Trần Vân Hạc
| ||||
Tiến sỹ hóa học Đặng Văn Phú là một nhà cảm xạ bậc thầy, một lương y cao cấp, lương y chuyên sâu tài hoa và thật bất ngờ khi biết ông còn là một nhà thơ. Tập thơ: “Trăng ngàn” - nhà xuất bản Hội nhà văn ấn hành năm 2009 là tập mới nhất của ông. Đặc biệt đây là tập thơ Đường, theo lối “thuận nghịch độc”. Đây là thể thơ vô cùng độc đáo, vì mỗi bài có thể đọc ngược, xuôi thành nhiều bài, có bài của tiến sỹ Đặng Văn Phú có thể đọc thành 20 bài. Khó là vậy nên từ xưa, người làm một vài bài thì nhiều, nhưng cả tập 50 bài thì chưa từng có, khiến ai duyên may có tập thơ này đều thực sự thích thú và khâm phục.
Ông tiến sỹ yêu thơ này đã từng in chung 17 tập thơ và có bài trên 30 thi san các loại. Tập thơ “Trăng ngàn” là tập thơ “thuận nghịch độc” đầu tay, nhưng đã để lại trong lòng người đọc một ấn tượng khó phai. Ông đang chuẩn bị cho in tiếp tập “Vườn đào” cũng theo thể “thuận nghịch độc”.
50 bài thơ của tiến sỹ Đặng Văn Phú, mỗi bài đều không chỉ là một bài thơ, mà hơn thế đấy là một kỳ công tuyệt tác của trí tuệ, cảm xúc và sáng tạo được cộng hưởng, thăng hoa như trong “Người đa tài”của Đức Anh:
“Đa tài hiếm có ở nhân gian
Trí não thông minh đến tuyệt trần”.
Đề tài phong phú: nhiều mảng cuộc sống được phản ánh một cách trung thực và hồn nhiên. Nguồn xúc cảm dồi dào phát khởi từ một trái tim yêu đời, yêu thiên nhiên, tha thiết với cuộc sống. Bằng nhiều tìm tòi sáng tạo trong thể hiện nghệ thuật với những hình ảnh và biện pháp tu từ độc đáo, kỳ công trong việc đãi vàng trong muôn tấn quặng chữ, tác giả vẫn giữ được cái chất hàn lâm của thơ Đường mà vẫn đậm đà hương vị Việt, tạo ra một không gian đa chiều, khơi nguồn cảm xúc thẩm mỹ cho người đọc… Đó là cảm nhận đầu tiên của người viết bài này khi đọc xong tập “Trăng ngàn” của tiến sỹ Đặng Văn Phú.
Cảm xúc chủ đạo của tập thơ là tình yêu cháy bỏng với quê hương đất nước, tình yêu gia đình dạt dào nồng thắm, tấm lòng của một lương y như từ mẫu, những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời… Đề tài không mới, nhưng sự tìm tòi trong cách thể hiện đã đem lại một hơi thở, một diện mạo đặc biệt cho những mệnh đề tưởng chừng muôn thuở ấy. Đó là một thứ giống như một phép đảo thế nhiệm mầu của ngôn từ, đưa người đọc đi từ bất ngờ này tới sự thú vị khác. Bởi vậy đọc thơ ông trong trò chơi trí tuệ cao cấp, sang trọng ấy không dễ, ý tại ngôn ngoại, nhưng khi hiểu, đã đồng cảm được thì thật là thú vị, lôi cuốn đến say lòng.
Đây là cảnh nên thơ ở bài “Trăng ngàn”:
“Sương mây quyện lẫn núi ngàn xa
Gió nhẹ, trăng lùa chim hót ca
Hương thỏang đâu đây mùi chín quả
Sắc loang nơi ấy vị ngon trà…”.
Cái tài của ông là sự biết điều tiết cảm xúc và thể hiện rất giản dị, nhưng không kém phần thơ mộng và các bạn thử đọc ngược mấy câu ấy thôi, chắc sẽ không khỏi ngạc nhiên trước thi tứ mới đầy bất ngờ.
Trong tập thơ của ông mỗi bài đều long lanh một thứ ánh sáng diệu kỳ, có những bài người đọc không thể không thưởng thức với nhiều góc độ khác nhau, bởi cũng như thưởng lãm một viên kim cương, người ta không thể chỉ đứng ở một góc độ. Đấy là những bài: Hoa sen, Hưng Đạo Vương, Suối, Chợ Hoa, Viếng mộ liệt sỹ…Dù là thơ thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn bát cú, ngũ ngôn tứ tuyệt…thì với tay nghề cao như của người thợ kim hoàn tài hoa, ông đã tạo nên những công trình tuyệt diệu bằng ngôn ngữ. Ông vẫn tuân theo qui định ngặt nghèo của thơ Đường, nhưng với tài năng và sự sáng tạo của mình, mỗi bài, mỗi câu, mỗi ý cứ dư ba trong lòng người đọc những gợn sóng đến vô cùng.
Thiên nhiên trong “Trăng ngàn” được thể hiện tài tình qua “Tây Hồ”:
“Vân in gợn sóng nước xanh hồ
Gió nhẹ lay đưa lá liễu bồ”.
Đọc xuôi đã thấy cảnh trời mây non nước Tây Hồ sao mà thơ mộng, nhưng khi đọc ngược:
“Bồ liễu lá đưa lay nhẹ gió
Hồ xanh nước gợn sóng in vân”,
ta chợt sững sờ trước vẻ đẹp thường ngày của Tây Hồ vừa quen, vừa lạ. Tuy cũng là sóng, gió, trời, mây…nhưng như có hồn, sống động. Còn trong “Rừng sớm”:
“Xa kia sẫm bóng ngút ngàn cây
Sớm phủ sương dăng lãng đãng dày”.
Nếu chỉ cảm nhận rừng cây đầy sức sống, xanh ngút ngàn, sương dăng chỗ dày đặc, nơi lãng đãng đã thấy cái đẹp của thiên nhiên qua tài năng của ông, nhưng khi đọc ngược:
“Dày lãng đãng dăng sương phủ sớm
Cây ngàn ngút bóng xẫm kia xa”,
người đọc chợt mỉm cười thích thú với những hình ảnh mới lạ với một không gian mở. Là người từng phấn đấu, đóng góp không mệt mỏi tài sức của mình trong công cuộc xây dựng đất nước, ông thốt lên từ đáy lòng mình “Mừng Đảng” vững tay chèo lái, làm cho dân giầu , nước mạnh:
“Mừng Đảng tiếp sang xuân
Lái chèo vững triệu lần
Bừng lên dân tiếp bước
Hưng vượng giàu sang dân”.
Đây là đề tài khó, thường dễ sa vào việc hô khẩu hiệu, với ông, bằng cách thể hiện mộc mạc, chân thành như cảm nhận tất yếu của mọi người dân đất Việt. Những từ: “tiếp”, “bừng”, “hưng vượng”… làm cho bài thơ có hồn. Trong bài: “Bác Hồ với thiếu niên”:
“Yêu quí chăm lo đến thiếu niên
Gắng công rèn rũa đức tài hiền
Thêu hoa nhiệt huyết niềm mơ ước
Nêu bật non sông đẹp dải liền”.
Tâm nguyện của Bác gửi gắm, hy vọng vào thế hệ mai sau xây dựng đất nước ta sánh vai với các cường quốc năm châu được thể hiện sao giản dị mà tài tình đến nhường vậy. Là một lương y chuyên sâu, ông thấm nhuần và phát huy cái đạo từ ngàn xưa “lương y như từ mẫu”. Nếu như trong sự nghiệp y dược cứu người ông từng chữa cho bao người khỏi bệnh nan y và thường xuyên khám bệnh miễn phí cho người có hoàn cảnh khó khăn, thì trong bài “Đông y Việt Nam”:
“Truyền tải đông y Việt Nam ta
Tiếp theo báu quí của ông cha
Hiền tài cứu chữa nhiều thay đổi
Tốt tình chăm lo lắm chạm va…”.
Đây phải chăng là tuyên ngôn, là tiêu chí và cũng là những chiêm nghiệm của một lương y tài cao tâm sáng.
Trong tập “Trăng ngàn”, nhiều bài, nhiều câu, đọc thuận hay ngược đều đáng khâm phục như: Thơ hồn nối nhịp thích và mơ – Mơ và thích nhịp thổi hồn thơ (Sáng tỏa). Suối nước in non vẽ đất trời – Trời đất vẽ non in nước suối (Tụ hội). Nắng vàng hong ấm gió đưa hương – Hương đưa gió ấm hong vàng nắng (Tết đến)… Đặc biệt bài: “Chợ hoa” có thể đọc được thành 20 bài khác nhau, mỗi bài đều đem đến cho người đọc một thi cảm đầy bất ngờ trước vẻ đẹp của hoa, xuân, con người cùng thiên nhiên qua sự sáng tạo tuyệt vời:
“Gần tết chợ hoa đủ loại mầu
Nụ đào nhành cúc quất bày mau
Thân mai gốc sứ khoe hình dáng
Khóm trúc cành cau nối nhịp cầu
Xuân đón bướm vờn vui nhẩy múa
Gió hong chim đuổi thú đan khâu
Hân hoan dạo phố đèn trưng sáng
Giàn nhạc thâu đêm điểm trống chầu”.
Tiến sỹ Đặng Văn Phú là người đầu tiên có một tập thơ Đường theo thể “thuận nghịch độc”. Được biết ông sáng tác tập thơ này trong một thời gian không dài, với 22 bài thất ngôn bát cú, 28 bài tứ tuyệt. Đây quả là một kỳ công chưa từng có. Song cũng do đây là tập thơ đầu tay theo thể loại “khó chơi” này nên có đôi từ đọc ngược còn chưa sáng nghĩa, nhuần nhị, hoặc còn thô cứng. Đó là điều không tránh khỏi, bởi nói như dân gian: Ngọc nào mà không có vết. Nếu không tỳ vết thì người ta còn phải phấn đấu, gọt rũa để làm gì nữa. Bởi vậy chúng ta đón nhận tập “Trăng ngàn” với một sự khâm phục và trân trọng, sự thành công của tiến sỹ Đặng Văn Phú góp phần làm phong phú thêm thi đàn Đường luật. Và chúng ta đón đợi tập: “Vườn đào” với những thành công mới.
Gấp cuốn sách lại, người đọc gặt hái được biết bao cảm xúc thấm đẫm tình người và tình đời và cảm thấy tâm hồn mình trong sáng hơn, yêu đời hơn, do những thi tứ và cách thể hiện độc đáo đem lại, tôi cứ tự hỏi: Những người làm cuốn sách Kỷ lục Giness Việt Nam đã biết đến tập thơ Đường luật “thuận nghịch độc” của tiến sỹ Đặng Văn Phú hay chưa? Và nếu biết, họ có định đưa vào cuốn sách đó hay không, vì các bạn cứ tìm thử mà xem, từ xưa đến nay đã có nhà thơ nào có hẳn một tập 50 bài theo thể “thuận nghịch độc” như tiến sỹ Đặng Văn Phú?
CHỢ HOA:
MỘT BÀI TÁCH ĐƯỢC HAI MƯƠI BÀI:
Trần Vân Hạc
|
" Cả cuộc đời ba không có gì để lại cho các con ngoài số vốn kiến thức mà ba mẹ tảo tần nuôi các con ăn học.Mong các con trở thành những người hữu ích cho xã hội" ( trích từ TT "Vững Niềm Tin")
Thứ Bảy, 17 tháng 1, 2015
TẬP THƠ ĐƯỜNG “THUẬN NGHỊCH ĐỘC” CỦA TIẾN SỸ ĐẶNG VĂN PHÚ
Tâm Sự Khi Mẹ Ngủ
Lý Thái Xuân
|
Ngày, tháng.. hôm nay:...
Hôm nay tiễn Mẹ đi về BW Funeral Home, nhưng con cứ nghĩ Mẹ không ở đó.
Ngày, tháng.. hôm nay:...
3 ngày sau khi người ta chôn Mẹ trong tường đá, dù con đã ra thăm mộ 2 lần, và sẽ đi đến đó chiều nay nhưng con vẫn hoang mang không biết Mẹ thực sự ở đâu.
Ngày, tháng.. hôm nay:...
Tính đến hôm nay Mẹ đã mất hai tuần. Con giờ như trở lại lúc còn 4, 5 tuổi, khi bắt đầu biết ý thức được sự cần thiết có mẹ. Con sướt mướt trong nước mắt và nghẹn cứng nơi ngực với cơn ho thỉnh thoảng nổi lên. Có lẽ đó là do mấy ngày nay con bị cảm như chưa bao giờ bị cảm. Từ nhiều năm qua, con đã không còn nhớ “bị cảm” ra sao.
Nói ra thiên hạ sẽ chê cười. Ai cũng cho là Mẹ đã thọ lắm và tốt lắm rồi. Và con bây giờ là bà già 65 tuổi rồi chứ đâu phải là một đứa trẻ, huống chi lại giống như đứa trẻ 4, 5 tuổi, nôn nóng chờ mẹ đi chợ về ! Mấy ngày nay con như mất phương hướng, không còn thấy mục đích của cuộc đời như những năm tháng trước ngày mẹ mất. Mẹ đã sống ngót nghét một thế kỷ. Mẹ để lại không biết bao nhiêu là kỷ niệm với con. Có lẽ con đã trở thành một người hay dựa dẫm vào tình mẹ mà con chưa hề ý thức điều đó cho đến hôm nay.
Mẹ có lẽ lắc đầu như đã từng như thế: “Bậy nào! Con đã trưởng thành từ lúc 15 tuổi, đi học xa, chịu đựng những khổ nhọc để có thể học qua bậc tú tài. Con cũng bắt đầu giúp tiền nuôi gia đình từ lúc làm cô giáo nhỏ, mới 19 tuổi. Chính Mẹ mới ân hận để con vất vả” – Nhưng không Mẹ ơi, đó là niềm tự hào nho nhỏ của con mà thôi. Năm 1975 con lại đi biệt xứ, mấy năm trường có giúp gì được cho gia đình trong thời loạn ly đâu. Mãi đến lúc chúng ta đoàn tụ lại, thì con tiếp tục được nuông chiều trong tình mẫu tử. Con thấy Mẹ hân hoan trong mỗi cái con “được”, Mẹ bực bội trong những lần con “mất”. Cái mừng của con nhân lên, cái buồn của con giảm bớt.
Bây giờ nghĩ lại, thực ra từ trước tới nay con chưa bao giờ “mất” vì mãi đến hôm nay con mới biết “mất” là thế nào. Bởi vì kể từ đây, niềm vui nào cũng chẳng còn được nhân lên, và đau khổ nào cũng khó thể vơi đi được nữa. Nếu không có thêm người bạn đời của con ở bên cạnh, có lẽ con không còn động lực nào khác để vui sống. Như thế chẳng phải là từ trước tới nay con đã dựa dẫm vào tình mẫu tử của Mẹ thì là gì?
Trước đây, năm 2001, con có viết một bài tựa đề “Tự Do Cho Mẹ” (*) trong đó con muốn cuộc sống thật đối với Mẹ, không bắt Mẹ làm một bà thánh để con chấp nhận những điều tích cực lẫn tiêu cực của Mẹ mà không làm Mẹ và con phải ân hận điều gì khi xa nhau. Nhưng rồi khi Mẹ thực sự ngủ một giấc dài thì chính con lại không tránh khỏi ân hận, vì con chưa làm hết những điều con muốn làm cho Mẹ.
Con nói thật, Thiên Chúa mà Mẹ tin cũng chẳng thể thay thế tình mẫu tử trong lòng con. Nhưng con rất mong Mẹ tìm được nơi Mẹ muốn đến. Chị em con sẽ đồng thanh đáp ngay không chần chờ: “Sao nói phạm thượng như thế? Thiên Chúa là trên hết, Thiên Chúa sinh ra mọi sự, cả tình mẫu tử.” Con sẽ nhỏ nhẹ đáp: Vâng, nếu thực sự có Thiên Chúa như thế. Nhưng con không tin vì thực tế không hề có. Những câu nói “Chúa Là Tình Yêu, Đức Mẹ là nơi an ủi,..” đều là những lời mà giáo hội muốn nhồi sọ chúng ta, họ tuyên truyền, quảng cáo cho đạo, con cho là gian dối. Tất cả các chị em khác của con luôn trung thành với con đường “Phúc cho ai không thấy mà tin” của nhà thờ mà Cha Mẹ đã dẫn dắt. Chỉ có con bây giờ. Con cần được chứng minh những gì con nghe nói.
Con bây giờ, giống như Mẹ ngày xưa, chỉ hơi ngược lại mà thôi. Mẹ cởi bỏ truyền thống ông bà để đi theo đạo Chúa, tổ tiên mới của Mẹ là hai vợ chồng Adam Eva. Con thì cởi bỏ nếp sống con chiên của Chúa để trở về với truyền thống ông bà bên ngoại, tổ tiên Lạc Hồng.
Mẹ từ một gia đình đạo ông bà, thờ Phật, nhưng chưa hề có ai giải thích cho biết nền tảng của đạo Phật, hay đạo ông bà là gì. Mẹ đi theo đạo Chúa vì gặp được sự yêu thương đùm bọc của một gia đình người Tây, lẽ đương nhiên là theo đạo Chúa. Nếp sống của họ là mỗi ngày ca tụng và cám ơn Chúa trong từng việc, xem đó là phong cách ứng xử của một con người văn minh, đạo đức và lễ độ. Lại thêm, những giá trị nhân bản của nền văn minh Tây Phương mà gia đình ấy đối đãi với Mẹ, như không bao giờ rầy la mắng nhiếc những người giúp công, hơn hẳn những cọ xát thô lỗ trong xã hội quê mùa chậm tiến của dân Việt mình. Mẹ lại được xem như là một người thân trong gia đình người ta, được đi Tây,... Mẹ nghĩ là tất cả những tốt đẹp đó là nhờ đạo Chúa.
Thế là Mẹ như từ cõi tục bước lên chốn thiên đàng. Mẹ mang ơn gia đình ấy cả đời và mê mẫn cho tới chết cái nếp sống và những ngày tháng trong gia đình đó. Mỗi tuần Mẹ được mặc áo quần sạch sẽ bảnh bao, đi nhà thờ mỗi sáng, nghe “thánh” nhạc với gia đình người ta. Không còn gì sang trọng bằng! Chưa kể, người ta là những người có quyền thế đối với dân thuộc địa. Dân có đạo đến đâu cũng được sắp đặt, được kết nối, được ưu tiên. Làm sao không hấp dẫn được người đời. Mẹ tôi cũng chỉ là một một phụ nữ yếu đuối, bơi lội, bươn chải trong vận mệnh của một nước thuộc địa, tìm kế sinh nhai và bị hấp dẫn, cũng như vô số những người khác bị hấp dẫn trong nhiều trường hợp tương tự như thế mà thôi.
Thế là Mẹ theo đạo Chúa. Và gặp Cha cùng đi một nhà thờ. Rồi Mẹ kết hôn. Rồi Mẹ làm cô giáo cho đến tuổi hưu. Còn bên nội của con là đạo dòng, nên mọi việc “take it for granted”, đương nhiên là thế. Xưa nay con chưa hề nghe kể lại người đầu tiên trong họ bên Cha theo đạo như thế nào. Chẳng ai còn biết người cải đạo đầu tiên trong dòng họ ra làm sao, và trong trường hợp như thế nào.
Kết quả là con cũng đã theo con đường của Cha Mẹ. Con vẫn đi nhà thờ miệt mài cho đến gần cuối cuộc đời. Cứ tưởng rằng mình thánh thiện đạo đức, như những tiếng “thánh thiện”, “đạo đức” cứ nhồi nhét hàng ngày vào trong tai con, rồi tư tưởng của con, từ bé thơ, qua lời kinh, qua lời giảng, qua lời hát,...Chưa hề có ai nói cho biết những điều vô lý, cao ngạo, và hết sức ấu trĩ của nó.
Mẹ biết rõ. Thuở nhỏ, con vâng lời Cha Mẹ trong việc đi nhà thờ mặc dù con rất tiếc thì giờ. Con đã bị mất thêm giờ làm việc trong nhà người ta vì ở trọ mà không tốn tiền, nên không còn giờ làm bài vở ở trường. Hơn nữa, con cảm thấy, nếu Chúa "toàn thiện" thì không thể là kẻ thích tâng bốc, nịnh bợ. Sao ta cứ cà kê những câu chúc tụng, ngợi khen, hết ca Chúa, rồi ca Đức Mẹ mỗi ngày như thế. Con cũng cố vâng lời các ma soeurs dạy giáo lý, các cha cố, mặc dù con không mấy phục họ lắm. Nhưng với đầu óc non trẻ, con chấp nhận họ là những người con cần phải kính trọng, vì con được dạy bảo như thế. Nhiều lúc con say sưa trong dòng nhạc rất du dương, hát lên để chúc tụng Chúa, và lòng đầy phấn khích. Con được trang bị đầy đủ những thiết bị mà nền giáo dục của đạo Chúa đã chuẩn bị cho con trong những bài kinh, những bài giảng, và xem đó là “lương tâm Công Giáo”, là “đức tin không hề lay chuyển” của một người ngoan đạo. Ai nói động đến đạo Chúa thì con chỉ muốn “ăn thua đủ”, hoặc tử vì đạo. Sao cuồng thế nhỉ?
Lấy chồng, con cũng độc tài với chàng nữa trong việc “thờ Chúa”. Con từng không thể dằn lòng được trước những quyển sách chống lại đạo Chúa, và đã từng xé rách bìa một quyển sách như thế trước mặt chồng con. Con không cần biết, và không công nhận bất cứ những gì người ta viết, vì xem đó là “lời lẽ của Satan”. Con nổi điên lên khi nghe những lời lẽ “xúc phạm” đến giáo hội. Và con hãnh diện vì cho đó là con “chiến đấu” chống lại những cái xấu ác của “thế gian”, như một “chiến sĩ của đức tin”.
Rồi va chạm, rồi giận hờn, rồi bực tức, cứ thế mà con bị trầy trụa tâm hồn. Con lớn lên trong thương tích như thế. Nhưng cũng nhờ đó mà con được có cơ hội nghe, biết và bắt đầu hiểu rõ một vài chỉ trích của những người ngoài đạo. Thế là con bắt đầu biết lắng nghe nhiều hơn. Trong những cuộc trao đổi với bạn đồng nghiệp ở sở làm, hoặc đọc sách, để ý, tương phản, quán chiếu, nhất là được nghe những lời nói của những người bạn thuộc bậc thầy đáng kính, con mới biết nhận ra rằng cái “tính khí” ngày xưa của con thật đáng xấu hổ thay vì hãnh diện, những cái đó thuộc về những kẻ “mê cuồng” và trẻ con, chứ không phải là người đạo đức.
Những ý tưởng này con chưa hề dám nói cho Mẹ nghe vì con chưa đủ tài ba để làm cho Mẹ hiểu những điều con muốn nói.
Cuối đời con, qua nhiều lần sắp “tử vì đạo”, (nhưng may mắn là con chưa dại dột như thế) nhiều lần quằn quại đối diện với những sự thật của nó được thấy trong vài quyển sách hiếm hoi, hay được nghe qua những trao đổi nhá lửa với một vài người bạn khả kính, con mới nhận ra chân giá trị là gì. Chuyện này con suy nghĩ mấy năm trường trước khi quyết định. Sau đó con từ tốn và thẳng thớm đứng lên.
Nhưng khi con tách ra khỏi đạo để trở về với dân tộc, ánh mắt gia đình đối với con không giống như khi Mẹ bước ra khỏi ngưỡng cửa thờ cúng ông bà. Con biết một điều chắc chắn là ông ngoại bà ngoại và các cậu các dì vẫn luôn dành cho Mẹ những ánh mắt trìu mến và ấm cúng không đổi thay với Mẹ từ đầu đến cuối. Mẹ xem, người lương, họ hiền hậu như thế.
Người đạo Chúa thường nghĩ rằng những người bên lương dốt nát quê mùa, cho nên khi nghe người thành thị, nói tiếng Tây như gió, thì nói gì họ cũng phải nể. Con thì cho rằng, chỉ vì người lương vốn đã hiền hòa theo văn hóa lương thiện của ông bà mình để lại mà thôi. Nhưng xét cho cùng, kết quả thì cũng như nhau. Hiền quá hóa ngu, thê là ông bà ta dung dưỡng hoặc thờ ơ cho những việc quay lưng với ông bà một cách dễ dàng và công khai như thế mà vẫn không có đên một lời phê phán.
Trường hợp con, cũng giống như biết bao trường hợp của những người trở về với dân tộc. Họ đều bị khổ nạn cả. Con thừa biết, giáo dân được nhồi sọ rằng Chúa là trên hết. Thế cho nên ai “rửa tội” (cái tội không hề có) để vào đạo Chúa đều là những người được tung hô, được đón chào nồng nhiệt, được ấm áp về cả vật chất lẫn tinh thần. Nhưng nếu ai đó, đã biết Chúa rồi mà quay đi thì chẳng những không đáng coi trọng, mà còn bị khinh bỉ, bi cô lập, hay bị xem là ...đáng chết nếu điều kiện cho phép. May là Cha đã mất hơn 20 năm trước. Nếu không, con chẳng biết con phải làm sao với quyết định này mà gia đình không rách nát. Mẹ thì dẽ dãi và thông cảm với con hơn.
Ông cựu thẩm phán Charlie Nguyễn (http://sachhiem.net/CHARLIE/CNdir.php) bị gia đình và bạn bè ruồng rẩy tàn nhẫn vô cùng, chỉ vì ông quay về với dân tộc, viết lên những điều chướng tai gai mắt trong đạo Chúa đã nung nấu tâm sự của ông. Gia đình ông ấy là những người ngoan đạo đấy. Chỉ vì tin bậy bạ rằng những người không tin Chúa là vô thần (với nghĩa xấu như là Quỷ Satan) đáng bị tiêu diệt. Như vậy người ngoan đạo sẽ trở nên ác độc mà không hay biết. Ai đã dạy cho những con chiên ngoan đạo như thế, nếu không phải do những lời kinh, những bài giảng, những bài “thánh ca”? Vậy nếu con mới chỉ có mất đi sự ấm cúng trong ánh mắt của thân quyến thì con đã có phúc lắm rồi. Con không đòi hỏi gì hơn.
Dù sao, con cũng rất tự hào vì sự “lựa chọn khác” của con hoàn toàn không vì những ân nghĩa, không vì tình cảm, không vì những nét hào nhoáng, hấp dẫn bên ngoài, không vì lời mê hoặc, hay những điệu hát du dương, không vì những tiếng nói “đạo đức” thánh thiện” mà tưởng mình cũng thánh thiện, đạo đức. Tuy nhiên Mẹ của con thì đương nhiên thánh thiện, dù cho Mẹ đã cải đạo, hay nếu Mẹ không cải đạo thì có lẽ còn thánh thiện hơn thế nữa.
Con “lựa chọn khác” vì con thích cái gì khoa học, thực tiễn, chứ không thích mê tín. Con không hề sợ động chạm đến Mẹ trong những ý tưởng này, vì Mẹ biết tỏng, thời của con may mắn được học khoa học nhiều hơn thời xưa. Vả lại con thích khoa học thì có gì là sai phải không Mẹ? Mẹ chẳng thể hiểu, nhưng Mẹ vẫn đã từng nghe con nói. Con nói để con nghe, và Mẹ cũng vẫn chỉ tin có Chúa sanh ra muôn loài, đơn giản thê thôi. Nhưng nếu Mẹ có thể hiểu tất cả những điều con nói, chắc chắn Mẹ sẽ tán thành con mà thôi.
Con thích công bằng trên căn bản đại quần chúng chứ không phải công bằng chỉ với con Chúa, hay công bằng theo góc nhìn của những người có sứ mạng “mở rộng nước Chúa”. Cái chỗ này người theo đạo Chúa không thể cảm nhận được vì họ xem những người không tin Chúa là không xứng đáng cái gì cả, ngay cả không đáng sống trên đời, huống chi là một quốc gia, một miếng đất, hay một tòa nhà.
Con thích bác ái vô vị lợi, chứ không phải bác ái có móc câu. Con không dám động chạm đến Mẹ khả yêu của con. Nhưng con thấy quá nhiều người đang bị móc câu trôi vào cả ruột rồi mà vẫn bênh vực cho kẻ thả câu. Mẹ có biết không, con chưa thấy hành động bác ái hay cơ quan bác ái nào của đạo Chúa mà không đi theo cây thánh giá và những câu chúc tụng, nạp ơn vào cho Chúa, cho rằng tất cả đều do Chúa. Vậy kẻ nhận của bố thí phải cám ơn Chúa. Nhưng muốn “cám ơn Chúa” thì phải để họ chỉ dạy cho biết cách. Sau đó thì kẻ chịu ơn dần dần thấy rằng chỉ có con đường theo Chúa là con đường duy nhất để tiếp tục được no đủ. Và con khinh chê kẻ làm phước kiểu như thế.
Con thích lý luận để tìm lẽ phải theo chân trời mà con có thể thấy được, theo mớ kiến thức mà con có được do học hỏi mỗi ngày qua việc đọc các bài viết của những người khác, chứ không thích nghe người nào chỉ bảo con đâu là lẽ phải một cách độc đoán.
Con thích khiêm nhường đối với người đời, chứ không phải chỉ có khiêm nhường với Chúa, mà đại diện là các linh mục, các phẩm trật trong Giáo Hội mà đối với con họ chỉ là những người chỉ biết mê hoặc, gạt gẫm giáo dân mà thôi. Chưa kể, con biết quá nhiều việc dơ bẩn của họ lắm, từ tòa nhà Vatican xuống dưới, đáng khinh hơn đáng kính. Con thích khiêm nhường thực sự chứ không phải chỉ giả dối ngoài môi, hoặc đấm ngực trong nhà thờ. Con rất khó chịu khi nghe những câu kinh hay bài hát mâu thuẫn với đức khiêm nhường như “dân riêng của Chúa”, “Vua của các Vua,” “giáo hội duy nhất thánh thiện,...”.... Ngày trước, những mâu thuẫn này con chưa hề nhận ra.
Con thích đạo đức trên căn bản đối nhân xử thế, giữa người và người, chứ không phải đạo đức trên hai tay chắp lại và đôi mắt nhắm nghiền trước ảnh tượng Chúa, hay đạo đức tính theo số ngày giờ đến nhà thờ quì gối, hoặc số kinh Kính Mừng, Lạy Cha trên xâu chuỗi nắm trong tay, thậm chí đạo đức tính trên số tiền đóng góp cho nhà thờ. Con khinh lờn những bậc thang giá trị đó. Con không hề nghĩ Mẹ nằm trong đám người này, vì con biết Mẹ chỉ theo thói quen, và thích có kinh đọc ê a. Mẹ tôi đơn giản và vô tư như thế.
Đối với con, đây là hình ảnh mê tín chứ không phải là đạo đức.
Con thích triết lý có thể thực nghiệm chứ không phải triết lý theo mạc khải, theo mầu nhiệm. Khi đọc “Chúa cứu chuộc nhân loại,” “ơn Chúa cứu rỗi” thì con phải biết Chúa cứu lúc nào và cách nào. Câu trả lời thường là “những khi mình được ai giúp thì đó là Chúa sắp đặt.” Con cho là câu trả lời xạo, hay đúng hơn, là gian xảo. Bởi vì con có thể nói như thế cho bất cứ ông thần bà thần nào đó mà con nghĩ ra.
Đạo Chúa không đáp ứng cho con bất cứ chỗ nào trong những những vấn đề thuộc phạm trù nhân văn như trên.
Con quyết định phải lớn lên và trở thành con người, đứng vững trên đôi chân, đôi chân không phải do Chúa mà là do Cha và Mẹ tạo dựng. Con cũng không còn thích quì lạy cầu xin mỗi lần con cần giúp đỡ tinh thần hay vật chất. Con đã từng thố lộ cho Mẹ biết một phần những tư tưởng của con như thế. Mẹ không hề buồn khi nghe con nói những chuyện này. Nhưng người khác thì con không dám thố lộ. Nhưng thế nào rồi họ cũng sẽ “dứt phép thông công với con”. Họ chỉ biết giận dữ và tự ái, đáng sợ lắm, không như những gì ông bà ngoại và các dì các cậu đối với Mẹ khi Mẹ trở thành “con Chúa”.
Reng reng, reng reng... ...
- Có anh Phạm gọi bà nè! Tiếng ông xã con gọi lanh lảnh.
Anh này học cùng trường với con, Mẹ đã từng nói chuyện trên điện thoại với anh ta năm trước, chắc Mẹ còn nhớ. Anh ấy nói rằng con thật có phúc vì được kề cận Mẹ đến những 50, 60 năm trong khi anh ấy chưa hề có cơ hội nào được đáp lễ hay hiếu kính cho Mẹ anh vì bà bị chết lúc anh ta chỉ mới 7 tuổi. Phạm đã từ lâu theo và thấm nhuần tư tưởng và triết lý đạo Phật. Trao đổi với anh ấy một lúc thì con cảm thấy được vơi bớt xúc cảm.
Phạm bảo con, nếu chị hiểu triết lý nhà Phật thì chị không nên buồn. Phạm nói, Mẹ chẳng mất đi đâu cả, tại sao lại bi lụy? Đó là vì khi Mẹ sanh ra con thì trong người con đã có một phần của Mẹ rồi. Thân hình các con cũng như những cây non mọc lên từ một cây già cỗi mục nát. Cụm cây già sẽ từ từ tan biến vào lòng đất làm chất đạm nuôi nấng cây con. Rồi đây chính các thân cây này có một ngày cũng lại sẽ mục nát đi để nuôi dưỡng các cây non khác nữa. Đó chẳng phải là sự thật hay sao?
Vậy là Mẹ đã chẳng đi đâu cả, Mẹ đã luôn có trong con. Bây giờ, Mẹ và con mình sống trong nhau. Con đang nghe từng hồi dòng máu trong con đang luân chuyển, đó là một phần của Mẹ đang sống với con đấy mà. Thật là chí lý!
Mẹ thấy không, con cần những cách “cứu rỗi” như thế, chứ con không cần hứa hẹn một ngày biệt mù xa tít nào đó không ai biết, sẽ đoàn tụ với Mẹ trong “vinh quang Chúa”, những từ ngữ thật viễn vông, chẳng ai hiểu là như thế nào, nhưng vẫn cứ nói cho ra vẻ người hiểu biết “lẽ đạo.” Bây giờ Mẹ có thể hiểu một số điều con nói ở trên rồi đấy.
Kỳ sau con sẽ kể tiếp cho Mẹ nghe. Bắt đầu bằng những ngày con đi học xa, những điều mà con không dám kể khi Mẹ còn thức.
Lý Thái Xuân
|
Lửa Từ Bi
Kính Bồ tát Quảng Ðức
Lửa! lửa cháy ngất tòa sen!
Tám chín phương nhục thể trần tâm
hiện thành THƠ, quỳ cả xuống.
Hai Vầng Sáng rưng rưng
Ðông Tây nhòa lệ ngọc
chắp tay đón một Mặt-trời-mới-mọc
ánh Ðạo Vàng phơi phới
đang bừng lên, dâng lên.
Ôi! Ðích thực hôm nay trời có mặt;
giờ là giờ Hoàng đạo nguy nga!
Muôn vạn khối sân si vừa mở mắt
nhìn nhau: tình Huynh đệ bao la.
Nam mô Ðức Phật Di Ðà
Sông Hằng kia bởi đâu mà cát bay?
Thương chúng sinh trầm luân bể khổ
NGƯỜI rẽ phăng đêm tối đất dày
bước ra, ngồi nhập định, hướng về Tây;
gọi hết lửa vào xương da bỏ ngõ,
Phật Pháp chẳng rời tay.
Sáu ngả Luân hồi đâu đó
mang mang cùng nín thở,
tiếng nấc lên ngừng nhịp Bánh xe quay.
Không khí vặn mình theo
khóc òa lên nổi gió;
NGƯỜI siêu thăng
giông bão lắng từ đây.
Bóng NGƯỜI vượt chín tầng mây,
nhân gian mát rợi bóng cây Bồ Ðề.
Ngọc hay đá, tượng chẳng cần ai tạc
lụa hay tre, nào khiến bút ai ghi;
chỗ NGƯỜI ngồi: một thiên thu tuyệt tác
trong vô hình sáng chói nét Từ Bi.
Rồi đây, rồi mai sau, còn chi?
ngọc đá cũng thành tro
lụa tre dần mục nát
với Thời gian lê vết máu qua đi.
Còn mãi chứ! Còn Trái-Tim-Bồ-Tát
gội hào quang xuống tận ngục A-tỳ.
Ôi ngọn lửa huyền vi!
thế giới ba nghìn phút giây ngơ ngác
từ cõi Vô minh
hướng về Cực lạc;
vần điệu của thi nhân chỉ còn là rơm rác
và chỉ nguyện được là rơm rác,
THƠ cháy lên theo với lời Kinh
tụng cho Nhân loại hòa bình
trước sau bền vững tình Huynh đệ này.
Thổn thức nghe lòng trái Ðất
mong thành quả Phúc về cây;
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật;
đồng loại chúng con
nắm tay nhau tràn nước mắt,
tình thương hiện Tháp-Chín-Tầng xây.
(Sài-gòn tháng 5, Phật lịch 2507, tháng 6-1963)
VŨ HOÀNG CHƯƠNG
Chủ Nghĩa Tư Bản Nông Cạn của Philippines: Tây Phương Hóa Mà Vẫn Nghèo
Richard Javad Heydarian
Là quốc gia có đa số người Công giáo duy nhất ở châu Á, với sự kết hợp đặc trưng quá khứ thuộc địa của Tây Ban Nha và Mỹ, Philippines đứng riêng thành một trong những quốc gia độc đáo nhất. Tuy vậy, nhiều người phương Tây hình như thấy nó quá quen thuộc - ở chỗ, nó chẳng còn là "kỳ lạ" như các nước láng giềng khác - chính vì tính cách giống nhau về văn hóa và kiến trúc lớn lao của nó với nền văn minh phương Tây, đặc biệt là trộn lẫn khác biệt giữa các giống Iberia và Anglo-Saxon. Hầu như tất cả người Philippines mang tên Tây Ban Nha, trong khi các cơ quan chính phủ và giáo dục thì dựa vào tiếng Anh như là phương tiện chính về thông tin liên lạc của họ.
Đôi khi, các thành viên của tầng lớp ưu tú Philippines có xu hướng tự hào về cách Philippines là quốc gia Âu hóa nhất ở châu Á, với những người khác hứng thú một cách công khai rằng nó là một nước Đông Nam Á đã được chạm trổ từ các bộ máy thực dân và trí tưởng tượng của phương Tây. Chính cái tên của đất nước quần đảo – lại có nguồn gốc từ vua Philip II của Tây Ban Nha - có lẽ nói lên tất cả. Trong nhiều cách, người Philippines chia sẻ đặc điểm chung với, chẳng hạn, người Mỹ Latin hơn các nước láng giềng gần họ. (Ngoại trừ việc hầu hết người Philippines không thể nói đúng tiếng Tây Ban Nha, nhờ vào sự kiện đáng tiếc là người Tây Ban Nha không hề để ý đến chuyện mang nền giáo dục phổ thông vào thuộc địa chủ yếu của họ ở châu Á. Tiếng Tây Ban Nha đã được sử dụng như một ngôn ngữ phân loại hơn là xây dựng đất nước và bản sắc tập thể.)
Trong khi đó người dân Philippines bình thường, lại cũng tự hào về sự kiện đáng ngạc nhiên là Philippines - một trong những nước nghèo nhất ở châu Á - là nơi có 3 trong số 10 trung tâm mua sắm lớn nhất trên trái đất. Và với cả nước (một lần nữa) được cho là trong số các thị trường mới nổi tăng trưởng nhanh nhất, có một cảm giác ngày càng tăng rằng Philippines cuối cùng đã có thể khẳng định một vị trí tự hào trong các xã hội tư bản hiện đại và sôi động ở châu Á.
SM Mega Mall - đứng hàng thứ 3 lớn nhất thế giới
Và cảm giác tự tin mới được tân trang đó đang nhỏ giọt xuống cho thế hệ trẻ. (Ngày nay, nó không phải là khó khăn để tìm thấy những người Philippines trẻ trung, tham vọng, tự tin bày tỏ quan điểm của mình trong các cuộc hội thảo và gặp gỡ quốc tế, đặc biệt là khi họ ngồi giữa các người bạn Á châu, vốn được cho là ít thành thạo tiếng Anh và hơi nhà quê với vẻ bề ngoài.) Về ý thức hệ, Philippines nằm phần lớn trong hệ Tây: lối sống Tây hóa và quan điểm chính trị-xã hội thiên phương Tây thống trị lĩnh vực công cộng Philippines. Một vài người đôi khi tự hỏi liệu quốc gia đã bị đặt nhầm chỗ trên thế giới chăng.
Tuy nhiên một cái nhìn sâu hơn về đất nước này, cho thấy một nghịch lý cơ bản: mấy thế kỷ Tây hóa đã không dẫn đến hiện đại hóa chính đáng, đồng thời nhiều năm tăng trưởng kinh tế nhanh chóng đã không mang lại sự thịnh vượng cho đại đa số người dân. Đất nước tiếp tục vẫn là một xã hội nửa phong kiến (đặc biệt là ở các khu vực nông thôn) xã hội nằm dưới sự kìm kẹp của một hình thức luẩn quẩn của chủ nghĩa tư bản bè phái. Hình thức 'bầu cử dân chủ', chẳng qua chỉ cung cấp một lớp đánh bóng thoải mái về tính hợp pháp (đối với tầng lớp cai trị) và một ảo tưởng của chủ nghĩa đồng đều trong một quốc gia sa lầy trong nghèo đói và bất bình đẳng trắng trợn.
Chủ Nghĩa Tiêu Thụ Vội Vả
Các trung tâm mua sắm chiếm ưu thế - cả về thể chất và nhận biết - cảnh quan đô thị ở Philippines. Tất cả các hệ thống giao thông công cộng chính vây quanh các trung tâm mua sắm lớn, cung cấp sự thoải mái không gì sánh được, nhiệt độ thích hợp (trong một đất nước nhiệt đới ẩm), và sở hữu dễ dàng một loạt các thương hiệu phục vụ cho tất cả các tầng lớp xã hội.
Nền văn hóa đô thị xoay quanh và được định hình bởi các trung tâm mua sắm này thường nằm gần các công ty Business Process Outsourcing (BPO) sử dụng hàng trăm ngàn yuppies (chuyên viên trẻ có lối sống dư thừa và phóng túng), những kẻ đã định hình lại lối sống đô thị Philippines. Người ta có thể tìm thấy cả hai Prada và Penshoppe (một thương hiệu quần áo địa phương) tại các trung tâm lớn, với cả tầng lớp siêu giàu và giới lao động tham gia vào một nền văn hóa chủ nghĩa tiêu thụ toàn cầu, đã chiếm gần như tất cả các nhà máy.
Nó là một hình thức kinh điển của chủ nghĩa quân bình giả tạo. (Đã từng đến thăm nhiều nước trên khắp năm châu, tôi hiếm khi gặp một sản phẩm, mà tôi không thể tìm thấy, thường là với giá tốt hơn, khi về lại Metro Manila.)
Chỉ đi vài bước người ta có thể khám phá dãy cư ốc sang trọng mới, tương tự như các trung tâm mua sắm, cung cấp một loạt các lựa chọn cho những cư dân đô thị gàu có, họ chạy theo các tiện nghi hiện đại và vị trí hoàn hảo trong một thành phố đông đúc như Manila hoặc Cebu. Các thành phố lớn trên khắp Philippines đã hầu hết chuyển đổi thành các địa điểm xây dựng, giống như sự bùng nổ xây dựng mà ta đã thấy ở những nơi như Dubai, Tehran, Moscow, và Thượng Hải trong các thập kỷ qua.
Gần đây hơn, thậm chí các thị trấn nhỏ và thành phố đặc quyền đã biến dạng thành các thị trường ngoại biên cho vài tập đoàn lớn, đã chiếm ưu thế trong lĩnh vực bất động sản và thị trường bán lẻ trong nước. Thập niên vừa qua là một trong những năm thành công nhất về lợi nhuận doanh nghiệp và cơ hội mở rộng kinh doanh cho giới cai trị đất nước, họ đã nuốt trọn phần lớn sự tăng trưởng mới được tạo ra trong nền kinh tế một cách không tương xứng.
Chậm mà chắc, Philippines đang bắt đầu trông giống như các nước tiêu dùng ố ạt như Mỹ, đã tham đắm không ngừng trong đòi hỏi ngày càng tăng đối với hàng hóa và dịch vụ dựa vào thập kỷ công nghiệp hóa mạnh mẽ, đặc biệt trong thời của Keynes và kéo dài cho đến khi cuối những năm 1970s, và vay nợ nước ngoài khổng lồ từ các nền kinh tế đặc biệt có định hướng xuất khẩu như Trung Quốc và Nhật Bản, trong thời đại tân tự do toàn cầu hóa.
Hôm nay, Philippines được mô phỏng theo phong cách tiêu thụ của Mỹ mà không qua "thung lũng nước mắt" của sự phát triển kỷ nghệ do nhà nước lãnh đạo, đề cao tiết kiệm gia đình, sản xuất hàng loạt các mặt hàng xuất khẩu giá rẻ - những yếu tố chính cho phép các nước công nghiệp hoá mới (NICs) như Hàn Quốc thoát ra được khỏi cảnh nghèo đói trong thời gian gần đây.
Ảo Tưởng Của Thịnh Vượng
Việc mở rộng nhanh đến chóng mặt lĩnh vực bất động sản của Philippines đã tiến hành đồng thời với sự vắng mặt triền miên đáng thất vọng của các cơ sở công cộng hiện đại. Hầu như không có bất kỳ khu vực công viên công cộng lớn "xanh" nào (tương đồng với Botanic Gardens của Singapore hoặc Central Park của New York), nơi mọi người Philippines từ tất cả các tầng lớp xã hội có thể thoải mái tận hưởng một cách an toàn những kỳ quan và sự thanh thản của thiên nhiên trong một đại dương đầy tắc nghẽn và ô nhiễm. Các khoảng không gian công cộng thường bị bỏ quên bởi các chính quyền hoặc bị phá hoại bởi người dân không quan tâm.
Cũng có khoảng không gian công cộng hạn chế cho sự buông thả (tinh thần và vật chất) khỏi sự hối hả và nhộn nhịp của cuộc sống hàng ngày. Nhà nước Philippines cơ bản đã giao các trách nhiệm cho các doanh nghiệp vì lợi nhuận. Và đây chính là lý do tại sao các trung tâm mua sắm đã trở thành cốt lõi của cuộc sống đô thị ở Philippines. Trong khi đó, các trung tâm mua sắm đang trên bờ vực tiêu vong ở các nước khác, đặc biệt là ở Mỹ, nơi mua sắm trực tuyến và những buổi dã ngoại đô thị đã chiếm được trái tim và tâm trí của nhiều người dân thành thị.
Philippines, định hình bởi di sản thuộc địa, đã noi theo lối sống phương Tây và lối kiến trúc đô thị. Nhưng nó đã không thực sự hiện đại hóa, ít nhất là theo nghĩa của Weber. Chúng tôi chưa thấy tổ chức nhà nước nào thực sự hợp lý, vô tư mà đứng ngoài sự bảo trợ chính trị và cá nhân. Thậm chí nhiều lĩnh vực kinh doanh lại bị chi phối bởi vài gia tộc giàu có xưa (từ thời là thuộc địa Tây Ban Nha), do đó, thực là phi lý khi nói về sự cạnh tranh "thị trường tự do".
Cơ sở hạ tầng công cộng của đất nước là một trong những điều kém phát triển nhất ở châu Á, trong khi các tổ chức giáo dục ưu tú của đất nước đã phải vật lộn để theo kịp với các đồng sự trong khu vực. Ngoài trường đại học hàng đầu của đất nước, Trường đại học Philippines, tất cả các trường đại học thượng hạng Philippines khác đã nhanh chóng tụt hậu so với các trường tương đương ở các vùng khác của châu Á và thế giới đang phát triển.
Tính hiện đại không hẳn phải là việc nói rành tiếng Anh - hoặc bất kỳ ngôn ngữ chung toàn cầu nào (global lingua franca). Nó cũng không phải là việc có trung tâm mua sắm lớn, mặc hàng hiệu toàn cầu, và rao giảng những giá trị chính trị-xã hội tự do. Đó chỉ là biểu hiện của sự hiện đại hóa, không phải là cốt lõi của nó. Tính hiện đại, trên tất cả, là về cách đặt hiệu quả, trọng dụng nhân tài và kiến thức lên trên các móc nối, bảo trợ, và truyền thống nhục nhã. Đây chính là lý do tại sao rất nhiều nước láng giềng của Philippines đã ôm chặt lấy di sản văn hóa của họ, trân quí nhiều hơn là hiện đại và thịnh vượng: Sự di động xã hội, sự thành công dựa trên công lao xứng đáng, và năng suất tri thức sâu sắc là vô cùng rõ ràng hơn ở những nơi như Đài Loan hay Hàn Quốc so với Philippines.
Quan trọng hơn, mức độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của Philippines trong những năm gần đây đã không mang lại một hình thức bình đẳng, hiện đại của chủ nghĩa tư bản, có khả năng tạo những làn sóng thịnh vượng để nâng tất cả các tàu thuyền không phân biệt giới tính, giai cấp và gốc gác chủng tộc. Dịch vụ cấp thấp và các lĩnh vực đầu cơ cao như bất động sản đang là xương sống của tăng trưởng kinh tế gần đây, với nhiều tỷ kiều hối từ lao động Philippines ở nước ngoài (OFWs) thúc đẩy tiêu dùng trong nước.
Điều thiếu vắng to lớn của sự tăng trưởng toàn diện trong nước là một phản ánh của sự vắng mặt của các cơ quan nhà nước hiện đại, có thể cung cấp hiệu quả các dịch vụ công cộng và điều tiết thị trường quá tự phụ; sự thiếu đầu tư vào ngành Nghiên cứu và Phát triển (R & D) cho toàn bộ các cơ sở giáo dục và doanh nghiệp; và nhiều thế kỷ truyền thống của nền chính trị bảo trợ, cũng như các tổ chức kinh tế phong kiến ở nông thôn, đã kềm kẹp hàng triệu người Philippines không nhận ra tiềm năng to lớn của họ.
Có lẽ đã đến lúc các tầng lớp ưu tú Philippines tái khám phá ra ý nghĩa thực sự của tính hiện đại, dân chủ và tiến bộ. Và với toàn dân, phải đấu tranh cho sự thịnh vượng chính đáng.
Richard Javad Heydarian
Người Việt Hải Ngoại - Chia Rẽ, Bế Tắc, Bài Học Đắt Giá
Cao Hữu Tâm
Kể từ sau 30-4-1975, ngừơi Việt ra hải ngọai, nhất là đến Mỹ, đã chứng kiến sự chia rẽ như chưa từng bao giờ có. Thật ra, miền Nam chúng ta đã chia rẽ từ lâu. Thời Pháp thuộc, cũng như những thời sau này. Quan sát, chúng ta thấy dân chúng hầu như hòan tòan xa lánh những họat động đảng phái chính trị. Từ thời Tây đã bị đàn áp khốc liệt. Sau 1954, niềm hy vọng cúôi cùng chỉ còn là miền Nam, được gọi là miền tự do. Song 9 năm bạo trị của Cần Lao Ngô Đình Diệm, mọi sinh họat của đảng phái chính trị hầu như không có, hoặc chìm sâu vào vòng bí mật. Ngòai hai đảng Cần Lao Ngô Đình Diệm và Phong Trào Cách Mạng Quốc gia, đất nước không bừng sống được dứơi hai đảng nói trên của ông Diệm. Ngọai trừ họat động của Trung Tâm Nhân Vị Vĩnh Long của Giám Mục Ngô Đình Thục và của miền Trung dứơi bàn tay sắt của lãnh chúa Ngô Đình Cẩn. Sau đảo chánh 1 tháng 11 năm 1963, tình báo Mỹ đã nhẩy xổm vào chính trường và điều khiển mọi chính phủ. Chính phủ nào không được CIA ủng hộ coi như bị lật đổ.
Wesley R. Fishel và Ngô Đình Diệm
Nói như thế, không phải chính quyền Ngô Đình Diệm không có bóng dáng của CIA bao phủ. Hình ảnh hai CIA gộc là ông Wesley Fishel và đại tá Edward Lansdale, đã có mặt và xâm nhập mọi sinh họat chính trị của chế độ Đệ Nhất Công Hòa, cho đến khi Mỹ lật đổ Ngô đình Diệm, qua trung gian của Hội Đồng Quân Lực, để từ đó, CIA là "kẻ cầm quyền sau ngai vàng" của các chính phủ miền Nam.
Edward Landsdale và Ngô Đình Diệm
Như đã nói, miền Nam đã chia rẽ, sang đến Mỹ lại càng chia rẽ hơn, vì đất Mỹ là đất nước của tự do ... chia rẽ. Hãy quan sát sinh họat nghị trường của Mỹ, nhất là sau vụ hai đảng Dân Chủ và Cộng Hòa chống nhau. Nhưng đó là chuyện của Mỹ, còn chúng ta nên tìm hiểu rõ hơn vế sự chia rẽ trong tập thể người Việt của chúng ta.
Trứơc hết hãy nói về Cộng đồng Việt Nam, biểu tượng đặc trưng hơn là hai bang Cali và Texas. Bất cứ nhóm nào, bè phái nào xuất hiện trước công chúng đều kêu gọi đòan kết, nhưng con ma chia rẽ không lúc nào bỏ chạy cộng đồng ta. Một năm Mỹ có một ngày Lễ Con Ma, còn chúng ta quanh năm hễ bất cứ ai xúât hiện sinh họat tập thể là gặp ngay Lễ Con Ma.. Những cộng đồng đương nhiên chia rẽ, vì nước Mỹ chủ trương đặt quyền lợi cá nhân lên trên hết. Số quần chúng ta ở hai bang nói trên đều từ 200,000 đến hơn 400,000 người, nhưng bất cứ một sinh họat tập thể nào cũng xấp xỉ hai ba trăm người. Nếu được hơn 300 ngừơi tham dự là đã coi như thành công, thành công và đại thành công! Nhưng mọi sinh họat đều vắng vẻ, vì người ta phải lo làm việc, thời giờ còn lại dành cho gia đình, và đó là ưu tư hàng đầu của mỗi gia đình ta. Hơn nữa vì là tự do, nên không ai ép được ai. Kêu gọi thì cứ kêu gọi, còn họp mặt hay không là chuyện khác.
Cái cảnh rứơc quân quốc kỳ đi vòng vòng trên sân khấu, làm ngừơi coi thấy nhàm chán. Cũng như trưng cờ vàng ba sọc hay hát quốc ca, cũng chẳng còn thu hút bao nhiêu. Vì lá cờ cũng như quốc ca đều không còn tính cách pháp lý, không được công pháp quốc tế công nhận. Vì thế, khi lên thủ phủ Austin để xin cho một tượng lính Việt Nam được để nguyên trong mô hình tượng đài, đã thất bại. Vì danh xứng chính thức của tượng đài là The Monument of the Texan Veterans, nghĩa là tượng đài của cựu chiến binh tiểu bang Texas. Không có liên hệ gì đến tượng đài đồng minh hay tượng đài Mỹ-Việt. Sự thất bại là do hoang tưởng, cứ vận động ra trứơc tiền đình nghị viện Mỹ và hát quốc ca hay trưng quốc kỳ, là đại thắng đứt đuôi con nòng nọc. Sự thất bại chua cay là do không học kinh nghiệm của nhau, mạnh ai nấy đạp ga chạy cao tốc vun vút trên xa lộ.
Ngay chính giữa các cựu quân nhân với nhau cũng đã có bíêt bao chủ tịch cộng đồng hay bíêt, bíêt bao hội cựu quân nhân, thậm chí trong khi có xích mích va chạm, đến một bà truyền thông (Nguyễn Thị Minh Ngữ) gọi các cựu quân nhân là "lũ chó chui hang". Đến nỗi một cựu thiếu tá QLVNCH lãnh làm việc bốc mộ đồng ngũ cũng bị chỉ trích châm bíêm. Cho nên, đương nhiên bất cứ một cộng đồng, tổ chức, đòan thể hay đảng phái đều rất mong manh yếu đuối, như trẻ em thiếu dinh dưỡng. Tổ chức nào có được 10 hay 15 người họat động tích cực (active members) là điều rất khó. Để chống đối một tờ báo, bên Cali đã phải huy động đến 151 cộng đồng tổ chức, đòan thể đứng ra cùng chống đối một ...tờ báo. Hơn nữa, chúng tôi đọc danh sách hội đòan lại thấy một hội của một ngừơi anh họ tôi, và chỉ có một mình anh làm hội trưởng, có tên được đăng lên báo như một chúng minh sự hợp pháp của có mặt, hay đỡ tủi hờn, nhờ có tên đăng trên báo cho là vinh dự lắm!
Trở lại chuyện Houston, một phái đòan chống Cộng lên xin gặp bà thị trưởng Annise Parker, nhưng bà thị trưởng không thèm tíêp, thật là xấu hổ, cũng chỉ vì ôm lấy những yếu tố gọi là không thức thời hay không chịu đóng góp. Ngừơi ta hỏi nếu ủy ban bảo vệ tượng đài chịu đóng góp $50,000 đô-la thì kết quả thế nào? Hay đóng góp vào quỹ tranh cử của bà thị trưởng thì kết quả cũng thế nào. Có thảm kịch bị bà thị trửơng "không thèm tíêp" không?
Nhưng vấn đề chia rẽ nặng nhất và gay gắt nhất là việc Công Giáo làm giỗ lớn cho ông Diệm. Hình như ngừơi ta đã muốn lấy xác ma của ông Diệm ra để trả thù, để giải tỏa thù hận úât ức? Nhưng nếu chỉ như thế thì quá trội nghiệp cho ông Diệm. Công giáo hay bất cứ tôn giáo nào khác cũng khép mình vào quyền lợi bè nhóm riêng của mình. Nhưng các cha Bắc kỳ Công giáo di cư đã làm như cơ hội mang xác ông Diệm ra làm lý do để "nổi đình đám" thì bóng dáng thất bại đã lù lù tíên tới. Công giáo hay bất cứ tôn giáo nào đều có tự do sinh họat riêng, nhưng lẫn lộn đạo với chính trị là trợt xúông dốc trơn nguy hiểm. Bởi vì ngay chính trong ruột Công giáo cũng đã chia rẽ trầm trọng.
Những văn thư trừng phạt một ông cha ở nhà thờ Holy Rosary, hay cha thuộc dòng Đồng Công hay cả vụ linh mục giành gái Mai Khải Hòan (Mai Triump) cũng đều do giáo quyền Mỹ quýêt định, thi hành và phổ biến. Vụ linh mục Mai-Triumph chỉ có (theo chúng tôi bíêt) chỉ có tờ Saigon Nhỏ của Hòang Dược Thảo mới dám mó d... cha trong mục "Mỗi tuần một nhân vật" còn thì những báo khác, nhất là báo đạo cuồng tín quá khích đều làm ngơ, nếu chẳng may cha leo lên bụng vợ hay con gái của họ làm thánh lễ, họ cũng cất lời ca tụng cha không phải trên các tầng trời, mà trên bụng vợ con chúng tôi..
Sự chia rẽ sẽ còn nhiều và còn lâu. Chẳng biết hết thế hệ đầu tiên, hết thế hệ các cha Bắc kỳ di cư sẽ ra sao? Hy vọng một tia sáng bên kia đừơng hầm thật mong manh. Điều mừng cho bên Phật giáo, là mỗi chùa một ông sư. Chùa nào tàn là ông sư ấy chịu, không có phe đảng bè nhóm như thần quyền Công giáo. Nhưng ở Mỹ cũng không còn, giáo quyền Mỹ cũng không tuyệt đối run sợ La Mã nữa, nhất là sau những tuyên bố nẩy lửa của Giáo Hòang Phanxicô I.
Như vậy chia rẽ, hình như là phe Công giáo múôn mượn xác ông Diệm để dọa ma. Nhưng các cha không nhìn thấy sự thất bại vì càng ngày nhóm hòai Ngô càng vơi đi, hay nhóm "Tinh thần Ngô Đình Diệm" lại chết nhátkhông biết giảng giải tinh thần ấy là gì. Vì nếu giảng giải được, kẻ víêt bài này cũng xin gia nhập nhóm tinh thần để ... hoan hô Ngô Tổng Thống!
Nhóm Giao Điểm Công Giáo Báo Mạng Houston
(Newstnet@Houston)
_______________
Bác sĩ Trần văn Tích viết trong một bài trên net là :" Ra nước ngoài là vào ngõ cụt!" Không còn gì chính xác hơn.
Gần 40 năm qua, sinh hoạt gọi chung là chống Cộng, chẳng những không có kết quả gì, mà còn giậm chân tại chỗ hay đi thụt lùi nữa. Chống Cộng không hẳn là độc quyền vinh danh Cờ Vàng, vì ai cũng làm được, ngay cả VC cũng làm được nữa! Chống Cộng bằng hát quốc ca, cũng chẳng hơn gì, và cầu xin hồn thiêng sông núi giúp đỡ cũng vẫn là bề ngoài, vì ai cũng có thể, nếu muốn, lập nên một bàn thờ tổ quốc để cầu xin!
Vấn đề là tất cả chúng ta đang ở hải ngoại, nhất là ở Mỹ. Tất cả chúng ta đều bằng nhau trên phương diện chính trị, hoặc chống Cộng, cho nên những bài trên net tố cáo VC hay VGCS đều không có ảnh hưởng gì, vì tội phạm phải theo tiêu chuẩn của luật Mỹ. Cho nên sau khi tố cáo VC hay VGCS lại chỉ còn có vu cáo chụp mũ VC hay VGCS, rồi hạ cấp xuống đến dùng những ngôn ngữ thô bỉ, làm mất tác dụng.
Bởi vậy, chẳng có cách nào để chống Cộng cho có hiệu quả. Làm sao có được sự ủng hộ của Mỹ? Làm sao tập họp được thật đông. Và nhất là có tiền để dùng vào những việc như ủng hộ ứng cử viện, dành phiếu cho họ để có thể hoạt động trong nghị trường.
Tóm lại chín voi không được một bát sáo!
Chung chung thì có những tổ chức hội đoàn hay ủy ban đặc nhiệm vv...nhưng tiếng nói hỗn loạn, sianh hoạt bết bát, quanh quẩn trong đả đảo hay chụp mũ vu cáo. Thét rồi công đồng trở thành bát nháo. Cũng không ngặc nhiên lắm, vì Cộng đồng không có quyền. Luật pháp là của Mỹ, mọi người tuân theo luật Mỹ chứ không theo luật của Cộng đồng, gọi chính danh hơn là HỘI CỘNG ĐỒNG, mà mỗi ông công đồng hay ban đại diện không có giá tị gì về việc đòi áp dụng luật tắc. Bởi vậy, khi có tiền bạc, ngoại vi sẽ choán chỗ ôm sân hết, thành ra ngoài việc bao sân, chẳng đi đến một kết quả nào. Vì không có quyền (powerless) nên không có lực (authoriy).
Những sinh hoạt mặt nổi như tờ Tự Do của bà Mạc Bích hay của Ủy Ban Đặc Nhiệm, chào đón nồng nhiệt anh hùng Lý Thối, chống ca sĩ Đàm Sĩ Hưng, đã chìm vào quên lãnh và mỉa mai sao báo và ủy ban lại có thể non nớt đến thế?
Những chức vụ cũ như đại tá, chẳng hạn đã từ lâu không gây ra được một ấn tượng, hay vị nể nào. Đừng quên luật Mỹ cho tự do dân chủ, và bảo đảm quyền sống của mọi người, chứ không phải là tuyên ngôn tuyên cáo của hội đoàn đoàn thể, hay báo chí mà từ lâu chỉ đánh võ mồm.
"Lực Lượng Chiến Sĩ VNCH San Diego" trong nghi thức Rước Quốc Quân Kỳ Việt Mỹ
Bác sĩ Trần văn Tích đã nói đúng. nhưng lời thật mất lòng, chẳng lẽ cứ "đánh gió" đến bao giờ nữa?
Còn nhớ bà Nguyễn thi Minh Ngữ gọi những ai là "chó chui hang?"
Nên nhớ vụ mấy ông quân đội lên gặp bà thị trưởng Anise Parker, nhưng đã trút lấy hổ thẹn, vì bà không thèm tiếp. Tại sao bà ấy phải tiếp, nhất là khi bà ấy không cần chống Cộng.
___________________
Bây giờ việc chống Cộng đã nhàm chán, vì bị lợi dụng bởi vu cáo chụp mũ của bọn lái báo.
Chống Cộng bằng mồm đã phản tác dụng hết hiệu quả. Một tờ báo nọ đã bị thua kiện vì chụp mũ. Cái trò mượn tay người khác làm sát thủ đã vô ích và chứng tỏ bản chất tư cách thấp lè tè không qua "ngọn cỏ" của thành phần lái báo nói lấy được, dùng ngôn luận để lèo lái trong ý đố lưu manh. Dù sao thì bản án đã công khai, muốn chống án phải đóng lệ phí phá án, không thể nói suông được. Cho nên bao giờ cũng thế, sự thật sẽ rõ ràng sau ... ngày nắng lên!
Cái trò chống Cộng dỏm, đánh võ mồm đã hết thiêng, và làm báo chống Cộng bây giờ chỉ là con tầu vét quảng cáo chống Cộng cuối mùa. Tư cách của con người chụp mũ chỉ là bọn người không còn cách nào đứng đắn nghiêm chỉnh để tranh luận, nên bị dồn vào con đường chụp mũ, mà đồng hương đã thấy nhàm và vô ích, Vu không chụp mũ CS hay VC chẳng làm ai sợ và người ta biết ngay cái tẩy nhí của con người cầm bút thiếu tư cách, hay nói cho đúng là không cao hơn ngọn cỏ của người phụ nữ.
Đã thua kiện rồi, thì phải nạp tiến kháng án, không thể nói khoác lác là chỉ là bước đầu, sẽ còn tiếp vv.... Nhưng với toà án là phải đóng tiền, không thể chửi Nguyễn Chí Thiện (NCT) cướp tên tác giả mà không có can đảm cho thấy tác gỉả nạn nhân là ai?
Không thể lấy 140 đoàn thể hay hơn tố cáobáo Người Việt (NV) VC trong đó có hội đoàn của ông anh tôi là Trung tá Lương văn Ng., con trai ông bác tôi là cụ Lương văn Tuất, trắc đia sư. Ông là chủ tích Biệt Động Quân mà chỉ có l mình ông là chủ tịch mà ông lại qua đời rồi, Thế mà bọn lái báo dám lấy người chết ra làm ma để hù doạ. Đúng là đái không cao hơn ngọn cỏ là vậy!
Muốn cấm người về VN phải có quyền. Muốn gây tiếng vang phải có thực lòng thực tâm. Ai lại đi làm lái báo mà muốn mập mờ trở thành lãnh tụ, kêu gọi la ó lung tung!. Vô duyên quá.
Thử cấm gởi tiền về VN xem kết quả ra sao? Đúng là con nỡm!
_____________________
Ở hải ngoại ai cũng nói là chống Cộng được, kể cả VC. Bởi vì, nếu chỉ trọng bề ngoài như hát quốc ca vác cờ vàng, biểu diễn quân quốc kỳ thì VC cũng làm được. bằng chứng là chúng ta thấy rất nhiều người nhận là chống Cộng, nhưng về VN gặp họ rất nhiều. Tờ Người Việt (NV) đã làm lợi ích cho tất cả, chỉ vì cứ hô hoán lên là chống Cộng rồi phách lốitự hào chống Cộng TRIỆT ĐỂ, làm như thật, đến nỗi thật giả lẫn lộn! Cụ bác sĩ Trần văn Tích (nước Đức) đã nói chống Cộng đã bế tắc rồi. Cụ mới nói đây, nhưng thật ra bế tắc cả mấy chục năm đã qua nữa.Bà chủ báo đã hoang tưởng cứ cho rằng chống Cộng là mọi người nghe theo. Nhưng họ còn phải suy nghĩ cân nhắc nữa chứ! Vì chống Cộng dỏm, hay chống thời trang về hù doạ thôi. Ai biết phân biết rõ ràng, trắng đen.
Bà chủ báo chống Cộng, sao toà án lại phạt bà về tội vu cáo chụp mũ. Đó là con đường dễ dàng thoải mái nhất cho đến tận khi toà án phán định. Nếu không xã hội sẽ hỗn loạn, chỉ cần gây thù hận để những người bị tù cải tạo oán ghét, rồi lỡ có phản ứng sắt máu bạo hành thì sao? Nhưng luật pháp Mỹ ngăn cản nọi bạo hành. Hơn nữa ngoài luật pháp nghiêm trị, còn có án toà xét xử công minh nữa. Như vụ án Người Việt (NV) và SGN.Thật rất vui mừng khi có bản án gương mẫu, cho dù phản ứng của ngôn luận ra sao. Nhưng không thể khinh thường toà án được, vì như thế là khinh thường luật pháp hay nhục mạ thẩm phán (contempt of the judge).
Báo "Người Việt" đã thắng, dư luận chung cũng đại thắng, Không thể cứ làm báo rồi muốn nói gì thì nói, muốn làm gì thì làm, mặc dù sự thật vẫn chỉ là quảng cáo kiếm ăn thôi. Còn chuyện chồng con của mỗi người là đời tư Nói đến là va chạm xúc phạm cá nhân, chẳng nên làm. Bao nhiêu năm báo chí đã được tự do nhất là lố bịch khi tưởng là có quyền hướng dẫn dư luận. Nhưng dư luận hướng dẫn báo chí thì đúng hơn. Vì hoang tưởng tư pháp lỏng lẻo nên tha hồ vu cáo chụp mũ hay nhục mạ cá nhân. Tờ Người Việt (NV) đã làm đúng bổn phận bảo vệ công luận, không chịu để cho vu cáo chụp mũ trở thành món võ thiếu lâm, loạn đả tha hồ đâm chọc.
Bản án chẳng dành riêng cho một ai, mà cho tất cả phải thận trọng khi dùng món đòn chụp mũ VC để trả thù gây oán vv ... Chúng ta chẳng những cám ơn tờ Người Việt mà còn cảm thấy một hạnh phúc lớn khi quần chúng độc giả được hiểu rõ hơn về tự do ngôn luận. Nhất là sự lợi dụng vu cáo chụp mũ rồi được thoải mái thảnh thơi. Bà SGN đã phải chịu hình phạt của tư pháp. Dư luận chung chung đã thấy, sự lợi dụng dư luận để múa gậy vườn hoang phải có giới hạn, có ngăn chặn vv ...Tại sao bà SGN lại vi phạm lạ lùng như thế. Chỉ vì trong quá khứ bà đã được tránh né, chẳng hạn như vụ NCT. Làm sao có thể tố cáo cướp đoạt thi phẩm, khi không trưng ra được tác giả không phải là NCT thì là ai chứ. Chẳng lẽ nạn nhân của tác giả thi phẩm là một kẻ vô danh. Như thế thì cáo buộc dựa vào căn bản nền tảng nào hay là cứ tố cáo loạn sà ngầu, miễn là người ta đành buông tay, nhưng vụ NV/SGN đã chứng tỏ không có sự buông tay bó tay, mà can phạm đã bị trừng phạt nặng. Trân trọng ghi ơn tờ NV, cũng như chia sẻ sự không may của tờ SGN. Dù sao thì mình làm mình chịu chứ bắt ai gánh dùm?
Sự nhỏ nhen của những việc vu cáo chống VC đã cho chúng ta một bài học quý giá. Sự thua kiện chỉ là kết quả không thể tránh được thôi. Bài học này là cho tất cả chúng ta, chưa kể việc vu cáo chụp mũ VC là man di mọi rợ, ấu trĩ, khi nghĩ kỹ bà chủ báo có thể hiểu được.
Thứ Sáu, 16 tháng 1, 2015
Di sản của sự ích kỷ
Featured Image: Thằng Bé
Tự nhiên lại cảm thấy, mình chẳng còn đứa bạn nào cả. Đứa nào cũng đang chạy đua cho một mục đích cao đẹp nào đó, đứa nào cũng bảo mình hãy làm gì đó. Mình thì nghĩ rằng, khi đã chẳng có cam kết hay động lực để làm hoàn thiện một điều gì thì tốt nhất, đừng bắt đầu nó.
Những điều mà mình đang trải qua, có lẽ đó chỉ là câu chuyện của riêng mình mà chẳng ai chia sẻ được
Câu chuyện của một đứa không thích loài người. Một đứa vì sợ, và chán mới ngồi đọc sách. Phải, mình chỉ đọc sách như thói quen, từ rất nhỏ. Khi mà sự ám ảnh trong ngôi nhà của mình và cảm giác cô độc khi không có một người bạn nào để chia sẻ thì sách – thứ lặng im ấy, thứ đang trò chuyện mà không bao giờ bắt mình phải tạo ra một mối quan hệ nào giữa mình và tác giả ấy khiến mình cảm thấy an tâm. Ít nhất, mình có thể đọc những gì tác giả viết, chê bai, tán thưởng… nhưng chẳng cần phải quen biết tác giả.
Mình không phải là một người quá cuồng nhiệt cho bất kỳ ý tưởng nào, dự án nào nhằm giải quyết những vấn đề của con người. Mình mới bắt đầu nhìn con người như con người thôi. Mình còn chẳng biết đến cái lúc nào thì mình mới thấy rằng mình mới cảm thấy có trách nhiệm, hay yêu quý, hay muốn thay đổi điều gì ở cuộc sống này.
Có điều, mình đang sống, như thể ngày mai mình sẽ xuống mồ. Người ta, khi mà sắp chết ấy, nghĩ đến điều đó, thường mơ tưởng tới những thứ xa vời, tạo ra một thứ gì đó cho cuộc đời này, một sự thay đổi, một di sản nào đó để để lại. Còn mình, chỉ nghĩ đến việc là chính mình, giải quyết vấn đề của bản thân.
Mình ghét cảm giác những người đang làm từ thiện hoặc phi chính phủ khoác lên mình tấm áo của cái đúng hay là của chính nghĩa. Chính nghĩa hay cái đúng chẳng thuộc về ai cả. Họ cũng đang bước đi với sự hoài nghi của mình, đánh đổi rất nhiều thứ của những người có liên quan cho niềm tin ấy của họ. Họ đang ích kỷ chứ. Ích kỷ thì có gì sai. Chỉ là ích kỷ theo cách này hay cách khác. Cách của mình, cho đến tận bây giờ, mình vẫn không thấy nó sai.
Là một người bình thường thôi mà. Mình chỉ muốn là một người bình thường. Nhưng mọi người mong chờ một sự “bình thường” khác mà mình không có. Tại sao lại hỏi mình đọc sách để làm gì mà không hành động. Họ thích hành động thì hành động, mình đâu ngăn cấm cũng chưa chắc đã chỉ trích. Tại sao cứ phải trình bày cho người khác biết mình nghĩ gì, tại sao cứ phải đọc sách và thay đổi thế giới. Tại sao đọc sách là để thay đổi thế giới.
Ôi, cái cụm từ tạo ra di sản mới thật là buồn cười. Tạo ra “di sản”? Cho ai? Chắc gì cái thế giới kề cận bởi những con người mới kia đã nhìn nhận những gì anh tạo ra như một sự đóng góp. Anh chỉ đang làm việc cho anh. Tạo ra con đường của anh, hy vọng những người sau sẽ tiếp tục xây cái đường đó hoặc ít nhất, đi lại trên nó chứ không bỏ phí.
Nhưng mà. Tệ thật. Viết đến đây buồn ngủ quá quên mất mình nghĩ gì rồi. Tóm lại thì dù người khác có được hưởng lợi từ anh hay không thì vẫn là anh đang thỏa mãn anh, làm việc vì lý tưởng của anh, suy nghĩ của anh. Đừng nói anh làm việc cho thế giới nữa. Anh có phải là nô lệ của thế giới đâu mà khi sinh ra đã bắt anh phải tạo ra một cái gì đó cho thế giới rồi? Chẳng biết anh nghĩ thế thì khác gì anh nghĩ là con cái thì phải làm những gì bố mẹ nói, phải nghe lời bố mẹ.
Trách nhiệm với cộng đồng được tạo ra khi anh ký một cái gì đó với thế giới này. Sao anh phải phóng đại nó lên thành cái gì đó cao vời vĩ đại thế? Chẳng qua là một bản hợp đồng đôi bên cùng có lợi.
Thằng Bé
Đồng dạng
" KHÔNG THỂ NGĂN CẤM THÔNG TIN TRÊN MẠNG XÃ HỘI" = " KHÔNG THỂ NGĂN CHẶN THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM"
Phát biểu của "Tể Tướng lưng gù" miễn bình luận
Phát biểu của "Tể Tướng lưng gù" miễn bình luận
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)