Theo dõi, quan sát, tìm hiểu những tranh cãi ồn ào mấy tuần qua ở hải ngoại chung quanh đề tài Điếu Cày Nguyễn Văn Hải và lá cờ vàng ba sọc đỏ của VNCH trước năm 1975, tôi không thể không liên tưởng, so sánh những diễn biến với truyên Ông Bình Vôi của cụ Phan Khôi cùng với bài thơ của cụ Lê Đạt cách đây gần 60 năm .
Tôi không muốn lập lại những bài viết, những lời tố cáo, buộc tội hoặc bênh vực, bào chữa cho ông Điếu Cày Nguyễn Văn Hãi vì tất cả hình ảnh, âm thanh cuộc đón tiếp ông Điếu Cày ở phi trường Los Angeles, các cuôc họp báo, gặp gỡ đồng hương ở Orange County , ở Washington D.C… đã được ghi nhận qua các video có thể tìm thấy dễ dàng trên intenet. Mỗi người sau khi coi kỹ các video đó có thể có nhận định, suy nghĩ, kế luận cho riêng mình.
Bình vôi là biểu tượng văn hóa lâu đời của người Việt Nam, thường làm bằng đất sét nung, sau này cũng có thứ làm bằng kim loại như nhôm, đồng, dùng để đựng vôi ăn trầu.
Trước khi kim loại được dùng để chế tạo thành đồ gia dụng ở Việt Nam, bình vôi có hai loại, loại thường và loại sang. Dù cả hai đều làm bằng đất nung nhưng hình dạng có khác nhau ( chút đỉnh ). Mỗi khi cho vôi vào bình người ta thường nói là cho ông ăn bởi người ta dùng cái chìa quẹt vôi, nhét vào miệng bình và dùng vôi đắp cho nó cao lên.
Bình vôi dùng lâu ngày, vôi trong bình khô cứng dần, dung tích càng ngày càng nhỏ, khi không dùng được nữa vì vôi đã đóng kín trong bình, không cạy, nạo ra được thì phải mua bình khác.
Bình vôi dù loại sang hay thường, giá trị không có bao nhiêu, thời gian dùng tùy theo người, có khi đến cả chục năm mới trở nên vô dụng khi vôi đóng kín miệng bình phải đem phế thải ( Thời gian đó chưa có ai nghĩ đến chuyện recycle, mà có thì cũng không biết xếp ông bình vôi vào loại vất liệu nào để có thể tái chế? ).
Bình vôi
Truyện Ông Bình Vôi của cụ Phan Khôi có những đoạn diễn tả về cái bình, cách thức cho vôi vào bình cũng như lý do tại sao chiếc bình vôi đó ( có thời ) được tôn thờ trang trọng như sau:
„Nhà tôi, hồi bà nội tôi còn sống; có cái bình vôi hạng sang ấy. Mỗi khi mua vôi ở chợ về, bà tôi ngồi tỉ mỉ lấy cái chìa quệt vôi nhét vào miệng nó, gọi là ‘cho Ông Bình ăn’. Và lâu lâu lại tắp thêm cái miệng nó một lần, hóa nên cái miệng càng ngày càng chêu vêu ra.
Thứ bình vôi thường, dùng chìa bằng tre, những thứ bình vôi sang, bao giờ cũng dùng chìa bằng sắt, ở thân cái chìa đôi khi lại có đeo một lưỡi dao để rọc trầu.
Nhà khác thế nào tôi không biết, còn nhà tôi, tối lại, bà tôi cứ rút cái chìa ra để ra một nơi khác. Làm như thế, bà tôi cắt nghĩa rằng ‘Ông’ sẽ mách cho mình, mà nếu để cái chìa lấp cái miệng thì không mách được.
Lúc đó nhà tôi có một cái trang thờ Tam vị; ở giữa là Phúc đức chính thần, hai bên là Thổ công và Táo công. Hễ cái bình vôi nào bị thải ra thì bà tôi bảo đem đặt trên cái trang ấy, thờ nhân thể.
Sự thờ phượng như thế, không phải chỉ riêng một nhà tôi đâu. Cả làng, nhà nào có bình vôi thải ra, cũng đều đem đặt trên các tường thành đình hoặc chùa; như thế, người ta cho rằng thờ ‘Ông Bình’ đó.
Cái bình vôi, tại sao lại gọi bằng ‘Ông’? Đọc từ đầu đến đây, bạn đọc đã biết. Ở vùng quê chúng tôi, mà có lẽ cả nước Việt Nam cũng vậy, vật gì nó có thể hại mình được thì gọi bằng ‘ông’, vật gì nó to hay sống lâu năm thì cũng gọi bằng ‘ông’.
Con cọp ăn thịt mình được, gọi bằng ‘Ông cọp’, con khỉ phá hoa màu mình được, gọi bằng ‘Ông trưởng’, con chuột, cắn quần áo của mình được, gọi bằng ‘Ông tí’. Cái đầu rau, dùng năm mười năm mới thay cái khác, gọi bằng ‘Ông núc’, cái che, đường kính của nó có khi gần đến một mét, gọi bằng ‘Ông che’. Người Việt Nam về sau thế nào chưa biết, chứ về trước, hễ vật gì làm hại được hoặc lớn hơn, hoặc nhỏ, vật gì sống lâu và to xác thì gọi bằng ‘Ông’ để tỏ lòng tôn kính, sùng bái.“
Khi ánh sáng Mác-Lê chưa soi rọi tới những vùng sâu, vùng xa, các ngõ ngách đen tối đầy dẫy những áp bức, bất công, nhân loại còn chửa thành người, một số người theo tập tục mê tín, dị đoan của ông bà, không vứt bình vôi đi mà đem vào để chung trong bàn thờ, bởi đơn giản họ chỉ nghĩ cái gì sống lâu, to lớn thì được gọi là ông, mà hễ là ông thì phải thờ, phải tôn kính… Số này không phải là ít.
Đến năm 18 tuổi, tuổi trưởng thành của nhận thức, thấy được sự vô lý, nhảm nhí trong việc thờ cúng các Ông Bình Vôi, cụ Phan Khôi và các bạn cùng tuổi đã đi qua các chùa, đình nơi có các thờ ông bình vôi, hất tất cả các ông này xuống đất như ông kể dưới đây:
„Năm tôi mười tám tuổi, tôi không tin nữa. Một đêm mùa hè, gió Nam như bão, sáng trăng mờ mờ, tôi rủ mấy thằng bạn cùng lứa tuổi với tôi đi chơi dọc đường cái làng, đi qua đình và chùa, bao nhiêu ‘Ông bình vôi’ thờ trên tường thành chúng tôi đều hất một loạt xuống đất cả. Sao lại làm như thế? Chúng tôi cứ làm như thế, không cần có lý luận. Nhưng, vài hôm sau, trở lại xem, không biết là do tay ai, thấy đều đặt lại tề chỉnh trên tường thành“.
Điều này chứng tỏ rằng trong một một thời gian nào đó, khi sự kém hiểu biết, u mê còn bao trùm xã hội, con người dễ dàng tin theo những điều nhảm nhí, phản khoa học.
Ngày hôm nay, chiếc bình vôi, những tưởng đã đi vào quá khứ, chìm trong quên lãng vì ở hải ngoại không còn mấy ai ăn trầu nữa, ai ngờ người ta vẫn thấy những chiếc bình vôi xuất hiện đây đó, tuy không nhiều nhưng đặc biệt vẫn khuấy động được sinh hoạt của người Việt, nhất là ở Hoa Kỳ.
Nguyên do những xáo động đó là do những cái bình vôi, những vật có óc, không bao giờ hiểu được giá trị thật sư của mình nhưng chỉ muốn người ta tôn thờ, quý trọng và nghe lời mách của mình.
Ở vào thời đại mà mọi sinh hoạt, biến động, tin tức của thế giới được truyền đi với tốc độ nhanh như ánh sáng qua điện thoại, internet…, mọi hình ảnh, âm thanh được thu thập , chuyển tải, lưu giữ khắp mọi nơi thì những lời mách với những suy nghĩ khô cứng, những ảo tưởng về giá trị cao quý của ông bình vôi đã trở thành lố bịch, kệch cỡm nếu không muốn nói là gây nên những tác động ngược làm cho bình vôi càng trở nên thừa thãi, vô ích.
Nhà thơ Lê Đạt trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm cũng đã sáng tác một bài thơ nói về ông bình vôi như sau:
“Ông bình vôi”
Những kiếp người sống lâu trăm tuổi
Y như một cái bình vôi
Càng sống càng tồi
Càng sống càng bé lại…
Những chiếc bình vôi không còn giá trị như thế chỉ nên đem vứt đi, không đáng bàn tới.
© Thạch Đạt Lang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét