đào trung đąo
■ Viết không. Không nói không. Niềm im lặng của viết/văn tự/Éperons/Những cách viết mũi nhọn (Jacques Derrida) xuyên thủng, xóa bỏ hoài niệm về một tổng hợp biện chứng nhằm hoàn tất văn chương và triết học. Tra vấn quá khứ bất khả khôi phục, tra vấn hiện tại bất khả dung nhượng, để hướng tới một tương lai bất khả giản lược vào một hiện tại hiện tiền: tương lai này như một xóa bỏ tận cùng vận động của bất khả tính không hoàn tất nhắm đạt tới một khả tính khác, xóa bỏ bằng cách bước qua cả khả và bất khả trong một khoảnh khắc thời gian thuần túy của của viết/văn tự để tìm nơi cõi ngoài cái tuyệt đối khác. Vận động này vượt ngoài khả năng nắm bắt của phép biện chứng. Một thời gian không bị giản lược vào thời gian tính biện chứng: những bước khởi đầu của bước ngoặt chuyển mình của thời đại. Nghĩa là thiết lập một tương quan hoàn toàn khác biệt với văn tự và tư tưởng trong viễn tượng của tính chất tương lai của một lời hứa hẹn.
■ Ngoại truyện: Thi sĩ Vũ Hoàng Chương (giáo sư Việt văn Ban C trường Văn Lang, Hà Nội, 1952) sau khi giảng xong đoạn Kiều gặp Kim Trọng bèn ngẫu hứng đọc bài thơ ‘Thác lời trai phường nón’ (1) của Nguyễn Du cho học trò nghe. Có tiếng hỏi (không) ngần ngại từ phía cuối lớp: Vì sao Nguyễn Du làm thơ tuyệt vời như vậy? Câu trả lời: Vì Nguyễn Tiên Điền nói ngọng! Chứng cớ: Nguyễn Du thời trẻ lân la sang phường nón làng bên là nơi có nhiều thiếu nữ làm nón xinh đẹp nên thiếu tài đất Hồng lĩnh muốn tán tỉnh nhưng vì nói ngọng nên không dám mở lời sợ bị các nàng chọc ghẹo riễu cợt nên về nhà làm bài thơ này. Đọc Thác lời trai phường nón’ ta đã thấy có những nét báo hiệu lục bát mượt mà của Truyện Kiều. [Dị bản: Nguyễn Du khi trẻ hay lui tới Trường Lưu để gặp các bạn văn thơ xướng họa và có liên hệ tuy gắn bó nhưng ngắn ngủi với một cô gái xinh đẹp phường vải. Trường Lưu cũng là quê của Đề đốc Học chính Nguyễn Huy Quýnh [thông gia với họ Nguyễn Tiên Điền] nhưng sau đó biệt tăm nên cô gái này sau nhiều ngày trông đợi không thấy chàng trẻ tuổi văn hay chữ tốt trở lại bèn nhờ danh sĩ Nguyễn Huy Quýnh làm bài thơ ‘Thác lời con gái phường vải’ (2) gửi cho kẻ bạc tình Nguyễn Du. Tiên Điền thi sĩ đã đáp lại bằng bài ‘‘Thác lời trai phường nón’.]
Việc giai thoại nào đúng giai thoại nào sai không phải là vấn đề quan trọng. Nhưng giải thích của thi nhân họ Vũ lý thú ở chỗ đã chỉ ra được mối liên hệ giữa ngôn ngữ viết và thơ.
■ Theo truyền thuyết, Moses đã được Thượng đế chọn lựa nhận lãnh Torah/Huấn Dụ để truyền lại cho dân Do thái vì Moses mà một kẻ nói lắp. Nói lắp có nghĩa lập lại ít nhất hai lần. Cũng vì không có khả năng dùng Lời, sau bốn mươi ngày bốn mươi đêm ẩn tích trong cõi hoang dã, Moses lên đỉnh núi Sinai tự đặt mình vào nhiệm vụ tìm tòi và bửa đẽo đá núi hoàn thành hai Phiến đá đối xứng nhau để Thượng đế - lần thứ nhì - dùng ‘ngón tay viết Torah lên’ hai phiến đá do Moses dựng lên. Vì giả thuyết này không thể kiểm chứng nên người ta cũng có thể đưa ra một giả thuyết khác: Phải chăng vì tật nói lắp, (thiếu khả năng truyền giảng) rất có thể chính Moses là kẻ viết/vạch Huấn Dụ trên đá. Từ nhiều thiên kỷ, dù bỏ nhiều công sức người ta cũng không thể tìm thấy dấu tích của Moses. “Tác gia” – dù là Thượng đế hay Moses - của viết/văn tự ngay từ khởi đầu đã biệt tích và không hứa hẹn trở lại. Tác gia vĩnh viễn là một vắng mặt. Moses kẻ viết chữ cũng là người lãnh đạo dẫn dắt dân Do thái trong cuộc lên đường tìm đất mới Exodus: Văn tự không những bảo đảm cho hồi/ký ức mà còn là hành động. Moses vs Plato.
■ Maurice Blanchot luận giải về văn tự/viết đoạn rời: “Văn tự đoạn rời rất có thể chính là sự mạo hiểm/nguy. Văn tự đoạn rời không qui chiếu tới một lý thuyết nào, nó cũng không dọn chỗ cho một thực hành được định nghĩa bởi sự ngắt rời. Dù bị ngắt quãng, nó vẫn tự tiếp tục. Tự vấn, văn tự đoạn rời không tự nó kiểm soát sự tra vấn, nhưng tạm thời đình chỉ/ngưng/treo lửng tra vấn (mà không duy trì tra vấn) bằng không-có-câu-trả-lời. Nếu như văn tự đoạn rời tự cho rằng thời gian của nó chỉ có được khi toàn thể - ít ra một cách lý tưởng – tự hoàn tất, chính bởi thời gian đó chẳng bao giờ là chắc chắn, nó là sự vắng mặt của thời gian hiểu theo nghĩa bất phủ nhận, ở trước mọi hiện tại-đã qua, cũng như ở sau mọi khả hữu của một hiện diện/tại sẽ tới. (3)
■ Được hỏi ý kiến về Mac-xit Heidegger trả lời ngắn gọn: Chủ nghĩa Marx cũng chỉ là một thứ siêu hình học mà thôi.
■ “Tiếng nói” trong thơ không thể nắm bắt được bằng hệ thống nhị giá về dấu chỉ (système binaire du signe). Bài thơ không chỉ nói về những tiếng nói mà chính nó là tiếng nói. Nó làm cuộc thử nghiệm vượt bờ sự chỉ nghĩa (signification) bằng nói lên ý nghĩa (significance).Trong khuôn khổ lý thuyết về nhịp điệu Henri Meschonnic định nghĩa “tiếng nói”: “Tiếng nói là mối tương quan. Qua thông giao, nơi ý nghĩa trao đổi, tiếng nói thiết lập một môi trường. Cũng như trong diễn ngôn, trong tiếng nói có nhiều cho nghĩa hơn là chỉ nghĩa; đó là một sự vượt bờ việc cho nghĩa bằng nói lên nghĩa.”(4) Và: “Tiếng nói, chứ không phải sự hít thở, là chất liệu của tính chất phát ra lời. Tiếng nói biến mất trong bản viết chứ không phải trong hít thở. Những biến đổi, những uốn lượn của lời nói hướng về bản viết là những chất liệu của ý nghĩa, là cái mang vác số lớn những báo hiệu, những báo hiệu của tiếng nói…Tiếng nói không chỉ mang ý nghĩa theo nó. Nó chính là chất liệu của ý nghĩa, và là đích nhắm của ý nghĩa.” (5)
■ Jonathan Franzen, bạn văn thân thiết của David Foster Wallace vừa đau đớn vừa giận dữ về việc Dave tự hủy. Sau khi hoàn tất tiểu thuyết Freedom/Tự do (hoàn tất: sách viết xong, đã xuất bản, và kết thúc những chuyến book tour/gặp độc giả hâm mộ, bạn văn và ký tặng sách quá nhàm chán) Jonathan muốn đi tới một đảo xa để suy nghĩ về cái chết của Dave. Hai năm trước Jonathan đã quyết định chấm dứt giằng co với vụ tự tử gớm ghiếc của David Foster Wallace để thu mình lẩn tránh trong nỗi giận dữ và công việc. Nhưng nay mọi việc đã hoàn tất, Jonathan muốn đến một đảo xa để đọc lại quyển Robinson Crusoe của Daniel Defoe và cũng để tạm thời làm cuộc cách ly với thế giới chung quanh, và để tưởng nhớ Dave cho hợp cảnh hợp tình. Vì với Jonathan, Dave mãi mãi là một kẻ “ở ốc đảo xa vời”. Jonathan đã kể lại giây phút đớn đau, ‘khóc lẻ loi một mình’ trong gió cuồng quất vụt mặt mày cùng với mây vần vũ trên đỉnh cao ba nghìn dặm so với mặt nước biển chân đứng không vững trên đỉnh La Cuchara (thuộc đảo Masafuera cách bờ biển nuớc Chile ba trăm dặm thuộc vùng Nam Thái Bình Dương) để thực hiện lần cuối trong đời một cử chỉ vĩnh biệt Dave: trải tung theo gió một phần tro cốt của Dave do Karen – người vợ cuối đời của Dave - đã trao cho anh. Karen muốn Jonathan thực hiện ý nghĩ trải phần tro cốt này ở một hòn đảo xa xôi không người cư ngụ để Dave được an nghỉ tại đó. Có lẽ Jonathan Franzen là người, hơn ai hết, thấu hiểu văn chương cũng như con người của David Foster Wallace, khi đưa ra nhận xét: trong thế giới tiểu thuyết của Dave vắng bóng tình yêu bình thường, nhân vật trong Infinite Jest là những con người ôm kín những thôi thúc vô cảm như một bí mật riêng mình không thể bộc lộc với những kẻ yêu thương họ, làm ra vẻ đang yêu thương hay để tự chứng tỏ với bản thân cái cảm giác như tình yêu thật ra chỉ để cho bản thân. Đó là những kẻ tâm thần sai khiến người khác và tự cách ly về mặt cảm xúc. Nhưng: “Hắn yêu thích viết truyện, đặc biệt là viết quyển Infinite Jest, và hắn đã rất minh bạch, trong nhiều cuộc thảo luận giữa hắn và tôi, về mục đích của tiểu thuyết, về niềm tin của hắn rằng tiểu thuyết là một cách giải quyết, cách giải quyết tốt nhất, vấn đề hiện hữu cô đơn. Tiểu thuyết là con đường của hắn để ra khỏi ốc đảo, và chừng nào việc này với hắn còn khả dĩ – chừng nào hắn còn có thể rót tình yêu và nỗi đam mê của hắn vào việc chuẩn bị những thông điệp cô đơn, chừng nào những thông điệp này đang đi tới đất liền như những tin tức khẩn cấp, tinh nguyên, và trung thực – tức là hắn đã hoàn thành phần nào niềm hạnh phúc và sự hy vọng cho chính hắn. Khi niềm hạnh phúc dành cho tiểu thuyết của hắn chết, sau nhiều năm vật lộn để viết một cuốn tiểu thuyết mới, thì chẳng còn lối thoát nào khác hơn là cái chết. Nếu sự buồn chán là mảnh đất trong đó mầm giống của nghiện thuốc [Nardil trị trầm cảm, ĐTĐ chú giải] nẩy nở, và nếu như hiện tượng luận và mục đich luận về tính chất tự vẫn cũng giống như về nghiện ngập, thì dường như cũng công bằng khi nói rằng Dave đã chết vì buồn chán.”(6)
_______________________________
(1) Tiếc thay duyên Tấn phận Tần,
Chưa quen đã lạ, chưa gần đã xa!
Chưa chi đông đã rạng ra,
Đến giờ chỉ giận con gà chết toi!
Tim gan cho cái sao mai,
Thưở nào vác búa chém trời cũng nên!
Về qua mắc liếc trông miền,
Lời quanh dặm dế [đến?], chẳng quên dặm ngồi.
Giữa thềm tàn đuốc còn tươi,
Bã trầu chưa quét, nào người tình chung?
Hồng sơn [núi Hồng lĩnh] cao ngất mấy trùng,
Đò Cài mấy trượng thì lòng bấy nhiêu!
Làm chi cắc cớ lắm điều,
Mới đêm hôm trước lại chiều hôm ni.
Khi xa, xa hỡi như ri,
Tiếng xa nghe vẫn rù rì bên tai.
Quê nhà nắng sớm mưa mai,
Đã buồn giở đến lịp [nhịp?]lơi càng buồn.
Thờ ơ đóng vọt bỏ sườn,
Đã nhàm bẹ móc, lại hờm nắm giang.
Trăng tà chênh chếch bóng vàng,
Dừng chân thoạt nhớ đến đàng cửa truông.
Thẫn thờ gối chiếc màn suông [buông?],
Rối lòng như sợi ai guồng chưa xong.
Phiên nào chợ Vịnh ra trông,
Mồng ba chẳng thấy lại hòng mười ba.
Càng trông càng chẳng thấy ra,
Cơi trầu quệt đã để và [vài?] lần ôi.
Tưởng rằng nói thế mà chơi,
Song le đã động lòng người lắm thay.
Trông trời cách mấy từng mây,
Trông trăng trăng hẹn đến ngày ba mươi.
Vô tình trăng cũng như người,
Một ta, ta lại gẫm cười chuyện ta…
[trong bài này Nguyễn Du dùng nhiều chữ về khung dệt: vọt, sườn, bẹ móc, nắm giang, nhịp dệt]
(2) Tảng mai Hầu trở ra về,
Hồn tương tư vẫn còn mê giấc nồng.
Cơi trầu chưa kịp ta lòng.
Tỉnh ra đã cách non song mấy vời,
Trời làm chi cực bấy trời,
Cơi trầu này để còn mời được ai?
Tím gan đổ hắt ra ngoài,
Trông theo truông Hống, đò Cài thấy đâu?
Khi lên, đổ rối cho nhau,
Khi về, trút một gánh sầu về ngay.
Xua buồn từ bấy đến nay,
Nào ai ngó đến xa quay, xin thề!
Ngại ngùng đường cửi đi về,
Chân dừng dây đạp tay e thoi chuyền.
Lắng tai nghe tiếng ác truyền,
Đường sầu cuốn khúc, tấm phiền đổ hoa.
Chẽ chuyền dằng lại tháo ra,
Gần nhau cách quạng, vành xa mấy hồi.
Liều bằng khổ một gò đôi,
Coi như bóng đã bắn rồi bong bong.
(3) Maurice Blanchot, L’Écriture du désastre, 98: L’Écriture fragmentaire serait le risque même. Elle ne renvoie pas à une théorie, elle ne donne pas lieu à une pratique qui serait définie par l’ interruption. Interrompue, elle se poursuit. S’interrogeant, elle ne s’arroge pas la question, mais la suspend (sans la maintenir) en non-réponse. Si elle prétend n’avoir son temps que lorsque que le tout – au moins idéalement – se serait accompli, c’est donc que ce temps n’est jamais sûr, absence de temps en un sens non privatif, antérieure à tout passé-présent, comme postérieure à toute possibilité d’une présence à venir.
(4) Henri Meschonnic: Critique du rythme, 294, nxb Verdier: La voix est relation. Par la communication, où du sens s’échange, elle constitue un milieu. Comme dans le discours, il y a dans la voix plus de significant que de signifié: un débornement de la signification par la significance.
(5) Sđd, 660: La voix, non la respiration, est la matière de l’oralité. La voix est ce qui disparaît dans l’écrit, pas la respiration. Les transformations, les modulations de l’oral vers l’écrit sont une matière de sens, porteuse d’un grand nombre de signaux, ceux de la voix…La voix ne porte pas seulement du sens. Elle est matière de sens elle-même, et cible de sens.
(6) Jonathan Franzen, Farther Away, 44-45, nxb Farrar, Straus and Giroux, 2012: He’d loved writing fiction, Infinite Jest in particular, and he’d been very explicit, in our many discussions of the purpose of the novels, about his belief that fiction is a solution, the best solution, to the problem of existential solitude. Fiction was his way off the island, and as long as it was working for him – as long as he’d been able to pour his love and passion into preparing his lonely dispatches, and as long as these dispatches were coming as urgent and fresh and honest news to the mainland – he’d achieved a measure of happiness and hope for himself. When his hope for fiction died, after years of struggle with the new novel, there was no other way out but death. If boredom is the soil in which the seeds of addiction sprout, and if the phenomenology and the teleology of suicidality are the same as those of addiction, it seems fair to say that Dave died of boredom.
(còn tiếp)