Chủ Nhật, 6 tháng 10, 2013

Mầu sắc và Khái niệm màu sắc, đâu là tọa độ cho Mỹ thuật Việt Nam?



Lê Hải

Tóm lược: Bài viết giới thiệu và áp dụng một vài phương pháp luận cơ bản cho Mỹ thuật Việt Nam, tập trung vào mối quan hệ tam giác họa sĩ - tác phẩm - bình luận, xác định vị trí tương quan trong hệ tư tưởng đương đại, đồng thời gợi mở một số hướng phát triển và giới thiệu một vài thử nghiệm mới.


Trong mỹ thuật, đặc biệt là hội họa, thì việc thể hiện ý tưởng qua mầu sắc - dù đóng vai trò chính, mang tính quyết định đối với giá trị của tác phẩm, nhưng - chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong lượng thông tin được trung chuyển trong các mối quan hệ phụ thuộc xoay quanh người họa sĩ - nhà sáng tạo. Ngay chính họa sĩ, mặc dù dùng mầu để vẽ - thể hiện ý tưởng của mình, nhưng trong mối quan hệ với nhà phê bình để nhận tín hiệu phản hồi, cần phải sử dụng đến chất liệu ngôn từ, tức là mầu sắc thể hiện qua khái niệm bằng từ ngữ. Người họa sĩ này khi truyền đạt kỹ thuật cho thế hệ sau, hoặc tiếp thu từ thế hệ trước, cũng phải thông qua ngôn ngữ. Thật khó có thể tưởng tượng được người ta sẽ học vẽ, dạy vẽ, và phê bình mỹ thuật, cũng như so sánh các nền mỹ thuật khác nhau ra sao, nếu không được phép dùng ngôn từ (trên giấy, lời nói, hoặc cử chỉ) để trao đổi.

Giới thiệu

Có lẽ Goethe là một trong số những người sớm chú ý và phát triển hệ thống ngôn từ cho mầu sắc, với pho Farbenlehre nổi tiếng. Thế nhưng, ở Goethe, mầu sắc dường như chỉ là những ấn tượng mà nó tạo ra, những mối quan hệ phụ thuộc giữa chúng với nhau, mà không quan tâm mấy đến cơ chế cảm nhận mầu sắc của con người lẫn tư cách tính chất vật thể của chính mầu sắc.Với những khái niệm về ngành học của ngày hôm nay, khó có thể xếp hệ thống của Goethe vào ngành hiện tượng, sinh lý, vật lý, tâm lý,... hay bao gồm tất, kể cả siêu thực. Không chỉ đưa ra những tuyên bố cho mầu sắc của hiện thực, Goethe định nghĩa cả những mầu sẽ xuất hiện, ví như trong ngày Chúa phán xét vậy.

Sang đến các lý luận của Wittgenstein, đặc biệt là trong bộ Tractatus logico-philosophicus, bắt đầu hiện rõ mâu thuẫn khi định nghĩa mầu sắc quá thiên về hiện tượng, hay quá thiên về logic quan hệ giữa chúng. Nếu thử dùng kỹ thuật điểm chấm của Monet mà vẽ các vùng mầu vừa xanh lá cây, vừa đỏ, để chúng cho ra một mảng mầu sắc nào đó, mà người ta phải nói: "đây là mầu vừa xanh vừa đỏ", thì câu nói đó thể hiện được phần nào sự vật, nhưng lại trái qui luật logic. Ðể giải quyết vấn đề này, Wittgenstein đã đặt ra hệ thống lý luận logic cho riêng mầu sắc, tạo thành từ 3 quá trình nối tiếp nhau: 1) khái niệm mầu sắc cơ bản, 2) logic cho các câu tả mầu, 3) qui luật sắp đặt ngôn từ, cho đến khi có được câu tả chính xác mầu sắc cần thể hiện. Wittgenstein chỉ trích lối miêu tả của Goethe không thể dùng được cho ngay cả thợ sơn, chứ chưa nói đến họa sĩ, thế nhưng trong ngay chính lý luận của ông cũng vướng mắc vào một vấn đề khác, đó là bản thể của mầu. Toàn bộ hệ logic mầu của Wittgenstein bắt đầu từ các mầu sắc cơ bản, thế nhưng mầu nào là mầu cơ bản, mầu gốc? Với các họa sĩ thời xưa, vốn chỉ được giới hạn trong một số mầu sắc gốc, thì còn phù hợp, nhưng với kỹ thuật mầu ngày nay, người ta có thể pha ra bất cứ một mầu sắc nào rồi đóng vào tuýp bán với giá ngang nhau, thời gian chế tạo như nhau, và cùng nằm ngang nhau trên một bảng chào giá hàng nghìn loại mầu khác nhau, thì việc đi tìm mầu gốc có lẽ là vô lý.

Cho đến hôm nay thì những phân tích, hệ thống cơ sở lý luận về khái niệm của mầu sắc đã đi những bước rất xa, phân chia thành nhiều nhóm, ngành, xử lý những vấn đề rất cụ thể nẩy sinh từ thực tế. Với tôi, những phát triển ấy, có thể xếp vào 3 nhóm chính:

1) Bản chất (ontology): chuyên sâu vào tìm hiểu bản chất của sự vật thông qua mầu sắc mà nó hiển thị. Người ta tiến hành các phép phân tích hóa học, vật lý để tìm ra bản chất hạt, bề mặt vật chất, và hình dạng cũng như tổ hợp sóng ánh sáng tạo nên mầu sắc cần thiết. Những nghiên cứu này được ứng dụng rất sâu trong các ngành kỹ thuật, như tạo mầu trên màn ảnh truyền hình, qua chương trình máy tính tạo ảnh 3 chiều, hay cho ngành sơn hiện đại.

2) Phản ảnh (epistemology): chuyên sâu vào tìm hiểu quá trình đón nhận mầu sắc ở con người, bắt đầu từ các phản ứng trước tín hiệu mầu của tế bào mắt cho đến hoạt động trong não, từ lý tính cho đến tâm lý tính. Các nghiên cứu có thể tập trung vào tính khách quan hay chủ quan của mầu sắc, tính tổ hợp và quá trình biến đổi về chất trong tư duy. Mặc dù có rất nhiều ứng dụng thực tế như chọn mầu cho chiến dịch tiếp thị, hàng hóa, chữa bệnh, nhưng phần chính vẫn là khu vực tư duy ý tưởng.

3) Từ ngữ (semantics): khi đã là ký tự, các khái niệm chỉ mầu sắc còn mang thêm một chức năng nữa là tín hiệu ngôn ngữ, phụ thuộc vào qui luật ngôn từ, ngữ pháp, hay chuyển dịch giữa các ngôn ngữ khác nhau, hoặc tính chất riêng của loại ngôn ngữ chịu ảnh hưởng từ văn hóa của nhóm người sáng tạo hoặc sở hữu ngôn ngữ ấy. Nếu như ở Việt Nam mầu xanh của lá cây và xanh của nước biển hay da trời đều cùng được gọi bằng (mầu) "Xanh" chứ không bằng 2 tên riêng khác nhau như ở các nước châu Âu, thì ở vùng Bắc cực người Eskimo có đến vài chục danh từ riêng để tả mầu mà chúng ta chỉ gọi đơn giản là "Trắng" của tuyết.

Chi tiết của các hệ lý luận vừa nêu có thể truy cập từ các sách trong danh sách kèm theo ở cuối bài, hoặc qua các bài viết ngắn dễ tìm trên mạng Internet. Ði sâu vào các lý luận và hệ thống triết học đương đại về mầu sắc - dù đang là vấn đề rất sôi động hiện nay - không phải là mục đích của bài viết này. Một số khái niệm được nêu để đặt cơ sở chung cho các phân tích tiếp theo trong hội họa Việt Nam, qua hệ thống tam giác với 3 cực là 3 tiêu điểm nhìn chính như đã nêu.

Bản chất

Trước hết là khu vực vật chất tạo mầu. Ðiểm qua các loại chất liệu dùng để thể hiện thì có thể thấy hội họa Việt Nam rất nghèo nàn trong số lượng chất liệu thể hiện. Mặc dù sách vở thường đề cao chất liệu Sơn từ cây Sơn ở Phú Thọ, nhưng dường như người ta thích dùng các loại sơn Nhật hơn, mà theo Chu Quang Trứ (chương 5.3, [II.1]) là kém chất lượng, nhưng thực chất là do khác biệt về cơ bản giữa 2 kỹ thuật và kết cấu hóa học của 2 loại sơni. Trong ngành sơn dầu không ít thợ vẽ - họa sĩ không hề quan tâm đến chất lượng - kết cấu của các loại sơn mà họ dùng. Hiện giới hội họa thường chỉ biết đến 2 loại sơn cơ bản nhất là Trung Quốc - Ðài Loan, còn thêm nữa, ví dụ như độ mịn hạt, chất hòa tan, độ khô... thì hầu như không ai nhắc đến. Ðó là còn chưa kể đến chất lượng của lớp lót, vải nền, vốn cũng ảnh hưởng rất lớn đến bề mặt của tác phẩm - chưa nói về chất lượng bảo quản - trong quá trình tạo hình, tạo mầu. Ðiểm qua các cửa hàng hóa chất ở khu vực Chợ Lớn, tôi nhận thấy ở Việt Nam có thừa nguyên liệu để pha chế sơn một cách đơn giản và tiện lợi, thế nhưng có vẻ như giới họa sĩ bỏ qua cơ hội này. Cũng có thể lý do là vì ở trường họ không được học về chế tạo sơn, hoặc có thể do lười sáng tạo. Với các chất liệu khác thì càng hiếm gặp hơn - thể hiện rõ qua các phòng triển lãm, nơi số lượng chất liệu có thể đếm trên đầu ngón tay. Phải chăng đó là vì các tác phẩm kiểu như Andy Warhol vẫn còn là hiện tượng vô cùng xa lạ với họa sĩ Việt Nam? Tương tự như vậy, kỹ thuật vẽ của các họa sĩ tốt nghiệp trường Mỹ thuật cũng rất hạn chế. Một phần vì không được nhìn tranh gốc, một phần vì lười tìm hiểu qua sách vở, mà với nhiều bức tranh, thay vì vẽ bằng các lớp mầu chồng lên nhau nhưng không phủ hết nhau trên vải, người ta chọn lối thể hiện cổ điển là pha mầu trên pallette rồi quệt rất mỏng lên tranh. Lối pha mầu trực tiếp trên tranh vẽ dường như cũng rất xa lạ. Một sinh viên mỹ thuật tâm sự với tôi là bài tập của anh ta bị thầy giáo phá tan vì dám trực tiếp dựng mầu chứ không qua dựng sáng tối trước. Sang đến ngành thêu tưởng chừng như sau khi được ông tổ Lê Công Hạnh nhập khẩu từ Trung Quốc về vào thế kỷ 17, đã trở thành món hàng đặc sản, nhưng thật đáng tiếc vẫn phải thực hiện bằng chỉ thêu nhập từ Pháp, Ý, tức là vẫn không thể chủ động về mầu sắc.

Phản ảnh

Nếu nhìn vào sự nhộn nhịp của thị trường tranh Việt Nam, qua xác nhận của nhiều ý kiến trong diễn đàn Talawas, thì có thể nhận xét rằng họa sĩ Việt Nam phản ảnh rất tốt các kết quả tiếp thị về khu vực khách hàng tương đối có tiền là người nước ngoài. Những thành công trong tuyên truyền cũng cho phép kết luận là không ít họa sĩ thành công trong phản ảnh tốt các tư tưởng, ý đồ của nhà nước Việt Nam qua tranh cổ động, tranh minh họa. Thế nhưng còn nhu cầu về tranh trong khu vực khách hàng nội địa? nhu cầu về thể hiện bản sắc riêng của cá nhân? Ngày hôm nay thật khó có thể chỉ nhìn tranh để đoán ngay ra là của ai, hay ít nhất cũng là theo trường phái nào. Phải chăng đây là ý của Phillip Morris 2001 khi chọn trao giải cho Lê Quảng Hà với gam mầu quá đặc biệt và riêng tư? Có không ít họa sĩ than phiền: "tư tưởng Mác-xít chỉ đạo, không có chỗ để thể hiện tư tưởng riêng". Nhưng trên thực tế, thể hiện tư tưởng riêng không có nghĩa là phải theo, hay chống lại chủ nghĩa Mác - vốn chỉ là một môn triết học thuộc khu vực chính trị, trong khi triết học - mầm sản xuất ý tưởng - còn bao gồm cả đạo đức, logic, siêu thực, tôn giáo, nhận thức và rất nhiều khu vực đương đại khác nữa. Có một số họa sĩ nhận thức được điều này, thế nhưng tác phẩm của họ chứng tỏ tư tưởng của người sáng tạo chỉ mới dừng ở mức kiến thức triết học phổ thông, hoặc rất sơ sài, chưa tập trung đủ độ sâu và chín, và chưa hề có sáng tạo - cái cần thiết tạo nên giá trị tác phẩm. Thế là thay vì hướng dẫn trình độ thưởng thức của công chúng, người họa sĩ lại đi làm cái việc ngược lại là tìm cách vẽ sao cho rẻ hơn ảnh chụp và tranh in, hoặc vẽ như tranh cổ động, tranh minh họa để thể hiện ý tưởng của mình thật "dễ hiểu" (theo kiểu trần truồng) với công chúng nói chung. Không ít tác phẩm chứa đựng số vốn ngôn từ tư tưởng ở mức trẻ con nhưng được tung hô hết mức trong giới hội họa, thể hiện tầm tư tưởng chung còn rất sơ khai. Nếu so sánh, có lẽ không có gì khác biệt giữa những nhận thức sơ khai được thể hiện qua nghệ thuật hình khối truyền thống Việt Nam mà Trần Ngọc Thêm [5] đã trình bầy, với nhận thức đương đại thể hiện qua nghệ thuật hình khối "h(ậu h)iệnii đại" của Việt Nam. Bị, hoặc tự giới hạn trong số vốn chất liệu vô cùng hạn chế, người họa sĩ quên mất rằng chính họ là người phải biết nhìn và thể hiện thế giới qua nhiều cách khác nhau, để rồi mới xuất hiện không chỉ Van Gogh hay Claude Monet, mà còn cả Leonardo de Vinci và Günther von Hagens... Tôi cho rằng nếu suy nghĩ như vậy, họa sĩ Việt Nam sẽ tha hồ mà vẽ hết sức chứ không phải chật chội trong cái xưởng vẽ mà Birgit Hussfeld [II.2] mô tả. Cũng với lối suy nghĩ như vậy, người ta sẽ không cần phải xem thường hay đề cao quá đáng chuyện một người nước ngoài nào đấy mua tranh, chọn tranh triển lãm, hay dạy vẽ tranh, vì đó chỉ là những góc cạnh khác nhau của phương tiện thể hiện và truyền đạt mà thôi. Với tôi, performance hay installation không có gì mới lạ hơn là đình chùa và lễ hội. Các bức tượng được xếp đặt theo một thứ tự rất rõ ràng, tạo không gian không kém gì các installation nổi tiếng đương đại, hay của Ðinh Gia Lêiii vừa kết thúc ở viện Goethe - Hà Nội. Trong phạm vi bài viết này, tôi tạm dùng khái niệm "đình chùa" vì lối sắp đặt tương đối phổ biến ở đình chùa, chứ không có nghĩa cho rằng nó xuất phát từ đình chùa, vì còn xuất hiện cả trong nhà thờ, tòa thánh, tháp, tiệc đám, và nhiều khu vực khác của văn hóa Việt Nam. Trong lễ hội, không chỉ những nhân vật trung tâm rước tượng, lên đồng, khuân pháo đại, mà người tham gia cũng reo hò, gia nhập, chẳng khác gì performance của Ly Hoàng Lyiv hồi tháng 9 vừa qua ở Busan. Trong khi đó, người ta than phiền mất Việt Nam tính và cố gắng học hỏi kiểu performance hay installation từ một nền văn hóa Á châu tưởng chừng như gần gũi nào ấy, hoặc mượn tạm một thứ sắp đặt dễ thấy nào đấy ngay chung quanh mình, thiếu đào sâu tư tưởng. Với tôi, văn hóa sắp đặt và biểu diễn của Việt Nam có một biểu hiện rất đặc trưng, là hòa hợp tất cả mọi nền văn hóa bên trong nó, dập tắt tất cả những xung đột. Há đó chẳng phải là cái mà không chỉ nghệ thuật đương đại đang tìm kiếm? Nếu ở Trung Quốc 3 hệ tư tưởng Khổng giáo, Lão giáo và Phật giáo tàn sát nhau thảm khốc và không bao giờ chịu đứng chung thì ở Việt Nam chúng lại tạo nên hệ luận cơ bản (Tam giáo) cho tư tưởng của người Việt (cho đến thế kỷ 19). Ðến thế kỷ 20 văn hóa Việt Nam lại cải hóa thêm nhiều hệ tư tưởng khác, từ xa lạ như Thiên chúa giáo, hay gần cạnh như Chăm giáo (biến thể Chăm của Bàlamôn Ấn Ðộ, cho đến trước khi người Chăm chuyển sang Hồi giáo). Ở tòa thánh Cao Ðài người ta đặt Victor Hugo, Napoléon cùng với Phật, Tăng, Khổng, Mạnh trong cùng một "tam kỳ phổ độ". Ở chùa ở miền Bắc Việt Nam, bên cạnh Phật có Vua, sư, người tài trợ, và cả bộ Linga-Yoniv nữa. Ở miền Nam nhà thờ đứng chen chân với chùa, thánh thất Tin lành, Baptist 7 ngày, Ân điển, Phao lồ, Bà Ni, Islam, Po Nagar, chùa Miên, Tiều, Minh Hương, Tầu, Ấn... mà nếu được tìm hiểu sẽ bộc lộ những trật tự, quan hệ rất là đặc trưng. Thế nhưng từ hiểu được đến thể hiện có lẽ họa sĩ Việt Nam còn phải trang bị thêm không ít các cơ sở lý luận, tư duy và bản thân phải thoát khỏi sự hạn hẹp của vật liệu như đã nhắc đến ở phần trên.

Từ ngữ

Trong khu vực ngôn từ, sự thiếu vắng nguy hiểm của phê bình đã được giới chuyên môn nhắc đến rất nhiều. Nguyên Hưng [3] đề ra biện pháp giải quyết trước mắt là: "để có được một nền mỹ thuật Việt Nam hiện đại, không chỉ cần sự cố gắng của mỗi họa sĩ, mà thực tế, cần hơn hết, sự nỗ lực của cả nền văn hóa, đòi hỏi sự tiếp cận của phê bình phải đụng chạm đến toàn bộ nền móng của nền mỹ thuật, đến các cơ sở tồn tại và phát triển của nó - từ các yếu tố chi phối, ảnh hưởng đến các nhận thức về ý nghĩa, giá trị nghệ thuật v.v... Nói cách khác, là phải tiếp cận từ cội nguồn văn hoá xã hội và cơ sở học thuật của nó." Thế nhưng đây mới chỉ là khởi đầu. Nguyên Hưng chưa kịp đưa ra các giải pháp cụ thể, cũng không kịp định nghĩa đâu là "cơ sở học thuật và cội nguồn văn hóa xã hội" tạo nên "nền móng của Mỹ thuật (Việt Nam), cơ sở tồn tại và phát triển của nó". Ngay cả trong diễn đàn có vẻ sôi động với tầm nhìn tương đối cao và rộng như hiện nay là Talawas - tập trung không ít tên tuổi quan trọng đối với mỹ thuật Việt Nam như được giới thiệu, thì người ta vẫn chứa nhiều "phán đoán chủ quan,[...] đang thiếu một cái nhìn hệ thống, và thiếu luôn cả một cái nhìn phân tích" , tức là thiếu những kiến thức cơ bản mà nhiều ngành khoa học, trong đó có semantics, cung cấp.Với tôi, khi dùng từ ngữ để nói đến tác phẩm hội họa và mầu sắc của nó, thì rất giống như đi trên một mảnh đất lạ đầy cạm bẫy. Có thể rơi vào cái bẫy của khác biệt văn hóa trong ngữ nghĩa, hay sa vào trò chơi ngôn ngữ, hoặc tệ hơn, là mớ bùng nhùng của logic luận, nhận thức trực quan, rất dễ làm người ta lo sợ không dám nói gì cả, nhường hết lại cho ngôn ngữ hội họa, cái đang cần được biên dịch và phản hồi. Ðể thanh minh cho sự sợ hãi của bản thân, không ít người đề cao, tôn sùng tính thể hiện của ngôn ngữ hội họa trong thể hiện. Ðiều này làm tôi liên tưởng đến một bài học, may mắn được cố họa sĩ Bùi Xuân Phái truyền đạt những năm giữa thập niên 80. Ông nhắc đến những thử nghiệm, như là cắt đôi phần dưới của chữ viết, để tiết kiệm tiền mực, khoảng cách (mà theo tôi là một xu hướng của nghệ thuật quần chúng - mass arts - trong trào lưu phát triển của ngành marketing lúc bấy giờ), và nói đến khả năng thể hiện của chữ viết với ví dụ (mà không ít trí thức Hà Nội đều có biết hoặc nghe qua) bức tranh phong cảnh "vẽ" bằng chữ Hán:

Trên mặt phẳng chữ nhật, góc bên phải người ta viết 4 chữ (mùa) "Xuân" nho nhỏ đứng dọc xuống - 1 chữ bị khuyên tròn chung quanh. Bên trên góc phải là 5 chữ "Cảnh" (sắc) nằm ngang - 1 chữ bé hơn các chữ khác. Ở bên trái là một chữ "Núi" (Sơn) cao vút lên gần hết chiều dài, và vắt ngang là một chữ "Ưng" (Ðiểu) nho nhỏ. Bên dưới là chữ "Hồ" (nước) giang rộng hết chiều ngang và bên trên là một chữ "Cá" (Ngư) bé tí, viết lật ngược. Trong số những bài thơ vịnh cảnh trong tranh mà họa sĩ trình bầy, tôi chỉ còn nhớ được duy nhất 1 bài, vì khá ấn tượng:

"Ba xuân nho nhỏ một Xuân tròn
Bốn cảnh đều nhau một Cảnh con
Hồ rộng thênh thang Ngư lộn ngược
Núi cao chót vót Ðiểu nằm ngang"


Với tôi, "bức tranh" ngôn từ (bằng chữ Hán) trên đã thể hiện đủ mọi yêu cầu của thể hiện hội họa mà tôi đã đòi hỏi ở các phần trước: chất liệu sáng tạo, ý tưởng, đủ cả installation lẫn performance lẫn sự gợi mở cho tư duy nhận thức. Bài thơ (bằng tiếng Việt) cũng thể hiện được cảnh vật trong tranh. Hi vọng là những mô tả bằng câu văn như tôi vừa làm cũng vừa tạm đủ giúp cho quí vị hình dung ra cả bức tranh lẫn phong cảnh trong tranh. Như vậy, nếu nhìn bằng cặp mắt của ngành semiotics thì có thể dùng phép so sánh, coi ngôn từ viết bằng bút hay mầu sắc thể hiện qua cọ đều cùng là ký tự (sign) để thể hiện sự vật hoặc truyền đạt tín hiệu (signal); mỗi loại hình ký tự có những đặc điểm riêng của nó. Với cách nhìn như vậy, tôi hiểu là trong lúc họa sĩ phải vật lộn với những mảng mầu thì nhà phê bình phải làm việc với những hệ thống ngôn ngữ, khái niệm. Nếu họa sĩ phải sáng tạo, thoát khỏi mớ vật liệu hạn hẹp, thì nhà phê bình cũng phải tìm đặt hệ thống khái niệm phù hợp, mà không ít kết cấu của chúng đã có sẵn từ bản thể hiện mỹ thuật, qua những instalation và perfomance của nó. Nếu Mỹ thuật Việt Nam bắt đầu cải tổ [4] bằng những Thể nghiệm 1,2,3, thì phải chăng phê bình và tranh luận cũng nên bắt đầu tìm Thể nghiệm cho nó?

Thể nghiệm

Qua phần phân tích trên, có thể bi quan cho rằng tọa độ của mỹ thuật Việt Nam còn cách quá xa vòng trao đổi của thế giới đương đại. Tuy nhiên, đây cũng chính là lợi thế khiến cho mỹ thuật Việt Nam nếu can đảm bước vào sẽ có bước đột phá ngoạn mục (cái mà tôi hiểu theo cách nói của Kaomi Izu được gọi là "siêu tốc" và "siêu lợi nhuận"vi).

Trong khuôn khổ bài viết này, tôi xin phép được giới thiệu 2 ví dụ - tùy bút gợi mở, thể nghiệm tập hợp các vấn đề đã nêu, với khởi đầu từ gợi ý của Bùi Xuân Phái về tiết kiệm mầu và vải, nhưng hoang phí về tư duy, vay mượn nét bốc đồng của Goethe, dùng tạm vài nét lý luận triết học, tâm lý, ngôn từ, kèm theo chút kỹ thuật vẽ cơ bản.

1. Mặt Trời và Em

Tôi ngồi vẽ trong một buổi chiều đầu xuân cô đơn. Có đến hai năm rồi tôi không cầm đến cọ vẽ. Ðống tuýp sơn cứng đờ nằm hỗn độn trong cái túi nhựa đầy bụi trong góc nhà. Nói chính xác thì trong 2 năm qua thỉnh thoảng tôi có động đến cọ vẽ, nhưng chỉ được chốc lát là lại tung hê, vất tất cả đi. Thế nhưng hôm nay sự cô đơn, nỗi trống trải bỗng nhiên bị đánh động bởi một tia nắng chiều, thứ ánh nắng hiếm hoi ở cái đất châu Âu này. Trong tôi bao kỷ niệm xưa bị đánh thức dậy, càng lúc càng dâng tràn, bắt tôi phải bầy dầu, sơn, cọ, và vải ra đầy nhà để hoàn thành bức tranh chỉ mất vài phút để hình thành trong óc, nhưng phải mất vài ngày và vài đêm sau đó để thể hiện trên một diện tích bề ngang chỉ vỏn vẹn có 297mm và bề cao 210mm, một cặp số rất quen thuộc với tất cả những ai đã từng học qua đồ họa. Tôi muốn vẽ một bức tranh nhỏ để tặng em cho căn phòng mới nhỏ nhắn, ấm cúng, mầu hồng phấn nhẹ nhàng. Tôi muốn vẽ một cảnh trời nửa đêm Bắc Cực mà có lần tôi đã từng được chứng kiến. Tôi muốn vẽ một góc trời Duyên Hải trong một đêm thức nhìn về quầng sáng Sài Gòn. Tôi muốn gửi đến em những tâm sự của tôi mà có lẽ nếu nghe xong thì chỉ vài phút sau là em sẽ lãng quên ngay lập tức. Tôi muốn gửi đến em lời chia tay nhẹ nhàng trong tôi nhưng tưởng chừng như sẽ ở lại mãi mãi trong tim tôi. Tôi muốn dùng mầu để thể hiện những suy nghĩ mà ngay cả tôi cũng không biết dùng lời để thể hiện, và cũng không biết giải thích hay định nghĩa bằng bất kỳ vật liệu nào khác.

Mầu xanh hoàng gia. Mầu xanh nước biển đậm đặc thường chỉ gặp ở các vùng sâu thẳm nước lặng trong, nơi yêu thích của các loài cá mập hung dữ. Mầu xanh đen tối của bầu trời cực bắc của những ngày giá lạnh nhưng lặng gió. Tôi miệt mài bôi lên mặt tranh hàng đống mầu xanh thẫm, đủ các loại, lúc nào cũng chiếm số lượng nhiều nhất trong đống mầu của tôi. Xong rồi đến mặt trời. Ở Bắc Cực bạn sẽ có 6 tháng mặt trời không tắt trên lưng chừng trời. Mặt trời của tôi to hơn bình thường, dường như không chịu nằm khuất sau dẫy núi mờ mờ vạch tạm bằng chút mầu xám. Nền của mặt trời là mầu xanh. Mầu của mặt trời là mầu vàng chanh. Và tôi cứ phải bôi mầu vàng liên tục lên trên một cái vòng tròn nho nhỏ đầy những chất mầu xanh thẫm như bất cứ nơi nào khác trên bức tranh vậy. Thế là cái vòng tròn ấy chậm chậm chuyển từ mầu xanh dương sang thành mầu xanh lá. Và rồi bắt đầu xuất hiện một chút ánh vàng. Thế nhưng cái ánh vàng ấy vượt khỏi tầm kiểm soát của tôi, và dường như mặt trời của tôi không chịu nằm đằng sau bầu khí quyển, không chịu nằm đằng sau lớp bóng tối đen thẫm, mà mạnh bạo đòi nhẩy ra khỏi bức tranh, chen lấn vượt qua cả dẫy núi đánh dấu đường chân trời. Mặt trời của tôi to dần ra đến mức quái dị, bất bình thường, đem ánh sáng của mình ra chiến đấu với đêm đen Bắc Cực.

Tôi bỗng giật mình. Ánh sáng nồng ấm của một ngày mới đã xuất hiện bên cửa sổ từ lúc nào. Hóa ra cả đêm tôi không hề ngủ mà cứ ngồi miệt mài ngồi vẽ cái bóng đêm. Nhờ đứng dậy pha cốc cà phê và châm điếu thuốc mà tôi phát hiện ra là cái bóng đêm ấy vẽ thật là đạt, thật là đúng ý muốn của tôi. Nhưng mặt trời thì trông chả giống một tí nào với cái khung cảnh bên trong bức tranh. Những chỗ giao nhau giữa mặt trời và bầu trời là các khoảng mầu xanh lá cây xa lạ, trông cứ như là một vòng tròn mầu vàng chanh bị thả vào trong chậu nước xanh thẫm và loang dần ra những cái sắc mầu của mình, trộn lẫn nhau tạo ra mầu xanh lá cây lạ lùng. Bực mình, tôi chấm một ít nâu đất và hồng đỏ quệt vào cái vòng tròn mà tôi gọi là mặt trời ấy... Và... bỗng nhiên ... Em xuất hiện. Sự giao nhau giữa các mầu ấy bất ngờ tạo thành cái mầu mà trong một góc nào đó của tiềm thức, tôi dùng để định nghĩa em. Tôi miệt mài bôi mầu, kiên nhẫn chấm sửa từng mảng bé tí để cả cái vòng tròn ấy biến thành cái mầu mà tôi vừa phát hiện ra đấy. Tôi vẽ và nhìn thấy gương mặt dễ thương và kiêu sa của em trong ấy. Và tôi không còn nghĩ đến chuyện vẽ mặt trời nữa. Tôi cảm thấy cứ như là đang vẽ em. Tôi tham lam đòi em phải là của tôi. Tôi tặng cho em cả bầu trời của tôi, và cả dẫy núi lẫn mặt đất không phải của tôi. Tôi tặng em tất cả không gian của bức tranh. Ánh sáng của em làm tan đi những mảnh băng tuyết đã đóng ở nơi đây hàng nghìn hàng triệu năm rồi, phá vỡ chúng thành những mảnh sáng tối khác nhau, trông như mặt đất sau một trận chiến ác liệt. Tôi vẽ miệt mài, phó mặc cho tình cảm và tâm sự điều khiển những cây cọ khó tính và đám mầu sơn bất trị.

Bóng đêm là sự cô đơn, vô vọng, chán nản, buông xuôi trong tôi. Ánh sáng là em, là niềm hi vọng, là tình yêu, là cuộc sống mà em đã khấy động trong con tim đã nguôi lạnh từ lâu của tôi. Tôi sợ hãi, tôi chống lại, như bóng đêm trong tranh cố ẩn nấp sau những ngọn đồi, sau những chỗ nhấp nhô của băng tuyết. Tôi đã phải tập chịu đựng nỗi cô đơn và trở thành thân thuộc dần với nó. Tôi đã quen sống trong cô đơn, và bây giờ ánh mặt trời chói lòa từ em làm tôi hoảng sợ, làm tôi trở thành kẻ hèn nhát, làm tôi đảo lộn hết tất cả trật tự hàng ngày trong cuộc sống của một gã đơn độc. Ánh nắng từ em không chói chang nhưng làm tôi lòa mắt. Hơi ấm từ em có sức lôi cuốn đến đáng sợ. Tôi chỉ muốn ôm chặt em vào lòng, tham lam và ích kỷ sưởi ấm con tim băng giá của tôi. Nhưng tôi lại không dàm làm như vậy. Tôi giữ khoảng cách. Tôi sợ hơi ấm ấy sẽ làm tan đi tất cả băng giá trong lòng tôi, và tôi sẽ mất đi cái bóng tối vốn đã trở thành quen thân với tôi suốt từ lâu rồi. Trước em gã trai bặm trợn hỗn hào bỗng trở thành ngơ ngẩn như những con cừu đứng chờ bị cạo lông.

Tôi đang nói về chuyện gì thế nhỉ ? Tôi nói về bức tranh tôi vẽ, hay tôi nói về tôi, hay tôi nói về mối quan hệ giữa tôi và em? Goethe đã từng giảng giải về định luật mầu sắc, thế nhưng không hề thèm đếm xỉa đến những cái định luật pha mầu, tức là bỏ qua hệ thống phản ứng thể hiện mầu sắc trong não người, mà nâng lên thành suy nghĩ. Trong pho Farbenlehre, Goethe đã từng viết "đúng với kiểm nghiệm, mầu vàng tạo ra cảm giác ấm cúng dễ chịu, cho nên trong hội họa người ta lấy mầu vàng là mầu chiếu sáng, mầu tác động". Goethe cũng không thèm định nghĩa xem thế nào là mầu vàng, vì ông vốn không chú trọng đến mối quan hệ logic chính xác giữa câu chữ và khái niệm thể hiện. Và "mầu vàng" ấy trong tranh của tôi chính là một sự pha trộn giữa vàng chanh sắc lạnh, nâu đất mềm mại, và hồng phấn ấm áp. Nó cũng tạo ra một cảm giác ấm cúng dễ chịu. Nhưng còn hơn thế nữa. Nó tạo ra em, nó thể hiện em, nó là em trong tôi, là em ngoài tôi, là em đang chiếm hết tâm trí tôi, là tất cả, là tình yêu đáng sợ. Tại sao tôi lại nghĩ đến Goethe nhỉ? Có lẽ vì lời của ông ta giải thích được phần nào những hành động của tôi đang làm - vẽ một cái vòng tròn "vàng" trên nền "xanh" và nói rằng đó là em, đó là mặt trời chói chang... Thế còn đâu là chỗ cho các qui luật về mầu sắc cho tranh vẽ và sơn dầu? Các nhà duy vật và duy tâm tranh cãi nhau. Hume xuất phát từ tractatus logicophilosophicus của Wittgenstein mà cho rằng mầu sắc là ý tưởng, là sự hoạt động chủ quan của tư duy. Giới phân tâm học và ngôn ngữ học cãi nhau. Nhà vật lí và nhà thơ không đồng ý với nhau. Cuộc tranh cãi khởi đầu từ khi bắt đầu có những bức tranh sơn dầu đầu tiên vẫn tiếp diễn cho đến tận ngày hôm nay. Tôi cóc cần. Tôi bất chấp. Và tôi để mặc cho sự tranh cãi ấy giằng xé bức tranh của tôi. Có lúc bóng tối tràn sang phía ánh sáng, xâm phạm cả vào địa phận của cái vòng tròn đã đặt ra là chỉ dành riêng cho mặt trời. Thế nhưng cứ dần dần từng bước một, từ trong một góc nào đó của tiềm thức, từ sự điều khiển của con tim, ánh sáng mặt trời của em cứ bao phủ dần, bao phủ dần cả bức tranh của tôi, chỉ khoan nhượng nhường lại cho bóng tối một khoảng trống trên trời cao. Tôi sợ hãi em. Tôi sợ hãi cái tình yêu trong tôi bị đánh thức dậy và ngày càng thêm đòi hỏi tôi phải xích lại gần em. Tôi sợ hãi phải bước ra khỏi cái bóng tối quen thuộc của sự cô đơn. Tôi sợ tình yêu lại tan vỡ thêm một lần nữa. Có người không thích bóng tối, cho rằng cô đơn và bóng tối đồng nghĩa với cái xấu. Thế nhưng bóng tối của tôi không có mầu đen tuyền mà mang sắc xanh thẫm. Sự cô đơn đem lại cho tôi sức mạnh để tồn tại và giành giật với cuộc đời. Tình yêu khiến cho tôi yếu đuối và mất đi sự hung bạo liều mạng, mất đi cảm giác tự tin cố hữu. Lạc lõng một mình nơi cực bắc tôi cảm thấy tự tin. Trú đêm ở một góc rừng đước non Duyên Hải bóng tối của tôi vẫn được quầng sáng ánh đèn từ Sài Gòn chiếu đến. Cô đơn ở những mảnh đất xa lạ tôi vẫn được công việc và ý chí biến thành kẻ ngạo nghễ bất cần. Thế nhưng ở nơi đông người quen biết tôi lại cảm thấy lạc lõng cô đơn vô cùng, và cô đơn hơn bao giờ hết khi ngồi cạnh em, nhìn khóe miệng xinh đẹp của em cười, cảm nhận hơi ấm từ em bao phủ khắp căn phòng và tàn nhẫn sưởi ấm con tim tôi. Em là Mặt Trời nơi Phương Bắc, sự chờ đợi trong suốt 6 tháng và sự hãi trong 6 tháng còn lại. Tôi sợ hãi em hay sợ hãi sự cô đơn trống trải sẽ lại quay trở lại sau khi vì một lý do nào đó phải chia tay em? Tôi sợ hãi một tình yêu mới bắt tôi phải chui ra khỏi nơi trú ẩn tối tăm lạnh lẽo của tôi để rồi sau đó khi tình yêu tan vỡ lại phải quay trở lại trong nỗi thất vọng ê chề, với con tim trăm lần tan nát hơn lần chia tay trước, với sự bùng nổ tình cảm não nề chán nản mà cách giải quyết duy nhất là bỏ cuộc trong ván bài tồn tại đang phải đánh với tự nhiên, với Thượng Ðế. Có lẽ tôi sẽ ở lại với nỗi cô đơn. Tôi vẽ xuống tất cả tình yêu của tôi dành cho em và gửi tặng em bức tranh đó như một lời chia tay. Tôi yêu em! Tạm biệt em.

2. Tia sét và Em

Khi nói đến tia sét, người ta thường nghĩ đến thảm họa, đến sự kinh hoàng. Những bức tranh sơn dầu thời Trung Cổ đặt sấm chớp bên cạnh những cảnh đắm tầu, những nét mặt sợ hãi của những người thủy thủ. Bầu trời đêm trong truyện cổ tích khi xẩy ra những điều tai ương cũng là dông bão và sấm chớp. Câu chuyện dân gian Việt Nam về Con cóc đi kiện ông Trời dù chế nhạo thần sấm thần sét nhưng cũng không ra khỏi ngoài phạm vi này, tức là liệt sấm sét vào những điều xấu. Ánh sáng chớp lòa và những tiếng nổ kinh hoàng trong chiến tranh của những khẩu đại bác hay máy bay cũng được người ta ví như 'Thần Sấm'. Phật Thích Ca ngồi tọa thiền trong cơn mưa dông sấm sét và ma quái quấy nhiễu chung quanh. Những người điên nổi loạn, ma cà rồng thức giấc, quỉ thần trồi lên mặt đất cũng trong khung cảnh sấm sét. Những trận bão cuốn trôi nhà cửa ở Việt Nam cũng thường đi kèm với mưa và sét. Thế nhưng người ta cũng ví tình yêu như là sét đánh - tiếng sét ái tình. Không ít nhà phù thủy thời Trung Cổ tạo ra sét trong những quả cầu bằng kính và tôn thờ nó như một thứ quyền lực vô biên. Với tôi, trong một buổi tối nghĩ đến em, tôi bỗng cảm thấy cần phải nghĩ đến những tia sét, và phải ngồi vẽ tia sét.

Sài Gòn là một trong những nơi rất thường gặp sấm sét. Cứ trời mưa to là tất cả tối sầm lại và đi cùng với các cơn lốc cuốn trôi mái nhà bay lả tả trong không trung là những tiếng sấm rền inh ỏi và những ánh chớp chói lòa. Có một lần trời mưa tôi phải trèo lên mái nhà để chèn đá cho gió khỏi cuốn đi những tấm tôn mảnh dẻ thì một tia chớp sáng lòa đánh vào cột an-ten cách tôi chỉ khoảng vài mét. Thằng bé run lẩy bẩy hết biết sợ rơi từ mái nhà cao tầng bốn xuống đất mà thích thú ngồi mường tượng lại cảnh quả cầu lửa bay từ từ về hướng nó rồi bỗng đột ngột chuyển hướng đánh vào cột an-ten chỉ cao hơn nó có một chút thôi. Sau vụ đó ông hàng xóm phải chắt góp đi mua cái TV mới vì cái cũ bị sét đánh hư mất tiêu. Và hình như cũng sau vụ đó thì tôi không còn sợ sấm sét, sợ ma quỉ nữa, và tự xếp mình vào cái nhóm số ít người Việt Nam không sợ ma.

Tôi còn nhìn thấy sét nhiều lần lắm. Ở trên không khi máy bay đang chao đảo tìm đường bay, hay đường băng để hạ cánh. Trong những bức ảnh chụp, trong phim, trong nhà hát, trên những bức tranh vẽ. Ở trên biển ... Hình như là ở trên biển người ta thường gặp sấm sét nhất. Lần nào đi biển buổi đêm tôi cũng nhìn thấy sấm sét. Nếu không ở ngay chung quanh tầu thì cũng là ở một nơi xa xa nào đó. Chắc là vì ở biển không có gì giới hạn tầm mắt, nếu trời quang mây tạnh ở chung quanh thì sẽ nhìn thấy những cơn mưa cùng sấm chớp và ánh mặt trời còn le lói ở quanh đường chân trời. Thế nhưng chụp ảnh ánh chớp thì chắc là không còn gì khó hơn. Với độ ánh sáng quá yếu của tia chớp và kỹ thuật hóa chất làm phim vẫn chỉ giới hạn ở một độ nhạy nào đó, và túi tiền cũng chỉ cho phép mua phim với độ nhạy giới hạn, cũng như mua máy ảnh với góc ngắm nhất định, cho nên khi lên ảnh những ánh chớp chỉ là một quầng sáng mờ mờ phía đằng xa, không hề rực rỡ và ma quái như là tôi đã từng chứng kiến. Như vậy có lẽ vẽ tranh sơn dầu là một biện pháp hợp túi tiền và dễ thể hiện hơn là chụp ảnh vì không phải đi xa, không phải chờ đợi để săn lùng, không phải bỏ tiền để mua thêm phim với độ nhạy vài nghìn ASA, hay mua thêm ống kính tele siêu tiệm cận. Và tôi lại bầy vải và cọ ra đất để vẽ lại tia sét trên biển mà trong một chuyến hải hành trên Ðịa Trung Hải tôi đã từng được chứng kiến. Một trận sét kinh hoàng đánh loạn xạ xuống mặt biển, hay ngưng đọng ở đâu đó giữa không trung. Những cột sét trắng xóa, chói lòa như một thân cây mọc ngược từ trên trời xuống mặt đất. Có những tia sét xanh leo lét như lân tinh. Có những tia sét đỏ lừ như lửa lò đúc thép. Có những tia sét thiên về một mầu tím ma quái nào đấy, giống hệt như cái tranh đã vẽ xong nằm trước mặt tôi đây. Tôi bắt đầu thử vẽ bằng mầu đỏ, xong lại thử bằng mầu xanh, nhưng tia sét như có sức hút ma quái, điều khiển tôi phải bôi, phải sửa, phải tô thêm mầu theo đúng ý nó muốn, chứ không phải ý tôi muốn. Tiềm thức điều khiển cây cọ của tôi, chứ không còn là ý thức chủ quan nữa. Những lớp sơn càng ngày càng mỏng, quyện lấy nhau, đè lên nhau làm cho mặt tranh bóng lên và những mầu sắc ma quái dần dần xuất hiện. Tôi sợ hãi, tôi say mê, quên ăn, quên ngủ bôi hết lớp sơn này đến lớp sơn khác, hối hả vẽ để cho những lớp sơn trên tranh không kịp khô, không kịp phân chia nhau ra... Bây giờ ngồi nhìn lại bức tranh đã vẽ xong, cảm giác của tôi vẫn giống như là lần đầu tiên nhìn lại tổng thể sau khi vẽ xong, là ánh sét trong tranh quá thật, quá giống, và quá sinh động. Chỉ là một khoảnh khắc được ghi lại trên tranh, vì chốc lát nữa đây tia sét sẽ biến mất, còn trước đấy một chút xíu thôi thì tia sét vẫn chưa hình thành. Thân sét trông như một con rồng lửa vục đầu xuống biển uống ừng ực những tia lửa chói lòa, các cánh tay của nó vươn ra không trung chống đỡ cho tấm thân nặng nề uốn khúc, cố tìm cách len lỏi theo tất cả những con đường mà nó có thể nghĩ ra. Tôi nhìn lại bức tranh mà hoàn hồn vì may mắn thay đã không chọn một chiếc khung tranh lớn hơn vì nếu cứ phải làm việc liên tục để cho sơn trên tranh không kịp khô thì tôi không thể nào chịu đựng nhiều hơn là 20 tiếng như vừa qua nữa.

Vẽ sét thật là khó. Với một vật thì giới hạn giữa vật và khung cảnh được định rõ. Ngay cả vật phát sáng như mặt trời thì tôi cũng đã thử và thành công, vì ít nhất tôi vẫn nhìn thấy giới hạn về vật chất giữa mặt trời và không gian chung quanh. Thế nhưng với tia sét thì thật kinh khủng. Bên trong tia sét là không khí. Bên ngoài tia sét cũng là không khí. Nhưng một thứ không khí thì phát sáng, thứ kia thì hoặc thu hút ánh sáng, hoặc phản chiếu ánh sáng.. Giới hạn giữa chúng không hề được phân biệt rõ ràng như giữa những thân cây mùa đông và khung cảnh chung quanh. Thật là kinh hãi. Tôi ngồi vẽ ánh sét với thái độ đầy tôn thờ và thán phục.

Có phải trong cuộc đời người ta cần đến những tia sét ? Sét đánh gẫy cột buồm báo hiệu điềm tai ương đang đến. Sét đánh phát ra tia sáng lóe lên trong đêm đen có thể khiến cho người lính thoát chết trong gang tấc. Sét ái tình làm cho người ta thay đổi tất cả mọi suy nghĩ và quan điểm sống đến mức chính bản thân ta cũng không thể giải thích được. Phải chăng sự giác ngộ trong suy nghĩ cũng là một cơn sét tạo nên do các tia điện tử di chuyển giữa các tế bào não ?

Bức tranh đã xong, đang nằm trước mặt tôi chờ khô và chờ một chiếc khung hợp lý, nhưng tôi vẫn chưa thể tin được là mình lại có thể vẽ ra được nó. Tôi vẫn chưa hoàn hồn để phân định được là tôi đã vẽ ra bức tranh tôi muốn, hay chính tia sét điều khiển tôi phải vẽ ra bức tranh mà nó muốn. Sự diệu kỳ của những mảng mầu sắc và cây cọ thật là kinh khủng, vượt quá mọi giải thích bằng từ ngữ. Chỉ với vài sợi lông thỏ mịn màng, một mặt phẳng, vài thỏi sơn với những mầu sắc bình thường, buồn tẻ, con người lại có thể tạo ra được một bức tranh ma quái đến như vậy sao ? Bức tranh bỗng trở thành điểm hút mắt trong căn phòng của tôi và tất cả những gì chung quanh đều trở nên tầm thường vô cùng khi so sánh với nó. Ngay cả cái chữ ký rất bé của tôi, chỉ là một cái dấu nho nhỏ trên tranh cũng trở nên tầm thường vô cùng đến mức tôi chỉ muốn xóa nó đi để khỏi làm bẩn bức tranh, nhưng rồi tôi lại sợ là tranh đã khô đi một chút và một chút mầu bôi lên để sửa sẽ làm cái chỗ xấu xí ấy loang to thêm một chút nữa.

Thủy thủ là những người thường được người ta xem là những kẻ anh hùng vì dám ra khơi, đơn độc đối đầu với tia sét, làm bạn với những tia sét. Thế nhưng phải chăng họ chỉ anh hùng trong thế giới của họ mà thôi, còn lý do mà họ ra khơi là vì họ hèn nhát, họ bỏ chạy khỏi cái thế giới đầy những người đang sống chung quanh họ với những biến đổi không hề được báo trước bằng tia sét ? Sự đối đầu mạo hiểm với một sự việc cũng đồng nghĩa với sự hèn nhát bỏ chạy khỏi một sự việc khác. Con người thực phức tạp và đa dạng như con số vài tỷ nhân mạng homosapiens đang hiện hữu trên thế giới này vậy. Trong một thế giới giới đảo điên mà tôi chính là một kẻ điên loạn bên trong đó, em như là một ánh sét chỉ đường cho tôi đi. Em sẽ là người bạn đường soi sáng cho con thuyền cô độc của tôi trong đêm đen, hay em sẽ là sức mạnh hủy diệt, đánh tan tành vỡ vụn con thuyền của tôi trong ánh sáng kinh hoàng của những trận cuồng phong được hàng nghìn hàng vạn tia sét khác hô hoán ? Tôi đã bị tia sét ái tình của em đẩy vào cơn mê muội của tình yêu. Tôi muốn đến gần em để có được cái cảm giác thân quen khi gặp lại tia sét, nhưng tôi cũng hoảng sợ trước cảnh tượng tàn phá khủng khiếp của những cuộc tình đổ vỡ. Tôi phải làm gì ? Trong bức tranh của tôi tia sét câm lặng đứng yên, bắt thời gian phải ngừng lại trong khoảnh khắc của một phần nghìn giây, nhưng không nói lên một lời nào cả để trả lời câu hỏi của tôi. Tôi cảm thấy tự tin vô cùng, sung sướng vô cùng vì đã vẽ thành công một tia sét mà tôi muốn, nhưng tôi lại cảm thấy yếu đuối vô cùng, tuyệt vọng vô cùng vì không thể trả lời nổi một câu hỏi tưởng chừng như rất bình thường trong đời. Em có thể trả lời cho tôi không, tia sét trong đời tôi ?

I. Một số tựa sách triết học về mầu sắc:

Allaire E.B. (London 1986, 1996) Tratacus 6.3751 The Construction and Dismantling of the Tratacus
Austin J. (London 1986, 1996) Wittgenstein's Solutions to the Color Exclusion Problem.
Goethe J.W. (reprinted Warszawa 1981) Farbenlehre
Hardin C.L. (Oxford and Cambridge 1990) Color and Illusion; (Indianapolis 1993) Color for Philisophers
Park D. (Oxford 1993) The problem of perception
Ramsey (London 1986, 1996) A critical notice of Wittgenstein's Tratatus
Rosenthal D. (Counciousness and Cognition 2000) Color, mental location and the visual field
Ross P. (Counciousness and Cognition 2000) The local problem for subjectivism
Wittgenstein L. (translated Warszawa 2000) Tractatus logico-philosophicus
Wierzbicka A. (Warszawa 1999) Znaczenie nazw kolorow i uniwersalia widzenia (Ý nghĩa của tên mầu và thị giác chung)
Pilat R. (Warszawa 2001) Nazwy i Pojec Barw (Tên và Khái niệm của mầu sắc) II. Tài liệu tham khảo
Chu Quang Trứ - Tượng cổ Việt Nam, NXB Mỹ Thuật 2002http://www.cinet.vnn.vn/nghethuat/0006/index.htm
Birgit Hussfeld - Sự chật chội của tinh thần và xưởng vẽ - Talawas 2002 http://www.talawas.org
Nguyên Hưng - Phê bình Mỹ thuật Việt Nam - Talawas 2002http://www.talawas.org
Nguyễn Quân - Mỹ thuật những năm 80, bản lề và cánh cửa - Talawas 2002 http://www.talawas.org
Trần Ngọc Thêm - Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam - NXB tp.HCM 2001

[1] Thành phần hợp chất cơ bản C12H32O2 trong sơn của Nhật chiếm đến 70-80%, trong khi ở sơn Trung Quốc, Việt Nam và Thái Lan chỉ khoảng 50% mà thôi. Nồng độ nhựa (gum) trong sơn Nhật cũng ít hơn gấp 2-3 lần (7-8% so với 20%)

[2] cụm từ của Nguyễn Hưng Quốc, tạp chí Việt số 7, Chủ nghĩa h(ậu h)iện đại và văn hóa Việt Namhttp://www.geocities.com/viet_journal/nhq7.html

[3] http://vnexpress.net/Vietnam/Van-hoa/My-thuat/2002/11/3B9C2565/

[4] http://vnexpress.net/Vietnam/Van-hoa/My-thuat/2002/10/3B9C14A5/

[5] hình khối đặc trưng của điêu khắc Chăm với dương vật (Linga) cắm trên bệ âm vật (Yoni), có nơi trông như cối xay bột gạo nước. Ở chùa Dạm (tỉnh Bắc Ninh) còn vết tích của cặp Linga-Yoni cao vài mét.

[6] Kaomi Izu trả lời phỏng vấn với Nguyên Hưnghttp://www.talawas.org/my/my03.html

Thứ Bảy, 5 tháng 10, 2013

Tin đồn thất thiệt, bịa đặt – nhận diện và xử lý


Mưa axít, mây phóng xạ, thực phẩm chứa chất gây ung thư, gạo nhựa, trứng giả… Những tin đồn thất thiệt gây lo ngại dư luận và tác động tiêu cực tới đời sống xã hội. Để người dân có cơ sở phòng tránh và cơ quan Nhà nước có biện pháp ngăn chặn kịp thời, Báo CAND phân tích cụ thể vấn đề này.

1. Tin đồn nóng bỏng tính thời sự
Mang tính quy luật, tin đồn thường ăn theo các sự kiện thời sự nóng bỏng, được dư luận đặc biệt chú ý ở nhiều phương diện: chính trị, khoa học, công nghệ, các vấn đề kinh tế – xã hội… Khi Nhật Bản xảy ra động đất gây thiệt hại vô cùng lớn, hàng loạt tin đồn ăn theo làm cả châu Á lao đao: tin đồn mưa axit, mây phóng xạ, núi lửa phun trào, sóng thần bất ngờ tại nhiều bờ biển…

Tại Việt Nam, tin đồn nóng bỏng tính thời sự cũng đã có tiền lệ. Năm 2010, tại mỗi thời điểm khác nhau đều rộ lên những tin đồn nguy hiểm: tin đồn “dự báo sập cầu”, tin đồn thực phẩm chứa chất gây ung thư, tin đồn đổi tiền… Năm 2011, nhiều tin đồn lan rộng như: ăn cá rô đầu vuông sẽ bị ung thư; tin đồn nước mưa có chứa axít; tin đồn tăng giá xăng, phát hành tiền mệnh giá lớn…

Do tính thời sự nóng bỏng (gồm tính thời sự thế giới và thời sự trong nước) đã hút lượng người quan tâm vô cùng lớn, nó cũng gây tò mò đặc biệt với người tiếp nhận tin đồn, bất luận độ tuổi, giới tính, vùng miền. Trước đây, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, tin đồn thất thiệt chỉ dễ lây lan ở vùng lạc hậu, người dân nhận thức kém. Nhưng ngày nay, qua hàng loạt tin đồn nóng bỏng cho thấy, tin đồn thậm chí còn gây sốt mạnh ở vùng đô thị, làm chính những người có nhận thức cũng dễ rơi vào tâm lý hoang mang không rõ thực hư.

2. Phương thức lây lan tin đồn cực khủng
Ngày xưa, tin đồn chủ yếu qua truyền miệng, thường chỉ lây lan trong phạm vi hẹp làng xã, vùng miền. Do tính truyền miệng, tốc độ tán phát cũng chậm. Nhưng công nghệ số đang làm điên đảo tin đồn, bằng chứng như sau sự kiện động đất lịch sử tại Nhật Bản, chỉ có một đêm, tin đồn mưa axít đã ào ạt tấn công toàn châu lục, bất luận ranh giới địa lý và thể chế xã hội của quốc gia, vùng miền. Tin nhắn qua chat, điện thoại với nội dung cảnh báo mọi người không nên ra ngoài khi trời mưa vì đó là mưa axít phát sinh từ sự cố hạt nhân tại Nhật Bản lan truyền khắp nơi, có cả Việt Nam. Kiểu tán phát bằng chat, điện thoại khiến kể cả người không mấy quan tâm, không tò mò cũng bị tấn công bằng phương thức tung tin nhắn tự động. Hàng loạt máy điện thoại trong buổi sáng nhận được vô số tin nhắn “cảnh báo nguy hiểm”, và phương thức này cùng với truyền miệng, nó nhanh chóng tạo thành “bão tin đồn”.

3. Gây sốc vì tin đồn chụp mũ khoa học

Để gây dựng cơ sở và tạo độ tin cậy cho tin đồn, người tung tin đồn cố gán ghép cái gọi là cơ sở khoa học, gắn với các dấu mốc, sự kiện có thật. Chính sự thật giả hỗn hợp này đã tạo tin đồn có “móng” bám trụ. Chẳng hạn, khi tung tin đồn về mưa axít, đoạn tin được nhồi nặn như sau: “Một nhà máy hạt nhân tại Fukumi, Nhật đã phát nổ lúc 4h30′ sáng nay. Nếu ngày mai hoặc ngày kia trời mưa, đừng ra khỏi nhà. Nếu bạn đang ở ngoài, hãy đảm bảo rằng bạn được bảo vệ khỏi những giọt mưa. Đấy là mưa axít. Đừng để nó rơi vào người bạn. Bạn có thể bị bỏng, rụng tóc và bị ung thư. Xin hãy chuyển thông điệp này cho mọi người và giữ an toàn, nhắc nhở những người quen của bạn”.

Tin đồn xuất phát từ Philippines và đã lan truyền với tốc độ chóng mặt khắp châu Á, trong đó có cả Việt Nam. Thời điểm đó, không ít người đã lo lắng, thông báo cho con em mình không được ra ngoài trời khi phát hiện có mưa.

Tin đồn ăn cá rô đầu vuông, hạt dưa… gây ung thư và trứng gà bằng nhựa làm nóng dư luận thời gian qua.

Đọc đoạn tin trên, có thể thấy, kẻ tung tin đồn đã khéo léo gán ghép những sự kiện nóng bỏng có thật để cài chuyện huyễn hoặc. Sự kiện nóng bỏng có thật là sự cố nhà máy điện hạt nhân ở Nhật, đúng cả về thời gian và địa điểm. Vì vậy, khi nó được cài đoạn mưa axít, hiển nhiên độ tin cậy tăng lên. Hơn nữa, cách truyền tin dưới dạng nhắc nhở, khuyến cáo chứ không phải đe dọa khiến người nhận tin cảm nhận đây là tin hữu ích: đừng để mưa rơi vào người bạn!

Tại Việt Nam, những kiểu tin đồn “cài khoa học” hoặc cố tình gán cho người có uy tín như nhà khoa học, nhà ngoại cảm cũng là thủ đoạn để đánh lừa dư luận. Chẳng hạn, năm 2010, những kẻ tung tin đồn về việc sập cầu Long Biên, cầu Bãi Cháy đã cố tình gán ghép cho rằng, đây là dự báo của nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng. Về phần mình, nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng đã bác bỏ tin đồn cố tình gán ghép cho chị.

Hay như tin đồn về mây phóng xạ, kẻ tung tin đã chụp mũ nguồn tin từ nhà khoa học, Giáo sư Phạm Duy Hiển. Nhiều người đã nhận được tin nhắn qua hệ thống chat hoặc email của một người xưng là cháu của Giáo sư Phạm Duy Hiển, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu năng lượng hạt nhân, nói rằng: “Mây phóng xạ từ Nhật đã vào Việt Nam với mức độ nhiễm rất cao, gần tới mức ảnh hưởng tới con người, Chính phủ chưa công bố ngay vì sợ mọi người hoang mang và viện cần tiến hành thêm một vài xét nghiệm”. Giáo sư Phạm Duy Hiển sau đó đã bác bỏ tin đồn chụp mũ, bịa đặt này.

Ở lĩnh vực tài chính, tiền tệ, chúng ta cũng từng chứng kiến những tin đồn nguy hiểm như: tin đồn cho rằng ngân hàng sắp đổi tiền, sắp phát hành những tờ tiền mệnh giá khủng như 1 triệu đồng, 2 triệu đồng… Những tin này lấy lý do lạm phát đang ở mức cao, những tờ tiền mệnh giá hiện hành đã tỏ ra nhỏ bé nên phải in ấn tiền mệnh giá lớn hơn. Gần đây, khi Nhà nước có chủ trương đưa việc kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do vào khuôn khổ quản lý nhằm đảm bảo an toàn cho thị trường này và quyền, lợi ích hợp pháp của người dân thì trên mạng xã hội đã tán phát tin đồn: Nhà nước cấm người dân mua bán, cất giữ vàng. Việc tung tin như vậy khiến một số người không rõ thực hư lo lắng.

Trong khi đó, thị trường xăng dầu những tháng gần đây lại tái diễn cảnh người dân vây kín kho xăng như cảnh mua bán tại cửa hàng thời bao cấp. Khi mà liên Bộ Tài chính, Công thương chưa có bất kỳ quyết định nào về việc tăng giá xăng dầu thì mấy ngày qua đã rộ tin xăng sắp tăng thêm 2.000 đến 3.000 đồng/lít…

Những kẻ gieo rắc tin đồn dựa vào thời điểm nhạy cảm để tung tin nhảm.

Xã hội học đưa ra điểm phân biệt dư luận xã hội và tin đồn như sau: tin đồn là một dạng thông tin không chính thức, thông thường là bịa đặt, phao tin, đồn nhảm. Tin đồn chủ yếu dựa vào cảm xúc chủ quan nên tin tính tự phát lớn, lan truyền nhanh. Tin đồn thường bị xuyên tạc bởi tính chủ quan của người truyền tin.

Một đánh giá khác cho rằng, tin đồn là thông tin không được ai khẳng định, thiếu những sự kiện cụ thể để kiểm tra tính chính xác. Tin đồn được chế biến ngày càng xa tin gốc, mang đậm màu sắc cảm xúc cá nhân…
Thời công nghệ số, bất kỳ lĩnh vực nào cũng dễ dàng xảy ra tin đồn thất thiệt. Ở đây, việc ngăn chặn, phòng tránh tin đồn phải được thực hiện đồng thời cả hai chủ thể: người dân và cơ quan quản lý nhà nước.


Cách đây 1 năm, Tổng Công ty Lắp máy Lilama in “tờ tiền” mệnh giá 5 triệu đồng “có giá trị trong tiệc liên hoan Lilama”, đã bị NNVN nhắc nhở. Tin đồn phát hành “tiền” mệnh giá cao như thế đã bị NHNN bác bỏ.

4. Hậu quả nguy hiểm của tin đồn thất thiệt, bịa đặt

Tin đồn thất thiệt, bịa đặt vừa tác động đến tâm lý, gây căng thẳng trong nhân dân, nhất là những tin đồn ở thời điểm nhạy cảm, gắn sự kiện làm rúng động thế giới như động đất, sóng thần ở Nhật Bản vừa qua. Dư âm của vấn đề này tác động tâm lý rất mạnh khiến gần đây một số khu nhà dân ở Hà Nội có dấu hiệu rung lắc nhẹ do các công ty xây dựng lân cận khoan nhồi bê tông, nhưng nhiều người cũng tỏ ra hoảng sợ cho rằng động đất. Tin đồn mưa axít, mây phóng xạ đã khiến nhiều người bỏ bê công việc, học hành, không dám ra đường. Tin đồn ngân hàng đổi tiền khiến nhiều người tìm cách mua vàng tích trữ và lo lắng lạm phát. Tin đồn sập cầu khiến nhiều người không dám qua cầu, họ cũng tìm cách ngăn chặn con em mình đi qua cầu. Tin đồn ăn bưởi, ăn hạt dưa, trứng, ớt, ăn cá rô đầu vuông bị ung thư cũng làm nhiều người tẩy chay thực phẩm…

Tác động xã hội còn kéo theo nhiều hệ lụy, ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống người dân: lao động bị đình trệ, đứt nghẽn các hoạt động hành chính, kinh tế. Nhà sản xuất cũng bị tấn công mạnh, thậm chí nhiều doanh nghiệp rơi vào phá sản vì hàng hóa ế đọng, không thể tiêu thụ, trong khi người dân điêu đứng (như tin đồn trứng gà giả, thực phẩm chứa chất gây ung thư). Khi xã hội rộ lên tin đồn trứng gà làm bằng nhựa trông như thật trà trộn trên thị trường, hậu quả là hàng vạn hộ dân nuôi gà không thể bán được trứng, thua lỗ nặng nề.

Hay tin đồn ăn bưởi bị ung thư ở đồng bằng sông Cửu Long cũng khiến người trồng bưởi ở đây nợ nần ngân hàng chồng chất vì bưởi đến mùa không ai mua. Về mặt an ninh, tin đồn có thể gây bất ổn định, tạo ra tâm lý lo lắng. Tại thủ đô Manila của Philippines, nơi khởi nguồn tin đồn mưa axít khiến toàn bộ số thuốc Betadine tại các hiệu thuốc bị vét sạch, một trường đại học phải tạm ngừng giảng dạy do lo lắng.

Rõ ràng, tin đồn ngày nay là một dạng chiến tranh tâm lý rất nguy hiểm. Nó cũng không giới hạn phòng tránh trong một quốc gia, một vùng, lãnh thổ. Cần thấy rằng, các thế lực thù địch và những đối tượng xấu lại coi đây là thứ “vũ khí” lợi hại để tấn công, hòng gây nhiễu loạn an ninh xã hội.

5. Phòng tránh, ngăn chặn tin đồn thất thiệt: Cơ quan nhà nước phải chủ động; người dân cần tỉnh táo

Để ngăn chặn “chiến tranh tin đồn”, vấn đề quan trọng là cơ quan quản lý nhà nước phải nhanh chóng có phát ngôn chính thống để bác bỏ các tin đồn thất thiệt. Tin đồn thất thiệt lan nhanh chóng mặt, chậm một ngày, một giờ đã có thể gây nhiều hậu quả xấu. Vì thế, khi có tin đồn thất thiệt thuộc lĩnh vực bộ, ngành nào quản lý, nhất thiết phải có xác minh ngay để công bố trước công luận, không thể để chậm trễ. Việc công bố có thể thực hiện ngay thông qua thông cáo báo chí, phát biểu trước truyền hình chứ không thể theo hình thức công văn có tốc độ “ì ạch”.

Chẳng hạn, trước thông tin mưa axít gây hoang mang dư luận, ông Lê Thanh Hải, Phó Giám đốc Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Trung ương đã có thông tin chính thức: “Không có một cơn gió nào có thể đưa bụi phóng xạ từ Nhật Bản thổi đến Việt Nam, cũng như không có gió thổi từ Nhật Bản đến Trung Quốc sau đó ảnh hưởng đến nước ta mà chỉ có gió từ Việt Nam thổi đến Nhật Bản. Vì thế, những cơn mưa hiện nay là do ảnh hưởng của gió mùa, không phải là mưa axít, không chứa phóng xạ”.

Tin đồn sự cố nhà máy điện hạt nhân ở Nhật kéo theo mây phóng xạ nồng độ cao từng làm cả châu Á lo ngại.

Hay khi có tin đồn mây phóng xạ được cho là của Giáo sư Phạm Duy Hiển, ngay sau đó, Giáo sư đã lên tiếng phản bác. Tin đồn sập cầu, nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng khẳng định: “Có thể, tin đồn này xuất phát từ cá nhân nào đó muốn hạ uy tín, bôi nhọ danh dự tôi. Và cũng không loại trừ khả năng có thế lực nào đó muốn gây ảnh hưởng không tốt đến đời sống văn hoá của người dân nên lấy tên tôi ra để tung tin đồn nhảm”.

Có những tin đồn thất thiệt cần sự vào cuộc của một nhóm, tổ chuyên gia. Chẳng hạn, tin đồn ăn cá rô đầu vuông gây ung thư, tin đồn nước tương chứa chất độc hại, trứng gà làm bằng nhựa, gạo bằng nhựa; cây xà lách phun thuốc kích thích sau nửa ngày dài tới 30cm… việc này cần sự vào cuộc của nhà khoa học thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Khoa học – Công nghệ. Trong lúc chờ tổ chuyên gia xác minh, làm rõ, cũng cần phải có thông báo cụ thể để người dân biết. Đối với những tin đồn mà có cơ sở xác minh, khẳng định thì cơ quan chủ quản cần thông báo chính thức ngay trong ngày, như tin đồn tăng giá xăng (Cục Quản lý giá, Bộ Tài chính quản lý vấn đề này).

Về phía người dân, việc tỉnh táo trước “bão tin đồn” là điều cần thiết. Thực tế, nhiều người do không rõ thông tin thực hư và cũng không có điều kiện tìm hiểu, đã hành động theo thói quen, theo cảm tính hoặc theo phong trào. Chẳng hạn, khi có tin đồn xăng sắp tăng giá, thấy nhiều người mang xe, xách can đi mua xăng, người khác cũng làm theo dù chưa hẳn hành động ấy là để tiết kiệm khoản tiền nhỏ trước khi xăng tăng. Hay khi có tin đồn trứng gà làm bằng nhựa, nhiều người đã không dám ăn trứng, thậm chí có bà nội trợ khi đánh trứng thấy lòng đỏ dẻo cũng nghi ngờ trứng nhựa, dù rằng xưa nay trứng gà nào cũng dẻo!

Nghĩa là họ đang bị chi phối bởi tâm lý khiến bất kỳ dấu hiệu gì, dẫu bình thường cũng bị liên tưởng ngay theo tin đồn. Do vậy, trước những tin gây sốc, người dân phải thực sự bình tĩnh, tự mình thẩm định, đánh giá thông tin hoặc chờ tin chính thống được công bố trên truyền hình, báo chí.


Bốn giải pháp ngăn chặn tin đồn thất thiệt

Tiến sĩ Vũ Trung Quý, Phó Trưởng Bộ môn Tâm lý, Học viện An ninh nhân dân đưa ra 4 giải pháp ngăn chặn tin đồn thất thiệt:

Một, cần hình thành, phát triển sự “miễn dịch tâm lý” đối với tin đồn trong quần chúng. “Miễn dịch tâm lý” tức là phải xây dựng ở mỗi cá nhân cũng như cộng đồng xã hội nền tảng vững về tri thức, làm tăng sức đề kháng, làm cho tin đồn không có đất tồn tại. Theo đó, cần cung cấp thường xuyên, kịp thời, chính xác các quan điểm của Đảng, Nhà nước, yêu cầu thực hiện nhiệm vụ kinh tế – xã hội; thông tin về những vấn đề nổi cộm, dư luận chú ý; về âm mưu, thủ đoạn kẻ xấu… Không đưa tin mập mờ gây thắc mắc, tò mò, dễ hiểu nhầm. Báo chí và cơ quan chức năng cần thông tin, hướng dẫn, hình thành dư luận tích cực.

Hai, nhanh chóng điều tra, truy nguyên nguồn gốc, diễn biến hình thành tin đồn để chủ động ngăn chặn sự lan rộng của nó, hạn chế tác động tiêu cực. Nhanh chóng cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác về sự kiện đang xảy ra tin đồn.

Ba, tập trung làm rõ nội dung tin đồn. Sự kiện tin đồn thường không có thật, không được ai khẳng định, do đó cần làm sáng tỏ thông tin, định hướng kịp thời.

Bốn, xử lý thích đáng những đối tượng tung tin đồn thất thiệt.

Thủ phạm: Khó phát hiện

Mới đây, cơ quan chức năng đã xác định tác giả của tin đồn “Ngân hàng Nhà nước phát hành tiền mệnh giá 1 triệu đồng” là một thanh niên quê Nghệ An, thường trú tại quận Đống Đa, TP Hà Nội. Người này đang làm việc tại một công ty trách nhiệm hữu hạn, thường xuyên tham gia các diễn đàn, trang web về kinh tế và chứng khoán.

Thế nhưng, đây chỉ là một trong số ít ỏi các vụ truy tìm được thủ phạm. Trong khi đó, biện pháp xử lý vẫn chủ yếu hành chính. Theo luật gia Nguyễn Chấn, tin đồn thất thiệt là hành vi vi phạm nên đương nhiên thủ phạm phải bị xử lý hành chính hoặc xử lý hình sự. Tuy nhiên, tin đồn cần hiểu nó vi phạm trong một lĩnh vực cụ thể như thương mại, kinh tế, cạnh tranh, chẳng hạn như theo khoản 3, Điều 45 Luật Cạnh tranh thì người đưa tin thất thiệt trong cạnh tranh bị xử lý hành chính, nặng thì hình sự. Đồng thời, cơ quan có trách nhiệm phải thông tin kịp thời và chịu trách nhiệm về việc thông tin đó.



Đăng Trường

Những trận chiến lịch sử ghi danh Võ Nguyên Giáp



Được Chủ tịch Hồ Chí Minh ủy thác trọng trách cầm quân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nắm vững cẩm nang làm tướng mà Hồ Chủ tịch trao cho, quán triệt đường lối chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện và trường kỳ, đứng vững trên nền tảng chính trị của khối đoàn kết toàn dân, ông đã dẫn dắt toàn quân đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trong suốt 30 năm chiến tranh giải phóng.



Đại tướng Võ Nguyên Giáp là nhà chính trị, quân sự lỗi lạc, văn võ kiêm toàn được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng giao cho trọng trách thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân để đẩy mạnh đấu tranh vũ trang trong thời kỳ chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, tiếp đó làm Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Quốc phòng và tổng chỉ huy Quân đội nhân dân Việt Nam trong suốt hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ.




Đại tướng Võ Nguyên Giáp đọc Quân lệnh số I Quyết định thành lập đội Việt Nam tuyên truyền Giải Phóng quân. (22/12/1944). Ảnh: Tư liệu – TTXVN


Trên những cương vị đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có những cống hiến đặc biệt xuất sắc, đã cùng Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối quân sự của Đảng, tổ chức và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân 3 thứ quân, vận dụng sáng tạo phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân và nghệ thuật quân sự, hình thành học thuyết quân sự Việt Nam độc đáo: Nước nhỏ, đánh thắng những kẻ thù lớn mạnh nhất trong thời đại Hồ Chí Minh.

Ông là người đã trực tiếp dẫn dắt “đội quân thơ ấu” từ hai bàn tay trắng, từ súng trường chân đất lớn lên trong suốt cuộc trường chinh mười ngàn ngày và đã đánh bại 10 đại tướng của quân đội viễn chinh nhà nghề của hai đế quốc lớn.

Ông đã từ một người yêu nước ở tuổi học trò đến một người cộng sản chân chính – chân chính đến tận cuối đời; đã từ một giáo sư sử học không qua một trường lớp quân sự, trưởng thành từ thực tiễn chiến trường để trở thành danh tướng, “một tư lệnh của các tư lệnh, một chính ủy của các chính ủy” – như cách định nghĩa của Thượng tướng Trần Văn Trà.

Thành công trong cuộc đời cầm quân của Đại tướng Võ Nguyên Giáp gắn liền với sự dìu dắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ buổi ban đầu. Người đã dạy ông bốn từ Dĩ công vi thượng. Lời dạy ngắn gọn đó không chỉ theo ông trong suốt cuộc đời cầm quân mà khi đã hoàn thành nhiệm vụ nhân dân giao phó, trở về với không ít thử thách trong cuộc sống đời thường, trong tư tưởng và hành động, ông luôn tâm niệm một điều: Đặt lợi ích Tổ quốc lên trên hết, lợi ích nhân dân lên trước hết. Ông là vị tướng quán triệt sâu sắc tư tưởng và phương pháp luận Hồ Chí Minh, là người cầm quân tiếp thu và thể hiện đầy đủ tư cách một người tướng gồm sáu đức tính Trí – Tín – Dũng – Nhân – Liêm – Trung mà Bác Hồ đã dạy. Những đức tính ấy, nhất là Trí và Dũng, bộc lộ rất sớm. Điều này có thể thấy qua cuộc đấu trí, đấu lực quy mô lớn đầu tiên giữa hai quân đội rất chênh lệch về trang bị kỹ thuật và trình độ tác chiến trong Chiến dịch Việt Bắc mùa khô năm 1947, để khẳng định rằng tài cầm quân ở tầm chiến lược của ông xuất hiện ngay từ những năm đầu của kháng chiến toàn quốc.

Ở Chiến dịch Biên giới năm 1950, lúc đầu ta chủ trương đột phá Cao Bằng. Nhưng sau khi trực tiếp trinh sát thực địa, đánh giá tình hình, ông đã quả cảm, quyết đoán đề nghị chuyển sang đột phá Đông Khê và đã được Hồ Chủ tịch phê chuẩn. Hồ Chủ tịch đã trực tiếp tham gia chỉ đạo chiến dịch và vạch ra ý đồ tác chiến là “nhử thú dữ vào tròng – khép vòng lưới thép” tiêu diệt địch. Còn ông chỉ huy bộ đội thực hiện “vận động chiến” và mưu kế “đánh điểm-diệt viện”. Quân ta đã kiên cường chiến đấu và đã giành chiến thắng lớn ở Đông Khê. Bị mất Đông Khê, quân địch từ Thất Khê lên ứng cứu đã bị ta đánh chặn và tiêu diệt, quân địch ở Cao Bằng vội vã rút chạy cũng bị ta bao vây, tiêu diệt và bắt sống cả chỉ huy của hai cánh quân này. Nhờ mưu kế hay, cách đánh giỏi nên ta đã đánh một mà được hai. Hệ thống phòng tuyến đường số 4, vành đai khép chặt biên giới mà địch đã dày công xây dựng bị phá vỡ tan tành. Từ đó căn cứ cách mạng của ta được nối liền với các nước xã hội chủ nghĩa.

Đông Xuân 1953-1954, mưu kế chiến lược của Đại tướng được thể hiện rất tài tình. Ông đã thành công trong việc phân tán lực lượng cơ động của địch và đánh địch trên khắp chiến trường Đông Dương bằng các biện pháp nghi binh, lừa địch mà chính tướng Nava cũng phải thú nhận rằng đến hơn 80% lực lượng cơ động của quân Pháp đã bị phân tán ra các chiến trường. Do vậy, khi ta tiến công Điện Biên Phủ thì lực lượng cơ động của địch không thể tập trung lớn để đối phó được nữa.

Trên chiến trường chính – Điện Biên Phủ-, ông đã quyết đoán đề nghị thay đổi phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc” đã được Thường vụ Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch phê chuẩn. Ông đã phải trải qua những trăn trở cực kỳ khó khăn trước khi đưa ra sự thay đổi phương châm tác chiến này. Mặc dù trận địa đã được bố trí, pháo lớn đã kéo lên vị trí chiến đấu với biết bao công sức và xương máu, nhưng ông vẫn quyết tâm cho đưa pháo xuống, rồi lại kéo lên.

Lần đầu tiên ở Việt Nam và cũng là rất hiếm ở trên thế giới cho kéo pháo lên núi cao, từ hầm trú ẩn chĩa pháo thẳng xuống đầu kẻ địch mà chế áp. Cách đánh này vừa bảo vệ được pháo tránh được sát thương do pháo và máy bay địch gây ra, vừa nâng cao được uy lực và mức chính xác cao, khiến cho ngay viên chỉ huy pháo binh của Pháp là Pirốt phải tự sát vì hoảng loạn và quá bất ngờ.

Sau 56 ngày đêm quyết chiến, quân đội Việt Nam non trẻ dưới sự chỉ đạo của Đảng, Bác Hồ, sự chỉ huy của vị Đại tướng mới ngoài 40 tuổi đã đập tan tập đoàn cứ điểm mạnh nhất từ trước tới nay của quân Pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói “Cùng với Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa, Điện Biên Phủ là “cây cột mốc bằng vàng” đánh dấu sự sụp đổ của chủ nghĩa đế quốc”.

Bước sang cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đại tướng Võ Nguyên Giáp tiếp tục giữ cương vị là người đứng đầu quân đội, cùng với Bộ Chính trị hoạch định những quyết sách chiến lược. Để giáo dục cho quân đội, ông đã viết lý luận về đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, nêu cao tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh.

Trong lúc cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam diễn ra gay go, ác liệt, để tạo thực lực về cơ sở vật chất và lực lượng cho cách mạng miền Nam, ông đã đề xuất với Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh mở đường chiến lược Trường Sơn. Con đường chiến lược Hồ Chí Minh đã hình thành từ đó, đã tiếp sức cho cách mạng miền Nam và tiến thẳng đến dinh lũy của kẻ địch vào ngày toàn thắng.

Khi Mỹ đưa quân vào miền Nam tiến hành “chiến tranh cục bộ”, bộ đội Tây Nguyên đã đề ra chiến thuật “chốt kết hợp với vận động”. Khi đem chiến thuật này ra Bắc báo cáo đã được Đại tướng và Bộ Tổng tham mưu sửa lại là “Vận động tiến công kết hợp với chốt”, thể hiện tinh thần tiến công mạnh mẽ hơn. Nhờ đó, mùa đông năm 1967, trong chiến dịch Đắc Tô 1, bộ đội Tây Nguyên đã thành công và hoàn thiện chiến thuật “Vận động tiến công kết hợp với chốt”, mở ra khả năng đánh mới, tiêu diệt những đơn vị quân Mỹ trên chiến trường. Lần đầu tiên ở Tây Nguyên, bộ đội ta đã đánh thiệt hại nặng lữ đoàn dù 173 là lữ đoàn cơ động chiến lược của Mỹ, làm cho quân Mỹ bị choáng váng, chùn bước tiến vào căn cứ của ta.

Khi chiến cục đông xuân 1974-1975 bước vào giai đoạn quyết định, thấm nhuần tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị giải phóng miền Nam trong năm 1975 và 1976, trước hết giải phóng Tây Nguyên, ông dùng mưu kế chiến lược thật tuyệt vời: giăng địch ra hai đầu Nam-Bắc chiến tuyến và kìm địch ở Huế, Đà Nẵng và Sài Gòn, Quân đoàn 2 kìm giữ địch ở Huế – Đà Nẵng, Quân đoàn 4 đứng chân ở Đồng Nai – Bắc Sài Gòn, kìm giữ địch ở Sài Gòn và để địch sơ hở Tây Nguyên.

Khi đã giữ chặt được sư đoàn dù và sư đoàn thủy quân lục chiến ngụy – là những lực lượng cơ động chiến lược của địch ở hai đầu Nam-Bắc – thì đó là thời cơ để ta tiến công địch ở Tây Nguyên. Điều hay hơn nữa, để phá vỡ Tây Nguyên một cách nhanh chóng, chuyển hóa cả thế và lực, ông đã bất ngờ tăng thêm cho lực lượng ta ở Tây Nguyên hai sư đoàn nữa. Tây Nguyên từ chỗ có 2 sư đoàn trở thành có 4 sư đoàn, đã trở thành một quả đấm chủ lực mạnh.

Ngay khi chuẩn bị giải phóng Tây Nguyên, ông cũng đã phán đoán đến khả năng: Nếu địch bị thua đau ở Tây Nguyên, chúng có thể sẽ rút chạy về co cụm ở đồng bằng. Quả đúng như vậy, từ đó ông đã chỉ đạo chiến dịch gối đầu chiến dịch Huế-Đà Nẵng và kế tiếp chiến dịch Hồ Chí Minh với thế đánh địch “như chẻ tre”.

Thời cơ lịch sử đã đến, với sự nhạy bén và quyết đoán của nhà chiến lược quân sự, ông đã chỉ huy các mũi tiến công của đại quân ta bằng mệnh lệnh: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng giờ từng phút xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam, quyết chiến và toàn thắng”. Mệnh lệnh của ông vừa là tiếng kèn xung trận vừa là chiết xuất của một tư duy quân sự thiên tài trước thời khắc hệ trọng lịch sử của dân tộc.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã tiếp thu và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh và kế thừa những truyền thống tinh hoa của dân tộc, trí tuệ dân tộc. Ông có đóng góp to lớn vào kho tàng lý luận quân sự Việt Nam. Võ Nguyên Giáp là một vị tướng chỉ huy có tài thao lược, trí tuệ quân sự, mưu kế chiến lược, lý luận quân sự sáng tạo được lãnh tụ Hồ Chí Minh giáo dục, rèn luyện và được cuộc chiến tranh cách mạng hun đúc. Ông là một vị tướng của nhân dân, vị tướng của quân đội cách mạng.

Phương Dung (tổng hợp)

Lộ tẩy


Truyện của Octavus Roconhen (Mỹ)


Minh họa của Lê Tiến Vượng.

Mary đưa cặp mắt lo lắng nhìn Johnny. Cô biết, chồng cô đang phải nhận một nhiệm vụ hết sức khó khăn: Đi đón Tex Graham - bạn cũ nhưng đồng thời là kẻ đang bị truy nã vì tội cướp của giết người. Từ ngày ra trường, Tex Graham và Johnny Norton chưa một lần gặp nhau. Bởi vậy, y không biết người bạn thời phổ thông của mình hiện đang là... cảnh sát. Đây chính là "lợi thế" mà FBI muốn khai thác để đưa Tex vào bẫy.


- Vai trò của anh là nhận diện Tex cho FBI. Bên ngoài, hắn có thể cải trang khác đi so với ảnh nên có thể anh em Văn phòng địa phương khó nhận diện.

Để phối hợp với Johnny, đại diện FBI nói họ sẽ cử người bám sát anh và sẽ liên lạc với anh khi cần thiết.

Trời vừa sẩm tối, Johnny cùng Mary đánh xe ra sân bay đón Tex.

- Em nhớ phải hết sức tự nhiên, đừng để hắn cảm thấy như em đang chờ một chuyện gì đó sắp xảy ra - Johnny dặn vợ.

- Liệu có gì trục trặc không anh? - Mary lo lắng.

- Em yên tâm. Tex không biết những người mà FBI bố trí để đón bắt hắn đâu. Họ sẽ xuất hiện vào lúc hắn không ngờ tới.

Sân bay sáng choang. Khi vợ chồng Johnny bước vào bên trong, có một người đàn ông tóc đen, phong thái rất tự tin lao nhanh về phía họ. Người này ôm chầm lấy Johnny, lắc mạnh.

Sau màn chào hỏi, giới thiệu và bộc lộ tình cảm lâu ngày gặp lại, Johnny hất cằm hỏi:

- Phải ăn cái gì chứ? Có một nhà hàng khá hay, ở gần đây thôi.

- Tao chỉ ở đây đến 2 giờ sáng là phải đi. Mày bằng lòng để bà xã trực tiếp làm cho tao một bữa được không?

Mặc dù Johnny thoái thác rằng vợ mình không có dự định vào bếp tối nay, song Mary, trước sự khẩn nài của Tex, đã đáp rằng cô sẵn sàng làm một bữa thết hắn. Cô mời Tex về nhà mình và nói, trên đường cô sẽ ghé siêu thị mua bia và thực phẩm. Johnny hiểu ý định của vợ nên cũng ưng thuận.

Thấy một siêu thị còn mở cửa, Mary ra hiệu dừng xe. Cô bảo Johnny và Tex ngồi chờ, cô vào một lát rồi ra ngay.

Trong cabin điện thoại phía sau siêu thị, Mary gọi về đồn cảnh sát, xin gặp trung úy chỉ huy. Sau khi nghe cô xưng danh và nêu diễn biến sự việc, viên trung úy nói:

- Tôi sẽ liên lạc gấp với đội đặc nhiệm. Họ sẽ bao vây nhà ông bà ngay sau khi ông bà và Tex vào trong.

Mary thông báo là có thể Tex mang theo súng, trong khi vợ chồng mình thì tay không. Viên trung úy động viên: "Chúng tôi sẽ cử thêm người hỗ trợ nhóm của FBI. Bà đừng quá lo: Họ sẽ không xông vào nhà ông bà và nổ súng khi trong đó có một người đàn bà chân yếu tay mềm đâu". Viên cảnh sát cũng không quên dặn Mary tìm cách ra khỏi khu nhà, như lấy cớ đi đổ rác chẳng hạn. "Phải hết sức cẩn thận, tên Tex này ranh ma lắm đấy".

Về đến nhà rồi, Mary xoay sang làm bếp. Tex vừa châm thuốc hút vừa ôn lại cùng Johnny những chuyện xa xửa xa xưa.

Bữa ăn được dọn lên. Lúc này Johnny xem chừng đã rất nóng ruột. Chỉ ít giờ nữa là tới thời khắcTex nói hắn phải lên đường. Vậy mà vẫn không thấy động tĩnh gì từ phía ngoài. Mary rất muốn ra hiệu trấn an chồng, song sợ Tex tinh ranh nhận biết...

Thời gian cứ thế trôi đi...

Sau bữa ăn, Tex bước tới tủ quần áo, nơi Mary treo áo ngoài và mũ của hắn trong đó, lục túi áo lấy thuốc hút. Rồi hắn bước tới bên chiếc cửa sổ mở ra hướng bắc, kéo rèm nhìn ra ngoài, nói: "Chà, hai bạn ở chỗ này cảnh đẹp quá".

Trở lại ghế ngồi, Tex bình thản rút từ túi áo ra khẩu colt 45, nhìn thẳng vào mắt Johnny, hỏi:

- Mày là cảnh sát phải không?

Johnny giả bộ ngạc nhiên, hỏi từ đâu hắn lại có ý nghĩ ấy.

- Là vì tao mở tủ, thấy bộ sắc phục cảnh sát của mày trong ấy, có ghi tên trên ngực áo.

Johnny gượng cười, hỏi lại: "Làm cảnh sát thì tệ lắm sao?".

- Tệ chứ. Nhất là khi bên ngoài còn mấy thằng nữa - Tex gằn giọng - Lúc nãy, qua cửa sổ, tao nhìn thấy một thằng cầm súng. Chắc mày biết tỏng cả rồi...

Johnny đành quay sang khuyên nhủ người bạn cũ, rằng trong bối cảnh này, nên đầu hàng là hơn.

- Là bạn thân mà mày xử sự với tao như thế đấy - Tex đay đả - Nhưng yên tâm, tao không dùng nhà mày làm bình phong đâu. Mà này, Johnny, mày biết chúng "tìm" tao vì cớ gì không?

- Cướp của, giết người.

- Thế thì tao toi rồi - Tex nói, đoạn quay sang hỏi Mary - Có phải cô gọi điện cho chúng lúc dừng xe ở siêu thị?

Mary gật đầu xác nhận.

- Họ bảo sao?

- Họ nói, họ sẽ bao vây nơi này.

Tex ra chiều đăm chiêu.

- Johnny này, mày phải giúp tao ra khỏi đây.

- Không nổi đâu.

- Sao lại không nổi. Chẳng hạn, ngôi nhà có một lối ra mà cảnh sát không hay biết.

- Tex, mày phải hiểu là họ đã nghiên cứu rất kỹ...

- Nếu vậy thì tao chỉ còn mỗi một cách, là mang theo vợ mày ra ngoài. Nếu có chuyện gì tao sẽ bắn cô ấy.

- Tex, mày làm thế làm gì. Sớm muộn mày cũng bị bắt...

- Đó là chuyện sau này. Việc của mày bây giờ là đừng làm điều gì có hại cho cô ấy.

- Tex, thực tình tao không hiểu mày sẽ thoát bằng cách nào...Vậy cứ chờ tao, tao đã nghĩ ra một cách...

- Sao, cách gì?

- Tao sẽ gọi điện cho sếp của họ, bảo họ rút lui.

- Nhưng như vậy thì chúng sẽ bám đuôi tao.

- Hiển nhiên rồi.

Thời gian nặng nề trôi qua. Chợt Tex lên tiếng:

- Johnny, mày hãy thẳng thắn trả lời tao: Mấy thằng dưới kia có phải thám tử không?

Johnny gật đầu xác nhận.

- Mày là cảnh sát mặc sắc phục, có biết nhiều "cảnh sát mật" không?

- Biết ít thôi. Những người trong phiên tuần đêm thì hoàn toàn không biết.

- Thế thì thế này nhé - Tex cắt đặt - Tao sẽ mặc sắc phục của mày, đưa Mary ra bằng cửa sau. Hẳn chúng sẽ nghĩ tao là mày. Nhiệm vụ của Mary là phải đóng sao cho chúng tin điều ấy. Mày nhớ là phải thành thật đấy. Bởi chỉ cần chúng không nghĩ tao là mày thì ắt sẽ có cuộc đọ súng. Lúc ấy, tính mạng Mary thế nào, hẳn mày hình dung được rồi đấy.

Johnny nói với vẻ sầu não:

- Mày bước ra ngoài với Mary, súng chĩa vào lưng cô ấy. Việc ấy quả không hay hớm chút nào.

- Không, tao chỉ sẵn sàng thôi, chứ sao lại chĩa súng lộ liễu vào cô ấy thế được.

Johnny quay sang nói với Mary:

- Em yêu, cứ yên tâm đi đi. Anh sẽ ngồi yên đây. Chờ khi em và Tex đi xa, anh mới phôn về cho đội đặc nhiệm biết...

Tex gật đầu hài lòng: "Càng kéo dài thời gian càng tốt. Và luôn nhớ là Mary đang trong tay tao".

Tex nói rồi khoác lên người bộ sắc phục của Johnny. Johnny nhắc Tex: "Nhớ là đảm bảo an toàn cho Mary đấy nhé". "Yên tâm đi" - Tex đáp.

Mary mỉm cười động viên chồng: "Mọi chuyện sẽ ổn thôi, anh yêu".

Khi Tex và Mary bình thản bước ra ngoài, Johnny đứng như trời trồng. Giờ thì anh chỉ còn nước chờ mong không có việc xấu nào xảy đến với Mary yêu thương.

Im lặng ít giây. Bất chợt vang lên tiếng quát tháo và tiếng xô xát ở ngoài hành lang. Johnny chỉ chờ có thế, anh quáng quàng lao ra ngoài. Ánh đèn pin sáng lóa. Một giọng nói lạ cất lên từ một người đàn ông anh không rõ mặt: "Cứ đứng im đó, ông bạn".

Phút chốc, có bóng phụ nữ nhào tới, quàng ôm lấy cổ Johnny. Rồi tiếng Mary òa lên nức nở: "Johnny... Trời ơi... Johnny".

Có tới gần chục cái bóng di chuyển phía trước. Một người tiến về phía Johnny, chỉ tay về một cái bóng đàn ông bị còng tay ra phía sau:

- Đây có phải là Tex Graham không?

Johnny gật đầu xác nhận.

- Tao cứ ngỡ là mày nói thật, rằng mày không quen biết hai tên gác phía sau nhà - Tex lên tiếng trách.

- Thì tao có nói điêu đâu. Nhưng tao đoán chắc thể nào sự thể cũng sẽ xảy ra như thế này...

- Thế nghĩa là sao?

- Mày tính, nhưng tính chưa hết. Những người đứng ngoài này không biết chuyện gì đang xảy ra trong nhà tao. Họ không biết mày đã phát hiện ra tao là cảnh sát. Vậy thì làm sao họ lại tin được rằng tao mặc sắc phục cảnh sát, trong khi kẻ ở trong nhà mình lại là người đang bị FBI truy nã. Bởi vậy, họ không thể nghĩ mày là... tao được. Mày bị bắt, đơn giản là vì thế thôi.

Trần Hiệp (dịch)

Đừng bao giờ bỏ rơi tình yêu của mình





Câu chuyện bắt đầu với một anh chàng tên Paul và một cô nàng tên Ella.
Cả hai đang là sinh viên đại học.

Một ngày hè, cả hai gặp nhau lần đầu tiên trên sân bóng rổ của trường. Ngẫu nhiên, họ được xếp chơi chung một đội. Hôm đó cả hai đều rất vui.

Lúc về, Ella giả vờ hỏi mượn điện thoại của Paul rồi gọi vào máy mình. Thế là cô có số của Paul. Sau đó, Ella gửi tin nhắn cho Paul, giả vờ như mình nhầm số. Paul trả lời lại. Ella lại gửi tiếp tin nhắn khác. Cứ thế, họ nhắn tin qua lại. Từ nhắn tin, họ chuyển qua gọi điện. Từ nói chuyện trên điện thoại, họ hẹn hò gặp nhau. Và rồi tình yêu đến với họ lúc nào không biết. Cả hai những tưởng, họ sẽ ở bên nhau cho đến cuối đời. Tình yêu của họ sẽ là vĩnh cửu.

Nhưng ba má Ella thì không nghĩ vậy. Họ cho rằng Paul không xứng với Ella và rằng chuyện yêu đương nhảm nhí hiện giờ sẽ phá hỏng tương lai tươi sáng của con gái họ.

Ella không đủ mạnh mẽ để chiến đấu với ba má mình. Ella muốn chia tay. Paul không đủ mạnh mẽ để chiến đấu với Ella hòng cứu lấy tình yêu của hai người. Anh chỉ có một lựa chọn duy nhất: để Ella bước khỏi cuộc đời mình. Ella bị buộc đi du học ở nước ngoài. Vậy là hai người mất luôn liên lạc.

Đau đớn thật đó. Nhưng rồi mọi chuyện cũng qua.

Năm năm sau, lúc này cả hai người đều đã trưởng thành và tự lập, Ella vẫn còn độc thân và Paul thì có người yêu khác, Mary. Nhưng sâu thẳm tâm hồn, Paul chỉ yêu duy nhất một mình Ella thôi. Chỉ là, anh không có cơ hội để nói với cô điều đó.

Một lần, đang cùng Mary dạo phố, Paul vô tình trông thấy Ella. Cô thật sự chỉ đứng phía bên kia đường thôi. Chỉ cách anh có một sải chân. Trái tim anh như ngừng đập. Thật sự không rõ bản thân đang làm gì nữa, anh vùng người chạy băng qua đường, bỏ mặc Mary ở lại phía sau. Bần thần và ngơ ngẩn, anh đã không nhìn thấy một chiếc xe tải đang chạy tới.

Lúc Mary hét lên kinh hoàng cũng là lúc Ella quay người nhìn lại. Cô nhận ra khuôn mặt ấy, ánh mắt ấy. Trái tim cô cũng như ngừng đập.

Ella nhào vào đám đông đang tụ tập. Paul vẫn còn thở. Bên cạnh anh lúc này là Mary, đang nói trong nghẹn ngào: "Paul, anh không được bỏ cuộc... hãy gọi tên em, hãy gọi 100 lần, 1000 ngàn lần... được không anh? Đừng ngừng lại, gọi tên em... đừng nhắm mắt, anh... mở mắt ra nào và hãy gọi tên em..."

Paul được đưa đến bệnh viện. Cả Mary và Ella đều đi theo. Họ không biết nhau. Mỗi người đứng một góc, cúi đầu cầu nguyện.

Vị bác sĩ trở ra, đứng trước mặt Mary và nói: "Cô Ella, chúng tôi xin lỗi, anh ấy đã bỏ cuộc sau khi gọi tên cô được 157 lần. Chúng tôi đã cố gắng hết sức."

Mary gục người khóc nức nở, cô không quan tâm đến chuyện vị bác sĩ ấy đã gọi nhầm tên.

Chỉ có Ella, người run rẩy quỵ ngã nơi góc phòng là thấu hiểu. Cô biết tại sao Paul ngừng lại ở lần thứ 157. Bởi vì đó là ngày họ chia tay nhau. Ngày 15 tháng 7. Năm năm, cô đã bỏ rơi tình yêu của mình đến 5 năm. Và bây giờ nỗi đau gấp ngàn lần ngày trước đang quật vào tim cô. Đau đớn.

Nếu bạn thực sự yêu một người, đừng rời bỏ người ấy. Không bao giờ rời bỏ. Bởi vì có thể bạn không biết được, tình yêu đó có ý nghĩa thế nào với người ấy đâu. Đôi khi nó có giá của cả một mạng người. Hãy trân trọng và giữ gìn tình yêu của mình. Chiến đấu vì nó. Và bạn sẽ không bao giờ hối hận.

Theo HTT

Tản mạn trưa




Con kiến nhỏ cắn vào giấc mơ
bỏ lại trái mận trên cánh tay lười đỏ tấy
đánh thức buổi trưa buồn và ngái ngủ
thoát khỏi mặt trời đè
cơn hầm hập bò ra vườn
thả mát vào đám lá mía quơ tay đồng diễn bài thể dục theo nhịp đếm của gió

con bướm bà… cõng đôi cánh màu lá mạ về thăm…
bàn thờ ông tôi mọt thở
màu cánh linh thiêng hút hồn lũ trẻ
con mèo ngoan nằm hiền trong ý nghĩ
bà về!

Ngày trước bà nói ông hay hóa bướm về nhà
tôi không dám bắt bướm không dám xua đuổi
người già thường dạy cháu con nghĩa nhân bằng câu chuyện cổ
thương bà khóc cả đời
chiến tranh màu lá rụng
không biết ông nằm đâu…

Lũ tò vò linh thiêng như nhà ngoại cảm
khai quật lũ sâu
siêng năng từng ôm đất toan tính
chúng đắp mộ hay đắp nhà?
lũ sâu chết… có phần hay bạc phước?

Rơi vào ý nghĩ tôi
đám kiến nhỏ khiêng nắng trên đường tìm kiếm
thời gian truy điệu xác lá khô

giấc mơ buổi trưa hóa bướm
chiều già
con kiến nhỏ mãi là kiến nhỏ
nghìn năm không lớn nổi mình.

LÀM NGHỆ THUẬT





Nếu quá vội vàng khi tận hưởng thành quả trong một thời đoạn, thì không thể có những sản phẩm nghệ thuật đúng nghĩa và lâu bền. Vì vậy mà con đường nghệ thuật thực sự là một thách thức về nhiều mặt với tất cả những ai dấn thân vì nó.


Đầu tiên, phải khẳng định luôn rằng : cụm từ Nghệ thuật chỉ bắt đầu xuất hiện khi đời sống con người đã tiến đến một ngưỡng văn minh nhất định. Khi những hình ảnh thông thường của đời sống được nâng lên hàng nghệ thuật cũng có nghĩa đời sống được thăng hoa thêm một bậc, cũng có nghĩa con người nhận thức được thế nào là những nét đẹp cuộc đời. Bởi những câu chuyện đời sống thông thường xảy ra chung quanh mỗi con người hàng ngày có khi quá quen dẫn đến nhàm tẻ. Nhưng qua con mắt của người làm nghệ thuật đã chỉ ra vẫn luôn có những nét đẹp ẩn hiện trong những thông thường ấy. Nhờ đó, con người nhận ra cuộc sống là sự chắt lọc những cái đẹp từ bao hình hài cũng ý nghĩa. Người ta sẽ biết yêu nhiều hơn, trân trọng nhiều hơn những cái đẹp mà người ta đã có được. Và có thể tóm lại một câu "Nghệ thuật là sự gom nhặt chắt lọc những tinh túy của cuộc đời và lưu giữ chúng”.

Như đã biết, nghệ thuật có rất nhiều loại hình : văn thơ nhạc họa điêu khắc nhiếp ảnh sân khấu điện ảnh kiến trúc… Đó là những loại hình đã được cô đúc thành một cấu trúc mang tính ngành nghiệp. Bên cạnh đó, có khá nhiều hoạt cảnh đời sống khác cũng mang tính nghệ thuật không kém. Ví dụ như : nghệ thuật ẩm thực, nghệ thuật giao tế, nghệ thuật công sở, nghệ thuật chăm sóc cây cảnh, nghệ thuật cắm hoa, nghệ thuật diễn đàn…Tóm lại, bất kỳ loại hình sinh hoạt đời sống nào được uốn nắn cho chỉn chu hơn, đạt hiệu quả cao hơn, dễ tiếp nhận với cộng đồng hơn đều phải được nâng lên tầm nghệ thuật. Như vậy, nghệ thuật là cuộc sống hàng ngày, nghệ thuật là sự nâng cao nhận thức con người với các vấn đề chung quanh mình, để con người ngày càng biết sống đẹp hơn, lành hơn, và nhiều ý nghĩa hơn, nói một cách khác : nghệ thuật là văn hóa.

Đó là bàn rộng ra cái nghĩa của Nghệ thuật, trở lại dòng tiêu đề "LÀM NGHỆ THUẬT”. "Làm” có nghĩa là công việc thường xuyên, có chủ đích, có tâm huyết, có hướng phát triển lâu dài, có sự cộng hợp cộng hưởng cùng xã hội, là một công cuộc của cả một đời người, là một chặng trình dài mang tên sự nghiệp. Đây chính là những loại hình cô đúc mang tính ngành nghiệp kể trên. Điều đầu tiên nên đề cập đến là : thiên hướng nghệ thuật.

Thiên hướng là bởi, nghệ thuật không phải là sự tự lựa chọn đào tạo một cách lý tính mà được. Đầu tiên là trong con người ấy phải có một đam mê, có năng khiếu, có tình yêu nồng nhiệt với một thể loại nghệ hình sắc. Từ những yêu tố phôi thai ban đầu ấy, được truyền thụ một số kinh nghiệm của người đi trước, được tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để đi sâu dần vào nghiệp. Cộng thêm sự trưởng thành của tư duy, góc nhìn, khuynh hướng, cá tính mà lập thành cái gọi là quan điểm. Nghệ thuật còn là sự sáng tạo dựa trên cơ sở đời sống, Người Làm nghệ thuật thông qua quan điểm của mình mà hình thành nên những chất, tạng riêng, đó gọi là : quan điểm sáng tạo. Cái quan điểm sáng tạo này không chi phối không dẫn dắt được từ ngoại thân, cho dù từ những bậc thầy có bề dày chuyên môn đến đâu nữa thì cũng chỉ là những gợi ý. Nếu răm rắp làm theo một hình mẫu, hoặc chịu ảnh hưởng một khuynh hướng nào đó đến mức rập khuôn, thì đó không thể gọi là sáng tạo nghệ thuật được nữa. Làm nghệ thuật đến mức ngày đêm lăn lê chịu bao nhiêu vất vả thử thách, trả giá những tác phẩm bằng tất cả mọi khả năng có thể, thì đó gọi là lao động nghệ thuật. Đến cái ngưỡng này thì con người và nghệ thuật ấy như nhập làm một. Sản phẩm của nghệ thuật ấy là sự sồng là máu là tâm can là giá trị của người làm ra nó.

Có thể ví người làm nghệ thuật cũng như người leo núi. Leo được đến đâu thì biết đến đấy, có khi ngỡ đã lên được đến đỉnh, nhưng thực chất chỉ là lên được cao hơn một số người mà thôi, vì ngoài núi còn có núi, ngoài bậc thang này còn có bậc thang khác. Vì vậy mà đích thực nghệ thuật không có đỉnh. Sự đánh giá thang bậc chỉ tùy thuộc vào một giai đoạn và một thành phần cảm quan tương ứng. Nên có thể rộ lên trong một thời gian rồi dần dần chìm xuống và mất hút. Có một góc độ khá phi lý của nghệ thuật là chỉ số đám đông. Cho dù ai cũng biết, đám đông chưa chắc đã là đúng đắn, đã là chuẩn xác. Nhưng cứ được một con số kha khá tung hô thì nghiếm nhiên có thể xem đó là một sản phẩm nghệ thuật đã gặt hái được thành quả. Và rồi cũng kha khá con số ấy rụng rơi rất nhanh. Chính xác mà nói, thì giá trị bất biến của một sản phẩm nghệ thuật là độ bền theo thời gian. Sự sàng lọc tự nhiên qua nhiều thế hệ là sự khẳng định xác thực nhất về một thang bậc giá trị. Mặc dù vậy, cuộc sống luôn bày ra những bi hài quanh những ảo thực của những giá trị. Và con người, dù thế nào vẫn bị cuốn bị ảnh hưởng không ít vào những gì mang tính thời đoạn.

Nghệ thuật là sự tinh lọc cuộc sống và quay trở lại phục vụ cuộc sống. Mà cuộc sống luôn là sự hoàn thiện không ngừng cho con người trên chặng trình chinh phục tầm cao về nhân cách, tính nhân văn và sự nhân bản. Là những điều xây dựng nên một thế giới người đúng nghĩa. Loại dần đi những bản năng sống một cách dục vọng và hiểm ác. Chính vì thế mà sản phẩm nào không đưa ra được một thông điệp tích cực và mỹ cảm nhân tính thì không thể xem đó là sản phẩm nghệ thuật. Điều này tùy thuộc rất then chốt vào bản thân người tạo ra nó. Người làm nghệ thuật chân chính không chỉ có tài mà còn phải có tâm có tầm. Phải nhận thức một cách sâu sắc rằng : những gì mình làm ra sẽ có xúc tác thế nào vào cuộc sống chung. Không thể tùy tiện ném ra một hình thù nham nhở rối mù lem luốc làm vẩn đục những tâm hồn, làm băng hoại những trái tim và bảo đó là nghệ thuật. Cho dù cuộc sống vẫn luôn phải chịu lắm ngổn ngang bởi sự đa diện đa tầng, nhưng sẽ bớt đi được nhiều nhiều nghịch cảnh, sẽ bớt đi được nhiều nhiều mù tối, nếu được thụ hưởng những sản phẩm nghệ thuật đúng nghĩa và có tầm.

Người làm nghệ thuật đương nhiên phải có cái nhìn sâu hơn xa hơn về một số hoạt cảnh đời sống hơn nhiều người. Thấy được những góc độ bất cập của vấn đề và dùng chuyên môn của mình phản ảnh đồng thời gửi gắm một ước vọng. Hoạt động nghề trải dài theo tâm tưởng tuổi tác tinh túy của bản thân, bề dày cả số lượng lẫn chất lượng đến một dộ cao tương dối nào đó thì được gọi là "Nhà”. Khi công luận đã vô hình chung thừa nhận cấp bậc "Nhà” này, thì đã có thể xem đó là sự chuyên nghiệp. Làm nghệ thuật đúng nghĩa không thể thiếu sự chuyên nghiệp. Có chuyên nghiệp thì mới có thể cho ra một tác phẩm đắt. Có chuyên nghiệp thì mới khẳng định được cái gọi là tầm vóc của một "Nhà”. Và độ chuyên nghiệp càng cao càng sâu thì sự bảo đảm độ bền của giá trị sản phẩm càng tin tưởng và thuyết phục. Để đạt được đến độ chuyên sâu như thế thì người Lam nghệ thuật cần có một kim chỉ nam "MINH-TĨNH-ĐỊNH”. Minh là cái nhìn sáng, việc làm sáng, lối sống sáng. Tĩnh là đủ một độ trầm để nhận thức cho ra cốt lõi được vấn đề mà mình muốn chuyển tải, đủ độ vững để thoát khỏi những khen chê miệng lưỡi người đời, đủ độ khoan hòa để lướt qua những tị hiềm đố kỵ. Định là hiểu rõ chính mình, bản chất khả năng tính cách, hiểu rõ môi trường mình đang cộng đoàn, các thành phần tham gia, xu hướng và văn hóa, hiểu rõ tính ảo thực giả chân để giữ mỉnh tỉnh mà không lạnh, mê mà không sa. Khi cầm chắc được kim chỉ nam này, người Làm nghệ thuật sẽ có đủ trí lự và phong thái tự tin để đi đến hết con đường yêu mê của mình.

Vì những lẽ trên mà người làm nghệ thuật luôn được xã hội coi trọng. Đáng tiếc là có một số người, khi đã tạm đạt được một chút thành tựu tương đối nào đó, thì bỗng cảm thấy mình sao mà quá tài ba, quá lộng lẫy, quá vĩ đại, và họ tỏ ra dị hợm khó coi, có những hành xử kệch cỡm lô lăng hách dịch vô lối. Họ không nghĩ rằng, họ tự đánh mất giá trị của họ, họ không nghĩ rằng một chút thành công nho nhỏ của họ chưa là gì cả so với quả đất tròn bao la này, họ chỉ biết có một thứ ảo giác sướng rơn người dang nâng họ lên cao cao mãi, họ cảm thấy cái mũ hào quang của họ sao mà chói sáng đến mê man, để rồi, sẽ đến một lúc, họ bắt buộc phải nhìn thấy mình đang ngồi xệp trong khi có nhiều nhiều tượng đài thực sự đã mọc lên ngay bên cạnh họ. Nếu quá vội vàng khi tận hưởng thành quả trong một thời đoạn, thì không thể có những sản phẩm nghệ thuật đúng nghĩa và lâu bền. Vì vậy mà con đường nghệ thuật thực sự là một thách thức về nhiều mặt với tất cả những ai dấn thân vì nó.

ĐÀM LAN

Tự do để mơ






J.M.G. Le Clézio

Chúng ta có thể bắt đầu câu chuyện lần này xung quanh khoảng thời gian năm 1867, khi chàng thanh niên Isidore Ducasse – khi ấy hãy còn chưa trở thành Bá tước de Lautréamont – chuyển đến căn phòng đã có sẵn đồ đạc nằm bên bờ phía Bắc sông Seine và năm 1868, khi chàng trao bản thảo “Khúc ca đầu tiên” của thi phẩm Les Chants de Maldoror (Những khúc ca của Maldoror) cho nhà xuất bản Balitout. Hành động này, có lẽ là một trong những hành động quan trọng nhất của văn học và tư tưởng hiện đại, đã mở ra một câu chuyện sử thi về những giấc mơ và kết thúc bằng cái chết và sự quên lãng. Trên thực tế, trong khoảng thời gian từ 1868 đến ngày 24-11-1870, khi chàng thi sĩ trẻ qua đời ở tuổi 24 trong cô độc và bị ruồng bỏ giữa giá lạnh mùa đông Paris, câu chuyện này đã mở ra một trong những giấc mơ cháy bỏng nhất và cũng bất an nhất mà thơ ca từng biết đến – một giấc mơ đã thổi bùng lên ngọn lửa thiêu rụi cả chính kẻ nằm mơ, trong sự im lặng và lãnh đạm của những người xung quanh chàng, một giấc mơ mà sóng từ trường của nó sẽ không tác động đến những người đương thời với chàng mà phải đợi đến mãi sau này, nó gợi ta liên tưởng đến một vì sao, giữa bạt ngàn các vì sao, mà vụ nổ thầm lặng để hình thành nó dường như còn đi trước cả thời gian.

Tự do của những giấc mơ: nghe như nghịch lý, bởi những giấc mơ là hình thức biểu hiện tự do nhất của đời sống. Song chính thứ tự do này lại đáng sợ, vì nó là mối đe dọa đối với lý trí và trật tự đạo đức – đấy cũng là lý do tại sao những cấm kỵ, kiểm duyệt và khuôn phép xã hội từ lâu đã không ngừng tìm cách để che đậy hay trấn áp nó. Những giấc mơ là tự do, nhưng chúng lại bị khóa chặt trong nhà ngục của sự câm lặng, bị ném vào hầm tù của ký ức. Những giấc mơ là ngọn lửa bị giấu kín mà con người phải tìm cách lấy lại để phát lộ phía khác của bản ngã chính mình, để đạt đến một sự tự do đích thực.

Trong bầu không khí lạnh nhạt và đạo đức giả của châu Âu thế kỷ XIX, sự hy sinh của Lautréamont là một cái gì đó thực sự nghiệt ngã và gây tuyệt vọng, nhưng điều đó cũng cho phép chúng ta nhìn ra được lỗi lầm đã làm tha hóa tinh thần của các xã hội văn minh ngay khi Thời đại Công nghiệp mới chớm bắt đầu. Bằng sự vô tâm, quên lãng của mình, toàn bộ xã hội tư sản thế kỷ XIX đã ném Lautréamont về một thế giới khác, theo cả hai nghĩa của khái niệm này: nó trả chàng về thế giới nơi chàng đã được sinh ra – Montevideo, lãnh thổ bên ngoài nước Pháp, mộ địa của những kẻ bị trục xuất; nhưng đồng thời nó cũng ném chàng trở về một thế giới có trước văn minh, một thế giới nguyên thủy, bạo liệt, huyền bí, nơi mà chủ nghĩa duy lý cũng như triều đình của các ông chủ ngân hàng không thể đặt niềm tin. Nó ném trả chàng về với những giấc mơ, có nghĩa là, về phía quá khứ thẳm sâu nhất của loài người.

Thực chất, đó chính cuộc hồi hương về chính cội nguồn của chúng ta. Sự tự do để mơ, và để sống trọn những giấc mơ đời người, đưa chúng ta trở về một thế giới khác, của các xã hội tiền sử (hiểu theo nghĩa của Lévi-Strauss về khái niệm). Chẳng hạn, trong các xã hội của người da đỏ ở Tân thế giới, cấu trúc xã hội, trong phần lớn các trường hợp, là cấu trúc của một “nền dân chủ lỏng lẻo”, được hình thành trên cơ sở của sự công bằng và sự tự đủ của gia đình, nơi từng cá nhân có thể cùng lúc là chiến binh, thầy tế, thấy thuốc, nghệ sĩ hay người hùng biện. Các xã hội của người da đỏ ở Băc Mỹ (bộ lạc người Iroquois, Sioux, Comanches, Apaches), ở những khu rừng cận nhiệt đới (các bộ lạc ở Carib, Tupinamba và Amazonia) và ở Nam Mỹ (người da đỏ Araucan sống trên những cánh đồng hoang) đều chứng thực cho sự tổng hòa trọn vẹn này của con người, điều dường như có trước những sự chuyên biệt hóa trong các tổ chức xã hội có sự tôn ti và thiên về tính ổn định (người Mexica, Maya, Quechua). Nhưng tầm quan trọng của sự tổng hòa trọn vẹn này của con người còn thể hiện rõ nét thậm chí ngay ở những xã hội đạt đến trình độ tổ chức cao hơn cả. Nghi lễ tôn giáo của người da đỏ châu Mỹ đều thể hiện những ảnh hưởng này – sự huyền bí, các khái niệm về thời gian quy hồi và mang tính chu kỳ, khả năng con người đồng nhất với thần linh – mà theo một nghĩa nào đó, những ảnh hưởng này đã hình thành nền tảng của một thứ triết học “hoang dã”, thứ mà những người châu Âu chinh phục lục địa này sẽ cố gắng phá hủy (và họ đã thành công).

Chính từ những giấc mơ, những nền văn minh nguyên thủy của châu Mỹ đã hình thành nên những kiến giải của mình về sự hiện sinh. Đối với người Mexica cổ đại, cũng như người Tupi-Guaranis hay người Quechua, giấc mơ là hành trình của linh hồn bên ngoài thân xác, cho phép con người liên lạc với thế giới bên kia và tri thức tương lai. Các quốc gia của người Mexica, Purecha, Carib và Quechua bị quấy rối bởi các giấc mơ (hay các điềm mộng) đến nỗi họ không thể tìm được sức mạnh để kháng cự lại những kẻ xâm lược đến từ phương Đông mà việc họ xuất hiện đã được báo trước trong các điềm mộng. Khi những người Tây Ban Nha đặt chân đến Mexico, những điềm báo được nhân bội: hình ảnh của cái chết, của những người bị xiềng xích, những hồ máu, sao chổi và hàng bầy côn trùng. Trong bộ sách Chilam Bilam của người Maya Yucatec hay trong những câu chuyện về các vị thần linh hiện thân trên núi Xanoata Hucatzio được kể lại trong sách Relación de Michoacán, những giấc mơ xa xưa nhất đều kết hợp với những lời tiên tri gặp gỡ với hiện thực, nhưng rồi cái hiện thực ấy chỉ dẫn đến sự hủy hoại những con người mơ.

Những nhà văn Tây Ban Nha đầu tiên đã nắm bắt được cái khoảnh khắc cuối cùng của cái xã hội của những người mơ mộng, thể hiện trong những nghi lễ, những điệu vũ và hình thức hiến tế lạ lùng của họ. Relación de Michoacán, cuốn biên niên sử của người da đỏ Purepecha, cho ta thấy cả một cộng đồng hoàn toàn sống theo những điềm báo và giấc mơ của mình. Quyền lực của các ông vua và số phận của họ phụ thuộc vào những giấc mơ của họ, trong đó, những vị thần tối thượng (Curicaueri, thần lửa, Xaratanga, nữ thần mặt trăng) hiện ra trước mặt họ và trở thành liên minh. Cha Bernandino de Sahagún mô tả lại: trong những lễ hội tàn nhẫn và đẫm máu của người Aztec, có cả sự hóa thân một cách bí ẩn của các vị thần và họ cùng múa nhảy giữa mọi người, như trong lễ hội ixnextiua: “Họ tin rằng trong lễ hội, tất cả thần linh đều múa nhảy, do đó, tất cả dân bản địa, những người tham gia múa nhảy, đều phải khoác lên mình những bộ trang phục khác thường rất đa dạng, có người thì hóa trang thành chim, người khác thành thú, một số thì thể hiện mình như là loài chim ruồi trong khi một số khác thì khoác bộ cánh giống như loài bướm, có người thì ăn mặc trông giống như loài ong mật đực trong khi có người giống như ruồi và người khác thì lại giống như bọ cánh cứng; có người thì cõng trên lưng một người đang ngủ mà họ bảo, người đó tượng trưng cho giấc ngủ.”

Cái xã hội huyền bí ấy, cái xã hội của những cơn mơ và điềm báo, sẽ bị phá hủy bởi văn minh phương Tây dưới cái tên chủ nghĩa duy lý. Đối với những người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha xâm chiếm thuộc địa, và sau này là người Anglo-Saxon, người Pháp, những xã hội được tổ chức theo cái huyền bí này bị xem là lỗi thời. Chúng nhất thiết phải được chuyển hóa, phải bị ràng buộc với cái hiện thực, bị hợp nhất vào những cơ sở hợp lý của khả năng sản xuất và quan hệ nhân quả mà từ những cơ sở ấy, thế giới hiện đại được xây dựng lên. Đây cũng sẽ là vai trò của nhà thờ Thiên Chúa giáo: nhà thờ đã chia sẻ cùng đạo quân xâm lược thuộc địa những ảo ảnh hàng thiên niên kỷ của mình cùng cái ý chí muốn phá hủy những khái niệm tôn giáo và triết học đối lập với nó.

Như ta đã biết, đối với trí tuệ thời kỳ Phục hưng, niềm tin vào sự huyền bí và những giấc mơ bị xem là phi lý, phi logic. Được xây dựng trên nền tảng của khoa học, trên cơ sở sự quan sát, thứ chủ nghĩa nhân văn mới hình thành chỉ có thể kết án những khía cạnh mờ tối của tâm hồn con người, bởi những tư tưởng mới xuất hiện thực chất là phản ứng đối với những niềm tin và sự mê tín ở thời kỳ Trung cổ. Để khẳng định “con người” mới này, cần thiết phải giết chết con người cũ, vốn sống trong những giấc mơ và huyễn tưởng.

Thời đại mới cũng là thời đại của những quyền lực tuyệt đối: vua Charles V, Francis I và Henry VIII, mỗi vị đại diện cho sự tối cao của quyền lực thực sự, của một sức mạnh được vũ trang và của những triều đình mang bản chất thương gia. Tuy nhiên điều lý thú là: chính thời kỳ này, thời kỳ mà những quyền lực chính trị được đẩy đến cực điểm – quyền lực vô biên của vàng, bạc; những đội tàu của người Tây Ban Nha; Thánh chế La Mã; thế giới bị phân chia giữa Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha; sự khai sinh đế chế Anh quốc; sự phát đạt của việc buôn bán nô lệ, công cuộc thuộc địa hóa châu Mỹ – cũng là thời kỳ mà không gian của sự hồ nghi, những giấc mơ, sự bí nhiệm lại trở nên rộng lớn nhất, phức tạp nhất. Tại Pháp, những phiên tòa lớn nhất kết tội các phù thủy, ở Louvain và Pau, đã diễn ra trước hết dưới triều vua Louis XIII, sau đó là triều vua Louis XIV. Thời kỳ đỉnh cao của Tây Ban Nha thực chất tương ứng với thời kỳ Baroque, cũng là thời kỳ của sự hồ nghi, tra vấn.

Những giấc mơ của thời Baroque là sự tra vấn hiện thực, quyền lực, tiền bạc và đánh dấu sự xuất hiện của một triết lý tương đối luận nào đó (như giờ đây, trong một thời đại Baroque mới – thời đại của chính chúng ta, có thể nói vậy). Thời gian, giá trị, ái tình, những điều thiện, những hoan lạc của đời sống chúng ta chỉ là phù du. Có ai lại không nhớ đến những câu thơ huyền nhiệm của Francisco de Quevedo: “Ngày hôm qua đã qua; ngày mai thì chưa tới;/ Ngày hôm nay cứ trôi đi mà không dừng lại dù chỉ một khoảnh khắc; Tôi là cái tôi đã là và cái tôi sẽ là và một cái tôi đang là mỏi mệt”.

Hay những dòng văn bí ẩn và xúc động của Luis de Góngora

Dẫu để ganh đua với mái tóc em, vàng đã phải đánh bóng mình dưới ánh mặt trời trong vô vọng; dẫu, với sự kiêu kỳ, giữa cánh đồng bao la, em nhíu mày nhìn bông huệ trắng; dẫu bờ môi em hút sự thèm khát của nhiều cặp mắt hơn những bông cẩm chướng hé nở buổi ban mai; và dẫu cổ em nuột nà, thanh tú hơn cả pha lê: thì em ơi, hãy cứ hân hoan đi, này cổ, này tóc, này môi, này mắt, này mày trước khi tuổi trẻ vàng son của em, khi bông hoa huệ, hoa cẩm chướng, ánh pha lê biến thành bạc hay thành một cành violet nhầu nhĩ; hãy cứ vui sướng đi trước khi em và tất cả những thứ trên hóa thành đất đai, cát bụi, sương khói, thành chiếc bóng, thành hư vô.

Baroque không đơn thuần chỉ là một phương thức văn chương hay một trường phái. Nó là một thứ triết học, một khuynh hướng tự nhiên của con người, là sự biểu hiện phần u uẩn trong con người, của những giấc mơ, những âu lo nơi anh ta. Trước những bài thơ của Gongora, Quevedo, trước cả La vida es sueno gần một trăm năm, khi thế giới Aztec đang sắp sửa biến mất, Netzahuacoyotl vĩ đại, thủ lĩnh người Acolhua từ Tetzoco, cũng đã hát lên những khúc bi ca và thán ca tương tự, mà ta sẽ tìm thấy sự đồng điệu của chúng với thơ ca lãng mạn Anh và sáng tác của Novalis sau này. Ở đây, người ta cũng tìm thấy những đề tài về sự mong manh của hạnh phúc, thời gian, vẻ đẹp của tuổi thanh xuân, cái chết, sự hủy diệt, sự trống rỗng chung cuộc.

Hãy mặc những bông hoa lên người
Trong những bông hoa có màu của mặt hồ lấp lánh
Như mặt trời
Những bông hoa của loài quạ
Hãy đứng trên mặt đất này, tự điểm trang cho mình
Chỉ ở đây thôi
Chỉ trong thoáng phút giây qua
Những bông hoa, chỉ một chút thôi
Chúng ta đã chuẩn bị mang chúng đi
Về quê của thượng đế
Cõi phi thân xác

Baroque không khẳng định điều gì khác ngoài cái quyền được mơ; nó chẳng nói gì ngoài sự ràng buộc trước đây của con người với cái siêu nhiên – đấy chính là lý do vì sao cái quyền ấy lại được xem là lực chi phối nền văn minh.

Chính ở thời đại chủ nghĩa duy lý lên ngôi – thời kỳ chủ nghĩa cổ điển – những giấc mơ phát lộ quyền năng của mình. Triết học Descartes cũng có cái bóng của nó, mà những giấc mơ của Descartes và khoảnh khắc bừng ngộ của Pascal có thể làm chứng. Những trang viết về cái phi duy lý cực kỳ dồi dào ngay trong những năm mà bộ Bách khoa toàn thư được biên soạn. Ta có thể dẫn ra ở đây không chỉ những trước tác của Saint-Martin và Swedenborg mà còn cả những truyện kỳ ảo ở giai đoạn này: Jacques Cazotte với tác phẩm Diable amoureux, những bản dịch Ngàn lẻ một đêm, tiểu thuyết Gothic Anh của Beckford và Lewis, tiểu thuyết Gothic Đức của Tieck, và đôi khi là những truyện kể phi lý, thường xuyên gây rối trí trong tuyển tập truyện thần tiên nổi tiếngCabinet des Fées, được xuất bản ở Amsterdam cuối thế kỷ XVIII.

Là con đẻ của thời kỳ chiến tranh châu Âu và cuộc phiêu lưu của Napoleon, chủ nghĩa lãng mạn cũng mơ về một xã hội khác. Làn sóng thứ hai của chủ nghĩa lãng mạn (làn sóng sẽ nuôi dưỡng tâm hồn của chàng thanh niên Isidore Ducasse) là thời kỳ ra đời của các đế chế công nghiệp vĩ đại, các nền cai trị thực dân, các ngân hàng và cùng lúc là thời đại của những giấc mơ, của sự quay về nguồn cội, sự phục sinh cái huyền nhiệm và chủ nghĩa thần bí. Nếu hầu hết các giấc mơ, như Vladimir Propp lưu ý trong luận văn của ông nghiên cứu về cội nguồn của truyện cổ tích Nga, đều có sự gắn bó với các tổ chức bộ lạc hay thần quyền của các xã hội loài người – thí dụ, con rồng là biểu tượng của sự chuyên chế, chuyên quyền – thì sự tưởng tượng của văn học kỳ ảo thể hiện một yêu cầu, một cuộc đấu tranh cho sự tự do để mơ.

Thời đại lãng mạn cũng là thời đại lên ngôi của thuyết về Đấng cứu thế, ở châu Mỹ, châu Đại dương, châu Phi. “Sóng từ trường của giấc mơ”, như Paul Eluard sau này gọi tên, lan rộng trên toàn thế giới, đưa những người dân bị thống trị đối chọi với những ông chủ của thời đại công nghiệp. Ở Bắc Mỹ, những người mơ da đỏ – người Sioux, Arapaho, Apache – đã dẫn những quốc gia man dã cuối cùng vào cuộc chiến tổng lực chống lại những người châu Âu xâm lược, những kẻ có phương tiện vũ khí hiệu lực hơn hết thảy: tiền. Những giấc mơ nhảy múa, những hồn ma nhảy múa, những hình ảnh, những mộng mị đặt những người dân thuộc thế giới nguyên thủy vào thế đối chọi với thế giới hiện đại và đưa họ đến một kết cục duy nhất có thể có: cái chết. Đó là ví dụ về một sự đương đầu toàn diện giữa những ý niệm của thế giới hiện đại – thuyết vị lợi, logic, thuyết quyết định luận – và những niềm tin trước đấy vào ma thuật và thế giới bên kia. Giấc mơ là cuộc khởi nghĩa nhằm đến một thứ tự do mới, tự do của cá nhân chống lại những cấm kỵ của luân lý ở thời kỳ cổ điển, chống lại trật tự logic; đó là phương tiện để con người tiệm cận một nhận thức mới về tồn tại – chính là cái trạng thái tổng hòa vốn là giá trị quan trọng nhất ở các xã hội nguyên thủy. Ý nghĩa sâu xa của hành động truy cầu của Lautréamont chính là ở chỗ ông đã khuấy động cuộc nổi dậy của những giấc mơ.

Sau Lautréamont và Nerval, các nhà siêu thực cũng bảo vệ cho quyền được mơ; sự tự do để mơ khó có thể nào được xem như một thứ tự do nhẹ nhàng. Đối với các nhà siêu thực, những giấc mơ còn hơn cả một đề tài thơ ca hay một phương thức lấy cảm hứng. Nó là vấn đề về một kinh nghiệm tổng hòa, vừa thuộc bình diện thể chất, vừa mang tính chất siêu hình, mà từ đó, con người sẽ hiện lên thật khác biệt, sẽ được biến đổi. Chính vì lý do này, họ đã nói đến một “cuộc cách mạng siêu thực”.

Vì thế, vấn đề gây tranh cãi nhất bây giờ là sự đảo ngược hoàn toàn các giá trị (một ý hướng được sinh ra từ chủ nghĩa hư vô và sự phi lý của những cuộc chiến chết chóc, man rợ nhất mà con người từng biến đến). Như Andre Breton đã phát biểu trong Tuyên ngôn siêu thực thứ nhất (1924):

“Bắt trí tưởng tượng trở thành nô lệ – cho dù điều này đồng thời có nghĩa là loại bỏ đi cái thường được gọi là hạnh phúc – có nghĩa là phản bội tất cả cảm quan về sự công bằng tuyệt đối bên trong con người. Chỉ mình trí tưởng tượng mới có thể đem lại cho tôi một gợi ý nào đó về cái có thể là, và điều này đủ để vứt bỏ được, ở một mức độ nhẹ nhàng, những huấn thị khủng khiếp; cũng đủ để cho phép tôi dâng mình cho nó mà không sợ hãi phạm sai lầm (cứ như thế làm vậy thì sẽ phạm phải sai lầm còn lớn hơn nữa). Từ đâu mà tình trạng này lại trở nên tồi tệ; từ đâu mà tinh thần mất đi sự kiên định của nó? Đối với tinh thần, chẳng lẽ cái khả năng phạm lỗi lại còn không ý nghĩa bằng sự tùy tiện của những cái đúng?”

Sự tự do của con người để kiếm tìm và bộc lộ bản thân mình qua những hình ảnh và giấc mơ đã hàm ý rằng đó là những mối nguy đối với các giới hạn và vì thế, các nhà duy lý, các tổ chức theo thuyết tiến bộ của thế giới hiện đại, từ phong trào cải cách ở châu Âu thế kỷ XVI trở đi, đã không thể cho phép nó được tồn tại. Con người – “kẻ mơ mộng cuối cùng”, nói như Breton, hay “kẻ mộng mơ ở độ tuổi dậy thì” như chữ của Lautréamont, trở thành nạn nhân bởi chính kẻ sáng tạo nên mình – buộc phải chọn lựa cho mình con đường để bộc lộ mình, phải chọn lựa phương tiện để đạt đến tự do của mình. Để trải nghệm thứ kinh nghiệm tột cùng này, có khi con người phải đánh đổi cả sinh mệnh của mình, như thi sĩ Roger Gilbert-Lecomte, người sáng lập phong trào “Le Grand Jeu”; như Nerval hay như Antonin Artaud, người theo truyền thống của Van Gogh, đi đến “tự sát bởi xã hội”.

Chắc chắn, một trong những nhà tiên tri cuối cùng của thế giới hiện đại, Antonin Artaud, thi sĩ-đạo sĩ trác việt, đã đẩy những truy vấn nội tâm của mình đến bờ vực của sự điên rồ khi viết: “Trong khi những người khác trình bày tác phẩm của họ, tôi không biết làm gì hơn là thể hiện tinh thần của mình/Đời là những câu hỏi khắc khoải, nung nấu/Tôi không thể hình dung được tác phẩm lại tách rời cuộc đời/Tôi không thích những sáng tạo tách biệt. Cũng như không thể tưởng tượng được trạng thái biệt lập của tinh thần. Mỗi tác phẩm của tôi, mỗi biểu đồ của tôi đều được tượng hình từ những giọt nước rỉ ra từ khối băng giá của tâm hồn tôi cô độc”. Artaud đã diễn tả trạng thái tổng hòa của cái kinh nghiệm hiện sinh này – mà bằng kinh nghiệm ấy, con người là kẻ tiếp nhận những lực huyền bí và phi thực – qua những câu thơ: “Những niềm vui và những cơn giận dữ, cả bầu trời/trùm lên chúng ta như một đám mây/Một cơn lốc của những đôi cánh hoang dã/đập ào ào cùng với những tiếng kêu tục tĩu.” Sự tự do cháy bỏng, sự tự do mang tính khiêu khích ấy đã dẫn thẳng Artaud đến Mexico, đến xứ sở của những người da đỏ Tarahumara, nơi ông kiếm tìm Ngọn núi của những ký hiệu, gốc rễ của chủng tộc, và niềm đồng cảm trọn vẹn, say sưa đến choáng ngợp với đấng sáng tạo. Sau này, trong sự cô độc của bệnh điên, sự tự do vẫn còn đẩy ông đi xa hơn, đến dưỡng trí viện ở Rodez.

Đòi hỏi nhiều sự chịu đựng, thống khổ, đau đớn, thứ tự do để mơ này có một phẩm chất gì đó mang tính huyền thoại. Một cảnh tượng huyền thoại katabasis[1] vụt hiện ra: từ nỗi tò mò, từ tình yêu hay từ niềm say mê cái không biết vốn là số phận của ai đó, người anh hùng của loài người đã tìm đường xuống cõi âm ti, bất chấp hiểm nguy, cấm kỵ, vượt qua những cánh cổng tử thần. Phần lớn những anh hùng thời cổ đại đều đã thực hiện cuộc hành trình này: Gigalmesh khổng lồ, tìm kiếm bông hoa bất tử; Orpheus, vì tình yêu dành cho Eurydice; Quetzalcóat, thần Tula, người đã bị đối thủ thần thánh của mình, Tezcatlipoca, bắt làm vật tế thần để rồi lại được tái sinh vào cuối mỗi thế kỷ trong hình ảnh của một ngôi sao buổi sớm. Khoảnh khắc xuất thần của các shaman hay nhãn quan của các nhà tiên tri đều không có mục đích nào khác hơn là một lần nữa lại dấn mình vào cuộc hành trình mang tính chất thụ giáo về bên kia cái chết này. Các thi sĩ và các nhà thiên tri sau họ đều cố gắng tìm cho được điểm gặp gỡ giữa hai sự thật của con người: sự thật của đời sống và sự thật của cái chết. Con người nguyên thủy, hay nói theo thuật ngữ của Lévi-Strauss, “con người không lịch sử” (vì, theo con đường của thứ hiện thực khác này, con người xóa bỏ thời gian và cái chết vốn chính là những thứ làm nên các lịch sử), đã trải nghiệm chính sự gặp gỡ này trong tính toàn vẹn của nó ngay ở từng hành vi của mình trong đời sống thường nhật. Để che giấu sự thật này, xã hội quyết định luận, duy lý của phương Tây đã tìm cách cắt xẻo đi phần bóng đêm u uẩn của con người, phần thuộc về những cội nguồn thần bí và sáng tạo của con người. Nhờ vào những giấc mơ của các thi sĩ; nhờ Baudelaire, Nerval, và Lautréamont; nhờ Jorge Carrera Andrade và Octavio Paz, nhờ những nhà văn kể từ Joyce và Proust cho đến những tác giả ngày hôm nay – Borges, Rulfo, Onetti, Merce Rodoreda – giờ chúng ta hiểu được rằng thứ tự do tưởng tượng này là một trong những thứ sở hữu quý giá nhất của chúng ta. Giống như người Maya cổ đại, người Ai Cập và Hy Lạp, chúng ta biết rằng thời gian mang tính chu kỳ và cái hiện thực hữu hình thực chất chỉ là một hình ảnh phản chiếu. Như Borges – có lẽ là một trong số những nhà tiên tri cuối cùng của thế giới chúng ta- đã diễn đạt rất hay, chúng ta biết rằng “toàn bộ thời gian là cái gì đó đã hoàn toàn xảy ra, đời sống của chúng ta là một thứ ký ức mơ hồ, một hình ảnh phản chiếu lờ mờ – chắc chắn có sự sai lầm và bị phân mảnh – về một tiến trình không thể thay đổi được.” Đấy chẳng phải là sự hô ứng đối với câu ngạn ngữ của người Aztec cổ đại biểu thị những ý niệm về thời gian thông qua huyền thoại về sự hồi quy vĩnh viễn hay sao? “Một thời gian khác, nó sẽ như thế, một thời gian khác, sự vật sẽ như thế, một thời gian khác, một nơi chốn khác. Cái gì đã xảy ra từ lâu và cái gì bây giờ không còn được thực hiện nữa, đến một thời gian khác, nó sẽ được làm, một thời gian khác, nó sẽ trở nên như thế, giống y như nó ở một thời gian khác rất xa. Những kẻ đang sống hôm nay sẽ sống ở một thời gian khác, họ sẽ được sống một lần nữa”.

 Hải Ngọc dịch.
 Nguồn: J.M.G. Le Clézio, “Freedom to Dream”, bản dịch tiếng Anh của alph Schoolcraft III, World Literature Today, Vol.71, No.4, Autumn 1997, p.671-674.


[1] Katabasis trong tiếng Hy Lạp là từ để chỉ sự đi xuống (một quả đồi, một ngọn núi) hay trạng thái mặt trời dần dần lặn, gió ngừng lặng; sự rút lui của một đạo quân; một hành trình đi xuống âm phủ hay một cuộc hành trình từ nội địa men ra biển.