Thứ Tư, 23 tháng 7, 2014

Sự trỗi dậy của con người cá nhân


Hà Thủy Nguyên


Hamvas Béla (1897-1968) là nhà văn, nhà triết học tâm linh lớn nhất của Hungary thế kỷ 20. Hamvas Béla cùng Kerény Káoroly thành lập nhóm Đảo, một liên minh tinh thần tiếp nối truyền thống Hy Lạp cổ và thu hút được nhiều tên tuổi lớn của Hungary lúc bấy giờ. Nhưng sau ấn phẩm gồm ba tập (1935-1936), nhóm Đảo tan rã. Trong thế chiến thứ II, ông hoàn thành tập tiểu luận “Câu chuyện vô hình” (1943) khi còn đang ở ngoài chiến trận. Sau chiến tranh, Hungary sát nhập vào Liên bang Xô Viết, ông cùng Szabó Lajos và Tábor Béla thành lập nhóm tri thức cấp tiến được gọi là “Những buổi trao đổi thứ năm hằng tuần” nhằm tìm hiểu toàn bộ các vấn đề tinh thần thời đại. Mặc dù lại tiếp tục thu hút được nhiều tên tuổi lớn, nhưng đến năm 1948, tác phẩm “Cách mạng trong nghệ thuật” của ông viết chung với vợ đã bị đình chỉ vì lý do chính trị. Từ đó, ông bị tước tất cả quyền biên tập, viết và xuất bản, trở thành đối tượng theo dõi của chính quyền

Đây là bài viết kỷ niệm 117 năm ngày sinh của Hamvas Béla (23/3/1897 – 23/3/2014)

———

“Câu chuyện vô hình”, với tôi, là tập tiểu luận vĩ đại về sự trỗi dậy của Con người cá nhân. Ở trong tập tiểu luận này, chúng ta không thấy sự trỗi dậy của những cái Tôi dị biệt với những nổi loạn kỳ quái. Đây là sự nổi dậy của những tên khổng lồ đầy quyền lực khỏi cơn lũ đám đông đang tiêu diệt nhân loại. Hơn cả thế, cũng trong tác phẩm này, Hamvas Béla luận bàn về con đường của một linh hồn cần làm để quay về với vị trí thống trị của mình.

Chuyển dịch Kỷ nguyên Song Ngư sang Kỷ nguyên Bảo Bình
Mở đầu tập tiểu luận, Hamvas Béla viết về “Kỷ nguyên Bảo Bình”. Đây là một khái niệm chiêm tinh học. Nhiều nhà chiêm tinh học cho rằng Kỷ nguyên Bảo Bình bắt đầu từ quãng những năm 1960, đó là khi điểm xuân phân (ở Bắc Bán cầu) nằm ở chòm sao Bảo Bình. Quá trình điểm xuân phân nằm ở mỗi chòm sao được gọi là “aion”, có nghĩa là tháng vũ trụ và kéo dài từ 2000 đến 2500 năm, tức là khi điểm xuân phân đi hết 12 chòm sao Hoàng đạo, Trái Đất đã trải qua 26.000 năm. Trước Kỷ nguyên Bảo Bình, chúng ta đã ở trong Kỷ nguyên Song Ngư – kỷ nguyên của niềm tin tập thể.

Nếu bạn lấy thời điểm hiện nay trừ đi hơn 2000 năm trước, bạn sẽ thấy những sự kiện vĩ đại tôn vinh thần tượng của đám đông. Điển hình là sự xuất hiện của chúa Jesus. Jesus Christ là một vị thánh độc đạo, nhưng con đường của ngài đã lôi kéo một đám đông vô thức chạy theo mà không được phép hoài nghi bất cứ điều gì. Con đường ấy đã trở thành con đường của tín đồ. Một trường hợp tương tự diễn ra trước đó 500 năm ở Ấn Độ là sự ra đời của Phật giáo. Trong những tôn giáo ấy, các phẩm chất của con người cá nhân bị tiêu diệt, thay vào đó là các giá trị chung được ấn định của giáo đoàn và niềm tin mù quáng được hình thành. Rồi sau đó là Hồi giáo tiếp tục chiếm lĩnh vùng Trung Cận Đông và bắt đầu xây dựng tôn giáo của đám đông cuồng tín. Nhưng ở thời kỳ đầu này, các đức hạnh cao đẹp của Thượng Đế ẩn tàng trong con người vẫn giữ vai trò chủ đạo, dẫn dắt “bầy con chiên” và giữ con chiên trong cái khung của đạo đức. Và theo thời gian, điểm xuân phân dần dịch chuyển về phía bên kia của chòm Song Ngư, đám đông không còn chịu sự trói buộc của đức hạnh nữa mà bắt đầu nổi loạn. Sự lên ngôi của chủ nghĩa duy vật, của các phong trào đấu tranh trong suốt thế kỷ 19 và 20 là những gì có thể mường tượng về đám đông ở giai đoạn cuối của thế kỷ 20. Hamvas Béla đã bình luận về giai đoạn cuối này như sau: “Vô thức lên trên và ý thức xuống dưới. Tri thức không ở trên mà là bản năng, không phải ánh sáng mà là địa ngục, không phải thứ phát triển mà là thứ thấp kém, không phải trật tự và sự tử tế mà là sự hỗn loạn và dục vọng. Không phải thứ tư duy có ý thức mà là một thứ cặn bã và thần tượng”.

Giải thích cho hiện tượng “mông muội hóa” này, Hamvas Béla cho rằng ở cuối mỗi thời kỳ, con người cá nhân bị tan vào biển đám đông vô thức, và đó là biểu hiện của sự mông muội. Ông có một sự phân biệt rõ ràng giữa người cổ đại và người nguyên thủy. Người nguyên thủy là những dạng sống trong sự dã man và tối tăm, người cổ đại không nhất thiết là người nguyên thủy. Người nguyên thủy với Hamvas Béla, là những cặn bã của quá trình mông muội hóa, những cá nhân tan chìm trong cơn hồng thủy vô thức, còn rơi rớt lại đến ngày nay. Vậy quá trình mông muội hóa là như thế nào? Hamvas Béla sử dụng hình tượng của quá trình này là não thì ở dưới bụng còn dạ dày thì leo lên trên đầu. Đó là những gì ta đang thấy ở các tôn giáo và xã hội thế kỷ 20. Ở các tôn giáo, ý tưởng về một cõi cực lạc sung túc đang lấn át mọi giá trị thiêng liêng. Ở xã hội, giá trị vật chất của cơm ăn áo mặc đang vùi dập tinh thần. Ở trong phim ảnh của Holywood, ta có thể thấy nỗi lo sợ ám ảnh trong câu chuyện về bệnh dịch Zombie (tử thi), được mô tả như đám đông bị rút cạn linh hồn, bị thu hút bởi tiếng động và ăn thịt sống. Đó là sự điển hình hóa cho lời tiên đoán về đám đông mông muội cuối kỷ nguyên Song Ngư.

“Thiên thần, nếu sống trên trời là thần linh, nhưng nếu rơi xuống đất, biến thành quỷ. Thiên thần không tỏa ánh sáng nữa, và lửa của thiên thần biến thành núi lửa. Vô thức ở dưới, nổi lên trên sẽ biến thành ma quỷ, giống như ý thức rơi xuống dưới”. Khi Hamvas Béla viết câu này, tôi cho rằng ông muốn ám chỉ đến Satan. Satan vốn là thiên thần Lucifer, cái tên “Lucifer” có nghĩa là “thiên thần ánh sáng”. Sự nổi dậy của Lucifer khi ở Thiên Đường là một ý tưởng bất tuân của cá nhân muốn thoát khỏi sự áp đặt của toàn thế, là đại diện cho ý tưởng về ý chí tự do của chính con người. Lucifer bị đuổi khỏi Thiên Đường, trí tuệ bị ném vào địa ngục, bộ não bị đẩy xuống vị trí của dạ dày. Và trong suốt kỷ nguyên Song Ngư, Satan với trí tuệ đen tối từ địa ngục, chống lại Thượng Đế: “Bộ óc nổi loạn độc ác không khác gì cái ruột suy nghĩ. Cũng ma quái y như một cái cây rễ hướng lên trên và cành cắm xuống đất. Thiên thần bị tròng ách vào cổ cần phải biến thành quỷ sứ…”. Chúng ta, với nhạc Rock, ma túy, sự cuồng loạn, các hành vi biến thái và bạo lực… đang tôn thờ Satan, tôn thờ ánh sáng bị chìm trong bóng tối, tôn thờ sự nổi dậy của vô thức, của các lý tưởng về bình đẳng. Và đó là những gì chúng ta gọi là giải phóng của thế kỷ 19,20. Tất cả chúng ta “tan vào thành một linh hồn duy nhất trong đám đông”. Đây là những mô tả của Hamvas Béla về dám đông và vô thức tập thể: “Trong trạng thái tập thể, con người tin vào một cái gì đấy, mà bản thân nó không tin,chỉ tin một cách chung chung. Con người không là một thực thể cá nhân, nó đồn hóa nó với một cái gì đấy bằng quan điểm, bằng cảm xúc, bằng hành động, có thể đồng hóa với một vật gì đấy, hoặc có thể đồng hóa với người khác”. Nếu ai đã từng tìm hiểu về chiêm tinh sẽ nhận ra những đặc tính tiêu cực của Song Ngư ở trong đoạn mô tả này. Đó là Con người tập thể trong suốt hơn 2000 năm qua, con người của những niềm tin mù quáng (nếu có khác nhau, chỉ là các đối tượng của niềm tin).

Nguyên nhân khiến con người cứ dần tan vào đám đông đó là trạng thái “tâm lý Vi mô”. Tâm lý Vĩ mô được Hamvas Béla định nghĩa như một dạng “linh hồn hoàn toàn, mà sự nỗ lực,bản chất, mục đích, và bản năng của nó để ngày càng hoàn toàn hơn”. Còn tâm lý Vi mô là “linh hồn đứt đoạn, bản năng của nó khiến nó ngày càng bé nhỏ, thiếu hụt và trống rỗng dần. Sự hoàn hảo tinh thần của con người đó là “một linh hồn, trong đó có tất cả mọi cái cần cho nó, sự hoàn hảo, không thiếu hụt, về mọi mặt đầy đủ và hoàn chỉnh, nơi những giác quan, tri thức, tinh thần, trí tưởng tượng trực giác và tất cả những cái khác họp nhau hài hòa, tất nhiên đấy chỉ có thể là Thượng Đế”. Dù cho không thể hoàn hảo như Thượng đế, nhưng tâm lý vĩ mô ở con người dẫn dắt con người đến với Thượng Đế, và chỉ trên con đường ấy, linh hồn của chúng ta không bị xé vụn vào các đối tượng nhỏ hơn như đời sống vật chất và tôn thờ những thứ quái đản. Tâm lý Vi mô được tạo ra bởi con người không còn mong ước hoàn hảo nữa, mà hướng tinh thần mình tới những đối tượng thấp kém. Ở đây, Hamvas Béla đặc biệt nhấn mạnh đến thuyết Vật linh và tôn thờ vật tổ. Vật tổ có thể là huy hiệu, ký hiệu chung, huy chương… Thuyết vật linh có nghĩa là “con người mông muội gán linh hồn cho đồ vật, hiện tượng hay công cụ..”. Những đồ vật ấy không có linh hồn, mà chỉ là những mẩu linh hồn nhỏ bé rơi vào đồ vật, sự kiện. Và cả hai hiện tượng này đều khiến “ý thức cá nhân rơi vào sự mờ mịt, tính tập thể nổi trội lên và bao hàm”, khiến “sự vô thức hoàn toàn thay thế bản thân cái linh hồn bé nhỏ chìm trong tăm tối, và nhầm lẫn bản thân mình với các sự vật khác”.

Nếu ở đầu kỷ nguyên Song Ngư, con người chỉ bị rơi vào niềm tin tập thể thì vào những giai đoạn cuối, con người đi vào thời kỳ cặn bã bằng tôn thờ chủ nghĩa duy vật. Hamvas Béla không lập luận dựa trên khoa học thực nghiệm, nền tảng của ông là truyền thống cổ xưa của phương Tây lẫn phương Đông. Ông nhắc lại những nhận định về bản chất của vật chất do Franz Baader đưa ra, và những nhận định này lại trùng với truyền thống cổ xưa. “Vật chất xuất hiện từ hậu quả của những tàn tích đổ vỡ phân tán hỗn loạn của vũ trụ bởi những tai họa lớn trên thế giới. Ông nói, trong vũ trụ có một thiên thể duy nhất là Sirius Beta, một ngôi sao đã nguội và tắt, không ánh sáng, không nhiệt độ, một cơ thể bất động, từ đấy các nguyên tử tràn ra, chồng chất lên nhau yên nghỉ trong hỗn loạn, như trên một gò đống vĩ đại. Đấy là Sirius Beta, vật chất đầu tiên”. Và vật chất hoàn toàn khác với thiên nhiên. Thiên nhiên “là một phần khả năng tâm linh của tinh thần vũ trụ”, “tinh thần sáng tạo ra thế giới tập trung lại ở các tụ điểm như các thiên thể, Mặt Trời, các hành tinh và tất cả sự sáng tạo này trong từng phần và toàn bộ”. Một cách diễn giải thể hiện sự tương tác giữa vật chất và thiên nhiên rất thú vị, đó là: “vật chất là phân của thiên nhiên”. Chủ nghĩa duy vật cho rằng vật chất cấu thành nên vạn vật, con người, thiên nhiên… không gì khác hơn là tổ hợp vật chất. Và thế là bắt đầu của dục vọng, của phá hủy, của sự quỳ gối trước giá trị vật chất. Chủ nghĩa duy vật và đám đông tôn thờ nó, cùng với những lập luận chua cay của Hamvas Béla, lại một lần nữa khiến tôi nghĩ đến bệnh dịch Zombie của điện ảnh Holywood, một đám đông cặn bã trong tột cùng mông muội.


Tranh Luis Royo

Những người theo chủ nghĩa duy tâm luôn đề cao ý tưởng. Plato cho rằng thế giới được kiến tạo bởi các ý tưởng, nhưng khi phản chiếu lên vật chất, thì thế giới không thể hoàn hảo như ý tưởng. Quyền lực của vật chất được gọi là “evestrum”. “Ý tưởng là một hình ảnh nâng lên còn evestrum thì lôi xuống và mạt sát. Ý tưởng thì thanh tẩy và sáng láng, còn evestrum tăm tối và bẩn thỉu. Người nào sống hướng về thế giới của các ý tưởng, người đó thanh lịch, tấn tới, ngày càng hài hòa, hiểu biết, sâu sắc và thông thái hơn. Ý tưởng là chất dinh dưỡng quan trọng nhất cho tâm lý Vĩ mô.” Và đó là chuyển dịch lớn trong những năm tháng này. Con người bắt đầu chuyển từ evestrum lên thế giới ý tưởng. Đó là ý nghĩa của chòm sao Bảo Bình. Chòm Bảo Bình là đại diện cho ý tưởng, khai sáng và tính cá nhân. Kỷ nguyên Bảo Bình, là kỷ nguyên của Con người cá nhân, trỗi dậy từ biển vô thức.

Sự trỗi dậy của Con người cá nhân

Hamvas Béla viết về những Con người cá nhân như một giống người mới, giống người thứ 6, “đơn độc, họ nổi lên như những thực thể khác thường, phi lý, những người không chỉ không thể hòa nhập với môi trường và thế giới của họ, mà những điều đó còn không có chút xúc tác nào cơ bản với họ”. Đây là một bí ẩn mang tính lịch sử, chưa ai có thể giải thích, và đám đông lại càng không thể hiểu. Với đám đông, giống người thứ 6 là một dạng dị biệt cần bị tiêu diệt, hay như Albert Camus sau này đã tự gọi bằng một thuật ngữ “người lạ”. (Không rõ Albert Camus thời ấy có đọc Hamvas Béla không, hay đúng như Hamvas Béla đã cảm nhận rằng “ý tưởng này nằm trong bầu khí quyển bí hiểm của Thượng Đế”). Đám đông luôn đánh hơi thấy những người thuộc giống loài này và tìm mọi cách tra tấn, hành hạ, tiêu diệt. Những người đầu tiên của giống loài này đã bị tống vào trại tâm thần, chìm đắm trong nghiện ngập, thậm chí là tự tử. Đám đông, evestrum càng xuống thấp, càng ép giống loài này đến tuyệt diệt. Nhưng họ không tuyệt diệt, bằng cách nào đó, họ đã nghe thấy nhau và biết rằng mình không đơn độc, và bắt đầu hình thành những cộng đồng. Cuộc giao tranh không còn bằng vũ khí nữa mà bằng những lựa chọn: hoặc gia nhập đám đông vô thức, hoặc trỗi dậy và vươn tới thế giới ý tưởng, vươn tới sự Vĩ mô của Thượng Đế, lựa chọn giữa bản năng thú vật và bản năng linh hồn. Đó là cuộc chiến trong giai đoạn chuyển giao, với những người đi đầu như Nieztches, Kierkegaad,.. rất nhiều những “người lạ” khác giống như Hamvas Béla.

Không ai có thể nói trước được các đặc tính của giống loài thứ 6, chỉ có thể biết rằng đó là những “Con người Cổ đại” đã vượt qua cơn đại hồng thủy của đám đông và vươn lên. Con người Cổ đại này là thực thể bất diệt đến từ Thượng Đế, là “thể thống nhất thiên nhiên – tinh thần – linh hồn, và những ý tưởng được chọn lựa, những đặc trưng phản chiếu từ các sức mạnh siêu nhiên điều khiển sự tồn tại của nó”. Ta chỉ có thể mường tự về giống người thứ 6 như thực thể vĩnh hằng này và hơn thế nữa.

Con người Cổ đại là bản chất sâu kín nhất của con người, và ở giống loài thứ 6, con người này được hé lộ. Trong chương “Wordsworth hay triết học xanh”, “Poseidon” và “Bản giao hưởng số VII của Beethoven và không gian siêu hình âm nhạc” là những chương đẹp nhất mô tả thực thể vĩnh hằng này. Hamvas Béla gọi thực thể vĩnh hằng, linh hồn đầu tiên, bằng cái tên: “Titan” – “chỉ MỘT. Sâu vô tận, đơn giản vô tận, câm lặng, tối sẫm, vô cùng bình thản và cô đơn tuyệt đối” và “thiên nhiên là thế giới cao nhất, thứ nó có thể được”. Thiên nhiên không nằm bên ngoài Titan, mà nằm ngay bên trong, hòa làm một, không phân chia giới tính, là phần vô hình. Và Hamvas Béla nói: “Thật ra trong cái vô hình, tất cả đều gắn bó với nhau”.

LINH HỒN ĐẦU TIÊN, Con người Cổ đại, thực thể vĩnh hằng, là “ngọn lửa đầu tiên, ngọn lửa màu xanh”. Hamvas Béla cho rằng, màu của Titan là màu xanh non, màu của sự sống trên mặt đất, màu không giới tính và cái màu có thể ăn mòn mọi thứ. Ông dẫn ra mối liên hệ của màu xanh non với Venus. Venus cổ đại không phải vị thần của nhan sắc, đó là vị thần của sinh sôi nảy nở sống trong rừng sâu. “Tử thư Tây Tạng” cũng khẳng định màu xanh non là “màu của bản năng quyền lực”, “nguyên vẹn, không thể phá vỡ nổi và đậm đặc, không hể dạy dỗ và không thể thuần phục”. Nhưng tại sao Hamvas Béla lại gọi dạng tồn tại vĩ đại này là Titan. Trong Thần thoại Hy Lạp, Titan là những vị thần cổ xưa nhất, khổng lồ, mạnh mẽ, bất tử, phi nhân tính, và bị các vị thần Olympia nhốt dưới đáy địa ngục Tarta. Với Hamvas Béla, đây là một ẩn dụ, ông cho rằng: “Tất cả chúng ta đều mang trong mình một gã khổng lồ bị xích, một titan rơi xuống và bị giam cầm trong vô thức. Bởi tất cả chúng ta đều giữ gìn trong bản thân mình bản năng quyền lực sơ khai không thể khuất phục”. Cũng giống như các vị Titan cổ xưa, những con người phát lộ LINH HỒN ĐẦU TIÊN đều “tuyệt vời và cao cả, cùng lúc cũng là thứ vô lương tâm. Vừa giống các vị thần vừa là quái vật. Hoàn toàn chỉ có sự cao cả, cái đẹp, sức mạnh và sự tàn ác”.

Khác với các linh hồn sau đó, LINH HỒN ĐẦU TIÊN không truy cầu trí tuệ hay tình yêu. Chỉ khi tương tác với thế giới bên ngoài, con người mới cần đến trí tuệ để nhận biết và tình yêu để hòa hợp. Vơi sự đơn độc tuyệt đối và tính duy nhất của mình, bản chất của Titan chỉ gắn với niềm hạnh phúc. Con người luôn tìm mọi cách để hạnh phúc nhưng đều không thể. Tiền bạc, địa vị, ái tình thậm chí là tàn sát cả thế giới, chúng ta chỉ có nụ cười đắc chí mà không có hạnh phúc. Hạnh phúc chỉ có được ở trạng thái của của LINH HỒN ĐẦU TIÊN, bản ngã nguyên thủy, không có giới hạn, độc nhất nhưng vẫn liên kết vô hình với vạn vật, bởi Titan ở trong Thiên nhiên và đồng thời cũng chứa đựng Thiên nhiên.

Bản năng quyền lực của Titan được thể hiện qua Poseidon – vị thần trị vì thành phố Atlantis, theo như tài liệu của Plato để lại. Không giống thần thoại Hy Lạp, cổ xưa hơn, Poseidon tồn tại như một vị thần rừng với cái tên Nere. Hamvas Béla cho rằng Poseidon đã thống trị thế giới trước Zeus, bởi dấu vết cổ xưa nhất: cây đinh ba. Cây đinh ba là biểu tượng của quyền lực có thể điều khiển được vạn vật, với ba mũi nhọn chĩa lên, tượng trưng cho Sáng Tạo – Duy Trì – Hủy Diệt. Hơn thế nữa, cây đinh ba giống như chiếc dương vật dựng đứng. Từ xa xưa, trước cả thời đạo Phật, có một văn bản phương Đông có tên là “Nền tảng của sự thật cao cả”, đã bắt đầu bằng những câu:

“Để tính cách cao cả của mi
chiến thắng
những kiêu căng ngạo mạn của các loài thực thể hoang dã
hãy đặt lên vai mi bộ lông thú dữ
và nắm lấy cây đinh ba
biểu tượng của mục đích cao cả”

Hamvas Béla đã nhắc đến rất nhiều trong tập tiểu luận những tượng trưng có từ chiêm tinh học. Sao Neptune, hành tinh mang đặc tính của Poseidon, được đánh dấu bằng cây đinh ba, và nó đại diện cho các ảo tưởng và cũng là lý tưởng. Poseidon là vị thần điên rồ, như những rừng cây mọc lên không giới hạn, như biển cả ào thét và sâu thẳm. Mặc dù Poseidon được mô tả như một kẻ dã man, hoang sơ, đẫm máu, nhưng Hamvas Béla lại thốt lên rằng: “Có hay không một kẻ đáng thương hại hơn, kẻ không biết kính trọng sự khùng điên, trò chơi, nỗi tức tối, cũng như tiếng cười giòn giã của một Poseidon lông lá xồm xoàm? Có kẻ nào đáng tội nghiệp hơn Trái đất, kẻ không biết đùa nghịch với nước, không biết lang thang vơ vẩn hàng nửa ngày trời trong rừng sâu, và hơi thở không tắc nghẹn lại giữa lồng ngực khi nghe tiếng xào xạc mơn man của vòm cây lá? Kẻ chưa bao giờ bắt gặp những lọn tóc nâu tím trong bóng râm của rừng cây và trên những phiến đá cạnh biển?” Một kẻ điên rồ đáng ngưỡng mộ như vậy lại sở hữu công cụ điều khiển thế gian. Chiếc đinh ba của Poseidon làm dậy sóng biển, tượng trưng cho sự kích động dòng máu trong con người, kích động phần bị đè nén trong bóng tối vô thức. Chiếc đinh ba khơi dậy những ảo giác (mà thực ra có thể không đơn thuần là ảo giác), đó là những nguyên mẫu cổ: thần tiên, ma quỷ, nhân mã, tiên biển…v…v… tất cả những phần của thiên nhiên ẩn giấu trong con người. “Poseidon tiêu diệt tất cả những gì mà trong đó con người tưởng mình đã cân bằng, làm suy sụp toàn bộ những gì trong đó con người tưởng mình đã đạt đến đích” và “Kẻ nào rất tự tin vào bản thân, kẻ đó sẽ bị Poseidon dúi xuống biển”. Trong đời sống cổ xưa của biển cả và rừng núi, cái đẹp không cần biết đến, Poseidon không có nhu cầu cái đẹp, chỉ có một sự kích động điên rồ lên thế giới. Cây đinh ba của Poseidon đã quấy động cái trật tự của cuộc sống con người đô thị, khiến con người nhớ rằng có một Titan trong mình, và vấn đề chỉ là Titan ấy có trỗi dậy hay không?

Trong chương “Tu viện đá Meteóra”, ông có nhắc đến những kẻ đơn độc trong tu viện cheo leo, tách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài, nguyện cầu, chay tịnh, thực hiện mọi dạng phép thuật, chẳng qua cũng chỉ để sống sót. Những kẻ đơn độc này tránh xa đám đông, tránh xa sự xâm lấn của thiên nhiên, tránh xa cái chết. Họ sống mấy trăm năm, và Hamvas Béla ví họ như những thằng lùn xấu xí, nhảy múa vòng quanh chính mình. Cũng là sự cô độc, nhưng sự cô độc hèn nhát này khác hoàn toàn với cô độc của Titan. Thậm chí Titan không quan tâm đến sống và chết, Titan chỉ có sự mở rộng không giới hạn. Để nhận ra phẩm chất của Titan, chỉ có thể mường tượng về niềm hạnh phúc lớn lao khi Wordsworth cô độc đắm chìm giữa thiên nhiên, về quyền lực mạnh mẽ của Milarepa và sự điên rồ, vỡ òa trong âm nhạc Beethoven.

Khi LINH HỒN ĐẦU TIÊN – Titan bắt đầu trỗi dậy từ địa ngục Tarta, trỗi dậy khỏi đám đông và vươn lên không ngừng bằng sức mạnh vĩ đại, con người bắt đầu gia nhập vào giống người thứ 6 và bước đi trên hành trình phi nhân loại, bằng tâm lý vĩ mô với bản năng tìm kiếm Thượng Đế. Qúa trình đi trên con đường ấy, con người đang thực hiện phép thuật, hay một ngôn ngữ khác “thuật giả kim tinh thần” (cách gọi của Osho).



Yoga – phép thuật – LINH HỒN CUỐI CÙNG

“Mọi thành phần của thế gian đều có thể trở thành tôn giáo, điều cơ bản là hãy trở thành một tôn giáo đúng nghĩa: trong sạch, cao quý, sáng láng, thực chất và Thượng Đế”. Giống như mọi bậc chứng ngộ của cả phương Tây và phương Đông, Hamvas Béla nhận ra rằng phép thuật vĩ đại có ở mọi hành động mang tính sáng tạo và chuyển hóa. Thông qua phép thuật và yoga, chúng ta đang đi trên con đường tôn giáo của chính mình. Nhưng đừng hiểu phép thuật và yoga theo nghĩa thông thường.

Trước hết, ta phải hiểu về tâm linh, bởi Hamvas Béla không đơn thuần chỉ là nhà duy tâm, ông là một nhà triết học tâm linh. Hamvas Béla định nghĩa: “Còn có một cái gì nhìn ra được của cái khác, sâu sắc hơn, bản chất hơn, bí ẩn hơn, một trải nghiệm, một cảm nhận, một sự thể hiện ra ngoài. Tâm linh từ một mặt khác nhận ra, trải qua và thấu hiểu được cái không nhìn thấy. Mặt không nhìn thấy, mặt vô hình này người ta gọi là tri thức. Bởi tri thức nằm bên trong, dấu kín trong sự vật, ẩn sâu trong hiện tượng. Con mắt tâm linh nhìn thấy tri thức của hiện thực, nhìn thấy ý nghĩa của hiện tượng, nhìn thấy, đằng sau vật chất là tinh thần, đằng sau thể xác là linh hồn. Nhưng cái nhìn tâm linh có thể nhận ra từ cái khác nữa. Bởi tâm linh không chỉ là nhận ra mà còn là tri thức… Con mắt có khả năng tâm linh nhìn thấy một lúc toàn thể thế giới, thống nhất và trong MỘT, ở nơi tất cả là MỘT. Như vậy nếu ai hỏi tâm linh( misztika) là gì, cần phải trả lời: là khả năng nhìn thấy, trải qua và hiểu được vào sâu thẳm, ẩn dấu đằng sau sự đa dạng vô tận của thế giới, đấy là cái DUY NHẤT MỘT của số nhiều.” Đây là định nghĩa đúng đắn nhất về tâm linh. Tâm linh không phải là cái mơ hồ ẩn giấu được mã hóa bằng các ảo giác. Đó chỉ là những mảnh vụn của tâm linh. Nói ngắn gọn, ta có thể hiểu, tâm linh là tri thức về vũ trụ toàn thể.

Phép thuật chỉ có thể được thực hiện khi có sự hiểu biết của tâm linh, nhưng phép thuật không chỉ là tri thức, phép thuật là hành động tác động lên sự vật. Và bởi thế, mọi sự vật bị biến đổi, đều là dấu vết của phép thuật. Leonard di Vinci khi tạo ra những cỗ máy từ vật chất, ông đang thực hiện phép thuật theo dạng của mình. Thượng Đế thực hiện phép thuật qua việc sáng tạo và thiết lập vũ trụ theo một trật tự ẩn vừa hài hòa vừa hỗn độn.

Có một phần của Titan cũng rất thú vị, đó là Sirene. Sirene, trong truyền thuyết là những nàng tiên biển, sử dụng giọng hát của mình để mê hoặc thủy thủ. Sirene là một dạng nữ tính của Titan. Quyền lực của Titan nằm ở sức mạnh, quyền lực của Sirene nằm ở sự quyến rũ. Titan và Sirene có thể được coi như 2 nguyên mẫu cổ, đại diện cho đàn ông và đàn bà. “Sự quyến rũ là sức mạnh của đàn bà, cũng như sức mạnh là sự quyến rũ của đàn ông”. Nhưng tất cả sự bản nguyên này đều khiến con người vượt quá giới hạn, vì dù là Sirene hay Titan, thì các thực thể này không biết đến sự dừng lại. Câu chuyện của Lucifer là câu chuyện của Titan muốn vượt qua giới hạn của mình. Milarepa đã vượt qua giới hạn bằng sự trả thù, Beethoven khi chạm tới giới hạn phải trả giá bằng hành động điên rồ: chọc thủng đôi tai của mình.

Trong chiêm tinh học, có một hành tinh chỉ sự giới hạn, đó là sao Thổ – Saturn. Saturn có biểu tượng như cái ách. Điều này giống với cách hiểu của Hamvas Béla về yoga. Yoga là con đường khổ tu, là sự cầm cương bản năng mãnh liệt của Titan. Khi Beethoven chọc thủng màng nhĩ của mình, đắm chìm trong thế giới âm thanh nội tại, ông đang thực hiện yoga của chính mình. Nhưng phẩm chất của Yoga thể hiện rõ nhất qua con đường khổ tu của Milarepa.

Milarepa là một bậc thầy phép thuật hắc ám, bản chất Titan đầy ứ trong ông và thôi thúc ông tàn sát. Nhưng khi bước vào con đường tu hành đích thực, bậc thầy Marpa – Đấng chuyển hóa vĩ đại, đã bắt ông hết ngày này sang ngày khác, xây nhà rồi lại gỡ từng phiến đá bê về vị trí cũ của nó. Milarepa sau đó vào hang núi sâu sống một mình giữa băng giá và chỉ có ăn tầm gai để sống. Milarepa không giống những tên lùn trên núi cao trốn chạy cái chết, bằng sự khổ hạnh, ông đối mặt với cái chết. Trong những ngày tháng đó, bản chất Titan của ông trỗi dậy với quyền lực và sức mạnh, ông có thể hoàn toàn tạo ra lửa trong cơ thể để sưởi ấm. Nhưng như thế là sử dụng phép thuật hắc ám, phép thuật vụ lợi. Bởi thế, ông đã không sử dụng phép thuật, ông chấp nhận chịu đựng trong sự khổ hạnh, chấp nhận cái chết có thể đến bất cứ lúc nào. Và trong yoga khổ hạnh, ông đã được giải thoát, thinh nhẹ và bay lượn. Ngay cả khi biết mình sẽ bị đầu độc, ông vẫn chấp nhận mình bị đầu độc. Yoga vĩ đại là yoga khổ hạnh, nhưng có thể chuyển hóa được tinh thần.

Sự khổ hạnh chỉ là cái vẻ bề ngoài, bản chất đích thực của Yoga, nói như Hamvas Béla, là “sự phá sản”. Kẻ cuồng tín sẽ tức điên khi ông so sánh yoga với tục Hannibal – những kẻ ăn thịt người, giữa việc bị đóng đinh trên cây thập giá với nghi lễ đẫm máu của thổ dân da đỏ. Tục Hannibal hay nghi lễ dùng roi quất lên nhau cho tứa máu, tất cả đều tượng trưng cho sự hành hạ, hủy hoại thể xác. Đức Jesus bị đóng đinh trên cây thập giá cũng vậy, ông chấp nhận điều này không trốn chạy, mặc kệ cả lời dụ dỗ của quỷ dữ. Đó là sự chấp nhận cái chết hoàn toàn. Yoga là một sự tự hành hạ bên trong, những đòn roi và móng vuốt của quỷ dữ cào cấu chỉ ở sâu thẳm bên trong, và sự bình thản cũng diễn ra bên trong. Một trong các bài tập ở tu viện Tây Tạng, đó là vị Đại Lạt Ma đọc những câu thần chú triệu hồi quỷ dữ, bao trùm lên tâm trí của đệ tử. Và cuộc chiến bên trong bắt đầu, nơi con người nhận ra “sự phá sản” chính là tha thứ lớn nhất của Thượng Đế, của đấng GIỚI HẠN: “Sự phá sản là việc bước qua giới hạn, là sự chết đi có ý thức. Con người lãnh cái chết vào bản thân bằng sự tỉnh táo toàn diện của ý thức. Không ngất lịm, không suy sụp, không trốn chạy, không thu mình lại và không gào thét. Ý thức hoàn toàn tỉnh táo, như một tấm gương, không hề run rẩy khi con người bước qua. Đấy là sự phá sản.”

Cũng trong chương “Milarepa”, Hamvas Béla khẳng định phép thuật tối cao nhất: Tình yêu thương. Tình yêu thương là sự vô bờ bến, nó không đối nghịch với phẩm chất Titan, nó là dạng tiến hóa cao nhất, khi con người đạt đến giới hạn và tan biến, nghĩa chết hoàn toàn, hiến dâng toàn bộ cho Thượng Đế, cho tồn tại. Trong cái chết này, chúng ta đạt đến LINH HỒN CUỐI CÙNG – Linh hồn Thượng Đế. Đó là ý nghĩa khi Đức Phật nhập vào Niết Bàn – cõi vĩnh hằng, khi Jesus nói rằng “Ta cũng hoàn hảo như cha ta ở trên trời”. Họ đều trải qua cái chết thiêng liêng. Tình yêu thương là cái chết thiêng liêng, nơi cái Tôi hoàn toàn biến mất, Titan hòa lẫn vào toàn thể. Đừng nhầm cái Toàn thể vĩ đại này với những mảnh vụn rời rạc, cặn bã, rác rưởi của đám đông. Đám đông không phải toàn thể, mà chỉ là một phần. Và bằng tình yêu thương, con người mới có thể vượt lên trên đám đông mà không thù hằn hay tàn sát, chịu đựng mọi đòn roi của số phận để có thể nói “Có” với Toàn thể.

Thượng Đế đau khổ và Con đường thiêng liêng

“Chúng ta không mang lại quyền lực tốt đẹp lành mạnh cho các hành tinh khác như sao Một, mang sự xung đột như sao Hỏa, sự thống nhất như sao Vệ Nữ. Cái chúng ta mang cho các hành tinh: Thượng Đế đau khổ. Đấy là ý nghĩa tượng trưng của chúng ta. Từ đằng xa họ gọi tên chúng ta như thế, và tên của chúng ta có lẽ chỉ những kẻ nhập định có quyền xướn lên, để sự thần bí nói về những bí ẩn của một đời sống, thứ đời sống chúng ta trải nghiệm”

Sự đau khổ, dường như là món quà của Thượng Đế dành cho con người chúng ta. Trải nghiệm đau khổ này, chính là việc trải nghiệm đòn roi của đám phù thủy trong nghi lễ của người da đỏ, là chịu đựng sự cắn xé của những kẻ Hannibal, là trải qua những móng vuốt của quỷ dữ ở sâu thẳm bên trong, “như Heraclite nói rằng Vũ trụ bảo vệ chúng ta bằng roi vọt”. Trong sự hành hạ ấy, chúng ta thức tỉnh, chúng ta nhìn thấy được ngay cả Địa Ngục cũng thiêng liêng, và chúng ta đang bước trên con đường của Thượng Đế, đang khai sinh ra LINH HỒN CUỐI CÙNG.

“Đời là bể khổ”, Đức Phật đã nói vậy, nhưng “Quay đầu là bờ”, không có ý nghĩa như một sự đầu hàng, “quay đầu” là sự quay lại bên trong, quay lại với điều thiêng liêng và cao cả, thay vì đồng nhất mình trong bể khổ và chết chìm trong đó. Ở cõi thế gian, các chính trị gia, các nhà sáng chế, các học giả… tất cả quay cuồng trong bể khổ, tìm mọi cách để chống lại điều này, và tự cho mình là bậc cứu thế vĩ đại. Phần Titan ngớ ngẩn trong họ muốn dắt con người vượt qua giới hạn và trốn chạy đau khổ. Trong tất cả những con người của thế gian hiện nay, với Hamvas Béla, chỉ có thi sĩ còn đảm nhiệm vai trò thiêng liêng này: nhắc nhở con người về sự cao cả. (Thi sĩ thiêng liêng không giới hạn ở người làm thơ, nói rộng hơn, đó là nghệ thuật câu từ)

Hamvas Béla nói về sự thoái lui của các nhân vật vĩ đại. Họ thoái lui, bởi đám đông lên ngôi. Đám đông không còn đi theo sự dẫn dắt của thần tượng, đám đông bắt đầu trèo lên cao hơn. Đám đông tự cho rằng những mảnh vụn cặn bã có thể học để trở thành tu sĩ, trở thành lãnh tụ, trở thành vua chúa, thậm chí học để trở thành thi sĩ thiêng liêng. Tất cả những điều thiêng liêng, không thể học một cách hữu hình bằng các kỹ năng. Những người vĩ đại đều thoái lui, các ngôi đền đều bị đốt cháy bởi trí não vô thần của đám đông (dường như đám đông không chỉ có chung một linh hồn, mà còn có chung một bộ não), chỉ còn Thi sĩ là ở lại và rêu rao với nhân loại về sự thiêng liêng, về điều vĩnh hằng một cách đầy cảm hứng. Bởi là kẻ cuối cùng còn sót lại, nên thi sĩ gánh lên mình tất cả trách nhiệm của những nhân vật đã thoái lui: “Từ giây phút trong cái vòng tròn thiêng liêng ấy chỉ còn duy nhất THI SĨ sót lại, bắt buộc đảm nhận quyền lực của vua chúa, đảm nhận phẩm chất của giới quý tộc, thói quen nghi lễ của linh mục, bản năng chiến đấu của người quân nhân, tri thức về sự thật của quan tòa, nỗi say mê ngây ngất của nghệ sĩ, của nhà bác học – từ giây phút ấy nhà thơ vượt hẳn tầm vóc của nhà thơ”. Trước đó, người ta quan niệm thơ ca chỉ là sự diễn đạt hay thể hiện một điều gì đó, rồi kết luận “nhà thơ là kẻ từng trải và là kẻ đi chắt lọc”, hay “thi ca là một nhân tố văn hóa, giống như luật, tôn giáo, nghệ thuật và tư duy”, và “thơ ca là một thăng hoa thụ động của sự diễn đạt, kết quả phẩm chất tâm lý, sự trải nghiệm, sự chắt lọc, của nhân tốt tạo ra văn hóa”. Nhưng đúng như Hamvas Béla nhận định về những kẻ lý luận dốt nát về thơ ca, của “đám đông cố hiểu nhà thơ” và sự ghen tị cố kéo nhà thơ xuống ngang tầm với mình, thậm chí coi những nhà thơ chẳng bận tâm đến việc kiếm sống là những kẻ điên rồ ngớ ngẩn.

Từ cuối thế kỷ 19, ở Châu Âu, giới học giả đã có những nhóm người tách khỏi đám đông, và họ bắt đầu nhận thức được tầm quan trọng của thơ ca. Nhóm Stefan George cho rằng nhiệm vụ của nhà thơ là “Phục vụ và thống trị”, phục vụ Thượng Đế và thống trị cái đẹp, tất cả là để bảo vệ “Vương quốc vĩnh cửu” – trung tâm sự sống của con người. Trước đó, Goethe, Schiller, Holderlin đều đã nắm giữ vị trí này với các cương vị khác nhau. Đến Baudelaire, nhà thơ không chỉ gánh vác từng ấy trách nhiệm, mà còn có một trách nhiệm nữa, mà còn là sự “giữ gìn hình ảnh tượng trưng xứng đáng với con người, hình ảnh này đang bị bỏ rơi và biến mất”. Nhưng quan hệ của nhà thơ và đám đông dân chúng thật chẳng dễ dàng gì. Một sự xung đột mang tính quy luật, evestrum sẽ tìm mọi cách để lôi tuột những con người thiêng liêng rơi xuống đáy cùng với nó. Đám đông luôn tiêu diệt nhà thơ bằng mọi cách: sỉ nhục, bôi nhọ, giam hãm… Và nhà thơ bắt buộc phải bảo vệ mình bằng sự bí ẩn tới mức không thể hiểu được. Buồn cuời ở chỗ là, sự ẩn mình của nhà thơ, cái áo giáp của hiệp sĩ linh thiêng lại trở thành con đường cách tân hình thức của những kẻ học đòi. Vấn đề ở chỗ, mọi sự tấn công của đám đông lại chính là đòn roi của thế giới khổ đau, lĩnh nhận chúng và hiến tế mình cho điều thiêng liêng, thơ ca qua đó mà tuôn chảy, LINH HỒN CUỐI CÙNG cũng qua đó mà hiển lộ. Và đây là nhiệm vụ của nhà thơ linh thiêng: “Phục vụ quyền lực chưa đủ, cần phải nắm giữ lấy những quyền lực đó. Chưa đủ chỉ sống từng trải trong thế giới, cần phải tạo ra thế giới nữa. Sự sống thiêng liêng dành cho con nười không chỉ mở mà luôn cần phải mở tiếp. Và cái tôi phải trả giá cho nó không ít, chính là bản thân tôi: tôi cần phải hiến dâng. Nhưng chỉ hiến dâng tôi không đủ, sự hi sinh cũng vẫn ít: bằng sức mạnh của ngôn từ tôi cần mở rộng sự siêu phàm.”

Nhóm George đã nhận ra rằng, “số phận của nhà thơ chính là nhóm”, đó là sự tạo dựng cộng đồng. Hiểu theo một nghĩa rộng hơn, những người thuộc giống loài thứ 6 phải cố kết thành một cộng đồng. Ở những thế kỷ trước, khi các cá nhân này xuất hiện đơn lẻ, họ đã bị tiêu diệt. Nguyên tắc căn bản của Cộng đồng này, chính là Tình bạn. Hamvas Béla đã dành hẳn một chương để nói về điều này.

Trong chiêm tinh học, có hẳn một khu vực của Tình bạn, nhà số 11, sánh ngang với Tình yêu, Sự nghiệp, Sở hữu, Sự hiến dâng, Sự chuyển hóa… Nhà số 11 được quản trị bởi chòm sao Bảo Bình, chòm sao của ý tưởng và sự khai sáng. Trong thần thoại Hi Lạp, một nữ thần ít được nhắc đến, nữ thần Phillia, nữ thần tình bạn, chịu trách nhiệm về sự cố kết cộng đồng. Đừng nhầm lẫn tình bạn với một sự tụ tập, cũng không phải tình yêu, không phải thiết chế, không phải đồng môn, không phải đồng bọn, cũng không phải đồng bào. Trong nhiều thế kỷ, tình bạn bị lãng quên, thậm chí bị cho rằng là sản phẩm của nhân tạo. Nhưng nếu nhìn lại những truyền thống cổ xưa của đàn ông (theo như Hamvas Béla dẫn), đó là tổ chức các chiến binh, các hiệp sĩ thánh chiến, các hội ái hữu… Tình bạn có trong đó và là cột trụ gìn giữ mọi cộng đồng ấy.

Ta có thể mô tả thế nào về tình bạn, Hamvas Béla đã đưa ra định nghĩa: “Có một quan hệ khó hiểu giữa tình bạn và các vì tinh tú. Tại sao ngôi sao lại là một người bạn? Tại sao người bạn lại là một ngôi sao? Bởi vì sao rất xa mà vẫn cứ lấp lánh sáng trong ta. Bời vì bạn là của ta mà vẫn không thể với tới? Bời vì không gian ta gặp gỡ nhau không thuộc về con người, mà thuộc về vũ trụ? Bởi bạn không đòi hỏi từ ta cũng như ta không đòi hỏi từ bạn bất cứ cái gì? Chỉ duy nhất một điều bạn hãy cứ là bạn, như ta hãy cứ là ta, và điều này đối với cả hai ta đều quá đầy đủ”. Còn gì đẹp đẽ hơn thế! Một cộng đồng trong đó chúng ta vẫn là chính mình và an toàn để thể hiện tất cả, từ LINH HỒN ĐẦU TIÊN hoang dã cho đến LINH HỒN CUỐI CÙNG thiêng liêng.



Điều này hoàn toàn trái ngược với Tình yêu nam nữ. Ngay sau chương Tình bạn, Hamvas Béla luận về tình yêu thông qua những bức thư còn sót lại từ thời Trung Cổ của Heloise và Abélard. Nếu ở trong Cộng đồng với tình bạn, bản chất vẫn bị giữ, thì trong mối quan hệ tình yêu nam nữ, hai linh hồn không đối xứng như người ta lầm tưởng, hai linh hồn hòa làm một.

Hamvas Béla phải thú nhận sự khó hiểu của đàn bà. Ông không chấp nhận cách định nghĩa về đàn bà trước đó. Đàn bà không chỉ là Eva (người vợ), Lilith (nữ quỷ đẫm máu) hay Sophia (trinh nữ). Một nguyên mẫu cổ xưa hơn thế: Sirene. Hãy mường tượng những mô tả về loài tiên biển: quyến rũ nhưng độc ác, đẹp đẽ nhưng đưa đàn ông tới cõi chết. “Chính vì vậy, đàn bà có thể trở nên hết sức tinh tế cũng như hết sức thô tục, có thể trở nên hết sức cao quý những cũng có thể hết sức trụy lạc”. Hành động cởi áo và tắm của đàn bà trước đêm tân hôn, không chỉ đơn thuần là gợi dục, đó là một nghi lễ mang tính tôn giáo, khi đàn bà cởi bỏ những lớp vỏ bọc bên ngoài, để khơi dậy Sirene ở bên trong mình. Bằng việc để Titan và Sirene hòa làm một, tình dục được chuyển hóa thành tình yêu. Tình yêu, Hamvas Béla nhận thức rằng, đó là sự hòa lẫn của LINH HỒN THƯỢNG ĐẾ với LINH HỒN THƯỢNG ĐẾ.

Tôi chợt nhớ đến câu thần chú Namasté trong các nghi thức Tantra. Tantra là thông qua giao phối tình dục, đôi nam nữ đánh thức phần Thượng Đế bên trong mình và hòa làm một. Namasté có nghĩa là:

“Linh hồn của ta tôn vinh linh hồn của người

Ta tôn vinh khoảng không bên trong người, nơi toàn bộ vũ trụ trú ngự trong đó

Ta tôn vinh tình yêu, ánh sáng, sự thật, sự bình an ở bên trong người bởi vì điều đó cũng ở bên trong ta

Bằng việc chia sẻ điều này, chúng ta hợp nhất, chúng ta giống nhau, chúng ta là một”

Bởi thế, hôn nhân đến từ tình yêu đích thực, giống như Heloise và Abélard, chính là con đường đến với Thượng Đế, cũng giống như yoga, thơ ca, âm nhạc. Nhưng điều này có lẽ quá hiếm hoi. Vì nàng Sophia có thể đã bay lên Thiên Đường, và Adam chỉ nhận được cái phần xác thịt, đó chính là Eva. Và bởi thế, đời vẫn là đau khổ, giống như tất cả các tôn giáo, các triết gia, nhà thơ đã nhắc đi nhắc lại.

Chương cuối “Ngày lễ và Cộng đồng” có lẽ là lời lý giải hoàn hảo cho toàn bộ những gì mà Hamvas Béla đang làm trong tập tiểu luận này, và cả những tác phẩm khác của ông. Trong đó, ông kể về 4 nhà thông thái lên Thiên Đường: một người đã chết ngay trước cổng Thiên Đường, một người hóa điên, một người “tự khóa trái ấn tượng này cho bản thân”, chỉ có người thứ tư là rời bỏ Thiên Đường và quay trở về với cộng đồng của mình. (Cộng đồng ở đây có nghĩa rộng hơn so với Cộng đồng nhóm được nhắc ở trên). Trải nghiệm Thiên Đường là trải nghiệm hạnh phúc, đứng trước hạnh phúc có nhiều người không thể chịu nổi. Hạnh phúc là đặc ân chỉ của Titan, những người nào sống đúng với phẩm chất Titan của mình thì mới thẩm thấu được hạnh phúc. Nhưng Titan là kẻ ích kỷ, người thứ ba tự trốn trong hạnh phúc của chính mình và mãi ở dạng LINH HỒN ĐẦU TIÊN. Chỉ có người thứ tư, hiểu rằng cần phải hiến dâng, và người đó ra đi, để mang ánh sáng Thiên đường đến với cộng đồng của ông ta. Nhưng vấn đề ở chỗ, đôi khi áp đặt hạnh phúc của mình lên Cộng đồng lại chính là một dạng bạo lực kiểu Titan. Hiến dâng cho Cộng đồng thật không đơn giản, không giống như tất cả các lãnh tụ tôn giáo, các chính trị gia và triết gia rao giảng lý tưởng về hạnh phúc… Làm thế nào để đánh thức một Cộng đồng đang bị vô thức chiếm lĩnh mà không cần đến sự lừa mị hay cưỡng chế. Chỉ có là Tình yêu thương, nhưng điều đó không cố để có được. Tình yêu thương chỉ có trong LINH HỒN CUỐI CÙNG và chỉ LINH HỒN CUỐI CÙNG mới có tình yêu thương đích thực.

Điểm đặc biệt ở phần này nằm ở định nghĩa về “Cộng đồng” của Hamvas Béla. Ông không cho rằng một cộng đồng người đáng được gọi là “Cộng đồng”: “Cộng đồng duy nhất – độc nhất chỉ tồn tại trong một sự sống mà sự hiến dâng mở ra dành cho con người: cao hơn sự sống người. Sự sống chung của tất cả mỗi con người không nằm trong vật chất, trong tinh thần, trong tôn giáo hay đạo đức, mà nằm trong Thượng Đế. Nếu con người gặp nhau trong vật chất, trong đạo đức, trong chủng loài, trong tinh thần thì ngôn ngữ, vật chất, nhà nước, tinh thần sẽ tan rã, cộng đồng sẽ chất dứt. Sự tan hòa sau rốt chỉ có thể trong sự sống của Thượng Đế. Đấy mới là một cộng đồng chân chính. Duy nhất. Đấy là: cộng đồng”. Với cách hiểu này, ta có thể thấy rằng bất cứ sinh linh nào sống với nhau trong tính toàn thể của Thượng Đế, nơi đó cộng đồng được tạo dựng. Bởi thế, khi giống người thứ 6 xuất hiện, Cộng đồng đích thực bắt đầu được tạo dựng. Ở đó, tính Thượng Đế được thể hiện qua mọi hành động của ngày thường nhật, và ngày lễ là ngày của hiến dâng. “Ngày lễ là cộng đồng của tất cả con người trong sự sống Thượng Đế nơi con người chỉ có thể đạt tới bằng hiến dâng cái tôi của nó.” Điều này tương đồng với kinh Veda, khi các bậc chứng ngộ cổ xưa viết: “Cả vũ trụ này là một cuộc hiến tế lớn”.

Đi đâu để tìm Cộng đồng này? Trong khi những gì chúng ta nhìn thấy trên thế giới này chỉ là những cộng đồng giả vờ, là sự tập hợp của những cái Tôi bạo lực (Bạo lực có thể đến bằng nhiều cách, không chỉ có chém giết). Đó là ý nghĩa của Khải huyền. Cộng đồng đích thực chỉ có từ những LINH HỒN CUỐI CÙNG ở THỜI GIAN CUỐI CÙNG. Và có lẽ, chúng ta chẳng cần thiết phải sợ hãi ngày tận thế đến vậy.



“Câu chuyện vô hình & Đảo”của Hamvas Béla (Dịch giả: Nguyễn Hồng Nhung), do Nhà xuất bản Tri Thức phát hành vào năm 2012.

Đi tìm cái tôi đã mất


PĐTT : Nguyễn khải là một nhà văn tôi luôn kính trọng. Khi đọc " Đi tìm cái tôi đã mất" tôi thật sự thích thú. Ông đã mạnh dạn nói lên sự thật và với tôi sự thật vốn không có đúng sai!
Con người luôn luôn đi tìm cái tôi của mình và  để tìm sự giải thoát.
Tìm được cái tôi rồi thì sao? Nền văn minh phương Tây, xã hội phương tây luôn đề cao cái tôi cá nhân, từ bản ngã họ đi đến " tư ngã" và bế tắc. Phương Đông thì ngược lại, con người đi tìm bản ngả của mình để " diệt ngã", hướng đến "vô ngã" và đó là sự giải thoát. 
 Tùy bút của ông có giá trị lịch sử nhất định, giá trị về sự thật, tuy nhiên ông cũng không thoát ra được cái " tư ngã" của chính ông
———-

Nhà văn Nguyễn Khải

Thứ Ba, 22 tháng 7, 2014

Giáo dục đích thực

J. KRISHNAMURTI
Education and the Significance of Life
Lời dịch: Ông Không

CHƯƠNG II

LOẠI GIÁO DỤC ĐÚNG ĐẮN





Người dốt nát không là người không có học thức, nhưng anh ấy là người không hiểu rõ về chính anh ấy, và người có học thức là người dốt nát khi anh ấy phụ thuộc vào những quyển sách, vào sự hiểu biết và vào uy quyền để trao cho anh ấy sự hiểu rõ. Sự hiểu rõ hiện diện chỉ qua hiểu rõ về chính mình, mà là nhận biết được qui trình tổng thể thuộc tâm lý của người ta. Vì vậy, giáo dục, trong ý nghĩa thực sự của nó, là hiểu rõ về chính người ta, bởi vì chính là phía bên trong mỗi người chúng ta mà tổng thể của sự tồn tại được tập hợp.

Hiện nay điều gì chúng ta gọi là giáo dục chỉ là một vấn đề của tích lũy thông tin và hiểu biết từ những quyển sách, mà bất kỳ người nào biết đọc đều có thể làm được. Giáo dục như thế cống hiến một hình thức tinh tế của tẩu thoát khỏi chính chúng ta và, giống như tất cả những tẩu thoát, chắc chắn nó tạo ra sự đau khổ chồng chất. Sự xung đột và hỗn loạn sinh ra từ sự liên hệ sai lầm riêng của chúng ta với những con người, những sự vật và những ý tưởng, và nếu chúng ta không hiểu rõ sự liên hệ đó và thay đổi nó, thuần túy học hành, thâu lượm những dữ kiện, và kiếm được những kỹ năng khác nhau, chỉ có thể dẫn đến sự hỗn loạn và hủy diệt sâu thẳm.

Như hiện nay xã hội được tổ chức, chúng ta đưa con cái đến trường để học hành kỹ thuật nào đó và cuối cùng nhờ vào đó chúng có thể kiếm sống. Ưu tiên nhất, chúng ta muốn biến đứa trẻ thành một người chuyên môn, hy vọng nhờ đó cho em một vị trí an toàn thuộc kinh tế. Nhưng liệu sự vun đắp của một kỹ thuật có thể giúp đỡ chúng ta hiểu rõ về chính chúng ta?

Chắc chắn trong khi rất cần thiết phải biết đọc và biết viết, và học hành ngành kỹ sư hay nghề nghiệp nào đó, liệu kỹ thuật sẽ trao tặng chúng ta khả năng để hiểu rõ sống? Rõ ràng, kỹ thuật là thứ phụ; và nếu kỹ thuật là việc duy nhất mà chúng ta đang cố gắng, chắc chắn chúng ta đang chối từ cái gì đó mà là phần vĩ đại hơn của sống.

Sống là đau khổ, hân hoan, vẻ đẹp, xấu xí, tình yêu, và khi chúng ta hiểu rõ nó như một tổng thể, tại mọi mức độ, sự hiểu rõ đó sáng tạo kỹ thuật riêng của nó. Nhưng điều ngược lại không đúng thực: kỹ thuật không bao giờ có thể mang lại sự hiểu rõ sáng tạo.

Giáo dục hiện nay đã thất bại hoàn toàn bởi vì nó đã quá nhấn mạnh vào kỹ thuật. Trong quá nhấn mạnh vào kỹ thuật, chúng ta hủy diệt con người. Vun đắp khả năng và hiệu quả mà không hiểu rõ về sống, mà không có một nhận biết tổng thể về những phương cách của sự suy nghĩ và sự ham muốn, sẽ chỉ khiến cho chúng ta trở thành tàn nhẫn thêm, mà là gây ra chiến tranh và hủy hoại sự an toàn thuộc thân thể của chúng ta. Sự vun đắp loại trừ của kỹ thuật đã sản sinh những người khoa học, những người toán học, những người xây dựng cầu cống, những người chinh phục không gian; nhưng liệu họ hiểu rõ sự tiến hành tổng thể của sự sống? Liệu có bất kỳ người chuyên môn nào trải nghiệm sự sống như một tổng thể? Chỉ khi nào anh ấy không còn là một người chuyên môn.

Sự tiến bộ thuộc công nghệ có giải quyết những loại vấn đề nào đó cho những người nào đó tại một mức độ, nhưng nó lại tạo ra những vấn đề sâu thẳm hơn và nghiêm trọng hơn. Sống tại một mức độ, không quan tâm đến sự tiến hành tổng thể của sự sống, là mời mọc sự đau khổ và sự thoái hóa. Sự đòi hỏi cốt lõi và vấn đề cấp bách nhất cho mỗi cá thể là phải có một hiểu rõ tổng thể về sự sống, mà sẽ giúp đỡ anh ấy có thể gặp gỡ những phức tạp luôn gia tăng của nó.

Sự hiểu biết công nghệ, dù cần thiết ra sao, sẽ không thể giải quyết những áp lực và những xung đột bên trong, thuộc tâm lý của chúng ta; và do bởi chúng ta đã thâu lượm sự hiểu biết công nghệ mà không hiểu rõ sự tiến hành tổng thể của sống nên công nghệ đã trở thành một phương tiện hủy diệt chúng ta. Cái người mà biết làm thế nào để tách rời nguyên tử nhưng không có tình yêu trong quả tim của anh ấy trở thành một quái vật.

Chúng ta chọn lựa một nghề nghiệp tùy theo những khả năng của chúng ta; nhưng liệu sự theo đuổi một nghề nghiệp khiến cho chúng ta thoát khỏi sự xung đột và hỗn loạn? Hình thức đào tạo kỹ thuật nào đó có vẻ cần thiết; nhưng khi chúng ta đã trở thành những kỹ sư, những người vật lý, những người kế toán – tiếp theo cái gì? Liệu sự thực hành một nghề nghiệp là sự thành tựu của sống? Với hầu hết chúng ta, rõ ràng nó là như thế. Những nghề nghiệp khác nhau của chúng ta có lẽ khiến cho chúng ta bận tâm phần lớn sống của chúng ta; nhưng chính những vật dụng mà chúng ta sản xuất và quá mê đắm đang gây ra sự hủy diệt và đau khổ. Những thái độ và những giá trị của chúng ta khiến cho những nghề nghiệp và những vật dụng đó trở thành những dụng cụ của ganh tị, cay đắng và hận thù.

Nếu không hiểu rõ về chính chúng ta, nghề nghiệp thuần túy chỉ dẫn đến sự tuyệt vọng, cùng những tẩu thoát không thể tránh khỏi của nó qua tất cả mọi loại hoạt động ranh mãnh. Kỹ thuật mà không có sự hiểu rõ chỉ dẫn đến thù địch và nhẫn tâm, mà chúng ta che đậy nó bằng những từ ngữ du dương. Nhấn mạnh kỹ thuật và trở thành những thực thể hiệu quả có giá trị gì nếu kết quả là sự hủy diệt lẫn nhau? Sự tiến bộ công nghệ của chúng ta là kỳ diệu, nhưng nó chỉ gia tăng những quyền hành để hủy diệt lẫn nhau của chúng ta, và có nạn đói lẫn đau khổ trong mọi mảnh đất. Chúng ta không là những con người hạnh phúc và hòa bình.

Khi chức năng là quan trọng nhất, sống trở thành tối tăm và nhàm chán, một thói quen máy móc và cằn cỗi và thế là chúng ta tẩu thoát vào loại giải trí nào đó. Sự tích lũy của những dữ kiện và sự phát triển của khả năng, mà chúng ta gọi là giáo dục, đã tước đoạt chúng ta khỏi sự phong phú của sống và hành động tổng thể. Do bởi chúng ta không hiểu rõ sự tiến hành tổng thể của sự sống nên chúng ta mới bám vào khả năng và hiệu quả, mà vì vậy đảm đương sự quan trọng nhất. Nhưng cái tổng thể không thể được hiểu rõ qua cái bộ phận; nó có thể được hiểu rõ chỉ qua hành động và trải nghiệm.

Một nhân tố khác trong sự vun đắp của kỹ thuật là nó trao tặng chúng ta một ý thức của an toàn, không chỉ thuộc kinh tế, nhưng còn cả thuộc tâm lý nữa. Nó làm yên tâm khi biết rằng chúng ta có khả năng và hiệu quả. Biết rằng chúng ta có thể chơi đàn dương cầm hay xây dựng một căn nhà cho chúng ta một cảm thấy của sức sống, của sự độc lập hung hăng; nhưng nhấn mạnh vào khả năng bởi vì một ham muốn cho an toàn thuộc tâm lý là khước từ sự phong phú của sự sống. Nội dung tổng thể của sự sống không bao giờ có thể được hoạch định trước, nó phải được trải nghiệm mới mẻ lại từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc; nhưng chúng ta sợ hãi cái không biết được, và thế là chúng ta tự thiết lập cho chính chúng ta những khu vực thuộc tâm lý của sự an toàn trong hình thức của những hệ thống, những kỹ thuật và những niềm tin. Chừng nào chúng ta còn đang tìm kiếm sự an toàn phía bên trong, sự tiến hành tổng thể của sống không thể được hiểu rõ.

Loại giáo dục đúng đắn, trong khi khuyến khích sự học hành một kỹ thuật, nên thành tựu cái gì đó mà quan trọng nhiều lắm: nó nên khuyến khích con người trải nghiệm sự tiến hành tổng thể của sự sống. Chính là đang trải nghiệm này sẽ giúp cho khả năng và kỹ thuật được đặt vào vị trí đúng đắn của chúng. Nếu người ta thực sự có điều gì đó để nói, chính đang nói về nó sáng tạo kiểu cách riêng của nó; nhưng học hành một kiểu cách mà không trải nghiệm bên trong chỉ có thể dẫn đến sự giả tạo.

Khắp thế giới, những kỹ sư đang điên cuồng thiết kế những máy móc mà không cần đến con người điều khiển chúng. Trong một sống hầu như vận hành toàn bộ bởi những cái máy, những con người sẽ trở thành cái gì? Chúng ta sẽ có càng lúc càng nhiều nhàn rỗi hơn mà không biết tận dụng nó như thế nào một cách thông minh, và chúng ta sẽ tìm kiếm sự tẩu thoát qua hiểu biết, qua những vui chơi hèn hạ, hay qua những lý tưởng.

Tôi tin rằng vô số sách đã được viết về những lý tưởng giáo dục, tuy nhiên chúng ta lại hoang mang nhiều hơn chưa bao giờ trước kia. Không có phương pháp để giáo dục một đứa trẻ sống hợp nhất và tự do. Chừng nào chúng ta còn quan tâm đến những nguyên tắc, những lý tưởng và những phương pháp, chúng ta không đang giúp đỡ cá thể được tự do khỏi hoạt động tự cho mình là trung tâm riêng của anh ấy cùng tất cả những sợ hãi và những xung đột của nó.

Những lý tưởng và những bản thiết kế cho một nơi Không tưởng hoàn hảo sẽ không bao giờ tạo ra sự thay đổi cơ bản của quả tim, mà là cốt lõi nếu muốn có một kết thúc cho chiến tranh và sự hủy diệt toàn cầu. Những lý tưởng không thể thay đổi những giá trị hiện nay của chúng ta: chúng có thể được thay đổi chỉ bằng loại giáo dục đúng đắn, mà là ấp ủ sự hiểu rõ về cái gì là.

Khi chúng ta đang làm việc cùng nhau cho một lý tưởng, cho tương lai, chúng ta định hình những cá thể tùy theo ý tưởng của chúng ta về tương lai đó; chúng ta không quan tâm đến con người nhưng lại quan tâm đến ý tưởng của chúng ta về họ nên là gì. Nên là gì này trở thành quan trọng đối với chúng ta hơn là cái gì là, mà là cá thể cùng những phức tạp của anh ấy. Nếu chúng ta bắt đầu hiểu rõ cá thể một cách trực tiếp thay vì quan sát anh ấy qua bức màn của chúng ta suy nghĩ anh ấy nên là gì, vậy thì chúng ta quan tâm đến cái gì là. Vậy thì, chúng ta không còn muốn thay đổi cá thể thành cái gì khác nữa; quan tâm duy nhất của chúng ta là giúp đỡ anh ấy hiểu rõ về chính anh ấy, và trong việc này không có động cơ hay kiếm được thuộc cá nhân. Nếu chúng ta hoàn toàn nhận biết cái gì là, chúng ta sẽ hiểu rõ nó và thế là được tự do khỏi nó; nhưng muốn nhận biết chúng ta là gì, chúng ta phải không còn nỗ lực vì cái gì đó mà chúng ta không là.

Những lý tưởng không có vị trí trong giáo dục bởi vì chúng ngăn cản sự hiểu rõ về hiện tại. Chắc chắn, chúng ta có thể nhận biết cái gì là chỉ khi nào chúng ta không tẩu thoát vào tương lai. Hướng tới tương lai, nỗ lực vì một lý tưởng, thể hiện sự trì trệ của cái trí và một ham muốn để lẩn trốn hiện tại.

Sự theo đuổi của một Không tưởng được thiết kế không là một phủ nhận của sự tự do và sự hợp nhất của cá thể, hay sao? Khi người ta tuân theo một lý tưởng, một khuôn mẫu, khi người ta có một công thức cho cái gì nên là, liệu người ta không sống một sống tự động, rất giả tạo, hay sao? Chúng ta cần, không phải những người lý tưởng hay những thực thể có một cái trí máy móc, nhưng những con người tổng thể mà thông minh và tự do. Chỉ có một bản thiết kế cho một xã hội hoàn hảo là tranh luận và đấu tranh cho cái gì nên là trong khi bỏ quên cái gì là.

Nếu những con người là những thực thể máy móc, những cái máy tự động, vậy thì tương lai sẽ có thể tiên đoán được và những kế hoạch cho một Không tưởng hoàn hảo có thể được thiết kế; vậy thì chúng ta sẽ có thể lập kế hoạch cẩn thận về một xã hội tương lai và làm việc hướng về nó. Nhưng những con người không là những cái máy để được định hình tùy theo một khuôn mẫu được xác định.

Giữa lúc này và tương lai có một khoảng trống vô biên mà trong đó những ảnh hưởng đang vận hành vào mỗi người chúng ta, và trong hy sinh hiện tại cho tương lai chúng ta đang theo đuổi một phương tiện sai lầm đến một kết thúc đúng đắn. Nhưng phương tiện khẳng định kết thúc; và ngoài ra, chúng ta là ai để quyết định con người nên là gì? Dựa vào uy quyền nào mà chúng ta tìm kiếm để đúc khuôn anh ấy tùy theo một khuôn mẫu đặc biệt, được học hành từ những quyển sách nào đó hay được khẳng định bởi những tham vọng, những hy vọng và những sợ hãi riêng của chúng ta?

Loại giáo dục đúng đắn không quan tâm đến bất kỳ học thuyết nào, dù nó có lẽ hứa hẹn một Không tưởng tương lai ra sao: nó không được đặt nền tảng trên bất kỳ hệ thống nào, dù được suy nghĩ tỉ mỉ ra sao. Nó cũng không là một phương tiện của quy định cá thể trong cách đặc biệt nào đó. Giáo dục trong ý nghĩa thực sự đang giúp đỡ cá thể chín chắn và tự do, nở hoa trọn vẹn trong tình yêu và tốt lành. Đó là điều gì chúng ta nên quan tâm, và không phải quan tâm đến định hình đứa trẻ tùy theo khuôn mẫu lý tưởng nào đó.

Bất kỳ phương pháp nào mà phân loại đứa trẻ tùy theo tánh nết và năng khiếu chỉ nhấn mạnh những khác biệt của chúng; nó nuôi dưỡng sự thù hận, khuyến khích những phân chia trong xã hội và không giúp đỡ phát triển những con người tổng thể. Chắc chắn rằng không có bất kỳ phương pháp hay hệ thống nào có thể trao tặng loại giáo dục đúng đắn, và sự trung thành nghiêm ngặt vào một phương pháp đặc biệt thể hiện sự trì trệ về phía người giáo dục. Chừng nào giáo dục còn được đặt nền tảng trên những nguyên tắc cũ kỹ, nó có thể sản sinh những người đàn ông hay phụ nữ hiệu quả, nhưng nó không thể sản sinh những con người sáng tạo.

Chỉ tình yêu có thể tạo ra sự hiểu rõ về một người khác. Nơi nào có tình yêu liền có sự hiệp thông tức khắc cùng người còn lại, trên cùng mức độ và tại cùng thời điểm. Do bởi chính chúng ta quá khô khan, trống rỗng, và không có tình yêu nên chúng ta đã cho phép chính phủ và những hệ thống đảm đương sự giáo dục con cái của chúng ta và sự định hướng những sống của chúng ta; nhưng những chính phủ muốn những chuyên viên hiệu quả, không phải những con người, bởi vì những con người trở thành nguy hiểm đối với những chính phủ – và cũng cả đối với những tôn giáo có tổ chức nữa. Đó là lý do tại sao những chính phủ và những tôn giáo có tổ chức tìm kiếm để kiểm soát sự giáo dục.

Sự sống không thể bị chuyển thành tuân phục vào một hệ thống, nó không thể bị ép buộc vào một cái khung dù được tưởng tượng cao cả biết chừng nào; và một cái trí chỉ được đào tạo trong sự hiểu biết thuộc sự kiện không thể gặp gỡ sự sống cùng sự đa dạng của nó, sự tinh tế của nó, những chiều sâu và những chiều cao của nó. Khi chúng ta đào tạo con cái của chúng ta tùy theo một phương pháp của sự suy nghĩ hay một môn học đặc biệt, khi chúng ta dạy bảo các em suy nghĩ phía bên trong những phân chia thuộc bộ phận, chúng ta cản trở các em không phát triển thành những con người tổng thể, và thế là các em không thể suy nghĩ một cách thông minh, mà là gặp gỡ sự sống như một tổng thể.

Chức năng tột đỉnh của sự giáo dục là sáng tạo một cá thể hợp nhất mà có thể hiệp thông cùng sự sống như một tổng thể. Những người lý tưởng, giống như những người chuyên môn, không quan tâm đến tổng thể, nhưng chỉ quan tâm đến một bộ phận. Không thể có sự hợp nhất nếu người ta còn đang theo đuổi một khuôn mẫu lý tưởng của hành động; và hầu hết những giáo viên mà là những người lý tưởng đã gạt bỏ tình yêu, họ có những cái trí cằn cỗi và những quả tim khô khan. Muốn học hành về một đứa trẻ, người ta phải tỉnh táo, cảnh giác, tự nhận biết, và việc này cần đến tình yêu và thông minh còn to tát hơn là khuyến khích đứa trẻ tuân phục một lý tưởng.

Một chức năng khác của giáo dục là sáng tạo những giá trị mới mẻ. Chỉ gieo trồng những giá trị đang tồn tại trong cái trí của đứa trẻ, khiến cho em tuân phục vào những lý tưởng, là quy định em mà không thức dậy sự thông minh của em. Sự giáo dục liên quan mật thiết đến sự khủng hoảng hiện nay của thế giới, và người giáo dục mà thấy những nguyên nhân của sự hỗn loạn toàn cầu này nên tự hỏi chính anh ấy làm thế nào để thức dậy sự thông minh trong em học sinh, do đó giúp đỡ thế hệ kế tiếp không tạo ra sự xung đột và thảm họa thêm nữa. Anh ấy phải trao tất cả sự suy nghĩ của anh ấy, tất cả tình yêu và sự chăm sóc của anh ấy đến sự sáng tạo của môi trường đúng đắn và đến sự phát triển của hiểu rõ, để cho khi đứa trẻ lớn lên em sẽ có thể giải đáp thông minh những vấn đề của con người mà em gặp phải. Nhưng muốn thực hiện việc này, người giáo dục phải tự hiểu rõ về chính anh ấy thay vì ỷ lại vào những học thuyết, những hệ thống và những niềm tin.

Chúng ta hãy đừng suy nghĩ dựa vào những nguyên tắc và những lý tưởng, nhưng hãy quan tâm đến những sự việc như chúng là; bởi vì do bởi sự quan tâm đến cái gì là mới thức dậy sự thông minh, và sự thông minh của người giáo dục còn quan trọng hơn sự hiểu biết của anh ấy về một phương pháp giáo dục mới. Khi người ta tuân theo một phương pháp, thậm chí nếu nó được suy nghĩ kỹ càng bởi một con người thông minh và ân cần, phương pháp đó trở nên rất quan trọng, và các em chỉ quan trọng khi chúng phù hợp trong nó. Người ta đo lường và phân loại đứa trẻ, và tiếp theo tiến tới để giáo dục em ấy tùy theo bảng phân loại nào đó. Qui trình giáo dục này có lẽ tiện lợi cho người giáo viên, nhưng không sự thực hành của một hệ thống nào và cũng không sự độc đoán của quan điểm và học hành nào có thể tạo ra một con người hợp nhất.

Loại giáo dục đúng đắn cốt ở sự hiểu rõ đứa trẻ như em ấy là mà không áp đặt vào em ấy một lý tưởng của cái gì chúng ta nghĩ em ấy nên là. Bao bọc em ấy trong cái khung của một lý tưởng là khuyến khích em ấy tuân phục, mà nuôi dưỡng sự sợ hãi và sản sinh trong em một xung đột liên tục giữa cái gì em ấy là và cái gì em ấy nên là; và tất cả những xung đột bên trong đều có những thể hiện bên ngoài của chúng trong xã hội. Những lý tưởng là một cản trở thực sự cho sự hiểu rõ của chúng ta về đứa trẻ và cho sự hiểu rõ của đứa trẻ về chính em.

Một phụ huynh thực sự mong muốn hiểu rõ người con không quan sát em qua bức màn của một lý tưởng. Nếu anh ấy thương yêu đứa trẻ, anh ấy nhìn ngắm em, anh ấy học hành những tánh nết của em, những tâm trạng và những khuynh hướng của em. Chỉ khi nào người ta cảm thấy không có tình yêu cho đứa trẻ thì người ta mới áp đặt vào em ấy một lý tưởng, bởi vì lúc đó chính những tham vọng của người ta đang cố gắng thành tựu nơi em, đang muốn em trở thành người này hay người kia. Nếu người ta thương yêu, không phải lý tưởng, nhưng đứa trẻ, vậy thì có thể giúp đỡ em hiểu rõ về chính em như em là.

Ví dụ, nếu một đứa trẻ nói dối, có ích lợi gì đâu khi đặt trước em lý tưởng của sự thật? Người ta phải tìm ra tại sao em đang nói dối. Muốn giúp đỡ đứa trẻ, người ta phải dành ra thời gian để học hành và quan sát em, mà đòi hỏi sự kiên nhẫn, tình yêu và ân cần; nhưng khi người ta không có tình yêu, không có sự hiểu rõ, vậy thì người ta ép buộc em vào một khuôn mẫu của hành động mà chúng ta gọi là lý tưởng.

Những lý tưởng là một tẩu thoát thuận tiện, và giáo viên mà tuân theo chúng không thể hiểu rõ những em học sinh và tiếp xúc cùng các em một cách thông minh; đối với anh ấy, lý tưởng tương lai, cái gì nên là, còn quan trọng hơn đứa trẻ hiện tại. Sự theo đuổi một lý tưởng loại trừ tình yêu, và nếu không có tình yêu không vấn đề nào của con người có thể được giải quyết.

Nếu giáo viên thuộc loại đúng đắn, anh ấy sẽ không phụ thuộc vào một phương pháp, nhưng sẽ học hành mỗi học sinh riêng biệt. Trong sự liên hệ của chúng ta cùng những em học sinh và những người trẻ tuổi, chúng ta không đang giao du với những dụng cụ máy móc mà có thể được sửa chữa mau lẹ, nhưng với những con người đang sống mà dễ bị ảnh hưởng, hay thay đổi, nhạy cảm, sợ sệt, dễ xúc động; và muốn tiếp xúc các em, chúng ta phải có sự hiểu rõ vô hạn, sức mạnh của kiên nhẫn và tình yêu. Khi chúng ta không có những thứ này, chúng ta nương nhờ những chữa trị dễ dàng và nhanh chóng và hy vọng có những kết quả tuyệt vời và tự động. Nếu chúng ta không tỉnh táo, cứ máy móc trong những thái độ và những hành động của chúng ta; chúng ta đấu tranh hèn nhát với bất kỳ đòi hỏi nào – mà đang cản trở và không thể được gặp gỡ bởi một phản ứng tự động – bắt buộc chúng ta phải thực hiện, và đây là một trong những khó khăn chính của chúng ta trong giáo dục.

Đứa trẻ là kết quả của cả quá khứ lẫn hiện tại và vì vậy đã bị quy định sẵn. Nếu chúng ta chuyển tải nền quá khứ của chúng ta sang em ấy, chúng ta tiếp tục cả tình trạng bị quy định riêng của em lẫn của chúng ta. Có sự thay đổi cơ bản chỉ khi nào chúng ta hiểu rõ tình trạng bị quy định riêng của chúng ta và được tự do khỏi nó. Bàn luận điều gì nên là loại giáo dục đúng đắn trong khi chính chúng ta bị quy định là hoàn toàn vô lý.

Trong khi đứa trẻ còn bé, dĩ nhiên chúng ta phải bảo vệ em không bị hư hại phần thân thể và giúp đỡ em không cảm thấy bất an phần thân thể, nhưng bất hạnh thay chúng ta không ngừng lại ở đó; chúng ta muốn định hình những cách suy nghĩ và cảm thấy của em, chúng ta muốn đúc khuôn em tùy theo những khao khát và những ý định riêng của chúng ta. Chúng ta tìm kiếm để thành tựu chính chúng ta trong những đứa trẻ của chúng ta, để tiếp tục chính chúng ta qua các em. Chúng ta dựng lên những bức tường quanh các em, quy định chúng bởi những niềm tin và những học thuyết, những sợ hãi và những hy vọng – và sau đó chúng ta khóc lóc và cầu nguyện khi các em bị giết chết hay tàn phế trong những chiến tranh, hay nếu không thì khiến cho các em phải chịu đựng đau khổ bởi những trải nghiệm của sống.

Những trải nghiệm như thế không tạo ra sự tự do; ngược lại, chúng củng cố ý muốn của cái tôi. Cái tôi được tạo thành bởi một chuỗi những phản ứng bành trướng và phòng vệ, và sự thành tựu của nó luôn luôn ở trong những chiếu rọi và những đồng hóa gây thỏa mãn riêng của nó. Chừng nào chúng ta còn diễn giải trải nghiệm dựa vào cái ngã, ‘cái tôi’ và ‘cái của tôi,’ chừng nào ‘cái tôi,’ cái vị kỷ, còn tự duy trì chính nó qua những phản ứng của nó, trải nghiệm không thể được tự do khỏi xung đột, hỗn loạn và đau khổ. Sự tự do hiện diện chỉ khi nào người ta hiểu rõ những phương cách của cái tôi, người trải nghiệm. Chỉ khi nào cái tôi, cùng những phản ứng tích lũy của nó, không là người trải nghiệm, trải nghiệm đó đảm nhận một ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn và trở thành sự sáng tạo.

Nếu chúng ta muốn giúp đỡ đứa trẻ được tự do khỏi những phương cách của cái tôi, mà gây ra quá nhiều đau khổ, vậy thì mỗi người chúng ta nên khởi sự thay đổi sâu thẳm thái độ và sự liên hệ của anh ấy với đứa trẻ. Những phụ huynh và những người giáo dục, qua sự suy nghĩ và cách cư xử riêng của họ, có thể giúp đỡ đứa trẻ được tự do và nở hoa trong tình yêu và tốt lành.

Sự giáo dục như hiện nay nó là, không cách nào khuyến khích sự hiểu rõ về những khuynh hướng được thừa hưởng và những ảnh hưởng môi trường mà quy định cái trí và quả tim và nuôi dưỡng sự sợ hãi, và vì vậy nó không giúp đỡ chúng ta phá vỡ những quy định này và sáng tạo một con người hợp nhất. Bất kỳ hình thức nào của sự giáo dục mà liên quan đến một bộ phận và không phải đến tổng thể của con người chắc chắn đều dẫn đến sự xung đột và đau khổ chồng chất.

Chỉ trong sự tự do cá thể thì tình yêu và tốt lành mới có thể nở hoa; và loại giáo dục đúng đắn, một mình nó, có thể trao tặng sự tự do này. Sự tuân phục vào xã hội hiện nay cũng như sự hứa hẹn của một Không tưởng tương lai không bao giờ có thể trao tặng cho cá thể sự thấu triệt đó mà nếu không có nó anh ấy liên tục đang tạo ra những vấn đề.

Loại người giáo dục đúng đắn, bởi vì thấy bản chất bên trong của sự tự do, giúp đỡ mỗi học sinh riêng biệt quan sát và hiểu rõ những áp đặt và những giá trị được chiếu rọi riêng của em; anh ấy giúp đỡ đứa trẻ nhận biết được những ảnh hưởng bị quy định quanh em, và những ham muốn riêng của em, cả hai đều giới hạn cái trí của em và nuôi dưỡng sự sợ hãi; anh ấy giúp đỡ đứa trẻ, khi em đến tuổi trưởng thành, quan sát và hiểu rõ về chính em trong liên hệ với tất cả những sự vật sự việc, bởi vì chính sự khao khát tự thành tựu mới tạo ra đau khổ và xung đột vô tận.

Chắc chắn, có thể giúp đỡ cá thể nhận biết những giá trị vĩnh cửu của sống, mà không bị quy định. Một số người có lẽ nói rằng sự phát triển tổng thể này của cá thể sẽ dẫn đến sự hỗn loạn; nhưng liệu sẽ như thế sao? Đã có sẵn sự hỗn loạn trong thế giới rồi, và nó đã tồn tại bởi vì cá thể đã không được giáo dục để hiểu rõ về chính anh ấy. Trong khi anh ấy đã được trao tặng sự tự do giả tạo nào đó, anh ấy cũng đã được dạy bảo phải tuân phục, chấp nhận những giá trị đang tồn tại.

Chống lại khuôn mẫu này, nhiều người đang nổi loạn; nhưng bất hạnh thay, sự nổi loạn của họ chỉ là một phản ứng đang tự tìm kiếm, mà chỉ làm tối tăm thêm sự tồn tại của chúng ta. Người giáo dục đúng đắn, nhận biết khuynh hướng của cái trí đối với sự phản ứng, giúp đỡ học sinh thay đổi những giá trị hiện nay, không phải từ sự phản ứng chống lại chúng, nhưng qua sự hiểu rõ về tiến hành tổng thể của sự sống. Đồng hợp tác tổng thể giữa con người và con người không thể xảy ra nếu không có sự hợp nhất mà sự giáo dục đúng đắn có thể giúp đỡ để thức dậy trong cá thể.

Tại sao chúng ta quá chắc chắn rằng chúng ta hay thế hệ sắp tới, qua loại giáo dục đúng đắn, không thể sáng tạo một thay đổi cơ bản trong sự liên hệ của con người? Chúng ta đã không bao giờ thử nó; và bởi vì dường như hầu hết chúng ta đều sợ hãi loại giáo dục đúng đắn, chúng ta không có ý định thử nó. Nếu không thực sự thâm nhập toàn nghi vấn này, chúng ta khẳng định rằng bản chất con người không thể được thay đổi, chúng ta chấp nhận những sự việc như chúng là và khuyến khích đứa trẻ phù hợp vào xã hội hiện nay; chúng ta quy định em vào những cách sống hiện nay của chúng ta, và hy vọng cho điều tốt lành nhất. Nhưng liệu sự tuân phục vào những giá trị hiện nay như thế, mà dẫn đến chiến tranh và nghèo khổ, có thể được công nhận là giáo dục?

Chúng ta sẽ không tự lừa dối chính chúng ta rằng tình trạng bị quy định sẽ dẫn đến thông minh và hạnh phúc. Nếu chúng ta vẫn còn sợ hãi, dửng dưng, không ân cần, không hy vọng, nó có nghĩa rằng chúng ta thực sự không quan tâm đến sự khuyến khích cá thể nở hoa trọn vẹn trong tình yêu và tốt lành, nhưng lại ưa thích tiếp tục những đau khổ mà chính chúng ta đã tự chồng chất và cá thể cũng là một bộ phận của nó.

Quy định học sinh phải chấp nhận môi trường sống hiện nay chắc chắn là quá dốt nát. Nếu chúng ta không tự nguyện sáng tạo một thay đổi cơ bản trong giáo dục, chúng ta phải chịu trách nhiệm trực tiếp cho sự tiếp tục của hỗn loạn và đau khổ; và cuối cùng khi cách mạng đẫm máu và tàn nhẫn nào đó xảy ra, chắc chắn nó sẽ chỉ trao cơ hội cho một nhóm người để trục lợi và độc ác. Mỗi nhóm nắm quyền hành phát triển những phương tiện riêng của sự đàn áp, dù qua sự thuyết phục tâm lý hay qua sức mạnh vũ phu.

Vì những lý do công nghiệp và chính trị, kỷ luật đã trở thành một nhân tố quan trọng trong cấu trúc xã hội hiện nay, và do bởi sự ham muốn của chúng ta để được an toàn tâm lý nên chúng ta mới chấp nhận và thực hiện những hình thức khác nhau của kỷ luật. Kỷ luật bảo đảm một kết quả, và đối với chúng ta kết quả còn quan trọng nhiều hơn phương tiện; nhưng phương tiện khẳng định kết quả.

Một trong những nguy hiểm của kỷ luật là rằng, hệ thống trở thành quan trọng nhiều hơn những con người được bao bọc trong nó. Vậy là, kỷ luật trở thành một thay thế cho tình yêu, và do bởi những quả tim của chúng ta bị trống rỗng nên chúng ta mới bám vào kỷ luật. Tự do không bao giờ có thể hiện diện qua kỷ luật, qua kháng cự; tự do không là một mục đích, một kết thúc phải đạt được. Tự do là tại khởi đầu, không tại khúc cuối, nó sẽ không được tìm ra trong lý tưởng xa xôi nào đó.

Tự do không có nghĩa tạo cơ hội cho tự thỏa mãn hay gạt đi sự ân cần với những người khác. Người giáo viên chân thật sẽ bảo vệ các em học sinh và giúp đỡ chúng trong mọi cách có thể được để thực hiện việc này nếu chính anh ấy không quá nghiện ngập một học thuyết, nếu trong bất kỳ cách nào chính anh ấy không tín điều hay đang tự tìm kiếm.

Nhạy cảm không bao giờ có thể được thức dậy qua sự ép buộc. Người ta có thể ép buộc một đứa trẻ phải yên lặng phía bên ngoài, nhưng người ta đã không đối diện với sự kiện mà đang khiến cho em ấy ương ngạnh, hỗn hào, và vân vân. Sự ép buộc nuôi dưỡng hận thù và sợ hãi. Phần thưởng và hình phạt trong bất kỳ hình thức nào chỉ khiến cho cái trí quy phục và đờ đẫn; và nếu đây là điều gì chúng ta khao khát, vậy thì giáo dục qua sự ép buộc là một cách hoàn hảo để thực hiện.

Nhưng giáo dục như thế không thể giúp đỡ chúng ta hiểu rõ đứa trẻ, nó cũng không thể sáng tạo một môi trường xã hội đúng đắn mà trong đó sự phân chia và hận thù sẽ không còn tồn tại. Trong tình yêu đứa trẻ, giáo dục đúng đắn được hàm ý. Nhưng hầu hết chúng ta đều không thương yêu con cái của chúng ta; chúng ta nuôi tham vọng cho chúng – mà có nghĩa rằng chúng ta có tham vọng cho chính chúng ta. Bất hạnh thay, chúng ta quá bị ám ảnh bởi những bận rộn của cái trí đến độ chúng ta chẳng có bao nhiêu thời gian lưu tâm đến những nhắc nhở của quả tim. Rốt cuộc, kỷ luật hàm ý kháng cự, và liệu sự kháng cự sẽ sáng tạo tình yêu? Kỷ luật chỉ có thể thiết lập những bức tường quanh chúng ta; nó luôn luôn loại trừ, luôn luôn dẫn đến xung đột. Kỷ luật không góp phần cho sự hiểu rõ; bởi vì sự hiểu rõ hiện diện cùng sự quan sát, cùng sự thâm nhập mà trong đó tất cả mọi thành kiến đều được xóa sạch.

Kỷ luật là một cách dễ dàng để kiểm soát đứa trẻ, nhưng nó không giúp đỡ em ấy hiểu rõ những vấn đề được bao hàm trong đang sống. Hình thức của ép buộc nào đó, sự kỷ luật của phần thưởng và hình phạt, có lẽ cần thiết để duy trì trật tự và sự yên lặng bề ngoài trong số những học sinh chen chúc tập hợp cùng nhau trong một lớp học; nhưng với người giáo dục đúng đắn cùng một vài học sinh, liệu bất kỳ đàn áp nào, được lịch sự gọi là kỷ luật, sẽ được cần đến? Nếu những lớp học khá nhỏ, giáo viên có thể trao sự chú ý trọn vẹn của anh ấy vào mỗi em, quan sát và giúp đỡ em, vậy thì ép buộc hay thống trị trong bất kỳ hình thức nào chắc chắn là không cần thiết. Nếu, trong một nhóm như thế, một học sinh kiên quyết vô trật tự hay nghịch ngợm không có lý do, người giáo dục phải tìm hiểu nguyên nhân gây ra sự nghịch ngợm của em ấy, mà có lẽ do bởi ăn uống không phù hợp, không nghỉ ngơi đầy đủ, sự xáo trộn của gia đình, hay sự sợ hãi giấu giếm nào đó.

Tiềm ẩn trong giáo dục đúng đắn là sự vun quén của tự do và thông minh, mà không thể xảy ra được nếu có bất kỳ hình thức nào của ép buộc, cùng những sợ hãi của nó. Rốt cuộc, sự quan tâm của người giáo dục là giúp đỡ em học sinh hiểu rõ những phức tạp của toàn thân tâm em. Bắt buộc em kiềm chế một phần bản chất của em vì lợi ích của một phần khác nào đó là tạo ra trong em một xung đột liên tục mà sẽ gây ra những hận thù trong xã hội. Chính thông minh mới sáng tạo tự do, không phải kỷ luật.

Tuân phục và vâng lời không có vị trí trong loại giáo dục đúng đắn. Đồng hợp tác giữa giáo viên và học sinh không thể xảy ra được nếu không có thương yêu lẫn nhau, tôn trọng lẫn nhau. Khi sự thể hiện của tôn trọng đến những người lớn tuổi hơn được yêu cầu nơi những đứa trẻ, thông thường nó trở thành một thói quen, một trình diễn thuần túy phía bên ngoài, không sự liên hệ sức sống nào có thể được, đặc biệt khi giáo viên chỉ là một dụng cụ của sự hiểu biết của anh ấy.

Nếu giáo viên đòi hỏi sự tôn trọng từ những học sinh của anh ấy nhưng chẳng có bao nhiêu sự tôn trọng cho các em, chắc chắn nó sẽ gây ra sự dửng dưng và bất kính về phần của các em. Nếu không có sự tôn trọng đối với sống của con người, sự hiểu biết chỉ dẫn đến hủy diệt và đau khổ. Sự vun đắp của tôn trọng đối với những người khác là một phần cốt lõi của giáo dục đúng đắn, nhưng nếu chính người giáo dục không có chất lượng này, anh ấy không thể giúp đỡ những em học sinh đến một sống tổng thể hợp nhất.

Thông minh là sự hiểu rõ về cái cốt lõi, và muốn hiểu rõ cái cốt lõi phải có sự tự do khỏi những trở ngại đó mà cái trí chiếu rọi trong sự tìm kiếm an toàn và thanh thản riêng của nó. Sợ hãi chắc chắn xảy ra chừng nào cái trí còn đang tìm kiếm sự an toàn; và khi những con người được tổ chức trong bất kỳ cách nào, sự nhận biết và thông minh nhạy bén bị hủy diệt.

Mục đích của giáo dục là vun quén sự liên hệ đúng đắn, không chỉ giữa những cá thể, nhưng còn cả giữa cá thể và xã hội; và đó là lý do tại sao rất cần thiết khi giáo dục nên, trên tất cả, giúp đỡ cá thể hiểu rõ qui trình tâm lý riêng của em ấy. Thông minh nằm trong hiểu rõ về chính mình và vượt trên và vượt khỏi chính mình; nhưng không thể có thông minh chừng nào còn có sợ hãi. Sợ hãi gây biến dạng thông minh và là một trong những nguyên nhân của hành động tự cho mình là trung tâm. Kỷ luật có lẽ kiềm chế sợ hãi nhưng không xóa sạch nó, và sự hiểu biết bên ngoài mà chúng ta nhận được trong giáo dục hiện đại chỉ che giấu nó thêm nữa.

Khi chúng ta còn trẻ, sợ hãi ngấm sâu trong hầu hết chúng ta cả ở nhà lẫn ở trường. Không phụ huynh và giáo viên nào có dư thừa kiên nhẫn, thời gian hay thông minh để xua tan những sợ hãi thuộc bản năng của thời niên thiếu, mà, khi chúng ta lớn lên, chi phối những suy nghĩ và nhận xét của chúng ta và tạo ra vô số vấn đề. Loại giáo dục đúng đắn phải suy nghĩ nghi vấn của sợ hãi này, bởi vì sợ hãi gây biến dạng tầm nhìn tổng thể của chúng ta về sống. Không có sợ hãi là sự khởi đầu của thông minh, và chỉ loại giáo dục đúng đắn mới có thể tạo ra sự tự do khỏi sợ hãi mà trong đó, một mình nó, có thông minh sâu thẳm và sáng tạo.

Phần thưởng hay hình phạt cho bất kỳ hành động nào chỉ củng cố tình trạng tự cho mình là trung tâm. Hành động vì lợi ích của một thứ khác, nhân danh quốc gia hay Thượng đế, chỉ dẫn đến sợ hãi, và sợ hãi không thể là nền tảng đúng đắn cho hành động đúng đắn. Nếu chúng ta muốn giúp đỡ một đứa trẻ ân cần với những người khác, chúng ta không nên sử dụng tình yêu như một hối lộ, nhưng hãy dành ra thời gian và có đủ kiên nhẫn để giải thích những phương cách của ân cần.

Không có sự tôn trọng đối với một người khác khi có một phần thưởng cho nó, bởi vì sự hối lộ hay hình phạt trở thành quan trọng nhiều hơn sự cảm thấy của tôn trọng. Nếu chúng ta không tôn trọng đứa trẻ nhưng chỉ trao cho em một phần thưởng hay đe dọa em bằng hình phạt, chúng ta đang khuyến khích sự tham lợi và sợ hãi. Bởi vì chính chúng ta đã được nuôi nấng để hành động vì lợi ích của một kết quả, chúng ta không thấy rằng có thể có hành động được tự do khỏi sự ham muốn để kiếm được.

Loại giáo dục đúng đắn sẽ khuyến khích sự ý tứ và ân cần với những người khác mà không có những dụ dỗ và những đe dọa thuộc bất kỳ loại nào. Nếu chúng ta không còn tìm kiếm những kết quả tức khắc, chúng ta sẽ bắt đầu thấy nó quan trọng như thế nào khi cả người giáo dục lẫn em học sinh phải được tự do khỏi sự sợ hãi của hình phạt và sự hy vọng của phần thưởng, và khỏi mọi hình thức của sự ép buộc; nhưng sự ép buộc sẽ tiếp tục chừng nào uy quyền còn là bộ phận của sự liên hệ.

Tuân phục uy quyền có nhiều ưu điểm nếu người ta suy nghĩ dựa vào động cơ và thâu lợi cá nhân; nhưng giáo dục được đặt nền tảng trên sự tiến bộ và lợi lộc cá nhân chỉ có thể thiết lập một cấu trúc xã hội ganh đua, thù hận, và tàn nhẫn. Đây là loại xã hội mà chúng ta đã được nuôi nấng, và sự hận thù lẫn hỗn loạn là điều hiển nhiên.

Chúng ta đã được dạy bảo phải tuân phục vào uy quyền của giáo viên, của một quyển sách, của một đảng phái, bởi vì nó có lợi lộc khi thực hiện việc đó. Những người chuyên môn trong mọi cái ngăn của sống, từ vị giáo sĩ đến những viên chức, lợi dụng uy quyền và thống trị chúng ta; nhưng bất kỳ chính phủ hay giáo viên nào mà sử dụng sự ép buộc không bao giờ có thể tạo ra đồng hợp tác trong sự liên hệ mà là điều cốt lõi cho sự hạnh phúc của xã hội.

Nếu chúng ta muốn có sự liên hệ đúng đắn giữa những con người, không nên có sự ép buộc và thậm chí cả sự thuyết phục. Làm thế nào có thể có tình yêu và đồng hợp tác trung thực giữa những người nắm quyền hành và những người phải qui phục quyền hành? Bằng cách suy nghĩ không thành kiến nghi vấn của uy quyền này và nhiều hàm ý của nó, bằng cách thấy rằng chính sự ham muốn cho uy quyền, trong chính nó là hủy diệt, liền có một hiểu rõ tự phát về toàn qui trình của uy quyền. Khoảnh khắc chúng ta phá tan uy quyền chúng ta liền hiệp thông, và chỉ đến lúc đó mới có đồng hợp tác và tình yêu.

Vấn đề thực sự trong giáo dục là người giáo dục. Thậm chí một nhóm nhỏ những em học sinh cũng trở thành công cụ của sự quan trọng cá nhân của anh ấy nếu giáo viên sử dụng uy quyền như một phương tiện của giải phóng riêng của anh ấy, nếu đối với anh ấy nghề dạy học là một thành tựu tự bành trướng. Nhưng thuần túy đồng ý thuộc trí năng và từ ngữ liên quan đến những ảnh hưởng biến dạng của uy quyền là dốt nát và hão huyền.

Phải có sự thấu triệt sâu thẳm vào những động cơ giấu giếm của uy quyền và chi phối. Nếu chúng ta thấy rằng sự thông minh không bao giờ được thức dậy qua sự ép buộc, chính sự nhận biết của sự kiện đó sẽ thiêu rụi những sợ hãi của chúng ta, và vậy là chúng ta sẽ bắt đầu vun quén một môi trường mới mẻ mà sẽ tương phản và thăng hoa hơn trật tự xã hội hiện nay.

Muốn hiểu rõ ý nghĩa của sống cùng những xung đột và đau khổ của nó, chúng ta phải suy nghĩ độc lập khỏi bất kỳ uy quyền nào, kể cả uy quyền của tôn giáo có tổ chức; nhưng nếu trong sự ham muốn để giúp đỡ đứa trẻ của chúng ta, chúng ta đặt ra trước em ấy những mẫu mực uy quyền, chúng ta sẽ chỉ đang khuyến khích sự sợ hãi, bắt chước và những hình thức khác nhau của mê tín.

Những người có khuynh hướng tôn giáo cố gắng áp đặt vào đứa trẻ những niềm tin, những hy vọng và những sợ hãi mà họ đã thâu nhận từ những cha mẹ của họ; và những người chống lại tôn giáo cũng thiết tha tác động đứa trẻ phải chấp nhận cách suy nghĩ đặc biệt mà họ tình cờ tuân theo. Tất cả chúng ta đều mong muốn con cái của chúng ta chấp nhận hình thức tôn sùng của chúng ta hay nhập tâm học thuyết đã chọn lựa của chúng ta. Quá dễ dàng để bị trói buộc trong những hình ảnh và những công thức, dù được sáng chế bởi chính chúng ta hay bởi những người khác, và vì vậy rất cần thiết phải cảnh giác và canh chừng.

Điều gì chúng ta gọi là tôn giáo chỉ là những niềm tin có tổ chức, cùng những tín điều, những nghi thức, những huyền bí và những mê tín của nó. Mỗi tôn giáo đều có quyển sách thiêng liêng riêng của nó, người trung gian của nó, những giáo sĩ của nó và những phương cách của đe dọa và giam cầm con người của nó. Hầu hết chúng ta đều đã bị quy định vào tất cả điều này, mà được hiểu là giáo dục tôn giáo; nhưng tình trạng bị quy định này đã khiến cho con người chống lại con người, nó tạo ra hận thù. Không chỉ giữa những người tin tưởng, nhưng còn chống lại những người của những niềm tin khác. Mặc dù tất cả những tôn giáo đều khẳng định rằng họ tôn thờ Thượng đế và nói rằng bạn phải thương yêu lẫn nhau, họ thấm nhuần những giáo điều của phần thưởng và hình phạt, và qua những giáo điều ganh đua của họ họ tiếp tục sự nghi ngờ và hận thù.

Những giáo điều, những huyền bí và những nghi thức không góp phần vào một sống tinh thần. Sự giáo dục tôn giáo trong ý nghĩa thực sự của nó là khuyến khích đứa trẻ hiểu rõ sự liên hệ riêng của em với con người, với những sự vật và với thiên nhiên. Không có sự tồn tại nếu không có sự liên hệ; và nếu không có sự hiểu rõ về chính mình, tất cả những liên hệ, với một người hay với nhiều người, đều mang lại xung đột và đau khổ. Dĩ nhiên, giải thích đầy đủ điều này cho đứa trẻ là việc không thể thực hiện được; nhưng tại sâu thẳm nếu người giáo dục và những bậc phụ huynh hiểu rõ ý nghĩa trọn vẹn của sự liên hệ, vậy thì bằng thái độ, ứng xử và lời nói chắc chắn họ sẽ có thể chuyển tải sang đứa trẻ, mà không cần quá nhiều từ ngữ và sự giải thích, ý nghĩa của một sống tinh thần.

Sự dạy dỗ tạm gọi là tôn giáo của chúng ta không khuyến khích sự chất vấn và nghi ngờ, tuy nhiên chỉ khi nào chúng ta tìm hiểu ý nghĩa của những giá trị mà xã hội và tôn giáo đã sắp đặt quanh chúng ta thì chúng ta mới bắt đầu tìm ra điều gì là đúng thực. Chính là chức năng của người giáo dục khi phải thâm nhập sâu thẳm những suy nghĩ và những cảm thấy riêng của anh ấy và gạt đi những giá trị đó mà đã trao tặng anh ấy sự an toàn và thanh thản, bởi vì chỉ đến lúc đó anh ấy mới có thể giúp đỡ những học sinh của anh ấy có thể tự nhận biết và hiểu rõ những thôi thúc lẫn những sợ hãi của các em.

Thời gian để phát triển sự chân thật và sự rõ ràng là khi người ta còn trẻ; và những người chúng ta mà lớn tuổi có thể, nếu chúng ta có sự hiểu rõ, giúp đỡ những người trẻ làm tự do chính chúng khỏi những chướng ngại mà xã hội đã áp đặt vào chúng, cũng như khỏi những người mà chính chúng đang chiếu rọi. Nếu cái trí và quả tim của đứa trẻ không bị đúc khuôn bởi những nhận thức và những thành kiến thuộc tôn giáo, vậy thì em ấy sẽ được tự do để khám phá qua sự hiểu rõ về chính mình cái gì ở trên và vượt khỏi chính em ấy.

Tôn giáo đúng đắn không là một bộ của những niềm tin và những nghi thức, những hy vọng và những sợ hãi; và nếu chúng ta cho phép đứa trẻ lớn lên mà không có những ảnh hưởng gây cản trở này, vậy thì có lẽ, khi em ấy trưởng thành, em ấy sẽ bắt đầu tìm hiểu bản chất của sự thật, của Thượng đế. Đó là lý do tại sao, trong giáo dục một đứa trẻ, sự hiểu rõ và thấu triệt sâu thẳm là điều cốt lõi.

Hầu hết những người mà có khuynh hướng tôn giáo, mà nói về Thượng đế và sự bất tử, tại cơ bản đều không tin tưởng sự tự do và sự hợp nhất thuộc cá thể; tuy nhiên tôn giáo là sự vun đắp của tự do trong tìm kiếm sự thật. Không có sự thỏa hiệp với tự do. Tự do từng phần cho cá thể không là tự do gì cả. Sự quy định của tất cả loại nào, thuộc chính trị hay thuộc tôn giáo, không là tự do và nó sẽ không bao giờ mang lại hòa bình.

Tôn giáo không là một hình thức của quy định. Nó là một tình trạng của yên lặng mà trong đó có sự thật, Thượng đế; nhưng tình trạng sáng tạo đó chỉ có thể hiện diện khi có tự do và hiểu rõ về chính mình. Tự do mang lại đạo đức, và nếu không có đạo đức không thể có yên lặng. Cái trí yên lặng không là cái trí bị quy định, nó không bị kỷ luật hay bị giáo dục để được yên lặng. Yên lặng hiện diện chỉ khi nào cái trí hiểu rõ những phương cách riêng của nó, mà là những phương cách của cái tôi.

Tôn giáo có tổ chức là sự suy nghĩ đóng băng của con người, từ đó anh ấy xây dựng đền chùa và nhà thờ; nó đã trở thành một giải khuây cho những người sợ hãi, một liều thuốc vơi sầu cho những người đau khổ. Nhưng Thượng đế hay sự thật còn vượt khỏi sự suy nghĩ và những đòi hỏi thuộc cảm xúc. Những phụ huynh và những giáo viên nhận ra những qui trình thuộc tâm lý mà tạo ra sợ hãi và đau khổ phải có thể giúp đỡ những người trẻ quan sát và hiểu rõ những xung đột và những thử thách riêng của chúng.

Nếu chúng ta, những người lớn tuổi có thể giúp đỡ những đứa trẻ, khi các em lớn lên, suy nghĩ rõ ràng và không thành kiến, thương yêu và không nuôi dưỡng hận thù, còn có gì để làm nữa đây? Nhưng nếu chúng ta liên tục gây phiền muộn cho một người khác, nếu chúng ta không thể sáng tạo trật tự và hòa bình trong thế giới bằng cách thay đổi thật sâu thẳm trong chính chúng ta, những quyển sách thiêng liêng và những huyền thoại của vô số những tôn giáo còn có giá trị gì đâu?

Sự giáo dục tôn giáo thực sự là giúp đỡ đứa trẻ nhận biết một cách thông minh, hiểu rõ cho chính em ấy những sự việc phù du và sự thật, và có một tiếp cận vô tư đến sống; và liệu nó sẽ không có nhiều ý nghĩa hơn khi bắt đầu mỗi ngày ở nhà hay ở trường bằng một suy nghĩ nghiêm túc, hay bằng một bài đọc có chiều sâu và ý nghĩa, hơn là lẩm bẩm những từ ngữ hay những cụm từ lặp lại nào đó?

Những thế hệ quá khứ, cùng những tham vọng, những truyền thống và những lý tưởng của nó, đã tạo ra sự nguy hiểm và sự hủy diệt cho thế giới; có lẽ những thế hệ sắp tới, cùng loại giáo dục đúng đắn, có thể kết thúc sự hỗn loạn này và sáng tạo một trật tự xã hội hạnh phúc hơn. Nếu những người trẻ tuổi có tinh thần của thâm nhập, nếu họ đang liên tục tìm kiếm sự thật của tất cả những sự việc, chính trị và tôn giáo, cá nhân và môi trường, vậy thì tuổi trẻ sẽ có ý nghĩa lớn lao và có hy vọng cho một thế giới tốt lành hơn.

Hầu hết trẻ em đều hiếu kỳ, các em muốn biết; nhưng sự tìm hiểu háo hức của các em bị đờ đẫn bởi những khẳng định độc đoán của chúng ta, sự mất kiên nhẫn trịch thượng của chúng ta và sự xua đuổi vô tình về sự hiếu kỳ của các em. Chúng ta không khuyến khích sự hiếu kỳ của các em, bởi vì chúng ta khá sợ hãi bởi điều gì có lẽ bị chất vấn; chúng ta không nuôi dưỡng sự bất mãn của chúng, bởi vì chính chúng ta đã không còn nghi ngờ.

Hầu hết cha mẹ và giáo viên đều sợ hãi sự bất mãn bởi vì nó xáo trộn tất cả những hình thức của sự an toàn, và thế là họ khuyến khích những người trẻ khuất phục nó qua những việc làm an toàn, thừa kế, hôn nhân và sự an ủi của những tín điều thuộc tôn giáo. Những người lớn tuổi, chỉ biết quá rõ nhiều cách làm đờ đẫn cái trí và quả tim, tiếp tục khiến cho đứa trẻ cũng đờ đẫn như họ bằng cách áp đặt vào đứa trẻ những uy quyền, những truyền thống và những niềm tin mà chính họ đã chấp nhận.

Chỉ bằng cách khuyến khích đứa trẻ nghi ngờ quyển sách, dù là loại sách nào, để thâm nhập vào tánh đúng đắn của những giá trị, những truyền thống xã hội đang tồn tại, những hình thức hiện nay của chính phủ, những niềm tin tôn giáo và vân vân, thì người giáo dục và những cha mẹ mới có thể hy vọng thức dậy và duy trì sự nhận biết bình phẩm và thấu triệt mãnh liệt.

Những người trẻ, nếu các em có sinh động, đều dư thừa hy vọng và bất mãn; các em phải như thế, ngược lại chúng đã già nua và chết rồi. Và những người già là những người lúc trước có bất mãn, nhưng họ đã bóp nghẹt thành công ngọn lửa đó và đã tìm được sự an toàn và thanh thản trong vô vàn phương cách. Họ khao khát sự vĩnh cửu cho chính họ và gia đình của họ, họ khao khát sự vĩnh cửu trong những ý tưởng, trong những liên hệ, trong những sở hữu; vì vậy khoảnh khắc họ cảm thấy bất mãn, họ trở nên say đắm trong những trách nhiệm của họ, trong những việc làm của họ, hay trong bất kỳ việc gì khác, với mục đích tẩu thoát khỏi sự cảm thấy xáo trộn của bất mãn đó.

Trong khi chúng ta còn trẻ tuổi là thời gian để được bất mãn, không chỉ với chính chúng ta, nhưng còn cả với những sự việc quanh chúng ta. Chúng ta nên học hành suy nghĩ rõ ràng và không có thành kiến, để cho phía bên trong không còn phụ thuộc và sợ hãi. Độc lập không dành cho những phần có tô màu của cái bản đồ mà chúng ta gọi là quốc gia của chúng ta, nhưng dành cho chúng ta như những cá thể; và mặc dù phía bên ngoài chúng ta phụ thuộc lẫn nhau, sự phụ thuộc lẫn nhau này không trở thành tàn nhẫn hay đàn áp nếu phía bên trong, chúng ta được tự do khỏi sự khao khát cho quyền hành, vị trí và uy quyền.

Chúng ta phải hiểu rõ sự bất mãn, mà hầu hết chúng ta đều sợ hãi. Sự bất mãn có lẽ tạo ra điều gì có vẻ là vô trật tự; nhưng nếu nó, bởi vì nó nên, dẫn đến sự hiểu rõ về chính mình và sự tự từ bỏ, vậy thì nó sẽ sáng tạo một trật tự xã hội mới mẻ và hòa bình vĩnh cửu. Cùng tự từ bỏ hiện diện sự hân hoan vô tận.

Sự bất mãn là phương tiện dẫn đến tự do; nhưng với mục đích thâm nhập không thành kiến, phải không có sự phung phí cảm xúc mà thường mang hình thức của những tụ họp chính trị, gào thét những khẩu hiệu, tìm kiếm một đạo sư hay người thầy tinh thần, và những điên loạn tôn giáo thuộc nhiều loại khác nhau. Sự phung phí này làm đờ đẫn cái trí và quả tim, khiến cho chúng mất khả năng của thấu triệt và thế là dễ dàng bị đúc khuôn bởi những hoàn cảnh và sự sợ hãi. Chính là sự khao khát hừng hực để thâm nhập và không phải sự bắt chước dễ dàng của đám đông, mới sáng tạo một hiểu rõ mới mẻ về những phương cách của sống.

Những người trẻ rất dễ dàng bị thuyết phục bởi những giáo sĩ hay những người chính trị, bởi những người giàu có hay những người nghèo khổ, để suy nghĩ trong một cách đặc biệt; nhưng loại giáo dục đúng đắn nên giúp đỡ các em cảnh giác những ảnh hưởng này để cho các em không lặp lại những khẩu hiệu như những con vẹt hay rơi vào bất kỳ cái bẫy ranh mãnh nào của tham lam, dù của riêng các em hay của những người khác. Các em không được cho phép uy quyền làm tê liệt những cái trí và những quả tim của các em. Theo sau một người khác, dù vĩ đại đến chừng nào, hay trao sự trung thành của người ta vào một học thuyết gây thỏa mãn, sẽ không tạo ra một thế giới hòa bình.

Khi chúng ta rời trường học hay cao đẳng, nhiều người trong chúng ta quẳng đi những quyển sách và dường như cảm thấy rằng chúng ta đã làm xong công việc học hành; và có những người bị kích thích để suy nghĩ sâu thẳm thêm nữa, mà tiếp tục đọc sách và mê đắm điều gì những người khác đã nói, và trở thành nghiện ngập sự hiểu biết. Chừng nào còn có sự tôn sùng của hiểu biết hay kỹ thuật như một phương tiện dẫn đến sự thành công và sự thống trị, phải có sự ganh đua tàn nhẫn, sự hận thù và sự đấu tranh vô tận vì miếng ăn.

Chừng nào sự thành công còn là mục đích của chúng ta, chúng ta không thể xóa sạch sự sợ hãi, bởi vì chắc chắn sự ham muốn của thành công nuôi dưỡng sự sợ hãi của thất bại. Đó là lý do tại sao những người trẻ không nên được dạy dỗ để tôn sùng sự thành công. Hầu hết mọi người đều tìm kiếm sự thành công trong một hình thức này hay một hình thức khác, dù trên sân quần vợt, trong thế giới kinh doanh, hay trong chính trị. Tất cả chúng ta đều ham muốn ở trên đỉnh, và sự ham muốn này tạo ra sự xung đột liên tục trong chính chúng ta và với những người gần bên; nó dẫn đến sự ganh đua, ganh tị, đối địch và cuối cùng kết thúc trong chiến tranh.

Giống như thế hệ già nua, thế hệ trẻ tuổi cũng tìm kiếm sự thành công và sự an toàn; mặc dù thoạt đầu họ có lẽ bất mãn, chẳng mấy chốc họ bắt đầu được kính trọng và sợ hãi khước từ xã hội. Những bức tường của những ham muốn riêng của họ bắt đầu bao bọc họ, và họ tuân phục và chấp nhận sự kiềm chế của uy quyền. Sự bất mãn của họ, mà là chính ngọn lửa của sự thâm nhập, của sự tìm kiếm, của sự hiểu rõ, trở nên tàn lụi và cạn kiệt, và thế vào nó xuất hiện sự ham muốn cho việc làm tốt hơn, một hôn nhân giàu có, một nghề nghiệp thành công, tất cả đều là sự khao khát cho an toàn nhiều hơn.

Không có sự khác biệt cơ bản giữa người già và người trẻ, bởi vì cả hai đều là nô lệ cho những ham muốn và những thỏa mãn riêng của họ. Sự chín chắn không là một vấn đề của tuổi tác, nó hiện diện cùng sự hiểu rõ. Tinh thần mãnh liệt của sự thâm nhập có lẽ dễ dàng hơn cho những người trẻ, bởi vì những người già đã bị vùi dập bởi sống, những xung đột đã làm tơi tả họ và cái chết trong những hình thức khác nhau đang chờ đợi họ. Điều này không có nghĩa rằng họ không thể thâm nhập có ý định, nhưng chỉ vì rằng nó sẽ gian nan cho họ nhiều hơn.

Nhiều người trưởng thành đều không chín chắn và khá ngây ngô, và đây là một nguyên nhân đóng góp vào cả sự hỗn loạn lẫn đau khổ trong thế giới. Chính những người già phải chịu trách nhiệm cho sự khủng hoảng luân lý và kinh tế đang lan tràn; và một trong những yếu ớt bất hạnh của chúng ta là rằng chúng ta muốn những người khác hành động giúp chúng ta và thay đổi cái nguồn của những sống của chúng ta. Chúng ta chờ đợi những người khác cách mạng và xây dựng mới mẻ lại, và chúng ta vẫn còn thụ động cho đến khi chúng ta được bảo đảm về kết quả.

Chính là sự an toàn và thành công mà hầu hết chúng ta đều theo đuổi; và một cái trí đang tìm kiếm sự an toàn, đang khao khát sự thành công, không có thông minh, và vì vậy không thể hành động tổng thể. Có thể có hành động tổng thể chỉ khi nào người ta nhận biết được tình trạng bị quy định riêng của người ta, những thành kiến thuộc chủng tộc, quốc gia, chính trị và tôn giáo của người ta; đó là, chỉ khi người ta nhận ra rằng những phương cách của cái tôi luôn luôn gây tách rời.

Sống là một cái giếng chứa nhiều nước. Người ta có thể tiếp cận nó bằng một cái xô nhỏ và chỉ lấy được chút xíu nước, hay người ta có thể đến với nó bằng những cái thùng to, lấy được dư thừa nước mà sẽ nuôi dưỡng và duy trì. Trong khi người ta còn trẻ là thời gian để tìm hiểu, để thử nghiệm mọi thứ. Trường học nên giúp đỡ những người trẻ khám phá những năng khiếu và những trách nhiệm của chúng, và không chỉ nhồi nhét vào những cái trí của chúng những sự kiện và hiểu biết kỹ thuật; nó nên là mảnh đất trong đó các em có thể lớn lên hạnh phúc và hợp nhất, không sợ hãi.

Giáo dục đứa trẻ là giúp đỡ em ấy hiểu rõ sự tự do và sự hợp nhất. Muốn có sự tự do phải có trật tự, mà một mình đạo đức có thể trao tặng; và sự hợp nhất xảy ra chỉ khi nào có sự đơn giản vô cùng. Từ vô vàn những phức tạp chúng ta phải phát triển sự đơn giản, chúng ta phải trở nên đơn giản trong sống bên trong của chúng ta và trong những nhu cầu bên ngoài của chúng ta.

Hiện nay sự giáo dục quan tâm đến sự hiệu quả phía bên ngoài, và nó hoàn toàn không quan tâm, hay cố ý biến dạng, bản chất bên trong của con người; nó phát triển chỉ một bộ phận của anh ấy và để bộ phận còn lại trì trệ. Sự hỗn loạn, sự thù hận và sự sợ hãi bên trong của chúng ta luôn luôn thắng thế cấu trúc bên ngoài của xã hội, dù nó được tưởng tượng cao quý ra sao và xây dựng khôn lanh như thế nào. Khi không có loại giáo dục đúng đắn chúng ta hủy diệt lẫn nhau, và sự an toàn thân thể cho mỗi cá thể bị khước từ. Giáo dục học sinh đúng đắn là giúp đỡ em hiểu rõ toàn qui trình của chính em; bởi vì chỉ khi nào có sự hòa hợp của cái trí và quả tim trong hành động hàng ngày thì mới có thể có sự thông minh và sự thay đổi bên trong.

Trong khi truyền đạt thông tin và đào tạo thuộc kỹ thuật, trên tất cả, giáo dục nên khuyến khích một tầm nhìn tổng thể về sự sống; nó nên giúp đỡ học sinh nhận ra và phá vỡ trong chính em ấy tất cả những phân biệt và những thành kiến xã hội, và không khuyến khích sự theo đuổi tham lợi của quyền hành và thống trị. Nó nên khuyến khích loại quan sát đúng đắn về chính mình và đang trải nghiệm sống như một tổng thể, mà không là trao sự quan trọng cho bộ phận, ‘cái tôi’ và ‘cái của tôi,’ nhưng giúp đỡ cái trí vượt trên và vượt khỏi chính nó để khám phá sự thật.

Tự do hiện diện chỉ trong sự hiểu rõ về chính mình trong những bận rộn hàng ngày của người ta, đó là, trong sự liên hệ của người ta với con người, với những sự vật, với những ý tưởng và với thiên nhiên. Nếu người giáo dục đang giúp đỡ học sinh sống tổng thể, không thể có sự nhấn mạnh cuồng tín hay vô lý trên bất kỳ chặng đường đặc biệt nào của sống. Chính là sự hiểu rõ toàn tiến hành của sự tồn tại mới sáng tạo sự hợp nhất. Khi có hiểu rõ về chính mình, khả năng tạo ra những ảo tưởng kết thúc, và chỉ lúc đó mới có thể cho phép sự thật hay Thượng đế hiện diện.

Những con người phải hợp nhất nếu họ muốn vượt khỏi bất kỳ sự khủng hoảng nào, và đặc biệt là sự khủng hoảng hiện nay của thế giới, mà không bị chia rẽ; vì vậy, đối với những cha mẹ và những giáo viên mà quan tâm thực sự trong giáo dục, vấn đề chính là làm thế nào phát triển một cá thể tổng thể; vì vậy, loại giáo dục đúng đắn có sự quan trọng tột đỉnh, không chỉ cho những người trẻ, nhưng còn cả cho thế hệ già nua nếu họ sẵn lòng học hành và không quá cố chấp trong những phương cách của họ. Cái gì là trong chính chúng ta còn quan trọng nhiều hơn câu hỏi cổ lỗ của dạy dỗ đứa trẻ điều gì, và nếu chúng ta thương yêu con cái của chúng ta chúng ta phải hiểu rõ rằng các em phải có loại người giáo dục đúng đắn.

Dạy học không nên trở thành nghề nghiệp của người chuyên môn. Khi nó như thế, như thông thường xảy ra, tình yêu tan biến; và tình yêu là cốt lõi cho sự tiến hành của sự hợp nhất. Muốn hợp nhất phải có sự tự do khỏi sợ hãi. Tình trạng không sợ hãi mang lại sự độc lập mà không tàn nhẫn, mà không khinh miệt một người khác, và đây là nhân tố cơ bản nhất trong sống. Nếu không có tình yêu chúng ta không thể giải quyết nhiều vấn đề xung đột của chúng ta; nếu không có tình yêu, sự thâu lượm hiểu biết chỉ gia tăng sự hỗn loạn và dẫn đến tự hủy diệt.

Con người hợp nhất sẽ tiếp cận kỹ thuật qua đang trải nghiệm, bởi vì sự thôi thúc sáng tạo tạo ra kỹ thuật riêng của nó – và đó là nghệ thuật vĩ đại nhất. Khi một đứa trẻ có sự thôi thúc sáng tạo để vẽ, em ấy vẽ, em ấy không bận tâm về kỹ thuật. Giống như vậy, con người đang trải nghiệm, và vì vậy đang dạy học, là những giáo viên đúng đắn duy nhất, và họ cũng sáng tạo kỹ thuật riêng của họ.

Điều này nghe ra rất đơn giản, nhưng nó thực sự là một cách mạng cơ bản. Nếu chúng ta suy nghĩ về nó, chúng ta có thể thấy sự ảnh hưởng lạ thường mà nó sẽ tác động vào xã hội. Lúc này hầu hết chúng ta đều bị cuốn trôi tại cái tuổi bốn mươi lăm hay năm mươi bởi sự nô lệ đối với lề thói; qua sự thỏa hiệp, qua sự sợ hãi và sự phục tùng, chúng ta chấm dứt, mặc dù chúng ta tiếp tục đấu tranh trong một xã hội mà chẳng có ý nghĩa bao nhiêu ngoại trừ cho những người mà thống trị nó và được bảo đảm. Nếu giáo viên thấy điều này và chính anh ấy đang trải nghiệm, vậy thì dù tính khí và những khả năng của anh ấy ra sao, sự dạy học của anh ấy sẽ không là một vấn đề của lề thói nhưng sẽ trở thành một dụng cụ của sự trợ giúp.

Muốn hiểu rõ một đứa trẻ chúng ta phải nhìn ngắm em ấy chơi đùa, học hành em trong những tâm trạng khác nhau của em; chúng ta không thể chiếu rọi vào em những thành kiến, những hy vọng và những sợ hãi riêng của chúng ta, hay đúc khuôn em để phù hợp vào những ham muốn của chúng ta. Nếu chúng ta liên tục đang đánh giá em tùy theo những ưa thích và những không ưa thích của chúng ta, chúng ta chắc chắn tạo ra những cản trở và những chướng ngại trong sự liên hệ của chúng ta với em và trong sự liên hệ của em với thế giới. Bất hạnh thay, hầu hết chúng ta đều ham muốn định hình đứa trẻ trong một cách gây thỏa mãn những ảo tưởng và những hành vi đặc biệt riêng của chúng ta; chúng ta tìm được vô số những mức độ của thoải mái và thỏa mãn trong sự sở hữu và thống trị độc đoán của chúng ta.

Chắc chắn, qui trình này không là sự liên hệ, nhưng chỉ là sự áp đặt, và vì vậy điều cốt lõi là phải hiểu rõ sự ham muốn phức tạp và khó thỏa mãn của thống trị. Nó mang nhiều hình thức tinh tế; và trong khía cạnh tự cho là đúng đắn của nó, nó rất cố chấp. Hiểu rõ sự ham muốn của ‘phục vụ’ cùng sự ao ước không ý thức của thống trị là việc khó khăn cực kỳ. Liệu có thể có tình yêu nơi nào có sự sở hữu? Liệu chúng ta có thể hiệp thông cùng những người mà chúng ta tìm kiếm để kiểm soát? Thống trị là sử dụng một người khác cho tự thỏa mãn, và nơi nào có sử dụng một người khác không có tình yêu.

Khi có tình yêu có sự ân cần, không chỉ cho con cái nhưng còn cho mọi con người. Nếu chúng ta không bị tác động sâu thẳm bởi nghi vấn ‘tình yêu’ đó, chúng ta sẽ không bao giờ tìm được cách giáo dục đúng đắn. Thuần túy đào tạo kỹ thuật, chắc chắn dẫn đến sự tàn nhẫn, và muốn giáo dục những đứa trẻ của chúng ta chúng ta phải nhạy cảm đối với chuyển động tổng thể của sự sống. Điều gì chúng ta suy nghĩ, việc gì chúng ta làm, điều gì chúng ta nói có sự quan trọng vô cùng, bởi vì nó tạo ra môi trường sống, và môi trường sống hoặc giúp đỡ hoặc cản trở đứa trẻ.

Vậy thì, chắc chắn những người chúng ta mà quan tâm đến nghi vấn ‘tình yêu’ này sẽ phải khởi sự hiểu rõ về chính chúng ta và thế là giúp đỡ thay đổi xã hội; chúng ta sẽ khiến cho nó trở thành trách nhiệm trực tiếp của chúng ta để sáng tạo một tiếp cận mới mẻ cho giáo dục. Nếu chúng ta thương yêu con cái của chúng ta, liệu chúng ta sẽ không tìm ra phương cách để kết thúc chiến tranh, hay sao? Nhưng nếu chúng ta chỉ đang sử dụng từ ngữ ‘tình yêu’ mà không có thực chất, vậy thì toàn vấn đề phức tạp của sự đau khổ của con người vẫn còn y nguyên. Phương cách thoát khỏi vấn đề này nằm trong chính chúng ta. Chúng ta phải bắt đầu hiểu rõ sự liên hệ của chúng ta với những người bạn, với thiên nhiên, với những ý tưởng và với những sự vật, bởi vì nếu không có sự hiểu rõ đó không có hy vọng, không có phương cách thoát khỏi sự xung đột và đau khổ.

Nuôi nấng một đứa trẻ đòi hỏi sự chăm sóc và quan sát thông minh. Những chuyên gia và sự hiểu biết của họ không bao giờ có thể thay thế được tình yêu của cha mẹ, nhưng hầu hết mọi cha mẹ lại làm hư hỏng tình yêu đó bởi những sợ hãi và những tham vọng riêng của họ, mà quy định và biến dạng tầm nhìn của đứa trẻ. Thế là, chẳng mấy người chúng ta quan tâm đến tình yêu, nhưng đa phần chúng ta lại kết giao với bề ngoài của tình yêu.

Cấu trúc xã hội và giáo dục hiện nay của chúng ta không giúp đỡ cá thể hướng về sự tự do và hợp nhất, và nếu những phụ huynh có nghiêm túc và khao khát rằng đứa trẻ nên lớn lên cùng khả năng tổng thể nhất của em ấy, họ phải bắt đầu thay đổi sự ảnh hưởng của gia đình và khởi sự sáng tạo những trường học có loại người giáo dục đúng đắn.

Trong bất kỳ phương hướng nào sự ảnh hưởng của gia đình và của trường học phải không được mâu thuẫn, vì vậy cả cha mẹ lẫn giáo viên phải giáo dục lại chính họ. Sự mâu thuẫn thường xuyên tồn tại giữa sống riêng tư của cá thể và sống của em ấy như một thành viên của nhóm, tạo ra một trận chiến liên tục bên trong chính em ấy và những liên hệ của em ấy.

Sự xung đột này được khuyến khích và được nuôi dưỡng qua loại giáo dục sai lầm, và cả những chính phủ lẫn những tôn giáo có tổ chức đều gia tăng sự hỗn loạn bởi những tín điều mâu thuẫn của chúng. Đứa trẻ bị phân chia trong chính em ấy ngay từ khởi đầu, mà sinh ra những thảm họa xã hội và cá nhân.

Nếu những người chúng ta mà thương yêu con cái của chúng ta và thấy sự cấp bách của vấn đề này sẽ trao những cái trí và những quả tim của chúng ta vào nó, vậy thì, dù có lẽ chúng ta có ít người bao nhiêu, qua sự giáo dục đúng đắn và một môi trường tổ ấm thông minh, chúng ta có thể giúp đỡ sáng tạo những con người tổng thể; nhưng nếu, giống như quá nhiều người, chúng ta nhét đầy những quả tim của chúng ta bằng những sự việc ranh mãnh của cái trí, vậy thì chúng ta sẽ tiếp tục thấy con cái của chúng ta bị hủy diệt trong những chiến tranh, trong nghèo khổ, và bởi những xung đột tâm lý riêng của chúng ta.

Sự giáo dục đúng đắn hiện diện cùng sự thay đổi của chính chúng ta. Chúng ta phải giáo dục lại chính chúng ta không được giết chết lẫn nhau bởi vì bất kỳ nguyên nhân nào, dù ngay thẳng đến chừng nào, bởi vì bất kỳ học thuyết nào, dù nó có vẻ hứa hẹn như thế nào cho sự hạnh phúc tương lai của thế giới. Chúng ta phải học hành sống từ bi, mãn nguyện với chút ít, và tìm kiếm sự Tối thượng, bởi vì chỉ như thế mới có thể có sự cứu rỗi thực sự của con người.

Thứ Hai, 21 tháng 7, 2014

Không đề 94





Một nào đâu phải là một
cái một của đất trời
Cái một của phương đông
thực hư- hư thực xuôi dòng
bước trong vô tận cõi lòng thong dong

Mỹ nhân đáy biển

 Chùm ảnh nude của Dương Quốc Định











Phân hóa giàu nghèo đang tăng nhanh


Từ ngày nền kinh tế chuyển đổi sang hướng thị trường đến nay, bên cạnh sự phát triển tất yếu của xã hội là sự xuất hiện của một tầng lớp doanh nhân năng động biết cách làm giàu. Số người giàu tăng nhanh dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội nhiều năm qua là vấn đề không chỉ người trong nước quan tâm mà còn là nội dung nghiên cứu của nhiều định chế quốc tế.



Một phúc trình của Ngân hàng Thế giới vừa công bố cho thấy thành phần giàu có ở Việt Nam đã tăng gấp ba trong thập niên qua. Trong khi đó, theo Tập đoàn Knight Frank, Việt Nam có khoảng 110 đại gia có tài sản cá nhân vượt quá 30 triệu USD trong năm 2013, tăng 34 người so với 10 năm trước đây. Có thể nói đây là những người siêu giàu mà tổng tài sản của họ đạt gần 3,4 tỉ USD.

Trên thực tế, số người siêu giàu ở Việt Nam có thể cao hơn dự báo này rất nhiều. Bởi số liệu thống kê của chúng ta thường không chính xác, thêm vào đó là tâm lý e ngại công bố tình hình tài sản công khai.

Knight Frank là tập đoàn hoạt động trong lĩnh vực tư vấn bất động sản, có trụ sở chính tại London (Anh), hiện điều hành 207 văn phòng tại 43 quốc gia với hơn 6.340 chuyên gia. Báo cáo hằng năm của Knight Frank thường được các tờ báo uy tín thế giới tham khảo sử dụng.

Để đưa ra các dự báo, Knight Frank dựa trên tình hình kinh tế thế giới, đầu tư thương mại và kể cả xu hướng phát triển toàn cầu. Tại mỗi quốc gia, chính sách vĩ mô đã được ban hành và những chính sách dự kiến sẽ được ban hành cùng với tình hình phát triển của thị trường, nhu cầu người tiêu dùng, xu hướng kinh doanh đầu tư, số liệu kết quả kinh doanh… là một số trong nhiều cơ sở để đưa ra dự báo.

Nghiên cứu của Knight Frank dưới tiêu đề “Báo cáo Thịnh vượng 2014” công bố cách đây vài tháng còn đi xa hơn một bước khi đưa ra nhận định tại châu Á sẽ xuất hiện nhiều người siêu giàu trong 10 năm tới, trong đó Việt Nam có tốc độ tăng người siêu giàu dự đoán 166%, cao nhất thế giới, đạt 293 người.

Tiếp theo là Indonesia tăng 144% với 1.527 người, Bờ Biển Ngà 54 người, tăng 116%. Siêu giàu được nói đến ở đây gồm những người có tài sản ròng từ 30 triệu USD trở lên.

Không chỉ siêu giàu, lần đầu tiên Việt Nam cũng đã có tỉ phú đôla, thể hiện qua giá trị vốn hóa của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán tăng mạnh.

Ông Phạm Nhật Vượng, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn VinGroup, dẫn đầu danh sách 10 người giàu nhất trên thị trường chứng khoán Việt Nam, có tài sản trị giá hơn 22.000 tỉ đồng tương đương trên 1 tỉ USD, được đánh giá là giàu gấp sáu lần những đại gia trung bình ở Việt Nam.

Hiện nay, chỉ tính riêng tổng tài sản của 10 người giàu nhất trên thị trường chứng khoán Việt Nam đã đạt hơn 56.000 tỉ đồng, tăng khoảng 30% so với giữa năm 2013.

Sau ông Phạm Nhật Vượng là ông Đoàn Nguyên Đức (Chủ tịch HĐQT Hoàng Anh Gia Lai), ông Trần Đình Long (Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Hòa Phát)… là những người trong Top 10 giàu nhất trên sàn chứng khoán.

Những đại gia chứng khoán này sau khi tập trung đầu tư vào bất động sản là chính, nay phát triển theo hướng đa ngành, có sản xuất công nghiệp nặng, bán lẻ…, những ngành hàng mang tính bền vững hơn.

Ở cấp độ đô thị lớn, TP. Hồ Chí Minh được dự đoán sẽ là nơi có số người giàu tăng mạnh nhất, lên đến 173% trong thập niên tới. Năm 2013, TP.HCM có 90 người siêu giàu trên tổng số 9 triệu dân.

Chuyên gia kinh tế tài chính Bùi Kiến Thành cho rằng tỷ lệ người siêu giàu Việt Nam tăng là dấu hiệu tốt cho nền kinh tế và nhấn mạnh “đại diện cho một nền kinh tế chính là cộng đồng doanh nghiệp, đối tượng chứng tỏ sức khỏe của nền kinh tế đó”.

Trong khi nền kinh tế 2014 được dự báo vẫn tăng trưởng dưới tiềm năng, số lượng người siêu giàu tại Việt Nam đã và đang tăng nhanh, làm gia tăng nguy cơ bất bình đẳng. Ông Sandeep Mahajan, chuyên gia Kinh tế trưởng của WB tại Việt Nam, nhận xét cứ khoảng 1 triệu người Việt Nam thì có một người siêu giàu, hiện Việt Nam đứng thứ hai trong số các nước Đông Nam Á có số người siêu giàu tăng mạnh trong vòng một năm qua.

Khoảng cách giữa những người rất giàu với số đông người nghèo sẽ tạo ra những phản ứng chính sách và xu hướng ngày càng có nhiều người dân chuyển đến các thành phố và những khu vực có điều kiện phúc lợi tốt hơn. Do vậy giảm khoảng cách giàu nghèo là mục tiêu quan trọng của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội mà từ lâu Chính phủ đã có nhiều cố gắng.

Cách đây 20 năm, khi vừa mới thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế, Việt Nam có quá nửa tổng số hộ dân sống dưới mức nghèo khổ, nay thì cả nước chỉ còn khoảng 10% tổng số hộ nghèo và hầu như không còn hộ đói. Cũng cách đây 20 năm, có đến 2/3 tổng số hộở khu vực nông thôn sống ở mức nghèo khổ và cũng có một tỷ lệ không nhỏ số hộ còn bị đói, giờ thì tỷ lệ này đã giảm khá nhanh.

Tuy đạt được những kết quả tích cực, nhưng tỷ lệ nghèo và quy mô số người nghèo ở Việt Nam còn lớn. Việc phân bố số người nghèo không chỉ chênh lệch ở tỷ lệ cao thấp qua các vùng, mà còn ở quy mô số người tuyệt đối.

Theo số liệu thống kê của nhà nước, vùng Đồng bằng sông Hồng có khoảng 1,23 triệu người, vùng trung du và miền núi phía Bắc có 2,76 triệu người, vùng Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung có 3,21 triệu người, vùng Tây Nguyên có khoảng trên 1 triệu người, Đông Nam bộ có gần 213.000 người và vùng Đồng bằng sông Cửu Long có trên 1,84 triệu người.

Đáng chú ý là với một đất nước liên tục phải gánh chịu thiên tai như Việt Nam thì ranh giới giữa mức cận nghèo và nghèo là rất mong manh nên nguy cơ số hộ nghèo tăng lên rất dễ xảy ra.

Thực tế trên cho thấy, bất bình đẳng trong thu nhập ở nước ta ngày càng rõ nét và gay gắt hơn, tỷ lệ hộ nghèo tập trung chủ yếu ở những vùng khó khăn, có nhiều yếu tố bất lợi như điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, kết cấu hạ tầng kém, trình độ dân trí thấp, trình độ sản xuất manh mún, sơ khai.

Ngoài ra, còn xuất hiện một số đối tượng nghèo mới ở những vùng đang trong quá trình đô thị hóa và nhóm lao động nhập cư vào đô thị, họ thường gặp khó khăn nhiều hơn và phải chấp nhận mức thu nhập thấp hơn lao động sở tại. Đây là những yếu tố làm gia tăng tình trạng tái nghèo và tạo ra sự không đồng đều trong tốc độ giảm nghèo giữa các vùng trong cả nước.

Hiện nay, hệ số chênh lệch giàu/nghèo của Việt Nam cao hơn nhiều nước đã trải qua thời kỳ dài phát triển kinh tế thị trường. Nhìn chung, cơ chế thị trường của chúng ta còn mới mẻ, thậm chí có người cho là nền kinh tế thị trường hoang dã, đã tạo ra những kẽ hở để cho một bộ phận lách cơ chế hoặc lợi dụng cơ chế để trục lợi, tham nhũng. Số người làm giàu dạng này thường không đóng góp bao nhiêu để chia sớt gánh nặng của nhà nước mà còn làm cho tiềm lực kinh tế ngày càng suy giảm.

Vì thế, nếu không nhanh chóng hoàn thiện thể chế, nhất là thể chế dân chủ, nhà nước pháp quyền, đồng thời xử lý vấn đề lợi ích nhóm, sở hữu chéo, lạm dụng độc quyền… thì chênh lệch giàu – nghèo hiện đang quá lớn lại sẽ càng tăng nhanh.

Thách thức này đòi hỏi Nhà nước và cả xã hội, trong khi khuyến khích, tôn vinh người làm giàu chính đáng, thì phải có biện pháp để tăng thu nhập của người nghèo, đảm bảo hệ số chênh lệch sẽ được kiềm chế, tiến tới giảm dần khoảng cách giàu – nghèo.

Nhà nước cũng cần có chính sách khuyến khích người giàu tham gia vào đời sống xã hội bằng cách giảm thuế cho các đóng góp tự nguyện hoặc có các quy định ưu đãi cho doanh nghiệp tham gia vào hoạt động từ thiện mà về lâu dài là nhằm rút ngắn phần nào chênh lệch giàu nghèo.

Hệ thống chính trị tốt thường biểu hiện qua việc phân bổ tài nguyên (đồng vốn, tài nguyên thiên nhiên, con người) đúng người đúng việc để với ưu thế vận tốc ban đầu được giao, những con người có năng lực sẽ tạo nên những giá trị gia tăng cho xã hội và đương nhiên họ được hưởng công lao xứng đáng với thành quả mang lại. Đó chính là sự công bằng.

Để có sự công bằng phải sử dụng công cụ điều tiết được mọi người chấp nhận, khi đó người giàu không phải là đối tượng của sự ganh tỵ, soi mói trong xã hội và khi họ làm tròn nghĩa vụ thì đáng được vinh danh.

Công cụ điều tiết công bằng xã hội có hiệu quả là khi tất cả mọi người đều đủ ăn đủ mặc, trẻ con được học hành, mọi người đều có cơ hội làm việc, được sống tự do hạnh phúc, là những điều kiện cơ bản phải đạt được. Và khi đó phân hóa giàu nghèo được trả lại vị trí của nó chỉ là sự phát sinh tự nhiên trong thời buổi thị trường.

> 10 lối tư duy khác biệt của người giàu
> 7 đặc điểm chung của người giàu có
> Số người giàu tại Việt Nam sẽ tăng gấp đôi vào năm 2020
> Khoảng cách giàu nghèo: Xã hội thuộc về những kẻ đại thắng

HOÀNG LONG/DNSGCT
http://www.doanhnhansaigon.vn/online/dien-dan-doanh-nhan/thoi-su/2014/07/1082649/phan-hoa-giau-ngheo-dang-tang-nhanh/

Luôn mỉm cười

i

Featured Image: Buttermoths



Đang mải làm bài tập trong phòng, chợt nghe tiếng tivi từ ngoài vọng vào một câu vô cùng ý nghĩa. Hình như nhờ cô em gái ngốc đáng yêu của tôi mà mỗi ngày tôi đều được nghe nó, nó là một câu trong đoạn quảng cáo phim Gia đình là số 1 đang chiếu trên HTV3 với nội dung: “Dù cuộc sống có quẳng bất cứ thứ gì vào con, hãy luôn mỉm cười vì chính nó sẽ giúp con vượt qua tất cả.” Chỉ nói suông thì không hay, phải là cách đọc nhấn nhá của diễn viên lồng tiếng thì mới thật sự hay. Chỉ đơn giản như vậy thôi, nhưng nhiều lúc mệt mỏi tôi vẫn tự nhủ mình như vậy để có thể giải quyết tốt và mim cười.

Từ lúc được thả vào đời và sống va chạm với đủ thứ chuyện, tôi như con bướm vừa thoát khỏi kén vội vàng tìm hiểu thế giới. Sự non nớt và yếu kém dĩ nhiên là rất hại cho bản thân tôi, tôi dùng con mắt tinh khiết vẫn nhìn cuộc sống của tuổi 18 tinh anh nhìn vào cuộc đời mà người ta vẫn kêu là muôn hình muôn vẻ để rồi nhận về bản thân bao nhiêu là thất vọng, tổn thương.

Tôi nhận ra rằng, không phải tất cả bạn bè xung quanh, những người vẫn cười cười nói nói với tôi thật sự không hiểu tôi hay đôi khi còn hiểu nhầm tôi. Tôi biết điều đó thông qua những confess, một hình thức nhắn tin mà tôi không thích lắm vì nó không minh bạch và thẳng thắn nhưng ít ra tôi biết được xung quanh mình có nhiều người giả dối lắm thay.

Và cả những khi tôi hết mình làm cộng tác viên để giúp đỡ cho một chương trình ý nghĩa nào đó vì cộng đồng, tôi vẫn cảm thấy có sự rời rạc và mất hứng khi nhiều bạn chỉ chăm vào giấy chứng nhận, tôi tự hỏi lòng mình rằng không phải niềm vui khi công sức mình bỏ ra giúp ít được cho ai đó đã là giấy chứng nhận to lớn nhất mà chúng ta nhận được ư. Nhiều nhiều những thứ khác nữa, nhưng tôi vẫn luôn biết ơn cuộc sống vì cho tôi một cái nhìn mỗi ngày một hoàn thiện hơn.

Qua nhiều phép thử, tôi vẫn là tôi, vẫn giữ vẹn nguyên những suy nghĩ ngày nào. Thầm cảm ơn những cục đá tảng, những gáo nước lạnh thậm chí là cả những virus, vi khuẩn mà cuộc sống quăng vào tôi để tôi biêt rằng thì ra bản tính mình tốt thật chứ không phải giả tạo.

Thỉnh thoảng tôi mệt mỏi đến khó mà ngốc dậy được, cảm thấy buồn chán đang làm chủ bản thân mình. Nhưng đôi ngày qua, suy nghĩ phải mạnh mẽ, phải đi tiếp và phải đi nhanh hơn khiến tôi lại bắt đầu đứng dậy và mỉm cười vì sau cơn mưa tôi lại được ngắm nhìn cầu vòng tuyệt đẹp. Những điều kỳ diệu vẫn còn đợi tôi ở phía trước, tôi sẽ không từ bỏ vì điều gì cả!

Cuộc sống này! Cứ đấm tôi đi, cứ trù dập tôi đi, cứ gặm nhấm tâm hồn tôi đi! Chúng ta cùng cá cược nào, tôi cược rằng trong cuộc chơi này, tôi sẽ là người chiến thắng bởi vì tôi có một niềm tin rằng tôi sẽ vượt qua tất cả miễn là tôi còn sống. Tôi sẽ còn mỉm cười.

Classic