" Cả cuộc đời ba không có gì để lại cho các con ngoài số vốn kiến thức mà ba mẹ tảo tần nuôi các con ăn học.Mong các con trở thành những người hữu ích cho xã hội" ( trích từ TT "Vững Niềm Tin")
Thứ Hai, 29 tháng 9, 2014
MIỀN HỖN ĐỘN
AXIS (Từ “The New Yorker”, 31/01/2011)-ALICE MUNRO
Người dịch: Trần Đan Hà
Một ngày cách đây năm mươi năm. Bữa đó trời lạnh căm, Grace và Avie đang đứng chờ xe bus ở cổng trường đại học. Lát nữa thế nào cũng có một chiếc chạy tới, và đưa hai cô lên phía bắc, băng qua miền đồng quê thưa vắng tối tăm, để về nhà. Avie thì phải đi hết bốn mươi dặm, còn Grace chắc phải gấp đôi chỗ đó. Cả hai đang ôm những quyển sách dày cộp với tựa đề nghiêm túc như “Thế Giới Thời Trung cổ”, “Montcalm và Wolfe”, “Những Quan Hệ Dòng Tên”.
Điều này đa phần là để tự xác định mình là những sinh viên nghiêm chỉnh, và họ quả là thế. Chứ một khi đã về tới nhà rồi thì có lẽ chẳng khi nào họ có thì giờ mà ngó tới mấy thứ đó. Cả hai đều là con nhà nông, biết chà sàn nhà và vắt sữa bò. Ngay khi bước chân vào nhà-hay đúng hơn là vào trại-thì sức lao động của họ là thuộc về gia đình.
Họ không phải là loại thiếu nữ để người ta có thể đeo đuổi ở cái trường đại học này. Ở đây có một trường Kinh Doanh rất lớn với gần như toàn bộ sinh viên là con trai, và một vài hội nữ sinh viên mà hội viên của nó thường theo học ngành Khoa học Thư ký và Đại học Đại cương, và các cô đến đó để gặp các cậu trai. Cỡ như Grace với Avie thì chả bao giờ mấy người nữ hội viên đó lại gần-chỉ cần nhìn mấy cái áo khoác mặc đông cũng đủ để nói được tại sao-nhưng hai cô tin rằng những người nào không ngó ngàng gì tới đám hội viên ấy thì thường là người có đầu óc, và dù sao các cô vẫn cứ thích người có đầu óc hơn.
Cả hai cô đều đang theo học ngành sử, đều được học bổng để có thể theo đuổi việc học. Các cô sẽ làm gì sau khi học xong? Người ta hỏi, và họ phải trả lời là, có lẽ họ sẽ đi dạy trung học. Rồi các cô thừa nhận là mình ghét đi dạy.
Họ hiểu -ai cũng hiểu như vậy-là có việc làm sau khi tốt nghiệp là bại trận. Cũng giống như các thiếu nữ trong mấy hội nữ sinh viên, hai cô vào đây học là để kiếm một tấm chồng. Trước hết là bạn trai, rồi sau sẽ thành chồng. Những điều như vậy chả bao giờ được nói ra, nhưng đó là sự thật. Người ta cho rằng những nữ sinh viên có học bổng khó lòng có những cơ hội như thế, bởi vì đầu óc và sắc vóc thường được cho là không thể đi cùng nhau. May mắn là, cả Grace lẫn Avie đều trông rất ưa nhìn. Grace thì đẹp và nghiêm trang, còn Avie tóc đỏ, không mấy khêu gợi, nhưng năng động và đầy thách thức. Cánh đàn ông con trai của cả hai gia đình đã từng nói đùa là ắt hẳn hai cô sẽ có thể túm được một ai đó.
Lúc xe bus tới thì cả hai cô đều đã lạnh cóng. Họ tìm chỗ ngồi ở phía sau để có thể hút được điếu thuốc có lẽ là cuối cùng của tuần này. Bố mẹ các cô sẽ không nghi ngờ gì nếu có nghe được mùi thuốc lá từ các cô. Thời buổi bây giờ người ta nghe mùi thuốc lá khắp nơi.
Avie chờ cho tới khi họ cảm thấy thoải mái rồi mới kể cho Grace nghe về giấc mơ của cô.
“Bồ không được nói cho ai nghe hết nha,” cô nói.
Trong mơ, cô thấy mình kết hôn với Hugo, người cứ lẩn quẩn quanh cô như thể là anh ta muốn cưới cô, và cô có em bé-nó cứ khóc tối ngày sáng đêm. Thực ra là nó rống to, cho tới khi cô nghĩ là mình phát điên tới nơi. Sau cùng cô bồng em bé lên-một bé gái, chắc chắn là gái-và đem nó xuống một căn phòng tối ở dưới tầng hầm rồi nhốt nó trong đó, nơi mà những vách tường dày sẽ bảo đảm không cách gì nghe thấy nó nữa. Rồi cô bỏ đi và quên bẵng luôn đứa bé. Và rồi cô lại có một bé gái khác, bé này thật là dễ chịu và dễ thương, và cứ lớn lên mà chẳng có vấn đề gì.
Rồi một ngày kia đứa bé gái lớn lên sau này đã nói với mẹ về nhỏ chị trong tầng hầm. Hóa ra là bấy lâu nay nó đã biết con chị của nó-cái đứa nhỏ tội nghiệp bị bỏ rơi đã kể hết mọi thứ cho nó biết-và bây giờ vẫn chẳng ai làm gì cả. “Không ai làm gì hết,” đứa bé gái đáng yêu, và tốt bụng, nói. Đứa con bị bỏ rơi không hề biết được cuộc sống nào khác hơn cái cảnh sống mà nó đã có, và, dù sao thì nó cũng không còn khóc nữa; nó đã quen vậy rồi.
“Một giấc mơ kinh khủng,” Grace nói. “Bồ ghét con nít lắm hả?”
“Không đến mức vô lý,” Avie nói.
“Freud sẽ nói sao nhỉ? Nhưng thôi quên ổng đi, Hugo sẽ nói gì đây ta? Bồ có kể anh ta nghe chưa?”
“Lạy Chúa lòng lành, mình không kể đâu.”
“Có thể cũng không tới nỗi tệ như vậy đâu. Có lẽ đó chỉ là do bồ quá lo lắng về việc có bầu thôi.”
Thực ra chính Avie là người đã thuyết phục Hugo là họ nên ngủ với nhau, hay là quan hệ tình dục, như lúc sau này người ta thường nói. Cô nghĩ như vậy sẽ khiến anh trông đàn ông hơn, tự tin hơn. Anh đẹp trai, nhiệt tình, với món tóc sậm màu lòa xòa trước trán, và anh có khuynh hướng chọn lấy những người mà anh có thể tôn thờ. Đó là một giáo sư, một sinh viên lớn tuổi thông minh, một cô gái. Avie. Nếu họ ngủ với nhau, cô nghĩ, có thể cô sẽ yêu anh. Trên hết tất cả là, cả anh và cô đều chẳng có tí ti kinh nghiệm gì trong chuyện đó. Nhưng mà, quan hệ tình dục đa phần chỉ dẫn đến nỗi lo sợ về những tai nạn nhất định, sự lo lắng về những kỳ kinh nguyệt trễ tràng, và về cái khả năng kinh khủng là cô có thể dính bầu.
Sự thật là cô thấy thích bạn trai của Grace hơn-đó là cậu Royce, một cựu binh thời Thế chiến thứ Hai. Không như Avie, Grace đang yêu. Cô tin rằng đức hạnh của cô và sự cự tuyệt của cô không cho anh làm hỏng nó-vốn dĩ là điều anh không quen làm-đã là một cách khiến anh còn thích thú cô. Có những lần anh muốn bỏ cô và cô đã khiến anh thoát khỏi cái tâm trạng xấu ấy và quên nó đi bằng cách kể những chuyện đồn đãi hoặc nói tếu lâm về những người như Hugo, kẻ mà anh ghê tởm. Trên thực tế Grace đã dần quen với việc bịa chuyện về Hugo-những chuyện không có tí ti sự thật nào, tỷ như xỏ hai chân vô cùng một ống quần, sau một chuyến mây mưa vội vã-những chuyện phi lý đại loại như vậy. Cô những mong Avie sẽ đừng bao giờ biết điều này.
Vào đầu hè, Royce nhảy lên xe bus và đi thăm Grace ở trang trại của bố mẹ cô. Chiếc xe đi ngang qua thị trấn nơi Avie đang ở, và tình cờ qua cửa sổ anh trông thấy Avie đang đứng bên vệ đường, nói chuyện với một ai đó. Trông cô rất hoạt, hất tóc ra sau mỗi khi gió tạt vào mặt cô. Anh nhớ là cô đã bỏ học ngay trước kì thi. Hugo đã tốt nghiệp và xin được chân dạy học ở một trường trung học ở phía bắc, cô đã tới gặp anh ở đó và họ cưới nhau.
Grace đã kể với Royce là Avie có một nỗi sợ kinh khủng lắm, và nỗi sợ đó đã khiến cô quyết định như vậy. Nhưng lại hóa ra là mọi thứ đều ổn-cô đã không có thai- nhưng cô cũng đã quyết định là thôi cứ lấy chồng cho xong.
Trông Avie không có vẻ gì là loại người có thể bị mắt kẹt vì một nỗi sợ. Cô có vẻ vô tư, và có đời sống tinh thần mạnh mẽ-cô xinh đẹp hơn, nhanh nhẹn hơn so với những gì anh nhớ về cô trước đây.
Anh như bị thôi thúc bởi ý nghĩ nhảy xuống khỏi xe bus đó và không bao giờ trở lên lại. Nhưng dĩ nhiên là điều đó sẽ dẫn anh đến nhiều rắc rối hơn anh tưởng. Dù sao thì giờ đây Avie cũng đang tung tăng bước ngang đường, ngay trước đầu xe, rồi mất hút vào một cửa tiệm.
Ở nhà Grace, mọi người đã chờ anh đến ăn tối được nửa tiếng đồng hồ rồi, nhưng ngay cả như vậy thì lúc đó cũng mới năm giờ rưỡi. “Tôi e rằng, ở đây thì mấy con bò là sếp,” mẹ của Grace nói. “Chắc hẳn cậu chẳng biết gì về đời sống ở nông trại,”
Nhờ trời, trông bà chẳng giống Grace tí nào, hay là trông Grace chả giống bà tẹo teo. Gầy gò, tóc bạc cắt ngắn. Bà cứ vội vội vàng vàng, chừng như chẳng có được lúc nào để mà duỗi thẳng người ra.
Bà đã từng là một cô giáo, và trông bà quả thực rất là cô giáo. Một cô giáo thấy hết mọi điều bậy bạ mà chẳng qua cô chưa bắt thôi. Ông bố xem chừng đang lo lắng cho mấy con bò. Cậu con trai lớn cười cười mỉa mai. Cô con gái bé cũng vậy, kẻ được cho là thiên tài dương cầm. Grace ngồi lặng câm, và xấu hổ, nhưng đáng yêu, mặt đỏ bừng vì nấu bếp.
Những dự tính của anh là gì, người mẹ muốn biết, anh định làm gì khi giờ đây anh đã tốt nghiệp? (Đáng lẽ Grace phải nói với họ cái điều dối trá đó; đáng lẽ cô phải thú nhận sự thực là anh đã bỏ ra khỏi phòng thi của môn cuối cùng vì mấy câu hỏi quá ngớ ngẩn. Chẳng phải cô đã nghĩ đó là một sự can đảm hiếm hoi sao?)
Giờ đây, anh nói, anh đang chạy taxi. Với mảnh bằng triết học thì chả có nhiều việc để làm. “Trừ khi cháu quyết định làm thầy tu.”
“Anh là Công giáo à?” ông bố nói, gần như giật nảy mình đến độ suýt mắc nghẹn đồ ăn.
“Ủa, phải là người công giáo mới làm thầy tu được sao?”
Grace nói, “Nói đùa thôi mà.” Nhưng giọng cô nghe như chẳng có tí vui đùa nào.
“Triết học,” bà mẹ nói, “Ta không biết là cậu chỉ học có mỗi thứ đó suốt bốn năm trời.”
“Dạ, tại chậm hiểu,” Royce nói.
“Giờ đến lượt cậu nói đùa nhỉ.”
Anh và Grace cùng im lặng rửa chén, xong đi dạo. Khuôn mặt cô vẫn còn ứng hồng do mắc cỡ hay do bếp nóng, và bản tính ưa chòng ghẹo của cô chừng như bị nguội lạnh.
“Có xe bus chạy muộn không?”, anh hỏi.
“Chỉ là do họ bị căng thẳng thôi,” cô nói. “Ngày mai sẽ đỡ hơn.”
Anh nhìn lên những cây có lá như lông gà, hơi giống mấy loài cây Đông phương, và hỏi cô có biết tên chúng không.
“Hoàng điệp. Cây hoàng điệp. Em thích thứ cây này lắm.”
Thích cây này. Rồi đến gì nữa? Thích hoa? Thích sao? Thích cối xay lúa? Liệu cô có thích hàng rào không nhỉ? Đã định hỏi, song anh lại nhận ra nó sẽ làm cô mếch lòng.
Thay vì vậy, anh hỏi ngày mai họ sẽ làm gì. Có thể là một chuyến cắm trại trong rừng, anh hy vọng vậy. Một nơi nào đó mà anh có thể ở riêng với cô.
Cô nói rằng ngày mai họ sẽ làm mứt dâu cả ngày.
“Ở đây anh không được lựa chọn đâu,” cô nói. “Anh cứ chỉ việc làm những gì phải làm. Phải theo mùa.”
Việc anh đỡ đần công việc trong trang trại đã được ghi nhận. Anh làm mọi người ngạc nhiên vì thành thạo máy móc. Và thực sự anh cũng rất quan tâm tới việc người ta sống như thế nào, mặc dù anh lảng chuyện khi được hỏi về một cam kết như thế cho chính anh.
Thực tế là-trên hết tất cả mọi thứ-thì chuyện đã xảy ra cho anh là, người cha có lẽ đang dần luống tuổi, và thằng anh thì tỏ ra là thuộc loại ngớ ngẩn (Grace đã từng nhắc tới anh ta với vẻ khinh thị) và rằng, chính anh-Royce-ngay bây giờ đây đang thoải mái, và không hề ngu ngốc cũng chẳng chây lười, có thể trôi đi theo đời sống nông trại tẻ ngắt giữa bầy gia súc đần độn và đám cây ăn quả nở rộ, với cả ối thời gian trong mùa đông để cày xới đầu óc mình. Nông trang tù hãm.
Nhưng anh có thể nói là người cha và thằng anh không vui vẻ gì mấy với sự có mặt của anh. Chẳng thèm ngó ngàng gì tới anh. Và họ sẽ không nghĩ về việc làm nông, ngay cả khi nó có hiệu quả, như một cách hồi phục tâm hồn. Anh có thể mắc kẹt với mớ dâu tây. Cho tới khi cô em gái-thiên tài dương cầm-nhờ anh lật giùm trang sách.
“Các con tôi đứa nào cũng có tài riêng,” người mẹ nói với anh khi họ đứng lên rời khỏi bàn ăn, và cô bé dương cầm thủ có lý do chính đáng để khỏi rửa chén. “Ruth thì có âm nhạc, Grace có lịch sử, còn Kenny, dĩ nhiên phải là người của nông trại.”
Lúc ở ngoài ngõ, anh thử vòng tay ôm Grace, nhưng vòng ôm đó trở nên lúng túng vì họ bị mất thăng bằng do mấy vết bánh xe nhỏ hẹp hằn sâu trên đường.
“Mình cứ như vầy hoài hả?” anh nói.
“Đừng lo,” cô đáp, “em đã có kế hoạch rồi.”
Anh không thể thấy được cái kế hoạch đó có thể ra sao. Căn phòng nơi anh ngủ thì gần ngay bên nhà bếp. Cửa sổ lúc nào cũng đóng chặt, và chỉ kéo lên được khoảng một phần tư, không đủ rộng để anh có thể lẻn ra.
“Ngày mai chúng ta sẽ làm mứt,” Grace nói. “Gần như suốt ngày. Ruth sẽ tiếp tục tập đàn. Nó sẽ làm anh nổi khùng, nhưng đừng lo. Ngày mốt mẹ sẽ phải đưa nó vô thị trấn để thi. Ở đó đứa nhỏ nào sau khi thi xong cũng phải ngồi ở đó và chờ cho tới đứa cuối cùng thi xong để được biết kết quả. Hiểu chưa?”
“Anh không nghĩ là mẹ em sẽ chịu để cho tụi mình được ở riêng với nhau,” Royce nói. “Hay đó không phải là cái kế hoạch mà anh đang nghĩ là em đang có?”
“Đúng nó đó,” Grace nói. “Em sẽ phải đi thăm nhỏ bạn Robina của em. Robina đóng giày. Em sẽ phải đi bằng xe đạp, nên sẽ mất một ít thời gian. Nó sống ở phía bên kia xa lộ. Tụi em là bạn từ nhỏ, và nó đã bị liệt từ hai năm nay rồi. Bị ngựa đạp lên chân.”
“Ôi Chúa lòng lành,” anh nói. “Thảm họa miền quê.”
“Em biết,” cô nói, có vẻ không bận tâm tới việc nói sao cho hợp với giọng của anh. “Vậy nên em sẽ vờ làm như đi thăm nó, nhưng thực tế là không. Sau khi mẹ và Ruth đã đi rồi thì em sẽ đạp xe vòng trở lại, và chúng ta sẽ có cả ngôi nhà cho riêng mình.”
“Vậy cuộc thi ấy có dài không?”
“Em hứa với anh, nó dài lắm. Và rồi họ sẽ còn phải mang dâu tới nhà bà ngoại nữa, mất ít nhất cả tiếng đồng hồ nữa. Anh có theo kịp ý em hông vậy?”
“Anh hy vọng là vậy.”
“Ngày mai anh sẽ ngoan chứ? Đừng có quá mỉa mai mẹ nha.”
“Anh xin lỗi,” anh nói. “Anh hứa sẽ không vậy nữa.”
Nhưng anh không khỏi phân vân. Tại sao lại là bây giờ, trong khi trước kia anh có thể dễ dàng đưa cô lên phòng và thu xếp để cho bạn anh đi ra ngoài? Hoặc giả như hồi mùa xuân năm ngoái, lúc cô đã khiến anh phát cuồng lên trong những góc tối của công viên? Thế còn cái trinh tiết vẫn được ca tụng của cô?
“Em có nhiều miếng lót lắm,” cô nói. “Thường cần bao nhiêu miếng?”
Anh ngạc nhiên thấy mình phải nói là, anh không biết.
“Anh không rành mấy cô trinh nữ.”
Cô choàng tay ôm vai mình và cười to, kiểu cười anh đã quen thấy ở cô.
“Anh không định nói tếu đâu.” Anh thực sự không.
Mẹ cô đang ngồi ở bậc thềm bên hông nhà, nhưng chắc chắn là bà đã không thể nghe thấy gì. Bà hỏi họ đi chơi có vui không, và nói rằng bản thân bà luôn mong đợi tới chiều tối để trời mát hơn.
“Ở đây chúng tôi may mắn hơn- chứ không bị nung trong lò như mấy người ở thành phố.”
Lúc thức giấc vào sáng hôm sau, anh đã nghĩ rằng mình đang sắp sửa có một ngày dài nhất trong đời, nhưng thực ra ngày cũng trôi qua dễ dàng. Những thùng dâu được hạ xuống bỏ vào nước nóng sủi bọt. Dâu sẽ tróc vỏ và được hun nóng cho tới khi sôi lên và cho ra thứ nước sền sệt màu hồng gần như kẹo. Công việc được tổ chức theo kiểu trợ giúp nhau, với ba người luôn sẵn sàng chạy tới khi có người cần nhấc một cái nồi lên, hay khi có người khiêng tới một cái lọc đầy. Căn bếp nóng kinh khủng, và Royce là người đầu tiên, rồi đến Grace, và mẹ của cô, phải đưa mặt vào dưới vòi nước lạnh rồi ngước lên với khuôn mặt ròng ròng nước.
“Tại sao trước đây mẹ không hề nghĩ tới làm như vầy nhỉ?” mẹ cô nói, đứng ngay đó với những món tóc ướt bết trên trán. “Chỉ có đàn ông mới nghĩ ra được những điều thông minh, phải không hả Grace?”
Tiếng đàn dương cầm thánh thót suốt cả ngày, dưới đôi tay của con bé con sắp lên đường ứng thí vào ngày mai; nó nhắc mỗi người trong bọn họ nghĩ tới những điều riêng tư của mình, về những thử thách và hứa hẹn của một ngày sắp tới.
Vào cuối buổi chiều thì Royce được trao cho chìa khóa xe để đi tới cửa hàng gần nhất cách đó năm dặm, để mua thịt xông khói xắt lát sẵn và cà-rem, cùng salad khoai tây làm sẵn để về ăn tối. Xem ra salad khoai không làm tại nhà là thứ mà gia đình đó chưa từng biết đến.
Mứt dâu ấm được rưới lên trên cà-rem.
Người mẹ với chiếc áo lốm đốm ướt nước có vẻ như khá ngây ngất với công việc và thành quả của một ngày.
“Royce ở đây là làm hư phụ nữ nghe,” bà nói. “Hễ ai có anh kề bên là công chuyện làm xong trong nháy mắt, và rồi còn được thưởng thức cà-rem nữa chứ. Cả nhà ta được chiều hết cỡ.”
Thằng con trai nói Grace đã hư sẵn rồi-nó cứ nghĩ là mình thông minh lắm vì đã vô đại học.
“Thì nó đã vô rồi đấy thôi,” bà mẹ bảo.
Grace dọa sẽ đổ một muỗng đầy salad khoai xuống áo nó. Cu cậu lấy ngón tay quẹt và liếm sạch.
“Tởm,” Grace nói.
Bà mẹ la con, “Coi chừng tư cách nghe!”
Qua ngày hôm sau người bố và thằng con trai đi tuốt lúa mạch mọc sớm ở cánh đồng của họ ở phía bên kia xa lộ. Họ mang theo bữa trưa và nhắc nhau rằng người đàn bà thuê đất sẽ cung cấp nước cho họ. Grace đã nhận biết tất cả những điều này từ trước.
Ruth đang đứng im để mẹ sửa lại những dải lụa và nơ trên tóc cho mặt cô bớt tối. Cô bé nói cô không thể ăn gì nổi cả. Bà mẹ nói, “Tại con căng thẳng,” rồi gói mấy miếng bánh quy lạt đem theo. Chỉ vài phút trước khi xe của hai mẹ con lăn bánh thì Grace đã phóc lên yên xe đạp và vẫy tay chào mọi người. Bà mẹ nói với theo, cho bà gửi lời yêu thương đến cô gái tật nguyền. Có một hũ mứt tươi đã được bọc gói cẩn thận trong giỏ xe đạp để làm quà cho cô gái ấy.
Royce được cho biết là, anh xứng đáng có một ngày nghỉ ngơi sau ngày làm việc hôm qua. Thế nhưng cái căn nhà gạch cao này, vốn dĩ trông bên ngoài rất ấn tượng, lại chẳng có gì là dễ thương hay dễ chịu ở bên trong. Bàn ghế tủ thì cứ như là được nhét đại đây đó, như thể là không ai có thì giờ để có ý sắp xếp chúng. Cửa trước thì bị chắn một phần bởi cái đàn dương cầm của Ruth. Nhưng ít nhất cũng có vài quyển sách ở phòng khách. Anh lấy cuốn “Don Quixote” từ trên cái kệ kiểu cổ với gương ở phía trước, miệng hét to với Ruth “Hạ hết bọn chúng nghe!” nhưng cô bé không trả lời. Tai anh dõi theo tiếng xe chạy xuống đường, rồi nghe thấy nó quẹo về phía xa lộ. Anh đọc vài chữ, lắng đọng cho căn nhà thay đổi hoàn toàn, trở thành cùng phe với mình. Những họa tiết của tấm vải phủ bàn ăn xem chừng cũng đồng lõa, những trang giấy cũng tươi mới như mấy lọn tóc của Ruth, cái máy hát thì đã ngưng, mọi thứ đang chờ đợi. Anh thủng thẳng đi về phía căn phòng ở ngoài gian bếp, ở đó anh thấy mình nên dọn giường lại và treo mớ quần áo ít ỏi lên móc. Anh kéo tấm rèm che xuống sát gờ cửa sổ, cởi bỏ hết mọi thứ trên người và chui vào bên dưới tấm mền phủ giường.
Anh đã không hề đến mà không thủ sẵn đồ nghề, dù anh thậm chí đã nghĩ rằng mình có rất ít cơ hội ở đây. Giờ thì anh không hề thiếu sẵn sàng chút nào. Sự tĩnh mịch cũng cảm thấy quan trọng. Cô ấy nghĩ sẽ đi bao xa là đủ để quay về nhỉ?
Chiếc đồng hồ trong bếp gõ một tiếng, là lúc mà Ruth phải có mặt ở chỗ người thày dạy nhạc. Vậy là chắc cú rồi, chắc cú.
Anh nghe tiếng xe đạp chạy trên sỏi. Nhưng cửa nhà bếp không mở ngay như anh nghĩ. Thế rồi anh hiểu ra là cô đang đẩy chiếc xe đạp ra phía sau nhà, để giấu.
Gái ngoan.
Tiếng chân cô bước vào nhà, rất nhẹ, như thể cô không muốn đánh thức ai đó còn đang ngủ trong nhà. Rồi cánh cửa thẹn thùng mở hé, cái cửa mà anh đã để ý thấy là không hề có bất cứ một ổ khóa hay chốt nào. Anh vẫn nằm yên bất động, mắt mở he hé. Anh muốn cho cô thời gian. Anh đã nghĩ là cô sẽ nhảy vào giường với nguyên quần áo trên người, nhưng không. Cô đang đứng trước mặt anh, cởi bỏ mọi thứ, đầu cúi gằm, môi cắn chặt, rồi đưa lưỡi liếm môi. Rất căng thẳng.
Thật đáng yêu.
Họ đã dấn đi đủ xa rồi nên không nghe thấy tiếng xe. Lúc đầu anh có ý giữ cho thật yên lặng, không phải vì anh sợ có gì nguy hiểm, nhưng chỉ vì anh có ý cho thật dễ dàng, thật nhẹ nhàng với cô. Điều này hóa ra lại không được để ý. Cô có vẻ không cần tới kiểu chăm sóc như vậy. Hai người ồn ĩ đủ khiến họ không nghe thấy bất cứ gì bên ngoài.
Dù sao họ cũng sẽ chẳng nghe tiếng xe-nó đã được đậu ở chỗ khá xa trên lối vào. Tương tự như vậy là tiếng chân, chắc hẳn phải rất là khẽ khàng, và cánh cửa nhà bếp cũng được mở ra, rất từ từ.
Nếu như có nghe thấy tiếng cửa bếp thì có lẽ họ đã có được đôi chút thời gian để chuẩn bị. Đàng này, ngay khi cánh cửa phòng bị mở toang ra họ vẫn chưa kịp hiểu chuyện gì đã xảy ra. Và, thực tế là, họ đã phải mất hết cả phút để ngưng lại, và để nhận ra khuôn mặt bà mẹ với cái miệng đang há hốc, há rất to, ngay ở cuối giường.
Bà mẹ không nói nên lời. Bà run lẩy bẩy. Bà nói lắp bắp. Bà phải giữ chặt thành giường để đứng cho vững.
“Ta không thể,” một lúc sau bà mới nói được, “Không thể, không thể. Tin nổi.”
“Ôi thôi im đi,” Royce nói.
“Cậu có-Cậu có- Cậu có mẹ không vậy?”
“Đó không phải chuyện của bà,” Royce đáp. Anh đẩy Grace sang bên mà không nhìn cô, với lấy cái quần để trên sàn nhà, và mặc quần vào bên dưới tấm khăn phủ giường, xong nhảy ra khỏi giường. Chuyển động của anh đã khiến Grace bị đạp ra. Anh không thể không làm vậy, cũng chẳng mấy bận tâm tại sao mình làm vậy. Cô trùm kín đầu bằng tấm khăn phủ giường, nhưng cặp mông trần không hiểu sao lại bị lộ ra.
“Cậu đã làm gì vậy hả?” bà mẹ nói. “Chúng tôi mời cậu đến với gia đình. Chúng tôi tiếp đón cậu nồng hậu. Con gái của chúng tôi…“
“Con gái bà tự quyết định đó.”
“Mày có nghe nó nói không hả con?” bà mẹ la lớn về phía cái đầu trùm mền của Grace, đôi tay bà bấu chặt vào bộ đầm mà bà đã diện cho buổi thi dương cầm. Không có chỗ nào khác để bà ngồi xuống, ngoài cái giường, mà bà lại không thể ngồi lên đó.
Royce đáp lại bằng cách gom góp đồ đạc của mình, dọn dẹp cho gọn vì còn muốn nể mặt Grace. Xong anh nói, “Xin phép bà” với bà mẹ, nhưng giọng anh khô khốc.
Tới khi Grace nghe tiếng anh khóa sợi dây kéo túi xách thì cô lăn người qua, và đặt chân xuống sàn. Giờ đây cô hoàn toàn lõa lồ.
Cô nói, “Cho em đi nữa. Cho em đi với anh.”
Nhưng anh đã đi ra khỏi phòng, và ra khỏi nhà, như thể anh thậm chí không hề nghe cô nói.
Anh bước ra đường cái, giận dữ tới mức anh không thể nghĩ ra được chỗ nào để quẹo về phía xa lộ. Đến khi tìm thấy nó anh cũng không nhớ ra là phải đi trên bờ sỏi, để tránh những chiếc xe đang chạy trên đường tráng nhựa. Anh biết mình phải quá giang xe, nhưng ngay lúc đó thì anh không thể đi chậm lại để đón xe. Anh cũng không nghĩ là anh có thể nói chuyện được với ai đó. Anh nhớ tới cái lúc anh thì thầm với Grace vào ngày hôm trước lúc họ làm mứt dâu, lúc hôn cô bên vòi nước lạnh đang xả ra khi bà mẹ vừa quay lưng đi. Dưới vòi nước chảy, món tóc nhạt màu của cô trở nên sậm xuống hẳn. Những hành động như thể anh đang tôn thờ cô. Mà vào những lúc nào đó thì đó là sự thật. Sự điên rồ ẩn chứa trong đó, sự điên rồ đã để cho chính anh bị cuốn đi. Cái gia đình ấy. Cái bà mẹ điên khùng đó đã trợn ngược mắt lên tới nóc thiên đường.
Anh cứ bước đi cho tới khi đủ mệt và tỉnh táo thì mới chậm lại và đưa ngón tay cái lên để xin quá giang. Cử chỉ đó không mấy chắc chắn lắm, vậy mà cũng có một chiếc xe dừng lại đón anh.
Vận may tiếp tục mỉm cười với anh nhiều lần nữa trong suốt ngày hôm ấy, dù thực ra thì đa số các chuyến quá giang đó tương đối ngắn. Nông dân thường thích có bạn đồng hành, hoặc trên đường họ ra tỉnh, hoặc khi quay trở về nhà. Chỉ là những trao đổi chung chung. Có một bác nông phu ở cuối chuyến quá giang đã nói với anh là, “Nói ta nghe coi cậu có biết lái xe không?”
Royce đáp, được chứ. “Mới đây tôi còn chạy taxi mà.”
“Vậy thì chẳng phải cậu đã lớn rồi để mà đi quá giang sao? Cậu đã học đại học xong hết cả rồi-phải chăng cậu không nghĩ mình nên đi kiếm một công việc đàng hoàng nào đó sao?”
Royce cân nhắc điều này như thể đó là một ý tưởng thực sự độc đáo, mới mẻ.
Anh đáp, “Không,” rồi nhảy ra khỏi xe. Và rồi anh thấy bên kia đường chỗ tiếp với xa lộ có một tòa tháp bằng loại đá trông như đá cổ và có vẻ hết sức lạc lõng nơi đây, dù cho nó được phủ kín cỏ và có một cây nhỏ mọc ra từ một chỗ nứt.
Anh đang ở tại chỗ rìa của vực Niagara, mặc dù anh chẳng hề biết cái tên đó, hay bất cứ điều gì về nó. Nhưng anh bị choáng ngợp. Tại sao chưa hề có ai nói với anh về điều này nhỉ? Niềm ngạc nhiên này, sự thách thức chẳng màng tới bất cứ điều gì ở ngay tại khung cảnh siêu phàm này. Anh có cảm giác hơi tức cười là đã có một thứ gì đó được tạo ra dành riêng cho anh và chờ ở đó để anh tới khám phá, mà không ai nói cho anh hay.
Dù sao mặc lòng, giờ thì anh đã biết rồi. Trước khi nhảy lên một chiếc xe khác nữa, thì anh biết là anh đang sắp khám phá được điều gì đó, anh sẽ không để cho nó bị lãng quên. Nó được gọi là Địa chất học. Vậy mà suốt trong khoảng thời gian qua anh cứ lo biện luận dớ dẩn, bằng khoa học tâm lý và chính trị.
Điều đó sẽ không dễ. Nó sẽ có nghĩa là phải tiết kiệm tiền, bắt đầu lại từ đầu- học chung với những nhóc tì mặt mụn vừa ra khỏi trường trung học. Nhưng đó chính là những gì anh sẽ làm.
Sau đó, anh thường hay kể với mọi người về cuộc hành trình đó, về khung cảnh bờ vực ngoạn mục đã khiến cuộc đời anh rẽ sang hướng khác. Nếu có ai hỏi anh đã làm gì ở đó, anh sẽ ngẩn người hết một lúc, rồi mới nhớ ra là mình tới đó để gặp một cô gái.
Một ngày đầu thu Avie đang ở gần khu học xá sau khi vừa trở lại để thu nhặt mấy quyển sách mà cô đã bỏ ở nơi cô trọ trước kia. Cô đi lên trường đại học để xem xem có thể bán chúng ở một tiệm sách cũ nào đó hay không, nhưng rồi lại nhận ra là đó không hẳn là điều cô định làm. Lúc đầu cô ngạc nhiên vì không thấy ai quen cả. Sau đó cô chạy tới chỗ một cô gái đã từng ngồi cạnh cô trong lớp “Những Trận Đánh Quyết Định Ở Châu Âu”. Marsha Kidd. Marsha nói với cô là ai cũng sốc vì Avie không quay trở lại.
“Bồ với lại Grace, thật đáng tiếc,” Marsha nói.
Hồi trong hè Avie đã viết thư cho Grace. Rồi cô lại lo rằng lá thư đó có thể hơi quá thành thật khi nói về việc cô e ngại chuyện lập gia đình, và cô đã viết một lá thư khác khá là dí dỏm phủ nhận những nghi ngại của lá thư kia. Không có thư nào được hồi đáp.
“Mình có gửi cho bạn ấy một tấm thiệp,” Marsha nói. “Mình nghĩ mình với bạn ấy có thể ở chung phòng với nhau. Sau cái lúc mà mình nghe nói là bồ sẽ không tới trường nữa. Vậy mà mình cũng có được bạn ấy trả lời gì đâu.”
Avie nhớ là cô và Grace đã có lúc nói tếu lâm về Marsha, người mà cả hai cô đều thấy là thuộc loại ngốc nghếch và chán phèo, loại thiếu nữ thậm chí sẵn sàng trở thành cô giáo trung học và suốt đời chắc cũng chả có anh nào theo.
“Có người nói bạn ấy bị viêm ruột già,” Marsha nói. “Phải đó là khi mình bị sưng hết cả người phải không? Như vậy thật là khổ.”
Avie trở về nhà và viết thư cảm ơn, là điều mà cô đã bỏ mặc không làm. Cô gửi mấy món quà tới Kenora, nơi Hugo đang dạy học-đó là việc làm đầu tiên của anh. Anh đã thuê một căn hộ cho hai người. Có lẽ trong chừng một năm thôi họ sẽ có nhà.
Hồi trong hè, lúc anh đang làm việc ở Labatt, họ đã bị một cú sợ choáng người vì tưởng là cô có mang, nhưng cuối cùng thì cô không sao. Thế rồi họ đi cắm trại vào dịp cuối tuần có lễ Civic[1] để ăn mừng chuyện đó, và đấy có vẻ là lần đầu tiên họ nhận ra mình thực sự đang yêu. Đó cũng là lần đầu tiên họ thực sự đón nhận tin có mang, và họ đã tuyên bố là sẽ sớm làm đám cưới ở Kenora-trước khi bụng cô to ra.
Họ không phải là không vui về điều này.
Hôm đó Avie ngồi trên chuyến tàu mà có lúc đã được gọi là xe câu lạc bộ, để đi từ Toronto tới Montreal. Bà đang trên đường đi thăm một trong mấy đứa con gái. Bà với Hugo có được sáu người con, giờ đây tất cả đều đã lớn. Hugo đã qua đời hồi một năm rưỡi về trước. Ngoài vài năm dạy học đó ở Kenora, còn lại thì ông đã dùng phần lớn đời mình theo đuổi nghiệp dạy học ở Vịnh Thunder. Avie không hề đi làm, và với từng ấy đứa con thì cũng chẳng ai muốn bà đi làm cả. Thế nhưng bà đã có nhiều thời gian rảnh hơn mọi người tưởng, và bà dành phần lớn thời gian để đọc sách. Khi sự đổi đời vĩ đại xảy đến cho cuộc sống của phụ nữ-khi những người vợ và người mẹ tưởng chừng đang mãn nguyện bỗng nhiên muốn tuyên bố rằng đời họ không phải vậy, khi tất cả bọn họ bắt đầu ngồi trên sàn nhà thay vì trên ghế bàn, rồi họ đi học đại học, làm thơ và yêu các giáo sư hay các chuyên viên tâm lý, hay chuyên viên điều trị bệnh xương khớp của họ, và bắt đầu nói “tổ mẹ” và “đ.m.” thay vì “khỉ gió” và “quái quỷ”… Avie chẳng bao giờ muốn hùa theo. Có lẽ bà quá kỹ tính, quá tự hào. Có lẽ Hugo chỉ là con người quá thụ động. Có lẽ bà yêu ông. Dù ở mức độ nào thì bà cũng vẫn là người như thế, và đọc Leonard Cohen[2] chắc cũng chẳng ích gì.
Tuy vậy nhưng từ khi trở thành góa bụa, bà lại đọc ít đi. Bà ngồi ngó trân ra ngoài cửa sổ thường xuyên hơn. Các con nói bà đang tự khép kín, cô lập chính mình. Cũng như giờ đây, trên chuyến tàu lửa này, bà cũng chả chú tâm đọc lắm, dù đó là một quyển sách hay.
Một người đàn ông ngồi xéo bên kia cứ liếc mắt nhìn bà vài ba bận, và giờ đây ông đang quan sát bà hoàn toàn công khai. Ông nói, “Phải Avie đó không?”
Đó là Royce. Sau chừng ấy thời gian trông ông cũng chả khác gì mấy.
Họ trao đổi với nhau thật dễ dàng, bắt đầu với những điều thông thường. Sáu đứa con thật là đáng nể. Ông nói nhìn bà thì không biết đâu. Ông không nhớ Hugo là ai, nhưng cũng thấy tiếc khi nghe ông ta đã mất. Ông tỏ ý ngạc nhiên là người ta có thể sống cả đời ở cảng Arthur. Hay là vịnh Thunder, như tên mới bây giờ.
Họ uống rượu mùi pha nước soda đắng. Bà kể là Hugo không có bị lo lắng hay sợ hãi gì hết. Ông chết khi đang ngồi coi tin tức trên tivi.
Royce thì đi nhiều lắm. Sống ở nhiều nơi. Ông dạy địa chất, nhưng đã về hưu.
Ông có lập gia đình không?
Ồ, không, không hề. Và theo như ông biết thì không có đứa con nào.
Ông nói điều này với ánh mắt hấp háy vốn thường hay đi kèm với những câu tuyên bố như vậy-kinh nghiệm của Avie cho biết.
Bây giờ ông đang có một công việc hưu trí rất ngon lành. Công việc tốt nhất hồi nào tới giờ, không kể Địa chất học. Công việc ở đông Ontario. Giờ ông đang đi đâu hả. Gananoque.
Ông nói về cái thành cổ ở đó, nó được dựng lên ở cửa sông St. Lawrence, để chống lại quân xâm lược Hoa kỳ-vốn là điều chẳng bao giờ xảy ra. Nó là cái thành quan trọng nhất trong dãy thành dọc theo kênh Rideau. Nó đã được duy tu đúng mực, không phải như một bản sao, mà như chính bản thân nó. Ông hướng dẫn mọi người đi quanh khu vực, giảng giải về lịch sử. Thật đáng kinh ngạc là sao có ít người biết quá. Không phải chỉ là người Mỹ-những người mà ta kỳ vọng họ phải biết. Người Canada cũng vậy.
Ông đang viết một quyển sách nhỏ về Rideau. Để bán ở thành Gananoque. Ông ráng đưa một lượng lớn kiến thức về địa chất cũng như lịch sử vào đó. Ông đã tham gia vào lĩnh vực này hơi trễ để có thể làm nên dấu ấn gì. Nhưng tại sao lại không thử nói cho mọi người biết về nó chứ? Giờ ông đang trên đường về nhà sau chuyến đi Toronto để cố làm cho một vài chủ tiệm sách chú ý tới nó. Một vài người trong số họ đã nhận thử một ít.
Avie nói một con gái của bà đang làm việc cho một nhà xuất bản ở Toronto.
Ông thở dài.
“Khó khăn lắm, thiệt đó,” ông nói gọn lỏn. “Người ta thường không thấy trong đó những gì mà chính mình thấy. Nhưng cô thì ổn thôi, tôi đoán chừng vậy. Cô có đàn con.”
“Vâng thì, sau một lúc nào đó,” Avie nói, “sau một lúc nào đó, anh biết đấy, tụi nó cũng chỉ là con người. Ý em là, mấy đứa con là của mình, dĩ nhiên rồi. Nhưng đó là những người… những người mình biết.”
Trời đánh chết mình đi, bà nghĩ.
“Tôi có nhớ tới điều này,” ông nói, giọng trở nên vui vẻ hơn hẳn. “Tôi nhớ có lần ngồi trên xe bus để đi xuống thị trấn chỗ cô ở. Tôi không biết là trước đó tôi có biết là cô đang sống ở đó hay không, nhưng lúc đó tôi đã trông thấy cô bên hè phố. Tôi đã chỉ tình cờ ngồi phía bên tay phải nên mới thấy được cô. Lúc đó tôi đang đi về phía bắc. Đi gặp một cô gái mà tôi quen ở đó.”
“Grace.”
“Đúng rồi. Cô là bạn cô ta. Dù sao thì lúc thấy cô đứng bên đường nói chuyện với một người nào đó thì tôi đã nghĩ sao trông cô đáng yêu lôi cuốn thế. Lúc đó cô đang cười. Tôi chỉ muốn nhảy ra khỏi xe để nói chuyện với cô. Để hẹn hò với cô, chính xác là vậy. Tôi không thể không tới cái chỗ mà người ta đang trông đợi tôi đến, nhưng tôi vẫn có thể gặp cô trên đường về. Tôi đã nghĩ là, đó là những gì tôi có thể làm-là hẹn gặp cô khi trên đường quay trở lại. Lúc đó tôi thực sự có biết đôi điều về cô, đến giờ thì tôi đang nghĩ về điều ấy. Tôi đã biết là cô đang cặp kè với một ai đó, nhưng tôi đã nghĩ là, ờ thì cứ thử một lần xem sao.”
“Em không hề biết,” Avie nói, “Em không hề biết là anh đã ở đó.”
“Và rồi, như chuyện đã xảy ra, là tôi đã không trở lại bằng đúng con đường đó, cho nên nếu có hẹn thì ắt hẳn tôi cũng không đến được cái chỗ mà cô đang chờ, và rồi chuyện cũng sẽ chẳng ra làm sao cả.”
“Em không hề biết vậy.”
“Ờ thì nếu biết liệu cô có sẽ đồng ý không? Nếu như tôi nói với cô, là, ‘hãy tới cái chỗ đó, vào một lúc nào đó’ thì cô có đến đó không?”
Avie nói ngay không do dự, “Ôi, có chứ,”
“Với đủ mọi thứ rắc rối ư?”
“Vâng.”
“Như vậy lại hóa hay nhỉ? Rằng chúng ta đã không liên lạc với nhau?”
Bà thậm chí không buồn trả lời.
Ông nói, “Nước trôi qua cầu.” Rồi ông ngả đầu ra lưng ghế và nhắm mắt.
“Trước khi tới Kingston nhớ đánh thức tôi dậy giùm nếu tôi ngủ quên nhé,” ông nói. “Có vài thứ tôi muốn chỉ cho cô thấy.”
Chẳng khác gì như đang ra lệnh, kiểu như một người chồng.
Ông thức giấc trong khi bà không hề gọi, nếu quả ông đã có ngủ. Ở trạm Kingston họ vẫn ngồi yên trên tàu trong khi thiên hạ đi lên đi xuống, và ông bảo bà là chưa tới lúc. Đến khi đoàn tàu chuyển bánh trở lại thì ông giải thích với bà là toàn bộ khu vực xung quanh họ là một phức hệ đá vôi chồng chất lớp lang, lớp nọ nằm trên lớp kia, như một công trường xây dựng khổng lồ. Nhưng có một chỗ nó lộ ra, ông nói, và cô có thể thấy được những thứ khác. Nơi đó được gọi là Trục Frontenac-vốn là nơi mà Khiên Canada rộng lớn và xưa lắc xưa lơ đã trồi lên, khối nóng lỏng cổ xưa ấy cắt ngang qua tầng đá vôi, chảy tràn đi khắp nơi, làm xáo trộn hết mọi bước chân khổng lồ của thời gian.
“Kìa, kìa!” ông nói, và bà nhìn thấy chỗ đó. Thật là ấn tượng.
“Nếu có dịp đi ngang qua đây nhớ nhìn lần nữa nhé,” ông nói. “Ngồi trong xe hơi thì không thể thấy được gì đâu-vì xe cộ nhiều quá. Bởi vậy tôi mới đi xe lửa như thế này.”
“Cảm ơn anh,” cô nói.
Ông không trả lời mà lại quay đi, hơi khẽ gật đầu vẻ như chấp thuận.
“Cảm ơn anh,” cô lại nói. “Em sẽ nhớ.”
Gật đầu lần nữa, cũng chẳng nhìn bà. Quá đủ.
Vào lúc mà cái thai đầu tiên ấy đang tiến triển tốt đẹp, vào khoảng độ giáng sinh, thì Avie nhận được một lá thư ngắn của Grace.
“Mình nghe nói bồ đã lập gia đình và đang sắp có con. Chắc bồ đâu có biết là mình đã bỏ dở không học hết đại học, do bởi một số vấn đề tồi tệ về sức khỏe và thần kinh. Mình vẫn thường nghĩ về những cuộc nói chuyện của hai đứa mình và nhất là về giấc mơ mà bồ đã kể. Nó vẫn còn khiến mình sợ đến choáng cả người. Mến, Grace.”
Lúc đó Avie đã nghĩ tới cuộc nói chuyện với Marsha. Viêm ruột già. Giọng thư của Grace có vẻ mất quân bình, có vẻ như muốn van xin, khiến Avie lần lữa không trả lời. Bản thân bà lúc đó cảm thấy mình cũng tương đối hạnh phúc, với đủ mọi nỗi lo toan đời thường, rất khác với những gì mà họ đã từng nói về lúc còn ở đại học. Bà thậm chí cũng không biết liệu mình có thể trở lại đó được, hay tìm được cách để nói chuyện với Grace như bây giờ hay không. Và sau đó thì, đương nhiên là bà quá bận bịu.
Bà hỏi Royce có lúc nào nghe thấy tin tức gì của Grace không.
“Không, không hề. Có liên can gì tới tôi chứ?”
“Em chỉ mới chợt nghĩ ra vậy thôi.”
“Không có.”
“Em nghĩ có thể sau này anh đã đi tìm cô ấy.”
“Cái ý đó chả hay ho gì.”
Bà làm ông thấy thất vọng. Tọc mạch quá. Cứ lo đi tìm nỗi niềm tiếc nuối vấn vương bên dưới mấy cái xương sườn. Một người đàn bà.
Người dịch: Trần Đan Hà
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét