nhạc. Ban ngày, người ta chạy bom, dành giựt nhau miếng ăn, một mớ củi để sưởi. Đêm xuống, người ta kéo nhau đi nghe nhạc. Đàn bà lục hành lý, lôi ra những nữ trang, những bộ quần áo đẹp. Có ông thắt cà vạt chỉnh tề. Có bà vừa nghe nhạc vừa lặng lẽ khóc. Céline vừa chơi nhạc vừa cầm nước mắt. Cô nàng vừa tìm thấy hạnh phúc. Chưa bao giờ cô nàng thấy yêu đời như vậy, yêu mình như vậy. Lần đầu tiên, Céline thấy mình có ích. Cô ta tìm thấy hạnh phúc của mình trong cái hạnh phúc của người khác. Y chang tâm trạng của lớp người trẻ chúng tôi ngày xưa khi đi cứu lụt, đào giếng.

Céline nói có thấy tận mắt cái cảnh người ta lấy tờ báo che mưa nghe nhạc trong một ngôi nhà đổ nát, mới thấm thía cái câu quen thuộc của người Pháp : On ne vit pas que du pain. Người ta không phải chỉ sống bằng bánh mì. Ngay cả trong những lúc khốn cùng, cái đẹp, cái thẩm mỹ không phải là một xa xỉ, vô ích. Cái đẹp sẽ cứu nhân loại, không phải Marx hay Lénine, không phải Ben Laden hay Bush.

Cái đẹp sẽ cứu vãn nhân loại. Người ta đã từng giết nhau, hành hạ nhau, bỏ tù nhau nhân danh thượng đế , nhân danh chính nghĩa, nhân danh giáo điều, nhân danh đất nước, nhân danh đồng bào, nhân danh chân lý. Chưa bao người ta giết nhau nhân danh cái đẹp. Người ta giết nhau vì thánh kinh, vì Coran, vì Hitler, vì Mao, vì Mác, chưa bao giờ người ta giết nhau nhau vì Picasso, Beaudelaire, Nguyễn Du. Sau này, khi giận hờn sẽ quên, những gì người ta nhớ lại về TCS là những bát hát, những câu thơ đẹp.

Cái đẹp sẽ cứu vãn nhân loại. Cái đẹp không phải chỉ là những tác phẩm văn hóa. Cái đẹp còn là, cũng là, nhất là tình người, một xã hội của những người tử tế, lương thiện. Đem cái dối trá, đểu cáng, bất nhân làm tiêu chuẩn cho đời sống là cách hữu hiệu nhất để làm tiêu vong dân tộc. Biến tác giả của ‘tôi khờ dại quá, ngây thơ lắm. Chỉ biết yêu thôi, chẳng biết gì’, của ‘ít nhiều thiếu nữ buồn không nói, tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì ’, thành một người gào thét, căm hờn lôi cổ bọn chúng ra đây, là một thành quả ghê rợn nhất của công cuộc huỷ diệt cái đẹp.

Ismail Kadaré nói ngay cả trong những lúc cực kỳ khó khăn vẫn phải có thái độ nghiêm trọng đối với văn hoá. Kadaré sinh ra, lớn lên và viết văn trong một hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, ở một nước Cộng sản độc tài bực nhất thế giới : Albanie. Kadaré viết văn trong một xứ kiểm duyệt khắt khe, một nước vỏn vẹn ba triệu dân, nghèo đói, người mù chữ đông hơn người biết đọc, biết viết. Và viết bằng tiếng Albanie. Mặc dầu vậy, ông viết văn với một thái độ cẩn trọng. Ngày nay, Kadaré được coi là một trong những nhà văn quan trọng nhất thế giới.

Nghệ thuật, cái đẹp có công dụng gì ? Chẳng có công dụng gì. Nhưng đời sống không có cái đẹp sẽ buồn tẻ biết bao nhiêu. Bức tượng của Michel Ange, bức tranh của Van Gogh không có công dụng gì, nhưng hãy tưởng tượng một thế giới không có Michel Ange, Van Gogh. Hãy tưởng tượng Paris không có tháp Eiffel, New-York không Nữ thần Tự do.

Nghe cô nàng Céline kể chuyện về những buổi trình tấu ở Sarajevo, tôi hiểu rằng trong một xứ chiến tranh, nghèo đói, một trường Văn khoa chẳng có ích lợi thiết thực gì, nhưng nó là cái cốt yếu cho một dân tộc còn muốn vươn lên .



ĐỜI SAO IM VẮNG


Tôi gặp lại TCS những ngày cuối cùng của năm 1999, khi về thăm Việt nam. Sơn ngồi trước một cái bàn nhỏ, trong sân Hội Văn nghệ sĩ gì đó ở Sai gòn. Vẫn nụ cười hiền lành, nhưng buồn bã, vẫn thái độ từ tốn, phong nhã,vẫn đôi kính đồi mồi nhưng trước mắt tôi là một TCS lục tuần bịnh hoạn, mệt mỏi, mặc dầu đôi mắt vẫn sáng lên khi nghe đến tin bè bạn. Sơn hỏi thăm tin tức về người này ở bên Tây, người kia ở bên Mỹ. Sơn nói về những người ở lại, kẻ mất, người còn.
Bơi trong cái áo sơ mi rộng thùng thình, Sơn nói :mình chỉ còn 39 kí. Sơn nói rượu đã tàn phá lá gan đến độ không có thuốc gì chữa nổi. Có người sẵn sàng đưa anh đi ngoại quốc giải phẫu gan nhưng anh từ chối. Sơn nói anh rất mệt, nhiều khi xây xẩm mặt mày vì bịnh áp huyết thấp (hypotension).

Vừa nói chuyện, Sơn vừa chào hỏi của những người qua lại. Vị nhạc sĩ lão thành, tác giả bài Dư Âm nổi tiéng hồi nào ở Hà nội (đêm qua mơ dáng em đang ôm đàn mơ bao tiếng tơ…) kể chuyện đi thăm bác sĩ, chuyện thuốc men. Nhạc sĩ Trần Tiến nói về đêm ca nhạc thành công tuần trước. Ông Vũ Hạnh chạy qua chạy lại hối bài cho một đặc san kỷ niệm ‘cuộc chiến chống Mỹ cứu nước’.

Sơn ngồi đó, mỉm cười hiền lành, buồn bã. Tôi hỏi Sơn có tính đi ngoại quốc chơi một chuyến, nhân tiện chữa bệnh, dù tôi biết Sơn đang sống những ngày tháng cuối cùng. Nếu người nghiện rượu tiếp tục uống, dù có thuốc thánh, dù có gỉai phẫu gan cũng không thay đổi gì. Sơn không muốn nghỉ rượu, hay không nghỉ được. Sơn nói mình uống ít hơn trước nhiều. Sơn mỉm cười : mình sang đó, sợ các ông ấy đập mình. Rồi tiếp : sự thực thì ở bên Pháp không có vấn đề gì, bên Pháp ít có người quá khích ; kỳ trước mình qua Pháp, anh em đãi ngộ rất tử tế.
Sơn tiếp : nói cho đúng, mình mệt lắm, có muốn cũng không đi được. Sơn nói, từ tốn, không lộ một chút xúc động. Anh đang ở một cõi khác, những cái lăng nhăng ở cuộc đời này không liên hệ gì đến anh nữa. Nghe tôi sắp đi Nhật, Sơn nói đến một cô sinh viên Nhật Bản làm một luận án về nhạc của Sơn, về ngôn ngữ và chiến tranh trong nhạc TCS.

Khi tôi ra về, Sơn đưa cho tôi số điện thoại ở nhà riêng : « ráng đến chơi, mình có chuyện muốn nói. Thằng em mình, biết cậu về, chắc nó mừng lắm ». Em Sơn ngày xưa cũng la cà ở quán Văn.

Tôi nghĩ Sơn muốn nói những gì không thể nói được ở một nơi có nhiều người qua lại. Tôi ân hận vì không có thì giờ tới nhà Sơn như đã hứa, vì phải rời Việt nam ngày hôm sau. Tôi rời Sai gòn ngày mùng 1 tháng giêng năm 2000. Thế giới đang bước sang một thế kỷ mới. Tôi gọi điện thoại chào Sơn. Anh hỏi : cậu đi ngày đầu năm 2000, không sợ ‘’ sự cố ‘’ à ? . Tôi nói sự cố nó sợ tôi chứ tôi sợ gì nó. Hồi ấy, ở Sai gòn, người ta kỵ đi máy bay ngày đầu năm 2000. Sơn nói, gịong buồn : nếu gặp lại X,Y cho mình gởi lời hỏi thăm ; chắc mình không có dịp gặp lại anh em nữa. Ôi chinh chiến đã mang đi bạn bè. Ngựa hồng đã mỏi gối chết trên đồi quê hương.

Mỗi lần nghe nhạc TCS, tôi nghĩ đến cái cô đơn cùng tận của người nhạc sĩ ngồi trước cái bàn nhỏ ngoài sân, mỉm cười với người này người kia, nhưng đầu óc ở một nơi khác. Sơn ngồi đó, cô độc. Một mình tôi về với tôi. Đem cái cô đơn của kiếp người nhân lên gấp 10, bạn có cái cô đơn của người nghệ sĩ, nhân lên trăm lần có cái cô đơn của người nghệ sĩ Việt nam, nhân lên ngàn lần có cái cô đơn của TCS. Cái cô đơn của một người suốt đời ca ngợi tình yêu, tình đồng bào – ngày mai sỏi đá cũng cần có nhau-mà cuối cùng bị chỉ trích từ mọi phía. Sơn ngồi đó, nâng niu cô đơn từng ngày. Cuộc đời còn nhiều đắng cay. Sơn ngồi đó, một mình, giữa nhiều người

Đời sao im vắng
Như đồng lúa gặt xong
Như rừng núi bỏ hoang
Người về soi bóng mình
giữa tường trắng lạnh câm

Cái sân chỗ Sơn ngồi đông người qua lại, và ngoài đường xe hơi, xe gắn máy chạy loạn xà ngầu, nhưng Sơn ngồi đó, giữa tường trắng lạnh câm.


ANH ĐÃ ĐẾN, ĐÃ VUI CHƠI…


Sơn ra đi ngày 1 tháng tư 2001, hưởng thọ 62 tuổi. Sáu mươi hai tuổi , đời người như gió qua. Ở bên Pháp, ngày 1 tháng tư là ngày ‘ cá tháng Tư ,(poissons d’Avril), ngày người ta đùa nhau bằng những chuyện hoàn toàn bịa đặt. Báo cho một ông nhà văn hạng bét là ông ta vừa chiếm giải Goncourt. Thú với cô fiancée là đã có vợ với ba con, rồi sau đó cho hay đó chỉ là những cá tháng Tư, những chuyện đùa chơi.

TCS ra đi thật hay chỉ thả một một con cá tháng Tư ?

Sơn đã đến, đã vui chơi trong cuộc đời này. Bây giờ có lẽ anh đang bay cao trong bầu trời này. Nhưng, nhiều lúc, tôi tự hỏi có quả thật anh đã vui chơi trong cuộc đời này. Có bao nhiêu người Việt nam đã thực sư vui chơi trong cuộc đời này ?


(1)Tư tưởng Phương Đông / Cao Xuân Huy.- Nhà xuất bản Văn Học. Hanoi, 1995

(2)Trịnh Cung, Phan Thanh Tâm. Thế kỷ 21, May 2001

(3)Đất Mới. Saigon, 1966

NHƠN CHI SƠ...





Cùng đất

Cái cây me cả trăm năm sum suê đầu ngõ ấy, cái cây me mà ngày ngày mấy cô hàng sữa đậu nành bánh canh bánh mì bánh ít hay rau cải dừa xoài ổi mận ngồi xổm bán bán buôn buôn ấy, cái cây me mà mỗi mùa trái chín là một cặp vợ chồng từ đâu đổ tới leo lên khoèo khoèo hái hái cả bao bố to đùng vác đi bán ấy, dưới gốc nó thiêng liêng mỗi xế chiều khi mái tôn hắt cái nóng hầm hập kinh người bám riết vào da, ông ấy lim dim trong bóng mát nó bao che như đứa bé sà vào lòng mẹ.

Rồi bỗng dưng một ngày, mẹ me bàng hoàng ôm thi thể đứa con.

Hàng xóm rầm rì to nhỏ, hoảng hốt. Chu cha, tòng teng ở đây thì bà con làm ăn sao được nữa. Nhưng ông ấy đâu còn để giải bày hay xin lỗi. Buổi sáng đó như mọi buổi sáng, chị bán sữa đậu nành gần nhà ra sớm nhất. Tiếng ré thất thanh của chị đánh thức mấy nhà bên cạnh. Rồi mọi cánh cửa bung ra, mọi bàn chân rầm rập đến, mọi cái cổ ngẩng lên, mọi cái đầu lắc lắc, mọi cái miệng chép chép... Cuối cùng là gia đình em vợ ở mãi tít trong sâu, phía sau nhà ông, bương bả tới cây me nhìn thân thể ông anh rể im sững trong bình minh, không ngờ lưỡi ông dài vậy. Rồi mọi người tản mác. Ai đó gọi điện báo cho phường.

Bữa cuối năm rồi mẹ vợ ông vĩnh biệt. Bà cụ nhỏ con và ốm cực kỳ, nghe đâu chỉ ba hai kí, có lẽ xương hai tám, hai kí da và máu cùng nước hai kí nữa. Bà ra đi chiều hăm chín tết, năm rồi lại thiếu, chợ chiều hăm chín đã dẹp chẳng thể mua vài bìa đậu hủ nấu bữa cơm chay mà cúng. Người ta kháo nhau là thiếu phước thiếu phần. Nói vậy chớ bà cụ nhất định cãi các con để mái tôn ông ấy vẫn đứng vững đến giờ cũng là nhân ái. Đám em vợ cứ đòi ông phải dọn đi từ nhiều năm trước kìa, lấy lại đất bán. Đất chỗ khu này đã lên chức đất vàng. Của gia đình vợ mà không còn vợ nữa mới nên nỗi. Vì vậy ông bấm bụng ngày ngày chạm mặt đám em vợ ngúyt háy vào ra cùng cổng. Bây giờ bà cụ nằm xuống rồi, đâu còn ai cưu mang ông nữa. Vậy là đám em chờ qua bốn chín ngày, liền dùng biện pháp mạnh. Hỏi biện pháp mạnh là gì thì chị hàng xóm đang thao thao kể, cũng ngọng, à ừ, tụi nó hăm doạ gì đó ổng cũng không nói, chỉ nói là sợ lắm. Nhưng mà dọn đi đâu, ổng còn chỗ nào mà đi. - Chớ con gái ổng đâu? - Úi cha có một đứa đó mà cũng ở với chồng trong cái xum chưa tới mười lăm mét, chứa ổng chỗ nào?

Thôi thì không được chọn ngày, nơi và cách sinh, ít nhất ông cũng chọn được ngày, nơi và cách chết.

Cùng nhà

Khi chị đề nghị với cậu em cùng nhau trả tiền đất cho ba bà chị kia rồi xây lại căn nhà khang trang mà ở, một bà chị bên Mỹ nhất định không chịu. Giằng co mãi nhiều năm, cuối cùng đồng ý với điều kiện cắt phần đất của bà ra, để cho con. Mà nó có hình miếng phô mai con bò cười, mặt tiền rộng một mét rưỡi thì xây được cái gì. Phần chị phấn khởi, mỗi mùa đông bên Tây trốn về đây hưởng nắng ấm, khoẻ ru. Vậy là căn nhà ba tầng ngất ngưởng đứng lên.

Mùa đông năm rồi bên tây lạnh cắt da, anh chị mừng là tránh được, hí hửng tay xách nách mang về ở với em trai em dâu và hai đứa cháu gọi cô ruột, một trai một gái đã quá hai mươi. Họ dành cho anh chị một phòng trên tầng ba. Về, chị sắm cho anh cái bàn cái ghế (cô em dâu dặn phải hạp với bàn ghế cả nhà) để anh nhẩn nha đọc tin trên mạng và dù hưu rồi, cũng làm việc giúp đám sinh viên khắp nơi trên đất Việt Nam. Để có wifi, anh chị bỏ ra tám trăm nghìn. Leo lên leo xuống ba ngày thì hết nổi, cây gậy chị chống vì lưng và đầu gối đau cũng chẳng giúp được. Năn nỉ hai đứa cháu đổi lên trên, đứa nào cũng giẫy nẫy. Cuối cùng thằng anh chịu.

Mời tới nhà dùng cơm, anh chị được thằng cháu rể tương lai đưa xe hơi đến, tay xách hộp bánh chị vui vẻ khoe em dâu mới làm, dãy hoa kem mượt mà bên trên do cháu gái mới bắt tức thì trong chớp nháy chưa đầy năm phút, em coi màu vàng nó pha khéo ghê chưa. Mùa cưới thiên hạ đặt bánh làm không xuể, tất bật túi bụi, cực chút mà tiền bạc ê hề. Chị nói tuần sau sẽ mời tới nhà chơi, cô em dâu nấu ăn giỏi và ngon, đã dặn chị muốn mời ai cứ việc.

Ba tuần trôi qua chẳng nghe động tịnh. Cuối cùng chị phôn rủ ra tiệm gần khu nhà cậu em. Ngang công viên, chị mơ màng tả hồi nhỏ các chị em đã chơi đùa ở đó ra sao, công thự này trước kia là bưu điện, chỗ này trước kia là... Miệng môi giấu được nhưng cửa sổ linh hồn phản trắc mở toang thấy cả bên trong. Rồi chị cũng kể. Có chung thì có đụng. Làm tài lanh, tôi nói thôi chị bảo họ trả lại một ít, rồi mỗi lần về anh chị thuê nhà, riêng tư cho khoẻ. Chị cười : cái xe hơi nó đi là mượn anh chị sáu nghìn đô mấy năm nay nó còn chẳng nhắc đến, nói gì chuyện trả lại tiền xây nhà.

Trái với dự định bốn tháng, hai hôm sau thình lình anh chị xách va ly chào, cám ơn các em đã lo cho chu đáo. Lần đầu tiên sau hơn một tháng ở chung, bữa cơm gia đình đông đủ để ai cũng có dịp bày tỏ nguyên do những nỗi không vui. Cuối cùng cậu em nghiêm khắc dặn con trai: nhà này cũng là nhà của cô, dù sau này ba không còn nữa nhưng mỗi lần cô về con phải lo cho cô chu đáo. Thằng con ngoan ngoãn dạ, nhìn xuống chẳng thấy mắt. Ít nhất không phải thằng cháu sừng sộ và không thèm trả lời cô dượng như cả tháng qua. Con người cứ sính và sống bằng lời hứa.

Vẫn còn là tử tế. Nhiều nhà xây cất khang trang sắm sửa đầy đủ rồi, cha tỉnh bơ hỏi mày về đây làm gì, cốt lấy nhà con con trai. Hoặc, nhà đứng tên em tại sao bán phải hỏi chị ?

Những chuyện đó tưởng đã hết cả hơn chục năm nay, té ra vẫn còn.

Xuân Sương

Thơ phải lặn sâu vào cảnh ngộ của đời


Tôi vốn là bác sĩ. Nhà thơ Chế Lan Viên, khi là Thường vụ Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam đã khuyên tôi chuyển từ Bộ Y tế về Hội Nhà văn làm việc. Anh Bằng Việt, vốn học luật, hồi đó cũng được khuyên thế, đã chuyển được ngay. Tôi thì quyến luyến "dao cầu thuyền tán" mất hai năm nữa. Ngành y là ngành tôi cũng say mê lắm. Học hành cặm cụi. Đã tính cho cả đời ở đấy. Hơn nữa, mẹ tôi mong tôi thành ông bác sĩ giỏi từ lâu lắm rồi. Bây giờ bỏ ngành y mẹ tôi tiếc cho tôi. Tôi chần chừ vì thế. Nhưng ôm cả hai có khi lại chẳng được một.

Trong giới làm thơ ta, có nhà thơ phàn nàn là các bạn làm thơ trẻ ít có tuyên ngôn trường phái. Phải chủ nghĩa nọ, trường phái kia nó mới sang trọng, mới có cái mà góp vào chợ văn thế giới. Bên cạnh sáng tác là phải đưa ra lý thuyết. Tôi lại nghĩ khác. Mình là anh làm thơ thì cứ hồn nhiên mà viết. Viết theo vui buồn nghĩ ngợi của mình. Viết xong thấy nó hả cái lòng mình là được. Thích cười thì cười, thích khóc thì khóc. Ấy là thơ chứ sao. Còn bài thơ ấy sống được và cần xếp vào trường phái nào thì là nhờ độc giả, là việc của các nhà phê bình, các nhà nghiên cứu. Tác giả cũng không nên quá bận tâm về chỗ đứng chỗ ngồi các tác phẩm của mình. Bài thơ sống được thì tác giả phải tự coi như mình... chết rồi. Chứ lại cũng xồ ra bàn tán, tuyên ngôn, tranh luận về nó, tôi thấy nó thế nào ấy. Có khi lại bị người xét nét nhìn mình như nhìn bà hàng xóm lắm điều bênh con. Tôi nghĩ thầm thế, không chắc đã đúng, nên không dám nói ra. Nhưng hôm nay lại nói ra chính vì tôi có liên hệ với chuyện hành nghề của mấy bậc thầy trong ngành y. Hồi đó khi học ngoại khoa (ở vòng luân khoa) chúng tôi được học hai Giáo sư Tôn Thất Tùng và Nguyễn Trinh Cơ. Thầy Tùng phóng khoáng tài tử, thầy Cơ nghiêm cẩn, cần cù. Hai cá tính trái nhau nhưng đều được sinh viên yêu kính. Thầy Cơ giảng lý thuyết hay lắm, vừa hệ thống vừa phong phú trường phái. Thầy Tùng ít nói lý thuyết mà thường nói kinh nghiệm. Kinh nghiệm của chính thầy, chưa có trong sách giáo khoa. Giáo sư Tùng có nhiều quan sát triệu chứng như một bổ sung thiết thực cho tiêu chí chẩn đoán (như tư thế đạp chân lên tường của người đau giun chui ống mật). Điều quan trọng đối với thầy thuốc là chữa khỏi bệnh. Giáo sư Tùng cắt gan chẳng giống ai, nhưng cứu được người thì thành phương pháp Tôn Thất Tùng. Làm thơ mà có độc giả, dù chẳng ở trường phái nào, thì vẫn thành nhà thơ, có khi thành người khai sinh ra trường phái mới. Đỗ ông Nghè thì hàng tổng đi đón chứ cứ đe trước chưa chắc đã (được) thi, mà thi cũng chưa chắc đỗ.

Muốn thơ nhập vào cuộc đời thì nhà thơ phải lặn sâu vào những cảnh ngộ của đời. Nhà thơ trải nghiệm nhiều nông nỗi của đời càng nhiều thì những buồn vui anh giãi bày càng được nhiều người chia sẻ. Bởi những buồn vui ấy nó là cuộc đời anh, tác động vào chính giác quan anh. Nó thật. Nó thường xuyên nhoi nhói trong lòng anh. Không phải chỉ là điều anh nghe nói, anh đọc được trên sách báo, hay là do một cuộc vận động viết, một cuộc thi văn chương thúc đẩy. Mà thúc đẩy từ chính anh. Văn chương đòi sự trải nghiệm Đoạn trường ai có qua cầu mới hay. Người không qua cầu đoạn trường mà viết về nỗi đau đứt ruột, e ngòi bút không tới được lòng người. Người đọc chê thứ văn thương vay khóc mướn là chê ở chỗ ấy. Nguyễn Du viết đời cô Kiều, nhân vật của Trung Hoa, nhưng lòng ông, do từng trải, ông đủ chiêm nghiệm nỗi đau đời, để nhập lòng mình vào cảnh ngộ Kiều, hứng chịu xót thương của thân Kiều mà viết nên tiếng kêu đứt ruột. Cốt truyện vay nhưng không phải thương vay. Ông đã thương Kiều như thương mình, thấy nỗi mình trong đời Kiều. Viết Kiều mà lại giật mình, mình lại thương mình xót xa. Trái lại, có người viết về chuyện thật của mình, vừa viết vừa khóc, mà người ta đọc lại cười bảo là không thật. Ấy là cái tài văn chương chưa đến độ. Đúng ra là nỗi từng trải chưa đến độ, chưa đủ sâu sắc. Sống chưa hết nỗi đau, nỗi khổ của chính mình. Mình còn quan liêu với chính mình.

Thầy thuốc từng mắc bệnh nào chắc hẳn hiểu nỗi đau của người mắc bệnh ấy mà còn rành các sắc thái của triệu chứng, giúp cho chẩn đoán. Đấy là cái học của sự từng trải, lấy mình làm thực nghiệm. Nhưng không ai lại trông cậy vào sự mắc bệnh của mình để làm thầy thuốc. Và cũng không ai mong thế. Cũng như không ai mong đứng trước cọc hành hình để viết tâm lý tử tù. Phải có cách thu nhận vốn sống gián tiếp ở mức độ chân thực nhất, sao cho vốn sống ấy tác động thẳng tới giác quan. Vị ngọt của mật ong khác vị ngọt của đường, nếm một lần là rõ. Chứ nghe người ta nói không nhận ra đâu. Ngành y, khi máy móc thăm dò hay xét nghiệm chưa phong phú, thầy thuốc chủ yếu nương tựa vào giác quan: nhìn sờ gõ nghe hay vọng văn vấn thiết. Các nhà văn có một thao tác nghiệp vụ là đi thực tế. Ấy là cách tạo cho nhà văn nhập cuộc, mà nhìn sờ gõ nghe cái cuộc đời này. Đúng ra, lúc nào, ở đâu người viết biết cách mở giác quan mình ra mà thu nhận mọi nông nỗi cuộc đời thì đều là đi thực tế. Lắng nghe, nghe cho ra nỗi đau của người khác (đau thể xác, đau tâm hồn) là phẩm chất đầu tiên cần có để thành thầy thuốc giỏi, cũng là con đường để thành nhà văn tài năng. Việc ấy, như một năng khiếu, trời cho cũng chỉ một phần mà chủ yếu phải tự rèn, rèn cả đời người. Rèn cho thành một nếp sống, một bản năng.

VŨ QUẦN PHƯƠNG

ĐẠO PHẬT HIỆN ĐẠI NHƯ THẾ NÀO TRƯỚC MẮT NGƯỜI TÂY PHƯƠNG?


Cao Huy Thuần



Con người Tây phương khám phá ra rằng cách đặt vấn đề của đạo Phật đáp ứng nhu cầu của thời đại mới. Tây phương đang chối từ Thượng Đế thì đạo Phật giải thích không có Thượng Đế. Tây phương phải nhờ Darwin để cắt nghĩa rằng vũ trụ không phải do một Đấng nào sáng tạo ra cả trong bảy ngày thì đạo Phật đã nói cách đây hơn 2500 năm rằng thời gian là vô thủy vô chung, vũ trụ là vô cùng vô tận. Tây phương ngay ngáy lo sợ về ngày phán xét cuối cùng của Thượng Đế thì Phật giáo nói: không có ai phán xét ta cả, chỉ có con người phán xét con người thôi. Tây phương trăn trở về những vấn đề siêu hình thì Phật giao kể chuyện mũi tên: khi anh bị mũi tên độc bắn vào thân thì anh phải rút nó ra ngay hay anh ca vọng cổ hỏi mũi tên do ai bắn, lý lịch thế nào, hộ khẩu ở đâu. Rút mũi tên ra: đó là nhu cầu giải phóng con người ở Tây phương và họ thấy nơi Phật giáo một đáp số hợp với lý tính, đặt nặng trên kinh nghiệm, trên thực hành, và kiểm chứng được bằng kết quả bản thân, ở ngay đời này, chứ không phải đợi đến khi lên thiên đường, xuống địa ngục.


Hợp với lý tính: người Tây phương ngưỡng mộ nét đặc biệt đó của Phật giáo, làm Phật giáo khác với các tôn giáo khác. Phật giáo từ chối lòng tin nếu không đặt cơ sở trên trí tuệ. Bởi vậy, trong Phật giáo không có tín điều. Tây phương ngưỡng mộ kinh Kâlâma khi Phật dạy: Đừng vội tin một điều gì dù điều đó được ghi trong kinh điển hay sách vở. Hãy quan sát, suy tư, thể nghiệm, thực chứng rồi mới tin. Tinh thần đó xuyên suốt kinh kệ Phật giáo. Người trí thức Tây phương thấy tinh thần đó hợp với khoa học, hợp với đầu óc phê phán. “Phật giáo là tôn giáo duy nhất thích ứng với khoa học hiện đại”, Einstein đã phát biểu như vậy.


Tại sao Phật giáo hợp với khoa học? Tại vì Phật giáo không nói điều gì mà không có kiểm chứng. Phật giáo nói: sự vật là vô thường. Hãy nhìn chung quanh với mắt của mình, kinh nghiệm của mình: có cái gì là thường còn đâu? Cái thường còn duy nhất là khoảnh khắc này đây. Vậy thì tìm thiên đường ở đâu nếu không phải nơi chính cái khoảnh khắc này? Hạnh phúc nằm ngay nơi mỗi khoảnh khắc: đó là bài học hiện đại quý giá nhất mà Phật giáo đem đến cho người Tây phương. Và hãy nhìn thêm nữa: mọi sự mọi vật đều tương quan lẫn nhau mà có và tương quan lẫn nhau mà diệt. Màu hồng nơi đóa hoa kia có phải tự nó mà có không? Đâu phải! Nếu không có mặt trời thì nó đâu có hồng thắm như vậy? Nhưng mặt trời có phải là tác giả duy nhất của màu hồng kia không? Không! Vì nếu không có mưa thì làm sao hoa sống? Nhưng mưa có cũng là do mây, mây có cũng là do hơi nước. Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia cũng không. Đó là luật vô ngã của Phật giáo và cũng là luật tương quan tương sinh. Ai đọc sách của nhà vũ trụ vật lý học Trịnh Xuân Thuận đều biết: những luật đó có nhiều điểm hội tụ với khoa học vũ trụ vật lý. Áp dụng được luật đó vào đời sống bản thân, đời sống gia đình, đời sống xã hội, cam đoan không cần tìm thiên đường ở đâu xa. Đó là chưa kể đến luật nhân quả mà ai cũng có thể dễ kiểm chứng. Từ đó, người Tây phương đi đến một cái nhìn hiện đại hơn nữa vào bản chất của cuộc đời để hiểu chữ “khổ” trong Phật giáo. Họ chất vấn Thượng Đế: Nếu Thượng Đế là toàn năng thì sinh ra làm chi thiên tai, động đất, triều cường, dịch này dịch nọ giết hại phút chốc hàng trăm ngàn người như vậy? Nếu Ngài là nhân từ thì sao con người khổ thế, con người khổ thế thì Ngài ở đâu? Phải chăng, người Tây phương hỏi, khổ nằm ngay trong bản chất của cuộc đời như muối nằm trong biển, mà sinh lão bệnh tử chỉ là những khía cạnh dễ thấy nhất? Từ đó, Tây phương hiểu chữ “niết bàn” của Phật giáo đúng hơn hồi thế kỷ 19: niết bàn là hết khổ, mà hết khổ là tự mình. Bản thân tôi, mỗi khi tôi nghe ai cầu cho người chết được siêu thoát, tôi không khỏi cười thầm, bởi vì “siêu” là vượt lên, “thoát” là giải thoát, vượt lên trên tham sân si thì giải thoát, vậy thì nên cầu cho cả người sống được siêu thoát. Tôi không dám đùa đâu, người Tây phương hiểu điều đó hơn ta, bởi vì họ hiểu tư tưởng nhân bản của chính họ: nhân bản nghĩa là con người vượt lên trên con người, con người có đủ khả năng để vượt lên trên chính mình.


Nhưng vượt lên như thế nào, cụ thể bằng cách nào? Đây là cái mới mà Phật giáo đem đến cho Tây phương và đem đến trong tinh thần khoa học. Trong lịch sử, Tây phương đã vượt quá ta hằng mấy thế kỷ nhờ khám phá thế giới bên ngoài. Nhưng đến một lúc họ bỗng giật mình thấy rằng khám phá thế giới bên ngoài không đủ để đem lại hạnh phúc như họ tưởng bởi vì con người còn có đời sống ở bên trong. Ngài Đạt Lai Lạt Ma nhắc họ: “Những vấn đề của chúng ta, dù đến từ bên ngoài, như chiến tranh, như bạo lực, như tội ác, hay đến từ bên trong dưới hình thức khổ đau về tâm lý hay tình cảm, đều sẽ không tìm ra giải pháp chừng nào chúng ta còn không hiểu chiều sâu nội tâm của ta” (3). Đó là lúc mà ngài và các vị sư đắc đạo của Tây Tạng đến Âu Mỹ, mang theo một ánh sáng khoa học mới rọi soi vào nội tâm của con người, để làm một cuộc cách mạng thứ hai mà người Tây phương gọi là “cách mạng ở bên trong”, bổ túc cho “cách mạng ở bên ngoài” mà Tây phương đã từng làm, từng biết với khoa học. Chìa khóa của hạnh phúc không nằm ở đâu khác hơn là trong nội tâm mỗi cá nhân. Mà muốn nhìn thấy cái chìa khóa đó thì phải rọi soi vào bên trong bằng những kỹ thuật thiền định mà các nhà sư Tây Tạng đã thực chứng do chính kinh nghiệm của họ. Trong lĩnh vực này, đừng hòng các lang băm đến làm ăn bịp bợm: khoa học Âu Mỹ đã đặt nền móng vững chắc cho cuộc thám hiểm vào não bộ của con người. Các nhà sư Tậy Tạng đã đem chính bản thân để các máy móc tối tân trong các đại học danh tiếng nhất của Mỹ đo lường ảnh hưởng của thiền định trên não bộ. Họ không phải chỉ đem lời nói, họ đem thực hành, họ đem kỹ thuật, phương pháp cụ thể để các nhà khoa học quan sát, phán xét tính hiệu nghiệm của thiền định, góp phần lớn vào sự phát triển của ngành sinh học thần kinh. Tôi xin thú thực: bản thân tôi có tính đa nghi, khi đọc lịch sử đức Phật, tôi không hiểu làm sao Phật có thể ngồi thiền định dưới bóng cây bồ đề trong suốt 49 ngày. Bây giờ thì tôi hiểu: mỗi người chúng ta đều có một sức dự trữ tâm linh mà ta không ngờ bởi vì chưa bao giờ sử dụng. Tôi sẽ trở lui lại điểm này - cuộc hành trình của ta tìm ta để chữa bệnh cho chính ta và chữa bệnh cho thời đại.


Bây giờ, tiếp tục vấn đề nhân bản và khoa học, có phải sức quyến rũ của Phật giáo chỉ nằm ở tính khoa học của Phật giáo mà thôi hay không? Tôi không nói đến chiều sâu của triết lý Phật giáo ở đây, cũng không nói đến tính minh triết mà Tây phương đang tìm lại. Tôi chỉ hạn chế trong một vấn đề nữa thôi: đạo đức. Đạo đức học ở Tây phương là những răn cấm, những mệnh lệnh. Người Tây phương hiện đại có cảm tưởng như có ngón tay chỉ vào trán và ra lệnh: mày không được thế này, mày không được thế kia, mày làm là phạm tội. Phạm tội với ai? Tại sao như thế là phạm tội? Tại sao tội đó phải nhờ một người khác giải tội với Trên Cao? Đạo đức đó, con người hiện đại chối bỏ vì họ cảm thấy như vậy là hãy còn vị thành niên. Đạo đức của Phật giáo trái hẳn, bắt nguồn từ con người. Không ai ra lệnh, không ai răn cấm. Phật giáo nói: tham thì khổ, sân thì khổ, si thì khổ. Từ thì vui, bi thì vui, hỷ thì vui, xả thì vui. Từ bi hỷ xả, cứ thực hành sẽ thấy vui. Tham sân si, cứ mắc vào sẽ thấy khổ. Đừng giết hại, đừng nói dối, đừng trộm cắp, đừng tà dâm, đừng say rượu: đó là năm điều tôi tự nguyện với tôi, làm được đến đâu chính tôi nhẹ nhàng đến đó. Đạo đức của Phật giáo là thực nghiệm, nhắm mục đích làm cho con người tốt hơn đã đành, nhưng cốt nhất là làm nội tâm thanh thản, bởi vì thanh thản chính là hạnh phúc.


Hơn thế nữa, đạo đức Phật giáo còn thức tỉnh con người hiện đại ở Tây phương ở chỗ nới rộng lòng từ bi và ý thức liên đới ra khắp chung quanh, không những giữa người với người, mà còn giữa người với thú vật, với thiên nhiên. Dưới ảnh hưởng của tôn giáo cổ truyền của họ, Tây phương đã cổ vũ, huy động từ thế kỷ 17 mọi cố gắng để chinh phục, cai trị thiên nhiên. Chiến công đó, nhân loại cám ơn. Xẻ sông, lấp núi: cái gì con người cũng làm được, thiên nhiên đã bị nhân hóa. Nhưng thiên nhiên cũng đã bị khai thác, bóc lột đến kiệt quệ, rừng trọc đầu, mưa hóa chất, nước nhiễm độc, chúng ta biết rõ hơn ai hết. Và rốt cục, con người ăn trong miếng ăn những chất độc do chính con người thải ra. Đạo đức đối với thiên nhiên trở thành trách nhiệm của chính con người. Các tôn giáo khác nói: không được giết người. Phật giao nói: tôi nguyện không sát sinh, nghĩa là không giết sự sống, và sự sống đó, thú vật đều có, cây cối thiên nhiên đều có, vũ trụ, khí quyển, trái đất đều có, tất cả đều liên đới với con người, phải yêu thương nhau như một thì mới sống còn với nhau.


Tôi vừa động đến một vấn đề hiện đại có tính tiêu cực: vấn đề môi trường. Bởi vì hiện đại không phải cái gì cũng hay. Hiện đại cũng có lắm tiêu cực. Hiện đại cũng đang gặp khủng hoảng. Bởi vậy, sau khi tán thưởng hiện đại và giải thích Phật giáo hiện đại như thế nào, tôi bắt qua điểm thứ ba, trình bày những khủng hoảng của hiện đại.


(Trích: HÃY BAY VỚI HAI CÁNH VÀO HIỆN ĐẠI