Lữ Giang*trái và Trần Gia Phụng
Lữ Giang
Ông Trần Gia Phụng nghiên cứu khá nhiều sử liệu, nhất là cổ sử, nhưng khi trình bày, ông thường cố gắng viết “theo lề đường bên phải”, viết cho “hợp với lòng dân”, hợp với dư luận ngoài phố hơn là sự thật, do đó ông thường được hoan nghinh và có khi còn được tôn là “sử gia” hay “đại sử gia”. Một thí dụ cụ thế:
Trong bài “Chuyện một chiếc ải đã mất”, khi nói về ải Nam Quan, ông nhìn nhận theo cổ sử:
“Danh từ “Nam Quan” do triều đình Trung Hoa đặt, có nghĩa là cánh cửa mở xuống hay đi xuống phía nam. Như thế, khi xây dựng cửa ải Nam Quan, triều đình Trung Hoa chính thức xác nhận đây là biên giới phía nam của nước Trung Hoa, giống như Nhạn Môn Quan là cửa ải cực bắc Trung Hoa. Mỗi lần sứ quan một trong hai nước bước qua cửa ải là tiến vào địa phận nước bên kia.”
Sau khi Trung Quốc xây ải Nam Quang xong, người Tàu xây ở phía bắc ải một nhà tiếp tân gọi là “Chiêu Đức Đài”, ta cũng xây một nhà tiếp tân ở phía nam ải gọi là “Ngưỡng Đức Đài”. Như vậy là Tàu “Chiêu” (khiến cho tới với mình), còn ta “Ngưỡng” (ngẩng mặt nhìn lên)!
Tuy nhiên, để vọng theo tiếng khóc ải Nam Quan (của Tàu) đang vang lên ở ngoài phố, “sử gia” Trần Gia Phụng đã phán rằng ải Nam Quan có hai phần: “phần kiến trúc do chính quyền Trung Hoa xây dựng từ thế kỷ 16 gồm có cửa quan và những cơ sở phụ thuộc phía bắc ải” là của Tàu, còn phần thứ hai là Ngưỡng Đức Đài (cái nhà tiếp tân) và hai dãy hành lang tả hữu do Đại Việt xây là phần ải Nam Quan của ta! Nói cách khác, ông đã biến cái nhà tiếp tân của ta thành một phần của ải Nam Quan để “hòa cả làng”! Với tài biến hóa sử “theo lòng dân”, theo “lề đường bên phải” này, ông quả là một nhà “lái sử” tài tình!
Tuy nhiên, khi viết bài “Lý do cuộc đảo chính 1.11.1963” đăng trên dcvonline.net ngày 4.11.2009 và một số websites khác như tuoitrevhn.com, v.v, ông không còn biến chế sử “theo lòng dân” nữa mà viết phịa sử. Ông đã lựa chọn những “sử liệu” nhảm nhí do những kẻ có trình độ ấu trỉ về xuyên tạc lịch sử tung ra để làm căn bản cho bài viết của mình.
Ông bắt chước Đỗ Mậu hay Vũ Ngự Chiêu chỉ tìm trích dẫn những “sử liệu” phù hợp với mục tiêu “oanh tạc” của ông, mặc dầu đó là những “sử liệu” rất nhảm nhí, và bỏ qua những sử liệu chính thức, có căn bản không thể chối cãi được. Ông cũng không cần biết đến một tài liệu quan trọng là bản phúc trình điều tra về vụ Phật Giáo năm 1963 của phái đoàn Liên Hiệp Quốc và các tài liệu đã được giải mã trong hơn 10 năm trở lại đây!
Vì bài “Lý do cuộc đảo chính 1.11.1963” khá dài, trong bài này chúng tôi chỉ xin đề cập đến mục 2 nói về “Dụ số 10 và vấn đề tôn giáo”. Chúng tôi sẽ đề cập đến những mục khác trong những lần tiếp theo.
Trong mục nói về nói về “Dụ số 10 và vấn đề tôn giáo” ông đã đề cập đến hai vấn đề: Vấn đề thứ nhất: Ông trích dẫn phịa sử để chứng minh rằng Dụ số 10 do chính phủ Trần Văn Hữu ban hành đã ưu đãi Thiên Chúa Giáo và “quy định các tôn giáo và hội đoàn chỉ được treo cờ trong khuôn viên nơi thờ phượng, hoặc trụ sở hội đoàn mà thôi”.
Vấn đề thứ hai còn khôi hài hơn: Ông cũng viện dẫn phịa sử để cho rằng Tổng Giám mục Huế Ngô Đình Thục lúc đó đã vận động để được Tòa thánh La Mã phong chức Hồng Y nên tìm cách báo cáo láo với Tòa Thánh rằng số tín đồ trong tổng giáo phận ông gồm hai tỉnh Thừa Thiên và Quảng Trị, chiếm 80% dân số khu vực. Ông ngăn cản treo nhiều cờ Phật Giáo để Toà Thánh thấy báo cáo của ông đúng, từ đó đưa tới biến cố Phật Giáo ở Huế năm 1963!
Vì ông Trần Gia Phụng vốn được tôn là “sử gia” hay “đại sử gia”, nên chúng tôi thấy cần phải trình bày hai vấn đề này lại một lần để mọi người, nhất là các tăng sĩ Phật Giáo (đặc biệt là Hoà Thượng Chơn Thành) cho đến nay vẫn còn ôm Dụ số 10 như một võ khí tấn công, biết rõ sự thật và hiểu được ông Trần Gia Phụng đã viết sử như thế nào.
NÓI CHO RÕ VỀ DỤ SỐ 10
Ông Trần Gia Phụng đã viết như sau:
“Chính sách tôn giáo của chính phủ Diệm dựa trên Dụ số 10 do chính phủ Trần Văn Hữu ban hành ngày 6.8.1950 dưới thời quốc trưởng Bảo Đại. Dụ nầy ấn định quy chế các hiệp hội, gồm có 5 chương, 45 điều. Điều 1 của dụ nầy sắp các tôn giáo, trừ Ky-Tô giáo, vào loại hiệp hội thường (như hội thể thao, hội đua ngựa...); trong khi điều 45 của dụ nầy cho biết sẽ ấn định quy chế đặc biệt cho các hội truyền đạo Ky-Tô và các hội Hoa kiều. Dụ nầy cũng quy định các tôn giáo và hội đoàn chỉ được treo cờ trong khuôn viên nơi thờ phượng, hoặc trụ sở hội đoàn mà thôi”.
Đây là những chuyện biạ đặt và dựng đứng vì thiếu hiểu biết về luật pháp và lịch sử.
1.- Ai ban hành Dụ số 10?
Dụ là một đạo luật, chỉ có vua, quốc trưởng hay tổng thống mới có quyền ban hành. Thủ tướng không có quyền. Vậy ai đã ban hành Dụ số 10 ấn định quy chế hiệp hội cho toàn nước Việt Nam?
Dụ số 10 không phải do chính phủ Ngô Đình Diệm ban hành hay do thực dân Pháp để lại như Giáo Hội Ấn Quang đã xác quyết. Dụ này do Bảo Đại ký tại Vichy, Pháp, ngày 6.8.1950, được đăng vào Công Báo Việt Nam số 33 ngày 19.8.1950.
Dưới thời Pháp thuộc, trên đất nước có nhiều quy chế lập hội khác nhau do chính quyền Nam Triều và chính quyền Pháp ban hành. Tại Nam Kỳ, thuộc địa của Pháp, và các vùng nhượng địa của Pháp như Đà Nẵng, Hà Nội và Hải Phòng, quy chế hiệp hội ấn định do Luật về Hiệp Hội 1901 (Les associations loi 1901) và các văn kiện kế tiếp của Pháp được áp dụng. Tình trạng này không phù hợp với một quốc gia độc lập và thống nhất nữa.
Theo Luật sư Trần Văn Tuyên kể lại, sau khi chính phủ Nguyễn Phan Long được thiết lập do Sắc Lệnh số 6/QT ngày 21.1.1950 của Quốc Trưởng Bảo Đại, chính phủ này đã quyết định biên soạn một quy chế hiệp hội chung cho cả nước. Nhưng công việc này chưa hoàn tất thì cuối tháng 4 năm 1950 chính phủ Nguyễn Phan Long bị giải tán. Chính phủ Trần Văn Hữu được thiết lập do Sắc Lệnh số 37/CP ngày 6.5.1950 để thay thế chính phủ Nguyễn Phan Long.
Trong chính phủ mới này, Luật sư Trần Văn Tuyên được cử làm Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng. Ông cho biết khi ông làm Bộ Trưởng được ít lâu thì Phủ Thủ Tướng nhận được dự luật về quy chế lập hội do Bộ Nội Vụ và Bộ Tư Pháp phối hợp soạn thảo và đệ trình.
Ông đã xem và thấy đa số các điều khoản chính trong dự luật này đều dựa theo quy chế lập hội của Pháp với một số sửa đổi cho phù hợp với tình hình tại Việt Nam lúc đó. Ông đã trình Thủ Tứng Trần Văn Hữu phê chuẩn và gởi qua Pháp cho Bảo Đại ký, vì lúc đó Bảo Đại đang ở Pháp.
Luật về Hiệp Hội 1901 của Pháp vẫn còn được áp dụng ở Pháp cho đến ngày nay. Còn Dụ số 10 ngày 6.8.1950 vẫn được áp dụng tại miền Nam cho đến ngày 30.4.1975 và khi ra hải ngoại, các đoàn thể của người Việt khi soạn nội quy cho các đoàn thể của mình cũng thường phỏng theo Dụ này.
2.- Ở mô cũng như rứa!
Khi phê phán Điều 1 của Dụ số 10 “sắp các tôn giáo, trừ Ky-Tô giáo, vào loại hiệp hội thường (như hội thể thao, hội đua ngựa...)” ông Trần Gia Phụng không hề biết rằng các quốc gia lớn trên thế giới (như Pháp và Mỹ) cũng quy định không khác gì Dụ số 10, vì Dụ số 10 cóp luật về hiệp hội của Pháp. Điều 1 của Dụ số 10 đã quy định như sau:
“Hội là hiệp ước của hai hay nhiều người thỏa thuận góp kiến thức hay hành lực một cách liên tiếp để theo đuổi mục đích không phải là phân chia lợi tức, như là mục đích thuộc về tế tự, tôn giáo, chính trị, từ thiện, thể thao và đồng nghiệp ái hữu.
“Muốn có hiệu lực thì hội nào cũng phải hợp với nguyên tắc chung của pháp luật về khế ước và nghĩa vụ.”
Rõ ràng là điều 1 của Dụ số 10 đã phỏng theo điều 1 của luật về hiệp hội của Pháp năm 1901:
“L'association est la convention par laquelle deux ou plusieurs personnes mettent en commun d'une façon permanente leurs connaissances ou leur activité dans un but autre que de partager des bénéfices. Elle est régie quant à sa validité, par les principes généraux du droit applicable aux contrats et obligations.”
Ở Mỹ, hầu hết các hiệp hội bất vụ lợi đều được thiết lập vì lý do tôn giáo, bác ái, văn học, khoa học hay giáo dục.
Luật thuế vụ liên bang của Mỹ [Federal 501(c)(3) Status] đã định danh 5 thứ hiệp hội bất vụ lợi có thể được miễn thuế, đó là các hiệp hội có mục đích bác ái, các tổ chức khoa học (scientific organizations), các tổ chức giáo dục (educational organizations), các hiệp hội có mục đích văn học, và các nhóm tôn giáo (religious groups)
Trong bài thuyết pháp trong chương trình “Tiếng Từ Bi” vào lúc 8 giờ tối ngày 8.11.2007 trên đài phát thanh Little Saigon ở Orange County, Hoà Thượng Chơn Thành có nói rằng “trong thời Pháp thuộc thực dân Pháp đưa Phật Giáo vào trong cái tròng của Đạo Dụ số 10 gióng như là một hiệp hội đá banh, hiệp hội đua ngựa, vân vân...”
Luận điệu này đã được ông Trần Gia Phụng nhai lại như đã nói trên. Nay qua Mỹ, Hoà Thượng Chơn Thành cũng đưa Phật Giáo vào hội non-profit vì mục đích tôn giáo để có thể hoạt động hợp pháp và được miễn thuế, nó có khác gì hoạt động theo Dụ số 10 ở Việt Nam đâu? Ở mô cũng như rứa. Qua Pháp lại càng gióng hơn.
Thật ra, Giáo Hội cũng chỉ là một hiệp hội, nhưng người Thiên Chúa Giáo gọi là Giáo Hội (Church) vì đó là chữ được dùng trong Thánh Kinh (Mat. 16,19). Không hiểu năm 1964, khi 11 tổ chức Phật Giáo Việt Nam thành lập một tổ chức Phật Giáo thống nhất, họ cũng dùng chữ Giáo Hội (Church). Vậy chữ Church đó lấy từ đâu?
3.- Dụ số 10 không quy định việc treo cờ
Ông Trần Gia Phụng đã căn cứ vào điều nào trong Dụ số 10 để nói rằng “Dụ nầy cũng quy định các tôn giáo và hội đoàn chỉ được treo cờ trong khuôn viên nơi thờ phượng, hoặc trụ sở hội đoàn mà thôi”? Chúng tôi tin chắc khi viết như vậy, “đại sử gia” Trần Gia Phụng chưa bao giờ được đọc bản văn Dụ số 10 nên đã nói bừa. Trong Dụ số 10 không có điều khoản nào quy định như vậy cả.
Năm 1962, Bộ Nội Vụ đã ban hành văn kiện ấn định thể thức treo cờ tại những nơi thờ tự trong những buổi lễ tôn giáo theo sự thỏa thuận của các tôn giáo. Trong buổi thuyết trình cho phái đoàn Liên Hiệp Quốc điều tra vụ Phật Giáo, Tướng Trần Tử Oai có nhấn mạnh: “Như thế, sự quy định của Chính Phủ về vấn đề treo cờ là chung cho tất cả các tôn giáo không có thiên vị tôn giáo nào.”
4.- Nguỵ luận vì thiếu hiểu biết
Điều thứ 44 (không phải điều 45 như ông Trần Gia Phụng nói) của Dụ số 10 có quy định: “Chế độ đặc biệt cho các hội truyền giáo Thiên chúa và Gia tô và các Hoa kiều Lý sự hội sẽ ấn định sau.”
Căn cứ vào điều luật này, các tăng sĩ Phật giáo đấu tranh và ông Trần Gia Phụng cho rằng Dụ số 10 đã ưu đãi Thiên Chúa Giáo (không nhắc gì đến Hoa Kiều Lý Sự Hội)! Đây là một lối nguỵ luận vì thiếu hiểu biết. Chúng tôi tin chắc rằng các tăng sĩ đấu tranh và “đại sử gia” Trần Gia Phụng chưa bao giờ đọc biên bản hình thành Dụ số 10 hay phỏng vấn những người tham gia hình thành Dụ số 10 nên đã ngụy luận như vậy.
Theo thỏa Ước Việt – Pháp được ký kết giữa Bảo Đại và Tổng Thống Vincent Auriol của Pháp tại điện Élysée ngày 8.3.1949 và các hiệp định thi hành thỏa ước này được Quốc Trưởng Bảo Đại và Cao Ủy Pháp Pignon ký ngày 30.12.1949 tại Toà Đô Chánh Sài Gòn, Pháp công nhận Việt Nam có tổ chức hành chánh riêng, tư pháp riêng, tài chánh riêng, quân đội riêng, liên hệ ngoại giao riêng, v.v. Tuy nhiên, Khoản I của thỏa ước đã đưa ra một giới hạn như sau:
“Sự cai trị các sắc dân không phải là người Việt Nam... sẽ được cứu xét bằng quy chế riêng… Các quy chế này phải được sự thỏa thuận của Đại Diện Chính Phủ Cộng Hoà Pháp Quốc, vẫn còn có trách nhiệm đối với họ.”
Từ năm 1960, khi chưa có vụ Phật Giáo, ông Vũ Quốc Thông, Giáo Sư Đại Học Luật Khoa Sài Gòn, giải thích rằng việc quy định những vấn đề liên quan đến chính sách ngoại giao hay các luật lệ liên quan đến người Pháp và ngoại kiều sinh sống tại Việt Nam, đều phải có sự đồng ý của Cao Ủy Pháp tại Đông Dương, chính phủ Việt Nam mới được ban hành. Do đó, muốn ban hành các quy chế về các hội truyền giáo của Thiên Chúa Giáo và của Hoa Kiều đang hoạt động tại Việt Nam như Société des Missions Etrangères de Paris, Protestant Mission, Chinese Congregations, v.v..., đều phải có sự đồng ý của Pháp mới ban hành được.
(Vũ Quóc Thông, Việt Nam Tự Do, Chính Thể Cộng Hòa Nhân Vị, Nguyệt san Quê Hương số 16, ngày 16 tháng 10 năm 1960, tr. 1 - 39 và 247 – 262).
Công Giáo Việt Nam lúc đó đang đặt dưới quyền của Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris (Société des Missions Etrangères de Paris) của Pháp và có một quy chế riêng do Pháp ấn định. Ngày 27.12.1886 Pháp cũng đã chính thức hóa quy chế bang hội của người Hoa tại Việt Nam và đặt dưới sự kiểm soát của Pháp. Theo thỏa ước Élysée, muốn ấn định quy chế của hai tổ chức này, Việt Nam phải tham khảo ý kiến của Pháp trước khi quy định. Vì thế, điều 44 Dụ số 10 phải quy định: “Chế độ đặc biệt cho các hội truyền giáo Thiên Chúa và Gia tô và các Hoa Kiều Lý Sự Hội sẽ ấn định sau.”
Như vậy, một “chế độ đặc biệt” được nói ở đây không phải để ưu đãi Thiên Chúa Giáo và các Hoa Kiều Lý Sự Hội, mà vì bị kẹt thỏa ước Élysée. Vã lại, lúc đó ngoài Công Giáo ra, đã có tôn giáo nào thành lập Giáo Hội đâu mà nói chuyện ưu đãi hay không ưu đãi?
Điều đáng tiếc là các nhà sư đấu tranh lại vinh vào điều 44 của Dụ số 10 như một nguỵ luận để chống ông Diệm và nay được “đại sử gia” Trần Gia Phụng nhai lại!
Sau này, Bộ Nội Vụ cũng đã soạn một quy chế tôn giáo theo mô thức của Pháp, nhưng khi chính phủ Phan Huy Quát đem ra hỏi ý kiến thì bị các tôn giáo phản đối mạnh mẽ nên phải dẹp bỏ.
5.- Bể tan vì “chế độ đặc biệt”
Sau cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963, 11 Giáo Phái và Hội Đoàn Phật Giáo đã họp tại Chùa Xá Lợi ngày 4.1.1964 và biểu quyết một Bản Hiến Chương thành lập Giáo Hội Việt Nam Thống Nhất, đưa ra những quy định nằm trên và ngoài luật pháp quốc gia. Vì thế, khi bản Hiến Chương này được trình lên Bộ Nội Vụ, Bộ này đã chiếu Dụ số 10, ban hành Nghị Định số 329-BNV/KS ngày 24.3.1964 cho “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được phép thành lập trong khôn khổ luật lệ hiện hành”. Nghị Định này do Tướng Tôn Thất Đính, Tổng Trưởng Nội Vụ ký tên.
Tuy nhiên, khi Tướng Khánh lên làm Chủ Tịch Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng kiêm Thủ Tướng, để lấy lòng Phật Giáo, Tướng Khánh đã ký Sắc Luật số 158-SL/CP ngày 14.5.1964 phê chuẩn Hiến Chương nói trên, ban cho GHPGVNTN một “chế độ đặc biệt” nằm trên và ngoài luật pháp quốc gia.
Chính “chế độ đặc biệt” này và những tranh chấp nghiêm trọng và đẩm màu trong nội bộ đã làm GHPGVNTN bể thành Giáo Hội Ấn Quang và Giáo Hội Việt Nam Quốc Tự. Chính phủ đã ban hành Sắc Luật số 023/67 ngày 18.7.1967 chuẩn y Hiến Chương ngày 14.3.1967 của Giáo Hội Việt Nam Quốc Tự và thu hồi Hiến Chương của Giáo Hội Ấn Quang khiến Giáo Hội này phải hoạt động ngoài vòng luật pháp.
Sau khi Việt Cộng chiếm miền Nam, Giáo Hội Ấn Quang lại bể thành giáo hội quốc doanh và giáo hội không quốc doanh. Ra hải ngoại, giáo hội này lại bể ra thành Giáo Hội Liên Tông và Giáo Hội Ấn Quang. Mới đây, đa số các tổ chức Phật Giáo hải ngoại đã thành lập GHPGVNTN Liên Châu tách ra khỏi GHPGVNTN của Hòa Thượng Quảng Độ. Điều này cho thấy một “chế độ đặc biệt” là rất tai hại.
Những dẫn chứng trong phần này đã cho thấy ông Trần Gia Phụng là người viết sử rất cẩu thả, không nghiên cứu đến nơi đến chốn trước khi viết, ngay cả Dụ số 10 ông cũng chưa hề đọc mà dám viết về Dụ này!
CHUYỆN GIẢ MẠO SỐ GIÁO DÂN
Ông Trần Gia Phụng dẫn chứng rằng Đức Tổng Giáo Mục Ngô Đình Thục đã ngụy tạo số giáo dân trong tổng giáo phận Huế của ông để vận động làm Hồng Y, đưa tới biến cố Phật Giáo năm 1963. Đây là một chuyện hoàn toàn bịa đặt.
Thật ra, ông Trần Gia Phụng chỉ nhai lại luận điệu của Thích Trí Quang, một thiền sư đại vọng ngữ (nói điều sai quấy) trong thế kỷ 20 của Phật Giáo Việt Nam, đưa tới nhiều nghiệp chướng liên tục và kéo dài.
Trong tập “Tiểu truyện tự ghi” Thích Trí Quang có nói đến nguyên nhân đưa đến biến cố Phật Giáo năm 1963 như sau:
“Vatican điều tra thấy Huế, địa phận của Tổng giám mục Ngô đình Thục, sao mà Phật giáo nhiều quá: Phật đản thì cờ Phật giáo đầy 2 bên đường từ Huế ra Lavang, kiệu đức mẹ thì từ Lavang vào Huế không có cờ của Vatican. Ông Ngô đình Diệm bèn bắt công chức Huế kê tên cả nhà để đưa cho anh mình báo cáo là giáo dân, và Phật đản 2507 (1963) thì triệt hạ cờ Phật giáo để Vatican thấy dân Huế theo anh mình hết rồi.”
Đây là chuyện không không thể xẩy ra được vì ba lý do chính sau đây:
(1) Nếu lúc đó Toà Thánh Vatican muốn nâng một giáo sĩ Việt Nam lên làm Hồng Y thì người đó phải là Tổng Giám Mục Hà Nội hay Sài Gòn chứ không phải là Huế.
(2) Số giáo dân được rửa tội hàng năm đều phải ghi vào sổ rửa tội và báo cáo cho Toà Thánh biết, nên ông Diệm không thể muốn bắt ghi bao nhiêu giáo dân cũng được.
(3) Việc suy cử một giáo sĩ làm Hồng Y thường dựa vào đề nghị của Hội Đồng Giám Mục và Khâm Sứ Tòa Thánh chứ không bao giờ dựa vào những chuyện vớ vẫn như thế.
Những dẫn chứng trong đoạn này cho thấy ông Trần Gia Phụng đã cố ý dựa vào những sự kiện nhảm nhí để viết sử!
VIẾT THEO “LỀ ĐƯỜNG BÊN PHẢI”
Trong bài nói trên, “đại sử gia” Trần Gia Phụng còn viết nhiều phịa sử khác, chúng tôi sẽ nói sau. Khi lời cảnh cáo của chúng tôi được gởi qua email, hình như bài nói trên của “đại sử gia” Trần Gia Phụng đã được rút ra khỏi nhiều websites, kể cả dcvonline.net.
Thời Xuân Thu, Thôi Trữ sau khi giết vua Tề, ra lệnh cho Thái Sử Bá phải ghi vào sử: “Tề Trang Công bị bạo bệnh mà chết”. Thái Sử Bá ghi: “Năm Ất Hợi, tháng Năm, Thôi Trữ giết vua”. Thôi Trữ nổi giận lôi Thái Sử Bá ra chém.
Thái Sử Bá có 3 người em là Trọng, Thúc và Quí, nối nghiệp nhà làm chức Thái Sử. Trọng thay anh, cũng chép y như thế và bị giết. Thúc kế nhiệm, cũng làm y thế và cùng chung số phận. Đến phiên người em út là Quí, cũng làm không khác ba người anh đã chết. Thôi Trữ hỏi Thái Sử Quí:
- Ba anh của nhà ngươi vì chép như thế mà đã chết cả, ngươi không sợ chết sao?
Thái Sử Quí trả lời:
- Chép đúng sự thật là chức phận của người làm sử. Nếu làm không đúng chức phận để cầu mạng sống thì thà chết còn hơn.
Không lẽ bây giờ chỉ vì một hai cái thư phản kháng hay một chiếc xe Van đậu ở bên đường dọa biểu tình mà người viết sử và người làm thông tin đã sợ, phải viết theo “lề đường bên phải” sao? Như vậy làm sao đánh thắng Cộng Sản?
Ngồi mát ăn bát vàng, hèn hơn những người đấu tranh ở trong nước nhiều!
Ngày 23.11.2009
Lữ Giang
Trần Gia Phụng, người thấy được cọng rác, chê cả căn nhà
Ông Bút
Thông thường một sử gia, một người chuyên tâm viết sử, ít ai đem lòng oán hận cá nhân, đặt vào ngòi bút của mình. Bởi dòng mực theo đó không còn trong sáng, khách quan, không còn giá trị, xứng đáng cho thế hệ mai sau học hỏi.
Trước 1975 ông Trần Gia Phụng, (TGP) dạy môn Sử Địa, trường trung học Phan Chu Trinh, Đà Nẵng. Sau đó ông chú tâm viết sử, một địch thủ sâu sắc dài lâu của ông TGP là: Dòng tộc, gia đình cố TT Ngô Đình Diệm.
Đất Quảng Nam, nói về tôn giáo, phần đông theo đạo Phật, đạo Thờ Cúng Ông Bà, còn gọi Đạo Lương, Đạo Cao Đài. Đạo Công Giáo có tỷ lệ nhỏ hơn.
Nói về đảng phái chính trị, người dân theo đảng: Việt Nam Quốc Dân Đảng, hoặc Đại Việt, Cần Lao Nhân Vị tỷ lệ thấp hơn.
TT Ngô Đình Diệm chấp chánh (ngothelinh.tripod.com)
Gia đình tôi, kẻ viết bài này, cũng ở trong đa số đó, về tôn giáo và đảng phái, 1954, ông Ngô Đình Diệm chấp chánh làm thủ tướng, dòng họ nhà tôi hai bên nội ngoại, đều đi tù tại lao xá Hội An, địa điểm cũ phía bên trái Chùa Phật Học. Cha và bác tôi ở tù từ 1956 - 1959, hai người cậu ruột của tôi ở tù từ 1956 - 1958. Tất cả vì “tội” Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Năm 15 tuổi, tôi gia nhập Thiếu Niên Việt Nam Quốc Dân Đảng, năm 17 tuổi kết nạp chính thức vào đảng, qua học lịch sử đảng, tôi nêu câu hỏi:
“1954, Ông Ngô Đình Diệm mới về nước, ông ta chưa kịp đưa ra đường lối, hoặc một chính sách nào rõ rệt. Vì sao đảng ly khai, 143 đảng viên mang 143 khẩu súng, lên núi thượng lập căn cứ?”
Những người hướng dẫn học tập, chỉ nói chung chung: “Vì ông Diệm độc tài, không cho VNQĐD và đảng khác hoạt động,” tôi hỏi tiếp: Vậy tại sao năm 1957 ông NĐD mời người của VNQĐD ra làm tỉnh trưởng, tỉnh Quảng Nam, đó là Thiếu Tá Nguyễn Đình Thiệp? Câu này không ai trả lời, tôi mang câu hỏi đi dài qua mấy thập niên...
1996, gia đình tôi định cư tại Hoa Kỳ, chẳng hiểu do đâu ông Đại Úy Thiết Giáp Phạm Văn Bảng biết tin và ghé thăm. Đây là vị khách đầu tiên của gia đình tôi trên đất mới. Anh Bảng cho biết anh từng đảng viên VNQĐD, và nói: Ở gần đây có nhiều đảng viên, như cụ Phan Vỹ, cụ Phan Ngô... Một tuần sau cụ Phan Vỹ, ông Dương Gia, quận ủy Quế Sơn, ông Trịnh Công Vinh, thị bộ Hội An, đến thăm. Sau tuần trà nước quý ông hỏi: Chú mầy qua đây rồi, có định sinh hoạt tiếp chứ? Tôi hỏi quý anh qua trước, sinh hoạt đảng, trung ương có kiểm điểm gì chưa? Quý ông hỏi lại: (có phần gay gắt) Lỗi gì mà phải kiểm điểm? Tôi đem câu hỏi thời tuổi đôi mươi lặp lại!
“TT NĐD lỗi gì, khiến đảng ly khai, lập căn cứ địa chống chính phủ?”
(Cùng thời điểm, đảng Đại Việt cũng ly khai, với chiến khu Ba Lòng, Quảng Trị).
Không ai trả lời, tôi nói: “Cho phép tôi được tự trả lời:
Đảng ly khai, chống ông Diệm, vì ông ta không phải là người của Việt Quốc, như vậy đảng tranh đấu không phải cho quyền lợi dân tộc và tổ quốc, đảng tranh đấu vì quyền lợi của đảng, đảng nào cũng có tôn chỉ như nhau, bỏ chính phủ và quân đội chiến đấu trong cô đơn. Đó là một trong ngàn lý do chúng ta chiến bại, hay ngược lại chúng ta vô tình, góp cho quân thù thành tựu ngày 30/4/1975!
Ngày xưa chưa trưởng thành, quý vị khiến sao nghe vậy, tôi không hối tiếc tháng ngày thanh xuân, và ví nó như hôm nay, mới đến Mỹ, xe chưa có, bằng lái chưa có, ai chở đi đâu cũng mặc, đúng sai khó biết, nhưng một khi đã có, tôi sẽ biết đường nào đúng, sai. Nếu sai mà không biết mình sai, tôi sẽ không cùng hành trình nữa. Tóm lại tôi không bỏ, không phản đảng, đảng tịch mãi mãi VNQĐD, song không đứng trong hàng ngũ nữa, tôi sẽ hòa cùng Đồng Hương trong công cuộc tranh đấu này...
Sự kiện khác: Quê tôi thuộc quận Quế Sơn, Quảng Nam, quận nằm phía đông Trường Sơn, địa thế cheo leo nghèo khó, nơi thâm sơn cùng thẳm. Năm 1960 ông nội tôi làm Chùa cho dân tu (ông tôi không theo đạo Phật). 1962 khánh thành, lễ khánh thành rất lớn, Khuông Hội PG ngoài Huế, tỉnh hội Hội An, và ông Quận Trưởng Nguyễn Lê Thọ (ông Thọ đạo Công Giáo) cùng về tham dự lễ. Mới sáu, bảy tuổi đầu, nhưng đây là sự kiện lớn của quê hương, nhất là vùng quê nghèo khó, nên không thể nào quên. Thế nhưng lớn lên một tí đi đâu, và bất kể trang sách nào cũng đều nói: “Ông Diệm đàn áp Phật Giáo.” Thiết tưởng tôn giáo nào, cũng khuyến dạy con người ăn nói ngay lành, để tránh nghiệp chướng, vu oan giá họa cho kẻ khác, người thường tình cũng không thể làm, chưa nói tới chân tu. Do đó theo tôi, ngày nay ai nói “ông Diệm đàn áp phật Giáo” một là kẻ đó quá ngu xuẩn, chỉ biết tin sách vở, tài liệu, không đem trí não phân tích, phán xét, hoặc kẻ đó lương tâm bất thiện.
Kể từ nền Quân Chủ cáo chung tới nay, chưa có ai thương dân, yêu nước chí thành bằng ông Ngô Đình Diệm, chưa ai kiến tạo một xã hội đạo đức và nề nếp được như ông.
Một gia đình bị suy sụp vật chất, nhưng khéo gìn giữ gia phong, cũng có ngày chấn hưng thịnh vượng, sung túc. Nhưng suy đồi đạo đức, gia đình đó kể như vất đi. Quốc gia là gia đình rộng lớn, hãy nhìn về đất nước hiện nay, sau 37 năm không tiếng súng, nền giáo dục luợm thượm, đạo đức phá sản, một ngày với hàng chục án hiếp dâm, cha hiếp dâm con, ông ngoại, ông nội hiếp dâm cháu! Còn vô vàn điều kinh tởm khác...
Tôi sùng kính ông Ngô Đình Diệm, vì ông yêu nước chân thành, không là tu sĩ, nhưng sống đời đạo hạnh khắc kỹ. Không TU nhưng ông đã HÀNH đạo từng ngày, từng giờ trong cuộc sống, tất nhiên ông cũng phạm “sai lầm, sai lầm” quá lớn: Lương tâm kẻ tu hành, lại dấn thân vào sự nghiệp chính trị! Ông không thể là đối thủ của loài lang sói hung hiểm, ông đem lòng chân nhân, quân tử đãi ngộ kẻ tiểu nhân, đây là những sai lầm căn bản.
Ông Trần Gia Phụng viết gì?
Phần mở đầu bài này, tôi viết ông TGP không chỉ thâm thù với cá nhân TT NĐD, còn thâm thù với cả dòng tộc Ngô Đình, dẫn chứng:
Trong bài bút ký đầu xuân, ông TGP viết cho một đặc san, xuất bản năm 2003, tựa đề “Đi tìm Ngũ Phụng” bài này được đăng phần đầu tiên của đặc san, từ trang 9 tới trang 25, trong này trang 16 và 17, trích nguyên văn:
“Mùa xuân năm 1963, tôi nghe một chuyện như sau tại Đà Nẵng. Số là ngày tết Quý Mão tôi theo phụ thân tôi đến thăm một người bạn của ông. Khi đến nơi tại đó có sẵn một vị khách đã già. Chủ nhà giới thiệu đây là một nhà chiêm tinh, ở xa đến, ghé thăm dịp đầu năm. Lúc đó tôi đang học đại học nên có đủ trí không để nghe chuyện. Ông khách chiêm tinh gia đang nói chuyện về ngôi mộ của ông Ngô Đình Khả ở Phủ Cam Huế, ông cho biết trong mùa đông vừa qua (cuối 1962) sét đánh trúng ngôi mộ của ông Ngô Đình Khả. Không biết gia đình “Ngô tổng thống” năm nay (1963) có bị gì không? Thế rồi ông chiêm tinh gia, kể về ngôi mộ thiên táng của thân sinh ông Ngô Đình Khả, tức ông nội TT Diệm, theo ông thầy bói này thân sinh ông Khả ở làng Lệ Thủy (Quảng Bình) làm nghề “mõ” rất nghèo. Những ai lớn tuổi từng sống ở làng quê Việt Nam, đều biết rằng trong làng “mõ” là người đi rao tin tức trong làng, những mệnh lệnh của lý trưởng, ban điều hành làng, khi đi rao, người nầy dùng cái “mõ” gõ cốc cốc cốc, để gây sự chú ý của dân làng, và dân làng gọi một cách bình dân và rẻ rúng “thằng mõ”. Ngày trước dân làng, người ta rất xem thường “thằng mõ”.
Riêng ông “mõ” làng Lệ Thủy, phụ thân của ông Ngô Đình Khả qua đời, gia đình nghèo qúa, không có tiền chôn. Vị linh mục ở nhà thờ đó, hình như linh mục Nguyễn Văn Thơ (sau vào Đà Nẵng chết chôn ở khu “mả Tây” Đà Nẵng, tức khu vực trường Nữ Hồng Đức sau nầy) đã cho hai người phu dùng chiếu cuốn xác ông “mõ” đem đi chôn. Lúc đó trời đã xế chiều nên khi vào rừng hai người nầy sợ cọp, để xác lại bên một gốc cây, rồi bỏ về. Hôm sau trở lui, hai ông định đào lỗ chôn người qúa cố, nhưng thấy mối đã đùn phủ đầy xác ông “mõ”, trở thành ngôi mộ thiên táng. Người ta cho rằng nhờ đó mà dòng họ Ngô bộc phát. Con của ông “mõ” là ông Ngô Đình Khả, bơ vơ vì mất cha, được linh mục Thơ và nhà thờ nuôi cho ăn học, sau này làm lớn trong triều đình Huế. Rồi đến các ông Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Diệm, con ông Ngô Đình Khả. Ông Khôi có một thời làm tổng đốc Quảng Nam, còn ông Diệm làm tổng thống VNCH từ 1955 - 1963.
Tôi nghĩ rằng câu chuyện do ông thầy bói, kể trong mùa xuân năm đó chỉ là truyền thuyết hoang đường về phong thủy mà thôi”- hết trích.
Thủ đoạn của ông Phụng khá tinh vi, xuyên tạc, suy bỉ dòng họ người ta đã đời, cuối cùng kết luận “chuyện hoang đường”? Với khả năng người viết văn xoàng, cỡ ba xu thì tạm chấp nhận được, còn ông Phụng, người chuyên dạy sử và viết sử, cũng tệ đến thế ru? Ông viết chuyện hoang đường, rồi xử trí thế nào chứ? “Truyền thuyết phong thủy hoang đường” còn ông nội của TT NĐD nghèo đến nỗi sống vô gia cư, thác vô địa táng, đâu có hoang đường, phải không thầy dạy sử, sử gia Trần Gia Phụng?
Dụng ý gì, TGP tự mình đem chôn LM Nguyễn Văn Thơ tại “khu nghĩa địa mả Tây” ông muốn kết tội “cha đạo theo giặc Pháp chứ gì”? Tiếc thay ông Phụng sinh ra, lớn lên tại Đà Nẵng, lại là người dạy sử, viết sử, lại đi viết sai bét về một sự kiện chính tại quê nhà. Ông Phụng nên nhớ rằng: Không hề có bất cứ một Linh mục nào đã chôn tại nghĩa địa “mả Tây”, Đà Nẵng.
Người Viết văn, viết sử cần có tính cẩn trọng, là phải tìm bỏ bớt những phi lý, những mâu thuẫn trong câu chuyện, hầu thuyết phục người đọc, ông nghĩ sao: Cũng LM Thơ, khi ông mõ chết, LM không có nổi chiếc quan tài, phải bó chiếu chôn ông mõ, nhưng lại nuôi con ông Mõ, là ông Ngô Đình Khả học thành tài? Tiền một quan tài, và tiền nuôi ăn học, món tiền nào lớn hơn? Nên nhớ ở làng quê Việt Nam, không có ai kinh doanh hàm (quan tài). Khi có người qua đời, con cháu không lo nổi, xóm làng vác cưa vào rừng xẻ gỗ, chẳng phải xin xỏ ai. Chưa có xứ nào bó chiếu chôn, ngoại trừ Quảng Bình, như giáo sư, sử gia TGP nói!?
Nghĩa tử là nghĩa tận, đạo lý, nghĩa tình đồng bào để đâu?
Cả xứ đạo của LM Thơ đều nghèo mạt đến thế sao? Nghèo bạc tiền, nghèo cả đạo đức sao?
Nghèo, cha chết bơ vơ, biết chí thú ăn học thành tài, trở thành ông quan đại thần nhà Nguyễn, với tiết tháo và đạo đức sáng ngời, qua câu ca dao truyền đời: “Đày vua không Khả, đào mả không Bài”. Đâu có phải nghèo, mà ngu dốt, vô hạnh như bè lũ Việt gian Cộng Sản ngày nay.
Mới đây trên Đàn Chim Việt, với bài 23/10 Ngày trưng cầu dân ý.
Ông Trần Gia Phụng, đã cố tình lãng quên thời đại khắc nghiệt và hoàn cảnh lịch sử nước nhà, vào thời điểm trưng cầu dân ý. Ông Phụng nêu 2 điểm trong phần kết luận.
Phần 1
“Quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm Ngô Đình Diệm... nghĩa là một hình thức độc diễn”.
Đại ý tác giả, cho rằng ông Diệm đã tiếm ngôi. Tôi nghĩ trong tình thế này muốn cứu nước, cứu dân, không riêng ông Diệm, bất cứ ai cũng đành lòng hành động như thế, bởi quốc trưởng Việt Nam, nhưng thường trú Paris Pháp quốc! Làm sao thỉnh quốc trưởng về được, 100% ông không về. Nếu có tham gia ứng cử, Bảo Đại sẽ thua nhiều người khác nữa, đâu chỉ thua mỗi ông Diệm.
Phần 2
“Kết quả trưng cầu dân ý là... và quyết định chức danh quốc trưởng.”
Ông Diệm về nước ngân khố rỗng không, quân đội còn trong tay Pháp, Chợ Lớn của Bảy Viễn, là động đĩ, là sòng bài, hang ổ hút xách, đảng phái vùng lên chống lại khắp nơi nơi, đồng bào Miền Bắc ùn ùn di cư cả triệu người. Liệu rĩ rã, tà tà tiến theo từng công đoạn hợp hiến, hợp pháp như ông Phụng đòi hỏi, có thực hiện được không? Giả sử theo tiến trình mang tính hình thức, che mắt người dân, để lên làm Tổng Thống khỏi ai dị nghị, ông Nhu, ông Diệm chắc thừa sức nghĩ đến, song trách nhiệm với tình thế đất nước hiện tại, điều quan trọng và cần thiết hơn.
Ông Ngô Đình Diệm, có giá trị và sự hiện hữu không chỉ từ 1954 - 1963, mà cả sau khi ông bị sát hại 1963 - 1967 đất nước vô chủ, quân vô phèng, đã nói lên cái giá trị đó. Sự kiện này quả rất ngạc nhiên, đối với chủ nhân ông bỏ tiền thuê mướn, chi phí đảo chánh.
Ông Ngô Đình Diệm, đã chết và đã làm người sống phải sợ hãi, vì từ 1963, đến hiện nay chưa ai dám công khai mở miệng nói: “Tôi giết ông Diệm”, đa phần chỉ úp úp, mở mở “Ai hiểu sao cũng được”. Thậm chí cấp chỉ huy giết đàn em Thiếu Tá Nhung, để bịt đầu mối. Vậy ông Ngô Đình Diệm xứng đáng tiêu biểu:
CHÍNH NGHĨA QUỐC GIA DÂN TỘC.
Ai đã sát hại ông, chính là kẻ hèn và TỘI ĐỒ CỦA DÂN TỘC
Giả sử người Mỹ chấp nhận giải pháp của TT Ngô Đình Diệm: Không đổ quân vào Miền Nam Việt Nam, họ đã tiết kiệm ít nhất năm chục ngàn sinh mạng của binh sĩ. Nhưng không, họ đã quyết tâm giết bằng được ba anh em ông Diệm, ông Nhu, ông Cẩn, để đánh đổi một cái giá vô cùng đắt, cuối cùng mang về xứ “một hội chứng Việt Nam” thê thảm.
Với một bài toán này thôi, chúng ta thấy được sức mạnh phi thường của:
CHÍNH NGHĨA QUỐC GIA DÂN TỘC
Người Việt có câu: “Khôn không qua lẽ, khỏe chẳng qua lời”, ông Trần Gia Phụng, dù có tài ba đến đâu cũng sai lệch. Khi nhìn thấy chỉ một cọng rác, đi đánh giá toàn bộ một căn nhà, với lời lẽ đôi khi hằn học: có lúc viết trổng Ngô Đình Diệm, đôi khi Diệm, có chổ đóng ngoặc kép chữ “Ngô Tổng Thống”. Có thể ông và hàng triệu người không thích ông NĐD, nhưng ông vẫn là TT VNCH.
- Tôi học trò Trần Quý Cáp Hội An, có những bạn thân học trò của ông Phụng, trường Phan Chu Trinh. Tôi biết vị trí đứa học trò, song trong lòng tôi không thể trọng nể ông được, vì quá nhiều lần ông viết sai lệch, tìm mọi cách xuyên tạc cố TT Ngô Đình Diệm.
- Là quân nhân, chỉ cần một anh Trung Sĩ, tôi phải trọng họ, vì tôi Hạ Sĩ Nhất, song với Đại Tướng Dương Văn Minh, tôi khinh bỉ tận cùng.
Tháng Mười Một, lễ Tưởng Niệm qua rồi. Nay lòng thành kính, ngưỡng mộ dâng lên nhà chí sĩ ái quốc Ngô Đình Diệm, cùng anh linh, tử sĩ Quân Dân Cán Chính VNCH nén nhang tri mộ.
Hoài cảm, tháng 11
Chín năm tàn mộng hưng nước Việt
Nghìn thu ôm ấp chí tự cường
“cách mạng” (1) đem về những tang thương
Đọc trang sử cũ tuôn dòng lệ
Chạnh nhớ người xưa lụy nước non
Ngày mai ví thử quê mẹ còn
Ta về đắp tượng người trung liệt
hai hàng Tần Cối, quỳ hai bên (2)
Ông Bút
----------------------------------------
1/ “cách mạng” Hồ Chí Minh, Dương Văn Minh tự xưng “cách mạng”
2/ Tần Cối: Thích Trí Quang, Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính...
--------------------------------------
Tiểu Sử Trần Gia Phụng
TIỂU TRUYỆN:
- Nguyên quán: Tỉnh Quảng Nam
- Tốt nghiệp Ban Sử Điạ Đại Học Sư Phạm Huế năm 1965
- Tốt nghiệp cử nhân Giáo Khoa Sử Học Đại Học Văn Khoa Huế năm 1965
- Trước năm 1975: Giáo sư trường Trung Học Phan Châu Trinh Đà Nẵng và giảng viên Viện Đại Học Cộng Đồng Đà Nẵng năm 1974.
- 1975 - 1995: Nghỉ dạy, sinh sống tại Đà Nẵng và Sài Gòn.
- 1995 đến nay: Định cư tại Toronto, Gia Nã Đại.
Liên lạc: trangiaphung2011@yahoo.com
TÁC PHẨM:
1) Trung Kỳ Dân Biến 1908 (Toronto, 1996)
2) Những Câu Chuyện Việt Sử (Toronto, 1997)
3) Những Cuộc Đảo Chánh Cung Đình Việt Nam (Toronto, 1998)
4) Những Câu Chuyện Việt Sử tập 2 (Toronto, 1999)
5) Những Kỳ Án Trong Việt Sử (Toronto, 2000)
6) Quảng Nam Trong Lịch Sử (Toronto, 2000)
7) Án tích Cộng Sản Việt Nam (Toronto, 2001). Giải nhất Giải Văn Học năm 2002 của Hội Quốc Tế Y Sĩ Việt Nam Tự Do (lễ trao giải tổ chức tại Anaheim, California, ngày 10-8-2002)
8) Ải Nam Quan (Toronto, 2002)
9) Những Câu Chuyện Việt Sử tập 3 (Toronto, 2002)
10) Exposing the Myth of Ho Chi Minh (Toronto, 2003)
11) Quảng Nam Trong Lịch Sử tập 2 (Toronto, 2003)
12) Việt Sử Đại Cương tập 1 (Toronto, 2004)
13) Nhà Tây Sơn (Toronto, 2005)
14) Những Câu Chuyện Việt Sử tập 4 (California, 2005)
15) Exposing the Myth of Hồ Chí Minh (sách song ngữ, tái bản, xem lại và bổ sung, Toronto, 2005)
16) Việt Sử Đại Cương tập 2 (1428-1802) (Toronto, 2006)
17) Việt Sử Đại Cương tập 3 (1802-1884) (Toronto, 2007)
18) Trung Kỳ Dân Biến 1908 (hiệu đính và bổ sung để tái bản nhân dịp kỷ niệm 100 năm biến cố nầy)
19) Việt Sử Đại Cương 4 (1884-1945)
20) Việt Sử Đại Cương 5 (1945-1954)
21) Việt Sử Đại Cương 6 (1954-1975) Hai miền Nam Bắc
22) Chiến Tranh Việt Nam 1960-1976 - Việt Sử Đại Cương tập 7
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét