Chủ Nhật, 1 tháng 12, 2013

Chuyện về chiếc “áo dài” Việt Nam



Trong toàn nước Việt Nam từ Bắc chí Nam và cả trên thế giới, chiếc áo dài được nhiều người xem là một trang phục truyền thống dành cho nam nữ nước Việt mặc vào các dịp lễ hội trang trọng, dùng làm đồng phục trong các công sở, doanh nghiệp … đặc biệt là đồng phục cho nữ sinh các trường Trung học.

Danh từ “áo dài” trong văn hóa trang phục và một số danh từ khác như “phở”, “nem” trong văn hóa ẩm thực, “đàn tài tử” trong âm nhạc (từ sau này nhờ Ea Sola phổ biến) được báo chí trên thế giới dùng mà không cần phải dịch sang tiếng bản xứ.

Chưa ai biết rõ áo dài xuất hiện trong nước Việt Nam từ bao giờ. Một số nhà khảo cổ để ý rằng trên mặt Trống Đồng Ngọc Lũ (hiện được lưu trữ tại Bảo tàng viện Lịch sử Hà Nội) có chạm hình ảnh những người phụ nữ Việt mặc áo hai vạt, nhưng chưa phải là áo dài ngày nay và cho rằng có lẽ chiếc áo đó là tiền thân của áo dài.



Áo dài Việt Nam đầu thế kỷ XX

Trong quyển “Sử ký Văn hóa Việt Nam”, Đào Duy Anh có nói tới một loại áo gài nút bên trái mà người Việt đã thường hay mặc, khác với áo của người Trung Quốc gài nút bên mặt. Chúng ta cũng được biết một loại áo gọi là “áo giao lãnh”, hình dáng như áo tứ thân, nhưng không buộc hai vạt vào nhau ở phía trước. Người nông dân trong công việc đồng áng thường buộc hai vạt trước lên cao để tiện cho công việc. Áo tứ thân được mặc rất thông dụng tại miền Bắc và phần thân dưới các phụ nữ còn mặc váy.

Chánh sử không ghi lại cách vận trang phục của người dân nước Việt, chúng ta chỉ biết qua cách vận trang phục trong triều đình và trong hàng thượng lưu.



Gia đình vua Bảo Đại mặc áo dài Việt Nam đầu thế kỷ XX

Trong dân chúng có lẽ trang phục của Trung Quốc được người dân bắt chước nên sử có ghi lại năm 1744, một chúa Nguyễn (Nguyễn Phúc Khoát) có cho ra một sắc dụ khuyên dân không nên mặc áo Tàu, mà nam nữ đều phải may áo theo mẫu quy định. Về thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa ống tay rộng hẹp tùy tiện, hai bên nách áo trở xuống phải khâu kín không được xẻ mở (Đại Nam Thực Lục tiền biên). Lê Quý Đôn, trong quyển “Phủ biên Tạp lục” có viết: “Chúa Nguyễn Phúc Khoát đã viết những trang sử đầu tiên cho chiếc áo dài như vậy”.

Căn cứ vào hai tư liệu trên, chúng ta có thể nghĩ rằng danh từ “áo dài” xuất hiện vào cuối thế kỷ XVIII.



Chiếc áo dài phụ nữ đầu thế kỷ XIX



Dưới triều Nguyễn, thời Minh Mạng, có chiếu nhà vua không cho mặc váy mà phải mặc quần hai ống. Vì vậy nên trong dân gian có câu ca dao :

Chiếu vua Minh Mạng ban ra
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng.

Khoảng đầu thế kỷ XIX, người phụ nữ miền Bắc trên mặc áo tứ thân, dưới mặc quần hai ống. Từ miền Trung đi tới miền Nam phụ nữ không mặc áo tứ thân, mà chỉ mặc một loại áo hai vạt mang tên là áo dài, mọi người đều mặc một kiểu, áo may rộng không sát vào thân, luôn luôn có tay dài. Áo dài thường được mặc trong nhà hay ra ngoài đường. Trong miền Nam, vào giữa thế kỷ XIX, xuất hiện chiếc áo bà ba (nếu có dịp tôi sẽ bàn đến).



Qua thế kỷ XX, từ năm 1920 đến 1930, tại miền Bắc có một nhóm họa sĩ nghĩ ra một chiếc áo dài hai vạt, không chỉ may bằng vải mà may bằng lụa, màu sắc đẹp, nhã như màu trắng, đen, xanh, tím. Nhóm Tự lực văn đoàn rất ủng hộ ý kiến này và trong nhóm có 2 họa sĩ (Nguyễn Cát Tường & Lê Phổ) tạo ra một chiếc áo dài may ráp vai. Thuở ấy, áo mới ra đời mang tên là “áo dài Le Mur” (Mur là tiếng Pháp, chỉ một bức tường, mà tường là tên của một họa sĩ). Chiếc áo đó được phụ nữ hoan nghênh và năm 1935 có một người phụ nữ tên Nguyễn Thị Hậu mặc áo dài Le Mur chụp ảnh, mọi người phụ nữ Việt Nam đều thích xem và một số đông bắt chước may theo áo Le Mur. Họa sĩ Lê Phổ để nghị may áo dài sát vào người hơn là để rộng, có một số phụ nữ rất hoan nghinh chiếc áo mới này.



Vài năm sau, trong miền Nam có một thợ may tên Dung, ở tại Đakao, hiệu may mang tên “Dung Tailor” chế ra một áo dài ráp vai theo phương Tây, gọi là “áo dài Raglan”, người Việt thường gọi “áo dài giác lăng” hay “áo dài ráp lăng”, cổ ráp xéo, quần ráp xéo, ống rộng. Đó là thời trang mới.



Áo dài Raglan

Nhưng ở cả ba miền áo dài “cổ điển” vẫn được đa số người lớn tuổi thích may. Chỉ có các phụ nữ trẻ tuổi thích theo thời trang nên mặc những áo dài chạy theo thời trang. Các nữ sinh lại thích mặc áo dài mini Raglan, áo chỉ dài tới đầu gối.

Năm 1958, trong cuộc triển lãm nữ công tại Cô Nhi Viện, phu nhân của ông cố vấn Ngô Đình Nhu xuất hiện với một áo dài mới do bà thiết kế, áo hở cổ, không bâu, tay ngắn và mang găng tay, tóc bới cao. Lúc đó, các thợ may gọi loại áo đó là “áo dài bà Nhu”. Thời trang đó ít được người theo, sau vài năm không ai nhắc tới nữa.



Cựu Đệ nhất phu nhân Trần Lệ Xuân trong chiếc áo dài bà Nhu



Năm 1968, giới phụ nữ trẻ thích mặc một lối áo mới, phần nhiều chỉ dài tới đầu gối, phía trên sát vào thân, dùng nhiều loại hàng ngoại màu sắc rực rỡ, các cô gọi là “áo dài hippy”, thời trang đó cũng không được nhiều người hưởng ứng, đa số chỉ chấp nhận việc dùng hàng mới có in bông hoa để may áo dùng trong những trường hợp đặc biệt (tiệc cưới, dạ hội …).



Áo dài hippy

Năm 1970, tại Hội nghị Quốc tế Osaka Nhựt Bổn, các thành viên nữ trong phái đoàn Việt Nam mặc áo dài được báo chí Nhựt Bổn khen tặng.

Năm 1973, tại Hội nghị Hòa Bình Bốn Bên, bà Nguyễn Thị Bình, đại diện cho chánh phủ Cách mạng lâm thời (GPMN) mặc áo dài dự Hội nghị, được các báo thế giới chụp ảnh và khen rằng chiếc áo dài Việt Nam nghiêm trang mà rất đẹp.



Bà Nguyễn Thị Bình và ông Nguyễn Hữu Thọ tại Hội nghị Paris 1973

Nhưng khi nước nhà thống nhứt thì chiếc áo dài không còn được phổ biến như ngày xưa, vì lúc đó những phụ nữ từ vùng kháng chiến về thành đều mặc áo bà ba đen, cổ cuốn khăn rằn. Hình ảnh của những người phụ nữ xả thân vì nước trong con mắt của dân chúng thời ấy có cái gì đáng tôn trọng. Những người có áo dài ngần ngại không dám mặc áo dài dự hội, mà ai cũng cắt áo dài thành áo bà ba. Huống chi đất nước nghèo nàn, thiếu ăn, thiếu mặc, hàng vải may 2 áo dài có thể dùng may 3 chiếc áo bà ba. Do đó, áo bà ba thịnh hành và áo dài vắng bóng. Nhưng trong những cuộc lễ lớn của chánh quyền cách mạng, nhân viên nữ các ban tiếp tân được mặc áo dài để tiếp khách quốc tế.



Dầu cho chiếc áo dài không còn được phổ biến như xưa, nhưng trong nhiều gia đình cũng còn giữ chiếc áo dài để mặc trong các dịp trọng đại.

Khi nền kinh tế trong nước được phát triển, nữ sinh cấp III các trường phổ thông bắt đầu được mặc lại áo dài trắng. Tại các cơ quan, doanh nghiệp, áo dài các màu được mặc thành đồng phục. Hàng ngoại được nhập nên những nhà thiết kế bắt đầu tạo ra những kiểu áo dài mới, dùng hàng lụa mới.



Năm 1989, trong nước Việt Nam đã tổ chức cuộc thi “áo dài” để chọn hoa hậu áo dài, theo báo chí ghi lại thì trong nước có tới 16 ngàn người tham dự.



Năm 1995, tại Tokyo Nhựt Bổn có tổ chức một cuộc thi quốc tế để dành giải thưởng cho một loại áo của phụ nữ trong các nước châu Á, mang tên “Miss International Pageant”, năm đó các loại áo đều có mặt, từ sari Ấn Độ, kimono Nhựt Bổn, hanbok Triều Tiên, … nhưng áo dài Việt Nam đã được tôn vinh là trang phục phụ nữ đẹp nhứt châu Á.

Qua thế kỷ XXI, trong những cuộc thi hoa hậu thế giới, ứng cử viên Việt Nam luôn được chú ý nhờ chiếc áo dài, đã được các nhà thiết kế thời trang tạo mẫu thành những chiếc áo dài dạ hội, áo dài cưới… với hình dáng và màu sắc đa dạng, phong phú. Các báo trên thế giới đua nhau chụp ảnh áo dài Việt Nam.



Đến năm 2000, Việt Nam đăng cai tổ chức cuộc thi hoa hậu thế giới, có một buổi thi “người đẹp áo dài”, cùng với trang phục dạ hội, áo tắm. Năm đó, bắt đầu những cuộc thi hoa hậu thế giới và hoa hậu hoàn vũ đều có những buổi thi đặc biệt về “áo dài”.



Các thí sinh nước ngoài trong trang phục áo dài Việt Nam

Năm 2007, nhà thiết kế Việt Nam David Minh Đức đã thiết kế 30 chiếc áo dài, đặt tên là “Long hoa tụ hội”, nhiều hoa hậu trên thế giới sau khi mặc áo dài rất thích và muốn giữ làm kỷ niệm.



NTK Minh Đức đang chỉnh sửa trang phục cho một người mẫu

Năm 2008, trong cuộc thi hoa hậu hoàn vũ, đêm chung kết được tổ chức tại Nha Trang, ban tổ chức nhờ nhà thiết kế Võ Việt Chung may 85 bộ áo dài cho cuộc thi, mang tên là “Big Collection Hoa hậu hoàn vũ”. Nhà thiết kế lấy chủ đề là “Bốn mùa”, lựa những chất liệu ren, lụa, tơ cao cấp, một số lớn loại vải du nhập từ nước ngoài. Nhà thiết kế muốn cho các hoa hậu lúc mặc áo dài vẫn thấy thoải mái và gần gũi với văn hóa của họ, nên chọn lựa hướng đi “đông tây kết hợp”. Do đó, chiếc áo dài tuy vẫn còn kín đáo, e ấp nhưng cũng có nét gợi cảm, hiện đại. Nhà thiết kế này rất cầu toàn nên trong khi thực hiện 85 chiếc áo dài, nhiều lúc không ngại bỏ tiền túi ra để sửa lại những chiếc áo dài chưa thỏa mãn.



NTK Võ Việt Chung và một mẫu áo dài

Năm 2009, trong kỳ thi hoa hậu thế giới, tổ chức tại Mỹ, hoa hậu là một người Mỹ gốc Việt, tên Đỗ Linh Phượng (Lynn Phuong Frazier) đoạt giải trong chiếc áo dài lộng lẫy.



Năm 2010, trong cuộc thi hoa hậu thế giới người Việt vừa rồi, ban tổ chức đã qui định sẽ có 4 cuộc thi quan trọng: trang phục dạ hội, áo tắm, áo dài và thi ứng xử.



Phần thi trang phục áo dài trong cuộc thi Hoa hậu thế giới người Việt 2010

Nói tới áo dài, cũng không thể không nhắc tới hai nhà thiết kế hàng đầu của Việt Nam là NTK Sỹ Hoàng và Minh Hạnh. Họ là những chuyên gia thời trang đã từng có mặt trong các kỳ thi Hoa Hậu trong nước, chương trình Duyên Dáng Việt Nam tại nước ngoài, các cuộc thi thiết kế thời trang… và được chánh thức mời giới thiệu áo dài tại các nước Châu Á, Châu Âu, đặc biệt là ở Pháp và Bỉ là những trung tâm văn hóa nghệ thuật nổi tiếng thế giới.



NTK Sỹ Hoàng trong một chương trình giới thiệu tà áo dài tại Singapore



Tà áo dài xuất hiện thướt tha trong chương trình “Duyên dáng Việt Nam”

Cả hai nhà thiết kế đều tạo lập cho mình phong cách riêng trong từng bộ sưu tập áo dài và khơi gợi được vô số sự quan tâm trong các giới thời trang, nghệ thuật, báo chí… đối với văn hóa Việt Nam.

Minh Hạnh là nhà thiết kế Việt Nam đầu tiên, sau khi đoạt giải thưởng New Designer Award tại cuộc thi thiết kế Makuhari Grand Prix tại Nhựt (tháng 9/1997), đã từng có vinh hạnh giới thiệu 100 mẫu thời trang trong bộ sưu tập áo dài “Truyền thống và tương lai” tại đền Kiyomizu – Dera (Nhựt Bổn), nơi chưa có ai được trình diễn tại đây, ngay cả với giới thiết kế Nhựt Bổn. Cô dành hết thời gian trong sự nghiệp của mình để tôn vinh chiếc áo dài quê hương trong mắt đồng bào và bạn bè quốc tế.



NTK Minh Hạnh và một vài mẫu thiết kế của mình







Theo Minh Hạnh, vẻ đẹp truyền thống và bí ẩn của chiếc áo dài Việt Nam là “một ngôn ngữ không cần phiên dịch”, những đường nét kín đáo mà gợi cảm, những tà áo thêu bao đường chỉ thăng trầm của thời gian đã nói lên tất cả. Điểm sơ qua vài bộ sưu tập của Minh Hạnh như “Rồng và Bướm”, “Trở lại thiên đường”, áo dài thụng xưa, áo dài thổ cẩm… cũng đủ thấy tình yêu chiếc áo dài dân tộc luôn cháy bỏng trong tâm hồn Minh Hạnh.

Còn Sỹ Hoàng, ngoài những bộ sưu tập áo dài thiết kế cho người lớn như “Hương xưa”, “Thanh xuân”, “Áo dài cưới cung đình Huế”, “Áo dài cưới vương triều”, “Màu thời gian”, “Bốn mùa”… nhà thiết kế tài hoa này còn có óc sáng tạo phong phú khi thực hiện những bộ áo dài dành riêng cho trẻ em, đặc biệt là từ những bức tranh mà các em thiếu nhi tham gia trong cuộc thi Nét Vẽ Xanh của thành phố. Táo bạo hơn nữa, Sỹ Hoàng cũng đang bắt tay thực hiện dự án về việc xây dựng một “nhà hát áo dài” nhằm tôn vinh trang phục áo dài dân tộc lên thành một tác phẩm nghệ thuật.

Ngoài ra, Sỹ Hoàng còn là một nhà tổ chức nhiều sáng kiến khi đã tổ chức cuộc thi vẽ áo dài trẻ em “Tài năng thiết kế nhí” trong năm 2008, tổ chức cuộc thi vẽ áo dài trẻ em trong hội thi “Nét Vẽ Xanh” 2009, và mới đây nhứt cũng là cuộc thi vẽ áo dài trẻ em trong “Nét Vẽ Xanh” lần 13 năm 2010. Tất cả những mẫu áo dài thiếu nhi của Sỹ Hoàng đều biểu hiện tính cách hồn nhiên, trong sáng, đáng yêu của tuổi thơ, với gam màu tươi tắn, ý tưởng ngộ nghĩnh tràn đầy mơ ước của các em thể hiện từ nguyên gốc bức tranh đoạt giải.



Trong “Lễ hội Áo Dài 2010″ tại Festival Huế, có sự góp mặt của 17 nhà thiết kế, kể cả hai nhà thiết kế hàng đầu: Sỹ Hoàng cùng bộ sưu tập “Chị và Em”, Minh Hạnh với bộ sưu tập “Mẹ và Con” được khán giả rất quan tâm. Các nhà thiết kế áo dài chẳng những tạo những mẫu áo phù hợp với người phụ nữ Việt Nam mà còn nghĩ tới những người phụ nữ trên thế giới, đặc biệt là các phụ nữ Tây Âu, nên các kiểu áo dài này cũng được thiết kế sao cho phù hợp với vóc người phương Tây để khi diện chiếc áo dài Việt Nam lên người, họ có thể cảm thấy mình trở nên dịu dàng, đằm thắm.



Bộ sưu tập “Chị và em” của NTK Sỹ Hoàng


Qua bao nhiêu thăng trầm, áo dài phụ nữ Việt Nam hiện nay được mọi người trong và ngoài nước quí trọng như một chiếc áo truyền thống đặc biệt của dân tộc Việt. Các nhà thiết kế dầu cho có dùng chất liệu mới, vẽ hình dáng cách tân … cũng không thể nào làm mất nét đặc biệt của chiếc áo hai vạt mà nhà thơ Văn Tiến Lê đã từng ca ngợi:

Đơn sơ hai mảnh tuyệt vời
Thân sau vạt trước nên lời nước non.

GS. Trần văn Khê

10 ngộ nhận văn hoá Việt Nam hiện nay



Trần Đình Sử



Hoàng Ngọc Hiến là nhà giáo, nhà phê bình văn học, nhà triết luận văn hoá, nhà dịch thuật. Người ta đã biết nhiều về ông với tư cách nhà phê bình văn học mà ít biết về ông như nhà triết luận văn hoá. Về mặt này ông thể hiện một niềm trăn trở khôn nguôi đối với các vấn đề văn hoá Việt Nam hiện đại. Ông vừa từ biệt chúng ta để ra đi vĩnh viễn, nhưng những trăn trở của ông về văn hoá Việt Nam hiện tại đã đặt ra hàng loạt vấn đề hết sức quan trọng và thiết thực mà những ai đang băn khoăn về văn hoá Việt Nam hiện thời không thể bỏ qua. Những trăn trở của ông sẽ còn mãi với văn hoá Việt Nam hôm nay và mai sau.

Hoàng Ngọc Hiến đã viết hàng chục bài báo về văn hoá nói chung cũng như về văn hoá Việt Nam, đặc biệt là bài Sức mạnh văn hoá và sự phát triển của văn minh (trường hợp Việt Nam) (Trong Tác phẩm chọn lọc, nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 2008), thể hiện nỗi niềm trăn trở của ông với tư cách là một nhà trí thức có trách nhiệm đối với các vấn đề văn hoá Việt Nam hiện đại. Tôi đã đọc hàng chục, thậm chí hàng trăm công trình lớn nhỏ về văn hoá Việt Nam mà các công trình về văn hoá của Hoàng Ngọc Hiến vẫn có nét rất khác biệt không so sánh được, bởi vì chúng vừa có tính lí thuyết vừa có giá trị thiết thực.

Chúng ta đang bước vào thời kì xây dựng lại nền văn hoá dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế và tri thức với nhiệm vụ hiện đại hoá đất nước toàn diện, tiếp nhận và cải tạo, đổi mới nhiều giá trị văn hoá phương Tây và cả của chúng ta. Sau cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài nhiều chục năm với sự đối lập gay gắt về ý thức hệ đã để lại rất nhiều ngộ nhận làm trở ngại cho công cuộc xây dựng văn hoá ấy. Niềm trăn trở thiết tha của tác giả là làm sao nâng cao nhận thức, hoá giải các ngộ nhận để phát triển văn hoá dân tộc bền vững lâu dài. Vấn đề lớn nhất thời đại ngày nay là xử lí mối quan hệ văn hóa Đông Tây. Văn hóa phương Đông cố nhiên là độc đáo, cần được bảo tồn, phát huy. Song văn hóa phương Tây là động lực của tiến bộ. Các nước Đông Á, Đông Nam Á, nước nào biết tiếp nhận văn hóa phương Tây đều tiến bộ, còn ai từ chối phương Tây đều lạc hậu thảm hại. Vấn đề lớn thứ hai là văn hóa dân tộc, văn hóa nhân văn. Ở đây Hoàng Ngọc Hiến tổng kết thành 10 ngộ nhận lớn của thời đại, rất đáng cho chúng ta suy nghĩ.

Ngộ nhận thứ nhất là tuyệt đối hoá sự khác biệt giữa các ý thức hệ, giữa phương Đông và phương Tây, giữa các tôn giáo, khẳng định “hòa nhi bất đồng”…mà không thấy sự “đồng nguyên” của chúng ở “luồng nhân bản gốc”, bởi dù khác nhau bao nhiêu giữa chúng vẫn có niềm “quan tâm an sinh và phát triển bền vững” của con người. Cái “luồng nhân bản gốc” ấy là cơ sở để từ xa xưa dân tộc ta đã biết đến thái độ “khoan hoà”(không đơn giản là khoan dung, bởi khoan dung là thuật ngữ của lí thuyết đa nguyên) của các “giáo” (học thuyết). Ngày nay trong bối cảnh hội nhập không chỉ có “tam giáo”, mà có thể là “lục giáo” “thập giáo” hay nhiều hơn nữa, thì khoan hoà là rất cần thiết. Bởi khoan dung là chấp nhận cái khác mình, còn khoan hòa là có sự hấp thu cái hợp lí trong những cái khác. Ngày nay một số kẻ giáo điều hiện đại mượn lời Khổng Tử nói “người quân tử hòa nhi bất đồng” để bày tỏ thái độ đối với hội nhập, thực chất là một kiểu cố thủ trịch thượng giả dối. Trong bối cảnh toàn cầu hoá hôm nay trước văn hóa phương Tây mà “làm ra bộ nạn nhân của phương Tây, và phủ định phương Tây” là lỗi thời.

Ngộ nhận thứ hai là chỉ thấy xung đột văn hoá, xâm lăng văn hoá mà không thấy cộng sinh văn hoá, cơ sở giao lưu các giá trị để các tài năng đột xuất sáng tạo nên các giá trị văn hoá mới của dân tộc như tiếng Việt hiện đại, Thơ Mới, tiểu thuyết 30 – 45…

Ngộ nhận thứ ba là chúng ta hầu như chỉ quan tâm đến độc lập, tự do dân tộc mà chưa quan tâm đầy đủ đến tự do cá nhân, tự do cá tính, tự do phát triển nhân cách nó là cội nguồn của mọi hoạt động sáng tạo.

Ngộ nhận thứ tư là nhiều khi đồng nhất chủ nghĩa cá nhân “đạo đức” (chủ nghĩa vị kỉ mà thời nào cũng đáng ghét) với chủ nghĩa cá nhân “văn hoá”, tức là tinh thần độc lập nội tại của cá nhân, niềm tin vào lẽ phải của mình, ý kiến của mình, giá trị của mình có tác dụng nâng đỡ con người trong mọi hoạt động sáng tạo như là một chủ thể. Sự ngộ nhận ấy là cội nguồn bi kịch trong số phận của không ít nhà văn hoá Việt Nam thời gian tước đây.

Ngộ nhận thứ năm là thiếu một hình thức sở hữu thích đáng làm nền tảng cho tự do cá nhân, điều mà các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác đã khẳng định. Trong điều kiện đó chỉ có mốt thiểu số người nắm độc quyền phát triển, còn đa số bị tước đoạt quyền phát triển, vì chỉ mãi chạy lo cơm áo hằng ngày, hao phí không biết bao tài trí vào chuyện sinh hoạt vật chất.

Ngộ nhận thứ sáu là nặng về coi trọng lập lại pháp luật kỉ cương, những việc ngắn hạn, mà nhẹ quan tâm xây dựng văn hoá lâu dài, mà nhẽ ra cần lấy ngắn nuôi dài thì mới có bền vững.

Ngộ nhận thứ bảy là trong phát triển văn hoá chúng ta chú trọng phát triển văn hoá phong trào, văn hoá cộng đồng ở mặt vĩ mô, mà ít quan tâm văn hoá vi mô ở gia đình, cơ quan, xóm mạc, trong đó đề cao các “phẩm giá cá nhân”, sự tu thân, tạo nên sự tiếp nối bền vững của đời sống cá nhân, gia đình.

Ngộ nhận thứ tám là thường hiểu giao lưu văn hoá Đông Tây một cách hời hợt, hoặc là Âu hoá hoặc là bảo vệ bản sắc dân tộc, mà không thấy sự bổ sung nhau, soi sáng nhau, tạo ra giá trị văn hoá mới. Tác giả nói đến khác biệt cá nhân phương Đông và phương Tây, đến “tình nghĩa” trong ý thức phương Đông, Việt Nam với “nhân quyền” phương Tây, nêu yêu cầu cần “Dân tộc hoá khái niệm nhân quyền”.

Ngộ nhận thứ chín là đối lập hiện đại hoá với dân tộc hoá một cách không lôgích, mà không thấy sự thống nhất của hai mặt đó, trong đó hiện đại hoá chủ yếu là hợp lí hoá và chủ thể hoá, bao gồm chủ thể hoá cá nhân và dân tộc; tính dân tộc do đó chỉ là một mặt cục bộ của tính hiện đại. Có thể nói rằng bản sắc văn hoá dân tộc là do chính những người nghệ sĩ dân tộc tạo ra, Sự bảo đảm quyền tự do sáng tác cho các nghệ sĩ và trường phái nghệ thuật là điều kiện tiên quyết không thể thiéu cho sự phát huy và làm giàu bản sắc dân tộc.

Ngộ nhận thứ mười là trong quan niệm về chủ nghĩa nhân đạo mới ta thường chỉ chú trọng đến nội dung giải phóng con người mà chưa chú trọng tới mặt phát triển tự do cho mỗi người và mọi người. Tác giả phân biệt văn hoá với văn mình, chủ trương mọi hình thức văn minh rồi sẽ bị vượt qua, chỉ có văn hoá –các cách thức tạo ra cuộc sống có ý nghĩa và có giá trị thì mới có sức sống và sức mạnh lâu dài. Các ngộ nhận trên nằm đây đó khá phổ biến trong diễn ngôn xã hội hôm nay.

Niềm trăn trở của Hoàng Ngọc Hiến không chỉ có mấy điểm ấy. Không phải mọi đề xuất, lí giải của tác giả đều đã thấu đáo, không có gì bàn cãi nữa, thậm chí có những chỗ bản thân tác giả cũng có ngộ nhận rõ ràng. Nhưng đây không phải lúc thảo luận. Đây là lúc ghi nhận một bầu tâm huyết, những trăn trở khôn nguôi trước nhiều vấn đề liên quan đến vận mệnh của văn hoá dân tộc. Qua những trăn trở này ta thấy Hoàng Ngọc Hiến là một con người đầy thiện chí xây dựng, một người trong cuộc phản tỉnh những gì đã từng trải và đề xuất thẳng thắn các suy nghĩ của mình để mọi người có trách nhiệm cùng suy nghĩ và hành động. Có thể coi đó là những vấn đề cuối cùng ông gửi lại cho chúng ta trước lúc đi xa về phương diện văn hoá dân tộc.

Hà Nội, 27 – 01 – 2011

Lai căng



Nguyễn Văn Tuấn

Đọc báo Việt Nam có nhiều khi làm người đọc như tôi cảm thấy … nhức mắt. Nhức mắt vì những chữ nữa Tây nữa Ta chẳng vào đâu cả. Chẳng hạn như mới đây rộ lên những chữ như “hotgirl”, “hotboy”, “teen girl”, “teen Việt”, “showbiz”, v.v. Những chữ mà ngay cả tôi (đang định cư ở nước nói tiếng Anh) cũng cảm thấy khó hiểu. Kho tàng ngữ vựng tiếng Việt cũng có những từ với ý nghĩa tương đương, nhưng tại sao giới báo chí không dùng, mà phải nhờ đến tiếng Anh? Tôi thật không hiểu nổi, nên phải ghi lại vài dòng gọi là … nhật kí.

Teen (thật ra là “Teenager”) là chữ dùng để chỉ những em trong độ tuổi dậy thì đến tuổi 19. Tiếng Việt mình có chữ “thiếu niên” để chỉ những em trong độ tuổi dậy thì đến tuổi thiếu nữ hay thanh niên, tức là tương đương với teenager trong tiếng Anh. Còn hotgirl và hotboy thì thú thật tôi không rõ ở Việt Nam có ý nghĩa gì, nhưng trong tiếng Anh thì hotgirl dùng để chỉ những cô gái trong độ tuổi 14-27, xinh xắn, tự tin (có khi phách lối), và hấp dẫn (mà nam giới bắt buộc phải nhìn). Tôi nghĩ tiếng Việt có thể là “cô gái duyên dáng” hay “Gái có duyên”. Nói chung, tôi thấy tiếng Việt mình có những từ tương đương với danh từ tiếng Anh để diễn tả, và không có lí do gì mình phải dùng đến tiếng Anh.

Ấy thế mà những từ tiếng Anh đó lại xuất hiện khá thường xuyên trên báo Việt Nam! Nếu viết trên facebook hay blog thì tôi nghĩ việc dùng một chút tiếng Anh thì tôi còn có thể hiểu được, vì viết nhanh và mang tính cá nhân. Nhưng báo chí là một diễn đàn nghiêm chỉnh và mang tính giáo dục thì việc dùng tiếng Anh cùng đồng nghĩa với sự thiếu tôn trọng tiếng mẹ đẻ. Hi vọng rằng tôi không quá nặng lời.

Giới báo chí không phải là những người duy nhất truyền bá loại ngôn ngữ nửa nạc nửa mỡ, mà người dân, đặc biệt là giới trẻ, cũng thường hay dùng loại ngôn ngữ này. Có nhiều chuyện tiếng Việt “nửa nạc nửa mỡ” rất hài hước ở quê tôi. Quê tôi có nhiều người định cư ở nước ngoài, và trong số đó có người định cư theo diện kết hôn trong mấy năm gần đây. Làng tôi vẫn còn lưu truyền vài câu chuyện cười ra nước mắt. Cô nọ sau khi lấy chồng định cư ở Anh vài năm về thăm quê, cô vận cái váy ngắn và cái áo khoe những đường cong con gái ra chợ quê, nơi mà đa số bà con mặc áo bà ba. Cô ghé qua hàng bán rau và thấy trái me, cô đon đả hỏi: Dì hai ơi, trái này là trái gì vậy dì? Dì Hai biết quá cái cô này con ông Ba Th, mới đi nước ngoài có 2 năm thì làm sao quên tiếng Việt được, nên bực mình và buông một câu trả lời làm cô gái bỏ đi luôn: Ủa, con hổng biết trái này hả, ở quê mình gọi là cu Tây đó con. Dì Hai này thật đáo để! Câu chuyện này chắc chắn không phải xảy ra chỉ ở quê tôi mà có thể rất nhiều nơi khác. Nó là hiện tượng mà Thi sĩ Nguyễn Bính từng than:

Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều

(Thật ra, trường hợp cô gái ở quê tôi thì đúng ra phải là “hương đồng gió nội” bay đi quá nhiều!)

Thật ra, trong nhiều tình huống cũng nên thông cảm cho những người dùng tiếng Anh. Có khi người ở nước nói tiếng Anh lâu và thành … thói quen. Thói quen này mang tính địa phương, và vì nó ngắn gọn, ai trong cộng đồng cũng hiểu. Chẳng hạn như nói đến “đi shopping” thì ai cũng hiểu là đi mua sắm ở các siêu thị (hay mall). Shopping không phải đơn giản là “đi chợ” theo ý nghĩa của tiếng Việt. Thành ra, dùng shopping là đơn giản nhất! Có khi cách nói ngắn Tây-Ta còn tuỳ thuộc vào văn hoá địa phương. Chẳng hạn như người Việt ở Úc, nói đến đi mua thức ăn “take away” nhưng bên Mĩ thì gọi là “Food to go”, thì ai cũng hiểu đó là đi mua thức ăn về nhà chứ không phải ăn ở quán. Thói quen đó lan truyền sang Việt Nam khi Việt kiều về thăm quê. Việt kiều về quê thỉnh thoảng quen cách nói nước ngoài nên dễ làm bà con dè bỉu rằng “mới đi có vài năm mà làm bộ làm tịch quên tiếng Việt”. Trong thực tế họ không có ý khoe khoang tiếng Anh đâu, mà chỉ vì thói quen mà thôi.

Cá nhân người viết bài này biết người dưới quê khó tính, nên không bao giờ hay hạn chế đến mức thấp nhất việc dùng chữ Anh trong cách nói hàng ngày ở VN. Dù tự dặn mình như thế nhưng thỉnh thoảng tôi cũng chêm tiếng Anh trong giao tiếp, vì quán tính (nhưng tôi lúc nào cũng giải thích chữ mình nói có nghĩa là gì để bà con hiểu). Còn trên mặt báo thì tôi gần như không sử dụng tiếng Anh, hay có sử dụng những khái niệm mới thì cũng mở ngoặc giải thích để bạn đọc hiểu. Tôi nghĩ mình làm được thì các phóng viên, trên danh nghĩa là bậc thầy về chữ nghĩa, phải làm được chứ. Nếu họ không làm được thì tôi nghĩ chắc là do … lai căng. Viết đến đây tôi chợt nhớ đến một ca khúc của Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, mà trong đó có câu:

Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu
Một trăm năm đô hộ giặc Tây
Hai mươi năm nội chiến từng ngày
Gia tài của Mẹ, một bọn lai căng
Gia tài của Mẹ, một lũ bội tình

Thứ Bảy, 30 tháng 11, 2013

Cành phong hương

Truyện ngắn của VÕ THỊ XUÂN HÀ




Minh họa: ĐỖ HOÀNG TƯỜNG



Một đoàn tham quan đi về vùng đất cội nguồn, tác giả Võ Thị Xuân Hà ở Cành phong hương dẫn người đọc vào câu chuyện: truyện trong truyện, những nhân vật biểu hiện yêu và sống ở đời sống có ác và thiện. Có cái ác trần trụi và quyết liệt như nhân vật Lân yêu bản năng như con thú, có nhân vật thiện ác quẩn quanh như người tù không có tên. Câu chuyện buồn và rất buồn như đôi khi ở đời sống thật, nhưng đứng được nhờ điểm nhìn của tác giả về lòng tin ở cái thiện, để người tù không còn uống nốt ca nước hận thù, như hương của một loài hoa sơn cước nguyên thủy về một tình yêu có thật dù có thể vô vọng nhưng vẫn tồn tại tựa như Cành phong hương- Tình yêu con người với người. Câu chuyện lãng đãng như sương khói vùng sơn cước, kết cấu truyện trong truyện đan chéo, mà không rắc rối. Những đoạn văn trầm làm lay gợi suy nghĩ cho bạn đọc. - Lời bình của Nhà văn NGUYỄN VĂN THỌ


Tôi lên vùng núi lần này không phải vì ham vui.

Thật sự trong lòng tôi không còn chỗ cho những buồn vui của cuộc sống thường nhật. Lòng tôi thật sự cô quạnh.

***

Chiếc xe lao lên cung đường có nhiều đèo dốc quanh co. Lên đến đỉnh đèo Non Cao, lái xe bảo:

-Ta nghỉ một lát nhé?

Xe tạt vào lề. Cả đoàn lữ hành lục tục kéo vào cái quán nhỏ bên đường.

Trước cửa quán, một cây sau sau lá đang ngả sang mầu đỏ, ánh đỏ hắt vào cửa quán những vầng lung linh mê hoặc.

Mùa thu đang về.

- Đẹp quá! Mọi người cùng ngước nhìn những cánh lá mong manh mầu đỏ dụ.

Trong quán có đủ món ăn cho khách qua đường. Trứng gà, trứng vịt luộc, trà, hồng ngâm... Lại có cả cà-phê tan được pha và lắc trong những hộp nhựa, rồi đổ ra mấy cái ly được đánh bóng loáng.

Chủ quán là một thiếu phụ. Chị ngồi quay lưng ra đường. Ngay cả khi khách bước vào cũng cứ chìa cái lưng đập vào mặt khách một thân hình khá thon thả. Bộ đồ đen dày và khá tiện dụng của dân vùng cao có mấy cái túi căng phồng. Dễ tưởng tượng trong đó nào bọc tiền lẻ, nào bật lửa, nào các loại thuốc bằng lá được sấy khô.

Tôi nhìn chằm chằm vào cái lưng mặc đồ đen.

Thiếu phụ quay ra nhìn chúng tôi không nói không rằng, rồi đưa mắt lên mấy cành lá đỏ phất phơ ngoài cửa.

- Đấy là cây phong hương.

- Phong hương? -tôi chưa nghe tên loài cây này bao giờ.

-Nó chính là phong hương. Trên này chúng tôi không gọi là cây sau hay cây trước gì cả.

Tôi nhìn quanh căn nhà. Mọi thứ được sắp xếp khá gọn gàng và ngăn nắp.

- Mà... cô dùng gì? Mọi người cứ tự nhiên nhé. Tự pha trà cũng được. Đấy, các thứ tôi để sẵn... -thiếu phụ nói.

Tôi hơi ngỡ ngàng. Người đàn bà này có giọng nói khá ấm, phát âm chuẩn âm ngữ vùng Kinh Bắc. Khi chị đưa hai bàn tay lên ngang mặt bàn, mới biết cả hai tay đang cuốn băng trắng xóa.

Mấy người cùng đoàn liền chủ động lấy ấm pha trà và cắn hạt hướng dương tí tách.

Tôi hỏi:

- Tay chị sao vậy?

- Bỏng ga thôi. Tôi bất cẩn.

- Sao lại băng? Bỏng không nên băng đâu.

- Tôi bó thuốc, phải băng mấy tiếng rồi tháo ra để tự khỏi.

Tôi nhìn quanh bức tường. Trên cao có mấy tấm ảnh không được rõ lắm. Những hình người nheo nheo con mắt nhìn đoàn lữ khách.

- Chị... có bánh dẻo, bánh nướng không? Chúng tôi đi vội không kịp mua. Hôm nay là rằm 14 rồi. Tối nay chúng tôi mới đến nơi nghỉ, sợ không kịp mua để đón trăng.

Nói vậy là do tôi cũng vừa liếc thấy trong tủ kính bán hàng một cặp bánh dẻo.

Thiếu phụ lắc đầu:

- Tôi chỉ có một cặp bánh dẻo, lại không có bánh nướng. Tôi cũng chỉ cần một cái thôi. Cô lấy một cái đi.

- Nhà mình có mấy người mà chỉ cần một cái vậy chị?

- Một mình tôi thôi... Cô không lấy, tôi không ăn hết, phí đi.

Tôi quay ra cái tủ kính cóc cạnh, mở cửa lấy chiếc bánh dẻo.

Rồi lại quay ra bàn, ngồi xuống gần người phụ nữ hơn...

***

Câu chuyện của người đàn bà sơn cước Phố núi của chúng tôi chỉ có khoảng chục nóc nhà tươm tất. Còn lại là những túp lều ken bằng đất sét với nan trúc.

Chị Miên là hình tượng đẹp nhất của tuổi thơ tôi. Nhà chị ở kế bên, căn nhà có hàng rào ô-rô xanh mướt. Tôi hay bám theo chị mọi lúc, mọi nơi.

Đám trẻ con xóm núi, trong đó có thằng Lân cũng thích chị lắm.

Dù đang đánh nhau hay có nghịch ngợm mấy trò quậy phá gì đó, nhưng khi chị Miên đến gần là thằng Lân thẳng đơ người, mặt đỏ như con gà quay. Cái mầu đỏ trên mặt thằng Lân khiến tôi cảm thấy vô cùng thất vọng về nó.

Tôi nhớ hôm đó bầu trời xám xịt. Mây từ đâu kéo về đầy ứ trên núi khiến không gian lạnh cóng thô nhám.

Những con trâu được khua trên núi về, bước chân đi trên con đường dốc chậm chậm, móng gõ xuống mặt đường những thanh âm buồn thảm.

Một chiếc xe có thùng xe bịt kín từ xa lao đến, từ từ đỗ xuống ven xóm núi. Trên xe lấp ló những cặp mắt tù.

Rồi họ được uống nước. Nước trà nóng bưng ra từ quán nhỏ bên đường. Cả thùng xe nhộn nhạo sôi động. Lũ trẻ con chúng tôi cũng nhộn nhạo không kém. Thật là một sự kiện hiếm hoi. Chúng tôi bám vào thùng xe, nhìn sâu vào bên trong.

Bên trong là mấy anh tù đang bị xích tay lại với nhau. Người này bị xích một tay vào người kia. Còn một tay để có thể dùng bưng ca nước lên uống.

Chị Miên đứng áp vào cửa ghise của thùng xe, nhìn như thôi miên một gã tù còn trẻ măng.

Thật sự gã này còn rất trẻ, chỉ như cỡ học cùng khóa với chị Miên trên trường cấp ba phố huyện, cách xóm núi của chúng tôi hàng chục cây số. Mà tôi đâu biết họ có quen nhau từ trước hay không? Chỉ biết chị Miên đang đứng như chôn chân bên cái xe thùng chở tù nhân.

Đứng như con linh dương cái đến mùa phong hương đỏ lá. Tôi ngước nhìn con linh dương cái ấy, ngưỡng mộ đến vô cùng. Tôi cũng nhìn thấy thằng Lân, hai tay nắm chặt lại như vào thế thủ. Nó đứng cách một đoạn xa, nhìn con linh dương biến ảo, như muốn lao vào cắn xé, lại như muốn quỳ xuống ôm lấy đôi chân dịu dàng mềm mại như nhung kia.

Gã tù chỉ có một tay cầm ca nước. Gã vừa uống vừa nhìn chị Miên không chớp mắt. Uống xong, gã đưa cái ca qua cửa ghise trả lại cho chị Miên. Rồi gã móc trong túi ngực ra một cuốn sổ nhỏ. Cuốn sổ cũ kỹ quăn bìa chứng tỏ chủ nhân thường đem ra ghi chép. Tần ngần ngắm nghía trong vài giây, rồi bỗng gã chìa cuốn sổ ra đưa cho chị Miên.

Chính chị Miên cũng bất ngờ.

Tôi không nghe thấy họ nói gì.

Hay họ nói với nhau bằng thứ ngôn ngữ riêng nào? Chỉ thấy trong tích tắc, cuốn sổ đã nằm gọn trong tay chị Miên.

Rồi chiếc xe nổ máy lăn đi từ từ trên đỉnh dốc.

Chị Miên vẫn đứng sững bên đường, nơi có vệt bánh xe in hằn cả vết lốp mới. Chị khiến cho tôi và thằng Lân cũng cứ sững lại, mỗi đứa một kiểu, như những cành phong hương tơi tả trong gió đông sắp ùa về trên cái đỉnh đèo Non Cao quanh năm gió xoáy và mây mù.

***

Sau đó mấy hôm, tôi được chị Miên cho xem cuốn sổ.

Trái tim non nớt của đứa bé gái như tôi chỉ biết cảm nhận nỗi sung sướng khi được chị chia sẻ chút gì riêng tư.

Không có thằng Lân trong câu chuyện bí mật của chị Miên.

Chị Miên thì thào: “Bí mật của chị đấy. Anh ấy học lớp trên”.

Tôi thì thào theo: “Sao anh ấy bị tù vậy?”.

Chị Miên ấp úng.

“Ờ ờ, có lẽ do đánh nhau làm bị thương ai đó...”.

Những dòng chữ của gã tù hiện lên, nét chữ khá đẹp và rắn rỏi.

Chính tôi sau này cố công tập viết từng nét chữ rắn rỏi như gã, thậm chí tôi còn nhớ cả cách móc đuôi, cách tung nét của từng chữ cái trong cuốn sổ ấy.

“Không gian vắng vẻ, buồn buồn, làm cho người qua đèo bâng khuâng giữa núi đồi sơn cước phía trước và đồng bằng đang trôi xa phía sau. Vách đá lởm chởm đeo bám những mầm dương sỉ xanh nõn vươn lên tầng không. Phía bên vực, dòng suối chảy uốn lượn làm nghiêng những vạt ngô, vạt chuối bao la...

Mùa thu về làm rực biếc cánh đồng xa bởi những cơn mưa đêm thấm đẫm. Trên triền núi xa xa, có cô bé tay khư khư bông hoa to, cơn gió nhẹ thổi từ cánh đồng làm cho bông hoa chao như ánh lửa.

- Hoa gì vậy em?

- Hoa mùa thu! Em còn nhớ không em?”.

- Cô rất thẳng thắn. Có lẽ tôi đã đánh giá thấp về cô - Có lẽ là thế. Tôi và anh, có lẽ chỉ là...

- Là gì?

- Tiện thì gặp.

- Cô nhầm rồi...

“Tôi không nghĩ rằng, chờ đón chúng ta là cả một mùa thu duyên dáng đến ngọt lịm. Lâu rồi, nhiều năm, kể từ ngày tôi ra đi, rất hiếm khi được trở lại quê mình vào mùa cuối thu.

Mùa thu miền núi, mùa của sự no ấm, mùa yêu đương, mùa phồn thực, sinh sôi, nảy nở và mùa của các “luân xa” mở ra đón nhận! Mùa này người miền núi thường “yêu” nhau say đắm. Yêu đến độ núi cũng tan ra thành lúa, còn lúa lại cao lên thành núi. Yêu đến độ, sông biến thành thác, và thác chảy thành sông.

Hãy ngửa cổ lên trời, hít một hơi thật dài, thật khẽ, từ từ, nhè nhẹ...

các tế bào sẽ nở ra, nhảy múa trong thân xác mệt mỏi của các bạn.

Các bạn đã đi xuyên qua núi, ân ái trọn vẹn Hang Ngườm, miên man trong tiếng rì rầm, ôm ấp của thác Hoa Hiên. Được gột rửa bàn chân bằng hương lúa ngọt lịm. Nước đầu nguồn suối Nắng sẽ tẩy rửa khứu giác của các bạn để nhận biết được cái mùi phong hương đầy bí ẩn và quyến rũ! Về cơ bản là như vậy. Về cơ bản là thế. Tất cả vì quyền năng của mùa thu miền biên viễn tuyệt đẹp...”.

“Mùa đông đến gần, mưa mỗi ngày mỗi rơi, khi nhiều cơn dông, trĩu nặng từng hạt nước long lanh, khi nhiều cơn mưa lất phất, bay vào không trung nhẹ nhàng vô định. Tôi luôn cảm nhận rằng có một hơi ấm nhẹ nhàng cứ lướt qua, hơi thở vội vàng nào cũng vừa chợt ghé qua.

Miên man...

Tôi nhớ hoài nụ cười ấy, ấm áp lắm, khao khát lắm và chắc hẳn cũng tràn đầy những yêu thương.

Tâm trí tôi không cho phép quên đi nụ cười ấy. Nụ cười ấy luôn xuất hiện chung quanh tôi, nhắc nhở tôi muôn vạn lần đau cũng phải mỉm cười...” .

“Tôi biết xóm núi của em có loài phong hương. Loài cây mềm mại trong gió, dẻo dai trong gió và kiên cường với gió.

Những cây phong hương vào mùa thu lá ngả mầu đỏ tươi, rồi dần chuyển sang mầu huyết dụ. Đi từ xa tới, lữ khách sẽ nhìn thấy trong thấp thoáng xóm núi những cây phong hương rực một mầu đỏ, như báo hiệu sự chín đẫm của mùa thu.

Trong gió ngàn của hương rừng gió núi, phong hương lặng lẽ khiêm nhường tô thắm vẻ đẹp miền sơn cước.

Em trong tôi tựa như cành phong hương nhỏ bé. Thấm đẫm sự cô đơn mà dũng mãnh trên đỉnh dốc Non Cao”.

* * *

Nhưng chị Miên không đợi được người về.

Đêm đó, thằng Lân đã quyết định việc trọng đại trong cuộc đời.

Nó đẩy cánh cửa liếp nhà tôi, bảo:

-Cô đừng nhìn tôi như thế nữa.

Tôi không bao giờ thuộc về cô.

-Tại sao anh lại...?

-Vì tôi không bao giờ quên được chị Miên, cô hiểu không? Nếu không có chị Miên trên cõi đời này, thì có khi tôi sẽ lấy cô.

Tôi lùi lại sau cánh cửa. Vệt máu đỏ tươi tuổi dậy thì đang nhỏ âm thầm xuống nền đất nện mịn màng.

Tim tôi run lên nỗi cô độc và tủi nhục.

Nếu tôi biết sự việc sau đó ra sao, chắc gì tôi đã cưỡng lại được. Sự việc rất đơn giản và kinh hoàng đã xảy ra sau đó. Thằng Lân nhảy vào buồng chị Miên, khóa chân tay chị lại và nằm đè lên người chị như loài dã thú.

Sáng hôm sau tôi không nhìn thấy chị Miên và thằng Lân đâu nữa.

Có người bảo họ đã về xuôi làm ăn, thành cặp vợ chồng rất đẹp đôi.

Có người nói họ chỉ gặp mình thằng Lân đang buôn gỗ từ miền ngược về. Nom hắn dữ dằn, người xăm trổ, mắt vằn đỏ như có máu tuôn.

Có người nói chị Miên vào rừng ăn lá ngón...

Một hôm, từ trên đỉnh dốc, chỗ có khúc cua ngắn, tôi nhìn thấy một người đàn ông thất thểu đi về phía xóm núi của chúng tôi.

Tim tôi run lên từng chặp. Tôi che mắt nhìn về phía ấy. Tôi hình dung người ấy đã trở về.

Nhưng đó chính là gã tù năm xưa.

Gã nhìn tôi lạnh lùng.

-Miên đâu rồi?

Tôi lắc đầu:

-Tôi không biết chị ấy đi đâu hay đã ăn lá ngón rồi?

Gã không nói gì, chỉ nhìn hút mắt ra phía đầu rừng. Nơi ấy có những cây phong hương lá đã bắt đầu ngả từ mầu xanh sang mầu đỏ.

Tôi lấy nước cho gã.

-Anh hãy uống nước thù hận này đi. Đã bao năm nay, tôi uống thứ nước này. Hằng ngày tôi ghi lòng sự thù hận.

Gã nhìn tôi ngờ vực:

- Cô yêu hắn ta?

Nước mắt tôi bắt đầu rơi xuống lã chã:

- Tôi yêu cả hai. Tôi đâu muốn mất họ...

Gã tù khoát tay:

- Cô thật là...

Tôi níu tay áo gã:

- Hay anh ban cho tôi sức mạnh?

Được không?

Gã nhìn tôi một lúc, gỡ tay tôi ra rồi lắc đầu:

- Cô rất đẹp. Cô đẹp không kém gì Miên. Cô hãy đợi đi. Làm trinh nữ mà đợi chờ...

Tôi cố vớt vát:

- Tôi đã đọc cuốn sổ ghi chép của anh.

- Vậy sao? Cô thấy gì trong đó?

Tôi ngồi như một pho tượng. Rồi tôi nói với gã, tôi chỉ thấy sự sống quẫy đạp trong từng câu chữ ngày ấy của gã, quẫy đạp một cách tuyệt vọng.

Gã bỏ đi. Không uống thêm chút nước thù hận nào nữa.

Tôi ngửa cổ uống bằng sạch thứ nước sóng sánh trong chiếc ca nhôm nhỏ ngày nào chị Miên dùng cho gã tù uống nước.

Mà sao tôi chỉ nhìn thấy hình bóng Lân trong đáy ca?

Lời kết truyện Chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình về cội nguồn.

Tôi ngồi trên xe vượt dốc và ghập ghềnh đá núi, vẫn như thấy những cành phong hương lá đỏ đón thu về trên núi.

Người đàn bà mặc áo chàm đen vẫn ở lại trên đỉnh đèo Non Cao.

Chiều chiều, nàng ra đứng bên đường nhìn xa ngút ngát. Nơi đó, những đàn trâu no cỏ đang thủng thỉnh bước về trên thung cao. Tiếng mõ lốc cốc vang trong sương mù bảng lảng.

Nàng đứng bên cây phong hương đã già.

Mùa đông sắp đến gần, những chiếc lá phong hương đang chuyển mầu đỏ dụ. Từ xa nhìn thấy như những vầng hoa đỏ rực in trên nền trời.

Thời gian cứ trôi lặng lẽ. Người đàn bà vẫn đứng đợi bên đỉnh dốc.

Nụ cười phảng phất trên môi nàng...

Đêm 3-10-2013

Cửa lòng anh mở toang



anh đã biết em rồi mến thương và yêu tự lúc nào không rõ nữa
cái dòng xoay theo ngày nhỏ tới bây giờ
anh theo em bạt cánh chim trời
anh theo em đã mòn bao trăng rụng
chỉ chưa luồn trôn kim
gió cả
lời vụn
anh sợ mình nghèo
nên anh cứ ngóng bờ em bồi nhớ
và năm tháng dần đong lòng anh mặn mãi

còn em đi
qua thì con gái
hái trái khế chua
bồng con ru ngủ
khúc ca dao ơ ầu
điệu lí đầy vơi ru ngày trôi miên man
con nước hững dạt cụm lục bình, cánh bèo thiên di…

con sóng hờn vỗ bến
em cứ đi trong mơ
ngóng biển
chỉ thấy sóng gợn về những bạc đầu mong nhớ
từ hoa vương hương tới ngày em tóc tre sững gió
quên chuyện áo quần thẳng thóm
có hề chi!

nhan sắc sớm xuân chiều thu ai cũng phải đi qua
chút còn lại không là sắc, không là gì hết

chỉ còn mọc cụm yêu thương trổ hoa ngày muộn
mặc con lũ về cuốn trôi
thì rễ tình yêu tôi vẫn ken dày trong em, em ơi!
cửa lòng ừ cứ mở toang, mở toang…

Trần Huy Minh Phương

ĐỪNG TRỞ LẠI...




Thơ Drunina Iulia
( Nguyễn quốc hùng dịch)


Đừng trở lại với tình yêu thứ nhất
Hãy để tình đầu mãi thế trong ta
Khúc hát lặng câm bên dòng sông ký ức
Tột đỉnh nỗi đau, hạnh phúc băng hà...

Đừng hoài công lục tìm về quá khứ
Tất cả hôm qua đã trả lại ngày qua
Chỉ cần giữ vẹn nguyên thiêng liêng nhất
Một vẹn nguyên dù quá khứ, dẫu là.

Kiể u nhân vật bản năng trong truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà





 Võ Thị Xuân Hà, một trong những cây bút nữ đã khẳng định được vị trí của mình trong nền văn học Việt Nam đương đại với một phong cách riêng, độc đáo trong các sáng tác. Góp phần làm nên phong cách nghệ thuật này của chị là một thế giới nhân vật đa dạng, trong đó kiểu nhân vật bản năng (ở đây chủ yếu nói tới bản năng tính dục) xuất hiện khá phổ biến. Chính kiểu nhân vật này đã giúp Xuân Hà thể hiện được rõ hơn những góc khuất của tâm hồn con người, từ đó góp phần nâng tầm nghệ thuật cho mỗi tác phẩm của chị.


Với kiểu nhân vật này, trước tiên nhà văn xây dựng những con người mà bản năng thể hiện thành những khát khao chính đáng, rất nhân bản. Có thể kể đến lão Thoài trong truyện Cõi người. Đứng trước con bé Hoan, lão thấy: “Thời gian qua nó đã lớn phổng lên từ lúc nào. Tim lão đập mạnh” rồi sau đó “bàn tay lão già run và nhẹ nhàng dịch chuyển” (…). Lâu lắm rồi, lão không biết mùi hương cỏ mật và mùi nhang cháy trong đêm lại nồng nàn đến thế”. Đây là những dòng miêu tả cảm xúc của một người đàn ông đã luống tuổi khi gần gũi với một cô bé mới lớn. Nhưng hãy chú ý đó là bản năng chứ không hề phàm tục. Bởi những cảm xúc này bắt nguồn từ khát khao cháy bỏng về một gia đình và những đứa con của một đàn ông cô đơn, bất hạnh. Điều này rất đáng được trân trọng. Truyện Mây giăng thì kể về một cô gái quê trẻ tuổi người Côn Sơn, Hải Dương. Tình yêu đầu đời và thực sự của cô là với một anh chàng về làm dự án khảo sát làng văn hóa tại quê cô. Hai người quen nhau rất tình cờ khi chàng trai kia đến hiệu may của cô nhờ khâu lại cái quần. Và cũng chỉ ngay giây phút đó thôi cô gái đã nảy sinh tình cảm mãnh liệt với anh rồi sau đó “yêu anh ấy và cố tìm mọi cách để được gần gũi”. Thậm chí, dù không chắc anh chàng có yêu mình không, và hình như lại có người yêu trên Hà Nội, nhưng cô vẫn “quyết giành giật cho mình dù chỉ trong một thời khắc ngắn ngủi”. Tuy nhiên có điều, ở người phụ nữ này, ham muốn nhục thể không chỉ là bản năng mà còn là biểu hiện của tình yêu nồng cháy, bởi đến với người đàn ông kia là cô muốn khám phá và đi đến tận cùng bến bờ của một tình yêu thực sự, muốn “được biết thế nào là tình yêu của chính mình”. Chính những ý nghĩ này khiến tình yêu của cô vừa trần tục (chứ không phải phàm tục) lại rất cao đẹp và đầy chất nhân văn.







Ở một số hình tượng nhân vật khác, Võ Thị Xuân Hà lại miêu tả vấn đề tính dục như là một nhu cầu tự nhiên của con người. Truyện Xóm đồi hoa viết về cảm xúc của một gã chăn bò chừng mười chín tuổi khi sắp được lấy vợ: “Nhưng đêm cũng như lúc chiều chạng vạng, giấc mơ đàn ông cứ trỗi dậy trong tấm thân cường tráng của gã”. Cho nên khi nhìn thấy cô gái điếm trần truồng nằm ngủ trên đồi thì chỉ đến “Giây thứ ba gã lao tới như một con trâu điên. Quần áo trên người gã cũng tung bay trên đám cỏ gai”. Còn cô gái kia cho đến nửa đêm mà “Trong lòng cô như có ngọn lửa cháy sáng (…) với niềm hạnh phúc cứ trào lên không cưỡng nổi”. Những chi tiết rất giàu tính nhân văn bởi cho thấy trong sâu thẳm tâm hồn cô gái điếm có số phận bất hạnh này (sống lang thang vì bị bệnh cùi, một thứ dịch bệnh đang hoành hành trong xã hội đương thời, khiến chân tay cô lở loét), chất người lương thiện vẫn còn rất mãnh liệt. Nếu có cơ hội là nó lại bùng lên. Đọc Chuyện của con gái người hát rong ta cũng thấy có đoạn tả về những cảm xúc nhục thể đầu đời của cô thiếu nữ Út Kim: “Đình lấy tay khẽ phủi kiến trên tóc tui. Rồi bàn tay dừng lại như khẽ hỏi. Tui giả bộ ngó sang đàn kiến đang náo loạn. Tim tôi cũng náo loạn (…). Tui im lặng tận hưởng khoảnh khắc man trá của trái tim náo loạn”. Rõ ràng, với hai tác phẩm này, khi nhìn nhận vấn đề không bằng con mắt bị chi phối bởi các yếu tố luân lí, đạo đức phương Đông nhiều khi quá khắc nghiệt, chúng ta sẽ thấy vẻ đẹp thật tự nhiên của các nhân vật, với họ chuyện gần gũi về xác thịt cũng là một nhu cầu tất yếu, nó không làm các nhân vật xấu đi mà ngược lại, cho thấy trong bản thân họ cái chất người thật tự nhiên mà đáng quý.


Trong một số truyện ngắn của mình, vấn đề tính dục lại được Xuân Hà miêu tả như một nhu cầu nổi loạn, phá phách của người phụ nữ để thoát khỏi cuộc sống nhàm tẻ, bức bối. Nói về kiểu nhân vật này không thể không kể đến Diễm trong Đàn sẻ ri bay ngang rừng, một cô gái rất cá tính và thậm chí có phần hoang dã. Khi đi săn cùng chồng trong rừng, cô sẵn sàng cởi hết quần áo để tắm mưa. Với chuyện chăn gối của vợ chồng, đây quả là một người đàn bà đầy sinh lực và khát khao, khi thì “đêm chúng tôi vẫn quấn lấy nhau như cặp rắn”, rồi lúc đi săn ở rừng “Chúng tôi lăn ra cỏ (…) ôm choàng lấy nhau, ngấu nghiến”. Những cảm xúc tình dục này ở Diễm không chỉ bắt nguồn từ nhu cầu có tính bản năng mà còn là ở sự khát khao một tình yêu tận độ, mãnh liệt. Vì thế, khi say nồng tình ái với người chồng, trong cô trỗi dậy cảm giác “thèm khát nhìn thấy tận mắt sức mạnh bí ẩn lôi cuốn người đàn ông và người đàn bà ràng buộc lấy nhau”. Ngoài ra, những hành động và cảm xúc trên của Diễm cũng là để “làm dịu những vết thương của kiếp đàn bà” - điều mà cô đang gặp phải khi làm dâu. Ngược lại với người vợ mạnh mẽ, cá tính, Thản dù là một người đàn ông có ngoại hình hấp dẫn nhưng tính cách thì có phần thụ động, yếu đuối khiến anh không dám bênh vực vợ mỗi khi Diễm bị bố mẹ chồng hoặc em chồng đè nén. Điều này làm cho cô trong mơ hồ lại nảy sinh tình cảm với Nẫm - người anh của Thản đã mất khi tham gia kháng chiến chống Mĩ - mặc dù Diễm chỉ được nghe Thản kể về anh mình. Nhưng có điều chúng ta cần chú ý, đây không phải là thứ tình cảm bắt nguồn từ ham muốn xác thịt tầm thường mà thiên về tinh thần, là sự mong muốn một chỗ dựa. Cho nên, lúc sinh nở, người mà Diễm nghĩ đến không phải là Thản, chồng cô, mà là Nẫm, qua sự tưởng tượng ra âm hồn người anh chồng này đến bên mình và “cúi xuống hôn con bé rồi đi đến bên tôi rờ rẫm cái cuống rau đỏ nòm”. Rồi lúc thiếp đi những ý nghĩ kì lạ lại trỗi dậy trong đầu người phụ nữ này: “Trong giây phút, tôi quên hết, quên Thản, quên những ngày nghỉ ở rừng. Tôi đắm đuối với hình ảnh người đàn ông đang mân mê những cuống rau, như thể anh ta đã thò vào sờ nắm được hết những mạch máu li ti chảy trong cơ thể tôi mà tình yêu của Thản chỉ chạm tới chứ không nắm được”. Những ý nghĩ này không chỉ thể hiện khát khao về một tình yêu tận độ trong tưởng tượng mà qua “hình ảnh người đàn ông đang mân mê những cuống rau” còn là mong muốn vẻ đẹp của con người ấy sẽ hiện hữu trong cuộc đời nàng qua đứa con của nàng với Thản. Nếu vậy, từ đây nàng sẽ thấy vững tin hơn, sẽ thấy cuộc đời bớt phần nhàm tẻ. Giấc mơ này của Diễm thật táo bạo, nó có yếu tố sắc dục nhưng vẫn chưa đến mức loạn luân. Bản lĩnh của nhà văn thể hiện ở đây khi tác giả không muốn dùng những yếu tố giật gân nhưng phản cảm, phản thẩm mĩ để thu hút độc giả. Cái tài, cái tâm và cả cái tầm của nhà văn là ở chỗ đó. Và cũng vì thế truyện mang đậm tính nhân văn chứ không hề mang yếu tố trụy lạc, loạn luân như không ít người thấy qua hình tượng nhân vật người vợ trong Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu sau này. Văn học là một loại hình nghệ thuật nhưng tác phẩm văn học chỉ thực sự là nghệ thuật chân chính khi những sáng tạo ấy cuối cùng nhằm tôn vinh những giá trị cao đẹp của con người. Có như thế tác phẩm mới có thể tồn tại cùng thời gian. Đàn sẻ ri bay ngang rừng của Võ Thị Xuân Hà nằm trong số những sáng tác như vậy.


Như đã nói, nhu cầu tính dục là một nhu cầu mang tính bản năng. Nếu con người không kiểm soát được sẽ dễ dẫn đến những hậu quả xấu. Trong không ít sáng tác của mình, ngoài việc trân trọng những bản năng tự nhiên chính đáng của con người, Võ Thị Xuân Hà còn miêu tả tính dục như là thứ bản năng xấu, khiến con người sa vào những hành vi tội lỗi hoặc gặp phải những bi kịch. Nhân vật Dân trong các truyện Năm hai ngàn lẻ x… và Những kẻ lãng mạn vốn bề ngoài tưởng hiền lành, ngờ nghệch nhưng thực ra lại là một kẻ rất đê tiện, xảo quyệt. Thời gian được làm cùng Mai khiến anh ta nảy sinh dục vọng dữ dội (chứ không phải tình cảm), có đêm “Anh ta đi như người mộng du. Cơn thèm khát của đàn ông dâng trong cơ thể trẻ”. Và khi bản năng thấp hèn lấn át lý trí, Dân đã quyến rũ Mai để thỏa mãn dục vọng rồi một thời gian ngắn sau lại nhẫn tâm ruồng bỏ người đàn bà tội nghiệp (người đã cưu mang hắn, đã chiều chuộng hắn hơn cả người chồng ngày trước) cùng cái thai bốn tháng để cao chạy xa bay với không ít tiền lấy được của cô cũng như việc y làm nghề dắt gái.


Cùng kiểu người như Dân là vợ chồng hai nhân vật Thanh và Tôn Nữ Huyền Ngọc Thủy Châu trong Chuyện của con gái người hát rong. Thanh vốn xuất thân trong một gia đình giàu có ở xứ Huế, trước khi lấy vợ anh ta vốn nổi tiếng là một người đàn ông phong tình. Tuy đã có một người vợ đẹp như bà cung phi nổi tiếng thứ hai mươi mốt của vua Minh Mạng là cô Tôn Nữ Huyền Ngọc Thủy Châu và một đứa con rất kháu khỉnh nhưng Thanh vẫn chứng nào tật ấy. Để thỏa mãn nhu cầu bản năng của mình người đàn ông này sẵn sàng lạm dụng cả người hầu kẻ ở trong nhà. Trường hợp Sen, người phụ nữ tật nguyền là một ví dụ. Lòng dục bốc lên ghê gớm khiến Thanh không kìm được mình mà có thái độ lả lơi với Sen ngay cả khi cô đang tắm cho con anh ta. Và thời gian đầu “anh ta ham muốn tui (Sen – NV) đến phát cuồng. Anh ta chén tui như chén món thịt gà xé phay tui làm ngon hết biết cho hai người nớ ăn”, bởi theo lời Thanh thì Sen đã “làm cho anh ta được sống cuộc đời đàn ông thực sự” trong khi vợ Thanh – Tôn Nữ Huyền Ngọc Thủy Châu lại “không biết làm tình”. Những lời nói này cho thấy thực chất Thanh chỉ dùng Sen để thỏa mãn nhu cầu sinh lí đồi bại của mình. Vì vậy, khi “Biết tin tui có thai, anh ta trợn mắt nhìn tui như nhìn loài rắn. Anh ta ném cho tui ít tiền, bảo đi viện làm cho gọn”. Thanh như vậy còn vợ anh ta - cô Tôn Nữ Huyền Ngọc Thủy Châu - cũng chẳng hề kém cạnh. Núp trong vẻ bề ngoài của một bà chủ trẻ xinh đẹp, đài các là một nhân cách hết sức bệnh hoạn. Cô ta rất “thích đi hát karaoke trong phòng tối thui, để không nhìn thấy mặt chàng trai” mà Sen “đặt tiền cho người ta đưa đến cho cô. Anh chàng đó phải trẻ, phải khỏe, hơi thở phải thơm tho” để đủ khả năng thỏa mãn nhu cầu sinh lý cho người phụ nữ này. Nhưng người đời đã có câu: Nhân nào quả ấy. Lối sống bệnh hoạn của hai vợ chồng Thanh đã gặp báo ứng đến khủng khiếp. Hóa ra, Sen chính là em của thiếu nữ đã gieo mình xuống dòng Hương chết cùng cái thai với Thanh khi biết tin anh ta chuẩn bị cưới Tôn Nữ Huyền Ngọc Thủy Châu. Sen đến nhà Thanh xin làm người ở chỉ với mục đích tìm cách trả thù cho chị gái. Nhưng nào ngờ đến chính cô lại cũng yêu kẻ đã phụ bạc chị mình và khiến cho người mẹ vốn đã rất bất hạnh của cô phải chết vì quá thương con gái. Việc Sen trao thân cho Thanh không phải chỉ bởi sự ép buộc của Thanh mà còn bởi tình yêu của Sen với anh ta. Tuy nhiên, khi sự đê tiện và tàn nhẫn của Thanh lại được bộc lộ lúc biết cô có mang với hắn thì Sen vô cùng đau khổ. Cùng đường, nhân vật quyết định tự vẫn. Nhưng “Con bé Hàn Giao (con của vợ chồng Thanh - NV) bám tui như con vậy. Nên khi tui cùng đường, tui muốn mang nó theo (...). Chỉ còn cách đó là có thể làm cho anh ta và cái người đàn bà vô dụng kia đau đớn”. Oái oăm thay, đứa trẻ vô tội kia thì chết còn Sen lại được cứu sống. Vậy là đứa con có với Sen mà Thanh muốn nó không thể tồn tại thì sẽ lại được sống còn đứa bé đẹp như “tiểu thiên thần” của anh ta với Tôn Nữ Huyền Ngọc Thủy Châu thì lại phải chết một cách oan ức, đau đớn. Sự quả báo thật vô cùng tàn khốc.


Có thể nói Võ Thị Xuân Hà đã dựa trên cơ sở là tư tưởng nhân bản rất sâu sắc khi đề cập đến vấn đề con người bản năng. Nhà văn tỏ ra rất thông cảm, thậm chí là trân trọng những khát khao tự nhiên nhưng chính đáng của các nhân vật. Tuy nhiên, ngòi bút của chị cũng không ngần ngại phê phán những con người bất chấp tất cả luân lí, đạo đức để thỏa mãn nhu cầu thấp hèn của mình và khiến cho nhiều người khác phải đau khổ. Tư tưởng này hoàn toàn chi phối các tác phẩm của Xuân Hà nên những truyện ngắn của chị khi đề cập đến đề tài này vẫn mang một vẻ đẹp thật sáng trong chứ không bị phê phán vì quá đề cao bản tính tự nhiên của con người hoặc dùng yếu tố sex để câu khách như không ít các sáng tác ra đời trong thời gian gần đây trên thị trường.
Bùi Tuấn Ninh