Thứ Hai, 1 tháng 12, 2014

NHỮNG NGƯỜI MÁY CHỐNG CỘNG KHI KHÔNG CÒN CỘNG VÀ Ở NƠI KHÔNG CÓ CỘNG


Trần Chung Ngọc


Theo định nghĩa của riêng tôi thì “Người Máy Chống Cộng” là người hoặc có cái “gen” của Thượng đế [có nghĩa là nghiện đạo]; hoặc là người loạn sắc, chỉ nhìn thấy màu đỏ; hoặc là người có những hành động chống Cộng khi không còn Cộng và ở nơi không có Cộng; hoặc là người viết lách chống Cộng mà thật ra là tự chống; hoặc là người chỉ có thể phản ứng theo tiếng chuông rung của Pavlov.... Và chúng ta phải công nhận là, ở hải ngoại quả có một số người máy. Những người máy chống Cộng này chỉ là một thiểu số, nhưng vì to miệng nhất, hung hăng nhất, nhiều khi côn đồ nhất, cho nên họ chiếm đa số những người hành động như máy, viết lách như máy.

Những người máy, vì là người máy, cho nên bộ não của họ đã được “programmed” sẵn cùng một thảo chương, tập trung vào lý luận (sic) “ad hominem” thay vì “ad rem”, có nghĩa là không thảo luận vấn đề mà chỉ tập trung vào việc đả kích cá nhân, bịa đặt moi móc đời tư, xuyên tạc sự kiện, chụp mũ lung tung, viết những bài viết tưởng tượng láo lếu để mạ lỵ, hạ thấp đối phương v..v... Đây là thủ đoạn của những người không đủ khả năng để thảo luận trên các chủ đề, cho nên phải sử dụng những thủ đoạn hạ cấp, nhiều khi rất vô giáo dục, để mong hạ được đối phương. Chúng ta thấy các thủ đoạn này có đầy trên một số trang nhà và diễn đàn công cộng.

Tôi xin lấy một thí dụ. Giả thử tôi phát biểu như sau: “Hiện nay, cờ đỏ sao vàng là lá cờ chính thức của quốc gia Việt Nam, còn lá cờ vàng ba sọc đỏ chẳng còn là lá cờ của quốc gia nào” thì chắc chắn đến 150% là sẽ có những người máy chụp mũ tôi không là tay sai của CS thì cũng là thân Cộng, đón gió trở cờ (sic) hay ăn cơm thừa canh cạn của CS v...v.... Nhưng đầu óc của những người máy không được “programmed” để biết rằng, tôi là một người Mỹ gốc Việt, phi Quốc, phi Cộng, chỉ nói lên một sự kiện mà đố ai có thể phản bác được. Họ chỉ được “programmed” để cứ `thấy nói đến cờ đỏ sao vàng mà không hợp ý họ là phát dị ứng.

Điều này có thể chứng minh rõ ràng hơn nữa qua cái gọi là “hiện tượng Phạm Minh Mẫn”. Ông Hồng Y không ý thức được rằng mình sẽ phải đối phó với những người máy chống Cộng nên “chót dại” viết lên một sự kiện: Nguyên Văn: “có một sự kiện mà một số bạn trẻ ở một số nơi coi như một sự cố làm tắc nghẽn con đường hiệp thông của các bạn trẻ VN. Sự cố đó là lá cờ vàng ba sọc đỏ đã được dương lên trong lúc các bạn trẻ VN từ nhiều châu lục quy tụ lại để cử hành phụng vụ hoặc sinh hoạt chung.”


H.Y. Phạm Minh Mẫn

Ông Hồng Y nêu lên một sự kiện, và chúng ta cũng đã thấy rõ, đó chính là một sự kiện. Nhưng những người máy chống Cộng lại không cho đó là một sự kiện hiển nhiên, mà từ người máy tiến sĩ, người máy bác sĩ, cho đến người máy tu sĩ, văn sĩ cùng những người máy hầm bà lằng vô tên tuổi đã chụp lên đầu ông Hồng Y của họ đủ các thứ mũ, kết án ông ấy là muốn “triệt hạ lá cờ vàng”, rồi khoác cho ông ta một áo choàng đỏ trên có ngôi sao vàng để mà tố khổ, với đủ mọi văn phong, từ hạ cấp đến ngớ ngẩn đến độ phi lý. Đây có phải là thái độ của người trí thức hay không, hay chỉ là phản ứng của những người máy? Tại sao họ không thể thảo luận về vấn đề trương cờ vàng, không đại diện cho bất cứ một quốc gia nào, trong một ngày có ý nghĩa thuần túy tôn giáo của Công giáo, có giới trẻ của 170 quốc gia tham dự. Giả thử có một bạn trẻ ở Congo, vì không biết lá cờ vàng là cái gì, nên hỏi: “Các bạn đến từ quốc gia nào vậy, cờ của bạn đẹp quá đi, nhưng mà các bạn mang nhiều cờ đến như vậy để làm gì, thường mỗi quốc gia chỉ mang một lá cờ biểu tượng cho quốc gia của họ thôi” thì giới trẻ Công giáo Mít muốn phô trương lực lượng cờ vàng trả lời như thế nào? Có dám trả lời như vậy được không: “Đây không phải là cờ của quốc gia nào, mà chỉ là cờ mà một số người Việt Công giáo lưu vong chúng tôi ở đây coi nó như là biểu tượng của chính nghĩa quốc gia dân chủ tự do.” [Phụ Chú ngoài lề: Chính nghĩa quốc gia dân chủ tự do (sic), với hơn 1 triệu quân, cộng với hơn nửa triệu quân Mỹ, cộng với ưu thế tuyệt đối về máy bay, xe tăng, tàu bò, vũ khí nặng, vũ khí cá nhân v..v.. nhưng rút cuộc lại không thể sống trên đất nước của mình được, phải di cư ra hải ngoại để tuyên dương ở các đại hội Công giáo, và đây cũng là một sự kiện]. Giả thử anh bạn Congo lại hỏi: “Thế các bạn mang nó đến đây làm gì, đại hội giới trẻ Công giáo thế giới của chúng ta là để cho chúng ta có cơ hội chia sẻ cùng một niềm tin, học hỏi thêm “đạo lý vâng lời” của đức thánh cha chúng ta, cùng “have fun” mí nhau, và có thể mua hàng hạ giá 10% của nhà hàng Xclusive, khỏi “làm phiền” đến các nữ tu và đám trẻ con v..v...”, vậy những ý niệm chính trị như tự do dân chủ có chỗ nào ở đây, quảng cáo tự do dân chủ cho ai, cho mấy trăm ngàn giới trẻ chúng tôi đến từ 170 quốc gia?, hay là cho giáo hội Mẹ của chúng ta chưa bao giờ tôn trọng tự do, dân chủ và nhân quyền nói chung? [Anh bạn Congo này có thể là thân Cộng, hay thân Trần Chung Ngọc nếu muốn nghĩ như vậy, ai biết được, nhưng anh ta chỉ nói lên sự thật, chỉ là sự thật, không ngoài sự thật (the truth, only the truth, nothing but the truth) ] Xin mời các người máy tiến sĩ, bác sĩ, văn sĩ, khùng sĩ, thần học sĩ, “đức vâng lời” sĩ, kể cả các tu sĩ như Gioan Baotixita Đinh Xuân Minh [Người chủ trương:“Chống Cộng Nhờ Ơn Chúa Thánh Thần”, và tuyên dương “"Hãy khinh tởm sự ác! Hãy bám chặt vào sự tốt lành!" mà không chịu sờ lên gáy xem cái giáo hội của mình có ác hay không, ác như thế nào, và còn đang tiếp tục ác hay không [Thánh chiến, tòa án xử dị giáo và săn lùng phù thủy với những hình cụ tra tấn dã man nhất thế giới, toa rập với thực dân, liên kết với Hitler, giúp các tội phạm chiến tranh Đức và Croatia chạy trốn công lý, linh mục loạn dâm với sự đồng lõa bao che của Tòa Thánh và còn đang tiếp tục dài dài v…v…], Nguyễn Hữu Lễ [Người ca tụng: “Cờ Bay, Cờ Bay”] trả lời cho câu hỏi này. Im lặng là vàng, có phải không?

Chuyện “nhân dân tự vệ” còn dài dài. Trước những ngôn ngữ khoa trương như“cờ bay, cờ bay”, hay “ngạo nghễ tung bay”, hay ”chiến thắng CS huy hoàng”, hay “phô trương lực lượng” v… v… , ông Mục sư Nguyễn Quang Minh có vẻ bực mình, bèn phán một câu đại khái như sau: “Bao giờ mang về Việt Nam tung bay thì mới gọi là chiến thắng”. Thế là các người máy chống Cộng không cần biết là ông ta nói đúng hay sai, nhận định có cơ sở hay không, nhao nhao lên, hè nhau dùng thủ đoạn “ad hominem”, moi móc đời tư, chụp mũ ông ta đủ thứ là thân Cộng, làm tay sai cho CS, và gọi ông ta là “Mục súc” v..v... Đây là những thủ đoạn hạ cấp nhất trong những thủ đoạn hạ cấp. Thế các con chiên là “súc” gì, và những người chăn chiên gọi là “mục” gì? Vấn đề mà những người máy chống Cộng cần học hỏi, nếu trong đầu óc còn có chỗ nào có thể học được, là phê bình thẳng vào câu nói của ông Mục sư nói đúng hay sai, nếu sai thì sai ở chỗ nào, còn bàn đến đời tư của ông ta hay chuyện ông ta thân Cộng hay không là không thích đáng [irrelevant]. Vả chăng, trong thế giới tự do, ông ta dù có thân Cộng cũng là quyền của ông ta, không ai có quyền xía vào khuynh hướng chính trị xã hội của ông ta. Không đồng ý, tôi chỉ có thể nói là, lập trường chính trị của tôi không giống của ông, chứ tôi không thể lên án ông là có lập trường không giống tôi. Đây là bài học sơ đẳng về dân chủ và tự do cho những người nhân danh dân chủ và tự do để chống Cộng láo. Chống Cộng láo như thế nào? Đưa hình ảnh ông Mục sư Minh mặc khăn đóng áo dài ở Việt Nam rồi kêu toáng lên: “Đó, thấy không? Ông ta về VN nhiều lần mặc khăn đóng áo dài. Đứng chụp hình dưới lá cờ đỏ sao vàng, Rõ ràng là thân Cộng” rồi ra công tố khổ, mạ lỵ ông ta. Không có cái luận điệu nào ngu xuẩn như cái luận điệu này. Cứ Việt kiều nào về nước mặc khăn đóng áo dài là thân Cộng hay làm tay sai cho Cộng hay sao? Và cứ chụp hình dưới lá cờ đỏ là thân Cộng hay sao? Như vậy thì Clinton, Bush, và các nguyên thủ quốc gia khác đã đến Việt Nam trong hội nghị APEC cũng đều là “thân Cộng”?? Chống Cộng ngu như vậy mà cũng đưa lên diễn đàn công cộng.

Các người máy chống Cộng có biết rằng trên thế giới ngày nay có bao nhiêu người theo CS, có bao nhiêu tổ chức CS, có bao nhiêu đảng CS không? Hãy vào Internet, đánh chữ “Communism Today” vào chỗ Search thì sẽ thấy. Bật mí cho các người máy chống Cộng biết, hiện nay CS có mặt khắp 5 châu: Âu Châu; Bắc Mỹ, Trung Mỹ, Nam Mỹ; Phi Châu; Á Châu; Úc châu. Nguyên ở Âu Châu, các nước sau đây đều có đảng CS, hội đoàn CS, tổ chức CS v…v…, và tuy các tổ chức này không hoàn toàn nắm quyền nhưng không phải là không có ảnh hưởng trên các mặt văn hóa và xã hội:



Communist Parties today in Europe: Albania, Austria, Belarus, Belgium, Bosnia & Herzegovina, Bulgaria, Czech Republic, Denmark, Finland, France, Germany, Great Britain, Greece, Hungary, Ireland, Italy, Luxembourg, Moldova, Netherland, Norway, Poland, Portugal, Romania, Russia, San Mario, Serbia, Slovakia, Slovenia, Spain, Sweden, Switzerland, Ukraine.



Lạ một điều là ở các nước ngoan đạo như Pháp, Đức, Ý, Tây Ban Nha, Ái Nhĩ Lan lại có nhiều tổ chức Cộng sản nhất. Tôi đưa những tài liệu này lên không phải là để bênh vực Cộng Sản, hay để ca tụng Cộng sản, hay để kêu gọi bất cứ ai hãy theo Cộng sản, mà chỉ muốn những người máy chống Cộng hãy nhìn vào thực tế: Trong thế giới tự do này, chúng ta không có quyền lên án bất cứ ai về khuynh hướng chính trị của họ, cho nên những người máy chống Cộng, trong khi hành nghề chống Cộng, cần học bài học đầu tiên ở trên OCRegister.com là:

Những người chống đối có biết rằng trong thế giới ngày nay mà chụp mũ và lên án một người nào là cộng sản thì thật là ngu xuẩn như thế nào không? Nó đã quá lỗi thời và chứng tỏ rõ ràng là các người thiếu giáo dục.

[Do you protestors realize how ignorant it sounds to utilize and accuse someone of being a communist in today's world? It's outdated and clearly demonstrates your lack of education.]

Mặt khác, muốn chống Cộng thì cứ chống, nhưng đừng bao giờ ngu xuẩn đến độ quy kết những tệ đoan xã hội là chính sách của Đảng và Nhà Nước. Không phải tất cả những gì liên hệ đến Cộng Sản cũng đều là xấu cả. Bởi vì quy kết như vậy thì tôi có thể nói rằng vụ hơn 5000 linh mục loạn dâm cũng là chính sách của Vatican hay sao, dù rằng Vatican có chính sách bao che những tội phạm này? Không ai có thể đần độn đến độ có thể tin như vậy. Nhưng đây lại chính là luận điệu chống Cộng mà các người máy muốn mọi người phải tin như vậy. Muốn chống thì phải chống cho đúng, và hợp lý, chứ cái kiểu chống Cộng ruồi bu này ai mà nghe cho được. Cứ tưởng rằng ai cũng có đầu óc bó chặt như mình hay sao?

Chẳng ai có thể phủ nhận lá cờ vàng ba sọc đỏ, một thời đã là biểu tượng của các chế độ quốc gia, từ 1948 đến 1954 dưới quyền Pháp, và từ 1954 đến 1975 trên thực tế dưới quyền Mỹ, nhưng dù sao cũng là một biểu tượng mà mấy chục triệu người dân sống dưới nó, và cũng có biết bao chiến sĩ hi sinh vì nó. Nhưng sau 1975 thì biểu tượng đó đã đi vào dĩ vãng của lịch sử, không còn là “quốc kỳ” mà cũng chẳng phải là biểu tượng của “di sản và tự do” [symbol of heritage and freedom] của người Việt miền Nam, vì thực chất miền Nam chẳng để lại cái di sản nào đáng giá, và các chính quyền miền Nam cũng chẳng phải là những chính quyền tự do, dân chủ theo đúng nghĩa của tự do và dân chủ.. Nếu cái di sản đó là lòng hận thù một chiều triền miên và chống Cộng cho Chúa thì thà đừng có còn hơn. Và đây cũng là một sự kiện không ai có thể chối cãi.

Lá cờ vàng không còn là “quốc kỳ” vì “quốc kỳ” là biểu tượng của một quốc gia có chủ quyền, có một lãnh thổ riêng biệt. Những người dân trong một quốc gia thì có cùng một căn cước, và thường có cùng một nguồn gốc, và theo nghĩa lịch sử, có cùng tổ tiên và các hậu duệ. Một quốc gia trải dài qua nhiều thế hệ và gồm cả những người đã quá cố. Một quốc gia thường được cả thế giới công nhận là một thực thể có căn cước riêng trong cộng đồng thế giới. Cộng đồng người Việt di cư đầy chia rẽ không hội đủ bất cứ một điều kiện nào như trên cho nên không phải là một quốc gia và tất nhiên không thể có quốc kỳ. Do đó, thực chất lá cờ vàng chỉ còn là “vang bóng một thời” của những người cố bám vào quá khứ mà không nhìn thấy hiện thực.

Những nhóm người máy chống Cộng cực đoan không hiểu được như vậy cho nên đã lạm dụng lá cờ vàng ba sọc đỏ trong những hành động vô lối, thiếu hiểu biết. Đọc dư luận về đám người không có đầu óc này trên báo Mỹ và trên Internet tôi thật sự lấy làm xấu hổ lây. Lá cờ vàng ba sọc đỏ đã trở thành biểu tượng của những đám người chống Cộng bất kể lý lẽ, những đám người giống như những băng đảng, không đại diện cho bất cứ ai, khoan nói là đại diện cho hơn 2 triệu người Việt di cư. Họ mang lá cờ đã cuốn gói chạy dài trong năm 1975 ra phô trương làm “quốc kỳ” mà chẳng hiểu thế nào là quốc với kỳ, mở đầu là nhóm “phở bò”, và bây giờ phát triển đến các nhóm “không được làm tôi cho hai chủ”, rồi mang cờ đi trương một cách rất “hào hùng” để “vinh danh” lá cờ lệ thuộc ngoại bang và thua trận mà không hề lấy đó làm ngượng, làm xấu hổ. Hồng Y Phạm Minh Mẫn nói không sai, những từ ngữ huênh hoang khoác lác như“biểu dương lực lượng” hay “chiến thắng CS”, “cờ bay, cờ bay” rõ ràng là phản ánh cái “thói đời mang tính đối kháng” rồi còn gì nữa.

Rồi lại có người viết láo về ý nghĩa của màu đỏ và vàng để chống Cộng. Cái ông sống ở miền “ruộng núi” [Sơn Điền] viết bậy về màu sắc mà không biết là mình viết cái gì. Ông ta viết như sau để quảng cáo cho màu vàng trong cờ vàng ba sọc đỏ:

Sắc vàng vốn dĩ tiêu biểu cho tinh thần quật cường của dân tộc Việt Nam đã có từ ngàn xưa, bắt đầu từ lá cờ vàng của Trưng Vương, cũng như chiến bào mầu vàng của Bà khi cưỡi voi ra trận chống lại quân nhà Hán bên Tầu đến xâm lược nước ta năm 42 đầu Công Nguyên.

Rồi kế đến năm 246 bà Triệu Ẩu, kiện tướng "cuỡi cá kình trên biển Đông", một hình ảnh biểu tượng trong tâm người Việt để ghi nhớ công đức của Bà chỉ huy quân đội chống lại giặc Đông Ngô xâm phạm bờ cõi Việt Nam. Lịch sử ghi lại bà Triệu thường mặc áo ngắn mầu vàng cầm thương cưỡi ngựa ra trận.

Thì cứ cho là ông ta viết đúng đi, nếu ông ta có đủ tài liệu lịch sử chứng thực, nhưng chuyện mặc “hoàng bào” của các Nữ Vương hay các vua chúa khi xưa thì có gì là lạ? Nhưng cờ Bà Trưng, Bà triệu chống ai, chống giặc ngoại xâm có phải không? Thế cờ vàng ba sọc đỏ chống ai? Làm bù nhìn chống Cộng cho Pháp (Bảo Đại); Chống Cộng cho Chúa (Ngô Đình Diệm, viết mà chơi: ông Diệm mặc bộ âu phục trắng và cúi đầu trước các bộ áo chùng thâm chứ không mặc áo giáp vàng như Bà Triệu Ẩu); chống kháng chiến, chống người yêu nước hi sinh tính mạng để giành độc lập cho nước nhà, và nằm dưới quyền của ngoại quốc: Pháp rồi Mỹ, những ông chủ đã đổ trên đất nước không biết bao nhiêu là bom đạn, giết hại không biết là bao nhiêu dân lành, phá hại không biết là bao nhiêu cây cối mùa màng.. Vậy cờ vàng ba sọc đỏ lấy cái gì để mà so sánh hay tương đồng hóa với cờ vảng hay áo giáp vàng của Bà Trưng, Bà Triệu? Nếu có giống nhau thì chỉ giống cái màu vàng, còn ý nghĩa và biểu tượng hoàn toàn khác nhau. Thế mà cũng viết lên được, không hiểu đầu óc của những bậc “trí thức” như thế này thuộc loại nào.

Ông ta còn viết:

Còn cờ đỏ là mầu của máu, mầu của cách mạng vô sản. Trước đó đã có những cuộc cách mạng ôn hòa của một số nước Âu châu khi người dân tìm cách thay đổi các chế độ vua chúa phong kiến vì nhu cầu tiến bộ và phát triển.

Nhưng khi những người Cộng sản Nga làm cách mạng vô sản để nhuộm đỏ cả hoàn cầu vào đầu Thế kỷ 20, họ chọn nền cờ đỏ cũng đúng, vì đây là cuộc cách mạng đẫm máu trong suốt 100 năm, dài hơn cả hai cuộc thế chiến. Ngày nay những người Cộng sản Việt Nam tiếp tục dùng cờ máu, nhưng sự thật lá cờ máu đó nay chỉ còn đại diện cho chế độ cai trị của một nhóm người tàn dư một chủ nghĩa chính trị đã lỗi thời. Nó không thể nào tiêu biểu cho một dân tộc có lương tri và đức độ, có sức sống mãnh liệt từ bốn ngàn năm qua. Đại họa cho dân tộc Việt Nam là cờ đỏ đã làm biết bao máu đổ thịt rơi vì chiến tranh, ở bên này cũng như bên kia lằn mức.

Ông ta viết bậy, cứ như là muốn đi lên trên nơi giầy dép. Thật vậy, ông ta thử vào website: http://www.photius.com/flags/alphabetic_list.html, để nhìn xem cờ của các quốc gia trên thế giới có bao nhiêu nước có nền đỏ, và có bao nhiêu nước có màu đỏ trên đó. Chúng ta có thấy ai viết bậy và chống Cộng một cách rất ngu xuẩn và rất rẻ tiền như thế này không? Thứ nhất, màu đỏ có nhiều ý nghĩa và tượng trưng cho nhiều thứ, chứ chẳng phải chỉ là màu máu và cách mạng vô sản của Cộng sản. Tìm hiểu về màu đỏ chúng ta có thể đọc được như sau:

- Màu đỏ là màu thấy nhiều nhất trong các lá cờ của các quốc gia [Red is the color most commonly found in national flags.]

- Ở Nga sô, màu đỏ có nghĩa là đẹp. Người Bolsheviks dùng lá cờ đỏ làm biểu tượng khi họ lật đổ Nga Hoàng năm 1917. Đó là tại sao màu đỏ trở thành màu của Cộng Sản. [In Russia, red means beautiful. The Bolsheviks used a red flag as their symbol when they overthrew the tsar in 1917. That is how red became the color of communism.]

- Ở Trung Quốc, màu đỏ là màu của sự thịnh vượng và vui vẻ. Các cô dâu đều mang y phục đỏ và cửa nhà thường sơn đỏ. [In China, red is the color of prosperity and joy. Brides wear red and front doors are often painted red.]

- Màu đỏ còn giúp cho con người thêm năng lượng (more energy); hành động và sự vững tin để theo đuổi mơ ước của mình (action and confidence to go after your dream) và bảo vệ để không bị sợ hãi và lo lắng (protection from fears and anxieties).

- Màu đỏ là màu của máu, như vậy nó là biểu tượng mạnh mẽ cho sự sống và sinh khí. Nó mang lại trọng điểm cho tinh chất của sự sống và đặt nặng trên sự sống còn. [Red is the color of blood, and as such has strong symbolism as life and vitality. It brings focus to the essence of life and living with emphasis on survival.]

- Những người mang áo đỏ là binh sĩ của lãnh tụ Ý Garibaldi, người đã mang lại thống nhất cho nước Ý hiện đại trong thế kỷ 19 [The “Redshirts” were the soldiers of the Italian leader Garibaldi, who unified modern Italy in the nineteenth century.] (Lịch sử: Garibaldi cũng là tướng tiến quân vào Rome, tước đoạt tất cả đất đai của giáo hoàng [papal states], thu hẹp còn lại Vatican ngày nay chỉ rộng bằng 2 sân đá banh]

- Nhiều người có quan niệm sai lầm về màu đỏ và vàng của lá cờ Việt Nam là của Cộng sản. Hầu hết những người không phải là dân Á Châu không biết rằng màu đỏ và vàng là những màu có tính cách tích cực, tượng trưng cho sức mạnh và may mắn trong các nền văn hóa Á Châu.

[OCRegister.com: Many have a misconception of relating the red and yellow colors of the Vietnam flag to communism. Most non-Asians don’t realize that red and yellow are positive colors of strength, luck or good fortune in Asian cultures.]

Như vậy, ông Sơn Điền đã thấy mình viết bậy bạ và hẹp hòi như thế nào chưa. Không những bậy bạ hẹp hòi mà còn mù tịt về chính trị thế giới đến độ cho rằng “cờ đỏ đã làm biết bao máu đổ thịt rơi vì chiến tranh, ở bên này cũng như bên kia lằn mức.” Vậy phải chăng ngày nay “cờ đỏ” phải đấm ngực mà kêu “Mea culpa”, thú tội với Chúa?? Thế còn bom đạn của cờ “ba màu”, cờ “sao và sọc”, cờ vàng ba sọc đỏ không có dự phần nào trong cuộc chiến? và sự gây tổn hại cho đất nước thì bên nào gây nhiều hơn? Các người máy chống Cộng chuyên nghề chống một chiều, đổ tất cả tội lên đầu Cộng sản mà không biết rằng thủ phạm gây chiến ở Việt Nam chính là Vatican liên kết với các đế quốc Pháp, Mỹ, và quên mất một điều là: lá cờ đỏ đã xuất hiện từ năm 1940 trong cuộc Nam Kỳ Khởi Nghĩa và “ý nghĩa chính của lá cờ có nguồn gốc dân tộc, nói lên sự hi sinh của những người yêu nước đã đổ máu vì dân tộc và sự đoàn kết của các tầng lớp nhân dân trong nhiệm vụ chống ngoại xâm để giành lại độc lập và thống nhất cho đất nước” và trên thực tế đã thành công nhờ sự lãnh đạo của Việt Minh, lập thêm một trang sử oai hùng chống xâm lăng của dân tộc Việt Nam. Nếu không làm sao nó có thể được người dân ủng hộ để tạo được những thành tích mà cả thế giới phải kính nể. [Hãy đọc những bài khảo cứu của giáo sư Sử Học Nguyễn Mạnh Quang] Và đây là những sự kiện lịch sử bất kể là chúng ta diễn giải, xuyên tạc nó như thế nào.

Bây giờ chúng ta sang mục mấy ông người máy chống Cộng của Vatican. Tôi chỉ có thì giờ viết về ông linh mục Đinh Xuân Minh, mà tôi coi là kiểu mẫu điển hình của một người máy chống Cộng cho Chúa. Ông Minh đòi vác Chúa Thánh Thần ra chống Cộng. Vác Chúa Thánh Thần ra mà chống Cộng thì đến Tết Congo Cộng sản mới dẹp tiệm. Tại sao? Vì Chúa Thánh Thần, nguyên thủy chỉ là con Thánh Ma (Holy Ghost), chỉ có mỗi một nhiệm vụ là làm cho bà Mary mang thai Giê-su, rất có thể (xác suất bằng 0) bằng phương pháp IVF (In Vitro Fertilization) mới được khám phá ra trong vài thập niên nay, sau khi hết nhiệm vụ rồi thì ngồi chơi xơi nước, ngồi chờ khi nào mấy ông Giáo hoàng, Giám mục, linh mục gọi thì vội vàng đến ngự vào đầu óc con chiên làm cho đầu óc con chiên càng ngày càng u mê tê liệt. Điều này rõ ràng hơn gì hết nếu chúng ta đọc bài của Linh mục Đinh Xuân Minh, một người máy chống Cộng cho Chúa. Vì có Chúa Thánh Thần ngự nên văn phong của ông này là văn phong của “đao phủ văn chương và côn đồ văn hóa” [từ của Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang], vì thuộc loại “đao to búa lớn” và “hung hăng như côn đồ”, chẳng khác gì Linh Mục Nguyễn Văn Lý trong Tòa Án. Đây, chúng ta hãy đọc câu mở đầu của một ông linh mục, một Chúa thứ hai của các con chiên:

“Khi chúng tôi đang viết bài này, thì được tin kẻ gian trong nhà ác tại Úc là Trần Quốc Khánh, đã ra lệnh cho thuộc hạ, những tay sai côn đồ phá rối Cộng Đồng Người Việt Tự Do tại Úc. Ngoài ra, cũng có tin trong nước cho biết rằng, chủ tịch “Ủy Ban Phá Rối Tôn Giáo” là Huỳnh Đảm, đã đưa ra chỉ thị Việt Cộng (VC) mang mật số là 317/VC/MTTW- BTT để phá đạo. Chiếu theo chỉ thị này, thì kẻ Gian sẽ trà trộn vào người Thiện là 60 người để gây sự tà gian. Xin nhắc nhở qúi vị đồng bào tự do thế này: Qúi vị mà cứ thấy mặt kẻ nào gian ác, trông ngơ ngơ ngáo ngác, mặt thì tràn đầy sắc khí là đích thị đúng hắn rồi đấy!”

Sau cuộc “chiến thắng CS” [sic] của các con chiên ở Úc, mấy ông linh mục cũng thừa thắng xông lên, hô hào con chiên chống Cộng hăng hơn nữa, chết bỏ, vì “Chúa ở cùng ta”, nên 33 năm nay không thành công thì nhất định là 330 năm hay 3330 năm nữa Chúa Thánh Thần sẽ giúp cho thành công. Tại sao? Vì Cộng sản chỉ là “người rơm” mà Công giáo dựng lên để rồi như Don Quixote, chống Cộng cho Chúa nhưng thực ra chỉ chống hư vô, chống một ảo ảnh do chính mình tạo ra. Ở Việt Nam ngày nay làm gì còn Cộng sản nữa. Mỗi năm có mấy trăm ngàn người Việt “chống Cộng” về thăm quê hương, chẳng ai thấy Cộng sản ở đâu cả, có muốn chống cũng chẳng thấy đâu để mà chống.. Còn đối với Công Giáo thì Công giáo không dám để cho Cộng sản chết, vì nếu như vậy thì các con chiên Việt Nam còn cái gì để chống cho Chúa. Xưa kia thì đã theo thực dân Pháp chống quốc gia cho Pháp vì Pháp mang Chúa đến cho họ, bây giờ đâu có còn làm được như vậy nữa, cho nên phải dùng Cộng sản làm cái bung xung để chống, mà thật ra là chống quốc gia. Người Công giáo thuộc lòng câu Chúa dạy: “Không ai có thể làm tôi tớ cho 2 chủ”. Vì vậy họ chỉ có thể làm tôi tớ, tỳ nữ cho Vatican, chứ không thể làm tôi tớ cho quốc gia đã sinh ra họ và nuôi dưỡng họ. Điều này chúng ta thấy rõ nhất trong vụ “Tòa Khâm Sứ” gần đây. Tôi đã về Việt Nam 3 lần: 1996, 1998, và đưa cả gia đình về năm ngoái, 2007. Con trai, con gái, con dâu, con rể, cháu nội, cháu ngoại, tuổi từ 9 đến ngoài 40, chẳng đứa nào thấy Cộng sản ở đâu, chúng đi chơi các nơi, ăn uống ngon lành, “vô tư”, “thoải mái”, chẳng có ai làm phiền, chẳng có ai hỏi han hay “hỏi thăm sức khỏe”. Nói đến Cộng sản là ta phải nghĩ ngay đến “đấu tranh giai cấp” hay “đấu tố địa chủ”, nhưng ngày nay mà tìm được những thứ này thì cũng như tìm ra được một người công chính ở thành Sodom, trừ ông Lot là người công chính nhất, và 2 đứa con gái.

Nói đến chuyện ông Lot trong Thánh Kinh thì tôi không thể bỏ qua đoạn văn sau đây của ông linh mục Đinh Xuân Minh, vác chuyện ông Lot ra để nguyền rủa nước Việt Nam.



Linh mục Đinh Xuân Minh

Thiên Chúa đã hủy diệt thành Salomo, vì không tìm thấy đâu ra thêm người công chính. Lúc đầu ông Lót chỉ xin tìm năm chục người công chính thôi. Nếu có, Thiên Chúa cũng tha không phạt thành. Nhưng rồi cuối cùng, giả như ông Lót tìm được mười người công chính Thiên Chúa cũng không phạt thành, vì tội lỗi của chúng gây ra quá nặng nề“ (St 18, 20b). Nhưng ông cũng không tìm ra. (Xem Sáng Thế 18, 16 tt).

Nếu tôn giáo phục vụ cho sự dữ sẽ tìm đâu ra người công chính? Chúng tôi rất lo ngại và hằng quan tâm âu lo cho Dân tộc Việt Nam thân yêu của chúng ta đứng trước thảm họa này.


Đoạn văn này có ý nói rồi Thiên Chúa của ông Minh sẽ phạt dân tộc Việt Nam giống như đã phạt thành Sodom, trừ ông Lý (cũng là vần L) và 2 người con gái, vì cả dân tộc Việt Nam không có được 10 người công chính… như ông Lot. Nhưng chuyện này không thể xẩy ra. Tại sao? Vì ngày nay các nhà nghiên cứu tôn giáo đã đồng thuận ở điểm là: Thiên Chúa của linh mục Đinh Xuân Minh chỉ là một nhân vật tưởng tượng, không phải là thần vật, của người Do Thái khi xưa để giải thích nguồn gốc vũ trụ và con người, một trong hàng trăm giải thích khác, tùy theo mỗi nền văn hóa, phù hợp với lịch sử của Do Thái, chứ chẳng liên quan gì đến các dân tộc khác, nhất là Việt Nam. Sự thật thật là hiển nhiên đã bày ra trước mắt xung quanh chúng ta, nhưng những người mù thuộc loại “không thấy mà tin” trong Công giáo thì không muốn chấp nhận điều này vì không hợp với những điều họ đã bị nhồi sọ từ nhỏ. Mặt khác, tôi đố linh mục Đinh Xuân Minh tìm ra được một người công chính trong Công giáo, từ giáo hoàng Benedict XVI trở xuống, trong khi 93% người dân Việt Nam Phi-Công giáo, không ít thì nhiều cũng đều là người công chính. Thật vậy, muốn biết tiêu chuẩn công chính của Công giáo chúng ta cần phải trở lại chuyện ông Lot, người công chính duy nhất ở thành Sodom mà Thiên Chúa chọn, làm gương mẫu công chính cho người Công giáo Việt Nam..



Chuyện ông Lot trong Thánh Kinh của linh mục Đinh Xuân Minh vui lắm, nhưng ông ta tuyệt đối không dám kể. Đây là một trong những thủ đoạn gian manh của giới linh mục, lọc lựa trích dẫn ngoài ngữ cảnh (out of context) Thánh Kinh để cho những mục đích thấp hèn thế tục của mình. Nếu ông ta không kể thì tôi đành phải thay ông ta kể chuyện này cho nó đầy đủ. Trong cuốn “God’s Problem” của Bart D. Ehrman, tác giả tóm tắt câu chuyện trong Sáng Thế 18 & 19 về ông Lot như sau, trang 66:



Abraham có người cháu tên là Lot, sống ở thành Sodom trong đó toàn là những người xấu, đồng giống luyến ái.. Thiên Chúa quyết định hủy diệt thành Sodom này; Abraham mặc cả với Thiên Chúa và Thiên Chúa ưng thuận là nếu trong thành chỉ có 10 người công chính thì Thiên Chúa sẽ tha không hủy diệt thành. Thiên Chúa ưng thuận vì Ngài thừa biết rằng trong thành không làm gì có đến 10 người công chính, chỉ có Lot là người công chính và vợ và 2 đứa con gái. [ In this back-and-forth with his chosen one (Lot), God has an Ace up his sleeve: he knows full well there aren’t ten righteous people in the city; just Lot, his wife, and two daughters] Và Thiên Chúa sai hai “Thiên sứ trả thù” [two avenging angels] đến thành Sodom, đến ở nhà Lot. Những người dân thuộc phái nam đến đòi Lot phải trao cho họ 2 người khách để họ “bề hội đồng” [The townfolk, demanding that he (Lot) release the strangers to them so that they can gang-rape them]. Lot không chịu trao các thiên sứ ra và đề nghị cùng dân thành: “Đây, tôi có 2 đứa con gái còn trinh, tôi trao cho các người muốn làm gì thì làm.” [offers his two virgin daughters instead] Nhưng nhờ có thiên sứ can thiệp nên 2 người con gái không can hệ gì. Hôm sau gia đình Lot rời khỏi thành, Thiên Chúa hủy diệt cả thành bằng lửa và diêm sinh. Vợ Lot không nghe lời dặn của thiên sứ là không được quay lại nhìn thành, quay lại nhìn nên Thiên Chúa giết bà ta bằng cách biến bà ta thành một cột muối. Theo Thánh Kinh thì cứ không vâng lời là bị phạt [On every level, disobedience brings punishment] (Bởi vậy gần đây, giáo hoàng Benedict XVI, với sự phụ họa của các “bề trên” Công giáo Việt Nam, lo cho con chiên bị phạt nên nhắc con chiên phải triệt để thi hành “đức vâng lời” [lẽ dĩ nhiên để duy trì quyền lợi thế tục])



Tác giả chỉ viết đến đây, nhưng chuyện tiếp theo còn hấp dẫn hơn nữa, hấp dẫn đến độ không có linh mục nào dám đọc hay giảng trong nhà thờ cho các con chiên. Muốn biết hấp dẫn như thế nào, thay vì đọc thẳng Thánh Kinh, chúng ta hãy đọc một đoạn vui vui trong bài “Thiên Chúa Giết Người” [The God Murders] của Gary DeVaney nói về 4 Phiên Tòa Xử Án Thiên Chúa của ông Đinh Xuân Minh, trong đó Công Tố Viên đưa ra hơn 170 trường hợp trong Thánh Kinh để lên án Thiên Chúa đã giết người bừa bãi. Trong phiên tòa thứ nhất có đoạn sau về chuyện Thiên Chúa hủy diệt thành Sodom:



[Sáng thế 19:1-26: Thiên Chúa phá hủy các thị trấn Sodom và Gomorrah. Ông ta giết tất cả dân trong đó, kể cả những trẻ con vô tội. Vợ của Lot quay lại nhìn cảnh tàn sát đó. Thiên Chúa giết luôn bà ta bằng cách biến bà ta thành một cột muối.

Tôi buộc tội Thiên Chúa về tội giết mọi người dân ở Sodom và Gomorrah trừ Lot và 2 người con gái.

Luật sư của bị cáo (Thiên Chúa): Phản đối! 2 con gái của Lot không liên quan gì đến chuyện này.

Quan Tòa: 2 con gái của Lot thì có dính dáng gì đến chuyện Thiên Chúa giết bất cứ người nào?

Công Tố viên: Thưa quan tòa. Lot, người được Thiên Chúa chọn vì là người đạo đức, công chính, đã làm cho hai con gái của mình có mang.

Luật sư: Phản đối! Chúng ta không muốn cho hội thẩm đoàn [jury] nghe chuyện này.

Quan tòa: Tòa cũng vậy. Chấp thuận. Hội thẩm đoàn sẽ bỏ đi chuyện 2 con gái của Lot.

[Genesis 19:1-26, God destroyed the cities of Sodom and Gomorrah. He murdered all the people, including all the innocent children. Lot’s wife turned to look at the carnage. God murdered her by turning her into a pillar of salt.

Prosecutor: I charge God with the murders of all the people of Sodom and Gomorrah except for Lot and his2 daughters.

Defense: Objection! Lot's 2 daughters are irrelevant!

The Judge asked: What relevancy does Lot's 2 daughters have to with God's murdering anybody?

Prosecutor: Your honor, Lot, God’s chosen by virtue, went on to impregnate his2 daughters.

Defense: Objection! We don't want the jury to know that.

Judge: Neither do I. Sustained. The jury will disregard Lot's 2 daughters. ]



Đó là quan niệm về người công chính được Chúa chọn trong Công Giáo. Nhưng vì là người Việt Nam, hay đúng hơn là người Mỹ gốc Việt, đã sống nhiều năm trong nền văn hóa đạo đức của Việt Nam, tôi xin hỏi ông linh mục Đinh Xuân Minh, giá trị chuyện ông Lot ở trong Thánh Kinh là ở chỗ nào mà ông đưa nó lên trên diễn đàn công cộng để so sánh thành Sodom với nước Việt Nam? Thì cứ cho là cả 2 triệu đảng viên CS đều là người xấu, nhưng ông quên mất 7 triệu người Công Giáo ở trong nước hay sao. Ông lo Thiên Chúa hủy diệt nước Việt Nam, vậy 7 triệu người Công giáo, già trẻ lớn bé, chạy đi đâu? Chạy sang Đức với ông có được không? Một linh mục mà viết ngu và sặc mùi phi dân tộc như vậy, thật đúng là một người máy chống Cộng, sản phẩm đặc thù của Vatican. Nhưng ông khỏi lo, vì tôi và tuyệt đại đa số người dân Việt Nam, ít ra cũng là 93%, tin chắc rằng, người Việt Nam chúng tôi, kể cả những người Cộng sản, không có ai “công chính” [sic] như Lot, người Thiên Chúa chọn, dâng 2 đứa con gái còn trinh cho đám đông bề hội đồng, và làm cho 2 đứa con gái mang thai. Ông linh mục không có một ý thức nào về luân lý và đạo đức hay sao? Hay là ý thức về luân lý và đạo đức của người Công giáo là như vậy? Nếu thế thì ông chỉ nên giảng nó trong nhà thờ cho các con chiên, không nên làm nhơ bẩn đầu óc độc giả bằng những câu chuyện nhảm nhí như vậy.

Trong thời buổi này mà ông linh mục người máy chống Cộng Đinh Xuân Minh còn mang những chuyện độc ác, loạn luân nhảm nhí trong Thánh Kinh về ông Lot ra để mà nguyền rủa hù dọa dân tộc Việt Nam thì chúng ta phải hiểu rằng cái di sản của nền đạo lý Thiên-La Đắc-Lộ nó đã ăn sâu vào xương tủy giới Công giáo Việt Nam như thế nào. Chúng ta nên nhớ, linh mục là Chúa thứ hai đấy, mà Chúa thứ hai đã như vậy thì các con chiên ngu ngơ ngờ nghệch ở dưới thì còn thảm hại như thế nào. Có người nói rằng, khi Công giáo vào đâu thì nó như một tế bào ung thư xâm nhập vào một cơ thể, nó sẽ lan ra mà rất khó chữa, trừ phi phải dùng tới những phương pháp mạnh như chạy “chemotherapy” hay cắt bỏ nó đi thì cơ thể may ra mới lành lại được. Hơi quá đáng vì có tính cách tổng quát hóa nhưng không phải là không có phần nào sự thực trong đó, xét đến lịch sử xâm nhập của Công giáo vào Việt Nam và những tác hại của Công giáo mang đến Việt Nam mà sử sách đã ghi rõ, và còn kéo dài cho tới ngày nay ở Việt Nam cũng như ở hải ngoại..

Đọc bài của linh mục Đinh Xuân Minh chúng ta thấy rõ ràng đầy đủ những sắc thái mê tín cuồng tín và nói láo của Alexandre de Rhodes khi xưa trong cuốnHành Trình và Truyền Giáo [Xin đọc bài về cuốn này trên giaodiemonline .com và sachhiem.net]. Sự hiểu biết của ông linh mục, mù lòa tin bướng tin càn vào cuốn Thánh Kinh, vẫn ngưng đọng ở trình độ của các thừa sai ở thế kỷ 17. Chúng ta hãy thử đọc vài đoạn thuộc loại hoang đường nhất trong những chuyện hoang đường trong Thánh Kinh mà ông linh mục đưa lên để đầu độc đầu óc con chiên của ông ta. Để mua vui cho độc giả, tôi sẽ phê bình sơ sơ những đoạn này.

- Chiều ngày phục sinh, Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ, khi môn đệ đang trong phòng đóng kín cửa. “Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần!” (Gioan 20, 22).

- Rồi mạnh mẽ hơn, Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên các Tông Đồ vào ngày lễ Ngũ Tuần. Chúng ta đọc trong sách Công Vụ Tông Đồ: “Bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lửa tản ra đậu xuống từng người một.” (2, 2-3).

- Hai cách mà Thiên Chúa đã ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ được ghi chép trong Kinh Thánh, đó là sự kiện: “thổi hơi” và “lửa xuống đầu người”

- Và quan trọng hơn nữa, đó là Chúa Thánh Thần đã BIẾN ĐỔI và THÁNH HÓA con người của họ, từ một người nhút nhát thành người cam đảm không sợ hãi, từ một người yếu đuối thành người dũng cảm. Đó là biến cố Chúa Thánh Thần Hiện xuống. [Vậy thì những chiến sĩ ôm bom ba càng chống xe tăng của Pháp là những người mà Chúa Thánh Thần đã biến đổi và Thánh hóa họ?? Hay thật.]

- Nhờ qua bích tích Thánh Tẩy và Thêm Sức, người Ky tô Hữu đã đón nhận được ân huệ cao qúi biết bao. Hồng ân lớn nhất mà Thiên Chúa đã ban cho nhân loại – đó là Chúa Thánh Thần. Nhờ Bí tích rửa tội làm cho chúng ta trở nên con cái của Chúa Cha, nên người anh em của Chúa Giêsu, trở nên thành phần của Giáo Hội. (1 Cor 12, 12-25) Ai lãnh bí tích Thêm sức đều ý thức thêm được điều này, đó là: Họ trở nên những “đền thờ của Chúa Thánh Thần”.

Bích tích thêm sức đúng ý nghĩa của nó: Ngài “thêm sức” cho chúng ta, thêm sức mạnh để minh chứng trong cuộc sống chúng ta, đế chúng ta đủ khả năng làm tròn bổn phận con Chúa trong sứ vụ của Ngài trao ban. (Rm 12, 1). Ngài “đổ trên đầu” chúng ta sức mạnh của Người và biến đổi chúng ta trở nên những chiến sĩ anh dũng của Chúa dấn thân cho Sự thật, cho Lẽ phải cho sự Công chính, cho Giá trị nhân phẩm con người.

Câu đầu tiên: “Chiều ngày phục sinh, Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ, khi môn đệ đang trong phòng đóng kín cửa. “Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần!” (Gioan 20, 22)” là một câu mô tả một chuyện có tính cách ma thuật hay ma quỷ. Thứ nhất, đây là chuyện Giê-su đã chết rồi và là cái hồn ma hiện vào một gian phòng đã đóng kín cửa, một chuyện mà ngày nay ai còn tin thì gõ vào trán họ chúng ta sẽ nghe thấy một tiếng vang lờn. Thứ nhì, ngày nay không còn ai tin là thân xác Giê-su đã sống lại, và các nhà thần học đã phải giải thích lại đó chỉ là “sự sống lại của tâm linh” (spiritual resurrection), dựa vào một câu của Thánh Phao-Lồ (Paul): 1 Cổ-Linh 15: 50: “Thưa anh em. Tôi xin nói rõ thân thể bằng xương bằng thịt và máu không thể hưởng được nước Trời, vì thân thể hư nát không thể hưởng sự sống bất diệt.” [nghĩa là, thân xác Giê-su không thể lên nước thiên đường được]. Theo Paul thì chỉ khi nào đến ngày tận thế, khi kèn đồng thổi lên, thì thân xác mới sống lại. [1 Cổ-Linh 15: 51-52: I tell you a mystery: We shall not all sleep, but we shall all be changed – in a moment, in the twinkling of an eye, at the last trumpet. For the trumpet will sound, and the dead will be raised incorruptible, and we shall be changed.] Ông linh mục Đinh Xuân Minh tưởng độc giả ai cũng ngờ nghệch như đám con chiên của ông, không biết gì về cuốn Thánh Kinh, nên muốn viết sao cũng được, muốn bịp thế nảo cũng được hay sao? Thứ ba, trong hơi của cái hồn ma Giê-su có Chúa Thánh Thần hay sao? Nguyên thủy giáo hội gọi đó là Thánh Ma (Holy Ghost), về sau mới đổi thành Thánh Linh hay Chúa Thánh Thần cho nó oai một chút, chứ trong thời đại mà con người thường tin vào ma quỷ thì đó chính là con Ma được Thánh hóa. Mặt khác, đọc Tân Ước chúng ta thấy mấy trường hợp con Ma Thánh xuống ngự vào Giê-su để hướng dẫn tâm linh Giê-su. Và tất cả những tín đồ Công Giáo trong người đều có con Ma Thánh sau khi đã bị rửa tội, thêm sức, và phong chức linh mục v..v… Ông linh mục Đinh Xuân Minh, sáng sớm giậy, thử thổi ra một hơi xem có con Ma Thánh trong đó không, và mùi của con Ma Thánh như thế nào?

Sau đây, tưởng chúng ta cũng nên tìm hiểu chút ít về cái gọi là những “bí tích” trong Công Giáo. Đó là những lễ tiết tín đồ bắt buộc phải tin hiệu năng bí mật của chúng theo như những lời "giáo hội dạy rằng", dù giáo hội "bí đặc", không làm sao giải thích được tại sao lại phải tin như vậy, vì bản chất những "bí tích" này thuộc loại mê tín dị đoan, như sẽ được chứng minh trong phần sau đây.

Ví dụ, trong lễ "rửa tội", sau vài lời lẩm bẩm bằng tiếng La Tinh là linh mục có thể truyền cho quỷ Sa-tăng (Ca- Tô Giáo tin rằng bất cứ ai mà chưa rửa tội thì cũng có Sa-tăng nằm vùng trong người) ra khỏi một đứa trẻ sơ sinh chưa biết gì ngoài việc bú, ngủ, ị, tè v..v.., để nhường chỗ cho Chúa Thánh Thần vào ngự trong người đứa nhỏ; hoặc linh mục sờ tay vào tai đứa bé là có thể làm cho đứa bé mở tâm hồn ra để đón rước Chúa. Một ví dụ khác là trong lễ Ban Thánh Thể (Eucharist) tín đồ phải tin rằng, một cái bánh nhỏ làm bằng bột, sau khi được linh mục hoa tay làm phép, lẩm bẩm vài câu Thánh hóa, cái bánh đó biến thành thân thịt đích thực của Chúa Giêsu, ăn vào sẽ được hiệp thông cùng Chúa. Những "bí tích" trong Ca-Tô Giáo đại loại như vậy cả, trong khi giáo hội vẫn dạy tín đồ, và tín đồ cũng tin như vậy, rằng Ca- Tô Giáo là một tôn giáo "Thiên khải" chân thật duy nhất, tuyệt đối không có chút mê tín dị đoan nào, không giống như những tôn giáo thấp kém mê tín dị đoan khác. Giáo hội đã nhồi vào đầu óc tín đồ từ khi còn nhỏ, rằng tất cả những gì giáo hội bày đặt ra và bắt tín đồ phải tin đều là thật, và đó là những "bí tích" hay "nhiệm tích", nghĩa là những tích bí mật và màu nhiệm do Chúa đặt ra, cho nên tín đồ chỉ việc tin, không cần hiểu. Khi trí tuệ nhân loại chưa mở mang thì những cái gọi là "bí tích" đó được tín đồ tin theo, không bàn cãi. Nhưng tiến hóa là một định luật của vũ trụ trong đó có con người, cho nên, với trình độ hiểu biết của con người ngày nay, những niềm tin mù quáng, vô căn cứ, hoang đường, phi lôgic, phản lý trí, phản khoa học v..v.. vào những "bí tích" trong Ca-Tô Giáo không còn chỗ đứng nữa, ít ra là trong giới có học, trí thức và khoa học, ở trong cũng như ở ngoài giáo hội.

Bí tích “rửa tội” là để rửa cái tội gì? Nguyên thủy đó là “tội tổ tông” mà mọi người trên thế gian, vì cái tội vi phạm luật Chúa của Adam và Eve nên đều bị Thiên Chúa trừng phạt. Rửa cái tội đó là để lấy lại sự hòa thuận với Thiên Chúa và do đó không bị Thiên Chúa trừng phạt. Trong Tân ước viết, Luke 3: 21: John the Baptist cũng đã rửa tội cho Giê-su [Now when all the people were baptized, it came to pass that Jesus also was baptized..”] Điều này chứng tỏ Giê-su không phải là Chúa, vẫn phải mang trên người tội tổ tông truyền từ bà mẹ Mary xuống. Nếu Giê-su là một ngôi Thiên Chúa thì không cần phải rửa tội. Công giáo ngụy biện rằng Giê-su là Thiên Chúa xuống làm người, nhưng đã mang thân người và cũng đã được rửa tội thì hiển nhiên là cái thân người đó đã mang tội tổ tông được truyền xuống từ cha mẹ, những người cũng đã mang tội tổ tông. Cho nên người ta đã phải bịa ra chuyện Chúa Thánh Thần làm cho bà Mary mang thai, một chuyện mà không ai có thể tin được trong thời đại này, trừ đám con chiên đã bị tẩy não và nhồi sọ từ nhỏ và tiếp tục bị nhồi sọ cho đến ngày nay.

Thật vậy, chính giáo hoàng John Paul II, trước những sự kiện khoa học bất khả phủ bác, đã phải công nhận thuyết Tiến Hóa. Ông ta phát biểu năm 1996:

Thân xác con người có thể không phải là sự sáng tạo tức thời của Thượng đế, mà là kết quả của một quá trình tiến hóa dần dần... Những kiến thức mới nhất dẫn đến việc phải chấp nhận Thuyết Tiến Hóa hơn chỉ là một giả thuyết.

(The human body may not have been the immediate creation of God, but is the product of a gradual process of evolution...Fresh knowledge leads to recognition of the theory of evolution as more than just a hypothesis).

Giám mục Tân Giáo (Anglican) John Shelby Spong cũng đã viết trong cuốn Why Christianity Must Change or Die:

Thuyết Tiến Hóa làm cho Adam và Eve trở nên may nhất là những nhân vật theo truyền thuyết. Thuyết Tiến Hóa không dễ gì cho tổ chức tôn giáo chấp nhận, và ngày nay vẫn còn những tiếng nói cất lên từ những miền hẻo lánh của thế giới để chống đối thuyết này. Những tiếng nói này sẽ không bao giờ thành công. Nhân loại rõ ràng là tiến hóa theo một quá trình trải dài từ 4 tỷ rưỡi đến 5 tỷ năm. Không làm gì có hai cha mẹ đầu tiên (nghĩa là Adam và Eve. TCN), và do đó cái hành động bất tuân lúc đầu của hai bậc cha mẹ đầu tiên không thể nào có ảnh hưởng đến toàn thể nhân loại. Do đó cái huyền thoại về tội tổ tông đã bị một đòn khai tử, và cái câu chuyện vững chắc về sự cứu rỗi do những người bảo vệ Ki-tô giáo dựng lên qua nhiều thời đại đã bắt đầu chao đảo.

(The theory of evolution made Adam and Eve legendary at best. Evolution was not easy for the religious establishment to accept, and still voices are raised today in remote areas of the world to resit it. Those voices will never succeed. Human life clearly evolved over a four-and-a-half-to-five-billion-year process. There were no first parents, and so the primeval act of disobedience on the part of first parents could not possibly have affected the whole human race. The myth was thus dealt a blow, and the monolithic story of salvation built by Christian apologists over the age began to totter.)

Cũng vì những sự tiến bộ trí thức của nhân loại như vậy mà các vị lãnh đạo cao cấp nhất của Ki Tô Giáo đã phải chấp nhận, cho nên ngày nay Ki Tô Giáo đã diễn giải bí tích rửa tội là một hình thức kết nạp vào Hội Thánh. Nhưng chính sự giải thích này lại cho chúng ta thấy cái vô lý trong lễ “rửa tội” cho con nít, chưa biết gì ngoài việc bú, ngủ, ị, tè. Và rửa tội không phải là hình thức kết nạp như kết nạp đảng viên mà là một hình thức cưỡng bách những đứa trẻ chưa biết gì vào trong cái ngục tù tâm linh của Ki Tô Giáo. Bởi vậy mà ngay từ cuối thế kỷ 19, Robert G. Ingersoll, một tư tưởng gia vĩ đại nhất của nước Mỹ, có tượng kỷ niệm ở Periora, Illinois, đã đưa ra một nhận định như sau:

Công giáo La Mã thật sống lâu. Điều này chứng tỏ cái gì? Nó chứng tỏ rằng quần chúng thì ngu dốt (ignorant) và các linh mục thì xảo quyệt.

[Roman Catholicism dies hard. What does that prove? It proves that the people are ignorant and that the priests are cunning.]

Linh mục xảo quyệt thì đã đành, thí dụ như chuyện ông Lot mà ông linh mục Đinh Xuân Minh viết ở trên, vì đó là nghề của họ, lùa con người vào đàn chiên của họ, nhưng quần chúng có ngu dốt thì mới mang đứa con mới sinh của mình đi rửa tội, trong khi chúng chẳng có tội gì mà cũng chẳng biết gì. Thật vậy, sáchGiáo Lý Công Giáo viết, trong lễ rửa tội, ông linh mục hỏi: “Con xin cái gì”thì người đỡ đầu cho đứa trẻ phải trả lời “Con xin đức tin” Đứa trẻ sơ sinh chưa biết nói, trí tuệ chưa phát triển, chưa có khả năng hiểu biết, được cha mẹ hay người đỡ đầu thay mặt nó, cưỡng bách nó phải xin đức tin (faith), mà đức tin là tin vào những gì không chắc chắn có thật, trong khi điều mà nó cần khi trưởng thành là lý trí, là trí tuệ để nhìn sự vật như chúng là như vậy. Đầu óc của đứa trẻ đã bị ô nhiễm ngay từ khi sơ sinh, vì đức tin là con đường đi tới mê tín. Chẳng trách là đa số tín đồ Công giáo khi lớn lên trở nên cuồng tín vì đầu óc đã bị uốn nắn và điều kiện hóa và thuần hóa để tin mà không cần biết, không cần hiểu, vào những điều phi lý ngay từ khi vừa mới chào đời. Ông linh mục còn hỏi: Đức tin sinh ích lợi gì cho con? Và người đỡ đầu trả lời: Sinh sự sống đời đời.

Sự sống đời đời trong Công Giáo đặt căn bản trên huyền thoại về "tội tổ tông", và tin vào quyền năng "cứu rỗi" của Giêsu, sự hiện hữu của một Thiên đường, nơi Chúa ngự. Nhưng trước những khám phá của khoa học, như chúng ta đã thấy, huyền thoại Adam và Eve về tội tổ tông nay đã không còn một giá trị trí thức nào, vì trái đất đã có tuổi ít ra là 4 tỷ rưỡi năm, con người đã xuất hiện trên trái đất cách đây ít ra là cả vài trăm ngàn năm, chứ không phải mới được Thiên Chúa Ki Tô "sáng tạo" ra tức thời (điều mà John Paul II đã bác bỏ) cách đây khoảng 6000 năm như những lời "mạc khải" không thể sai lầm của Thiên Chúa được ghi lại trong Thánh Kinh. Và gần đây, Giáo hoàng Gion Pôn Hai đã tuyên bố là không làm gì có Thiên đường ở trên các tầng mây. Do đó, sự sống đời đời trên thiên đường, cái bánh vẽ ở trên trời (A pie-in-the-sky = từ của Mục sư Ernie Bringas) của Giáo hội đưa ra, nay đã không còn ý nghĩa, dù vẫn còn vô cùng hấp dẫn đối với những tín đồ muốn lên thiên đường với một giá rất rẻ, chỉ cần xin đức tin với một linh mục.

Đã phê bình thì phê bình cho chót. Vậy thực ra, thực chất của bí tích rửa tội và thêm sức là gì? Ngày nay chúng ta đã có những tài liệu viết bởi các bậc lãnh đạo Ki Tô Giáo nhiều năm trong nghề.

Sau đây chúng ta hãy đọc linh Mục Joseph McCabe viết về lễ rửa tội. Linh mục McCabe đã làm lễ này cho tín đồ trong 25 năm. Sau cùng ông đã viết sách trình bày những điều ông nhận xét về Công Giáo La mã. Ông viết rất nhiều, về đủ mọi khía cạnh của Công Giáo. Ngoài ra, ông còn viết một bộ Sử Thế Giới, bộ Sử này đã được nhiều đại học Mỹ dùng làm sách giáo khoa trong nhiều năm. Đoạn sau đây là trích từ cuốn Sự Thực Về Giáo Hội Công Giáo:

"Bí tích rửa tội là để cho các trẻ sơ sinh...vì một lý do rất nghiêm trọng. Mọi hậu duệ của Adam đều mang cái tội của Adam và phải chịu trừng phạt. Mới đầu người ta tin tưởng rằng, đàn ông, đàn bà, trẻ con nào không được nước rửa tội rửa sạch cái tội tổ tông đó đi thì sẽ bị đầy đọa trong hỏa ngục vĩnh viễn. Niềm tin này thật là quá đáng, ngay cả đối với con người trong thời Trung Cổ, và các nhà Thần học bèn sửa đổi... Ai không rửa tội thì không được lên Thiên đường, Giáo hội bám chặt vào điều này. Nhưng những đứa trẻ ngây thơ vô tội không phải xuống hỏa ngục. Chúng bị đầy vào một nơi u ám, cánh tay hiện đại nối dài của hỏa ngục, và có thể sung sướng ở đây, nhưng chúng không bao giờ được thấy "nhan thánh Chúa" hoặc gặp lại cha mẹ chúng.

Do đó, đứa trẻ được mang vội tới nhà thờ chiều ngày Chủ Nhật ngay sau khi sanh. Nếu nó bị cảm lạnh và chết thì cha mẹ không được than khóc. Nó đã đi thẳng lên thiên đường, nơi tuyệt đối không có tì vết nào...Tuy nhiên, ngày nay nước rửa tội đã được làm ấm, và rồi cái lễ kỳ quặc bắt đầu..."

Linh mục McCabe tả nghi thức rửa tội như sau, sau vài câu đối thoại khôi hài với người đỡ đầu đứa trẻ:

"Ông (linh mục) nhổ vào đầu ngón tay rồi bôi vội lên miệng và mắt đứa bé và nói "Ephetha". Ông ta cho ít muối vào miệng đứa bé; đương nhiên nó vùng vẫy chống lại và khóc lên. Ông ta nghiêm trọng ra lệnh - bằng tiếng La Tinh dở ẹt - cho bất cứ những con quỷ nào trong nó ra khỏi nó và đi đến - bọn Tin Lành hay bất cứ đâu. Rồi ông đổ ít nước, đã được trừ quỷ và ban phép lành rất kỹ, lên đầu đứa bé (phải hết sức cẩn thận đổ nước lên da đầu chứ không chỉ trên tóc, nếu không đứa bé sẽ không bao giờ được lên thiên đường); và rồi cái án phạt khủng khiếp treo trên đầu nó, vì một nhân vật hoang đường tên là Adam ăn một trái táo hoang đường trong một cái vườn hoang đường dưới triều Vua Khammurabi ở Babylon, đã được ân huệ (của Chúa) hủy bỏ."

Thật khó mà có thể thảo luận bí tích số 1 này một cách nghiêm túc. Nhổ nước bọt và quỷ, dầu thánh và nước thánh, đèn cầy thắp sáng và hộp thu tiền, đã đủ hoang đường rồi, nhưng cái nguyên lý chủ yếu của lễ rửa tội này thật là không thể chịu được. Ngay cả ý tưởng đọa đầy tương đối nhẹ những đứa trẻ không rửa tội (vào một nơi u ám, cánh tay nối dài của hỏa ngục như đã viết ở đoạn trên. TCN), với tất cả sự thích hợp với thời đại mới, cũng quá ngu xuẩn để có thể viết lên thành lời. Ngày nay có những học giả Gia Tô coi chuyện Adam và vườn Eden như là "một huyền thoại thích thú." Tuy vậy, bí tích này vẫn là giáo điều xác định rõ ràng và bắt buộc của giáo hội, rằng đứa trẻ nào sinh ra đời đều phải mang "cái tội của Adam", và phải trải qua những nghi thức kỳ lạ tôi đã mô tả."
[Joseph McCabe, The Truth About The Catholic Church, pp. 64-65: The sacrament of baptism is for infants... For a very serious reason. Every child of Adam has incurred the sin of Adam, and must pay the penalty. At first it was drastically held that every man, woman, or child who had not this stain "washed away" in the waters of baptism would burn in hell for ever. That was too much even for medieval human nature, and the theologians made a compromise...The unbaptized cannot enter heaven. The Church sticks to that. But the innocent babes do not go to hell. They go into a sort of dim modern extension of the underworld, and may even be happy there; but they will never "see God", or see their parents again.

So the babe is rushed to the church on the first Sunday afternoon after its birth. If it caches a fatal cold, the parent must not grieve. It has gone straight to heaven, absolutely spotless. The church, and often the water, are, however, now warmed, and the weird ceremony proceeds...

You spit on your finger, and daub the babe's mouth and eyes, and say to it "Ephetha". You put some salt into its mouth; which it generally resents in the usual manner and tone. You talk very severely, in bad Latin, to whatever devils there may be in the pink morsel, and bid them to go - to Protestants or anywhere. Then you pour a shell of water, very highly exorcized and blessed, over its head (taking extreme care that it touches the skin, not merely the hair, or the babe will never go to heaven); and the dreadful sentence which overhung it, because a legendary being named Adam ate a legendary apple in a legendary garden in the reign of King Khammurabi of Babylon, is mercifully cancelled.

It is difficult to discuss sacrament No. 1 seriouly. Spittle and devils, holy oils and holy water, lighted candles and collecting boxes, are bad enough, but the essential principle of the thing is intolerable. Even the comparative damnation of the unbaptized, with "every modern convenience", is too stupid for words. There are Catholic scholars now who regard Adam and Eden as "a beautiful legend"...Yet it is still the emphatic and obligatory teaching of the Church that every child born shares "the sin of Adam". and must be put through the extraordinary performance I have described.)


Đó là Linh mục McCabe viết những điều trên năm 1942 chứ không phải là Trần Chung Ngọc viết. Ngày nay, có thể một số chi tiết trong những nghi thức rửa tội đã thay đổi, như được viết trong cuốn Giáo Lý Công Giáo. Nhưng tính chất mê tín, hoang đường và phi lý trong những nghi thức rửa tội mà giáo hội vẫn còn duy trì và bắt buộc tín đồ phải tin thì vẫn còn nguyên, và ông linh mục Đinh Xuân Minh, vào thế kỷ 21, vẫn mê hoặc đầu óc con chiên bằng cái “bí tích rửa tội”. Đây chính là điều đáng nói.

Cũng vì nhận rõ được tính chất hoang đường và lỗi thời của "bí tích rửa tội", của vai trò "chuộc tội" và "cứu rỗi" của Giê-su, mà trong cuốn Tại Sao Ki Tô Giáo Phải Thay Đổi Không Thì Chết, Giám mục John Shelby Spong đã dành riêng chương 6 để viết về đề tài Giê-su Như Là Đấng Cứu Thế: Một Hình Ảnh Cần Phải Dẹp Bỏ (Jesus as Rescuer: An Image That Has To Go). Trong chương này, Giám Mục Spong viết như sau:

"Nhân loại chúng ta không sống trong tội lỗi. Chúng ta không sinh ra trong tội lỗi. Chúng ta không cần phải rửa sạch cái tì vết tội tổ tông trong bí tích rửa tội. Chúng ta không phải là những tạo vật sa ngã, mất đi sự cứu rỗi nếu chúng ta không rửa tội. Do đó, một đấng cứu thế có nhiệm vụ khôi phục tình trạng tiền sa ngã của chúng ta chỉ là một sự mê tín trước thời -Darwin và một sự vô nghĩa sau thời -Darwin."

[John Shelby Spong, Why Christianity Must Change or Die, pp. 98-99: We human beings do not live in sin. We are not born in sin. We do not need to have the stain of our original sin washed away in baptism. We are not fallen creatures who will lose salvation if we are not baptized... A savior who restores us to our prefallen status is therefore pre-Darwinian superstition and post-Darwinian nonsense.]

Ngoài ra, học giả Công Giáo Tô Henri Guillemin, trong cuốn Cái Giáo Hội Khốn Nạn cũng nhận xét về Vatican và 2 bí tích chính trong Công giáo như sau:

"Ngày nay, người nào nói đến "Rô-Ma" là nói đến Vatican, đến Tòa Thánh, đến Giáo hội Công giáo trong trung tâm quyền lực của họ... Đối với những nhà tiên tri, Rô-Ma chính là biểu tượng của các thói xấu và những sự ô nhục, và Sách Khải Huyền trong Thánh Kinh đã biến thành phố của các vua La mã khi xưa [Rô-ma] thành con "quái vật có 7 đầu và 10 sừng", "con điếm nổi danh", "mẹ đẻ của những sự đồi bại "...

.. Cái giáo hội mà ngày nay đang suy sụp , bị ngự trị bởi một giáo hoàng thuộc thời Trung Cổ [John Paul II] và theo ý tôi, dù ông ta có thay đổi kỹ thuật (để lừa dối tín đồ) đi chăng nữa, cũng không thể làm gì được để ngăn chặn sự tàn lụi một cách dứt khoát và mau chóng trong thiên niên kỷ thứ ba, ít ra là dưới cái dạng thái Rô-Ma của nó, một giáo hội phải dùng đến ảo thuật để thực hiện hai "bí tích chính" của mình. Mới đầu, với một chút nước và vài câu đối thoại khôi hài, Giáo hội giật đứa trẻ sơ sinh ra khỏi móng vuốt của con quỷ giam cầm đứa trẻ trong cái "tội tổ tông" (tác giả muốn nói đến bí tích "rửa tội". TCN), rồi, bằng vài lời lẩm bẩm, giáo hội gài vào trong một mẩu bánh thân thể, thân thể thực sự bằng xương bắng thịt của Giê-su Ki Tô để cho tín đồ dùng qua đường ăn uống (tác giả muốn nói đến bí tích "ban thánh thể". TCN).
[Henri Guillemin, Malheureuse Église: Qui dit "Rome" aujourd'hui désigne le Vatican, le Saint-Siège, l'Église catholique dans son centre et son gouvernement... Rome, pour les prophètes, c'est le symbole même des vices et des infamies, et l'Apocalypse fait de la ville des Césars la "Bête" immonde, "aux sept têtes et dix cornes", la "prostituée fameuse", "la mère des abominations".

Cette Église, qui aujourd'hui s'effondre, est régie par un pontife de type médiéval qui, même s'il amendait sa technique, ne peut plus rien, à mon sens, pour empêcher de disparaitre, pratiquement et assez vite, au cours du troisième millénaire, du moins sous sa forme "romaine", une Église qui, pour ses deux "grands sacrements", recourt à la magie. Elle arrache d'abord, avec un peu d'eau et la comédie d'un dialogue, le nouveau-né aux griffes du Démon refermées sur lui par le "péché originel", puis, au moyen de quelques syllabes, elle insère, dans un fragment de pain, le corps, le corps physique de Jésus-Christ voué à une consommation buccale et stomacale...]


Kết quả của bí tích rửa tội là gì? Sách sách Giáo Lý Công Giáo viết, trang 153:

"Khi chịu phép rửa tội rồi, ta được Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần tới ngự trong tâm hồn. Người giáo hữu trở nên đền thờ Chúa ngự."

Chúng ta hãy nhớ kỹ câu này. Sau đây chúng ta hãy tìm hiểu về bí tích thêm sức.

Sách Giáo Lý Công Giáo viết về bí tích thêm sức, trang 180-183, viện dẫn một đoạn trong Thánh Kinh như sau:

Khi hay tin dân xứ Samari đã đón nhận lời Chúa, thì các tông đồ ở Gia Liêm liền phái Phê-rô và Gioan tới. Các vị này liền xuống xứ Samari và cầu xin cho họ được đón nhận Chúa Thánh Thần. Bởi vì Chúa Thánh Thần chưa ngự xuống trong lòng một người nào cả; họ chỉ mới chịu phép rửa tội nhân danh Chúa Giêsu mà thôi. Khi ấy Phêrô và Gioan đặt tay lên đầu họ, thì họ liền được đón nhận Chúa Thánh Thần (Tông đồ Công vụ 8, 14-17)

rồi mô tả nghi thức làm phép thêm sức như sau:

Lúc bắt đầu cử hành nghi thức, Đức Giám Mục bưóc lên bàn thờ, đoạn quay mặt ra phía các kẻ chịu phép đang quỳ trước bàn thờ. Ngài giơ hai tay trên đầu họ để cầu xin Chúa Thánh Thần ngự xuống tâm hồn họ. Đoạn Đức Giám Mục đặt tay phải lên đầu mỗi người, và lấy dầu thánh vẽ hình thánh giá trên trán mỗi người mà đọc rằng: “Cha vẽ dấu thánh giá trên trán và xức dầu thánh cứu độ cho con, nhân danh cha và con và thánh thần.”..

Khi chịu phép thêm sức, Chúa Kitô ban Chúa Thánh Thần xuống tràn đầy trong tâm hồn ta.

Quý độc giả có thấy gì lạ trong đoạn giáo lý trên không? Tôi xin nói để chúng ta cùng biết rằng, sách Giáo Lý Công Giáo viết rõ trong bí tích “Rửa Tội” là, vị linh mục làm lễ đã năm lần bảy lượt làm phép đuổi Sa-Tăng ra khỏi đứa con nít, nhường chỗ cho đức Chúa Thánh Thần ngự vào, và sách Giáo Lý Công Giáocũng khẳng định là: "Khi chịu phép rửa tội rồi, ta được Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần tới ngự trong tâm hồn. Người giáo hữu trở nên đền thờ Chúa ngự.", câu mà tôi đã xin các độc giả nhớ kỹ ở trên

Nhưng đoạn mà sách Giáo Lý Công Giáo trích dẫn từ Thánh Kinh ở trên lại cho chúng ta biết vì lý do nào mà tín đồ phải chịu làm lễ Thêm Sức: “Bởi vì Chúa Thánh Thần chưa ngự xuống trong lòng một người nào cả; họ chỉ mới chịu phép rửa tội nhân danh Chúa Giêsu mà thôi.”

Điều này chứng tỏ là trong lễ rửa tội, Chúa Thánh Thần chưa tới ngự trong tín đồ. Kết luận? Những chuyện làm phép của giới linh mục trong lễ rửa tội là do giáo hội bày đặt ra để lừa dối đám tín đồ với mục đích chính là tạo những quyền lực thần thánh giả tưởng cho giới chăn chiên. Còn nữa, đoạn mô tả nghi thức làm lễ Thêm Sức viết: Ngài (đức Giám Mục) giơ hai tay trên đầu họ để cầu xin Chúa Thánh Thần ngự xuống tâm hồn họ. Như vậy là trong tâm hồn của đứa trẻ đã rửa tội không hề có Chúa Thánh Thần nên đến khi mười lăm, mười sáu tuổi, lúc làm lễ Thêm Sức, nó mới được đức Giám Mục cầu xin đức Chúa Thánh Thần xuống ngự trong tâm hồn nó. Vậy, lễ Rửa Tội hoàn toàn vô ích, và những điều giáo hội dạy về lễ rửa tội là không thực. Nếu lễ Rửa Tội đã là vô ích, thì có gì bảo đảm là lễ Thêm Sức có ích, và có gì bảo đảm là Chúa Thánh Thần chịu nghe theo lời sai khiến của ông giám mục xuống ngự trong tâm hồn đứa trẻ? Không có gì bảo đảm cả, trái lại, đó cũng chỉ là một luận điệu thần học lừa dối những đầu óc thấp kém, vì chúng ta cũng đã biết trong nghi thức truyền chức linh mục, khi mà đứa trẻ, sau khi chịu lễ rửa tội, rồi lễ thêm sức, lớn lên muốn làm linh mục, thì lại có cảnh “đức giám mục im lặng đặt tay trên đầu mỗi người sắp được phong làm linh mục và cầu xin Chúa Thánh Thần ngự xuống trên họ.”Điều này chứng tỏ một cách rõ ràng là trong lễ rửa tội và lễ thêm sức, Chúa Thánh Thần không hề nghe lời sai khiến của ông Giám mục xuống ngự trong những đứa con nít và những đứa trẻ đến tuổi dậy thì. Giả thử chúng ta tin vào cái chuyện hoang đường là có Chúa Thánh Thần thật và Người xuống ngự trong những tín đồ thật, thi hành lệnh “cầu xin” của các ông giám mục hay linh mục, trong những lễ tiết như rửa tội, thêm sức, và truyền chức linh mục, thì những điều tôi vừa trình bày ở trên đã chứng tỏ rằng sau mỗi lễ tiết, Chúa Thánh Thần lại bỏ các tín đồ đi chơi chỗ khác, thăm người tình cũ là Mary chẳng hạn, đến khi cần thì lại được mấy ông giám mục, linh mục gọi về. Về trong vài phút rồi lại bỏ đi. Cuối cùng, trong người tín đồ cũng chẳng bao giờ có Chúa Thánh Thần ngự cả. Đây là điều hiển nhiên nhất.

Linh mục Joseph McCabe đã nhận ra sự hoang đường trong nhiệm tích Thêm Sức nên đã viết trong cuốn Sự Thực Về Giáo Hội Ca-Tô như sau:

Bí tích “Thêm Sức” tiến hành theo cái lý thuyết đáng kính phục là khi đứa trẻ đến, hoặc gần đến, tuổi dậy thì nó cần phải được thêm sức. Có vẻ như là chúng ta kêu ca một cách khiếm nhã, nhưng chúng ta thật lấy làm ngạc nhiên tại sao đấng Toàn Năng lại chỉ ban cái sức này qua trung gian của một ông Giám Mục, và như là một phần của một lễ tiết rất cổ lỗ và hoàn toàn không thể hiểu được - đối với đứa trẻ?.. Lẽ dĩ nhiên, “bí tích” chỉ là một phần của hệ thống nhằm nâng cao giới linh mục, tạo cho họ những sự lợi ích to lớn trên đám tín đồ thông thường.

[Joseph McCabe, The Truth About The Catholic Church, pp. 69-70: The sacrament of “confirmation” proceeds on the admirable theory that when young folk attain, or approach, the age of puberty they need “confirming” - that is to say, strengthening. It may seem ungracious to cavil, but one wonders why the Almighty grants this stregth only through a bishop, and as part of a very antique and - to the young folk - totally unintelligible ritual. The “sacrament” is, of course, merely a part of the system which raises a priestly caste, to their great advantage, above the common crowd.]

Mục đích chính của việc bày đặt ra các bí tích đúng là như vậy. Chẳng qua chỉ để đưa giới chăn chiên lên một địa vị tự phong, thay thánh, thay thần, thay Chúa, rồi dựa vào đó để mà thống trị đám tín đồ thông thường ngờ nghệch, dùng Chúa, dùng thánh, dùng thần làm cái bung xung để bất cứ trong trường hợp nào cũng có thể đưa Chúa ra làm cái bình phong chống đỡ cho những hành động phi thánh, phi thần, rất thế tục, đượm nhiều màu sắc mê tín của những người có nhiệm vụ “chăn dắt” con chiên.

Linh mục Georges Las Vergnas có bàn về các bí tích trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma trong cuốn Tại Sao Tôi Bỏ Giáo Hội Rô-Ma. Sau đây là một đoạn điển hình:

Điều quan trọng là phải đọc đúng, không được sai lầm. Một linh mục có thể đọc lên công thức thuộc loại bí tích này mà không cần hiểu nó, và ngay cả không cần phải tin nó, nhưng để cho ảo thuật vận hành, ông ta phải làm cái gì mà giáo hội làm. Tuy nhiên, nếu ông ta nói sai một chữ thì bí tích sẽ không có tác dụng gì cả. Theo nguyên tắc, cái tinh thần của câu “Vừng ơi! Hãy mở cửa đi” (Las Vergnas ví những câu làm phép của giới linh mục với câu phù phép trong chuyện “A-li-ba-ba và những tên ăn trộm, ăn cướp.” TCN) không hề thay đổi.

Những bí tích không những chỉ vô lý mà còn có tính cách phỉ báng. Rabelais đã chẳng nói: Tôi gọi đó là “nhạo báng Thần”.

Tôi còn cho rằng tất cả “lòng mộ đạo” Công giáo chỉ là tập hợp những trò lừa bịp và cách thức để biến đổi linh mục thành một tên “lang băm” và tín đồ thành kẻ đần độn.

Linh mục biết rõ sự đần độn của con người là vô tận: họ khai thác điểm này.
[Georges Las Vergnas, Pourquoi J’ai Quitté L’Église Romaine, p. 51: Ce qui importe, c’est de prononcer sans erreur. Un prêtre peut dire la formule sacramentelle sans la comprendre, et même sans y croire, mais pour que la magie opère, it doit vouloir faire ce que fait l’Eglise. Mais s’il change une syllable rien ne va plus. Le “Sesame ouvre-toi” est, en principle, invariable..

Les sacrements ne sont pas seulement absurdes mais blasphématoires; j’appelle ca “moque-Dieu” dirait Rabelais.

J’en dis d’ailleurs autant de toute la “piété” catholique, assemblage de trucs et de recettes qui transforment le prêtre en charlatan et le fidèle en imbécile..

Le prêtre sait que la bêtise humaine est inepuisable: il en profite. ]


Hiển nhiên là linh mục Đinh Xuân Minh đã khai thác tối đa điểm này, cho nên ngày nay mà vẫn mang những điều không tưởng ra mà mê hoặc con chiên. Độc giả nào muốn tìm hiểu thực chất của các bí tích trong Công Giáo, xin hãy đọc Chương III trong cuốn Đức Tin Công Giáo, có trên trang nhà sachhiem.net.

Trước những tài liệu nêu trên của linh mục McCabe, của Giám mục Spong, của linh mục Las Vergnas và của học giả Công giáo Henri Guillemin, và trước bản văn mô tả nghi thức rửa tội trong sách Giáo Lý Công Giáo của Việt Nam, các tín đồ Công giáo Việt Nam ngày nay đứng trước một vấn đề nan giải, vì họ chỉ có thể chấp nhận một trong hai điều sau đây, chứ không thể chấp nhận cùng lúc cả hai. Hai điều này có tính cách loại trừ hỗ tương (mutual exclusive), có điều này thì không thể có điều kia.

Một là tin vào hiệu năng của bí tích rửa tội qua quyền phép ảo thuật của linh mục hay giám mục mô tả trong nghi thức rửa tội. Vậy thì tất cả những tội lỗi của Công Giáo đối với nhân loại là tội của Chúa Ba Ngôi, vì sau khi rửa tội, Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần đã thay SaTăng tới ngự trong tâm hồn của các tín hữu Công giáo. Người giáo hữu đã trở nên đền thờ nơi Chúa ngự. Những hành động của các tín đồ Công giáo, do đó, đều không phải là do Sa Tăng có quyền khuấy khuất, vì Sa Tăng đâu có còn trong người nữa, mà chính là do sự hướng dẫn tâm linh của Chúa Thánh Thần. Vả chăng, giáo hội thường dạy các con chiên: Giáo hoàng là do sự mạc khải linh ứng của Chúa Thánh Thần cho các hồng y trong việc tuyển lựa giáo hoàng, giáo hoàng được Chúa Thánh Thần chỉ đạo, không thể sai lầm về đức tin hay đạo đức, và giáo hội là nhiệm thể của Chúa Ki Tô cho nên không thể sai lầm. Nhưng nay giáo hoàng đã chính thức xưng thú 7 núi tội lỗi mà giáo hội đã phạm đối với nhân loại và xin được tha thứ. Và chúng ta cũng đã biết đạo đức của một số Giáo hoàng trong lịch sử giáo hội và ngày nay là như thế nào. Vậy, đúng ra điều này phải được giải thích là chính Chúa Thánh Thần ngự trong các giáo hoàng, trong các tín đồ Ca-Tô, trong giáo hội, đã là nguồn gốc của mọi tội lỗi mà giáo hội cũng như những cá nhân trong giáo hội gây ra.

Hai là tin rằng tất cả những tội lỗi của giáo hội Ca- Tô đối với nhân loại không phải do Chúa chủ mưu, mà chính là do Sa Tăng khuấy khuất. Điều này đưa đến sự vô hiệu của bí tích rửa tội cũng như mọi bí tích khác mà trong đó Chúa Thánh Thần được gọi đến để can dự vào. Quyền năng đuổi bỏ Sa Tăng của linh mục là quyền giả tạo, vì đã năm lần bảy lượt đuổi Sa Tăng ra khỏi đứa trẻ để nhường chỗ cho Chúa Thánh Thần mà sau cùng Chúa Thánh Thần vẫn bị đánh bạt ra khỏi người đứa trẻ. Nói tóm lại, dù trong lễ rửa tội, hay trong bí tích thêm sức, hay ngay cả trong bí tích truyền chức linh mục v..v.. , các giám mục, linh mục đã làm đủ mọi cách, sử dụng mọi quyền phép Chúa ban cho, theo như những lời "giáo hội dạy rằng" mà thực chất là để ngự trị đám tín đồ thấp kém, tội tổ tông vẫn không rửa được, Chúa vẫn thua Sa Tăng, đứa trẻ khi lớn lên vẫn không đủ sức chống nổi Sa Tăng, dù đã được “thêm sức”, tâm hồn người đã rửa tội và được thêm sức vẫn không có Chúa ngự, linh mục vẫn làm bậy. Những ân sủng mà linh mục thay Chúa ban cho người chịu phép rửa tội chỉ là những bánh vẽ ở trên trời, và lẽ dĩ nhiên, chẳng làm gì có sự sống đời đời, cứu cánh chung cùng của "bí tích" rửa tội, như các ông linh mục thường hứa hẹn khi làm lễ.

Qua sự phân tích 2 bí tích rửa tội và thêm sức ở trên, chúng ta đã thấy tất cả những sự lừa dối của giáo hội trong sách lược ngu dân, mê hoặc tín đồ bằng những điều hoang đường, phi lý, phi lô-gic, phản khoa học, mâu thuẫn v..v.. mà con người trong đời sống hiện đại, với những kiến thức của nhân loại ngày nay, không thể nào chấp nhận được. Tất cả các bí tích của Công Giáo đều có mặt Thánh Linh hay Chúa Thánh Thần trong đó. Chúa Thánh Thần đã biến thành công cụ của các giám mục, linh mục v..v.., vì các ông này muốn sai Chúa Thánh Thần đi đâu là Chúa Thánh Thần phải đi đó. Trong lễ rửa tội, linh mục sai Chúa Thánh Thần xuống ngự trong đứa bé còn đang khóc oe oe, nhưng rồi Chúa Thánh Thần lại bỏ đứa bé đi đâu mất, rồi lại gọi Chúa Thánh Thần xuống ngự lại trong trong lễ thêm sức, và nếu lớn lên nó có nghe ơn kêu gọi chọn nghề linh mục thì trong lễ truyền chức linh mục, ông giám mục lại phải sai Chúa Thánh Thần xuống ngự lại trong người nó. Họ nói là cầu xin, nhưng cầu xin cái gì được cái nấy, nghĩa là đấng mà họ cầu xin bắt buộc phải chấp thuận và thi hành lời cầu xin thì đó chẳng qua chỉ là một một hình thức sai khiến.

Vậy các “tiến sĩ Thần học” trong giáo hội giải thích làm sao về cái lịch sử chứa 7 núi tội ác của giáo hội mà giáo hoàng cùng “tòa thánh” vừa mới xưng thú, trong đó có các tội ác của tập thể Công giáo, của nhiều cá nhân giáo hoàng, hồng y, tổng giám mục, giám mục, linh mục, cho tới con chiên? Có cách nào giải thích ngoài điều chấp nhận những tội ác này là do hoạt động của Chúa Thánh Thần đổ ơn xuống tràn đầy để thánh hóa giáo hội? Nếu không chấp nhận điều này thì phải chấp nhận là chẳng làm gì có Chúa Thánh Thần “hằng ở cùng giáo hội”và “soi sáng cho giáo hội” hay “thánh hóa giáo hội” hay là “đền thờ trong đầu óc giáo dân”. Tất cả những luận điệu thần học mà giáo hội đưa ra chỉ là sản phẩm của một số người rất thế tục với mưu đồ thống trị đầu óc con người đằng sau cái chiêu bài thần thánh, khai thác sự yếu kém tâm linh của quần chúng thông thường.

Cũng vì vậy mà Giáo sư Thần Học Uta Ranke-Heinemann đã nhận ra những điều hoang đường về vai trò của Chúa Thánh Thần ngự trong giáo hội cùng hiện diện trong các “bí tích” và viết:

Nhưng Chúa Thánh Thần này không phải là cái Tâm Linh để ngự trong giáo hội hay cá nhân, vì nó muốn lưu chuyển tới đâu thì tới, chứ không phải là tới chỗ mà giáo hội hay bất cứ cá nhân nào muốn nó phải tới. Do đó, chúng ta có thể cho rằng, giáo hội chỉ là một sản phẩm của cái tâm linh của chính mình.

[Uta Ranke-Heineman, Putting Away Childish Things, p. 212: But this Spirit is no Spirit to be possessed, because it blows where it wills and not where the Church or anyone else wants it to. We can assume, therefore, that the Church is merely a product of its own spirit.]

Tôi nghĩ rằng bài đã dài, tôi có thể ngừng ở đây được rồi tuy tôi còn rất nhiều điều muốn viết. Thay lời kết, có lẽ mấy câu thơ sau đây của nhà đại văn hào Pháp Victor Hugo trong thế kỷ 19 vẫn còn thích hợp:

Ngày nay, người dẫn dắt đàn chiên của Ngài trong bóng tối
Không phải là kẻ chăn chiên, mà là tên đồ tể đó, Chúa ạ!


(Ce qui mène aujourd’hui votre troupeau dans l’ombre
Ce n’est pas le berger, c’est le boucher, Seigneur!)

Victor Hugo, Les Châtiments, liv. 1, 2

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét