Thứ Ba, 8 tháng 10, 2013

Đoản khúc gửi tàn tro



Khaly Chàm


1.

bỗng dưng…
thèm khóc một mình
dễ thường
nước mắt dỗ dành tôi ơi!
đêm xanh
môi chạm mặt trời
choàng ôm cuồng vọng
sáng ngời kinh xưa


2.

trắng hồn
treo nhánh đung đưa
ô hay!
ảnh niệm
đánh lừa chiêm bao
ngày hoang mạc
gió phương nào
tàn tro
cát bụi
nhập vào hiện sinh?

NGHĨ VỀ CÁI CHẾT


Nguyễn Hồng Nhung




Điều làm tôi hôm nay sực tỉnh: mình đã sống như thế nào vài ba năm nay?

Khi bỗng nhiên nhận ra : mình đã đặt cái CHẾT ở vị trí nào trong đoạn đời này?

Mưa thút thít suốt ngày mùng một tháng mười một mở màn cho hai ngày lễ dành cho người đã khuất, theo phong tục của Cơ đốc giáo. Những ngọn nến thắp lên khắp nơi, trước hết trong lòng người. Người ta lặng lẽ mang hoa tươi, các vòng hoa, các chậu hoa, những bó hoa khô, những vòng hoa khô đến nghĩa trang, đặt lên các ngôi mộ và đứng im cầu nguyện thầm lặng trong đầu.

Tôi dẫn con trai út đến một ngôi chùa châu Á ở ngoại ô thành phố, thắp hương, im lặng tưởng nhớ đến người đã mất- bố của con trai tôi, người chồng của tôi. Cách đây ba năm tôi đã cố gắng hoàn thành mọi thủ tục trong bệnh viện thật nhanh để đúng hai mươi mốt ngày sau khi mất, chồng tôi được phát tang và làm lễ chôn cất ở quê nhà, nơi đã từng sinh ra.

Tôi mang tro của chồng tôi, niêm phong kín, đựng trong một bình gỗ về đặt tại Văn Điển, để chồng tôi được gần mẹ, người mà chồng tôi yêu thương nhiều nhất trong một đời sống ngắn ngủi. Mỗi người có một trọng tâm trong đời để đau khổ. Tôi biết, ở chồng tôi, đấy chính là bà mẹ .

Một người quen cùng quê hương ở đây theo một giáo phái đạo nào đó bảo tôi: tại sao không để xác chồng tôi ở xứ này- xứ người mà tôi đang nương thân- để con trai tôi được bố nó phù hộ? Tôi trả lời: chỉ người sống phù hộ được cho người sống bằng sinh hoạt khăng khít hàng ngày với nhau thôi. Tôi là ánh sáng hàng ngày của con tôi.

Vài ngày sau cái ngày mưa thút thít từ sáng đến đêm ấy, tôi nhận được tin một người bạn văn chương nơi quê nhà đang ốm nguy kịch. Hôm sau nữa, nghe tin một đứa bạn học cùng khóa ngày nào cũng nhập viện, sắp từ giã cõi đời vì bệnh ung thư.

Một chục ngày đã trôi qua từ hôm đó, tôi không biết từ ngữ nào có thể diễn tả nổi tâm trạng của mình nữa. Lơ lửng? Ngơ ngẩn? lạnh buốt trong lòng, buồn bã đến mức tất cả trong con người mình đều tách biệt nhau: cử động, sinh hoạt hàng ngày, giao tiếp với kẻ khác…vừa là tôi vừa không phải là tôi. Cứ như thể tôi đã biến thành một dây dẫn truyền trực tiếp những cảm giác từ đời sống, nhưng cùng lúc một cái gì đó lại cố chối bỏ trong tâm tưởng. Một lần nữa, tôi lại bị ấn ngã dúi ngã dụi xuống bùn sâu của cô độc và câm lặng

Chỉ khi dạy học, tôi biến thành bài giảng, say mê tỉnh táo, quên hết, nhưng sau phút làm việc, tôi lập tức phân thân…

Tôi bắt đầu hiểu tại sao trong mấy năm tang tóc vừa qua, tôi quay lại với CHỮ, với VIẾT một cách điên cuồng và tốc độ đến thế. Tìm cách làm dịu những vết thương bằng cách cào xé tâm trạng mình? Tìm một cái gì đấy, vứt đi một cái gì đấy, bám víu, buông lỏng…Một trạng thái chết đi sống lại nhiều lần của xúc cảm người.

Nếu trước kia, khi chưa biết thế nào là cảm giác trực tiếp về cái chết, chỉ lơ mơ nếm trải vài ba cảm xúc buồn đau hụt hẫng, lúc đó ta có nhiều cách để tự an ủi lắm. Trốn vào: thiên nhiên, mối quan hệ với người khác, các nghĩa vụ, sự giải trí chốc lát…

Trốn vào các ảo ảnh xoa dịu của khoảnh khắc. Rồi quên đi.



Nhưng tất cả sẽ bị phanh phui bản chất khi đối mặt với thực tại duy nhất giờ đây là hiện thực trần trụi không an ủi hàng ngày. Tất cả những gì trước kia tưởng là đẹp đẽ, vỗ về và làm mi sung sướng, giờ đây rơi xuống chân mi rách nát như những tiếng nấc vụn.

Lúc đó ai cũng rơi xuống vực thẳm. Vực thẳm của sự bấu víu. Tôi đã bấu víu vào sức mạnh bản năng tinh thần của mình, chỉ biết VIẾT ra.

Dường như ai cũng có một vũ khí riêng thượng đế ban tặng lúc ra đời để khi trơ trụi nhất, đơn độc nhất có thể sử dụng chống lại sự hủy diệt.



Nhưng: tôi đã LẦM khi xác định đối tượng tuyên chiến.

Tôi đã đặt cái CHẾT ngang hàng với sự SỐNG!

Rất lâu, trong vài ba năm, có lẽ cho đến tận ngày hôm qua, tôi mới vỡ lẽ ra sự lầm lẫn khủng khiếp này của mình.

„Cái chết là sự ám ảnh không bao giờ có lời giải đáp!” - Đúng!

Trong khi đó đời sống lại là một phạm trù đã quy định. Với tất cả những quy tắc nghiêm ngặt dành cho người sống với nhau, lẫn nhau, cùng nhau, vì nhau, cho nhau.

Vậy là chúng khác hẳn nhau, còn tôi đã đồng hóa chúng.

Tôi ngẫm nghĩ lại những lúc mình đã SỐNG bằng sự CHẾT.

Thực ra, trong quá trình này tôi đã làm được rất nhiều việc, trước hết cho bản thân. Có lẽ làm được nhiều việc vì tôi đã chủ động từ bỏ tất cả những gì mình hay làm từ trước tới nay: nghe đài, xem tivi, nghe nhạc, bạn bè đàn đúm, đi chơi đi bời, thậm chí lòng thiết tha với ăn ngon, mặc đẹp, thưởng thức phim ảnh, tôi vứt hết.

Có lẽ lúc đầu như một sự ruồng rẫy kỷ niệm. Vì đau quá. Sau đó đến cảm giác tê liệt hờ hững, vì nguội lạnh quá. Tôi lao vào ôm ấp chữ, luồng điện tinh thần duy nhất mang lại cảm giác ấm áp, để quên đi, để sống tiếp, để yêu…dù giờ đây tôi mới biết: chỉ để sống và yêu tiếp một cái ÂM như bản thân sự CHẾT.

Hỡi ôi! nếu bạn chưa ở trạng thái và cảm xúc như tôi, bạn khó có thể hiểu được điều này. Cũng chỉ là một biến tướng của biểu hiện đời sống người? nhưng nó quá đặc thù ở chỗ, nó đòi hỏi một trải nghiệm xương thịt, một hiến tế hoàn toàn tự nguyện, như cảm giác tìm một người yêu, tìm một cái gì ham thích mà người ta suốt đời tìm kiếm , nghĩa là rất có thể, trải nghiệm này chỉ có được ở những kẻ có một LÝ TƯỞNG, luôn đi tìm một cái gì đó cao hơn bản thân mình, ở ngoài bản thân mình.

Tôi chính là cái lý tưởng, cái ảo ảnh ấy, nhưng điều đáng nói là nó mang hoàn toàn màu sắc âm thế.

Điều đầu tiên trong xúc cảm tang tóc tôi đã nhận ra: tất cả đều CÓ THẬT.

Kỳ lạ, té ra tất cả những gì mình từng trải từ trước tới giờ không hề có thật. Nó là cái gì vậy? Chỉ là những kinh nghiệm dò dẫm theo gương bắt chước người khác thu được. Nhưng không thông qua con người mình. Rõ ràng mình làm kia mà? Hay chỉ vì những lúc ấy, tôi chưa ĐƠN ĐỘC, nên chưa nhận ra chính mình?

Vậy là ấn tượng đầu tiên về cái chết: sự đơn độc. Và có thật hoàn toàn.

Như người lính trước khi nhận mệnh lệnh xung phong giữa bom nổ đạn réo và giọng người hò hét tiến lên hay quay đầu, bỗng ngã ngửa người nhận ra: ngay bây giờ đây mình sẽ hoặc chết hoặc sống. Không còn hiện thực khác

Trong sự đơn độc có thật này, lần lần tôi đã CẢM được tất cả những gì trước kia mình chỉ đọc, học, biết qua những khái niệm chưa thấm vào cơ thể, vào tận tim gan như một hôm bị bỏ quên giữa cánh đồng hoang mưa rơi đằng đẵng không nơi ẩn trú, ướt thấm đến tận xương!

Szabó Lőrinc bỗng nhiên không phải là một nhà thơ xa lạ khó hiểu như thuở sinh viên tôi ngồi học hàng giờ mãi không thể hiểu nổi nữa, Szabó đã biến thành tôi, một kẻ bất kỳ lúc nào cũng xúc động dạt dào, đang vui hân hoan rạng rỡ vì sắc đẹp của một bông hoa nhỏ xíu bên đường, bỗng ỉu xìu vô cùng chán ngán bởi một cái gì đấy tầm thường của kẻ sống bên cạnh, ta chợt phát hiện. Szabó Lőrinc bỗng nhiên thành bạn tri kỷ bởi sự nhạy cảm quá đỗi giống nhau giữa tôi và chàng trong những lúc tôi hết sức bơ vơ.





Chưa bao giờ tôi nghĩ rằng vào một ngày đẹp trời, mình sẽ hiểu thứ ngôn ngữ châu ngọc của Szabó Lőrinc viết về đời sống, tình yêu, sự quằn quại người, nỗi cắn rứt lương tâm khi vượt qua những quy định chuẩn mực sống trong xã hội người. Cũng như từ từ đọc và hiểu ra một loạt người cầm bút tiết kiệm lời, chỉ sổ tung những giọt máu đau đớn từ trái tim ra biến thành thơ.

Lạ kỳ hơn nữa, hơn quá nửa đời người, ngọn bút tôi lần đầu tiên ngập ngừng, rồi sau đó ào ạt viết ra những bài thơ. Điều này ta không bao giờ có thể biết trước, dù ta có chấp nhận lý thuyết luân hồi của kiếp người đi chăng nữa, bởi nội dung cụ thể không phải do lý thuyết chấp bút. Chỉ duy nhất một thứ có thể tạo ra niềm cảm hứng: TÌNH trong lòng người- dù là người âm trong cõi âm

Dường như tôi đã tìm thấy một ý trung nhân âm thế của tôi. Mỗi dòng chữ viết ra rơi xuống trang sách, đều biến thành thể âm, đều biến thành số phận. Trong những khoảnh khắc ngắn ngủi lắp thành vài ba năm đã trôi qua của mình, tôi đã hạnh phúc biết nhường nào với cái chết của chính mình, như một mối tình trong sạch, hiến dâng hoàn toàn với một người tình âm phủ.

Có lẽ vì sống trong tình yêu âm thế trong trắng này, tôi mới từ từ hiểu ra tất cả những lý thuyết triết học về sự sống vũ trụ, về đời sống người, về các tôn giáo, về những điều vô hình mà con người đang nằm trong nó nhưng vẫn ra sức khích bác nó, vì sợ hãi, vì không nhìn thấy nó, những điều khi còn là người dương thế, rất khó khăn để nhận thức ra.

Bạn sẽ hỏi: tại sao hôm nay tôi quả quyết đấy chỉ là một khoảng thời gian ngắn ngủi của một cuộc tình âm phủ, khi tôi đã nhầm lẫn đặt cái chết lên ngang hàng đời sống của tôi?

Bởi trong đó không có chút lễ nghi, không có mảy may một quy tắc, một quy định nào như trong đời sống trần thế. Tôi không có một người tình xương thịt, không có một khung cảnh ấm êm dương thế trực tiếp vỗ về che chở, tôi chỉ còn lại tôi…



Trong chính tâm tưởng đau đớn của mình, tôi đã tạo ra một thế giới riêng, bằng chữ, cùng chữ, cùng những kẻ cầm bút khác, có thể đã mất, có thể đang còn sống, nhưng chắc chắn không có gì trực tiếp cùng tôi, cùng những tháng ngày dò dẫm tự mình đi tìm mình đau khổ.

Hôm nay tôi nhận ra sự nhầm lẫn đã sống như một kẻ đã chết của mình, khi bất ngờ nhìn thấy hết sức rõ ràng: tâm trạng của tôi không phải tâm trạng của kẻ khác, bởi vậy đôi khi hành vi của tôi làm người khác bực mình, làm họ cảm thấy bị xúc phạm, tôi đã đổ toàn bộ cái tôi của mình lên người khác, như một kẻ đã chết muốn trừng phạt người sống bằng sự đau xót kéo dài… giá mà vĩnh viễn!



Hỡi ôi!

Sau những ngày mưa lê thê buồn bã, hôm nay trời hửng nắng, bầu trời xanh cao vút, không khí lành lạnh hiu hiu như một sáng mùa xuân, nhưng lá vàng rơi khắp nơi pha đất trời thành một màu vàng úa đang hủy hoại…

Bước qua những vũng nước đầy xác lá, bùi ngùi…

Nhưng lạ chưa kìa, những xác lá mang những hình thù khác hẳn nhau, dù tất cả đều trải rộng, nằm sóng soài như những bàn tay xòe, những thân hình úp sấp giang rộng chân tay. Tôi cúi nhìn chăm chú những dáng vẻ của lá: cái như những đồng tiền vàng nho nhỏ, cái như một bông hoa nhiều cánh, cái như một ngôi sao nhiều tua, và có những cái lá rất to, mỗi góc mang một hình thù khác.

Ngước mắt nhìn lên rặng dẻ dại chỉ một màu vàng sẫm, tôi nhận ra những chiếc lá còn lại trên cành cũng đã khô héo, sự lụi tàn ngay trên một thân cây sống…

Hàng cây trông rộng hẳn ra, cách xa nhau bởi những tán cây lưa thưa dần, trông xa xa chỉ là những cành khẳng khiu lắc rắc điểm vài ba chiếc lá vàng úa…

Nhắm mắt lại, tưởng như thấy hình ảnh của mùa xuân, cũng lơ thơ trên cành chỉ vài chiếc lá thôi, nhưng là những chiếc lá xanh non tơ, e ấp dịu dàng…

Vậy đó ta ơi, hãy trở lại với ĐỜI SỐNG bằng chính sự lụi tàn của từng KHOẢNH KHẮC đang trôi đi của chính mi!


Blogger sợ chữ



Phan Trang Hy

Những ngày Tết, ngoài chuyện đi thăm bà con, bè bạn, tôi lại lên mạng. Các trang mạng đều có lời chúc mừng năm mới, đại ý là chúc sức khỏe, chúc tấn tài, tấn lộc, hạnh phúc, an khang… Dẫu là người khó tính đến mấy đi nữa, nhưng khi đọc những dòng chữ ấy, bạn cũng cảm thấy có chút vui như được nghe lời nói, như thấy được nụ cười lịch thiệp, chân tình của người chúc Tết mình.

Tình cờ, tôi vào một trang blog. Xin phép cho tôi được nêu tên dù có trùng tên của ai đó. Xin chớ hiểu lầm tôi. Tên trang mạng là Blogger sợ chữ. Quả là tên gây ấn tượng!

Nếu bạn đọc những gì đã lưu trữ, liên kết trên trang mạng này, bạn sẽ thấy tay chủ blog này là tay sính chữ nghĩa, ham lý luận. Hầu hết các bài viết của tác giả đều đụng chạm đến cơm áo gạo tiền, đến con heo, con cá, đến Hoàng Sa, Trường Sa, đến chiến tranh biên giới phía Tây Nam, phía Bắc trong cuộc chiến với Pôn Pôt, với giặc Tàu để giữ từng tấc đất tấc lòng, đến phòng chống tham nhũng, đến luật đất đai… Còn liên kết thì khỏi phải nói, liên kết các tờ báo lớn trong nước, ngoài nước, liên kết với các trang văn học nghệ thuật, liên kết với các trang chính trị, trang blog khác… Nhìn chung, chỉ cần vào trang này, bạn có thể đi tất cả các trang khác. Không sợ tường lửa, không sợ bị mất mật mã, không sợ ai theo dõi, không sợ thiếu chữ nghĩa trên đời này. Kể cũng tiện lợi thiệt, nếu vào trang mạng của hắn ta. Chuyện xưa, chuyện nay đều có; chuyện Đông, chuyện Tây cũng có; chuyện đẻ, đái, chuyện đánh nhau, chuyện chiến tranh, hòa bình, chuyện thiên tai, chuyện thử vũ khí hạt nhân, chuyện hiếp dâm, chuyện bầu Giáo hoàng cũng có… Tất cả có! Nếu mệt, bạn cứ mở trang liên kết thư giãn, có thể đó là trang có những giai điệu tuyệt vời của nhạc thính phòng, có thể là giai điệu nhạc trẻ. Có thể đó là trang mạng gợi cảm, gợi dục. Kể cả chuyện bày vẻ cách làm tình, cách sử dụng sextoy, nếu bạn cần.

Và rồi theo địa chỉ mail có trên trang Blogger sợ chữ , tôi đã liên lạc với chủ nhân.

Ngày thứ nhất trong tháng, tôi mở mail. Nhận được mail của hắn. Cũng chỉ là lời chúc xã giao như bao người mới làm quen trên mạng. Tôi dè chừng hắn. Xem chừng, hắn cũng dè chừng tôi.

Ngày thứ năm trong tháng, tôi gửi mail cho hắn. Tôi chờ hắn trả lời. Vẫn bặt tăm. Mãi đến cả tuần sau, tôi mới nhận được mail của hắn. Qua mail, hắn xin lỗi tôi vì sự trễ nãi trả lời của hắn. Và hắn đã nêu lý do rất chính đáng là vì hắn bận tham gia quỹ từ thiện góp công, góp sức, góp của cứu giúp những người bị bệnh “thiếu óc, “thiếu tim”. Lần đầu tôi mới biết đến thuật ngữ y học: thiếu óc, thiếu tim.

Tôi gửi mail chúc mừng hắn tham gia làm từ thiện. Và rồi mail qua , mail lại, tôi như cởi mở với hắn; hắn cũng vậy. Tôi và hắn trải hết lòng với nhau. Tôi thầm cảm ơn Internet. Có thể, tôi e dè, khó bắt chuyện khi đối diện với ai đó. Nhưng qua mạng, tôi viết những dòng chữ bằng sự nghĩ suy chân thực của lòng mình. Tôi nghĩ qua mạng, một ai đó khủng bố bạn, nói xấu bạn, hoặc viết tốt về bạn thì đó cũng là lòng thực của kẻ ấy với bạn. Qua mạng, hầu như, dù nickname nào đi nữa, thì người ấy vẫn chính là người ấy. Tính tốt, tính xấu, tính ác, tính thiện đều thể hiên rõ qua những comment, những mail…

Tôi lại vào mạng. Tra cứu thuật ngữ y học: thiếu óc, thiếu tim , nhưng vẫn không hiểu đó là những căn bệnh gì. Tôi chỉ còn biết tự hỏi với lòng như một đứa học trò nhỏ. Nào là: Bệnh thiếu tim là gì? Bệnh thiếu óc là gì? Tại sao có căn bệnh đó trong cõi đời này? Phải làm gì phòng, chống được căn bệnh đó? Tôi vẫn không tìm ra câu trả lời đúng nhất.

Tôi vẫn ngồi trước laptop nghĩ suy về căn bệnh mới, lạ này. Đầu óc tôi như căng cứng. Tôi như không làm chủ được nghĩ suy của mình. Tôi thấy trước mắt tôi là bóng dáng của ai đó. Không rõ lắm! Hắn tự xưng là Blogger sợ chữ, và hắn mời tôi sáng mai uống cà phê tại quán Hương Xưa. Tôi cười và nhận lời.



Tính tôi vẫn vậy. Không muốn trễ giờ, sai hẹn, nên tôi đến quán sớm khoảng 10 phút. Sáng nay, thấy tôi ngồi một mình, chủ quán đưa tờ Thanh niên cho tôi đọc. Tôi gật đầu, cảm ơn chủ quán. Trong khi chờ đợi hắn, tôi lật vội những tin. Tôi bắt gặp bài thơ Tổ quốc nơi biên thùy của Nguyễn Việt Chiến. Tôi thấy dòng chữ Tưởng nhớ những chiến sĩ hy sinh ở biên giới năm 1979 như đỏ lên. Ngoài trời mưa đang rắc hạt. Trời hơi se lạnh, cái lạnh của những ngày trong tiết Vũ thủy. Nhìn những hạt mưa, nhìn những cây lá trong cái lạnh đầu xuân, tôi như thấy cả một trời biên giới năm xưa qua bài thơ tôi thầm đọc. Bài thơ có giọng bi hùng. Tôi thoáng buồn, nhưng tin tưởng!

Quán cà phê này, so với quán khác, có vẻ yên tĩnh. Quán có mở nhạc vừa đủ nghe. Khác hơn mọi khi, hôm nay, tôi được thưởng thức những bản nhạc nổi tiếng của Phạm Duy. Tôi như tắm mình trong dòng chảy âm thanh của những giai điệu quê hương. Tôi như tắm trong suối nhạc tự do của một con người đi suốt Con đường cái quan đất nước, có lúc hét to bởi những “tục ca”, gào lớn bởi những “đạo ca”, nhưng hơn hết là dạt dào, dịu dàng của những “tình ca” như có cả bóng dáng của những bà mẹ quê, những đứa trẻ chăn trâu, của năm tháng cha ông đi mở cõi... Tôi nhẩm hát theo: “Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời…”.



Tôi đứng lên, như một ca sĩ, tôi hát cùng Đức Tuấn, Mỹ Linh trên màn hình. Cả quán cà phê như hòa nhịp cùng lời hát… Như thể chúng tôi được cuốn vào điệu hồn dân tộc.

Trước mắt tôi, biết bao người cùng tôi hát. Bên cạnh tôi là một cô gái. Cô mỉm cười và hát cùng tôi: “Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời…”.



Và rồi, cô ta tự giới thiệu cô là Blogger sợ chữ. Trời ơi, Blogger sợ chữ đây ư? Tôi không ngờ cô ta trẻ đẹp đến thế! Tôi sững sờ. Và tôi sững sờ hơn nữa khi cô ta nói nhanh, rồi đi cũng nhanh. Chỉ loáng thoáng lời cô ta: “Ông có biết căn bệnh thiếu tim, thiếu óc rồi chứ gì?... Có tim đó, có óc đó, nhưng tim có yêu nhân nghĩa đâu, óc có suy nghĩ chân chính đâu!” Tôi tự hỏi với lòng mình. Con tim yêu thương nhân nghĩa, bộ óc suy nghĩ chân chính không tồn tại trong từng con người sao?

Các bạn có tin tôi không? Tôi mơ đấy. Chẳng có cuộc gặp ấy đâu. Tôi vẫn đang ngồi trước laptop. Đang đọc báo, tìm tài liệu, kiến thức trên mạng. Vẫn chọn lọc những tin xấu, tin tốt, tin sai, tin đúng. Tôi vào trang của hắn, dù hắn không có bài viết mới, để từ đó tôi có thể xem các trang khác. Tôi nhiều lần gửi mail hỏi thăm hắn. Nhưng tôi không nhận được trả lời.

Ngày lại ngày, tôi vẫn phải làm việc để tồn tại. Và những khi rảnh, tôi lại lên mạng. Trước khi xem các tin, các bài viết, tôi thường mở mail. Thật là bất ngờ đối với tôi khi tôi nhận được mail của hắn. Tôi xin coppy lại mail ấy để hầu các bạn.

Thân gửi bạn Phan Trang Hy!

Xin bạn đọc những dòng chữ sau, xem như là tâm sự của Bloggger sợ chữ.

Có lẽ bạn ngạc nhiên, tại sao tôi sợ chữ? Có thể bạn nghĩ thầm tại lúc nhỏ tôi lười học, không thích tìm hiểu kiến thức của loài người, nên thấy chữ là sợ chứ gì? Xin bạn hiểu cho là sức học của tôi cũng tàm tạm. Đối với tôi, kiến thức, suy cho cùng cũng chỉ là những con chữ ghi lại. Những con chữ biến hóa thành ra vô số triết thuyết, chủ thuyết này, chủ thuyết nọ. Vì thế, khi học những năm đầu đại học, tôi cố đọc triết Đông, triết Tây, đọc Kant, Marx, Lénin, Tôn Dật Tiên, Mao, Gandhi… Tôi cũng có đọc Kinh thánh, tìm hiểu đạo Cơ đốc, đạo Hồi, đọc chiến tranh giữa các tôn giáo, thế chiến thứ nhất, thứ hai, đọc thủ đoạn chính trị, đọc sấm Trạng Trình, đọc tiên tri của Nostradamus, Vanga, … Chữ nghĩa như thể căng cứng trong đầu tôi.

Thế là, tôi sử dụng cái vốn chữ nghĩa của mình để viết. Tôi viết những bài mang tính lý luận, có khi viết những bài có tính thời sự. Tôi không tô hồng, cũng không bôi đen cuộc đời. Tôi chỉ viết sự thực. Thế nhưng, sự thực ấy lại mất lòng biết bao người. Và cũng chính những bài ấy khiến tôi phải lao đao trong cuộc sống. Không những tôi lao đao mà ông Tổng biên tập tờ báo “Không dối trá” lại phải khốn đốn, điêu đứng, bị chụp mũ là tiếp tay cho thế lực thù địch.

Từ đó, nghe cái tên tôi, ai cũng dè chừng. Những bài tôi viết, hầu hết các báo, tạp chí không thể đăng. Dẫu tôi có lấy bút danh khác, nhưng với giọng văn như tôi, các bài tôi viết cũng không qua mắt được các tay kiểm duyệt. Tôi tự nhủ với lòng: Ai biểu viết sự thực? Nhưng rồi, lòng tôi mách bảo: Không thể dối trá với lòng mình. Không thể dối niềm vui, nỗi buồn của mình được. Không thể trá đen thành trắng được. Thôi thì cứ viết ra, gửi cho bạn bè, người thân, hoặc lập blog, thả lửng trên mạng… Có thể trăm năm sau, hoặc lâu hơn nữa, hậu thế không biết tôi là ai, nhưng có thể ai đó đọc bài của tôi, sẽ biết có một thời sự thực bị cấm đoán.

Thôi thì thả lửng chữ trên mạng…
Xin bạn thông cảm cho tôi.

Blogger sợ chữ.
Đọc xong mail hắn gửi, tôi tự hỏi: Không biết mình có là kẻ sợ chữ không?

Triết lí kiểu phụ nữ




Umberto Eco

Một khẳng định triết học trước đây – đàn ông thì có khả năng tư duy về cái vô hạn, còn đàn bà thì mang lại ý nghĩa cho cái hữu hạn – có thể đọc theo nhiều cách: chẳng hạn, vì đàn ông không biết sinh con, nên họ phải tự an ủi bằng các nghịch lí của Zenon. Nhưng trên cơ sở của các sự khẳng định như thế có loan truyền một ý tuởng cho rằng lịch sử (ít ra cho đến thế kỉ 20) đã sinh ra cho chúng ta các nhà thơ nữ lỗi lạc, các nhà kể truyện nữ kiệt xuất và các nhà khoa học nữ trong nhiều bộ môn, mà không sinh ra các nhà triết học và các nhà toán học nữ.

Từ các cách nhìn méo mó như thế đã từ lâu hình thành sự tin tưởng rằng phụ nữ không hợp với hội hoạ, trừ các tên tuổi quen thuộc như Rosalba Carriera [1] hoặc Artemisia Gentileschi [2] . Đương nhiên, khi hội hoạ còn là tranh tường nhà thờ, việc trèo lên một giàn vẽ với một chiếc váy hẳn không là một chuyện tao nhã, và cũng chẳng phải phần việc của phụ nữ là điều khiển một xưởng vẽ với 30 người đang học nghề, thế nhưng khi người ta vừa có thể thực hành hội hoạ trên các giá vẽ thì các nữ hoạ sĩ lập tức xuất hiện. Như thể qua cách nào đó bảo rằng người Do Thái giỏi về nhiều ngành nghệ thuật nhưng không giỏi về hội hoạ, cho tới khi một Chagall xuất hiện. Văn hoá Do Thái quả thực thịnh hành về thính giác mà không thịnh hành về thị giác và tính thần thánh chẳng nên biểu hiện qua hình ảnh, nhưng có một nền sản xuất thị giác rõ ràng là thú vị trong nhiều văn bản chép tay Do Thái. Vấn đề là ở chỗ, ở các thế kỉ khi nghệ thuật tượng hình nằm trong tay Nhà Thờ thì khó mà một nguời Do Thái được khuyến khích vẽ Đức Mẹ và Thánh giá, cũng như khó mà ngạc nhiên khi chẳng có nguời Do Thái nào trở thành Giáo Hoàng.

Biên niên của đại học Bologna kể rằng các vị nữ giáo sư như Bettisia Gozzadini và Novella d’Andrea đẹp đến nỗi họ phải giảng bài đằng sau một màn trùm mặt để sinh viên khỏi xốn xáo, nhưng các vị ấy không dạy triết. Trong các sách giáo khoa triết học chúng ta không thấy phụ nữ dạy biện chứng hoặc thần học. Héloise, nguời học trò cực thông minh và bất hạnh của Abelard [3] hẳn là đành lòng trở thành một nữ tu viện trưởng.

Nhưng không nên xem nhẹ vấn đề nữ tu viện trưởng, một phụ nữ/triết gia ở thời chúng ta là Maria Teresa Fumagalli đã dành nhiều trang cho chuyện này. Một nữ tu viện trưởng là một thẩm quyền về tâm linh, về tổ chức, và về chính trị; đảm nhiệm các chức năng trí thức quan trọng trong xã hội trung cổ. Một quyển giáo khoa triết học tốt phải kể các nhà huyền học nữ trong số các nhân vật của lịch sử tư tưởng, như Caterina da Siena [4] và Hildegard von Bingen [5] , những người mà về phương diện thị kiến siêu hình học và cảnh sắc về cái vô hạn khiến chúng ta vẫn sững sờ hôm nay.

Ý kiến cho rằng nhà huyền học nữ không phải là một triết gia là không vững, bởi vì lịch sử triết học đã dành chỗ cho các nhà huyền học xuất sắc như Suso [6] , Tauler [7] hoặc Eckhart [8] . Bảo rằng phần lớn các nhà huyền học nữ chú trọng thân thể hơn các ý niệm trừu tượng thì cũng như cho rằng, chẳng hạn, Merleau-Ponty [9] phải biến mất trong sách giáo khoa triết học.

Các nhà nữ quyền từ lâu đã cử chọn hình tượng anh hùng của mình: Hypatia [10] , ở Alexandria, vào thế kỉ thứ 5, bậc thầy về triết học Plato và toán học cao cấp. Hypatia trở thành một biểu tượng, nhưng không may, về các tác phẩm của bà nay chỉ còn các truyền thuyết, bởi vì chúng đã biến mất, và bà cũng biến mất, đúng thực là bị một nhóm người Kitô giáo cuồng động sẻ ra từng mảnh, mà theo một vài nhà sử học là do sự khuyến giục của nhân vật Cyril ở Alexandria [11] , người mà sau đó được phong thánh dù không phải do chuyện này. Thế thì chỉ có một Hypatia thôi sao?

Gần đây ở Pháp, có xuất bản một quyển sách nhỏ (của nhà Arléa): Histoire des femmes philosophes. Nếu thắc mắc tác giả Gilles Ménage là ai, thì chúng ta có thể khám phá: bà sống ở thế kỉ 17, một học giả tiếng La-tinh, thầy dậy của Madame de Sévigné [12] và Madame de Lafayette [13] và quyển sách của bà xuất hiện năm 1690 có tựa là Mulierum philosopharum historia (Lịch sử các nhà nữ triết gia). Vậy thì không chỉ có Hypatia, quyển sách của Ménage, dù chủ yếu nói về thời cổ điển, giới thiệuhàng loạt nhân vật cực kì quyến rũ: một Diotima-socrate [14] , một Arete-cycenaic [15] , một Nicarete-megaric [16] , một Ipparchia-khuyển nho [17] , một Teodora-tiêu dao [18] (theo nghĩa triết học của từ này), một Leonzia-epicure [19] , một Temistoclea-pithagoras [20] . Và Ménage, khi lật xem các văn bản cổ và các tác phẩm của các vị Trưởng phụ Nhà thờ, đã tìm được đến 65 viện dẫn, khá nhiều, ngay cả với sự thể bà có một ý niệm khá rộng về triết học. Nếu tính đến chuyện ở xã hội Hi Lạp phụ nữ thì giới hạn trong bốn bức tường nội trợ, rằng các nhà triết học thích nuôi dưỡng quan hệ với các các chàng trai hơn các cô gái, rằng để nổi tiếng giữa công chúng phụ nữ phải là một kĩ nữ, thì chúng ta mới thấm thía nỗ lực của các nhà tư tưởng nữ ấy khi tự khẳng định mình. Thế rồi, do phẩm chất kĩ nữ mà người ta vẫn còn ghi nhớ một Aspasia [21] , trong khi quên rằng bà thành thạo tu từ học và triết học và Socrate thích giao du với bà (có Plutarch làm chứng).

Tôi đã giở xem ít nhất ba bộ bách khoa triết học hiện nay và chẳng tìm thấy dấu tích gì về các tên tuổi này (trừ Hypatia). Không phải không có phụ nữ làm triết học. Thật ra, các bậc triết gia nam tử đã muốn quên các bà đi, có thể sau khi đã chiếm hữu tư tưởng của các bà.

Vũ Ngọc Thăng dịch và chú thích

[1]Rosalba Carriera (1675-1757), nữ hoạ sĩ Ý, thuộc trường phái phấn màu Venise thời Rococo, đương thời rất nổi tiếng và được ưa chuộng đặt vẽ chân dung.
[2]Artemisia Gentileschi (1593-1652/3), nữ hoạ sĩ Ý, quan trọng nhất của thời đầu Hiện đại ở Âu Châu. Bà là hoạ sĩ nữ đầu tiên hoạ các cảnh tượng lịch sử và tôn giáo quan trọng.
[3]Pière Abélard (1079-1142): nhà triết học và thần học Pháp. Chuyện tình nổi tiếng và vụng trộm giữa ông và cô học trò Héloise khiến ông bị thiến. Sau đó cả hai đều đi tu và thành đạt về phương diện này. Cuối đời, Héroise và Abelard cùng soạn và tập hợp các bức thư tình và tôn giáo của nhau. Khi qua đời hai vị tu sĩ / người tình này đuợc chôn bên nhau trong nghĩa trang Père-Lachaise ở Paris.
[4]Caterina da Siena (k.1347-1380), nhà huyền học nữ người Ý, phong Thánh năm 1461, Tiến sĩ nhà thờ năm 1970. Bà để lại 381 thư gửi cho các nhân vật đuơng thời quyền thế nhất, một số lời cầu nguyện, và ‘Dialogo della divina providenza/Lời thoại của Thuợng đế’, một trong trong những văn bản huyền học cổ điển của mọi thời (đọc cho các thư kí ghi lại trong trạng thái xuất thần).
[5]Hildegard von Bingen (1098-1179), nữ tu viện trưởng, nhà huyền học sinh ở Đức, một trong những nhà soạn nhạc nữ đầu tiên. Sự nghiệp tâm linh, chữ nghĩa và âm nhạc của bà thì mênh mông, bao gồm nhiều chuyên luận về tôn giáo, các vở kịch, và các tác phẩm âm nhạc ‘trừu tượng’.
[6] Henri Suso (1295-1366), nhà huyền học Đức.
[7] John Tauler (k.1300-1361), nhà huyền học Đức.
[8]“Meister” Johannes Eckhart von Hochheim (k.1260-1327/8), nhà huyền học Đức.
[9]Maurice Merleau-Ponty (1908-1961), triết gia Pháp.
[10]Hypatia of Alexandria (k.370-415), một trong những nhà triết học và toán học lớn nhất thế kỉ 4, được cử làm viện trưởng trường triết tân-Plato tại Alexandria.
[11]Cyril of Alexandria (k.376-444), nhà thần học, Giám mục, Trưởng phụ/Tiến sĩ Nhà thờ.
[12]Marie de Rabutin-Chantal Sévigné (1626-1696), nữ văn sĩ Pháp.
[13]Madame de Lafayette (1634-1693), nữ văn sĩ Pháp.
[14]Diotima of Mantinea (k.470-k.410 TCN), nhân vật được Plato kể lại trong Symposium, trong đó Socrate nói rằng ông đã học được từ bà lí thuyết về tình yêu. Diotima được xem là một trong những tư tưởng gia nữ lớn nhất của mọi thời.
[15]Arete of Cyrene (thế kỉ IV TCN), kế thừa trường phái triết học cyrenaic (socrate-minor) của cha là Aristippus. Bà có câu nói được các nhà nữ quyền trích dẫn: “Tôi mơ một thế giới nơi chẳng có chủ lẫn nô”.
[16]Nicarete of Megara (thế kỉ III TCN), kĩ nữ, theo phái triết học Euclide (hoặc hậu-socrate), chung sống với triết gia Stilpo vốn trực tiếp là học trò hoặc theo học các trường phái triết học kế thừa Euclide.
[17]Ipparchia (thế kỉ V-IV TCN), tán đồng triết học khuyển nho (cynicism), truyền thuyết nói về bà như người có văn hoá triết học sâu rộng và phong cách lí luận lịch lãm, và sánh bà với Plato.
[18] Teodora (thế kỉ IV?), theo phái triết học “đích thực tiêu dao” của Aristotle.
[19]Leonzia hoặc Leontina (thế kỉ IV-III TCN), có lẽ là kĩ nữ của Epicure, truyền thuyết cho rằng bà đã viết một luận văn công kích triết gia Theophrastus.
[20]Themistoclea (thế kỉ VI TCN), phụ nữ đầu tiên trong lịch sử (Phương Tây) được gọi là một nhà triết học, có thể là chị em với Pythagoras, được xem là người đã truyền lại cho Pythagoras những thông điệp có tính nguyên lí đạo đức nhận được từ các vị thần.
[21]Aspasia of Miletus (k.470-410 TCN), kĩ nữ, thông thái, đến Athene sinh sống, sau lấy Pericles. Giỏi tu từ học, được Plato, Xenophon, Cicero, Athenaeus, và Plutarch kính trọng. Có lần Socrate nói bà là thày của ông về tu từ học.

Cong nhưng đừng gãy





Một trong những hồi ức thân thương nhất của tôi khi còn thơ đó là đi dọc và ngồi xuống bên bờ sông. Nơi đó tôi được tận hưởng sự yên bình và tĩnh lặng, ngắm nhìn dòng nước lặng lờ trôi và tiếng những con chim hót và những chiếc lá cây rì rào. Nơi đó tôi cũng được ngắm những thân tre oằn xuống dưới sức gió rồi vút ngược lên trời cao khi những cơn gió lặng đi. Khi tôi nghĩ về tính đàn hồi của thân tre lúc chúng cong và thẳng ngược lại về vị trí cũ, khái niệm về sự thích ứng hiện lên trong óc tôi. Liên hệ điều này với con người, sự thích ứng có nghĩa là khả năng phục hồi sau một cú sốc, nỗi u sầu, hoặc bất kỳ trạng thái nào đã làm căng thẳng hết mức những cảm xúc của con người.

Bạn có bao giờ cảm thấy mình gần như gục ngã? Bạn gần như bị bẽ gãy? Hãy cảm tạ trời đất vì sau thử thách ấy bạn vẫn còn tồn tại để có thể nói về sự trải nghiệm đó. Trong thử thách đó bạn đã cảm thấy một trạng thái tình cảm lẫn lộn đang đe dọa chính sức khỏe của mình. Bạn cảm thấy những xúc cảm bị rút kiệt, tinh thần kiệt quệ và bạn gần như phải hứng chịu một trạng thái về sức khỏe không lấy gì làm dễ chịu.

Cuộc sống là sự tổng hòa của những thời khắc tươi đẹp và đen tối, những phút giây hạnh phúc cũng như bất hạnh.

Những bất hạnh tiếp đến sẽ gần như bẽ gãy bạn, nhưng hãy cố gắng cong người gắng chịu, đừng để bị bẽ gãy. Hãy nỗ lực đừng để hoàn cảnh hạ gục bạn.

Một chút hy vọng sẽ đưa bạn vượt qua những thử thách cam go. Với niềm hy vọng về một ngày mai tươi sáng hoặc một viễn cảnh tươi đẹp, thì mọi điều xem ra sẽ không đến nỗi tồi tệ. Thử thách cam go ấy rồi ra sẽ dễ dàng đương đầu hơn và kết quả cuối cùng thật xứng đáng. Nếu đường đời trở nên cam go và bạn đang ở vào thời điểm sắp gãy, hãy chứng tỏ sự thích ứng của mình. Giống như những cây tre, cong, nhưng không gãy.

Buông xả





Nghệ thuật buông xả
Ta thường nghĩ rằng để có hạnh phúc thì cần phải nắm bắt càng nhiều điều kiện tiện nghi càng tốt, cho nên hễ có cơ hội là ta cứ tha hồ tích góp mà không hề biết chối từ. Nhưng điều lạ lùng là càng tích góp bao nhiêu ta càng thấy thiếu thốn và lạc lõng bấy nhiêu. Tại vì những thỏa mãn kia đã làm cho cơ chế cảm xúc bùng vỡ và nó buộc ta phải thường xuyên nạp cho nó một lượng cần thiết thì nó mới chịu lắng yên. Để phục vụ cho cơn cảm xúc nhất thời ấy, ta đã tiêu tốn rất nhiều năng lượng và đôi khi chấp nhận phương hại đến phẩm chất đạo đức, để rồi khi cảm xúc rút lui thì tâm hồn ta trở nên quạnh hiu, xơ xác.

Ta hãy nghiệm lại chính mình, cái gì đã khiến cho phẩm chất đời sống của ta trở nên yếu kém như vậy? Có phải vì nhận thức sai lầm, vì sự kích động của môi trường chung quanh, ta đã để cho lòng tham của mình bị tưới tẩm nên ta cố gắng tìm mọi cách đem những món tiện nghi vật chất ấy về cho bằng được. Hồi đầu ta nghĩ rằng nếu không có nó thì ta không thể sống thoải mái và hạnh phúc được, nhưng chỉ trong một thời gian ngắn ngủi là ta đã nhàm chán và không còn muốn nhìn tới nó nữa. Nhiều khi đồ đạc để chật kín cả nhà, không còn lối đi, không còn không gian để thở, nên ta đành phải đem cho bớt. Bấy giờ ta bỗng nhận ra buông xả cũng đem lại cảm giác an bình và hạnh phúc.

Tiện nghi về tinh thần cũng vậy, không phải lúc nào ta cũng cần nó hay cần nó một cách xa xỉ. Một thuyền trưởng tài giỏi thì phải biết cách giải cứu con thuyền quá khẳm của mình khi nó không thể tiến tới phía trước hay không thể nhúc nhích được nữa. Đôi khi vị thuyền trưởng ấy phải chấp nhận quẳng bớt những thùng hàng hóa thật to xuống biển, dù biết rằng những thùng hàng ấy rất đắt giá. Sự công nhận, ngợi khen, kính trọng, thương yêu là những nhu cầu thiết yếu của con người, nhưng nếu vì nó mà ta phải gồng mình lên để đối phó hay phải vắt kiệt năng lượng để giữ gìn, đến nổi ta không còn là chính mình hay mất cả phương hướng sống thì ta cũng đành phải từ giã bớt thôi.

Buông xả bao giờ cũng đem lại sự nhẹ nhõm trong tâm hồn, nó là một nghệ thuật sống rất cao cấp nhưng không phải dễ làm. Bởi vì ta không dễ tin rằng nếu thiếu đi điều kiện tiện nghi ấy thì cuộc sống của ta vẫn đảm bảo an toàn hay chuyển biến tốt hơn, và ta cũng không dễ đón nhận cảm giác khó chịu khi thói quen hưởng thụ không còn được phục vụ như trước nữa. Nhưng nếu ta không thể chiến thắng với những ham muốn quá mức và có tính chất hủy hoại năng lượng chính mình trong thực tại, thì đừng hỏi tại sao ta không thiếu thốn thứ gì nhưng lại không thể sống bình an và hạnh phúc như bao người khác. Phải lượng sức mình, phải ý thức tình trạng tâm thức của mình để sắp đặt lại lối hưởng thụ sao cho thích hợp, trong đó buông xả là điều ta nên nghĩ tới và hãy can đảm thử qua.

Khôi phục phẩm chất đời sống

Xã hội ngày càng văn minh thì càng tạo ra nhiều tiện nghi để con người nâng cấp sự hưởng thụ. Ngày xưa con người không có những tiện nghi đó họ vẫn sống được, sống tốt và sống rất an toàn nữa là khác. Bây giờ con người biết quá nhiều thứ, tưởng chừng như có thể nắm cả thế giới trong bàn tay mình, nhưng đó chỉ là ảo tưởng vì ngay nơi chính bản thân còn không hiểu nổi thì làm sao có thể điều phục được đối tượng khác. Và càng giam mình vào những điều kiện tiện nghi ta càng trở nên biếng nhác, yếu đuối. Đến nổi cần đi ngủ sớm hay đi bộ ngoài thiên nhiên cho tinh thần được dễ chịu hơn cũng trở thành một thử thách quá lớn, lớn hơn cả việc làm ra tiền hay làm đẹp lòng kẻ khác.

Nhiều khi biết mình rất mệt mỏi và đuối sức nhưng ta lại không đủ can đảm để tắt bớt ti vi, điện thoại, máy vi tính hay tạm gác kế hoạch dự án sang một bên. Rồi một hôm nào đó, trong một điều kiện bắt buộc, ta lái xe ra khỏi thành phố ồn náo và đầy bụi bặm để về với miền thôn quê yên ả thì ta mới chợt thấy mình như được sống lại. Thời gian qua ta đã sống với tư cách của một kẻ mộng du, cứ nhào tới phía trước để nắm bắt cái này cái nọ chứ không ý thức được những gì đang xảy ra trong ta và chung quanh ta. Cảm giác bỏ lại sau lưng những thứ nhọc nhằn phiền toái thật vô cùng dễ chịu, ta thấy mình thật tự do.

Buông xả đúng lúc không những giải cứu ta ra khỏi cơn khủng hoảng bế tắc, mà nó còn trả tâm hồn ta trở về với con người chân thật hồn nhiên năm xưa, chuyển tâm thức ta sang những cung bậc cao hơn, đưa cuộc đời ta sang một khúc quanh khác sáng đẹp hơn. Nếu ta là kẻ trải nghiệm nhiều năm trong cuộc đời, ta sẽ có khuynh hướng giành nhiều thời gian và năng lực để bồi dưỡng những giá trị bình an và hạnh phúc trong tâm hồn, chứ không còn hăng hái như những người trẻ luôn sẵn sàng lao theo những trận bão điên nông nổi để giành lấy những thứ hấp dẫn lực bên ngoài. Vì khi nằm trên giường bệnh hay đối mặt với tử thần, ta sẽ không nắm được gì cả ngoài tâm hồn bé nhỏ đáng thương của mình.

Mà đâu cần đợi đến giây phút ấy, khi ta muốn được yêu, khi ta muốn được thoát khỏi một tai nạn khốn đốn nào đó thì những thứ tiện nghi kia bỗng trở nên thừa thải đến vô nghĩa và ta dễ dàng vất nó sang một bên. Ngay cả sự ngưỡng mộ, kính trọng, ngợi khen ta cũng không cần nữa. Lúc ấy ta đã khẳng khái tuyên bố những thứ ấy chỉ là những phương tiện tạm bợ thôi, một cõi lòng bình yên và tình thương chân thật mới là thứ quý giá và đáng gìn giữ nhất trên đời. Kinh nghiệm ấy đã giúp ta đã ý thức được hạnh phúc hay khổ đau đều tùy thuộc vào tâm ta. Nếu ta không tin vào tâm mình, cứ lang thang đi tìm những điều kiện bên ngoài thì với hạnh phúc ta sẽ mãi là kẻ trắng tay.

Buông xả vừa đem tới năng lượng an lành cho chính thân tâm ta mà cho cả những người sống chung quanh ta nữa. Ta thử thực tập mỗi khi ngồi bên người thương mà ta buông xả những căng thẳng lo lắng để hết lòng chăm chú lắng nghe họ, hay thỉnh thoảng nhìn kỹ vào gương mặt họ bằng một cái nhìn trong sáng và cảm thông, thì cả ta và họ đều sẽ rất hạnh phúc. Ta có cho rằng cái hạnh phúc này tầm thường hơn cái hạnh phúc kiếm được nhiều tiền, tranh đoạt được địa vị hay chinh phục được kẻ khác không? Nếu không, tại sao ta không quyết lòng nuôi dưỡng nó? Có phải ta đã và đang bị kéo vào mê lộ của sự tích góp, đến cả tài sản của kẻ khác, của cộng đồng mà ta vẫn muốn thâu về phía mình.

Buông xả còn là thái độ sống điệu hòa với vũ trụ. Tại vì khi giới hạn lại sự tích góp mà ta có thể tồn tại vững vàng được, thì ta đã không còn thải vào vũ trụ những nguồn năng lượng độc hại của sự lo lắng, giận hờn, nghi ngờ, tranh chấp, thù hận nữa. Đó là chưa nói tất cả tài sản mà ta nắm giữ cũng thuộc về vũ trụ, nếu ta sử dụng nhiều mà thiếu trách nhiệm bù đắp thì trước sau gì vũ trụ cũng sẽ lấy lại hay trừng phạt ta bằng cách này hay cách khác. Nếu ta buông xả được những tiện nghi tinh thần như sự cung kính, ngưỡng mộ hay nâng đỡ của kẻ khác, ta có khả năng mở lòng ra chấp nhận hay tha thứ rất dễ dàng, là ta đã làm nhiều hơn trách nhiệm của một công dân trong vũ trụ rồi. Chắn chắn vũ trụ sẽ rất hài lòng về ta, luôn bảo hộ ta, và sẽ gửi tới cho ta những tặng phẩm bất ngờ.

Ta đừng so đo tại sao ta phải nhịn nhục còn người kia lại hưởng thụ quá nhiều thứ, nếu khôn ngoan ta hãy nên quan tâm thái độ sống nào sẽ mang lại khả năng bình an và hạnh phúc cao hơn. Những nhà tâm linh chuyên chính, họ chấp nhận buông xả mọi tiện nghi đáng được thừa hưởng của con người để đổi lấy một tâm hồn trong vắt và tràn đầy niềm an lạc thảnh thơi. Trạng thái hạnh phúc ấy khó có thể diễn đạt bằng ngôn từ, và ai cũng có thể làm được nếu ta có niềm tin lớn vào chính bản thân mình. Lẽ dĩ nhiên là họ cũng cần chút đỉnh tiện nghi bên ngoài, nhưng tất cả thời gian và năng lực của họ là đễ mài dũa cái hiểu biết sâu sắc bên trong. Một người có hiểu biết lớn là một người có tình thương lớn, còn gì tuyệt hảo cho bằng khi ta sống giữa cõi đời này mà có thể yêu thương tất cả.

Trình độ bất xả

Tuy ta không phải là người chuyên về tâm linh nhưng ta cũng nên học hỏi theo phần nào cách sống của những bậc tỉnh thức ấy. Khi ta ý thức được tâm hồn mình có khả năng rất lớn, có thể đưa ta tới những trạng thái hạnh phúc chân thật mà không bị điều kiện hóa, thì ta hãy làm một cuộc cách mạng buông xả những tiện nghi không quá cần thiết hay cả những thứ cần thiết mà nó đang kềm hãm phẩm chất đời sống của mình. Đây cũng là cơ hội tốt để ta chia sớt đến những kẻ bất hạnh thiếu thốn còn đầy dẫy quanh ta, giúp ta thiết lập lại sự liên hệ vốn không thể tách rời giữa ta và mọi người, mọi loài.

Khi nội lực của ta trở nên vững vàng, không còn dễ dàng chạy theo những đối tượng bên ngoài, sống trong điều kiện nào cũng thấy an vui và chấp nhận, thì ta có thể đưa tâm thức mình sang một trình độ khác, đó là bất xả. Nghĩa là ta không cần buông xả bất cứ thứ tiện nghi nào cả, ta cứ giữ nó để tùy duyên mà làm nên lợi ích cho người cho đời. Nhưng ta cũng phải cẩn thận, hãy thường xuyên nhìn vào tâm mình để xem còn thái độ bám víu hay mong cầu nữa không. Nếu ta phát hiện hạt giống sợ hãi và tham lam năm xưa trở lại thì ta đành cố gắng tiếp tục thực tập buông xả một thời gian lâu bền hơn nữa. Điều này cần sự nhắc nhở và kiểm chứng thường trực của những người thân sống chung quanh ta.

Một khi tâm đã thật sự buông xả thì dù có xả hay bất xả những điều kiện bên ngoài hay không thì không còn quan trọng nữa. Kẻ ấy sẽ tự biết mình nên làm gì để vừa thăng hoa tâm hồn mình, vừa đem tới lợi ích an vui cho kẻ khác. Sống giữa những điều kiện hấp dẫn mà ta vẫn không bị ràng buộc thì đó chính là trạng thái thong dong tự tại chân thật. Ta hãy tìm lại cái tôi vững chãi năm xưa của mình, bằng cách thu gọn lại tất cả những gì làm cho nó biến dạng hay suy yếu, dù đó là thứ mà ta đang tâm đắc nhất. Cuộc đời sẽ trở nên mầu nhiệm biết bao nếu ta có khả năng buông bỏ những giận hờn, toan tính, cố chấp, thù hận… để lúc nào ta cũng có thể đến với nhau như một đóa hoa đến giữa địa đàng.

Bận lòng chi nắm bắt
Trăm năm nữa còn không
Xin về làm mây trắng
Nhẹ nhàng trôi thong dong


Minh Niệm

Thị hiếu nhỏ mọn và chất bi thương sầu cảm trong văn chương

VƯƠNG TRÍ NHÀN

Thị hiếu tầm thường

Cái lý thú của nước Nam ta nhỏ mọn lắm.
Kìa cái đồng hồ từ tám mươi đời thì quấn vải tây điều, kết quả găng. Nọ núi non bộ khéo chắp tỉ mỉ trong trồng cây uốn con phượng.
Cầu quán con con, thuyền bé lí tí.

Câu đối với tranh thì hết tứ thời phong cảnh lại đến thiên lý giang sơn.
Thi hoạ nhỏ nhen, thi chẳng ra thi hoạ chẳng ra hoạ.
Giang sơn treo cửa sổ, sơn thuỷ để đầu giường. Hoành phi câu đối thì chữ nghĩa đẹp phẩy mác hơn đẹp ý tình (1).
Đồ chạm đồ cẩn thì tỉ mỉ con dơi già quả mướp non, người ngoại quốc mua cho cũng là thương công hơn trọng khéo.
Ghế giường bàn tủ dáng dấp nặng nề.
Nói tóm lại thì người Nam mình chưa cái gì là cái khéo.
Mà càng bắt chước Tây bắt chước Tàu bao nhiêu càng xấu bấy nhiêu.
Người mỗi ngày một hay, vi xảo là thông ngôn ông Tạo hoá (2). Ta mỗi ngày một đổ (3), vi xảo là cơn hứng chí điên cuồng.
Học chẳng phải mà bắt chước chẳng phải. Xảo nghệ muốn noi theo ngoại quốc, là phải noi lý tưởng chớ không nên bắt chước phù hoa. Kẻo mà khéo thêm ra chẳng thấy đâu, lại đang nghề nguyên lành hoá nghề lang lố (4).


(1) phẩy mác là tên gọi các nét trong chữ Hán, ở đây ý nói chỉ đẹp bề ngoài
(2) vi xảo: sự kỹ lưỡng khéo léo; ở đây ý nói sự hoàn chỉnh của sản vật đạt đến mức như là tự nhiên sinh ra đã vậy.
(3) kém đi, hỏng đi
(4) Nghĩa như nhố nhăng
Nguyễn Văn Vĩnh
Đăng cổ tùng báo, 1907


Văn chương phù phiếm, toàn giọng bi thương

Xét các lối văn chương của ta, vừa lối riêng, vừa lối theo của Tàu, kể ra thì cũng nhiều và cũng đủ cách. Song hiềm vì trong lối văn chương, phần nhiều là hay dùng cách tiểu xảo, đối chọi nhau từng chữ từng ý, mà nhất là thơ hay tìm những tiếng mong manh, những lời bóng bảy, khí nhỏ nhặt tỉ mỉ, kém khí hùng hào.
Vả lại hay chuộng lối phù hoa, quý hồ đặt cho đẹp câu, đọc cho sướng tai, mà rút cục thì không có lý tưởng nào là cao lạ.
Lại còn một cách, nói thật là viển vông huyền huýnh (1), khiến cho người nghe tưởng là cao kiến lắm mà kỳ thực thì toàn là lời tưởng tượng, vu khoát (2); tựa như bức tranh vẽ của ta chỉ thấy nét xanh nét đỏ vẽ rồng vẽ phượng, trông thì choáng mắt, mà té ra không có nét nào thực cả.
Lại nhất là những điều ai oán những khúc bi thương, những tiếng bổng tiếng trầm, thánh tha thánh thót như dế kêu, như ve hót, ta thường cho là hay mà thực ra thì là một thứ tiếng hèn mọn yếu ớt, không cổ động được cái khí mạnh mẽ cho người ta.
(1) xa xôi, mờ mịt (2) bịa đặt, không bảo là có
Phan Kế Bính
Việt nam phong tục, 1915


Đằng sau thói quen đẽo gọt là sự nhu nhược

Văn chương gọt từng tiếng khác nào như người gọt củ thủy tiên, cái lá này bắt cho quăn, cái giò kia hãm cho thấp trông thì hoa nở đều nhau đẹp đẽ nhưng động vào đã gãy, để chưa mấy ngày đã úa. Cốt lấy cái khéo nhỏ nhặt làm mất đi cái khí mạnh, gọi là “ nhu nhược chi văn chương”!


Phan Kế Bính
Việt Nam phong tục,1915


Chỉ giỏi về văn thù ứng

Ở nước ta, kẻ học khi chưa đỗ thì chăm về văn khoa cử, khi đỗ rồi thì chăm về văn thù ứng (1). Có những người nổi tiếng mà nhan nhản những bài hết tự tặng người này lại dâng người khác, té ra trời phú cho ông ấy cái văn tài lỗi lạc là để đi thù phụng thiên hạ.. Vậy nếu tôi nói một ngàn năm nay, người An Nam làm văn chữ Hán chỉ chuyên có hai lối khoa cử và thù ứng và trong văn học chỉ sở trường một cách jeu de mots (1) mà thôi, thì cũng chẳng quá nào !


(1) thứ văn thơ làm khi giao tiếp, khoản đãi nhau
(2) chơi chữ
Phan Khôi
Khái luận về văn học chữ Hán ở nước ta 1939


Tưởng thật mà hoá dối

Văn chương ta từ trước tới nay vì bó buộc quá đỗi nên luôn luôn đi bên cạnh sự giả dối, sự bịa đặt. Nhà văn chỉ lo viết thế nào cho đúng với lẽ phải của xã hội mà không cần đúng với sự thật tự nhiên (1). Văn chương thành ra một cách để dối mình và dối người.
Cây trên rừng muôn ngàn lá không có hai lá giống nhau. Trong rừng người cũng vậy, chưa từng thấy hai người hình dung giống hệt nhau. Hình dung còn thế huống chi nữa tinh thần.
Văn chương ta có vẻ buồn tẻ nghèo nàn, các nhà văn ta ít thấy khác nhau, vì họ tự dối mình, tức vì họ không đủ cái thành thực để phô diễn tâm linh của mình, vì họ tự giam mình trong vòng khách sáo.


(1) Các nhà nghiên cứu hiện nay phân biệt 1/ cái tưởng là sự thật, đang được mọi người trong xã hội công nhận và 2/cái sự thật đúng như nó có, song chưa được phát hiện và nhận thức thấu đáo; ở đây ý nói nhà văn ta chỉ biết loại sự thật thứ nhất.


Hoài Thanh
Thành thực và tự do trong văn chương, Tao đàn,1939


Khinh miệt cá nhân

Văn chương ta nghèo nàn. Những dây quan hệ quá chặt chẽ nó ràng buộc mọi người trong xã hội. [Trong tâm lý cộng đồng], cá nhân, cái bản sắc của cá nhân, là một điều huyễn tưởng, một điều không nên có. Cá nhân chìm lấp trong đoàn thể như giọt nước trong làn sóng biển.
Một dân tộc khinh miệt cá nhân, không biết đến cá nhân, không thể có được một nền văn chương phong phú.
Các nhà văn ta ít thấy khác nhau, chỉ vì họ tự dối mình, vì họ không đủ cái thành thực để phô diễn tâm linh của mình, vì họ tự giam mình trong vòng khách sáo.
Khách sáo chính là cái vỏ mà đoàn thể phủ trên mình, trên linh hồn cá nhân. Về hình thức, khách sáo là những quần áo mũ giày theo thời thượng. Về tinh thần, khách sáo là những tình ý thông thường --- hay nói theo lối người Tây, những tình những ý vẫn chạy rông ngoài đường phố.
Hoài Thanh
Thành thực và tự do trong văn chương, Tao đàn, 1939


Không tìm thấy bản sắc
Nếu bây giờ có một người Đức, hay một người Nga, hay một người Anh, muốn tìm trong các văn phẩm của chúng ta để xem dân tộc Việt Nam cảm nghĩ thế nào trước tấn kịch thống thiết và náo nhiệt của hai nền văn minh Đông Tây gặp nhau, hoặc trước thiên nhiên, trước nhân sự (1), trước cái chết, thì người ngoại quốc ấy sẽ hoàn toàn thất vọng. Người ấy sẽ chỉ nhận thấy trong phần nhiều các văn phẩm của ta, những cái máy truyền thanh rẻ tiền nó nhắc lại tất cả những điều mà người ấy thừa biết tự bao giờ.


(1) Theo nghĩa dùng trước 1945, thì nhân sự chỉ chung việc đời, chứ không phải là việc tuyển dụng, sắp xếp quản lý người, như hiện nay.

Lan Khai
Thiên chức của văn sĩ Việt Nam, Tao đàn, 1939


Phê bình nghĩa là nịnh nọt

Người mình xưa nay vẫn chưa quen chịu người ta phê bình. Ai làm được quyển sách quyển vở nào, đem ra giới thiệu với công chúng thì chỉ muốn khen, chứ không muốn người ta chê, rồi hễ thấy người ta bẻ bắt điều gì là mích lòng và không hiểu rằng “Người dạy ta mà phải là thày ta, người trách ta mà phải là bạn ta “.
Bởi vậy người phê bình cũng không muốn phê bình, mà sự học cũng không tiến bộ được.


Trần Trọng Kim
Mấy lời bàn với Phan tiên sinh về Khổng giáo, 1930



Nhắm mắt bắt chước cốt kiếm lợi

Làng văn làng báo ta, cũng như nhiều giới khác, phần đông kém trí phán đoán, thường hay nhắm mắt theo người. Những cái bệnh ấy, không phải bây giờ mới phát mà có lẽ nó là một chứng di truyền đã mấy ngàn năm và ăn sâu vào mạch máu nhiều người ! Xưa học chữ Hán không dám nói khác với những kiến giải của tiên nho, không dám đi trật ra ngoài khuôn sáo của tiên hiền, cắm đầu nhai lại nhai lại những bã rả của cổ nhân mà không nhớ đến thời gian. Nay xếp đặt một tờ báo, chỉ muốn theo cho được một tờ báo Tây, từ cách dùng chữ đến lối đặt câu, làm như dịch theo nguyên văn của người ngoại quốc.
Hồi 1926-29, thấy một vài tờ báo một vài cuốn sách đeo cái lá nhãn ái quốc, người ta cũng ùa ạt đổ xô làm nghề buôn ấy, lúc nào cũng đạo mạo nói ra những lời cổ động, những giọng hăng hái nhiệt thành.
Nhưng cạn ao bèo đến đất, những thứ văn tự nhận là mang đầy tâm huyết ấy chỉ là một lối đầu cơ kiếm lời.
Hoa Bằng
Vài cái liệt điểm của một số nhà văn ta, Tri tân, 1942




“Tiểu thuyết của phường coi cổng”

Hiện bây giờ, những người gọi là trí thức của ta đều đào tạo ở hai trường Tây và trường Tàu. Hạng đào tạo ở trường Tàu – nói là hạng học từ chương cử nghiệp cuôí mùa thì đúng hơn -- bây giờ tàn tạ rồi. Còn hạng ở trường Tây ra, vì phải uốn theo khuôn khổ Tây, không thành người Việt nữa …
Không ở hai trường ấy ra mà lại làm văn sĩ thì thành hạng văn sĩ quốc ngữ, hạng chẳng có trí thức chi chi hết, chỉ múa mép láo mấy câu sáo cũ, mấy lời rỗng tuyếch chẳng có ích gì cho văn học, văn hoá một nước nào cả. Văn sĩ ta bây giờ chỉ có thể rơi vào hai cái bị. Một là cái bị Tây là bị lơ lửng giữa trời, không tây không ta; hai là cái bị quốc ngữ.
Cổ lai không có nước nào mà cái nghề làm văn sĩ lại dễ dàng rẻ rúng quá như ở nước ta hiện giờ. Ta thử đọc những cuốn tiểu thuyết bình dân, những cuốn tiểu thuyết bên Pháp gọi là “ tiểu thuyết của phường coi cổng “. Đọc những cuốn ấy, ta thấy rằng tác giả của chúng tỏ ra là người có trí thức ít ra cũng qua bậc trung học rồi nghĩa là có phổ thông trí thức rồi. Những cuốn tiểu thuyết hay nhất của ta bây giờ, già lắm chỉ bằng những cuốn tiểu thuyết của phường coi cổng bên Pháp mà thôi !

Nguyễn Triệu Luật
Làm sao mà gây được một nền văn hoá riêng, Tao đàn, 1939


Nhiều trò quảng cáo bỉ ổi

Người ta khoác bộ áo phê bình để thực hành cái dã tâm tâng bốc lẫn nhau, quảng cáo lẫn nhau. Anh Giáp viết đến mấy kỳ báo ca tụng “văn nghiệp “(!) của anh Ất (1); rồi anh Ất để thết lại, viết hàng mớ bài tán dương về văn tài về tác phẩm của anh Giáp. Nhưng bạn đọc, giá chịu khó tò mò đôi chút, sẽ biết rõ ngay hai anh ấy là bạn nối khố của nhau, lợi dụng tờ báo để công kênh nhau lên chín tầng mây biếc. Đáng tức cười hơn nữa, cùng trong một toà soạn, trong một đoàn văn, họ lại vẫn giở ngón quá chướng là phê bình tác phẩm của nhau với một giọng khen ngợi hết lời, hoan hô nhiệt liệt.


(1) Cũng như ngày nay hay nói anh A anh B, anh X anh Y
Hoa Bằng
Vài cái liệt điểm của một số nhà văn ta, Tri tân, 1942


Những nhạc điệu rời rạc, ẻo lả

Âm nhạc Việt Nam hãy còn ấu trĩ. Nhạc khí thô lậu chỉ đủ cho sự chơi cá nhân hay gia đình chứ không hợp với lối chơi công cộng, lại không biết rõ khoa âm hưởng học (1) nên sự lựa chọn chắp ghép hoá hợp cao độ của mỗi âm mỗi tiếng không theo một định luật nào cả. Nhạc phổ (2) không có, sự thống nhất trong các bản các bài cũng thiếu hẳn. Bởi vậy thường cùng một bài mà mỗi người chơi theo một cách, với những tiếng lèo tiếng đệm âm gió thêm vào hay rút bớt đi, tuỳ ở sở thích riêng.
Nhạc cổ Việt nam chỉ gợi được những cảm giác uể oải, yếu ớt bằng phẳng như cánh đồng lúa kéo đến tận chân trời. Sóng âm không bao giờ đột ngột vút lên hạ xuống làm cho các giác quan bị kích thích mạnh mẽ để nâng tâm hồn con người lên tới cái buồn thanh cao hoặc cái vui tráng lệ.


(1) ở đây có lẽ tác giả muốn nói tới những hiểu biết cần thiết giúp cho việc phối âm phối khí.
(2) bản nhạc được ghi trên mặt giấy


Lương Đức Thiệp
Xã hội Việt nam,1944


Nặng tính trang sức mà thiếu sức sống

Nghê thuật Việt Nam thường bị bó buộc trong lề lối cổ. Phải tôn trọng những phép tắc xưa, cho nên nhà nghề tài giỏi mấy cũng chỉ phỏng lại những hình thức có sẵn cho khéo, chứ không được theo tự ý mà sáng kiến những cách thức mới.
Nhà nghệ thuật Việt Nam không phải là ng­ười biểu diễn (1) ý chí tâm tình của mình, cũng không phải là ng­ười quan sát và biểu hiện tự nhiên, mà chỉ là ngư­ời giỏi bắt ch­ước những kiểu mẫu sẵn. Có muốn hơn ng­ười thì họ chỉ cốt ra tay cho khéo, chỉ cốt làm cho thật tỉ mỉ thật tinh tế, thật dụng công, chỉ cốt xếp đặt các bộ phận cho xinh xắn lộng lẫy. Tính chất đặc biệt của nghệ thuật Việt Nam là tính trang sức. Nó thiếu hẳn hoạt khí, vì cách biến hóa tuy lưu động mà ở trong phạm vi hình thức, cách phối hợp tuy phiền phức mà ở trong phạm vi thái độ chế kiểu.
Bởi thế mà nghệ thuật Việt Nam tuy có tính chất lư­u động (2) và phiền phức (3), như­ng thiếu hẳn hoạt khí (4), cách biến hoá chỉ ở trong phạm vi hình thức.


(1) nghĩa cũ: trình bày ra ngoài
(2) theo ngôn ngữ thời nay, tức linh động, lỏng, mềm mại
( 3) rườm rà nhiều mối
(4) sức sống


Đào Duy Anh
Việt Nam văn hóa sử cương , 1938

Kiếp người bấp bênh
văn chương sầu não


Sự đơn điệu tẻ nhạt của cảnh sắc thiên nhiên, tính chất chu kỳ của thiên tai, sự cách biệt của các nhóm người, sự phân chia nam nữ, nền giáo dục khắc nghiệt và khô khan khiến người Việt thiên về u buồn và sầu não.
Cá nhân bị giam hãm một cách chặt chẽ và giả tạo trong những khuôn khổ cứng nhắc như gia đình và làng mạc đến nỗi họ không quan niệm nổi họ có khả năng hành động một mình.
Vì thế khi môi trường chung quanh không còn giữ họ lại bằng những mối ràng buộc thông thường mà lễ giáo quy định, người ta dễ đắm mình vào những bài hát buồn bã u sầu, khiến mọi nỗ lực trí tuệ tiêu tán.
Nền văn hoá vốn thấm nhuần lòng từ bi Phật giáo cũng góp thêm phần dồn nén các dục vọng cá nhân. Rồi quan niệm siêu hình của đạo Lão khiến nhiều tác giả thiên về một cái nhìn bi quan sâu sắc và một sự mỉa mai chua chát.
Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm, Thu dạ lữ hoài ngâm cũng như tác phẩm của Trần Tế Xương, Trần Tuấn Khải, Nguyễn Khắc Hiếu chỉ là những tiếng vọng của nỗi đau nhân loại.
Trong nhiều tác phẩm khác, ta luôn luôn thấy cùng những đề tài giống nhau về nỗi đau khổ, ước mong và hối tiếc, phản ánh tất cả sự dồn nén tinh thần của cá nhân, hoặc gần như vậy, sự sợ hãi muôn thuở của một kiếp người bấp bênh, một cuốc sống chật hẹp.


Nguyễn Văn Huyên
Văn minh Việt Nam 1944


Thứ Hai, 7 tháng 10, 2013

VIẾT CHO TÌNH BẠN !!




Vòng tròn cuộc đời luôn có những điểm chấm đặc biệt. Đó là những nốt chấm bao dung, lòng tha thứ. Đó là chấm vàng của những lỗi lầm mà bất cứ ai cũng có thể vấp phải. Và vì thế luôn bên những chấm vàng ấy là những hạt bụi biết cảm thông và chia sẻ .Sự thay đổi của một con người cũng có thể là sự văng ra một cách vô thức của hạt bụi ấy...và rất cần, cần lắm những trái tim biết cảm thông, chia sẻ..





Trong cuộc đời mỗi người đều có vô vàn những mối quan hệ, và tình bạn là một trong những mối quan hệ đẹp và trong sáng nhất mà ai trong chúng ta cũng cần có được và biết nâng niu.

Tình bạn là môt khái niệm không giới hạn mà ai trong chúng ta đều có thể chỉ mặt, đặt tên tùy theo cáh suy và ngẫm của mỗi người, không khuôn mẫu và không có sự ép buộc. Tình bạn là một phạm trù xã hội dùng để chỉ mối quan hệ giữa con người với con người, là bến đỗ của những điệu hồn tìm thấy tâm hồn đồng điệu. Đó là sợi dây vô hình gắn kết những người có cùng sở thích, chí hướng, cùng quan niệm về nhân sinh quan và cũng có thể chung lý tưởng sống.


Tình bạn là thứ tình cảm tự nhiên và tự nguyện, và lòng chân thành là nguồn lực nuôi dưỡng tình bạn trường tồn với thời gian, cùng những phai màu cuộc sống.

........................................

Trong một phút giây nào đó của cuộc sống, ta tìm được một tình bạn chân thành. Và ta nhận ra rằng một trong những hạnh phúc lớn nhất của cuộc đời này là tình bạn, và một trong những hạnh phúc của tình bạn là có một người để gửi gắm tâm sự thầm kín.

Là người có thể thay đổi cuộc sống của bạn dù chỉ là một mặt nhỏ nào đó; là người mang đến cho ta nụ cười - nụ cười chứa đựng niềm tin, niềm hạnh phúc về sự chân thành của tình bạn mà bấy lâu ta tìm kiếm.

Là người sẵn sàng ngồi hàng giờ để lắng nghe những tâm sự không có điểm dừng , không hồi kết;là người có thể mỉm cười chung hạnh phúc của ta và cũng sẵn sàng lắng nghe, chia sẽ những thất bại, khó khăn mà cuộc sống mang lại..không cần cảm ơn, không cần suy nghĩ hơn thiệt.

Là người cho ta một bờ vai khi ta khóc. cho ta một điểm tựa khi ta rơi vào khổ đau của tuyệt vọng, cho ta một tia sáng khi chân ta vô tình lạc lối vào thế giới tối tăm . Và hơn hết, bạn mang đến cho ta nguồn sức sống mới, đầy tin yêu vào cuộc sống, tin vào sự chân thành của thứ cảm xúc gọi là tình bạn- sợi dây kết nối con người với con người-miền cảm xúc thiêng liêng mà hành trang cuộc đời cần có và đáng được trân trọng, nâng niu và gìn giữ.

Tình bạn là sự trải nghiệm lý thú và chân thành của cuộc đời mỗi người. Một tình bạn đẹp dựa trên niềm tin tuyệt đối, từ niềm cảm thông chia sẽ, sự đồng điệu của hồn người. Tình bạn đẹp là môi trường tốt để mỗi chúng ta hoàn thiên nhân cách bản thân mình. Tình bạn của Lưu Bình - Dương Lễ, Các Mác - Ăng ghen ngày xưa là những minh chứng cho tình bạn đẹp và cao cả.

"Bạn bè là nghĩa tương giao
Khó khăn, hoạn nạn ân cần có nhau"


Sức mạnh của tình bạn là bất diệt, linh hồn của tình bạn là bất tử. Trong hành trình cuộc đời của mình, tri âm tri kỷ là động lưc, là chỗ dựa tinh thần vững chắc bồi đắp, tiếp thêm niềm tin cho ta bước tiếp.

Cảm ơn cuộc sống đã sinh ra ta và đã cho ta được gặp bạn. Cảm ơn bạn đã đến trong cuộc đời của ta và mang cho ta một tình bạn chân thành không toan tính, vụ lợi.

Tình bạn là sợi dây vô hình lặng lẽ nắm tay ta vượt qua bão giông cuộc đời


--- Sao Băng Thiên sứ ---

Lybia đã trở thành nước trong chuyện cổ tích




Lybia chia năm sẻ bảy
Ngày xửa ngày xưa, đã xưa lắm rồi, ở một vùng đất nọ có một nước lạ tên là Lybia. Đất nước vốn kỳ lạ như cái tên với muôn thứ kỳ lạ trên trần gian mà nhiều người mơ ước không có được. Trong đất nước kỳ lạ ấy vào khoảng cuối thế kỷ 20 có hạ sinh có một nàng công chúa vô cùng xinh đẹp tên là Dân Chủ. Nàng càng lớn lên, sắc đẹp lại càng mặn mà khiến cho mụ phù thủy NATO ghen ghét.

Mụ phụ thủy NATO những năm trước ấy luôn được xếp vào hạng những nước dân chủ nhất thế giới. Nhưng rồi tre già măng mọc, cây có chết cành già thì chồi non mới mọc lên. Một hôm mụ mua được chiếc gương "made in China" về soi và mụ thầm hỏi về chuyện cũ, gương tỏ thái độ không thèm trả lời nên mụ phù thủy tức tối đập vỡ gương. Mụ quay sang mở laptop tìm kiếm trên net và phát hiện ra nàng công chúa nọ ở Lybia có nguy cơ soán ngôi nên mụ rắp tâm sát hại.

Thế rồi một ngày kia, nàng công chúa của nước ấy bị mụ phù thủy NATO lừa cắn quả táo độc. Nhưng thay vì như nàng Bạch Tuyết xinh đẹp bị nghẹn ở cổ họng thì nàng Lybia đã nhai và nuốt cả quả. Độc ngấm toàn thân, bỗng chốc mạch máu toàn thân bị đứt, tim gan trong bỗng chốc bị nát, nàng lăn quay ra chết bất đắc kỳ tử.
Nàng Dân Chủ chết khiến cho trăm họ lầm than, muôn dân đói khổ, đất nước chia năm sẻ bảy, anh em giết nhau, bố con vợ chồng trở mặt thành thù. Kể từ ấy nước Lybia đã biến mất trên bản đồ thế giới và không bao giờ quay trở lại.

Nữ thần tự do hết rồi lúc lên voi, giờ là lúc thời kỳ xuống chó



Sau nhiều thập niên, rốt cuộc nàng cũng có những giây phút thư giãn



Nhưng lên voi xuống chó cũng là qui luật muôn đời.
Copyright by Lubomir Kotrha