Chủ Nhật, 23 tháng 11, 2014

ĐÔI ĐIỀU XUNG QUANH CUỐN : “Sách Bôi Nhọ…” [Le Livre Noir…] (Chủ Biên: Stéphane Courtois)





Trần Chung Ngọc




Trên thực tế, các chế độ Cộng Sản đã cáo chung cách đây đã 18 năm có lẻ, từ năm 1989, nhưng cái bóng ma Cộng Sản vẫn còn ám ảnh không ít người trên thế giới: một số chính trị gia Âu Châu và Mỹ, một số các bậc lãnh đạo tôn giáo độc thần Tây phương, và tất nhiên một số người Việt di cư thuộc thế lực đen quốc tế [Từ của Linh Mục Joseph McCabe: The Black International], hoặc vẫn còn mắc nặng “Hội Chứng Quốc – Cộng”. Herwig Lerouge ở Bỉ viết: “Mười lăm năm sau khi bị khai tử và chôn cất, hồn ma Cộng Sản vẫn còn ám ảnh đầu óc của một số lãnh tụ chính trị Âu Châu.” (Fifteen years after being declared dead and buried, the specter of communism is again haunting the minds of some of Europe's political leaders.) Do đó, tuy cuộc chiến tranh lạnh đã chấm dứt, nhưng cuộc chống Cộng vẫn tiếp tục vì nhiều lý do.

Nghiên cứu về những chiến dịch chống Cộng này, tuy Cộng đã không còn, chúng ta có thể thấy rõ nguồn gốc của nó nằm trong sự đối nghịch của ý thức hệ Ki Tô Giáo đối với Cộng Sản, trong sự đối nghịch giữa các chế độ Tư Bản và Cộng Sản. Mặt khác, bản chất đối nghịch chính trị xã hội và tôn giáo trên thật là rõ ràng chứ không phải vì tự thân những tội ác của Cộng sản, bởi vì tội ác của Tây phương nói chung vượt trội tội ác của Cộng Sản rất nhiều. Chỉ có những người không đọc sử thế giới mới không biết đến sự thực này.

Người Mỹ đặt ưu tiên giá trị trên khả năng quân sự và kinh tế của mình, và cho đó là khuôn mẫu mà cả thế giới phải theo, chứ còn về vấn đề tâm linh và đạo đức thì xã hội Mỹ không có gì đáng nói.. Thật vậy, theo thống kê mới nhất của The Pew Forum on Religion & Public Life thì năm 2006 có khoảng 75% người dân Mỹ theo Thiên Chúa Giáo [51.3% theo các hệ phái Tin Lành, và 23.9% theo Ca-Tô] và tỷ lệ này đang đi xuống (Chicago Tribune, Tuesday Feb. 26, 2008: Many Roman Catholics and Protestants in America are leaving the churches of their childhood, according to an extensive national survey released Monday). Tỷ lệ Tin Lành bỏ nhà thờ là 2.6% và tỷ lệ tín đồ Ca-tô bỏ nhà thờ là 7.5%. Tuy chiếm 75% dân số, nhưng tỷ lệ này không có nghĩa là trình độ tâm linh của họ cao nếu không muốn nói là thấp nhất so với những người dân trong những nước tiến bộ ở Âu Châu hay ở Á Châu. Về phương diện đạo đức, theo chính thống kê của Mỹ, nước Mỹ cũng là nước giật giải quán quân trên thế giới về tội ác, băng đảng giết người, xì ke ma túy, đĩ điếm, cưỡng dâm, vị thành niên mang thai hoang, con giết cha mẹ, cha mẹ giết con, vợ giết chồng, chồng giết vợ, học sinh Trung Học, sinh viên Đại Học mang súng vào trường bắn loạn, loạn luân, linh mục, mục sư cưỡng bức tình dục trẻ con và nữ tín đồ, kỳ thị và ly dị v..v.., những phó sản của một xã hội thiên về ăn uống quá độ, tình dục quá độ, bạo hành quá độ, tiêu thụ quá độ (over eat, over sex, over violence, over consumption). Riêng trên đất Mỹ đã có tới 4392 linh mục bị truy tố về tội loạn dâm, cũng có cả nữ tu Ca-Tô (sơ) ở Milwaukee can tội loạn dâm với trai thiếu niên, và giáo hội Ca-Tô đã phải bỏ ra trên 2 tỷ đô-la để bồi thường cho những nạn nhân tình dục.


Thống kê mới nhất cho biết cứ 6 phút đồng hồ lại có một phụ nữ bị hãm hiếp, 2 triệu gái vị thành niên bị cưỡng bách vào nghề đĩ điếm, 4392 linh mục bị truy tố về tội cưỡng dâm trên 11000 trẻ em và nữ tín đồ, trên 2 triệu người ngồi tù và nhà tù chật ních không đủ chỗ chứa tù đến độ phải thả tự do cho hàng ngàn tù nhân trước khi mãn hạn [số tù nhân trong các nhà tù Mỹ chiếm 25% tổng số các tù nhân trên thế giới, trong khi dân Mỹ chỉ chiếm chưa tới 5% trên tổng số dân trên thế giới], mỗi năm có 200000 tù nhân bị bọn đồng tù hãm hiếp, nữ quân nhân bị nam quân nhân hiếp, tỷ lệ ly dị từ các cuộc hôn nhân do Chúa Thánh Linh kết hợp (qua bí tích hôn phối) trên toàn quốc là trên 50%, ở Oklahoma tỷ lệ ly dị là 73%, 63% dân chúng mập phì quá mức cân lành mạnh đến độ chính quyền phải lên tiếng báo động. Ngoài ra, trong xã hội có đủ các loại gian lận, trốn thuế, lừa đảo rất tinh vi trong đủ mọi giới, từ kẻ thất nghiệp đến các bác sĩ, luật sư, chủ xí nghiệp v..v... Trong số này không phải là không có người Việt Nam.


Tuy vậy mà tư bản Mỹ vẫn tự cho mình là văn minh hiện đại, là thánh thiện vì là con dân Chúa, có nhiệm vụ xuất cảng nhân quyền và dân chủ theo quan niệm của Mỹ, và cho tới ngày nay, ứng cử viên Tổng Thống Mỹ, John McCain, trong cuộc tranh cử vẫn huênh hoang nói Mỹ là một thị trấn trên ngọn đồi (A city on the hill), hàm ý Mỹ cao cả hơn cả thế giới, phải lãnh đạo thế giới, hay nói theo một ý khác, là cái đầu tầu phun khói đen kéo cả thế giới theo sau.



Tại sao vậy? Đó là vì cái óc Tây Phương của họ thường quá bị ám ảnh bởi lòng tự cao, tự đại vì là dân được Chúa [God] chọn, đã tiêm nhiễm những điều dạy của Chúa trong cuốn Kinh của Ki Tô Giáo [tôi dịch Bible là cuốn Kinh của Ki Tô Giáo, tránh dùng từ Thánh Kinh vì trong đó chẳng có gì là thánh cả], nên tự cho mình cái quyền đi chinh phục, chiếm hữu, và truyền bá Phúc Âm mà thực chất chỉ là những điều mê tín hoang đường của người Do Thái cổ xưa, cho nên không thể chấp nhận bất cứ một ý thức hệ nào khác.



Lịch sử Tây phương [nên hiểu đây gồm cả Mỹ] không lấy gì làm đẹp đẽ, cho nên chiêu bài dùng trong những sách lược tuyên truyền nhồi sọ quần chúng để chống Cộng của Tây phương là thổi phồng tội ác của Cộng Sản để làm nhẹ bớt tội ác mà thực chất lớn hơn nhiều của Tây phương trong những lãnh vực tôn giáo, thực dân, đế quốc, và tư bản. Tất cả đều nhằm mục đích xóa tên Cộng Sản trên thế giới để cho Tư Bản và tôn giáo độc thần ở Tây phương chiếm địa vị độc tôn, và Phát xít có cơ hội trở lại, như một số bình luận gia Tây phương đã nhận định. Tây phương muốn cho thế giới quên đi những sự tàn bạo về nhiều mặt mà thế giới Tây phương đã giáng lên đầu nhân loại trong gần 2000 năm trong khi Cộng sản chỉ tồn tại trong thời gian chưa đầy 100 năm và những tác hại gây ra chỉ thu hẹp trong một số địa phương và có nhiều nguyên nhân. Cộng sản Nga chỉ ở trong nước Nga trừ một biến cố ở Ba Lan, Cộng Sản Trung Quốc trong nước Tàu, v..v…, nhưng Ki Tô Giáo và các thế lực thực dân và tư bản Tây phương đã gây tác hại trên thế giới như thế nào? Đã giết bao nhiêu người không phải dân mình? Đó là những câu hỏi mà những người Tây phương ít khi muốn nhắc đến.



Cuốn “Sách Bôi Nhọ Về Chủ Thuyết Cộng Sản” [Le Livre Noir du Communisme] không phải là cuốn duy nhất trong chiến dịch này. Cuốn sách được viết bởi nhiều tác giả, chủ biên là Stéphane Courtois. Điều rõ ràng là cuốn sách được viết ra với mục đích chính trị chứ không phải là một cuốn sách nghiên cứu nghiêm chỉnh về sử. Cho nên trong đó, chúng ta thấy những chi tiết cố ý sai lầm, những nhận định lệch lạc, những con số bịa đặt, phóng đại quá đáng, và những quy kết cưỡng ép một chiều nếu không muốn nói là ngớ ngẩn. Điều đáng nói là, chủ biên cuốn sách này, Stéphane Courtois, người viết Phần Dẫn Nhập (Introduction) và Kết Luận (Conclusion), lại không có mấy lương thiện trí thức, như chính một số đồng tác giả trong cuốn sách lên tiếng phê bình. Sự kiện này đã làm giảm giá trị của cuốn sách rất nhiều. Vì vậy, chúng ta có thể đọc trên Internet:


Phần Dẫn Nhập và Kết luận mà Stéphane Courtois viết, nhân danh là một sử gia, lại chính là một bản cáo trạng nguy hại đối với ông ta [The preface and epilogue written by Courtois are really a damming indictment of him as a historian.] (Bởi vì Stéphane Courtois đã thiếu lương thiện trí thức khi viết hai phần này. TCN)

Cũng vì vậy mà tôi dịch “Le Livre Noir” là “Cuốn Sách Bôi Nhọ”, thích hợp với nội dung xuyên tạc và sai sự thật của cuốn sách hơn. Xin đừng hiểu lầm là tôi có ý bênh vực cho Cộng Sản, đây chỉ là vấn đề lương thiện trong ngành học thuật. Tôi sẽ chứng minh mục đích bôi nhọ của cuốn sách này sau, nhưng trước hết tôi muốn viết đôi chút về tại sao trong thế giới Tây phương, người ta vẫn tiếp tục tích cực chống Cộng.

Đọc lịch sử thế giới, chúng ta biết Cộng Sản không phải là thế lực chính trị xã hội duy nhất, tôi muốn nói là thế lực, chứ không phải là chủ thuyết Marx, đã có những hành động tàn bạo đối với con người, nhiều hay ít tùy theo từng địa phương, và có khi là điều khó tránh trong công cuộc tranh đấu để giải phóng dân tộc ra khỏi những ách độc tài quân chủ, nô lệ thực dân, độc tài quân phiệt, và độc tài tôn giáo. Bởi vì thực hành và chủ thuyết thường rất khác nhau. Chúng ta còn có những thế lực, và cả chủ thuyết khác, cũng gây tác hại cho nhân loại không kém, mà thực ra còn ở mức độ lớn hơn nhiều. Chúng ta phải kể, chủ thuyết Ki-Tô, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân, đế quốc v...v.. Nhưng Tây phương không muốn nhắc đến những tội ác gây ra bởi những chủ thuyết, thế lực này, và còn muốn thế giới quên đi, và chỉ để ý đến những tội ác của Cộng Sản. Nhưng thế giới không quên, vì lịch sử còn đó. Bởi vậy, ngoài cuốn “Sách Bôi Nhọ Về Chủ Nghĩa Cộng Sản”, chúng ta cũng còn có cuốn “Sách Đen Về Chủ Nghĩa Tư Bản” (Le Livre Noir Du Capitalisme, 1998), cuốn ““Sách Đen Về Chủ Nghĩa Thực Dân” [Le Livre Noir Du Colonialisme, 2003], và những nghiên cứu sâu rộng về “Chủ thuyết Ca-Tô” (Catholicism), “Chủ Nghĩa Đế Quốc”(Impérialisme), “Những Nạn Nhân Của Đức Tin Ki Tô” (Victims of Christian Faith), “Những Nạn Nhân Của Ki Tô Giáo” (Victims of Christianity) v..v... Về phương diện lịch sử, có thể nói Ca-Tô Giáo Rô-ma chiếm giải quán quân về những sự kiện có thể dùng để viết lên vài cuốn “sách đen”, nhưng có lẽ vì Ca-Tô Giáo Rô-ma, luôn luôn khoa trương tự nhận là một hội thánh duy nhất, thiên khải, thánh thiện, tông truyền v.. v.., trong khi thật ra chỉ là một tổ chức thế tục nấp sau bình phong tôn giáo và đã để lại nhiều trang đen tối của lịch sử Tây phương. Tuy nhiên, dù sao Ca-Tô Giáo Rô-ma cũng đã là một phần văn hóa quan trọng trong xã hội Tây phương, và ngày nay vẫn còn nhiều tín đồ ngu ngơ tin theo, nên thế giới Tây phương không muốn nhắc đến và không muốn ai nhắc đến những trang sử đen đậm này. Đó là sự đạo đức giả của Tây phương.

Người ta không muốn cho thế giới biết rằng chính nội bộ Ca-Tô Giáo Rô-ma cũng có một cuốn “Sách Đen” (Black Book). Thật vậy, Giám Mục Peter de Rosa trong cuốn “Vicars of Christ, The Dark Side Of The Papacy”, Crown Publishers, Inc., New York, 1988, trg.162-166, có nói về cuốn Sách Đen này, cuốn sách chỉ đạo của “Tòa Thánh” cho những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo:

Tòa hình án trong thời Trung Cổ có thể làm bất cứ điều gì . Những phán quan của tòa hình án[những Linh Mục] thuộc dòng tu Đa Minh, được giáo hoàng bổ nhiệm, không ở dưới quyền bất cứ một ai ngoài Thượng Đế và giáo hoàng. Họ đứng ngoài vòng xét xử của các giám mục và luật dân sự. Trong những quốc gia thuộc quyền giáo hoàng họ chính là luật lệ, vừa đóng vai công tố viên vừa đóng vai quan toà xử án. Nguyên lý chỉ đạo của họ là : Thà giết oan 100 người vô tội còn hơn là để cho một kẻ dị giáo được tự do."

Tra tấn được dùng thả dàn. Mới một trăm năm trước đây, người ta trưng bày trong cái nhà ở góc đường của giáo hoàng Cuốn Sách Đen dùng làm chỉ đạo cho những quan tòa hình án. Cuốn sách có đánh số trang này thuộc trách nhiệm của Đại Phán Quan. Cái tên phổ thông của nó là Cuốn Sách của Thần Chết. Sau đây là một phần được trích dẫn từ đó:

Hoặc bị cáo thú tội và như vậy là có tội theo sự thú tội của chính hắn, hoặc hắn không thú tội nhưng vẫn là có tội dựa theo chứng cớ của các nhân chứng. Nếu một người nhận tất cả các tội đã gán cho hắn, đương nhiên hắn hoàn toàn có tội; nhưng nếu hắn chỉ thú nhận có một phần các tội trạng, hắn vẫn phải bị coi như là phạm tất cả các tội, vì phần mà hắn đã thú tội chứng tỏ rằng hắn có khả năng phạm tất cả các điểm khác trong bản cáo trạng...

Sự tra tấn thân xác đã chứng tỏ đó là phương cách có ích và hữu hiệu đưa tới sự sám hối tinh thần. Cho nên, sự lựa chọn một hình cụ tra tấn thích hợp nhất là trách nhiệm của quan tòa hình án, ông ta sẽ quyết định dựa trên tuổi tác, phái nam hay nữ, và sự cường tráng thân thể của tội nhân. Nếu, trong trường hợp đã dùng đủ mọi cách mà con người xấu số kia vẫn không chịu nhận tội, phải coi hắn như là một nạn nhân của quỷ; và, như vậy, không được hưởng sự thương xót từ các kẻ tôi tớ của Thượng Đế (các linh mục xử án), hoặc sự thương hại hay khoan hồng nào của giáo hội Mẹ Thánh Thiện. Hắn là đứa con của sự đày đọa. Hãy để cho hắn chết rục cùng với những kẻ đã bị đày đọa vĩnh viễn xuống địa ngục."

Thật khó mà có thể kiếm được một văn kiện nào mà trái với những nguyên tắc công lý tự nhiên như vậy. Theo cuốn Sách Đen của Ca-Tô Giáo, một đứa con phải phản bội cha mẹ, một bà mẹ phải phản bội đứa con. Không làm như vậy là một " tội lỗi đối với Toà Án Thánh" và đáng bị tuyệt thông, nghĩa là, không được hưởng các bí tích và, nếu không có tu chính án, không được lên thiên đàng."

[Ở Việt Nam, trong vài địa phương, cách đây trên 50 năm, cũng đã xẩy ra một số trường hợp người trong gia đình tố cáo nhau, nhưng vì không hợp với truyền thống văn hóa Á Đông, nên chỉ xẩy ra lẻ tẻ ở một vài địa phương, và chỉ xẩy ra trong một thời gian ngắn. Người ta thường đem điều này và một số trường hợp giết oan ra để tố Cộng, nhưng người ta không biết rằng đó chính là những giáo điều nguyên thủy của Ca-Tô Giáo Rô-ma như: “một đứa con phải phản bội cha mẹ, một bà mẹ phải phản bội đứa con”và “Thà giết oan 100 người vô tội còn hơn là để cho một kẻ dị giáo (có tội) được tự do." và chính sách này đã được Ca-Tô Giáo thi hành trong cả vài thế kỷ] [Chúng ta cũng nên biết rằng người có tội với Tòa Án Thánh như trên có thể bị coi là đồng lõa và cũng bị tra tấn như những người bị nghi ngờ như lịch sử đã ghi rõ trong một số tài liệu khác]

[To the medieval Inquisition, everything was permitted. The Dominican Inquisitors, being the pope's appointees, were subject to no one but God and his Holiness. They were outside the juridiction of bishops and of civil law. In the Papal States they were a law unto themselves, acting as prosecutors and judges. Their guiding principle was: "Better for a hundred innocent people to die than for one heretic to go free."

Torture was freely used. Only a hundred years ago, there was on display in the pope's House on the Corner the Black Book, or Libro Nero, for the guidance of inquisitors. This manuscript in folio form was the charge of the Grand Inquisitor. Its popular name was the Book of the Death. This is part of what it said:

Either the person confesses and he is proved guilty from his own confession, or he does not confess and is equally guilty on the evidence of witnesses. If a person confesses the whole of what he is accused of, he is unquestinably guilty of the whole; but if he confesses only a part, he ought still to be regarded as guilty of the whole, since what he has confessed proves him to be capable of guilt as to the other points of the accusation...

Bodily torture has ever been found the most salutary and efficient means of leading to spiritual repentance. Therefore, the choice of the most befitting mode of torture is left to the Judge of the Inquisition, who determines according to the age, the sex, and the constitution of the party...If, notwithstanding all the means employed, the unfortunate wretch still denies his guilt, he is to be considered as a victim of the devil: and, as such, deserves no compassion from the servants of God, nor the pity and indulgence of Holy Mother Church: he is a son of perdition. Let him perish among the damned.

It would be hard to find any document so contrary to the principles of natural justice. According to the Black Book, a child must betray his parents, a mother betray her child. Not to do so is a "sin against the Holy Office" and merits excommunication, that is, exclusion from the sacraments and, if there is no amendement, exclusion from heaven...]



Những Chủ Thuyết và Chủ Nghĩa này đã giết bao nhiêu người vô tội bởi Ki Tô giáo, bởi chính sách thực dân, bởi chủ nghĩa đế quốc với những cuộc chiến tranh can thiệp v..v..? Hỏi như vậy không có nghĩa là để so sánh với Cộng Sản mà chỉ để thấy bộ mặt đạo đức giả của thế giới Tây phương, một bộ mặt chưa bao giờ biết sờ lên gáy xem xa hay gần. Riêng đối với Việt Nam, chúng ta đã thấy những ông bà dân biểu cắc ké ở Hạ Viện Mỹ cũng như đương kim đại sứ Mỹ ở Việt Nam luôn luôn muốn nhúng mũi vào chuyện nhân quyền ruồi bu ở Việt nam mà không bao giờ nhìn đến hồ sơ nhân quyền khủng khiếp nhất của Mỹ.

Nhưng đó là chính trị “cường quyền thắng công lý”, chủ nghĩa đế quốc thực dân theo một hình thức khác, và các nước nhỏ, đang phát triển như Việt Nam, đâu có thể làm gì hơn là cố sức chống chọi, được chừng nào hay chừng ấy, sức ép từ mọi thế lực mang danh cường quốc và văn minh Tây phương, và của cả những đứa con lạc đàn thuộc loại Trần Ích Tắc và Lê Chiêu Thống, những đứa con thuộc thuộc ba khối: Chống Cộng Cho Chúa (RCC = Roman Catholic Church), Chống Cộng Cực Đoan (CCCĐ) và Chống Cộng Chết Bỏ (CCCB).

Ngày nay, thế giới Tây phương và tay sai tập trung vào chiến dịch hướng dẫn dư luận, thật ra là lạc dẫn [mislead] dư luận qua những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc lịch sử, thổi phồng tội ác của Cộng Sản, nhằm mục đích xóa tên Cộng sản trên chính trường thế giới. Sách lược chung của họ là chỉ đưa ra, và thường là thổi phồng, xuyên tạc mặt xấu của Cộng Sản mà không bao giờ nói đến những thành quả của Cộng Sản trên thế giới. Riêng về Việt Nam, họ quên đi chiến công lừng lẫy của Cộng Sản trong công cuộc đánh đuổi thực dân Pháp, cất bỏ được ách đô hộ của thực dân trên toàn thể dân tộc, và là tiền phong trong những cuộc cách mạng chống thực dân trên thế giới, và sau cùng thống nhất đất nước. Họ chỉ quan tâm đến vài con số ngụy tạo trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất ở Việt Nam. Trong cuộc chiến với Mỹ ở miền Nam, họ chỉ nhắc đến Tết Mậu Thân theo luận điệu tuyên truyền của Việt Nam Cộng Hòa và Mỹ, mà quên đi bom đạn Mỹ và VNCH đã tàn phá Huế như thế nào, làm bao nhiêu thường dân vô tội chết. Một tài liệu cho biết, cho tới cuối năm 1966, theo ước tính của CIA thì bom của Mỹ thả ở ngoài Bắc đã làm chết trên 35000 người mà 80% là thường dân [Ronald H. Specter,After Tet, The Free Press, New York, 1993, p. 12: The bombing’s economic and military damage to North Vietnam was estimated by the CIA at about $130 million by the end of 1966, and more than 35000 North Vietnamese, 80 percent of them civilians, had been killed]. Họ cũng không bao giờ nhắc đến Mỹ Lai, chiến dịch Phụng Hoàng, vùng oanh kích tự do, thuốc khai quang, và những chính sách tàn bạo gấp bội, giết nhiều người gấp bội của Mỹ và tay sai, nhất là của chính quyền tôn giáo trị, gia đình trị của Ngô Đình Diệm với chính sách “tố Cộng” bừa bãi, với đoàn mật vụ miền Trung, với khu 9 hầm của Ngô Đình Cẩn v…v.. Nhưng tài liệu về cuộc chiến ở Việt Nam ngày nay không thiếu, cho nên những luận điệu “tố Cộng” một chiều theo thiên kiến không còn giá trị thuyết phục.

Những thế lực chống đối Cộng Sản năng nổ nhất ngày nay là Ca-Tô Giáo Rô-ma, Tin Lành, và Tư Bản Đế Quốc. Tại sao Ki tô Giáo nói chung lại thù ghét và chống đối Cộng Sản, trong khi lịch sử tội ác của Ca-Tô Giáo Rô-ma, Tin Lành, và Đế quốc, thực dân còn gấp trăm lần của Cộng Sản. Vậy thì vì lý do gì?.

Học giả Ca-Tô Joseph L. Daleiden đã viết trong cuốn Sự Mê Tín Cuối Cùng (The Final Superstition, Prometheus Books, New York, 1994): “Căn nguyên sự thù ghét của giáo hội Ca Tô đối với Cộng Sản là giáo hội ý thức được rằng Cộng Sản, về ảnh hưởng, là một địch thủ tôn giáo.” (The root of the Catholic Church’s antipathy toward Communism is its realization that Communism is, in effect, a rival religion).

Mặt khác, sự truyền đạo của Ca-Tô Giáo Rô-ma sang Á Châu hoàn toàn bị thất bại ở những nước không bị thực dân xâm chiếm như Trung Quốc, Nhật Bản. Ngoại trừ Phi Luật Tân bị Tây Ban Nha, với chính sách tàn bạo của những Spaniards đã biến thành một nước Ca-Tô Giáo, và Việt Nam bị thực dân Pháp xâm chiếm nhờ đám thừa sai làm tiên phong và sự hỗ trợ của giáo dân Việt Nam mà lịch sử đã ghi rõ, tuy nhiên cho đến ngày nay Việt Nam cũng chỉ có khoảng 6-7% dân số theo đạo. Tại sao ViệtNam lại khác Phi Luật Tân như vậy? Vì Việt Nam có những tôn giáo nhân bản như Thích, Nho, Lão và có nền văn hóa cao hơn văn hóa Ca-tô nhiều. 1000 năm đô hộ mà Tàu không thể đồng hóa được người dân Việt Nam, vậy những giáo thuyết mê tín hoang đường của Ca-Tô Giáo Rô-ma đi kèm với thực dân làm sao có thể đồng hóa người dân xuống hàng con chiên, con cừu. Hơn nữa, trong thế kỷ 20, ý thức hệ Cộng Sản đã giúp cho Á Châu quyết liệt chống lại Ki Tô Giáo. Điều này được Avro Manhattan viết như sau:

“Tuy nhiên, thật là sai lầm khi nghĩ rằng Á Châu đã bác bỏ Ki Tô Giáo chỉ vì Ki Tô Giáo là một phó sản của Tây phương. Khoa học và kỹ nghệ là những phó sản của Tây phương; nhưng chúng được đón tiếp. Chủ nghĩa Marx là một phó sản của tư tưởng Tây phương, tuy nhiên chỉ trong vài thập niên cũng đủ để trồng hạt giống trên khắp lục địa mà gần 2000 năm nỗ lực của Ki Tô Giáo đã phung phí với kết quả buồn thảm nhất..

Cộng Sản, như là nguồn cảm hứng cho cách mạng thế giới, có ích hay có hại là quan niệm của tùy người. Tuy nhiên, sự phát triền kỳ lạ của nó là một sự kiện. Nó đã góp phần cho một sự thức tỉnh nhanh chóng hơn của Á Châu, cho sự nổi giậy mau hơn của tinh thần quốc gia của Á Châu, và cho sự chống lại Ki Tô Giáo của Á Châu quyết liệt hơn.”

(To think, however, that Asia has rejected Christianity simply because it is a by-product of the West would be erroneous. Science and industrialism are Western by-products; yet they are welcome. Marxism is a by-product of Western thought, yet a few decades have sufficed to plant its seeds throughout the continent in which almost two thousand years of Christian efforts were spent with the most dismal result...

Whether Communism, as the inspirer of a world revolution, is beneficial or harmful is anyone's opinion. Its phenomenal spreading, however, is a fact. It has contributed to a swifter awakening of Asia, to a quicker emergence of Asian nationalism, to a fiercer Asian opposition to Christianity.)



Có một điều khó ai có thể phủ nhận là cuộc cách mạng 1789 của Pháp, và sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng Sản trong thế kỷ 20, đã phần nào làm sụp đổ ý thức hệ Ca-Tô Rô-ma Âu Châu, hậu quả là tình trạng suy thoái thê thảm của Ki Tô Giáo ở Âu Châu ngày nay. Có thể nói, chủ nghĩa Cộng Sản là một toa thuốc đã thành công chữa vài căn bệnh thời đại đã giáng lên đầu nhân loại: bệnh nghiện thuốc phiện Thiên Chúa của Âu Châu mà người dân Âu Châu ngày nay đã cai từ từ, bệnh tư bản bóc lột giai cấp vô sản của cuộc cách mạng kỹ nghệ mà các xí nghiệp đã phải cho tổ chức những nghiệp đoàn để bảo vệ quyền lợi của công nhân, và bệnh thực dân bóc lột trà đạp những nước nhược tiểu, đã cáo chung sau chiến thắng Điện Biên Phủ ở Việt Nam. Việt Nam nên hãnh diện vì đã đi tiên phong trong sứ mạng giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ của thực dân Pháp, một ách nô lệ mà lịch sử đã ghi rõ, thực dân Pháp không thể áp đặt lên dân tộc Việt Nam nếu không có những sự hỗ trợ, hành động tay sai của tổ chức Ca-Tô Giáo Rô-ma ở Việt Nam, như chính giám mục Puginier đã thú nhận. Cộng Sản Việt Nam đã mở đường chôn vùi chế độ thực dân trên thế giới, đồng thời đưa thế lực đen đã nổi tiếng là “hễ phi dân tộc thì thể nào cũng phản bội dân tộc” về nguyên vị là một thiểu số lệ thuộc ngoại bang trên đất nước, và mất đi những quyền lợi chỉ có thể có được nhờ thực dân và 2 chính quyền Ca-Tô ở miền Nam.. Đây là những sự kiện lịch sử không ai có thể phủ bác bất cứ dưới lý luận méo mó thiển cận nào, thí dụ như, cứ để yên rồi Pháp sẽ trả lại độc lập cho cũng như Mỹ đã trả lại độc lập cho Phi Luật Tân mà không biết rằng bao nhiêu ngàn người Phi Luật Tân đã chết vì chống Mỹ.. Nhưng sau khi đánh đuổi được thực dân và thống nhất đất nước, chủ nghĩa Cộng Sản đã không còn thích hợp, vì vậy mà Việt Nam đã kịp thời chuyển hướng, vượt qua những khó khăn lúc đầu của tình trạng kiệt quệ sau cuộc chiến, vượt qua sự cấm vận trong 19 năm của Mỹ, và đưa quốc gia đến tình trạng phát triển về mọi mặt ngày nay. Chỉ có những con người mang cặp kính màu hồng, nhìn đâu cũng thấy màu đỏ và cắm đầu húc càn, mới không biết đến những điều này.


Chẳng có ai phủ nhận là CS Việt Nam trong quá khứ đã có những sai lầm về chính sách, về những biện pháp độc tài khắc nghiệt không phù hợp với truyền thống văn hóa của người Việt Nam. Chính sách Cải Cách Ruộng Đất không sai nhưng khi thi hành đã vấp phải những sai lầm không kiểm soát được. Điều đáng nói là chính quyền đã thẳng thắn công nhận sự sai lầm trước quốc dân và có những hành động đền bù. Tết Mậu Thân xẩy ra trong cuộc chiến và sự tàn bạo không chỉ ở một phía. Ngày nay có nhiều tài liệu có thể làm sáng tỏ phần nào về vụ Tết Mậu Thân ở Huế. [Xin đọc một số tài liệu về Tết Mậu Thân trên dongduongthoibao.net hoặc nhandanvietnam.org] Nói như vậy không có nghĩa là bênh vực hay biện hộ cho những hành động của CS trong các vụ trên là chính đáng, nhưng chúng ta khi viết về những biến cố trên không thể chỉ đưa ra luận điệu, nhiều khi chỉ có mục đích tuyên truyền qua những con số ngụy tạo, phóng đại của một phía mà phải có những nhận định tổng hợp từ mọi phía. Nhưng dù sao thì đa số người dân Việt Nam, Quốc cũng như Cộng, cũng không thể phủ nhận được những đóng góp to lớn của CS cho đất nước. Và đóng góp huy hoàng nhất đã được David G. Marr viết trong Phần

Dẫn Nhập của cuốn “Vietnamese Tradition On Trial 1920-1945”, trang 1. David G. Marr là Giáo sư nghiên cứu về Thái Bình Dương ở Đại Học Quốc Gia Úc.

Năm 1938: Ít nhất là 18 triệu người Việt nằm trong vòng kiềm tỏa của chỉ có 27000 binh lính thuộc địa. Tuy vậy mà chỉ 16 năm sau, lực lượng thuộc địa tới 450000 quân mà không thể tránh khỏi cuộc thảm bại về chiến thuật ở Điện Biên Phủ và bắt buộc phải di tản chiến lược xuống miền Nam vĩ tuyến 17. Sau cùng, trong những năm 1965-1975, nhiều tổ hợp của Mỹ, Việt Nam Cộng Hòa, Nam Hàn, và các lực lượng quân sự đồng minh khác, tổng số lên tới 1.2 triệu người cũng bị thảm bại, và cuối cùng cũng bị đánh bại bởi Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.


(In 1938 at least eighteen million Vietnamese were being kept in check by a mere 27,000 colonial troops. Yet a scant sixteen years later, colonial forces totalling 450,000 were unable to avoid tactical disaster atDien Bien Phu and compulsory strategic evacuation south of the seventeenth parallel. Finally, in the years 1965-1975, various combinations of American, Republic of Vietnam, South Korean, and other allied armed forces totalling up to 1.2 million men were outfoxed, stalemated, and eventually vanquished by the National Liberation Front and the People’s Army of Vietnam.)



Nếu chúng ta lại biết rằng, ngày 22-12-1944, ông Võ Nguyên Giáp mới bắt đầu thành lập một Trung đội 34 người, và từ đội quân nhỏ nhoi này đã phát triển thành Quân Đội Nhân Dân Việt Nam trong vòng chưa đầy 10 năm để đưa đến thành tích chiến thắng ở Điện Biên Phủ, và sau đó với thành tích chiến thắng một đối phương có ưu thế tuyệt đối về quân sự và kinh tế, để đi đến thống nhất đất nước, thì đó có phải là điều đáng để cho chúng ta suy nghĩ và nhìn CS Việt Nam ngoài cái lăng kính nhỏ hẹp của hội chứng Quốc – Cộng không? Có bao giờ chúng ta đặt một câu hỏi cho chính chúng ta, những người quốc gia, là nếu những điều chúng ta viết ở hải ngoại trong những chiến dịch “tố Cộng” là đúng, thì làm sao CS có thể thắng trong cả hai cuộc chiến? Lẽ dĩ nhiên những thành tích trên là của toàn dân, nhưng nếu không có sự tổ chức và lãnh đạo của những người CS thì làm sao tự thân nhân dân có thể đạt được những thành tích như vậy. Chúng ta đã đưa ra nhiều lý do nhưng chẳng có lý do nào có giá trị. Tại sao chúng ta không thể đặt lên cán cân những sai lầm đáng tiếc của CS đối với những gì CS đã mang lại cho đất nước Việt Nam? Có một số người ngu đến độ gọi Cộng Sản ViệtNam là “Việt Gian”. Một lực lượng đã thành công đánh đuổi được thực dân, mang lại độc lập và thống nhất cho đất nước mà là “Việt Gian”, vậy thì tổ chức tôn giáo của những người Việt hoàn toàn lệ thuộc ngoại bang, đi làm tay sai cho thực dân Pháp để đưa nước nhà vào vòng nô lệ thì gọi là gì, là những người “yêu nước” hay sao? Điều đáng nói là trên một số diễn đàn truyền thông chống Cộng ở hải ngoại không thiếu gì những người ngu như vậy.



Trở lại vấn đề chống Cộng, Ca-Tô Giáo Rô-ma ở Âu Châu đã một thời nắm toàn quyền chính trị và tôn giáo trong một thế giới mà họ cho là thế giới của Thượng đế, trong đó các giám mục, linh mục là chủ nô, chỉ có nhiệm vụ “cầu nguyện cho mọi người”, một thời được thế giới biết là “thời đại tối tăm” (The dark ages), đã bị Marx làm cho tan ra từng mảnh, cho nên không lạ gì, Ca-Tô Giáo Rô-ma thù Marx thấu xương. Ca-Tô Giáo Rô-ma đã dùng mọi thủ đoạn, kể cả dàn dựng những màn hiện thân chống Cộng của Mẹ Chúa, khai thác sự cuồng tín và mê muội của tín đồ, gây căm thù trong đầu óc họ đối với Cộng sản mà Ca-Tô Giáo Rô-ma gán cho hai chữ Vô Thần, hàm ý Cộng sản chống Thần của Ca-Tô Giáo Rô-ma, một vị Thần mà nền thần học của Ca-Tô Giáo đã dựng lên để huyễn hoặc đầu óc những con người thấp kém ngu ngơ, một vị Thần mà ngày nay thế giới Tây Phương, cái nôi của Ca-Tô Giáo trước đây, đang từ bỏ và sống như là không hề có vị Thần đó, và cũng chẳng cần đến sự cứu rỗi của đứa con duy nhất của vị Thần đó, như chính giáo hoàng Benedict XVI cũng như Hội Đồng Giám Mục Âu Châu đã thú nhận..



Trong khi đó thì đa số tín đồ Ca-Tô Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại vẫn tiếp tục sống trong bóng tối dày đặc của ý thức hệ La Mã (Dr. Barnado: In the thick darkness of Romanism), vẫn nặng phần cuồng tín, năng nổ khai thác tâm cảnh thù hận Quốc - Cộng của Ca-Tô Giáo Rô-ma. Ở hải ngoại, họ nắm hầu hết những phương tiện truyền thông, và vô cùng tích cực trong việc xử dụng hai thứ vũ khí mà Ca-Tô Giáo thường dùng: vu khống và gây thù hận, khi Ca-Tô Giáo Rô-ma không còn khả năng xử dụng thanh gươm và bó củi như trong thời Trung Cổ, đúng như John Remsburg đã nhận định trong cuốn“False Claims”. Bất cứ người nào nói đụng đến Ca-Tô Giáo Rô-ma, dù tất cả chỉ là sự thật, cũng đều bị họ vu khống chụp cho cái mũ “chống Công Giáo” cộng với “làm tay sai cho Cộng Sản vô thần” để gây thù hận đối với những tín đồ Ca-Tô Giáo Rô-ma và đối với những người chống Cộng một cách mù quáng, mù quáng vì chống cái đã không còn hiện hữu. Họ làm như chống Ca-Tô Giáo Rô-ma là một điều cấm kỵ, không được phép làm, hay là một việc vô đạo đức vì đã vạch ra những điều hết sức vô đạo đức trong Ca-Tô Giáo Rô-ma, tuy rằng những nghiên cứu lịch sử về Ki Tô Giáo nói chung, Ca-Tô Giáo Rô-ma nói riêng, đã là những điều rất thông thường và tràn ngập trong thế giới Âu, Mỹ.. Họ giữ độc quyền làm tay sai cho Vatican và không cho phép ai làm “tay sai cho CS” [sic] theo những luận điệu chụp mũ vu vơ của họ đối với những người không theo đường lối chống Cộng cuồng tín của họ. Ở trong nước, lợi dụng chính sách cởi mở của Nhà Nước, họ bất chấp pháp luật, hô hào giáo dân và con nít vác búa, kìm và xà beng đi thắp nến cầu nguyện ở nơi công cộng, không phải là chỗ để cầu nguyện, làm cho người dân khinh ghét nhưng họ không hề cảm thấy ô nhục vì tin rằng những hành động cuồng tín vô trí của họ là để vinh danh Chúa của họ trên trời.



Trên nguyên tắc, các chế độ Cộng sản đã đi vào quá khứ tuy rằng ảnh hưởng của nó vẫn còn nhiều trên thế giới, không chỉ trong các nước Cộng sản mà còn trong thế giới Tây Phương kể cả Mỹ, Nam Mỹ và Phi Châu v..v.. bởi vì bản chất đó là một triết lý. Trong khi anh thợ giầy Việt Nam chống Cộng muốn đi lên trên nơi giầy dép như “nhà văn” Chu Tất Tiến trên “Ánh Dương”, chẳng biết trình độ ra sao, chê Marx dốt và sai, bằng những luận điệu một chiều, ấu trĩ, vô căn cứ, thì Marx vẫn được thế giới Tây phương coi như là một trong những triết gia vĩ đại nhất của thế giới. Các trường đại học lớn trên thế giới vẫn có những lớp dạy về chủ thuyết Marx, triết lý Marx và ý thức hệ Cộng Sản, được coi như là những tư tưởng triết lý cần học hỏi trong bộ kiến thức của nhân loại, chứ chẳng phải để chống Cộng như mấy kẻ ngu ngơ. Tại sao vậy? Có lẽ chúng ta cũng cần biết qua Marx là người như thế nào?



1835: Marx vào Đại Học Bonn học Luật.

1836: Marx đổi sang học Luật tại Đại Học Berlin.

1836-38: Marx học Luật, Triết Lý, Lịch Sử, Anh Ngữ và Pháp Ngữ ở Berlin.

1839-41: Marx nghiên cứu Triết Lý Hi Lạp và viết Luận Án Tiến Sĩ. Tốt nghiệp với bằng Ph.D.



Ở đây tôi xin miễn kể ra những tác phẩm của Marx mà cả thế giới đã phải để tâm nghiên cứu, mà chỉ nói đến vị trí của Marx trong số những tư tưởng gia vĩ đại của thế giới là như thế nào?.



1. “Theo kết quả thăm dò ý kiến thính giả đài BBC Radio 4 trong tháng 7, 2005 thì, trong số 20 tư tưởng gia được biết đến, kính trọng, và có ảnh hưởng nhiều nhất, Marx lại được coi như là một triết gia vĩ đại nhất của mọi thời đại”??. [BBC Press Release: 13-7-2005: Out of a shortlist of twenty of the best known, most respected and influential philosophical thinkers, nominated by the In Our Timeaudience, Karl Marx has been voted the Greatest Philosopher of all time by BBC Radio 4 listeners.] Theo bảng kết quả thì David Hume, một nhà nhân bản, xếp hạng 2, Nietzshe hạng 4, Kant hạng 6, và Aquinas của Ki-tô Giáo hạng 7.



2. “Kết quả chọn vĩ nhân của Đức Quốc, với con số tham dự trên 5 triệu người, Karl Marx đứng hàng thứ

3 trong 100 ứng viên, Albert Einstein đứng hàng thứ 10 (www.unserebesten.zdf.de).



Lạ nhỉ, cả cái thế giới trí thức này đều mù và ngu, không sáng suốt và hiểu Marx bằng “nhà văn” Chu Tất Tiến. Cái chuyện lạ đời này giống như chuyện bà Maria có 7 đứa con mà vẫn còn trinh. Tại sao Việt Namta lại nẩy ra những chính trị gia tự phong, nửa mùa, dỏm, kiến thức ăn đong như vậy? Họ tưởng rằng, cứ viết phứa phựa láo lếu moi móc vài chi tiết về đời tư, nhiều khi chỉ là bịa đặt để tuyên truyền, để hạ giá Marx, hay Mao, hay Hồ Chí Minh v…v… là họ có thể thuyết phục được độc giả hay sao? Rất có thể họ không tự biết là, vì kiến thức thuộc loại ăn đong của họ nên càng viết họ càng lòi ra cái dốt của mình. Lẽ dĩ nhiên, ai cũng có quyền phê bình Marx, nhưng nếu không có trình độ mà lại đưa ra những ý kiến ngu ngơ một chiều ra ngoài khả năng và sự hiểu biết của mình, bất kể với mục đích gì, thì đó chẳng qua chỉ là hành động vô trí của một anh thợ giầy mà lại cứ muốn đi lên trên nơi giầy dép. Thật là tội nghiệp.



Hiện nay, trong hầu hết các nước Tây Phương, kể cả nước Mỹ, vẫn có những tổ chức, đảng, hội đoàn Cộng Sản hoạt động hợp pháp. Vào Internet gõ “Communism Today”, chúng ta có thể thấy tất cả những thông tin này. Lẽ dĩ nhiên, hiểu và áp dụng chủ thuyết Cộng Sản ngày nay cũng khác xưa nhiều vì thế giới ngày nay đã khác với thế giới vào đầu bán thế kỷ 20.



Về phương diện sử học, nếu đặt căn bản trên đạo đức và cần phải trở về quá khứ để mà lên án các tội ác đối với nhân loại thì Âu Châu và Mỹ có nhiều tội ác vượt xa tội ác của Cộng Sản để lên án lắm. Ca Tô Giáo Rô-ma là một, Chủ Nghĩa Thực Dân của Âu Châu trên khắp thế giới trong mấy thế kỷ là hai, chủ nghĩa phát xít của Đức, Ý và Nhật là ba, chính sách diệt chủng của người Âu Châu đến Mỹ Châu đối với dân da đỏ là bốn, chủ trương “cường quyền thắng công lý” gây chiến tranh ở Việt Nam của Pháp để tái lập chế độ thuộc địa, và của Mỹ để “chống Cộng” là năm v..v… Tất cả đều thuộc loại vi phạm nhân quyền đưa đến nhiều triệu mạng người bị chết oan uổng. Lương tâm Âu Châu đã yên ổn trước 7 núi tội ác của Ca Tô Giáo Rô-ma mà giáo hoàng John Paul II đã xưng thú trước thế giới, và những tội ác của thực dân, phát xít, và đế quốc tư bản chưa?



Tại sao tôi lại nói là tội ác của Âu Châu đối với nhân loại lại vượt xa tội ác của Cộng Sản? Tính tuổi thọ thì biết. Chủ nghĩa Cộng Sản chỉ sống vỏn vẹn có 72 năm, 1989-1917. Tuổi thọ của Ca-Tô Giáo Rô-ma đã gần 2000 năm và Ca-Tô Giáo Rô-ma đã gây ra bao nhiêu tội ác đối với nhân loại? Tuổi thọ của chủ nghĩa thực dân Tây phương: Pháp, Anh, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hòa Lan… kéo dài mấy thế kỷ, đã gây ra bao nhiêu tội ác trên khắp thế giới? Hai cuộc thế chiến cũng phát xuất từ Âu Châu. Thử tính xem, trong lịch sử Ca-Tô Giáo Rô-ma với những cuộc Thánh Chiến, Tòa Hình Án xử dị giáo, săn lùng phù thủy v..v.. có bao nhiêu người bị tù đầy, tra tấn, thiêu sống vì “lạc đạo” mà có học giả đã đưa ra con số 200 triệu; trong lịch sử thực dân Âu Châu có bao nhiêu người chết vì không chịu cam tâm làm nô lệ, có bao nhiêu người bị tiêu diệt bằng ưu thế của súng ống, có bao nhiêu người bị gông cùm, chặt đầu vì chống ngoại xâm, có bao nhiêu người bị đầu độc bằng thuốc phiện và rượu v..v.., có bao nhiêu tài nguyên của các nước thuộc địa bị vơ vét về chính quốc; có bao nhiêu thổ dân chết vì súng ống và bệnh đậu mùa do người Âu Châu mang đến trong lịch sử diệt chủng dân da đỏ của người Âu Châu ở “Tân Thế Giới” (sic), có bao nhiêu triệu người dân da đỏ bị tiêu diệt hay bị thiêu sống trước cuốn Kinh của Ki Tô Giáo vì không chịu cải đạo? Có bao nhiêu người vô tội chết trong những cuộc chiến tranh can thiệp của Mỹ trên khắp thế giới, điển hình là ở Việt Nam?



Riêng ở “tân thế giới” chúng ta hãy đọc Giáo sư Ward Churchill ở đại học Colorado viết trong tờ Sacramento Bee, 11-23-2000, về ngày Lễ Tạ Ơn:



Có hợp lý không khi muốn chúng tôi phải hân hoan [trong ngày Lễ Tạ Ơn] vì dân tộc chúng tôi, vào khoảng 15 triệu khi người Tây phương bắt đầu xâm lăng [1620], chỉ còn lại chưa đầy 250 ngàn vào năm 1890? Tới năm 1900, họ đã chiếm 98% đất đai của chúng tôi. Số thổ dân còn lại đơn giản được ném vào những miền đất khô cằn không ai muốn, tin tưởng rằng chẳng bao lâu chúng tôi sẽ bị tuyệt chủng cho khuất mắt và không còn làm bận tâm những nguời trong xã hội những người định cư.



Bây giờ chúng ta hãy xét đến nội dung cuốn “Sách Bôi Nhọ…”. Cuốn sách đã gây nhiều tranh luận sôi nổi ở Pháp và điều ngạc nhiên là một số tác giả trong cuốn sách đó lại bất đồng ý kiến với nhau về những lập luận và con số nạn nhân, và nhất là về nội dung trong phần Dẫn Nhập và Kết Luận của Stéphane Courtois. Một số trí thức và chính trị gia Pháp có tên tuổi cho rằng Courtois đã đi quá lố khi cho là chế độ Stalin và Nazi của Đức Quốc Xã giống nhau, đều là những hệ thống dựa trên sự khủng bố bạo tàn. Một số cho rằng Courtois đã phóng đại về sự đàn áp và bạo hành tập thể trong các chế độ Cộng sản. (Some prominent French intellectuals and politicians, especially those affiliated with or sympathetic to the Communist Party, argued that Courtois had gone too far in drawing a parallel between Stalinism and Nazism as systems that relied on violent terror. Some claimed that Courtois had overstated the intrinsic role of mass violence and repression in Communist systems.) Tôi quan tâm đến những gì tác giả viết về ViệtNam cho nên trước hết tôi muốn có vài nhận xét về phần này.



“Cuốn Sách Bôi Nhọ…” dày trên 850 trang nhưng trong đó chỉ có 10 trang về Việt Nam, viết bởi Jean-Louis Margolin, từ trang 565 đến 575, trong ấn bản bằng tiếng Anh. Với hàng ngàn tài liệu về Việt Nam hiện hữu ngày nay, nhưng phần tài liệu tham khảo để viết về phần này thật quá nghèo nàn, gồm có 8 tác giả trong đó ba tác giả được trích dẫn nhiều nhất là Georges Boudarel với 10 trích dẫn từ cuốn viết vềVụ Án Nhân Văn 1954-1956, Ngô Văn, một người theo Đệ Tứ Quốc tế, với 6 trích dẫn từ cuốn viết vềViệt Nam 1920-1945, và Đoàn Văn Toại với 5 trích dẫn từ cuốn The Vietnamese Gulag. Ngoài ra chúng ta còn thấy 4 trích dẫn trong cuốn Vietnam 1945 của David G. Marr, 1 của Albert Stihlé, 1 của Gérard Tongas, 1 của Daniel Hémery và 1 của Stanley Karnow. Như vậy, chúng ta có thể biết ngay nội dung trong phần này có bao nhiêu giá trị. Thật vậy, trong 10 trang sách này chúng ta chỉ thấy những luận điệu tuyên truyền cũ kỹ và sai lạc về vụ án Nhân Văn, về Cuộc Cải Cách Ruộng Đất ở ngoài Bắc, và về Tết Mậu Thân ở Huế. Chưa kể là tác giả đã viết bậy bạ về cuộc nổi giậy “Xô-Viết Nghệ-Tĩnh” chứng tỏ tác giả có một kiến thức một chiều rất đáng phàn nàn về lịch sử đảng Cộng sản Việt Nam và về phong trào “Xô-Viết Nghệ-Tĩnh”. Những cuộc nghiên cứu nghiêm chỉnh về phong trào “Xô-Viết Nghệ-Tĩnh” đã được William J. Duiker trình bày với nhiều chi tiết và bình luận trong cuốn “The Communist Road To Power In Vietnam”, và David G. Marr trong cuốn “Vietnamese Tradition On trial 1920-1945”, cả hai đều xuất bản từ năm 1981, nhưng có vẻ như Margolin không quan tâm mấy hoặc không biết đến những tài liệu này mà chỉ viết có vài dòng đổ tội cho Cộng Sản đã gây nên phong trào đó làm cho Pháp tàn sát nông dân.Cho nên, phần viết về Việt Nam của Jean-Louis Margolin thật không đáng để tôi phê bình.Nhưng phần này chắc chắn sẽ được vài người chống Cộng ngu ngơ khai thác trong mục đích chống Cộng đến chiều của mình.



Trong phần Dẫn Nhập, Stéphane Courtois đưa ra con số 1 triệu nạn nhân của chính sách khủng bố của CS Việt Nam đối với chính dân của mình. Con số này lấy ở đâu ra, và có thực tế hay không? Jean-Louis Margolin, tác giả viết 10 trang về Việt Nam, đã công khai tố cáo Stéphane Courtois là bịa ra con số 1 triệu ở Việt Nam trong sự ám ảnh để đi tới mục tiêu là tổng số 100 triệu nạn nhân trên thế giới của Cộng Sản [Jean-Louis Margolin explique « qu'il n'a jamais fait état d'un million de morts au Vietnam », contrairement à ce qu'écrit Courtois.] Mặt khác, 3 tác giả trong cuốn sách trên cũng đã chính thức lên tiếng trước công luận phản đối Chương Dẫn Nhập của Stéphane Courtois, không chấp nhận những gì Stéphane Courtois viết để đánh đồng chính sách diệt chủng của Đức Quốc Xã với sự đàn áp dưới chế độ Stalin, và những con số phóng đại phi lý của Stéphane Courtois trong Chương này. [La moitié des auteurs — Nicolas Werth, Jean-Louis Margolin et Karel Bartosek — ont protesté publiquement contre le chapitre introductif de Stéphane Courtois, ils y refusent son rapprochement du génocide nazi et de la répression stalinienne, ainsi que le calcul du nombre de victimes, dont ils contestent à la fois l’opportunité et les chiffres utilisés, qui pour certains sont leurs chiffres mais augmentés sans raison par Courtois.] Những sự kiện này chứng tỏ Stéphane Courtois không có mấy lương thiện trí thức, và con số 1 triệu nạn nhân của CS Việt Nam chỉ là một con số bịa đặt quá lố, không có bất cứ một giá trị nào.. Nó thuộc loại những con số tuyên truyền của Việt Nam Cộng Hòa và Mỹ về con số nạn nhân trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất ở ngoài Bắc, dựa trên con số đoán mò mà Hoàng Văn Chí đã thú nhận sau khi bị Gareth Porter công bố sự ngụy tạo của Chí [The Political Economy of Human Rights : Volume I, p. 343 : Chi eventually conceded to be merely a « guess »..This admission came after Porter had made Chi’s falsifications public] Noam Chomsky và Edward S. Herman cũng viết, Ibid., trang 342 :



Những nguồn tin căn bản về những con số lớn người bị giết ước tính trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất ở Bắc Việt Nam là từ những người của CIA và Bộ Thông Tin Tuyên Truyền Saigon. Theo một người Ca-Tô Việt Nam nay sống ở Pháp, Trung Tá Nguyễn Văn Châu, Giám Đốc Nha Chiến Tranh Tâm Lý của Quân Lực Saigon từ năm 1956 đến 1962, những con số người bị giết trong cuộc « tắm máu » trong cuộc cải cách ruộng đất là « 100% ngụy tạo » bởi những cơ quan tình báo Saigon. Theo Trung Tá Châu, một chiến dịch vu khống có hệ thống bằng cách dùng những hồ sơ ngụy tạo đã được thi hành vào giữa thập niên 1950 để cho Diệm biện minh cho việc từ chối thương thuyết với Hanoi để sửa soạn cho cuộc bầu cử để thống nhất quốc gia được ấn định vào năm 1956. Theo Châu, sự ngụy tạo các hồ sơ đã được sự giúp đỡ của các cơ quan tình báo Mỹ và Anh, đã lấy những hồ sơ có thực làm căn bản rồi dựa vào đó để ngụy tạo và phổ biến cho các nhóm chính trị và các nhóm nhà văn, nghệ sĩ để dùng những hồ sơ ngụy tạo này trong chiến dịch tuyên truyền.



[The basic sources for the larger estimates of killing in the North Vietnamese land reform were persons affiliated with the CIA or the Saigon Propaganda Ministry. According to a Vietnamese Catholic now living in France, Colonel Nguyen Van Chau, Head of the Central Psychological War Service for the Saigon Army from 1956 to 1962, the « bloodbath » figures for the land reform were « 100% fabricated » by the intelligence services of Saigon. According to Colonel Chau, a systematic campaign of vilification by the use of forged documents was carried out during the mid-1950s to justify Diem’s refusal to negotiate with Hanoiin preparation for the unheld unifying elections originally scheduled for 1956. According to Chau the forging of documents was assisted by U.S. and British intelligence agencies, who helped gather authentic documents that permitted a plausible foundation to be laid for the forgeries, which « were distributed to various political groups and to groups of writers and artists, who used the false documents to carry out the propaganda campaign.]



Chúng ta cũng nên biết rằng, chỉ sau khi báo chí Bắc Việt thông tin thẳng thắn trước quốc dân về sự thi hành sai lầm và thất bại trong chính sách cải cách ruộng đất vào năm 1956, và được truyền thông thế giới loan tải, Việt Nam Cộng Hòa cũng như Mỹ mới biết đến cuộc Cải cách ruộng đất. Theo Chomsky, trong một cuộc phỏng vấn năm 1955, Hoàng Văn Chí cũng không nói gì về Cải Cách Ruộng Đất, chỉ sau khi thế giới biết đến chính sách này vào năm 1956, trí nhớ của Chí mới thay đổi và đưa ra con số đoán mò [Ibid., p. 344 : Even Hoang Van Chi, in 1955 interviews, did not make any accusations about atrocities ; « It was only in later years that his memories began to alter, » that is after the US and the Saigon regime learned about the land reform problems from the discussion in the Hanoi press, which, Edwin Moises writes, was « extremely informative » and « sometimes extraordinary candid in discussing errors and failures. »]



Trước khi kết luận, tôi muốn nói đến vài luận điệu thuộc loại « tố Cộng » của các tác giả trong cuốn « Sách Bôi Nhọ… ». Thứ nhất là luận điệu ngớ ngẩn đồng nhất hóa chủ thuyết Stalin (Stalinism) với chủ thuyết Cộng Sản (Communism) và đưa đến kết luận là « Cộng Sản Stalin » cũng giống như « Đức Quốc Xã » [Nazi] của Hitler, đều là những hệ thống dựa vào khủng bố và bạo lực.. Không thể tưởng tượng được là những trí thức Âu Châu lại không thể phân biệt được chính sách diệt chủng một sắc dân, một tôn giáo, Do Thái, của Đức Quốc Xã, với chính sách đối phó với những phe đối lập, phản động ở trong một nước. Hơn nữa, trong Thế Chiến Thứ Hai, chính Cộng sản Stalin là đồng minh của Mỹ, và chính Hồng Quân Nga đã góp phần lớn trong việc chấm dứt chế độ Phát Xít Đức ở Âu Châu và là đoàn quân tiến vào Bá Linh đầu tiên vào hồi kết cuộc của Thế Chiến thứ hai. Và sau cuộc chiến, một số Quan Tòa Nga đã ngồi ở ghế Công Tố Viên để xét xử Nazi [Soviet jurists were actually among the prosecutors at the Nazi trial.] Một luận điệu khác là quy kết chính sách diệt chủng của Pol Pot ở Cambod là chủ trương điển hình của chủ nghĩa Cộng Sản nhưng lại không biết rằng chính Cộng Sản Việt Nam đã giải thể chính quyền Pol Pot, một chính quyền đã từng được Mỹ và Trung Quốc ủng hộ. Ngoài ra, giống như những luận điệu chống Cộng ngu ngơ của một thiểu số người Việt ở hải ngoại, mọi việc bất hạnh xảy ra trong các xã hội Cộng sản đều đổ lên đầu Cộng Sản, các tác giả cũng quy kết những người chết trong những nạn đói ở Nga, ở Tàu cũng đều là do tội ác của Cộng sản gây ra.



Stéphane Courtois là dân Pháp theo Ca-Tô Giáo, đã một thời theo Mao, nổi tiếng là một Maoist, và ngày nay trở lại chống Mao cho Chúa để kiếm ăn, giống như Bùi Tín chống Cộng Việt. Làm như mình rất mực đạo đức, trong Phần Dẫn Nhập, Courtois lôi cả cuốn Kinh Ki-Tô vào làm luận cứ chống Cộng, lên án Cộng Sản vi phạm luật « Ngươi không được giết người » của Thượng đế của Ca-Tô Giáo. [p.31 : What made them (the Communists) imagine they could violate one of the basic tenets of civilization, « Thou shall not kill » ?] Có gì có thể khôi hài hơn là luận điệu ngu xuẩn một chiều này, vì như vậy là Courtois cho rằng chỉ có Cộng Sản là giết người, còn Tư Bản, Thực Dân, Ca-Tô Giáo thì không có giết người ? Ngoài Cộng Sản không có ai vi phạm cái luật tào lao của Thượng đế trong cuốn Kinh của Ki Tô Giáo ?. Xét theo lịch sử những cuộc thập ác chinh, những tòa hình án xử dị giáo, những cuộc săn lùng phù thủy v.. v.. của Ca-Tô Giáo Rô-ma thì câu trên để cho « catholics » thích hợp hơn là « communists ». Courtois còn lên án Stalin đã phá hủy hàng tá nhà thờ ở Moscow [p.3 : Stalin demolished dozens of churches in Moscow] nhưng lại không nhớ rằng, trong cuộc Cách Mạng 1789, nước Pháp không Cộng Sản của ông đã phá bao nhiêu nhà thờ và giết bao nhiêu người Ca-Tô.



Nếu Courtois không còn nhớ đến trang sử này của nước Pháp thì đây: Trong cuộc Cách Mạng 1789,“Pháp, trưởng nữ của giáo hội Ca-Tô đã chính thức đưa Lý Trí lên bàn thờ Chúa, đã tàn sát trên 17000 Linh Mục, 30000 Nữ Tu [sơ] và 47 Giám Mục, và đã dẹp mọi Trường Dòng, Trường Học Ca Tô, những Dòng Tu, đốt phá nhà thờ, thư viện của Giáo hội v..v..[Xin đọc The Decline and Fall of The Roman Church của Linh mục Dòng Tên Malachi Martin, Giáo sư tại Viện Nghiên Cứu Thánh Kinh Của Giáo Hoàng, và đã phục vụ trong Vatican dưới triều Giáo hoàng John XXIII, trang 196: “France, “eldest daughter of the Church”, enthroned Reason officially as supreme deity, massacred over 17,000 priests and 30,000 nuns as well as 47 bishops, abolished all seminaries, Catholic schools, religious orders, burned churches and libraries...”]



Vì cái luận điệu “tố Cộng” một chiều, đạo đức giả, và ngu xuẩn như trên của Stéphane Courtois mà Ulrich Rippert đã phê bình Courtois và nhắc nhở cho Courtois những sự kiện lịch sử như sau:



Là sử gia, Courtois đã viết một câu của mình trong phần Dẫn Nhập và Kết Luận của cuốn sách[Câu “Thou shall not kill”]. Nếu chúng ta áp dụng những tiêu chuẩn của ông ta thì những tội ác phạm phải nhân danh chủ thuyết Ki Tô Giáo - từ những cuộc Thập Ác Chinh và Tòa án xử dị giáo cho đến tổ chức mạng lưới của Giáo hội Ca-tô để cứu những tội phạm Đức Quốc Xã đang trốn chạy – thì , lẽ dĩ nhiên, nhiều hơn nhiều [so với Cộng sản]. Trong trường hợp này thì nhà thuyết giáo ở Nazareth (Giê-su) đã tạo ra từ 2000 năm nay một tổ chức khủng bố lớn nhất mà nhân loại chưa từng thấy.



(En tant qu'historien, Courtois a prononcé sa propre sentence dans la préface et dans l'épilogue du livre. Si l'on applique ses critères, les crimes commis au nom du christianisme--des croisades et de l'inquisition à l'organisation du réseau pour sbires nazis en fuite organisé par l'Eglise Catholique--sont, alors, bien plus monstreux. En ce cas, le prédicateur de Nazareth créa il y a 2000 ans la plus grande organisation terroriste que l'humanité ait jamais vue.)



Như vậy, chúng ta đã thấy rõ mục đích chính trị thời thượng của « Cuốn Sách Bôi Nhọ… ». Vì vậy, để kết luận, tôi xin mượn lời của Ulrich Rippert trong bài “A political evaluation of Schwarzbuch des Kommunismus” -- [The Black Book of Communism], 15 July 1998:



“Là một tác phẩm nghiên cứu nghiêm chỉnh về sử, cuốn “Sách Bôi Nhọ…” hoàn toàn vô giá trị”. [As a serious historical work the “black book” is totally worthless].

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét