" Cả cuộc đời ba không có gì để lại cho các con ngoài số vốn kiến thức mà ba mẹ tảo tần nuôi các con ăn học.Mong các con trở thành những người hữu ích cho xã hội" ( trích từ TT "Vững Niềm Tin")
Thứ Tư, 19 tháng 8, 2015
sự chết – và vài đề tài lân cận (phần cuối)
Nguyễn Nhân Trí♦
Sau đây là đoạn kết của Tiểu Luận 2 SỰ SỐNG SAU KHI CHẾT?
Xuất Hồn
Hiện tượng “xuất hồn” nói chung là khi một người thật sự cảm thấy mình đã thoát ra khỏi cơ thể của họ. Đã có nhiều khoa học gia Tây Phương nghiên cứu về hiện tượng nầy; họ gọi nó là “out-of-body experience” (nghĩa là “trải nghiệm khi bên ngoài cơ thể”, và thường viết tắt là OBE).
“Xuất hồn khi sắp chết” (“near death experience” hay NDE) chỉ là một trường hợp đặc biệt của hiện tượng xuất hồn nói chung.
Trong trường hợp tiêu biểu, một người thấy họ “bay”ra khỏi và lơ lửng bên trên cơ thể mình; họ thường có thể nhìn thấy chính cơ thể họ cũng như mọi cảnh trí chung quanh. Hầu hết mọi thứ họ diễn tả lại đều đúng với cảnh trí thật sự. Tuy nhiên thường có vài chi tiết không chính xác, thí dụ như họ thấy cánh cửa phòng đang đóng trong khi nó thật sự đang mở. Có người thấy cơ thể hiện tại của mình đang nằm đó, cũng có những người kể lại họ thấy cơ thể lúc còn trẻ của họ. Thường họ chỉ nhìn thấy sự vật nhưng có người kể lại họ cũng có thể nghe âm thanh. Điểm chính yếu nhất là họ có cảm giác rất rõ rệt là họ đang nghe và thấy từ một vị trí nằm hẳn bên ngoài cơ thể của họ.
Có người tường thuật khi xuất hồn họ có thể du hành đến những thế giới khác, đi qua một đường hầm tối đến một nơi có ánh sáng rực rỡ và thanh bình, gặp những linh hồn của những người quen biết đã qua đời. Có người kể lại họ đi lên đến các hành tinh khác như Hỏa Tinh, v.v.
Người ta biết rằng các cảm giác giống như trạng thái xuất hồn có thể xảy ra vì nhiều lý do: não bộ bị thương tổn, giác quan bị rối loạn, mất ngủ lâu ngày, đói khát cực độ, ảnh hưởng của một số dược phẩm và ma túy, não bộ bị kích động bằng điện, v.v.Thống kê cũng cho biết khoảng một trong mười người vì lý do gì đó có thể trải qua trạng thái dạng nầy dưới nhiều mức độ khác nhau ít nhất một lần trong đời.
Nói chung có rất nhiều lý thuyết về hiện tượng nầy. Nhiều người cho rằng đây là bằng chứng cho thấy sự hiện hữu của thần thể hay linh hồn. Nhiều nhà khảo cứu cho rằng khi so sánh cách điều hành của não bộ, hiện tượng xuất hồn có liên hệ với hiện tượng chiêm bao, nhất là hiện tượng chiêm bao trong đó người đang ngủ nhận biết mình đang chiêm bao và có thể điều khiển diễn tiến của giấc chiêm bao đó ra sao (một hiện tượng gọi là “lucid dreaming”, tạm dịch là là “chiêm bao tỉnh táo”). Tuy nhiên chúng khác nhau ở chỗ khi một người xuất hồn họ cho rằng những gì họ đang nhìn thấy đang xảy ra thật sự. Thống kê có vẻ hỗ trợ quan điểm xuất hồn liên hệ với chiêm bao. Khi phỏng vấn những người đã từng xuất hồn, 85% cho biết họ xuất hồn trong lúc hoặc đang ngủ, hoặc đang nghỉ ngơi nhắm mắt, hoặc đang chiêm bao, hoặc đang nằm trên giường, hoặc đang đau bệnh; một số nhỏ cho biết họ đang dưới ảnh hưởng dược phẩm hay ma túy.
Cảm giác lạ lùng khi xuất hồn lần đầu tiên có thể vừa hứng khởi vừa kinh ngạc. Điều nầy phối hợp với những hình ảnh một người có thể nhìn thấy rõ rệt trong khi xuất hồn làm họ dễ dàng tin chắc chắn rằng “đây không thể nào là chiêm bao được”. Điều cần biết là những gì một người nghe thấy trong chiêm bao thường cũng có thể rất rõ rệt và chi tiết, nếu họ có lý do nhớ đến chúng. Thường thường chúng ta không nhớ mấy về chiêm bao của mình sau khi thức dậy, vì thế chúng có vẻ như “không thật”. Đời sống hàng ngày cũng vậy, chúng ta thường trải qua trọn mỗi ngày thức dậy, đánh răng rửa mặt, ăn sáng, đi làm, ăn trưa, lái xe về nhà, ăn tối, v.v. mà không hề để ý đến chi tiết nào rõ rệt cả, nếu không có lý do gì để cần phải nhớ đến chúng. Chỉ khi nào có chuyện bất thường gì xảy ra thì chúng ta sẽ lập tức thu nhận tích cực những gì chúng ta nghe thấy và do đó chúng ta sẽ có thể nhớ lại diễn biến nầy rành mạch trong tương lai. Những giấc mơ tuyệt vời hay những ác mộng cũng vậy, chúng ta thường nhớ rất kỹ càng mọi chi tiết và có cảm tưởng như chúng đã xảy ra thật sự.
Hiện tượng xuất hồn thường xảy ra đến một người đột ngột không báo trước. Tuy nhiên cũng có một số người có thể tự điều khiển mình vào trạng thái nầy bất cứ lúc nào họ muốn. Có những phương pháp thiền với mục đích chính là để xuất hồn.
Thống kê cho thấy những người đã từng xuất hồn phần đông là những người có khuynh hướng ưa thích chuyện tưởng tượng và hay tin vào những điều thần thoại, huyền bí hơn những người không bao giờ xuất hồn. Tuy thế không phải ai cũng vậy.
Năm 2012 có một nữ sinh viên ngành tâm lý học tại Đại Học Ottawa cho biết cô có thể tự ý xuất hồn bất cứ lúc nào từ khi còn bé. Cô cho biết mỗi khi xuất hồn cô thấy mình nằm lơ lửng trên không và có thể hoặc lật úp xuống nhìn thấy cơ thể của mình, hoặc xoay vòng vòng như chong chóng song song với mặt đất, hoặc bay thẳng lên xuống nhiều độ cao thấp khác nhau. Cô kể lại lúc nhỏ ở mẫu giáo cô rất ghét giờ ngủ trưa, một hôm cô khám phá mình có thể làm được điều nầy nên từ đó thường xuyên xuất hồn như một cách giải trí trong lúc bị bắt buộc nằm ngủ chung với các đứa bé khác. Khi lớn lên cô vẫn tiếp tục thỉnh thoảng xuất hồn, luôn luôn do tự ý mình một cách dễ dàng, thường là để dỗ ngủ. Trong khi người khác đếm cừu thì cô xuất hồn ra khỏi cơ thể. Cô cũng cho biết cô tưởng ai cũng làm việc nầy được.
Như đã nói, tường thuật hiện tượng xuất hồn rất phổ biến nhưng hầu như chưa mấy khi xảy ra trong môi trường thí nghiệm khoa học được kiểm soát chặt chẽ. Cơ hội nghiên cứu một người mạnh khỏe có thể tự ý xuất hồn bất cứ lúc nào chưa bao giờ xảy ra, cho đến lúc nầy.
Người dẫn đầu cuộc thí nghiệm về cô sinh viên trên, giáo sư Claude Messier và phụ tá Andra Smith cho biết không có gì đặc biệt về cô gái nầy chỉ trừ cô thường rất khó ngủ. Đối với cô, cô không cảm thấy đây là một việc bất thường hay liên quan đến tâm linh. Đối với cô đây chỉ là một việc cô làm rất bình thường. Cô cho biết mỗi khi xuất hồn tuy cô có thể điều khiển sự di chuyển của mình nhưng đồng thời biết là cơ thể “thật sự” của cô không hề chuyển động. Tuy vậy mọi cảm giác đều rất rõ ràng và “thật”. Thí dụ như cô cho biết nếu cô xoay vòng vòng quá lâu thì cô sẽ bị chóng mặt.
Người ta chụp ảnh (fMRI scan) hoạt động trong não bộ cô trong khi cô đang xuất hồn và thấy rằng hầu như mọi hoạt động chỉ xảy ra ở não cầu bên trái thay vì ở cả hai bên như trong khi một người đang tưởng tượng điều gì. Mọi điều khiển về sự di chuyển của cơ thể đều nằm trong não cầu bên trái. Đây là nơi hệ thần kinh định vị giúp chúng ta cảm giác được cơ thể mình đang ở vị trí nào trong khoảng không gian chung quanh. Thí nghiệm cũng cho thấy phần não bộ điều khiển thị giác của cô trong lúc đó hầu như ngưng hoạt động.
Kết luận của cuộc thí nghiệm trên cho thấy cô không hề tưởng tượng; những gì cô thấy và cảm nhận đều thật sự xảy ra trong não bộ cô. Phản ứng của não bộ cô giống hệt như khi cơ thể cô đang thật sự trải nghiệm qua những chuyển động cô diễn tả. Tuy nhiên điều nầy không có nghĩa là linh hồn cô đã rời khỏi cơ thể cô. Đây chỉ là kết quả của cách thức não bộ cô làm việc và không phải là một hiện tượng tâm linh gì cả. Đây chỉ là một khả năng đặc biệt mà chẳng qua cô có được. Có thể nói điểm khác biệt duy nhất giữa cô và vô số người xuất hồn khác là cô có thể tự ý làm chuyện nầy xảy ra một cách dễ dàng bất cứ lúc nào cô muốn. Hơn nữa, đối với cô đây là một việc bình thường hàng ngày chớ không có gì đặc biệt hay huyền bí cả.
Một thí nghiệm nổi tiếng và khá lý thú khác về hiện tượng xuất hồn xảy ra năm 1968 khi chuyên gia tâm thần Mỹ Charles Tart của Hội Nghiên Cứu Tâm Thần Hoa Kỳ (American Society for Psychical Research) quan sát một người được gọi là Miss Z qua 4 đêm trong phòng thí nghiệm của ông. Miss Z là một người được biết có thể xuất hồn hầu như hàng đêm. Charles Tart muốn dùng trường hợp Miss Z để chứng minh thật sự linh hồn cô có xuất khỏi cơ thể và nhìn thấy mọi vật chung quanh mình hay không.
Mỗi đêm khi Miss Z ngủ, đầu của cô được nối liền với một chiếc máy có thể ghi nhận mọi hoạt động trong não bộ. Chính Charles Tart đích thân theo dõi các điện não đồ suốt đêm từ căn phòng kế bên. Trên kệ tủ cao trong phòng Miss Z ngủ có đặt một tấm bảng mang 5 điện số thay đổi khác nhau mỗi đêm. Cô không biết những con số nầy là gì. Từ nơi Miss Z nằm, cô không thể nào nhìn thấy chúng. Người ta muốn thử xem Miss Z có đọc được các con số nầy khi cô xuất hồn hay không.
Sau ba đêm đầu, Miss Z không thấy gì cả. Sau đêm thứ tư (đêm cuối cùng) cô nói trúng các con số nầy. Charles Tart cho rằng đây là bằng chứng cho thấy Miss Z đã xuất hồn trong đêm nên mới đọc được các con số nằm trên cao.
Cuộc thí nghiệm nầy gây một tiếng vang khá lớn lúc bấy giờ trong giới nghiên cứu về tâm thần và tâm linh. Nhiều người cho rằng đây là một bước ngoặc quan trọng vì quan niệm linh hồn là một vật thể phi vật chất riêng biệt hiện hữu song song với thân thể vật chất đã được kiểm chứng và xác nhận bởi khoa học. Tuy nhiên những nghiên cứu gia khác sau khi đọc kỹ bản tường trình của cuộc thí nghiệm nầy đã có các nhận xét và chỉ trích sau đây.
Trước hết thí nghiệm nầy đã không được tổ chức cẩn thận do đó không có những phương thức kiểm soát đầy đủ để phòng ngừa và loại bỏ tất cả sự kiện có thể xảy ra đưa đến việc nghi ngờ giá trị về kết quả của nó. Trong suốt 4 đêm thí nghiệm, Miss Z nằm trên giường trong một căn phòng cách biệt hẳn với người kiểm soát. Tuy giữa hai căn phòng có một khung cửa kính nhưng nơi Miss Z nằm chỉ có gắn máy ghi âm (với mục đích theo dõi xem cô có nói mớ hay không) chớ không có máy thu hình. Cách kiểm soát chính của cuộc thí nghiệm nầy là những dây điện nối giữa đầu Miss Z và máy điện não đồ được thu ngắn lại để nếu cô muốn đứng dậy trên giường thì cô sẽ phải lôi kéo các dây điện nầy, và làm như thế sẽ gây ra những xáo động dễ thấy trên điện não đồ.
Bản tường trình kết quả của Charles Tart cho thấy có một sự xáo động trên điện não đồ nhưng vì lý do gì đó ông cho rằng đây chỉ là vì trục trặc tạm thời của máy. Ngay chính ông cũng ghi chú rằng ông đã có những lúc ngủ gật trong các đêm đó. Và một điểm quan trọng khác nữa là chính Charles Tart ghi chú rằng trước đêm thứ tư (tức là đêm cuối cùng) Miss Z “rất bực tức vì ba đêm rồi không có kết quả gì cả và nhất định đêm nay phải xuất hồn bay cao lên để đọc được những con số đó cho bằng được”.
Từ các nhận xét trên, những người phê bình cho rằng không có gì bảo đảm trong đêm cuối cùng Miss Z đã không tự sắp xếp các dây điện lại để có thể đứng dậy trên giường lén nhìn xem các con số trên tủ cao là gì. Charles Tart ngồi ở phòng kế bên có thể không nhìn thấy gì cả vì ông đang ngủ gục. Chi tiết đáng kể nhất là theo chính ghi chú của Charles Tart thì sau 3 đêm vẫn chưa đọc được các con số Miss Z lúc ấy rất bực tức vì đó vì điều nầy ảnh hưởng đến danh tiếng của cô.
Những người phê bình đặt câu hỏi tại sao Charles Tart khi nhận thấy rằng những xáo trộn trên điện não đồ đêm ấy ông lại chỉ cho là vì máy trục trặc mà thôi. Nếu thế thì tại sao ông không tiếp tục cuộc thí nghiệm thêm một vài đêm nữa để có được kết quả chắc chắn?
Những chuyên gia nghiên cứu khác cũng chỉ trích thí nghiệm của Charles Tart chỉ dựa trên một kết quả duy nhất từ một người duy nhất (Miss Z) và chỉ của 1 trong 4 đêm thí nghiệm. Do đó ông không có đủ dữ liệu cần thiết để phân tích, so sánh trước khi đi đến một kết luận có giá trị khoa học. Họ cũng đưa ra vấn đề rằng kết quả thí nghiệm nầy không hề được kiểm nghiệm chính thức bởi các học giả kinh nghiệm cùng ngành khác (peer review), và đây là một điều kiện cần thiết mà mọi thí nghiệm, mọi giả thuyết, mọi lý thuyết khoa học đều phải có để bảo đảm giá trị của nó.
Người ta cũng phê bình về việc Hội Nghiên Cứu Tâm Thần Hoa Kỳ (American Society for Psychical Research) không phải là một tổ chức khoa học được chính thức công nhận bởi mọi khoa học gia mà chỉ là một tổ chức vô vụ lợi được tài trợ bởi tư nhân. Tương tự, việc bản tường trình về thí nghiệm được Charles Tart đăng trên Đặc San Hội Nghiên Cứu Tâm Thần Hoa Kỳ cũng cần được chú ý đến. Đây là một đặc san chủ trương đón nhận bài đăng của bất cứ ai và hầu như không có mối liên hệ gì với cộng đồng khoa học gia Mỹ.
Một thí nghiệm vào năm 2007 bởi Henrik Ehrsson của Học Viện về Não của Đại Học London (Institute of Neurology at University College of London) cho thấy ai cũng có thể bị “lừa” để có cảm giác xuất hồn một cách hoàn toàn máy móc.
Người tham dự thí nghiệm nầy được ngồi trên một chiếc ghế và đeo vào mặt hai màn ảnh nhỏ, mỗi màn ảnh chụp riêng lên một con mắt. Mỗi màn ảnh nầy được nối liền với một máy quay phim; hai máy quay phim nầy được đặt kế bên nhau và nằm khoảng 2 mét đàng sau lưng người nầy. Màn ảnh nằm bên trái chụp lên con mắt trái nối liền với máy quay phim nằm bên trái, màn ảnh nằm bên phải chụp lên con mắt phải nối liền với máy quay phim nằm bên phải. Với cách sắp xếp trên, người nầy có thể nhìn thấy hình ảnh của chính mình giống như một người khác đang đứng cách 2 m đàng sau lưng họ có thể nhìn thấy. Những gì họ nhìn thấy có độ sâu 3 chiều giống y như trong không gian thật sự. Họ sẽ có cảm giác lạ lùng là giác quan của họ (trong trường hợp nầy, thị giác) có vẻ như không còn nằm trên cơ thể thật sự của họ nữa. Họ do đó sẽ có cảm tưởng như đã bị tách rời ra khỏi cơ thể thật sự của họ.
Khi một người khác đứng kế bên người trên dùng một cây gậy chạm nhẹ vào ngực anh ta thì ảo giác trên càng rõ ràng hơn nữa vì mắt anh ta nhìn thấy “cơ thể” anh ta cách đó 2 mét đang bị cây gậy đụng đến trong khi đồng thời ngực anh ta ở đây cũng có cảm giác bị cái gì đụng vào.
Thí nghiệm trên minh chứng một điều nhiều nhà nghiên cứu đã biết; đó là khi một người xuất hồn họ có thể nghe thấy mọi sự việc chung quanh họ nhưng những tín hiệu trên không còn đến từ giác quan của họ nữa. Nói cách khác, người nầy lúc ấy dường như vẫn có đầy đủ cảm giác của một cơ thể nhưng những cảm giác nầy không còn nhận được từ các giác quan của họ. Cảm giác lạ lùng nầy thật ra chỉ là kết quả từ khả năng tuyệt diệu của bộ óc có thể sản xuất ra những hình ảnh âm thanh rõ ràng giống như thật ngay cả khi nó không nhận được tín hiệu nào gởi đến từ các giác quan. Sự kiện nầy cũng xảy ra mỗi lần chúng ta chiêm bao vì chiêm bao chính là khi chúng ta nghe thấy những cảnh trí và cảm nhận những tác động cơ thể của mình trong lúc chúng thật ra đang không hề xảy ra.
Sam Pamia, một phó giáo sư y khoa của Đại Học New York, nghĩ rằng nếu phần nhiều những trường hợp xuất hồn xảy ra trong các phòng giải phẩu (nơi người ta kể lại họ rời cơ thể mình bay lên gần trần nhà nhìn xuống thấy mọi sự việc trong phòng kể cả việc các bác sĩ đang cố làm hồi sinh trên thân thể họ) thì đây là nơi tốt nhất để làm thí nghiệm kiểm chứng. Năm 2008, ông hợp tác với 25 bệnh viện ở Âu Châu, Canada và Mỹ cùng sự điều động của trường Đại Học Southampton để tiến hành một cuộc thí nghiệm được đặt tên là AWARE (viết tắt cho AWAreness during REsuscitation). Trong các phòng giải phẩu, họ đặt những tấm bảng treo lơ lửng từ trần nhà. Bề mặt của các tấm bảng nầy có những hình vẽ quay lên trên trần nên không ai đứng dưới nhà có thể nhìn thấy chúng được. Họ lý luận rằng nếu các người xuất hồn thật sự thấy những gì đang diễn tiến trong phòng khi đang bay lơ lửng trên trần nhà thì họ sẽ phải thấy và có thể diễn tả lại các hình vẽ trên những tấm bảng nầy là gì.
Cho đến nay, kết quả chính thức của cuộc thí nghiệm nầy vẫn còn đang được duyệt thảo qua một quá trình kiểm nghiệm chính thức bởi các đồng nghiệp kinh nghiệm và độc lập khác (peer review). Tuy vậy ông Pamia đã tường trình kết quả sơ khởi về cuộc thí nghiệm AWARE tại một buổi hội thảo ở American Heart Association vào cuối năm 2013. Ông cho biết tất cả đã có 152 bệnh nhân (dưới 15% tổng số bệnh nhân giải phẩu) tường thuật là họ đã xuất hồn trong thời gian đang được giải phẩu ở các bệnh viện trên. Tuy nhiên chỉ có 2 người kể lại họ đã nhìn thấy cảnh vật trong phòng, và chỉ một trong 2 người nầy diễn tả có vẻ đúng như những gì đã xảy ra. Điều cần chú ý là cho đến nay không có ai đã nhìn thấy các hình vẽ trên những tấm bảng treo trên trần nhà cả.
Thống kê gần đây cho thấy không dưới 80% dân Mỹ tin rằng linh hồn họ sẽ tiếp tục sống còn sau khi cơ thể vật chất của họ đã chết. Con số nầy gia tăng hơn nữa sau sự phổ biến rộng rãi của vài quyển sách kể lại nhiều câu chuyện xuất hồn của những người từ đủ thành phần giai cấp trong xã hội, kể cả một khoa học gia và bác sĩ chuyên khoa về não của Đại Học Harvard, ông Eben Alexander, người trước đây đã từng đặt nghi vấn về vấn đề xuất hồn.
Ông Alexander bây giờ quả quyết rằng sau khi não bộ của một người ngừng hoạt động, linh hồn của họ sẽ xuất ra khỏi thân xác và bay về một nơi tốt đẹp hơn. Trong một buổi phỏng vấn với báo New York Times, ông nói “Tri thức và linh hồn của chúng ta không lệ thuộc vào não bộ hay cơ thể chúng ta; nó sống mãi mãi, và không ai có một bằng chứng cụ thể nào cho thấy rằng điều nầy không đúng”.
Đây là một quan niệm vô cùng quyến rũ cho những người lo nghĩ về sự ngắn ngủi của đời sống và là một niềm an ủi to lớn cho những ai vừa mất người thân yêu của họ. Nhiều người tin rằng đây là một vấn đề nằm xa khỏi hẳn khả năng và lãnh vực khoa học, và đó là lý do tại sao không thể nào đem những lý lẽ và kiến thức khoa học ra để chứng minh hiện tượng trên.
Tuy vậy, một điều cần biết là trong khi chúng ta có thể chứng minh sự hiện hữu của một sự vật gì đó, chúng ta không thể nào chứng minh tuyệt đối rằng một sự vật không hiện hữu. Muốn chứng minh một sự vật hiện hữu, người ta chỉ cần tìm ra một thí dụ, một trường hợp người ta đã tìm gặp sự vật ấy. Trong khi đó, nếu muốn chứng mình một sự vật không hiện hữu, chúng ta cần phải tìm kiếm ở mọi nơi trong vũ trụ, mọi lúc trong dòng thời gian kể cả ở tương lai, khảo nghiệm mọi điều kiện, mọi trường hợp, mọi hoàn cảnh, v.v. để gạt bỏ tất cả mọi khả dĩ về sự hiện hữu của nó. Rõ ràng là không ai có thể làm điều trên được. Tuy nhiên nhiều người không hiểu được nguyên lý nầy. Điều đáng tiếc là đôi khi ngay cả một khoa học gia xuất thân từ Havard như ông Alexander vẫn không tránh được lỗi lầm trên khi tuyên bố rằng không ai có thể chứng minh cho thấy không có linh hồn sau khi chết.
Những người như ông Alexander đáng lẽ phải nhận thấy rằng vì họ quả quyết về sự hiện hữu của linh hồn nên chính họ mới có trách nhiệm để chứng minh điều nầy. Họ không thể nào đổ trách nhiệm cho người khác phải chứng minh rằng họ không đúng. Theo nguyên tắc lý luận cơ bản, khi một người đưa ra một sự kiện thì họ là người cần phải biện chứng sự hiện hữu của sự kiện đó; trong khi ấy một người tuyên bố không tin vào một sự kiện không cần phải (và nếu muốn cũng không thể) biện minh cho sự không hiện hữu của nó.
Hơn nữa, nếu muốn chứng minh một định luật có giá trị, người ta cần phải cho thấy định luật nầy áp dụng đúng cho mọi trường hợp. Thí dụ không ai có thể phủ nhận các định luật về trọng lực. Tất cả mọi vật trong đời sống bình thường chung quanh chúng ta đều tuân theo các định luật nầy. Từ một quả táo bị sức hút của địa cầu cho đến sự hấp dẫn giữa hai tinh tú trong ngân hà, tất cả đều luôn luôn xảy ra, luôn luôn lập lại giống y hệt như nhau và luôn luôn có thể kiểm chứng, đo lường, tiên đoán.
Nếu muốn nói rằng linh hồn của con người sẽ sống còn mãi mãi sau khi cơ thể ngừng hoạt động và bị hủy diệt thì tại sao chúng ta không thấy sự kiện nầy xảy ra đối với mọi người, mọi nơi, mọi lúc? Thí dụ như những câu chuyện xuất hồn trong lúc gần chết (near death experience – NDE) chỉ xảy ra với một phần rất nhỏ so với tất cả những người đã trải qua trạng thái đã chết và sống lại. Có nghĩa là quan điểm trên không đúng với thực tại trong đại đa số trường hợp.
Những câu chuyện xuất hồn nói chung được người ta thích thú tìm đọc say mê chỉ vì nó rất kỳ lạ và hiếm hoi chớ không xảy ra hàng ngày đến mọi người. Không ai bận tâm đến câu chuyện một quả táo rụng từ trên cành rơi xuống đất. Do đó chúng ta không nên quả quyết rằng con người có một linh hồn sẽ sống còn mãi mãi sau khi thân xác họ đã chết. Đó là chưa kể đến việc cho đến nay không có trường hợp xuất hồn nào có thể được chứng minh rằng nó luôn luôn xảy ra, luôn luôn lập lại giống y hệt như nhau và luôn luôn có thể kiểm chứng, đo lường, tiên đoán. Và vì không thỏa điều kiện cần thiết trên, vấn đề nầy không nên được xem là có giá trị bất khả phủ nhận.
Trong khi đó, như đã nói, mặc dù không ai có thể chứng minh tuyệt đối rằng tri thức của một người là sản phẩm của não bộ cũng như giác quan của họ, có rất nhiều sự kiện có vẻ như hỗ trợ điều nầy.
Một trong những sự kiện có thể nói rằng hầu như “luôn luôn xảy ra, luôn luôn lập lại giống y hệt như nhau và luôn luôn có thể kiểm chứng, đo lường, tiên đoán” liên quan đến vấn đề thương tích não.
Kỹ thuật khám nghiệm và phân tích hoạt động của não bộ ngày nay cho phép chúng ta thấy rõ nhiệm vụ riêng biệt của của từng phần, từng vùng não bộ. Khi một vùng não bộ bị thương tíchhay bị cắt bỏ đi thì những chức năng của một người thường ngày được chỉ huy và điều khiển bởi vùng não bộ đó sẽ bị ảnh hưởng. Trong đa số trường hợp, bác sĩ có thể tiên đoán được những ảnh hưởng nầy và thảo luận với bệnh nhân trước khi giải phẩu. Không những chỉ các chức năng vật chất liên quan đến cơ bắp hay sự vận hành của chân tay, thị giác, xúc giác, v.v mà cả những chức năng nằm trong lãnh vực tinh thần, tâm trí, cá tính, cá thể của người ấy.
Có vô số trường hợp sau khi bị tai biến mạch máu não, bệnh nhân trở thành một con người khác hẳn về mặt tâm tính và tình cảm. Có những người trở thành khó tính, lạnh lùng, vô cảm xúc, khắc nghiệt, tàn ác trong khi có những người trở thành dễ dãi, hiền lành, hiếu hòa, nhân ái. Có nhiều trường hợp sau giải phẩu não bệnh nhân mất hẳn khả năng quyết định, họ trở thành một người không có lập trường, ai nói gì cũng nghe, không thể lý luận và giải quyết điều gì, trở thành hèn yếu, dễ tin, dễ nhát sợ. Có một trường hợp sau khi giải phẩu bướu não bệnh nhân mất tất cả tính chất đạo đức đã có sẵn trước đây; ông trở thành một người vô trách nhiệm có khuynh hướng làm những điều hoàn toàn trái ngược với khuôn phép xã hội và tiêu chuẩn luân lý.
Những chức năng kể trên xác định cá tính, bản chất, nhân cách của một người. Chúng là cơ cấu của cảm xúc, sự suy nghĩ, lý luận, v.v. dẫn đến những thương ghét vui buồn sâu kín nhất lẫn các hành vi, tư cách bộc lộ rõ rệt trong đời sống hàng ngày. Nói cách khác đây là định nghĩa cơ bản của tri thức.
Nếu cho rằng linh hồn của một người có thể sống còn sau khi chết thì tri thức của họ cũng phải được giữ nguyên vẹn sau khi thân thể đã bị hủy hoại. Tuy vậy, vô số các thí dụ tương tự như trên cho thấy tri thức và cá tính của một người bị biến đổi hay tiêu tan sau khi não bộ của họ bị thương tích. Nếu mỗi người chúng ta có một linh hồn có thể cho phép chúng ta nghe thấy, suy nghĩ và cảm nhận sau khi cơ thể chúng ta đã bị hủy diệt thì tại sao linh hồn nầy lại không thể cho phép chúng ta tiếp tục làm những điều trên một cách bình thường sau khi một phần não bộ (tức là một phần cơ thể) chúng ta ngừng hoạt động?
Cách đây hơn 750 năm, nhà thần học nổi tiếng Saint Thomas Aquinas cũng đã nhận ra điều nầy phần nào. Ông cho rằng khi không còn cơ thể nữa, tức là không còn mắt, tai, mũi, v.v. thì linh hồn sẽ không có những cảm quan thấy, nghe, ngữi, v.v. nữa và sẽ chỉ biết chờ đợi trong vùng bóng tối vô cảm giác cho đến ngày Phán Xét khi thân xác được Thiên Chúa làm cho sống lại. Ông cũng cho rằng linh hồn không có thân xác chỉ có thể còn giữ được những đặc tính như khả năng suy luận, hiểu biết và cảm nhận đạo đức (tức là những đặc tính không lệ thuộc vào các bộ phận vật chất của cơ thể). Tuy vậy như vừa thấy từ những thí dụ kể trên, ngày nay người ta đã có thể xác định rõ ràng phần não bộ nào chịu trách nhiệm cho loại tư tưởng và hành vi nào của con người. Do đó những đặc tính cá thể mà Aquinas thuở xưa, và nhiều người khác ngay cả bây giờ, cho rằng thuộc về linh hồn có vẻ như đều sẽ bị tiêu hủy khi các phần não bộ tương ứng trên bị tiêu hủy.
Có những người sẽ lý luận rằng linh hồn chỉ cần một thân xác để vận hành trong cõi sống hiện tại nhưng không cần một thân xác trong thế giới sau khi chết. Họ so sánh linh hồn như tín hiệu sóng radio truyền ra từ một đài phát thanh và thân xác vật chất như một chiếc radio; khi chiếc radio được mở đúng băng tần sóng nào đó thì nó trở thành sống động với những tiếng nói, ca nhạc, v.v. và khi chiếc radio bị hư hại thì không còn âm thanh gì phát ra được nữa tuy nhiên tín hiệu sóng vẫn còn hiện hữu.
Cách so sánh trên thiếu sót một điểm rất quan trọng, đó là sự tương tác giữa chiếc radio và môi trường chung quanh nó; hay nói rõ hơn là về những giác quan của một người. Giác quan là cửa sổ thông thương tri thức, tâm thức của một người với thế giới chung quanh họ. Những dữ kiện, tín hiệu thu nhận từ giác quan được phối hợp với những bản chất, tính khí, khả năng suy luận, kiến thức có sẵn trong tiềm thức và trong cấu trúc cơ bản có sẵn để tạo nên tâm thức, tri thức, bản thể và tất cả những gì khác để làm người đó thành một cá thể khác biệt với mọi cá thể đồng loại.
Có thể nói rằng giác quan không những là cửa sổ của linh hồn mà còn đóng một vai trò trọng yếu trong việc sản xuất ra linh hồn. Nếu có phải so sánh thì con người có thể tạm thời so sánh với một chiếc máy hát nhạc thường thấy ở các bar rượu. Trong máy đã có sẵn một số dĩa nhạc, tùy người ta bỏ tiền vào và nhấn nút nào thì chiếc máy nầy sẽ phát ra bài nhạc gì đó tương ứng. Tiếng hát, âm nhạc không được truyền đến từ một đài phát thanh ở đâu cả mà chỉ xuất phát từ bên trong chính chiếc máy (các dĩa nhạc) cộng với tác động của môi trường chung quanh nó (tùy người bỏ tiền vào bấm nút lựa bản nhạc nào). Khi chiếc máy bị hư thì không còn âm thanh gì phát ra nữa.
Linh Hồn là một Cá Thể Độc Lập và Trường Cửu?
Một lý thuyết thường được đề cập đến, đó là mỗi người có hai hệ thống vận hành cơ yếu. Hệ thống thứ nhất là cơ thể vật chất của họ. Hệ thống thứ hai là thành phần vô vật chất trong đó tập hợp những tri thức, tâm thức, nhân cách và cá tính của họ. Hai hệ thống nầy hiện hữu và vận hành song song với nhau, trong khi người nầy còn sống và sau khi họ đã chết. Lý thuyết nầy có vẻ giải thích được nhiều hiện tượng mà hiện nay khoa học phổ thông cổ điển không giải thích được.
Tuy vậy, ngay cả nếu như chúng ta chấp nhận vềhệ thống thứ hai nầy thì có một câu hỏi khác sẽ được đưa ra lập tức: hệ thống thứ hai có thể hiện hữu độc lập không cần sự hiện hữu của hệ thống thứ nhất hay không? Nói cách khác, linh hồn có thể hiện hữu sau khi thân xác đã bị hủy diệt hay không?
Có vô số câu chuyện về xuất hồn, nhập xác, ma quỷ, v.v. có vẻ cho thấy rằng hệ thống thứ hai chẳng những hiện hữu không cần hệ thống thứ nhất mà còn đôi khi có thể tương tác với môi trường vật chất không khác gì hệ thống thứ nhất. Có nghĩa là đôi khi phần linh hồn của một người chẳng những có thể sinh tồnsau khi chết mà còn có thể giao tiếp được với những người còn sống khác.
Tuy nhiên, một điều cần phải nhìn nhận lànhững gì được xem là bằng chứng về các trường hợp sinh tồn sau khi chết xảy ra vô cùng hiếm hoi. Nếu chỉ xét về phương diện sinh vật học mà thôi thì sau hơn 150 triệu năm từ khi các động vật hữu nhũ bắt đầu tiến hóa, tổng lượng tất cả sinh vật kể cả loài người đã từng sống và chết trên địa cầu nầy đã đạt đến một con số cực kỳ to lớn vượt xa hẳn khả năng ước lượng của bất cứ ai. Vậy mà tất cả chúng đều đã biến mất không hề để lại dấu vết gì cả.
Đây có thể là vì các lý do (hay nói đúng ra, giả thuyết) sau đây.
Thứ nhất, có thể là vì sinh vật kể cả loài người không hề có một hệ thống thứ hai nào cả. Chúng ta có thể thấy đây là cách giải thích tiêu biểu của những người vô thần, họ không tin vào sự hiện hữu của thần thể hay linh hồn gì cả. Như đã nói, không ai có thể chứng minh được sự không hiện hữu của một sự vật. Tuy nhiên, đại đa số mọi trường hợp liên quan đến sự chết chung quanh chúng ta đều có vẻ đồng nhất với cách lập luận nầy. Do đó xét trên bình diện xác suất thống kê thì lý lẽ nầy có giá trị thực tế nhất.
Lý do thứ nhì, có thể là những hệ thống thứ hai của mọi sinh vật, nếu hiện hữu lúc cơ thể chúng còn sống, đều đã tàn lụn và tan biến mất sau khi chúng chết đi. Lý do nầy dựa trên lý luận khoa học (như vừa được đề cập ở các bài trước đây) cho rằng tri thức của một người là sản phẩm của não bộ của họ. Tri thức lệ thuộc và phát xuất từ não bộ. Nếu có một hệ thống thứ hai thì hệ thống nầy cần năng lượng từ thân xác vật chất để hiện hữu và vận hành. Do đó khi thân xác của một người bị tiêu hủy thì tri thức (hay linh hồn, hay hệ thống thứ hai) của họ cũng tan biến theo, nếu không lập tức thì cũng không lâu sau đó. Cho đến nay đây chỉ có thể được xem là một giả thuyết vì chưa có chứng minh nào tuyệt đối dẫn đến kết luận nầy. Tuy nhiên trên phương diện xác suất thì giả thuyết nầy cũng rất khả dĩ.
Lý do thứ ba, có thể tri thức của mọi sinh vật sau khi chết có khả năng sống dưới một cấu trúc khác hẳn với cấu trúc thế giới của chúng ta nên chúng ta không thể cảm nhận được. Giả thuyết nầy cho rằng ngay khi một người còn sống thì hệ thống thứ hai, hay phần hồn, của họ vẫn hiện hữu và có cấu trúc khác hẳn với những phân tử, nguyên tử của thân xác vật chất của họ. Do đó sau khi người nầy chết thì phần hồn của họ chỉ cần tách lìa ra khỏi thân xác và tiếp tục sinh tồn như một cá thể độc lập trong thế giới riêng của nó. Vì cấu trúc của thế giới nầy khác hẳn với thế giới của người sống nên tuy cả hai chiếm đóng cùng một không gian chung nhưng không hề cảm nhận được lẫn nhau. Giả thuyết nầy giải thích thêm rằng thỉnh thoảng có những xáo động ở bờ biên giới giữa hai hệ thống nên một phần của thế giới nầy có thể tương tác tạm thời với một phần của thế giới kia. Đây là những lúc mà người sống có thể nghe thấy được người đã chết, và ngược lại. Giả thuyết nầy rất lý thú và có thể dùng để giải thích được nhiều hiện tượng. Tuy nhiên cho đến nay không có bằng chứng xác đáng nào cho thấy điều nầy thật sự xảy ra.
Lý do thứ tư, có thể là các hệ thống thứ hai trên đã di chuyển qua một nơi nào khác. Lý do nầy được một số người xem là phù hợp với cảm nghĩ tâm linh và niềm tín ngưỡng cho rằng người chết sẽ hoặc được lên thiên đàng hoặc bị xuống địa ngục hoặc một cõi thế giới nào khác. Có thể nói giả thuyết nầy là một trường hợp đặc biệt của giả thuyết thứ ba kể trên. Và tương tự, cho đến nay không có bằng chứng thỏa đáng (có nghĩa là thí nghiệm khoa học với sự kiểm soát chặt chẽ và nghiêm túc) nào cho thấy điều nầy thật sự xảy ra.
Và lý do thứ năm, có thể các hệ thống thứ hai đã hoàn trở lại để tiếp tục sống trong cơ thể của những sinh vật mới. Lý do nầy có thể được dùng để giải thích quan niệm đầu thai, hay những hiện tượng nhập hồn vào xác, hay quỷ ám. Cũng vậy, mặc dù có vô số câu chuyện xưa nay kể về điều nầy nhưng chưa bao giờ có trường hợp nào được kiểm chứng thỏa đáng theo phương cách khoa học cả.
Chúng ta cũng có thể kết hợp các giả thuyết vừa kể trên để đưa ra bất cứ giả thuyết nào chúng ta muốn. Dưới đây là một thí dụ mà tôi cho rằng không hoàn toàn ngoài vòng tưởng tượng bất khả dĩ.
– Trong cơ thể sinh vật có hai hệ thống vận hành: hệ thống thứ nhất là cơ thể vật chất, hệ thống thứ hai phi vật chất và nhiều người còn gọi là thần thể (spirit) hay linh hồn (soul). Hệ thống thứ hai sử dụng năng lượng của hệ thống thứ nhất để hiện hữu và vận hành.
– Hệ thống thứ hai có thể hiện hữu tạm thời sau khi cơ thể ngừng hoạt động. Nó cũng có thể tách rời ra khỏi cơ thể sau khi não bộ đã chết.
– Tuy nhiên hệ thống thứ hai nầy vẫn cần có một nguồn năng lượng để tiếp tục sống còn và sinh hoạt bên ngoài hệ thống thứ nhất. Nguồn năng lượng nầy có thể lấy được từ những nguyên tử, phân tử trong không gian và vũ trụ.
– Nếu thần thể của một người có thể tiếp nhận được nguồn năng lượng nầy thì nó có thể tiếp tục sống còn như một cá thể riêng biệt và độc lập dưới dạng vô vật chất. Tuy vậy đây chỉ là những ngoại lệ cực kỳ nhỏ chớ không phải là một quy luật tổng quát áp dụng cho mọi người, mọi hoàn cảnh.
– Hơn nữa, trong hầu như tất cả mọi trường hợp, hệ thống thứ hai của một người sau khi chết đi vì không tiếp tục thu nhận được (hay đầy đủ) năng lượng cần thiết, hoặc từ vũ trụ hoặc từ một nguồn nào khác, nên đều dần dần tan biến đi không lâu sau khi cơ thể vật chất của họ ngừng hoạt động. Thời gian từ khi chết đến lúc tan biến hoàn toàn của mỗi người đều khác nhau.
– Trong khi hệ thống thứ hai của một người đang tan rả dần dần, cấu trúc cũng như các đặc điểm riêng biệt như tâm thức hay tính khí của người đó cũng biến đổi. Do đó nếu thần thể của một người vẫn còn tồn tại được sau khi họ chết thì thần thể nầy cũng không còn giống chính xác như thần thể của họ lúc còn sống. Có nghĩa là họ không hẳn còn là họ nữa.
– Một nguồn năng lượng khác dễ tìm thấy và thích hợp nhất có lẽ là một cơ thể của một sinh vật khác. Một bào thai vừa mới tượng hình thường dễ được sử dụng nhất vì nó cũng giống như một căn nhà còn trống chưa có chủ. Đây có thể là một số trường hợp đầu thai. Cũng có khi cơ thể của một sinh vật, hay một người, còn đang sống cũng được sử dụng. Đây là một số những trường hợp được gọi là bị ma nhập, quỷ ám.
– Thế giới của những thần thể vẫn hiện hữu sau khi chết có thể lẫn lộn giữa thế giới người sống. Tuy nhiên cả hai thế giới không thể cảm nhận nhau được trừ những khi vì lý do gì đó mà những băng tần sóng của hai trường năng lượng ảnh hưởng và tương tác tạm thời với nhau. Thế giới của người sống và người chết cũng có thể hoàn toàn cách biệt trên phương diện không gian lẫn thời gian. Và có thể có nhiều thế giới người chết khác nhau; tùy điện lực cũng như băng tần sóng của mỗi cá thể mà họ có thể sinh sống ở các thế giới nào.
Tôi xin nhấn mạnh là thí dụ ở trên hoàn toàn chỉ là lý thuyết thuần túy chưa hề được kiểm chứng bởi khoa học. Nó có thể giải thích được nhiều hiện tượng xảy ra mà khoa học hiện tại không giải thích thỏa đáng được. Đồng thời nó cũng không cần sử dụng đến những khái niệm tín ngưỡng tôn giáo tưởng tượng vô căn cứ.
Như vừa thấy, chúng ta có thể hoàn toàn dựa lên trí tưởng tượng của mình để phối hợp và diễn giải từ những giả thuyết đã sẵn cóđể đưa đến bất cứ cách giải thích cho bất cứ hiện tượng nào. Mỗi người có thể lựa chọn những gì họ muốn cho là sự thật tùy theo khả năng suy luận hay nhu cầu tâm lý và tâm linh của họ mà không cần quan tâm đến việc cách giải thích nầy có phản ảnh thực tế hay không.
Điều nầy theo tôi rất lý thú trên phương diện thảo luận lý thuyết. Nó có thể mở ra những cánh cửa mà khoa học cổ điển thường không có khuynh hướng hay cơ hội nhìn đến. Tuy nhiên, điều nầy có thể trở thành tai hại khi người ta áp dụng những giả thuyết trên vào đời sống hằng ngày như những định luật có giá trị thật sự. Và nhất là luôn luôn có những người lợi dụng các giả thuyết vô căn cứ với mục đích kiểm soát, kềm chế, lường gạt, bóc lột người khác. Và khi được hứa hẹn một đời sống vĩnh cửu thì luôn luôn có vô số người sẵn sàng chịu bị kiểm soát, kềm chế và ngay cả lường gạt, bóc lột chỉ để bám víu vào cái ảo tưởng được sinh tồn mãi mãi sau khi chết.
Kiểm Chứng Khoa Học
Trước khi chấm dứt, tôi có vài lời phụ chú sơ lược về phương cách kiểm chứng khoa học.
Thí nghiệm khoa học là một cách trung thực nhất để kiểm chứng một lý thuyết có phản ảnh thực tế hay không. Tuy nhiên không phải thí nghiệm khoa học nào cũng có giá trị ngang nhau.
Nhiều người cho rằng phương cách kiểm chứng khoa học vì quá hạn hẹp và cứng ngắt nên thể nào nhìn thấy những gì cần nhìn thấy trong phạm trù tâm linh. Chẳng hạn như họ cho rằng khoa học hiện tại chỉ có khả năng tương tác với không gian 3 chiều trong khi vấn đề tâm linh nằm trong những không gian lớn hơn 3 chiều; và do đó dụng cụ khoa học không thích hợp cho mục đích cần dùng. Họ thí dụ cũng giống như một người lấy cây thước để đo lường tình cảm vui buồn của người khác. Họ cũng cho rằng vì khoa học gia tìm kiếm những sự vật mà họ không nhận biết nên họ không thể nào nhìn thấy được.
Lập luận trên có phần đúng. Như đã nói, khoa học có những giới hạn của nó; và con người luôn luôn có khuynh hướng muốn giải quyết vấn đề dựa trên kiến thức và thành kiến sẵn có của mình. Đó là nguyên tắc sinh tồn phát xuất từ quá trình tiến hóa của nhân loại nên không ai miễn nhiễm được vấn đề nầy ngay cả những khoa học gia nhiều kinh nghiệm nhất. Có thể vì những nghiên cứu gia không có khuynh hướng tâm linh thường không nhìn thấy những gì cần thấy. Ngược lại, kiến thức và thành kiến sẵn có cũng thường hiện diện trong những cái gọi là “thí nghiệm khoa học” khi các nghiên cứu gia có khuynh hướng tâm linh muốn “chứng minh” quan điểm tâm linh của mình. Họ thường “tìm thấy” những gì mà họ mong muốn tìm thấy.
Do đó trong các thí nghiệm khoa học người ta đặt ra những quy chế, phương cách và luật lệ rất nghiêm khắc để cố gắng loại bỏ những thành kiến sẵn có trong các người tham dự cuộc thí nghiệm. Những quy chế, phương cách và luật lệ trên cách ly các phản ứng và phán xét của con người ra khỏi những gì xảy ra trong cuộc thí nghiệm.
Một phương cách thường dùng nhất gọi là “double-blind” (tạm diễn nghĩa là “bịt mắt đôi bên”). Trong một cuộc thí nghiệm theo phương cách nầy, người điều hành cuộc thí nghiệm lẫn đối tượng được thí nghiệm không được cho biết những chi tiết trọng yếu của cuộc thí nghiệm là gì. Đây là để tránh việc các kiến thức, tín ngưỡng lẫn định kiến (nếu có) của những người tham dự vô tình làm ảnh hưởng đến kết quả của cuộc thí nghiệm. Phương cách nầy cũng để tránh hiện tượng “ảnh hưởng placebo” lên đối tượng được thí nghiệm.
Một thí dụ về ảnh hưởng placebo: Người ta chọn ra 3 nhóm bệnh nhân, một nhóm được cho uống những viên thuốc làm bằng bột mì và nói rằng đây là loại thuốc mới và hữu hiệu nhất, một nhóm uống thuốc thật sự và một nhóm không được uống thuốc gì cả. Phần đông nhóm thứ nhất (uống thuốc bột mì) thuyên giảm rõ rệt tương tự như nhóm thứ hai (uống thuốc thật sự) và hơn hẳn so với nhóm thứ ba (không được uống thuốc gì cả). Khoa học không hiểu rõ hoàn toàn cách làm việc của ảnh hưởng placebo ra sao nhưng hiện tượng nầy xảy ra thường xuyên và có thể kiểm chứng được. Một thí dụ khác: một nhóm tín đồ được cho phép sờ một “thánh vật” tường trình cảm thấy khỏe mạnh, may mắn và thành công trong công việc làm ăn hơn một nhóm tín đồ khác không được phép tiếp cậnvới “thánh vật” ấy. Tuy nhiên, “thánh vật” trên thật ra chỉ là một món vật bình thường mượn tạm của ai đó. Có thể nói rằng đây là một dạng tự kỷ ám thị khi mà tâm thức của một người điều khiển và thay đổi được khả năng hoạt động trong cơ thể vật chất của họ.
Trong một cuộc thí nghiệm “double-blind” kể trên, người điều hành cuộc thí nghiệm khi phân phát thuốc cũng như khi so sánh, phân tích và tóm lược kết quả sẽ không biết ai được uống thuốc giả, ai uống thuốc thật và ai không được uống thuốc. Điều nầy để tránh việc người điều hành có những cử chỉ, hành vi vô tình làm những đối tượng được thí nghiệm (các bệnh nhân) đoán biết được mình đang thuộc nhóm nào. Để cho người tham dự thí nghiệm có được phản ứng hoàn toàn tự nhiên, những nghiên cứu gia không cho họ biết mục tiêu thật sự của cuộc thí nghiệm là gì trước khi mọi việc hoàn tất.
Trong một thí nghiệm xếp hạng phẩm chất máy hát dĩa CD trên thị trường, phần lớn những người “giám khảo” chấm điểm cao cho những chiếc máy hát đắc tiền và có nhãn hiệu danh tiếng. Đó là khi họ được cho nhìn thấy nhãn hiệu của các chiếc máy họ đang nghe thử. Người ta lập lại cuộc thí nghiệm nhưng không cho các giám khảo biết nhãn hiệu máy nào họ đang thử. Kết quả lần nầy cho thấy nhiều máy rẻ tiền và không có danh tiếng vẫn được đánh giá ngang hang hay có khi còn cao hơn những chiếc máy đắc tiền và nổi tiếng.
Trong một thí nghiệm khác về cách học hỏi bằng tiềm thức, một số băng ghi âm được phân phát cho một nhóm người. Các băng trên phát ra những âm thanh rất nhỏ nên nhĩ lực con người không thể nào nghe hiểu được nội dung của chúng là gì. Nhóm người nầy được bảo rằng các băng ghi âm trên sẽ giúp phát triển các tiềm năng nằm sẵn trong họ. Phân nửa số băng ghi âm có ghi tựa đề “Giúp Phát Triển Trí Nhớ”, phân nửa số băng có ghi tựa đề “Giúp Phát Triển Sự Tự Tin trong Việc Giao Tế”. Sau một tháng lắng nghe các băng ghi âm trên hàng đêm trong khi ngủ đúng theo lời chỉ dẫn, nhiều người trong nhóm nghe băng “phát triển trí nhớ” tường trình những “tiến bộ rõ rệt” với trí nhớ của họ, nhiều người trong nhóm nghe băng “phát triển tự tin” tường trình những “tiến bộ rõ rệt” với sự tự tin của họ. Tuy nhiên, sự thật là tất cả các băng ghi âm trên đều giống hệt nhau và chúng chỉ ghi lại tiếng động của xe cộ chạy ngang trước phòng thí nghiệm.
Hầu như tất cả những cái gọi là “thí nghiệm khoa học” để chứng minh các hiện tượng siêu nhiên đều không dùng phương cách “bịt mắt đôi bên” kể trên. Do đó những kết luận của các thí nghiệm trên hầu như đều không có giá trị gì cả.
Ngoài ra, các thí nghiệm về khoa học siêu nhiên cũng thường phạm những lỗi lầm cơ bản sau đây:
– Chỉ dựa trên một số lượng đối tượng thí nghiệm rất nhỏ do đó kết quả không thể đại diện trung thực cho nhiều trường hợp khác.
– Không thể lập lại các thí nghiệm trên để có cùng một kết quả mỗi lần đều giống nhau. Điều nầy cho thấy có vấn đề gì trục trặc trong quá trình thí nghiệm mà người nghiên cứu không thấy cần thiết hoặc không muốn điều tra cặn kẽ để sửa đổi hay giải quyết.
– Bản tường trình không được kiểm chứng và đối chứng bởi những khoa học gia chuyên nghiệp nhiều kinh nghiệm cùng ngành (peer review). Vì thế những lỗi lầm về lý luận cũng như sắp xếp, tổ chức, v.v. của các thí nghiệm trên không được phát giác để sửa đổi.
Trước khi một loại dược phẩm mới được tung bán ra thị trường, nó phải trải qua những thí nghiệm thỏa tất cả những quy luật cơ bản kể trên, và nhiều quy luật khảo nghiệm khác nữa. Nếu chỉ cần một điều kiện trên không thỏa thì người ta sẽ rất ngần ngại phát hành loại dược phẩm đó.
Cho đến nay, tôi chưa hề thấy có trường hợp “siêu hình” nào, ngay cả những thí nghiệm, những hiện tượng, những trường hợp nổi tiếng nhất, thỏa tất cả những quy luật trong phương cách khảo nghiệm khoa học kể trên.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét