Thứ Bảy, 12 tháng 7, 2014

Tình Bidong








Khi tôi thức giấc bác Hải đã đi rồi vì tôi thấy xe của Bác không còn đậu trước sân. Tôi hỏi mẹ.

- Mẹ có thấy bác Hải hơi weird không?

- Kỳ cục như thế nào? Đêm qua con và bác thức khuya quá, to nhỏ cả đêm. Thế con có ghi nhận được gì để viết không?

- Weird ở chỗ bác thoa kem dưỡng da lên mặt lên cổ, cả bàn tay nữa. Móng tay của Bác cũng được cắt và sơn bóng nữa. Từ trước đến nay Bác là người đàn ông đầu tiên con biết làm đẹp kỹ như thế.

- Thoa kem dưỡng da thì có ăn nhằm gì. Chẳng những nhuộm tóc, bác còn cắt mỡ mi mắt, chích Botox, nip and tuck nữa chứ. Bác cố giữ cho trẻ mãi không già.

- Bác vẫn chưa lập gia đình hả mẹ?

- Chưa. Bác chẳng chịu ai mà cũng chẳng ai chịu Bác.



Bác Hải có họ hàng xa với gia đình tôi nhưng tôi chẳng biết quan hệ như thế nào. Người Việt tôn ti trật tự đủ thứ kiểu xưng hô, tôi chỉ biết Bác là uncle vì mẹ tôi bảo thế. Bác Hải tính ra có lẽ đã hơn sáu mươi, nhìn Bác khó mà đoán tuổi. Tóc bác đen nhánh nhưng đã thưa. Da mặt Bác không có nếp nhăn nhưng không còn trẻ khỏe. Bác trắng đến nhợt nhạt, tuy thế nhìn Bác vẫn thấy được một người đã có một thời tuấn tú. Trông Bác tôi tưởng tượng Keanu Reeves khi về già cũng sẽ giống như Bác. Tôi muốn tìm hiểu về boat people, về cuộc sống của thuyền nhân ở trại tị nạn. Mẹ tôi không muốn nói chuyện quá khứ, “vì nó u tối, buồn bã, và mẹ không đủ tiếng Anh để nói.” Mẹ đề nghị tôi nói chuyện với bác Hải vì chẳng những Bác đã từng sống ở đảo Bidong, Bác còn có thể kể có ngạnh có nguồn vì bác thường hay viết văn viết báo. Tối qua bác Hải đến thăm gia đình tôi và mẹ tôi mời Bác ăn cơm tối.



Bác Hải ra sân sau ngồi hút thuốc. Tôi giúp Mẹ sắp chén đĩa vào máy rửa chén. Sau đó tôi mang chai wine còn hơn phân nửa ra ngồi nói chuyện với Bác. Để tránh muỗi tôi nhóm lửa trong cái chậu sành to, và để có thể ngồi lâu, tôi mang ra lạc rang và mực sấy. Bác Hải ôm cây đàn gỗ của tôi khảy chập chùng một bản nhạc quen thuộc.

- Bài gì thế bác?

- Biển Nhớ.

Bác rít một hơi thuốc. Đốm lửa làm mặt bác ửng hồng trong bóng tối. Sau lưng bác là rừng, mấy bụi hoa kim ngân vừa bắt đầu nở, hương thơm dìu dịu trong đêm hè. Đom đóm bắt đầu bay lập lòe.

- Chắc Bác có nhiều kỷ niệm với bài hát này, nhất là thời gian bác ở đảo Bidong? Cháu muốn tìm hiểu về cuộc sống của những người ở đảo bác có thể kể cháu nghe không?

- Chuyện dài lắm kể bao giờ cho hết. Những chuyện thật sự đáng kể lại cho con cháu nghe là những chuyện đã nằm dưới lòng biển sâu. Còn chuyện của bác thì chỉ là kỷ niệm riêng tư nhỏ bé.



Bác Hải kể. Tôi chép lại trí nhớ của bác Hải theo trí nhớ của tôi. Nếu đây là một câu chuyện có thật thì sự thật này đã bị méo mó theo thời gian và trí nhớ của người kể cũng như người nghe. Tôi tên là David, sinh năm 1981.



*****



Bidong là một hòn đảo nhỏ ngoài khơi Mã Lai, diện tích chừng một kí lô mét vuông. Cuối thập niên bảy mươi đầu thập niên tám mươi, có lúc đảo chứa độ bốn mươi ngàn người tị nạn. Có khi hơn. Mật độ đông người hơn cả Thượng Hải hay thành phố New York gấp mấy lần. Đi đâu cũng thấy người chen chúc. Đảo được chia ra nhiều khu. Khu A, B, C, và D có bãi biển cát trắng, cạn và lài có thể tắm được. Khu A và B có chỗ cho tàu chở người tị nạn, xà lan chở thức ăn và thuốc men cập bến. Dọc theo bãi biển khu A và B, dẫn đến chỗ ở của Cao Ủy có hàng dừa rợp bóng. Dưới hàng dừa này người ta họp chợ bán cá tươi mới vừa lưới được. Trên đảo có bệnh viện do các bác sĩ ngoại quốc và Peace Corp đến giúp. Khu C và D có nhiều hàng quán cà phê, cửa hàng bán vải. Trên đảo có chùa, nhà thờ, thư viện chứa một số sách tiếng Anh, và một xưởng kỹ thuật dạy nghề cho dân sống trên đảo chờ ngày đi định cư. Dù cuộc sống tạm bợ và thiếu thốn, người tị nạn cố gắng thiết lập một xã hội nho nhỏ mô phỏng cái xã hội miền Nam họ vừa bỏ lại sau lưng.



Từ ngoài khơi nhìn vào, đảo được viền bằng những cái hộp vuông nhiều màu phần lớn là màu xanh. Xanh dương đậm ngã sang tím sẫm, xanh nước biển, xanh aqua, xanh turquoise, xanh da trời, xanh trứng sáo, và xanh của lá cây đậm nhạt. Lên đảo mới thấy đó là màu của những tấm vải bạt bằng nhựa dày, mái che những túp lều cất bằng cành cây, gỗ vụn, và tre của người tị nạn. Đa số những túp lều này là những căn nhà sàn cách mặt đất chừng một thước nước mưa nước biển và cũng để tránh chuột.



Khu F ở tuốt trên cao, gần đỉnh của đảo. Đó là một dãy nhà dài vách gỗ mái tôn, ngăn ra thành những căn nhỏ, đủ cho một gia đình. Mỗi căn có một gác lửng và một cái divan ở tầng dưới. Dãy nhà dài này chưa hoàn tất khi tôi đến nhà không có điện, phía sau nhà vẫn chưa được lắp gỗ nên có thể nhìn thấy những căn nhà phía dưới. Trước nhà, chỗ đáng lẽ là sàn gỗ thì chỉ có mấy cái khung và nền đất. Vài tháng sau chúng tôi có điện khi trời vừa sụp tối và điện sẽ cúp vào giờ đi ngủ. Trên đảo chẳng mấy ai có đồng hồ hay chú ý đến thì giờ. Bây giờ nhớ lại có lẽ khoảng mười giờ tối thì cúp điện.



Tôi được cho ở căn thứ nhì của dãy nhà dài thứ nhất kể từ đỉnh đồi đếm xuống. Căn thứ nhất có tấm bạt che làm cửa nhà của cặp vợ chồng trẻ. Anh chồng gốc Hoa con nhà giàu, chị vợ là vũ nữ được anh trốn nhà dẫn đi. Căn thứ nhì của hai cô gái đến trước tôi. Căn thứ ba của một nhóm thanh niên rất đông. Họ có thể chia thành những nhóm nhỏ và dọn sang những căn bên cạnh nhưng họ thích ở chung với nhau. Đứng ở cửa tôi có thể nhìn thấy con đường đất nhỏ đủ một người đi. Con đường nằm trên cao hơn cửa vào nhà chừng hai ba bước chân. Bên trên, đi một đỗi nữa mới đến đỉnh đồi. Chung quanh vẫn còn rừng với rất nhiều cây cao.



Hai cô gái đến trước tôi chiếm căn gác, còn tôi ngủ ở divan tầng dưới. Mấy hôm sau một cô dọn nhà xuống khu C ở chung với người yêu. Khu C ở ngay dưới chân đồi. Đứng ở sau nhà tôi có thể nhìn thấy khu C, nơi đó có giếng nước ngọt nên nhiều người trồng được rau. Chẳng hiểu nhờ đâu mà có rau muống, còn rau dền dại thì mọc nhiều, chỉ cần tưới nước là có rau để ăn. Lang thang một vài nơi còn nhiều cây rậm rạp tôi thấy mấy cây muỗm trái thật sai. Những người không leo cây được nhặt muỗm rụng về ngâm muối hay nước mắm hay nấu canh. Cô gái ở lại, có lẽ trẻ hơn tôi. Cô có giọng nói rất khó nghe. Cô nói nhanh tôi chỉ nghe tiếng líu ríu trầm bổng như tiếng chim. Ban đầu tôi tưởng cô nói tiếng ngoại quốc, nhưng lắng tai nghe kỹ và khi cô nói chậm lạ, tôi đoán cô ở một nơi nào đó thuộc miền Trung. Tuy nhiên giọng miền Trung của cô không giống bất cứ giọng miền Trung nào tôi đã từng nghe qua. Cô có mái tóc rậm, những lọn tóc trên trán loăn xoăn, da sậm, thoạt nhìn trông cô giống thổ dân Phi. Tóc chỉ chấm vai, nhưng cô thường cột búi phía sau nên trông cô già trước tuổi. Khi tôi thắc mắc về thân thế cũng như giọng nói, cô trả lời một hơi như đã quen bị phỏng vấn như thế này:

- Em ở đảo Phụng Quì. Em đi chung với mấy người trên đảo ở căn bên cạnh. Tụi em ở cùng làng, cùng đảo, đi biển đánh cá từ khi còn nhỏ nên như là người trong gia đình. Anh tên gì?

- Hải. Còn em?

- Em tên Biển.

Cô cười. Nụ cười của cô làm tôi nghĩ cô vừa bịa ra cái tên để trêu tôi. Cô xưng em ngọt quá làm tôi thấy dạn dĩ hơn, nên ghẹo cô.

- Ừ! Anh cũng là Biển. Đây là biển lớn, đó là biển nhỏ. Cuộc sống ở đây như thế nào vậy em?

- Ở đây người ta phát gạo, dầu ăn, nước mắm, muối, đường, đậu xanh. Thỉnh thoảng có thịt gà tươi hay cá hộp. Kem đánh răng, xà bông, nhiều lắm xài không hết. Có người dùng kem đánh răng để gội đầu, cho mát. Có anh về đây ở chung đỡ sợ ma. Củi thì vào rừng nhặt cành cây khô.

- Ở chung với người lạ như thế này có phiền em không?

Cô hướng mặt ra cửa, tay dang ra chỉ về hướng bên phải.

- Trên kia có cái nghĩa địa chừng bốn năm ngôi mộ. Một chị treo cổ tự tử khi mới vừa lên đảo, một ông cụ bị dừa rơi xuống trúng đầu, còn mấy ngôi mộ kia em không biết. Người ta nói ở đây có ma. Không phiền đâu. Có anh đỡ sợ ma.



Độ hơn một tuần sau khi tôi dọn vào tôi bị đau mắt cấp tính. Trước khi tôi lên tàu cả Sài Gòn đang có dịch đau mắt cấp tính. Cả chuyến tàu tôi đi, khi lên bờ người nào cũng bị mắt đỏ. Có lẽ trẻ và khỏe mạnh hơn nên mãi hơn một tuần sau tôi mới bị đau mắt, nhưng bị rất nặng. Mắt tôi đổ ghèn, sưng húp. Từ trưa tôi đã bị sốt và đến tối thì run cầm cập. Chiều hôm ấy có cơn dông. Gió thổi thốc từ đằng trước ra đằng sau nhà, lộng mái rung rinh. Lúc mới lên đảo, tôi ngủ không cần đắp chăn. Những người đi trước có để lại cái chăn mỏng cũ sờn. Tôi chê dơ chê hôi không dùng. Biển nhúng khăn ướt đắp lên trán tôi. Trong cơn sốt, tôi cầm tay Biển thấy mát rượi. Tôi áp tay nàng lên má tôi. Người tôi càng sốt tôi càng run. Biển lấy mền đắp cho tôi. Tôi nói:

- Lạnh quá! Ôm anh cho ấm chút được không?

Biển lên divan ôm tôi. Gần sáng cơn sốt hạ đi tôi tỉnh giấc trong vòng tay Biển, người tôi lăn tăn cảm giác thèm muốn. Tôi vuốt ve lần lên ngực nàng và thì thầm:

- Cho anh nhé?

Biển không kháng cự khi tôi cởi áo quần của nàng. Tuy nhiên, dù rất thèm muốn thằng bé không chịu vâng lời tôi, nên hì hục mãi tôi vẫn không thể nhập vào bên trong của nàng. Có lẽ cơn sốt và nhiều ngày thiếu ăn khiến tôi yếu đi. Tuy nhiên vài ngày sau tôi lại gõ cửa vườn đào và lần này tôi thành công.



Dân Bidong có một câu nói lề: Tình Bidong có lít thì dông. Có lít tức là có tên trong danh sách (list) người đi định cư. Câu nói hàm ý tình yêu ở Bidong thường tan rã khi người ta rời đảo. Có danh sách đi định cư như là một cơ hội cho người ta cao bay xa chạy chấm dứt những ân tình giả trá. Thật ra, việc định cư nằm ngoài sự quyết định của hầu hết dân tị nạn. Nhiều khi đôi bên yêu nhau thành thật nhưng bị đưa đi định cư mỗi người một ngã. Rồi thì xa mặt cách lòng. Tôi không phủ nhận cũng có những trường hợp lừa dối.



Nghĩ cho cùng, Bidong là nơi thuận tiện để người ta yêu nhau. Nắng hạ ươm vàng, biển xanh bất tận, sóng hôn bờ cát trắng muôn đời. Thời giờ trên đảo có thừa, ngoài một số ít thời gian học Anh ngữ, lãnh thực phẩm, chờ đợi nghe tên mình trên loa phóng thanh để được Cao ủy phỏng vấn, người ta không có gì giải trí ngoài việc yêu nhau. Người ra đi lúc bấy giờ thường là những người trẻ và khỏe để có thể chịu đựng những ngày lênh đênh sóng gió trên biển và có thể gầy dựng tương lai ở xứ người.

Trẻ nên cơ thể phát triển, háo hức, thèm muốn, đòi hỏi. Thêm vào đó là thiếu vắng sự kiểm soát kềm chế của gia đình. Tôi với Biển, vừa là lửa vừa là rơm.



Tôi không phải là người lãng mạn thiếu thực tế. Gia đình tôi là công chức nghèo phải tom góp vơ vét hết tiền bạc trong nhà, thậm chí bán cả bát đĩa sứ, để cho tôi vượt biên. Tôi muốn dùng tất cả khả năng của tôi để kiếm sống và gửi tiền về giúp gia đình. Tôi không thể nghĩ đến tương lai xa vời trong lúc này. Điều quan trọng nhất là đi định cư càng sớm càng tốt, vướng vít thê nhi lại càng không nên.



Bidong, như Pleiku, đi năm phút đã về chốn cũ. Không tiền, xa gia đình, thì ai cũng thấy may mà có em đời còn dễ thương. Người ta chỉ khai thác mặt trước của đảo. Tôi dùng chữ mặt trước để chỉ phần đảo đối diện với đất liền của Mã Lai. Các khu A. B, C, D đều nằm ở mặt trước của đảo. Khu F ở gần chóp đỉnh của đảo. Nếu đứng ở khu F hướng mặt lên đỉnh đồi, khu G nằm bên tay trái, tôi không dám nói chắc nhưng đoán nó nằm ở hướng Bắc của đảo. Từ khu F có con đường núi dẫn khu G. Có rất nhiều nơi trên đảo không có người ở và không có đường đi. Tôi không còn nhớ chính xác vị trí nhưng có một nơi ở mặt sau của đảo, không được đặt tên chia khu, sau cơn mưa là xuất hiện ra một cái thác nhỏ tiếp theo dòng thác là một con suối nước rất mát và trong. Vượt qua đỉnh đồi khu F hướng về mặt sau của đảo là nơi có rất nhiều gành đá. Gió ngoài biển vào ngay mặt sau của đảo, nên gió mạnh, nhiều sóng lớn. Biển ở đây sâu người ta có thể từ trên gành đá nhảy xuống, hoặc chờ thủy triều lên ngồi trên gành đá thả chân xuống khuấy nước. Bên ngoài gành đá, không xa lắm, độ chục cái bơi sải là đến một hòn đá lớn hai ba người đứng lên được khi thủy triều rút. Khi nước dâng đứng trên gành đá có thể nhìn thấy hòn đá màu tím sẫm vì rong rêu và chung quanh hòn đá nước biển màu aqua vì ánh sáng mặt trời có soi tận đáy cát trắng. Nơi đây có rất nhiều cá đủ thứ màu, những con cá to chừng bàn tay bơi từng đàn.



Hôm ấy tôi đi bơi với Biển. Nàng mặc áo cánh màu sậm có hoa to, quần ngắn màu đen. (Cao ủy có nhiều quần áo cũ còn tốt, và những người biết may có thể đến xưởng may, sửa quần áo cho vừa người. Nhiều cô ăn mặc áo đầm và quần jean rất đẹp.) Biển nhảy xuống, thả ngửa bơi ra hòn đá. Cái áo trông quê mùa kín đáo nhưng khi thấm nước thì lộ liễu vô cùng. Hai trái ngực căng tròn trôi lấp lửng giữa những vòng nước tròn lan rộng ra, mặt trời sáng lung linh giữa những vòng tròn làm chói mắt. Tôi chỉ biết bơi chập chửng, kết quả của những ngày bơi chó trong hồ tắm với đám bạn học, nhưng những vòng tròn đầy mời gọi khiến tôi không thể nhịn thèm bèn lao theo nàng. Tôi tưởng tượng ở phía sau nàng, như hai con rắn biển giao nhau dưới nước. Không dễ. Khi tôi áp người nóng hổi vào phía sau nàng, Biển bơi ra xa. Dọc nước mãi cho đến khi chiều xuống, thủy triều lên, sóng đánh mạnh. Tôi bị sóng đẩy vào, lôi ra, dập tôi vào gành đá. Biển nói: sóng lớn, mệt rồi, thôi lên. Biển gối sóng leo lên gành đá dễ dàng, còn tôi loay hoay mãi không lên bờ được. Tay chân tôi cóng lại. Mặt môi tôi cũng tím đi. Biển lại nhảy xuống biển đỡ tôi từ phía sau, theo cơn sóng đưa vào, đẩy tôi lên gành đá. Mãi giúp tôi, những con hàu đóng trên gành đá cắt chân nàng chảy máu đầm đìa.



Một trong những cử chỉ yêu chìu của tôi mà Biển rất hài lòng là tôi thường mang nước giếng từ chân đồi khu C lên đỉnh đồi khu F cho nàng tắm. Nước giếng vừa mát vừa ngọt, chìu nàng cũng là chìu mình vì sau khi tắm nước giếng chúng tôi làm tình và ngủ rất ngon. Hình ảnh nàng tắm dưới ánh trăng trên đảo cũng là một hình ảnh rất gợi tình.



Biển là người xương to, có lẽ vì là dân làng chài nên cơ thể rắn chắc. Nàng không cao hơn tôi nhưng nhìn riêng người ta dễ có cảm giác vóc dáng nàng cao lớn hơn tôi. Có thể nói Biển không phải là mẩu người lý tưởng của tôi nhưng tôi tin tôi là mẩu người lý tưởng của nàng. Biển cho tôi cái cảm giác trong mắt nàng chỉ có tôi. Mỗi khi gặp tôi đứng chung với ai đó trên những con đường ở Bidong, mắt nàng như sáng lên và chỉ nhìn thấy tôi. Nàng yêu mến tôi một phần vì tôi đã làm thông dịch viên giúp những người đánh cá của đảo Phụng Quỳ ở kế bên.



Họ là một nhóm thanh niên đánh cá, cả chục người ở chung với nhau. Người lớn tuổi nhất tên là Nhất, chừng hai mươi lăm tuổi. Nhất chững chạc, có vẻ đầu đàn, khi anh nói những người kia vâng theo. Người nhỏ nhất là Chút, chừng chín tuổi. Họ ở cùng đảo Phụng Quỳ. Họ hiền lành, dễ thương, tính tình rộng rãi, nhưng họ hơi ồn ào và chửi thề dòn như bắp rang. Học vấn của họ rất ít. Nhất là người biết chữ nhiều nhất chỉ học hết lớp ba trường đảo. Họ nói cùng giọng với Biển và nhờ trò chuyện với Biển nhiều nên tôi hiểu được họ. Tôi thường làm thông dịch viên cho họ, vì những người thông dịch viên của Cao Ủy không hiểu cái tiếng Việt của đảo Phụng Quỳ. Với họ học tiếng Anh là chuyện rất khó khăn. Nhiều lần, anh Nhất nói đùa, “Phải chi anh Hải đi học giùm tui, tui đánh cá dùm anh.”



Để trả công tôi thông dịch, Nhất thường cho tôi cá. Ban đầu Nhất mướn thuyền của ngư dân Mã Lai. Mướn thuyền trả bằng cá. Dân Mã Lai biết mấy người ở đảo chẳng trốn đi đâu được nên bằng lòng cho mướn. Cá câu được, lưới được, họ đem bán, còn dư họ đem cho những người chung quanh. Nhất và các bạn dặn, đừng ăn những con cá màu, có vân hoa đẹp ở khu F, coi chừng ngộ độc. Họ thường câu loại cá có mũi kim dài độ hai ba tấc tùy theo cá lớn nhỏ, thân cá hơi dẹp và dài, có khi dài hơn một sãi tay. Cá có thịt trắng, trong xanh. Thiếu gia vị chỉ cần luộc cá cho chút muối, đôi khi nấu chung với muỗm hoang, vậy mà ăn rất ngon. Nhóm thanh niên đảo Phụng Quỳ được nhận đi định cư ở Úc. Họ rất sợ bị “xù” vì ít học và chỉ biết nghề đánh cá, nên được đi định cư họ rất mừng. Trước khi rời đảo họ tổ chức ăn mừng bằng cách đánh bài, uống nước lã, và ca hát và chửi thề rất nhộn nhịp.

Để tránh ồn ào, Biển rủ tôi đi ngắm trăng ở khu G. Đường đến khu G khó đi và người ta lại đồn đãi là ở đó có ma nên ban đêm chắc chắn là không ai đến. Biển khu G rất sạch, cát trắng có trộn lẫn nhiều mảnh vỏ sò, tuy đã bị sóng nhồi vỡ nát nhưng không đủ mịn. Những nơi không có vỏ sò thì lại có rất nhiều san hô trắng chìm lập lờ dưới nước. Không phải là chỗ tắm lý tưởng nhưng là chỗ ngắm trăng lên rất tuyệt. Tôi mang theo một cây guitar cũ của một thằng bạn đi định cư để lại. Dù tôi không giỏi đàn hát, nhưng có cây đàn cũng giúp không khí tăng thêm phần lãng mạn.



Đêm tháng Sáu, trời rất ấm và biển êm. Chúng tôi ngồi là một mõm đá, mặt phẳng rộng, nhô ra bãi biển. Bên trên cao hơn một chút có một mõm đá khác nhỏ hơn ngắn hơn, che mõm đá chúng tôi ngồi như một mái nhà. Biển nói:

- Tháng này, ở quê em trăng màu vàng sậm như mật ong.

- Anh tưởng mặt trăng chỉ sáng màu trắng thôi chứ.

- Không đâu anh, có một đôi lần trăng mới lên to, đỏ sậm như gạch nung rồi khi lên cao biến thành màu nâu.

Tôi đàn bâng quơ một vài bản vụng về, rồi cất đàn sang một bên. Chúng tôi ngồi im lặng bên nhau và có cảm giác thời gian như ngừng lại. Mặt trăng màu vàng sậm treo lửng lơ bên dưới những ngọn cây rừng và nằm mãi ở đó chứ không chịu lên cao.

- Em có thuộc bài hát nào về trăng không?

- Cô kia tát nước bên đàng, sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi.

- Hay đó. Câu này nói trăng có màu vàng nhưng không nói là vàng như mật hay vàng như đường mía.

- Ai mua trăng tôi bán trăng cho, trăng nằm yên trên cành liễu đợi chờ. Ai mua trăng tôi bán trăng cho. Chẳng bán tình duyên ước hẹn hò.

- Em có biết bài này của ai không?

- Không biết. Em nghe trong một bài hát. Anh biết không?

Tôi cũng không biết nhưng nói liều. Nghĩ rằng cứ nói một cái tên người nào đó thì cô gái dân chài này cũng chẳng biết đúng hay sai.

- Của Hàn Mặc Tử đó em.

- Anh giỏi quá ha. Em còn thuộc vài câu nữa, có mấy bà cụ trên đảo thỉnh thoảng hát ru trẻ con. Vầng trăng ai xẻ làm đôi. Nửa in gối chiếc nửa soi dặm đường.

- Câu này ở trong truyện Kiều. Các cụ xưa, cả mẹ anh cũng thế, hay đọc thơ Truyện Kiều, gọi là lẩy Kiều. Anh có biết hai câu này: Trăng nằm sóng soải trên cành liễu. Đợi gió đông về để lả lơi.

Hai câu thơ này gợi lên hình ảnh của xác thịt. Tôi ôm Biển, chúng tôi cùng quàng tấm chăn mỏng nàng mang theo. Thường khi Biển đáp ứng cơn ham muốn của tôi nhưng đêm nay nàng từ chối. Thôi anh. Em chỉ muốn ngồi chơi ngắm trăng. Tôi nói vào tóc Biển.

- Không làm tình cũng được, nhưng anh thích nhìn em khỏa thân giữa biển trăng. Em cởi áo quần cho anh ngắm rồi anh sẽ hát em nghe.

Nàng ngần ngừ một chút rồi cũng chìu ý tôi. Cởi quần áo, dường như Biển cũng cởi bỏ lớp vỏ của một cô gái làng chài. Nàng đá nước tung tóe. Nước biển ngời lân tinh lóng lánh giữa hai đùi. Trông nàng đẹp hơn bình thường, không biết vì tôi đã quen mắt với nàng hay vì ánh trăng giữa khung cảnh núi đồi và sóng biển đã mở đôi mắt tôi.

Tôi hát cho nàng nghe một bài nhạc Pháp tôi đặt lời Việt.

Nếu em sẽ ra đi, giữa nắng hạ lung linh. Khác gì em mang theo, cả bầu trời mông mênh. Và những cánh chim âu, gãy cánh trong mây sầu. Hạt tình vừa mới ươm. Tim đôi ta đắm say. Ngày vừa mới rạng đông. Đêm dài như dòng sông. Ánh trăng thề đứng yên. Lời tình ca triền miên …

Nếu em ở lại đây, anh dệt áo bằng mây, nhưng dứt áo ra đi, xin để lại tình yêu, vương trên những ngón tay và trên mắt môi cay…

Biển đấm nhẹ vào vai tôi. Thôi ông ơi, trước sau gì cũng phải đi. Nghe lời anh ở đây hoài có mà chết đói. Chúng tôi nằm úp thìa trên tảng đá nói chuyện vu vơ. Mặt trăng vẫn yên lặng với màu mật ong óng ả. Khi tôi thăm dò lần nữa thì Biển ưng thuận. Tôi yêu cầu:

- Yêu nhau xong rồi em đừng đẩy anh ra, cứ để yên trong đó nhé, anh thích thế.

Chúng tôi yên lặng yêu nhau. Biển không nói nhưng tôi nghĩ nàng biết tôi không thể cho nàng những thứ nàng mơ ước. Chúng tôi không thề thốt hứa hẹn điều gì. Khi hôn nàng, trên má nàng những hạt nước biển chưa kịp khô.



Khi tôi tỉnh dậy chân trời đã có ánh hồng. Xa xa những chiếc thuyền đánh cá của Mã Lai túa ra giống như những con chim én màu đen bay sà trên mặt nước. Không thấy Biển đâu, tôi chạy vội về căn nhà ở khu F thì hay tin Biển đã rời đảo Giọng hát của Lệ Thu với bài Biển Nhớ bay lãng đãng trên những ngọn cây cao còn ướt hơi sương. Dù đã nhiều lần nghe Lệ Thu hát trước và bài Biển Nhớ hầu như hàng ngày khi ở trên đảo, lần đầu tiên bài hát làm tôi chảy nước mắt.



Bác Hải ngừng kể, giọng nói có phần xa vắng. David, khơi lại ngọn lửa, rót thêm wine vào ly của ông Hải. Im lặng chờ đợi.



Tôi trở lại căn nhà ở khu F thấy có một tờ giấy gấp lại theo hình phong bì. Bên trong là một tờ giấy năm đồng Mã Lai và bốn câu thơ:

Thuyền về Đại Lược,

Duyên ngược Kim Long.

Đến đây chỗ rẽ giữa dòng,

Gặp nhau còn biết trên sông bến nào.

Bài thơ được viết bằng nét chữ ngay ngắn, đẹp nắn nót. Tôi đoán, Biển nhờ người nào đó viết dùm, chứ có lẽ nàng không biết mấy câu thơ này, vì chính tôi cũng không biết những câu thơ rất hay này. Tôi không nghĩ là Biển viết chữ thành thạo như thế dù tôi chưa hề nhìn thấy nét chữ của nàng. Ở câu thứ ba chữ nhòe đi như được viết trên giấy hơi ướt, tôi đoán là chữ giữa dòng, nhưng rất có thể đó là hai chữ của lòng.



Ngày được tin tôi được Mỹ theo sự bảo lãnh của chú tôi, hai đứa tôi nấu chè đậu xanh ăn mừng. Tôi viết cho Biển địa chỉ nhà chú tôi, cũng như địa chỉ nhà tôi ở Việt Nam. Dù chúng tôi chưa hề hứa hẹn chuyện lâu dài, tôi biết Biển mến tôi. Thật ra tôi còn nghĩ là nàng yêu tôi nhiều hơn tôi yêu nàng. Nếu muốn, chúng tôi có thể gặp lại nhau. Biển nói vì nàng ở đảo xa xôi, trên đảo không có Bưu điện, chưa có chỗ ở cố định ở Úc, khi cuộc sống ổn định sẽ liên lạc với tôi.

- Em sẽ viết thư cho anh địa chỉ và số điện thoại của em.



Sau khi Biển đi rồi, tôi ở lại Bidong thêm bốn tháng. Người Mỹ có câu sự vắng mặt làm tình cảm gắn bó hơn câu nói này đúng với tình cảm của tôi. Biển đi rồi nhưng hình ảnh của nàng càng ngày càng đậm nét và tràn đầy trong tư tưởng tôi. Những đêm khuya gió lộng tôi nhớ hai đứa ôm nhau đắp cái chăn vừa cũ vừa bẩn. Tôi dọn đến ở với đám bạn vì căn nhà trở nên trống vắng quá nhìn chỗ nào cũng thấy bóng dáng nàng. Có một kỷ niệm mỗi lần nghĩ đến là tôi buồn cười. Giữa trưa hai đứa tôi đang quấn lấy nhau, môi tôi dán chặt môi nàng để khóa khẩu, cố tránh gây tiếng động. Chợt Biển ngừng lại đẩy tôi ra. Ngó chung quanh chẳng có gì ngoài cái lon nhôm uống nước, nàng cầm lấy cái lon nhôm ném mạnh lên vách gỗ ngăn với căn gác của đám con trai đảo Phụng Quỳ. Thì ra đám con trai nhà bên cạnh biết những trò giải trí của hai chúng tôi nên lén xem qua khe vách.



Trước ngày tôi đi định cư tôi tình cờ gặp Thanh ở gần trường Huấn Nghệ. Thanh là một trong đám thanh niên đảo Phụng Quỳ, bị hoãn định cư vì trước ngày rời đảo đã đánh nhau với một người đánh cá Mã Lai. Trong khi các bạn Thanh đều được nhận đi Úc thì Thanh vẫn chưa biết sẽ về đâu. Tôi hỏi về cuộc sống của Thanh ở đảo Phụng Quì.

- Thanh có ở gần nhà Biển không?

- Không. Trước kia ba má chị Biển ở trên đảo nhưng sau đó dọn về Phan Thiết để chị đi học. Nhờ vậy mà chị được học đến hết lớp mười hai chứ nếu ở đảo chắc cũng chỉ học đến hết lớp hai lớp ba như tụi em. Chị Biển nhờ có học nên được phái đoàn cho đi Mỹ chứ không bị Mỹ xù như em. Chị giả bộ tên Biển để chọc anh chơi chứ tên thật của chị là Ngò, họ Bùi. Tụi em hay gọi chị là bụi ngò. Đưa tay mà ngắt bụi ngò. Thương anh đứt ruột giả đò ngó lơ. Chị nói đứa nào nói thật tên tau, tau xui ông nỏ lờm thông dịch cho tụi mi là tụi mi rồi đời, ở làm chúa đảo luôn.



Tôi ngỡ ngàng nhưng không muốn nói thêm vì sợ Thanh biết là tôi mù mịt về thân thế của nàng, thậm chí tôi còn ngờ là cô là người ít học, và hiểu lầm cả nơi định cư. Một phần Biển ít nói, một phần tôi ít khi ở nhà. Tôi chỉ về nhà để ăn ngủ và làm tình. Tôi mất liên lạc với Biển từ đó. Sang Mỹ tôi ở với chú tôi một thời gian. Hằng ngày tôi trông đợi một lá thư hay một cú điện thoại của cô nàng sống chung với tôi như vợ chồng suốt hai tháng trời ở Bidong. Theo đúng như lời Thanh nói thì Biển cũng ở Mỹ như tôi thì chuyện liên lạc thăm hỏi nhau không phải là chuyện khó. Thế mà nàng biệt tăm, như một cánh chim bay mất vào cuối trời.



Có lẽ nàng giận tôi. Có lần tôi rủ đám bạn đến nhà tôi ở khu F chơi. Biển chiên cơm mời tôi và các bạn. Chúng tôi đứng chung quanh bàn ăn, và chỉ có hai cái ghế, một cái dành cho Biển với tư cách chủ nhà. Tôi nghịch ngợm kéo lùi cái ghế trong khi Biển đang ngồi xuống làm nàng té ngồi trên đất. Biển cười gượng, ánh mắt nàng tối lại. Một lần khác tôi dẫn Hà về ăn chè đậu xanh Biển nấu. Hà là học trò tôi dạy kèm Toán Lý Hóa ở Sài Gòn. Biển dặn tôi về ăn chè đậu xanh Biển chờ. Hôm ấy tôi về trễ Biển đã đi ngủ sớm. Tôi biết nàng chỉ nằm im trên gác giả vờ ngủ. Tôi nằn nì mời Hà vào ăn chè dù cô học trò nhỏ nhắn và xinh xắn ấy từ chối mãi. Ăn xong tôi đưa Hà về. Đêm đó khi tôi đòi yêu, Biển chìu tôi trong im lặng. Tôi có cảm giác má nàng ướt không phải chỉ bởi mồ hôi của đêm hè trên đảo. Cũng có thể nàng giận vì đêm cuối cùng ở biển, trong lúc tâm tình tôi tò mò hỏi, trong chuyến đi nàng có bị hải tặc xâm phạm không? Biển làm thinh rất lâu không trả lời mà nói sang chuyện khác.



Tôi chờ cú điện thoại của Biển, hay lá thư của nàng kể từ khi tôi sang Mỹ. Một tuần, rồi một tháng, rồi một năm. Năm năm. Mười năm. Ba chục năm. Càng lâu ngày, nỗi chờ đợi càng nung nấu trong tôi. Đi đâu tôi cũng lục trong quyển điện thoại niên giám tìm tên nàng. Ở bất cứ nơi nào có người Việt tôi đều để ý tìm kiếm một bóng dáng, một mái tóc, cái eo, và bờ vai giống với Biển trong trí nhớ của tôi.



Không ngờ, mấy chục năm sau nhìn lại, chuỗi ngày ở đảo Bidong là thời trăng mật hạnh phúc nhất đời tôi. Thời gian trôi qua, tôi quen người khác, nhưng không bao giờ tôi có lại niềm vui, hay sự thỏa mãn tưởng có thể chết ngất đi trong cảm giác của những ngày xưa ấy. Tôi tìm kiếm trong những người đàn bà có dáng dấp của Biển sự hưởng thụ lạc thú một cách carefree như nàng, hưởng thụ mà không đòi hỏi một sự đền đáp hay ràng buộc. Tôi cố tìm lại cái cảm giác hai cá thể nhập thành một giữa không gian hoang dã với vầng trăng màu mật, sóng biển có lân tinh, trong tiếng sóng vỗ vào gành đá của mấy chục năm về trước. Thời gian càng trôi qua tôi càng gán tặng cho Biển những đức tính và cái đẹp mà trước kia tôi không nhìn thấy. Tôi không tìm thấy ở những người đàn bà đến với tôi sau này, cái nhìn dành cho tôi đầy say đắm và ngưỡng mộ như Biển. Một trong những bức ảnh tồn tại trong trí nhớ của tôi là Biển nằm nghiêng mặt trên divan,tóc xỏa, một chân co lên đến ngực, lặng lẽ ngắm tôi cười đùa ca hát với đám bạn. Ngày ấy tôi thấy Biển là một cô gái si tình trong im lặng. Năm đồng Mã Lai Biển để lại cho tôi, tôi lộng kính để dành. Tờ giấy chép bốn câu ca dao được cất chung với giấy tờ quan trọng như giấy thông hành, giấy chủ quyền nhà và xe. Tôi cố bảo toàn hình dáng để nếu có khi nào gặp lại nhau trên đường phố Biển có thể nhìn ra tôi ngay tức khắc.



Tôi kể lại vắn tắt những chuyện bác Hải kể đêm qua.

- Theo lời Bác kể thì đảo Bidong rất đẹp và thơ mộng, chứ không bẩn thỉu tồi tệ đầy rác rến, kém vệ sinh như con đã nghe nói. Theo Bác, Bidong đầy hạnh phúc như một thiên đường, như một chỗ hưởng tuần trăng mật chứ không phải là trại tị nạn. Tôi nói.

- Hạnh phúc là cái nhìn tương đối. Với những người đàn ông trẻ tuổi thời ấy, thoát cuộc sống nghèo đói ở VN, thoát cảnh bị bắt đi nghĩa vụ đánh Kampuchia và Trung quốc, thoát cảnh bị bắt đi thanh niên xung phong, có cơm đủ ăn có mái nhà che trên đầu, nhất là có một cô gái để ôm ngủ mỗi đêm thì dĩ nhiên thấy cuộc sống là hạnh phúc. Mới chui ra từ địa ngục thì đâu cũng là thiên đường. Vả lại ai cũng biết những khổ sở ở trại tị nạn chỉ là tạm thời. Được đi định cư ở nước ngoài, được đi học Đại học, được sống tự do không sợ tù tội hay chết chóc, là tương lai tươi đẹp. Theo mẹ, chưa chắc là bác Hải yêu cô gái ấy, Bác yêu hình ảnh của Bác trong đôi mắt của cô gái ấy. Mẹ nghĩ là nếu bây giờ người đàn bà ấy đứng ngay trước mặt Bác chưa chắc Bác đã nhìn ra. Khi Bác đi tìm, Bác tìm một cô gái trẻ lúc tuổi đôi mươi, nhưng cô gái ấy bây giờ ít ra cũng hơn năm mươi, tóc đã hai màu, nặng hơn ngày xưa cả chục kí. Mẹ ngạc nhiên là Bác không hề tự hỏi, liệu cô ấy khi rời đảo có mang trong người đứa con của Bác? Có lẽ cô gái ấy, bà ấy, là người khôn ngoan, biết người biết ta, nên không tìm cách liên lạc với Bác, để giữa hai người chỉ là một thứ tình Bidong có list thì dông.



Nguyễn thị Hải Hà

02-07-2014

Thế giới dạy dỗ con em họ như thế nào?





Featured Image: Robert Lang




“Ai làm chủ giáo dục người đó có thể thay đổi thế giới.” - Gottfried Leibniz

Chúng ta ai cũng biết tầm quan trọng của nền giáo dục từ ngàn xưa đến nay, bao gồm giáo dục con người, giáo dục nhân cách và tri thức, điều này ảnh hưởng vô cùng to lớn đến tương lai của không chỉ cá nhân đó mà còn ảnh hường trực tiếp đến tương lai của một đất nước và dân tộc anh ta. Giáo dục không còn là việc của riêng ai mà là công việc của toàn xã hội, từ gia đình, trường học đến những phong tục tập quán ngàn xưa cũng góp phần không nhỏ trong việc tạo nên nhân cách và thói quen của con người.

Giáo dục không chỉ là học tiểu học – trung học – đại học mà còn là những bài học dạy cho trẻ từ thuở lọt lòng. Mỗi quốc gia khác nhau thì có những nét đặc trưng khác nhau trong cách dạy con cái và giáo dục văn hóa cho các thế hệ tiếp nối. Chính điều đó đã tạo nên sự đa dạng và phát triển cho thế giới này. Bạn có bao giờ thắc mắc tại sao có nước thì hùng mạnh nước thì không, tại sao có những con người thích tạo ra cái mới còn những người khác lại chỉ thích ngồi đợi những cái mới ấy? Tại sao có người coi sách như vàng còn những người khác lại coi sách là thứ chỉ để bán đồng nát? Phải chăng tất cả đều bắt nguồn từ những suy nghĩ và nhận thức mà mỗi người đều mang sẵn trong đầu. Và nhận thức đó từ đâu mà có? Phải chăng tất cả từ sự giáo dục, dạy dỗ mà họ nhận được từ khi còn thơ bé và luôn mang theo bên mình cho tới khi chết đi?

Chúng ta biết và đều ngầm thừa nhận rằng hầu hết con người Châu Âu – Mỹ đều tự lập và mạnh mẽ, người Pháp luôn điềm tĩnh chỉn chu, người Nhật thì cực kỳ khuôn phép và người Israel lại tuyệt đối thông minh sáng tạo… Tại sao lại có những sự khác biệt đó?

Hãy nghiên cứu nền giáo dục của họ, cách họ dạy dỗ một đứa trẻ từ khi lọt lòng cho tới khi nhận thức và trưởng thành. Sau đó hãy tự so sánh với nền văn hóa, giáo dục của Việt Nam chúng ta. Tôi tin bạn sẽ nhận ra và học hỏi được nhiều điều thú vị.

Bài viết có thể hơi dài, hãy kiên nhẫn…
Dạy trẻ kiểu… Anh

Mẹ Anh đối xử rất tốt với con theo nhiều cách khác nhau. Hầu hết họ không quát con to tiếng mà sử dụng những từ ngữ rất tình cảm và không bao giờ nói những điều tiêu cực về con mình, kể cả bé có hư đến thế nào. Có một mẹ Việt đi dạo đến công viên và nói chuyện với một vài người mẹ Anh cũng đang ở đó. Mẹ Việt kể về con mình với những từ đại loại như: “Nghịch như quỷ, hư lắm, đến giờ cầm thìa còn như cầm kiếm….” Và họ nói với cô rằng: “Có lẽ chị chưa kể về con mình một cách tích cực rồi!” Câu nói vu vơ nhưng làm mẹ Việt vô cùng xấu hổ. Cô chợt nhận ra nói đùa về con mình không làm cho vấn đề trở nên hài hước mà thậm chí biến cô thành một người mẹ tồi. Trong khi mẹ Anh luôn rất chu đáo, lịch sự và tôn trọng con mình. Ở những nơi công cộng, bến tàu điện ngầm, siêu thị, trong nhà hàng… nếu lớn tiếng mắng hay phạt con, bạn sẽ nhận được những ánh mắt như thể đang.. bạo hành bé vậy.

Mẹ Anh không bao giờ cạnh tranh hay dè bỉu nhau chuyện nuôi con. Thậm chí các bà mẹ thường xuyên chia sẻ về những điều vụng về của mình: “Sáng nay hết bánh mì nên cho con ăn khoai tây chiên vậy.” Những chia sẻ như thế thường nhận được rất nhiều đồng cảm của các bà mẹ khác. Tất cả những điều đó cũng chỉ để cho thấy rằng mẹ Anh không quan trong phải gồng mình thành những bà mẹ hoàn hảo.

Một bà mẹ Việt được mời đến gia đình người Anh dự tiệc Giáng Sinh, buổi tiệc rất đông con nít. Một cô bé mới 20 tháng tuổi tên là Ely, vừa đến là thích thú ngay với con heo bằng bông to đùng, nhấn vào mũi thì phát ra nhạc. Con heo đó thuộc ‘quyền sở hữu’ của một cô bé 10 tuổi khác, cũng là con cháu nhà đấy. Ban đầu, bé lớn sẵn lòng cho bé nhỏ mượn chơi, nhưng sau khoảng 30 phút thì bé lớn đòi lại. Lập tức, bé nhỏ khóc ré lên, lao về phía mẹ mình, chỉ tay về con heo. Mọi người trong nhà đều hiểu con bé muốn gì nhưng không một ai bênh vực bé cả. Mẹ của bé bế bé lên và chỉ cho bé những món đồ chơi khác, đứa bé vẫn khóc la nhưng mẹ bé kiên quyết không chiều theo.

Cuối cùng sau 10 phút, bé cũng quên con heo và bắt đầu chơi những món đồ chơi mới. Mẹ Việt thủ thỉ: “Ely ngoan quá! Nhưng sao chị không kêu Florence đưa con heo cho Ely, được vậy thì Ely đã không khóc lâu như thế!” Chị ấy mỉm cười giải thích: “Ồ, không nên chút nào! Đó vốn không phải là đồ chơi của Ely mà là của Florence. Florence đã cho mượn 30 phút, nếu Florence muốn lấy lại cũng là hợp lý! Quan trọng hơn là không nên tập cho trẻ con, dù còn rất nhỏ tuổi thói quen ĐÒI GÌ ĐƯỢC NẤY, NHẤT LÀ NHỮNG ĐÒI HỎI VÔ LÝ như vừa rồi!” Vậy mới thấy, mẹ Anh dạy con rằng không phải cứ nhỏ hơn là có quyền được ưu tiên mọi thứ.
Dạy con kiểu Đức

Dạy con từ thuở còn thơ, câu tục ngữ này không sai một chút nào nhưng dạy như thế nào mới là điều quan trọng. Mẹ Đức dạy con từ từ vựng đầu tiên mà các bé thực sự hiểu, đó là từ “không”. Khi nói “không” với bé, mẹ Đức nói rất nghiêm túc, rõ ràng để bé hiểu được đúng nghĩa của từ này, sau đó là giải thích tại sao bé “không” được phép làm. Bé chưa hiểu gì nhiều nhưng từ “không” được lặp đi lặp lại nhiều lần bé sẽ quen, bộ nhớ của trẻ như một cái tủ rỗng, từ “không” là thứ đồ đạc đầu tiên được đặt vào. Nên các bạn thấy, trẻ em phương Tây chơi chung với bạn rất tự giác và độc lập, chỉ cần nghe mẹ nói “không” là bé tự ý biết mình không được phép làm việc đó.

Đối với trẻ lớn hơn, chúng bắt đầu hình thành tính cách cá nhân nên chúng có lý lẽ của chúng để tránh từ “không” của bố mẹ. Trong trường hợp này cần đến đàm phán và thương lượng. Mẹ Đức giải thích lý do tại sao một cách cặn kẽ cho bé, vì dù sao bé cũng nên biết cái vạch giới hạn của bố mẹ đề ra. Đặc biệt khi mẹ nói “không” thì bố cũng phải đồng tình và ngược lại, vì bé sẽ cầu cứu người thứ ba. Để cho bé biết rằng điều đó được sự nhất trí của bố mẹ thì bố mẹ phải phối hợp ăn ý, khi không cầu cứu ai được nữa bé sẽ hiểu: À, mình “không” được phép làm thật rồi.

Phương châm của các bậc cha mẹ người Đức là làm bạn của trẻ để tìm phương án giải quyết tốt nhất, đừng cho rằng bố mẹ luôn luôn đúng và bắt buộc con luôn làm theo ý mình, điều này hoàn toàn sai lầm. Bố mẹ cũng phải tôn trọng ý kiến của con cái khi con nói “Không”.

Mẹ Đức cho rằng, mỗi đứa trẻ phát triển theo cách riêng của chúng nên họ không quan tâm nhiều đến chuyện cân nặng, chiều cao và nhất là không đem con mình ra so sánh với những trẻ khác. Điều này vừa khiến cho bố mẹ bận tâm suy nghĩ vừa thể hiện sự bất công đối với trẻ, khiến cho trẻ cảm thấy mình kém cỏi so với bạn bè.

Đối với người Đức, trẻ em cần được học tính tự lập từ rất sớm, ngay từ việc nhỏ nhất. Ví dụ, khi mẹ làm cái gì nên cho bé đứng hay ngồi bên cạnh xem cùng hoặc hướng dẫn cho bé làm cùng, đừng nói: “Con không được sờ vào, để mẹ làm một loáng cho nhanh.” Mẹ làm thì nhanh thật nhưng bé sẽ không học được gì nếu bố mẹ cứ làm hộ mãi. Khi nấu cơm hãy cho bé đong gạo, giặt quần áo hãy để bé tự cho quần áo của nó vào máy giặt. Dọn nhà hãy đưa cho bé một cái khăn và khoanh vùng, đây là vùng của con. Đặc biệt rác phải được bỏ vào thùng rác. Trẻ em học rất nhanh và nhớ lâu, chỉ cần hướng dẫn một lần, lần sau bé sẽ nhớ và tự ý thức được việc đó phải làm như thế nào.

Nhiều người cho rằng không nên cho trẻ con tiêu tiền sớm, vì tiền thúc giục bản năng xấu xa của con người. Người Đức dạy cho trẻ em cách tiêu tiền từ rất sớm. Người mẹ cho con một đồng và nói, con chỉ có một đồng thôi, nếu con mua kẹo thì con sẽ không được chơi ô tô, và nếu con chơi ô tô thì con sẽ không mua kẹo. Mỗi khi cho con đi mua đồ cùng, bé được phép chọn đồ và khi mẹ nói không được, cái này đắt quá, con chọn thứ khác đi, thứ nào rẻ hơn ấy. Lúc đầu bé không làm theo mà nằm ra đất khóc ăn vạ. Mẹ mặc kệ đẩy xe đi, bé khóc chán thì đứng lên chạy theo mẹ, nhiều lần như thế sẽ quen, để làm được việc này người mẹ cần phải rất kiên nhẫn.

Mỗi khi mua cái gì cho bé thì mẹ đều đưa tiền cho con trả kèm theo: “Con không được phép mang vật đó ra khỏi cửa hàng mà chưa trả tiền, như thế là không tốt, là phạm pháp.” Sau rất nhiều lần như thế bé sẽ biết: À ha, phải trả tiền trước khi mang đồ đi. Phải cho trẻ biết giá của đồ vật ấy là bao nhiêu, có hợp với túi tiền nhà mình không. Không dạy cho trẻ cách “có tiền ta mua được tất cả”, hoặc chúng đòi cái gì cũng mua với ý nghĩ con mình không thua con hàng xóm được. Điều ấy tạo cho trẻ sớm có tính đua đòi, tồi tệ nhất sẽ dẫn đến ăn cắp. Trong một đám bạn chơi chung, nhưng khi ra về đồ chơi của bạn nào được trả về đúng cho bạn đó.
Còn mẹ Pháp dạy con như thế nào?

Họ cho rằng, làm cha mẹ tốt không có nghĩa là phải thường xuyên phục dịch con cái của mình. Có lẽ vì vậy, người mẹ Pháp lúc nào cũng chỉn chu, sang trọng. Không bao giờ chúng ta thấy cảnh họ phải tất tả vì lũ trẻ. Mẹ Pháp để con cái tự phát triển là chính.

Thực ra, họ không hoàn toàn để mặc con cái mình. Họ giải thích rằng, họ không muốn lúc nào cũng bao bọc con cái, biến chúng thành những con thú nhồi bông. Họ hướng cho bọn trẻ tự do phát triển. Như vậy sẽ đỡ mệt mỏi cho bố mẹ, mà lại tốt hơn cho con cái.

Các bậc cha mẹ Pháp ít khi an ủi, dỗ dành con mình. Một ví dụ cụ thể là khi đứa trẻ gặp ác mộng, bà mẹ Pháp sẽ bình tĩnh nói với con mình rằng: “Cuộc sống này là thế đấy. Rồi con sẽ gặp nhiều chuyện kinh khủng hơn nhiều.” Và kết quả là, những đứa trẻ Pháp rất dễ chấp nhận và thích nghi với những điều tồi tệ của cuộc sống.

Liệu đó có phải lý do chúng ta luôn thấy người Pháp trong bộ dạng bảnh bao bình tĩnh, họ luôn điềm tĩnh một cách lạ lùng, cứ như thể chẳng có gì trên đời khiến họ phải bận tâm vậy. Điều đó vô tình tạo nên những người con Pháp vô cùng thanh tao và luôn luôn trầm tĩnh trong mọi hoàn cảnh, bởi vì họ biết rằng, chuyện gì xảy ra cũng là lẽ rất thường?

Một so sánh khác là trong khi cha mẹ Mỹ thường có xu hướng ca ngợi, để khuyến khích con mình mỗi khi chúng làm được điều gì đó, dù chỉ là rất nhỏ, thì mẹ Pháp lại bình thường hoá những chuyện đó. Thậm chí, khi đứa trẻ khoe một bức tranh vừa mới vẽ, họ có thể cười nhạo và đùa rằng: “Còn lâu mới được bằng Picasso!” Mẹ Pháp không quá chú trọng đến chuyện con mình phải học nhiều, biết nhiều. Họ không khuyến khích con cái đọc sách trước khi lên sáu tuổi. Thay vào đó, họ để trẻ tự do phát triển trí não với những trò chơi thông minh, phù hợp lứa tuổi. Họ luôn nhiệt tình khi nói chuyện với con và dạy chúng nhận biết thế giới xung quanh.
Cách người Do Thái dạy trẻ

Từ lâu người Do Thái được biết đến là “dân tộc thông minh nhất thế giới”, chỉ với hơn 13 triệu dân nhưng đã sản sinh ra hơn 30% chủ nhân giải Nobel của toàn cầu. Nhiều người nổi tiếng trong các lĩnh vực khác nhau là người Do Thái hoặc có gốc Do Thái như tỷ phú Warrant Buffet, tỷ phú George Soros, tỷ phú Abramovich (người Nga gốc Do Thái), Albert Einstein…

Dành thời gian lặn lội sang mảnh đất Israel xa xôi, chuyên gia Lại Thị Hải Lý – Sáng lập Tập đoàn Giáo dục và đầu tư VSK – phương án 0 tuổi tại Việt Nam là người đưa giáo dục sớm Do Thái về Việt Nam, đã đến nhiều trường mầm non và thăm các gia đình ở nước này, tận mắt tìm hiểu, lắng nghe cách dạy con và những bí quyết để có những thế hệ tài năng. Cô nhận xét: Người Do Thái yêu thương con với tầm nhìn xa, trông rộng… Bất cứ phụ huynh nào trên thế giới này đều yêu thương con cái nhưng với các bậc cha mẹ Do Thái luôn mong muốn tình yêu giọt máu đào, thấm sâu và nuôi dưỡng đứa trẻ nhằm đem lại lợi ích lâu dài cho con chứ không phải là tình yêu kiểu giọt nước mát thỏa mãn những nhu cầu tức thì của con. Người Do Thái muốn đào tạo những đứa trẻ bản lĩnh, mạnh mẽ trong cuộc sống hàng ngày.

Theo quan niệm của các cha mẹ Do Thái, phụ huynh 100 điểm không bằng phụ huynh 80 điểm. Chính họ cho rằng phải tránh 3 “không” gồm: Không thỏa mãn trước, không thỏa mãn tức thì và không thỏa mãn quá mức. Phần 20 điểm còn lại không phải là không yêu con mà điều đó ẩn giấu vào tình yêu lý trí, khoa học, nghệ thuật. Ở Israel, có những trường mang tên quý tộc. Tuy nhiên, điều đặc biệt là khi trẻ em học ở đây được rèn luyện nhiều về chỉ số vượt khó AQ. Học sinh sẽ trải qua thử thách kể cả những vất vả. Các phụ huynh Do Thái rất chú trọng dạy con về tính tự lập, trẻ em có được kỹ năng phục vụ bản thân từ rất sớm.

Nhiều phụ huynh Do Thái vẫn kể cho con về câu chuyện “Cà rốt, trứng gà, cà phê” để định hướng cho trẻ cách đương đầu với khó khăn thử thách, hoặc câu chuyện “con lừa thồ sách trên lưng” để nhắc nhở con về việc ứng dụng tri thức vào thực tiễn. Việc phát triển trí tuệ rất được người Do Thái quan tâm, điều này là nhờ thói quen và đam mê đọc sách. Ở Israel cứ 4.500 người sẽ có một thư viện với các đầu sách cực kỳ quá giá, cả nước có hơn 1000 thư viện công cộng. Chính vì vậy, trẻ con Do Thái thường chủ động đọc sách từ rất sớm, sách quý được truyền từ đời này sang đời khác, tủ sách thường được đặt đầu giường của các em.

Tại mỗi gia đình người Do Thái, phụ huynh luôn chú trọng việc dạy con làm việc nhà. Từ lúc 2 tuổi, các em đã phải bắt đầu học để tự làm mọi việc như tự xúc cơm ăn. Ở trường học thường xuyên tổ chức các chuyến thăm quan 1 ngày tới nơi làm việc của cha mẹ. Nhiều em đã chảy nước mắt vì chứng kiến cha mẹ là thợ dệt phải làm việc quần quật cả ngày bên máy khâu. Trẻ em Do Thái đều phải giúp bố mẹ làm việc nhà, kể cả những gia đình giàu có nhất. Sự nuông chiều vốn không phải là triết lý của người Do Thái, mà tình yêu của người mẹ dành cho con nằm ở khả năng tự lập và trưởng thành của người con sau này.

Câu chuyện về gia đình sư tử mà các phụ huỵnh Do Thái vẫn kể với mục đích để nhắc nhở cho mỗi người làm cha mẹ mang đến nhiều suy ngẫm cực kỳ sâu sắc. Chuyện là, có một bà mẹ sư tử nói sẽ dạy con đi săn. Hai anh em sư tử quá hứng khởi, chạy quá nhanh nên người anh lăn vòng tròn và bị thương. Sau đó, mẹ sư tử cho người anh ở nhà. Hàng ngày, mẹ và em sư tử vẫn đi săn mồi nhưng khi ăn không quên để phần cho người anh. Từ đó, anh sư tử sống trong sự thoải mái, hàng ngày được ăn mà không phải đi kiếm mồi. Cho đến khi trưởng thành, mẹ sư tử mất, lúc đó 2 anh em phải tự đi kiếm ăn nhưng rồi chúng lạc nhau, sư tử anh không thể kiếm nổi đồ ăn cho mình nên đói mà chết. Trước khi chết sư tử anh chỉ thốt lên một câu rằng: “Con hận mẹ.”

Đối với phụ huynh Do Thái, giáo dục con cách quản lý tài sản được thực hiện ngày từ khi trẻ còn bé. Một bà mẹ có con là triệu phú ở Israel cho biết, mục tiêu ban đầu không phải tạo ra triệu phú mà triệu phú là hệ quả tất yếu của quá trình giáo dục.

Theo Cựu Thủ tướng Israel, dân tộc này đã coi trí tuệ và nguồn nhân lực, 13 triệu người dân Do Thái trên toàn thế giới chính là tài sản lớn nhất của dân tộc. Tinh hoa của nền giáo dục Do Thái đã được đúc kết hàng ngàn năm qua Kinh Tohran và Kinh Talmudh, qua cách nuôi dạy con cái của các gia đình Do Thái. Đó chính là tính tự lập và khả năng sinh tồn. Theo triết lý của người Do Thái, chỉ số thông minh IQ chỉ chiếm có 20% trong bí quyết thành công, còn lại 80% nằm ở chỉ số vượt khó AQ và khả năng ứng dụng kiến thức và thích nghi với cuộc sống EQ.

Người Do Thái cũng sớm rèn cho con khả năng quản lý tiền bạc và dạy con hiểu về giá trị của đồng tiền từ khi các em còn rất nhỏ. Việc cho con sớm nhận biết với tiền là cách để các bậc phụ huynh Do Thái giúp con mình sớm hiểu được giá trị của lao động. Với trẻ em Do Thái, 3 tuổi được dạy cách phân biệt tiền và biết giá tri tiền, 4 tuổi được bố mẹ đưa tiền để dùng mua sắm những đồ đơn giản, 5 tuổi hiểu có được là nhờ lao động nên phải chi tiêu hợp lý. Từ 6-10 tuổi được bố mẹ cho số tiền lớn hơn một chút và học cách quản lý tiền, tài sản, khi trẻ 10 tuổi sẽ có tài khoản riêng. Thậm chí, tại nhiều gia đình Do Thái, khi con làm việc nhà có thể thưởng những khoản tiền nho nhỏ.

Ngoài ra còn có thể kể đến thuyết Thai giáo học “Thai nhi là thiên tài” và phương pháp giáo dục sớm 0-6 tuổi được lưu truyền lại trong kinh Tohran và kinh Talmudh của người Do Thái. Chính vì vậy, trò chuyện với thai nhi, vận động nhẹ nhàng, giải toán cho bà bầu,… là các cách đã được các bà mẹ áp dụng để nâng cao khả năng phát triển trí tuệ cho thai nhi. Các nhà khoa học cũng cho rằng con người chỉ sử dụng 3-5% tiềm năng của não bộ, còn ở thiên tài Albert Einstein là 10%. Chính vì thế, việc tìm ra khả năng sản sinh tối đa tiềm năng của não bộ sẽ là cách để tạo ra những thiên tài. Giống như việc các nhà công nghệ gen di truyền đã kích hoạt sự phát triển của cây cà chua bằng ánh sáng đỏ vào đúng thời điểm, khiến cây cà chua phát triển khổng lồ trên nền sa mạc.

Một sự kích hoạt não bộ của trẻ đúng thời điểm sẽ giúp sản sinh ra những thiên tài. Là một chuyên gia về Giáo dục sớm, bà Lại Thị Hải Lý đã áp dụng bí quyết của người Israel đối với cô con gái Bella, kết quả là bé biết nói từ lúc 6 tháng tuổi, 13 tháng tuổi đã biết đọc chữ và 15 tháng tuổi đã nói được 200 từ tiếng Anh, hiện giờ ở tuổi lên 4, bé đã có thể giao tiếp đơn giản bằng 6 thứ tiếng. Đại sứ Đinh Xuân Lưu và học giả Lại Thị Hải Lý hy vọng rằng tinh hoa của nền giáo dục Israel có thể được Việt Nam áp dụng để tạo đà cho một thế hệ trẻ Việt Nam trí tuệ cao trong tương lai.
Một chuyến “dự giờ” trẻ Nhật học mầm non

Mầm non tại Nhật là một hệ thống giáo dục có tính hòa nhập, các bé không phân riêng từng lớp mà học chung cả với nhau. Trước 9 giờ 30 sáng và sau 3 giờ 30 chiều, cả trường đều chơi chung. Trong sân, những đứa trẻ lớn cầm tay những đứa trẻ nhỏ, những đứa nhỏ đuổi theo những đứa lớn. Chúng chơi đùa rất vui vẻ, như thể anh chị em ruột.

Trong những trường mầm non ở Nhật, dường như họ không hề quan tâm đến việc dạy kiến thức cho bọn trẻ. Chúng không có bất kì quyển vở nào, chỉ có những cuốn phác thảo mỗi tháng một lần. Trong kế hoạch giáo dục của của nhà trường cũng không hề có những môn học như Toán, chữ kana (chữ Nhật), nghệ thuật hay âm nhạc. Và cũng không có cả Tiếng Anh hay những cuộc thi Olympia Toán học quốc tế. Họ cũng không dạy trượt băng hay bơi lội. Khi bạn hỏi họ dạy bọn trẻ những gì thì bạn sẽ không bao giờ đoán được câu trả lời: “Chúng tôi dạy bọn trẻ cách luôn luôn mỉm cười!” Ở Nhật, bạn ở đâu không quan trọng, bạn đang nói chuyện với ai không quan trọng, mà quan trọng nhất là bạn phải ‘luôn mỉm cười’. Một cô gái luôn mỉm cười là cô gái xinh đẹp nhất.

Ngoài ra họ còn rất nghiêm túc khi dạy bọn trẻ cách sử dụng hai câu nói thể hiện phép lịch sự căn bản: “Xin lỗi” “Cảm ơn”. Điều này thể hiện rõ thong cách phục vụ bữa trưa tại trường. Một vài em sẽ được chọn ra để cùng giáo viên phục vụ trà cho các bạn cùng lớp, trước khi ăn lũ trẻ sẽ cùng nhau hô to cảm ơn cha mẹ, nhà trường và cách giáo viên đã cho chúng một bữa ăn ngon và đôi khi nó sẽ được thay thế bằng một vài hát vui vẻ. Việc trẻ được chọn ra để phục vụ các bạn khác không được coi là việc vặt mà nó giống như một vinh dự, một điều rất đặc biệt mà đứa trẻ được phép làm. Và khi giúp các bạn khác ăn uống, các bé cũng được cảm ơn một cách lịch sự nhất.

Đặc biệt, trẻ học mầm non tại Nhật học rất ít, mà chỉ chơi là nhiều. Chỉ có 30 phút trước khi ra về là giờ hát tập thể và nghe cô giáo kể chuyện. Toàn bộ thời gian còn lại, các bé có thể chơi bất cứ trò gì mình thích trong khuôn viên nhà trường.

Trong trường, có rất nhiều thứ để chơi, từ trong nhà ra đến ngoài sân, ở ngoài sân có bãi cát, xích đu, cầu trượt, dây leo… còn trong nhà có các loại nhạc cụ, đồ chơi, gỗ, gối, gấu bông, búp bê, chăn, chiếu, băng dính, giấy màu… Rất nhiều thứ để chơi, và những loại đồ chơi này đều có đặc điểm chung là giúp trẻ phát triển trí thông minh và khả năng sáng tạo. Trẻ sẽ phải suy nghĩ, tìm tòi cách chơi, cách kết hợp những thứ có sẵn trong lớp học hoặc ngoài sân để có được những trò chơi thú vị. Các bé được tự do chơi và làm thứ mình thích. Các cô giáo hoàn toàn không can thiệp vào quá trình vui chơi của trẻ, chỉ đứng từ xa quan sát và hỗ trợ khi cần thiết.

Bọn trẻ được tham gia vô vàn các hoạt động dã ngoại và ngoại khóa cực kỳ thú vị: Leo núi, thăm cảnh quan tự nhiên, đền chùa, di tích lịch sử. Ngoài ra chúng còn rất nhiều những ngày hội thể thao, biểu diễn văn nghệ, tham gia các lễ hội và sự kiện cộng đồng, những buổi giao lưu và các hoạt động triễn lãm nghệ thuật khác nữa.

Chúng được dạy cách để luôn cư xử như những công dân mẫu mực và tự lập trong những hành động nhỏ bé nhất. Để giúp trẻ có tình yêu thương với động vật, cô giáo không nói “các em phải biết yêu thương động vật”, mà họ cho các bé tự nuôi và chăm sóc một loại động vật gì đó như: gà, chuột lang, thỏ, rùa, thậm chí là cả giun đất… mỗi một nhóm từ 4 – 5 em sẽ chăm sóc một con. Qua quá trình các bé ngày ngày chăm sóc thú cưng của mình, chơi đùa, trò chuyện, cho ăn, dọn chuồng… đặc biệt những khi thú bị ốm, tình cảm của các bé với các loài động vật sẽ dần được hình thành. Sau đó, cô giáo chỉ cần nói rất ít về tình yêu thương động vật mà trẻ vẫn hiểu được một cách sâu sắc.

Để giúp trẻ hiểu rằng không nên lãng phí đồ ăn, cô giáo không giảng “một hạt thóc vàng chín hạt mồ hôi, nên các em không được lãng phí…”. Các bé được trực tiếp trồng lúa hoặc các loại rau củ trong vườn cây hoặc bồn hoa của trường. Các bé sẽ tự gieo hạt, chăm sóc, cho tới thu hoạch, tất nhiên là vẫn dưới có giáo viên hướng dẫn nhưng chủ yếu là các bé tự làm. Qua đó, trẻ hiểu được để làm ra được một củ cải hoặc một củ khoai cho các bé ăn, các bác nông dân đã vất vả như thế nào.

Và đặc biệt, trẻ rất ham học, một cách tự nhiên chứ không hề gò ép. Các cô giáo giải thích rằng, nhắc nhở hoặc thậm chí là cả quát mắng đi chăng nữa thì cũng chỉ có thể khiến các bé im lặng trong ít phút, quan trọng là phải làm sao để khơi dậy được sự ham học trong trẻ. Trẻ em rất thích những điều mới lạ, nếu bắt các bé phải ngồi im trong lớp cả ngày thì lớp học sẽ trở thành một cái gì đó rất nhàm chán; ngược lại vì cả ngày đã được nô đùa chạy nhảy thoải mái rồi, do đó, với các bé việc học là một cái gì đó rất mới, rất hấp dẫn, rất thú vị (vì thật ra một ngày các bé chỉ ngồi trong lớp học có 30 phút), nên bé nào cũng háo hức và chăm chú lắng nghe. Các bé không phải học, mà là được học.
Cùng xem học sinh Mỹ học tiểu học

Có lẽ nhiều người trong chúng ta sẽ có cảm giác rằng, một học sinh học lớp 5, chuẩn bị tốt nghiệp tiểu học mà yêu cầu về năng lực toán học chỉ là biết cộng, trừ, nhân, chia, thì trình độ… thấp quá. Một cô giáo mẫu giáo người Trung Quốc về hưu thấy học sinh tiểu học Mỹ suốt ngày “chỉ biết chơi” thì không khỏi ngạc nhiên và lo lắng cho cậu cháu Hoa kiều ở Mỹ của mình. Bà nói với mẹ của cậu bé: Nếu là ở Trung Quốc, áp lực của học sinh chuẩn bị tốt nghiệp tiểu học rất lớn, cả ngày phải cắm đầu vào làm bài tập… Nhưng cháu tôi thì sao? Mỗi ngày tan học về là đi đá bóng, chơi bóng bầu dục cùng lũ trẻ… thời gian cho việc làm bài, tập đàn ít như thế, làm mẹ thì phải chú ý!

Người mẹ nói, thành tích của cháu ở trường hầu như là điểm A, trừ đôi khi ngẫu nhiên sai sót, nhiều lần cháu đem về toàn điểm 100. Đối với học sinh tiểu học ở Mỹ thì như vậy là đủ rồi. Giáo dục tiểu học không phải là giáo dục tinh anh, cần tạo điều kiện phát triển toàn diện cho trẻ, chú trọng việc kết bạn, vận động và những hoạt động ngoại khóa.

Đương nhiên, người bà của cậu bé vẫn không bằng lòng, bà nói bài giảng của Mỹ quá nhẹ nhàng, bài tập quá đơn giản, thì chắc thi cử cũng rất dễ dàng. Bà nhấn mạnh, người Trung Quốc chúng tôi coi trọng các nền tảng cơ sở vững chắc. Kỳ thực, người Mỹ cũng coi trọng việc xây dựng nền tảng.

Chỉ có điều cái gọi là “cơ sở” của người Trung Quốc và người Mỹ khác nhau. Người Mỹ coi trọng nền tảng làm người, quan niệm này đã được bồi đắp từ nhỏ. Cơ sở mà học sinh ở Mỹ cần tạo dựng là ý thức tự tin, thành thực, lương thiện, công bằng, bao dung và độc lập tự chủ để làm người, cũng có nghĩa là, ngay từ nhỏ, họ đã học được giá trị cơ bản của văn hóa Mỹ, chứ không phải là tri thức để phục vụ giá trị cơ bản này.

Một người cha Trung Quốc đưa cậu con trai chín tuổi tới Mỹ, cho con vào học một ngôi trường ở Mỹ thì trong lòng lo lắng vô cùng, không hiểu đó là trường học kiểu gì! Trong lớp học sinh tự do tùy ý thảo luận, có thể cười ầm ĩ; giáo viên và học sinh thường xuyên cùng ngồi bệt trên mặt đất không phân biệt lớn bé; vào giờ học mà cứ như đang chơi trò chơi; Ba giờ chiều đã là tan học; lại không có sách giáo khoa thống nhất.

Ông đem cho giáo viên xem bài học tiểu học lớp 4 mà con ông đã học ở Trung Quốc, giáo viên nói với ông, cho tới lớp 6, con trai ông không phải học thêm môn toán nữa. Lúc đó, ông bắt đầu hối hận vì đem con đến Mỹ mà làm lỡ việc học của con. Ở Trung Quốc, cặp sách của học sinh nặng trịch những tri thức, còn nhìn con mình bây giờ, mỗi ngày mang cái cặp nhẹ tênh đến trường, đi học như đi chơi. Một học kỳ nháy mắt đã hết, ông không khỏi nghĩ ngợi, hỏi con, ấn tượng sâu sắc nhất khi đến Mỹ học là gì? Cậu bé đáp: “Tự do.”

Lại một bận, cứ tan học, đứa trẻ lại chạy tới thư viện rồi mang một lô sách về nhà, thế mà chưa tới hai ngày đã trả. Ông lại hỏi, mượn sách nhiều như thế để làm gì? Con trai đáp: “Làm bài tập.” Sau đó, ông nhìn thấy tên bài tập mà cậu bé đang làm trên máy vi tính “Hôm qua và hôm nay của Trung Quốc”, ông kinh ngạc suýt ngã, đây là chủ đề môn học gì vậy? Thử hỏi vị nào đang làmtiến sĩ dám “ôm” đề tài lớn như thế?

Ông chất vấn con trai, đây là chủ ý của ai, cậu bé hồn nhiên đáp: “Thầy giáo nói, Mỹ là một nước di dân, mỗi học sinh đều cần viết một bài về đất nước mà tổ tiên mình đã sinh sống, còn phải phân tích sự khác biệt so với nước Mỹ dựa trên địa lý, lịch sử, nhân văn, đồng thời phải đưa ra quan điểm và cách nhìn của mình.” Người cha im lặng.

Mấy ngày sau, ông thấy bài tập của con trai đã xong, một tập gồm hơn 20 trang giấy, từ Hoàng Hà chín khúc đến văn tự tượng hình; từ con đường tơ lụa tới lá cờ ngũ tinh… Cả bài văn được viết với một khí thế hào hùng, có lý lẽ, có căn cứ, phân chương phân tiết, đặc biệt là một danh sách thư mục tham khảo ở phần cuối khiến người cha không khỏi bàng hoàng, cái cách thức của một luận văn tiến sĩ này, ngoài ba mươi tuổi ông mới học được.
Còn Việt Nam…

Không có gì nhiều để nói cả, tôi muốn bạn hãy tự cảm nhận và đánh giá cách giáo dục trẻ em của chúng ta. Tôi cũng không hề chê trách cách thức và phương pháp mà chúng ta đang dùng dạy dỗ con em mình, từ lọt lòng, mầm non hay tiểu học. Cũng như không hoàn toàn cho rằng cách họ dạy con trẻ là hoản hảo, toàn diện hay tuyệt vời. Tôi chỉ thật sự mong muốn chúng ta nhìn lại nền giáo dục và cách giáo dục của chúng ta hiện nay, có gì bất cập, thật ra là quá nhiều bất cập, cần có chút gì đó đổi mới, cần phải đổi mới. Để các thế hệ tiếp nối có nhiều cơ hội làm rạng danh nước nhà.

Một đất nước muốn thay đổi thì trước tiên phải thay đổi con người, nhất là thế hệ trẻ, thế hệ tương lai. Chúng ta có lẽ đều muốn nhưng sự thật là để thay đổi cả nền giáo dục là một điều cực kỳ khó khăn, vậy thì hãy thay đổi từng bước một, bắt đầu từ việc làm mới lại cách giáo dục mầm non toàn diện hơn nữa, hãy chú trọng giáo dục nhân cách trước rồi hãy nhồi nhét kiến thức vào sau. Mỗi người chúng ta cũng đừng phí thời gian chờ đợi các chính sách của Nhà Nước, mà tự mình, hãy chắt lọc tinh hoa của thế giới mà giáo dục con cái của mình, ngay hôm nay. Để một ngày kia, Việt Nam tự hào là thế hệ vừa tự lập và mạnh mẽ, vừa đạo đức và sáng tạo, vừa bản lĩnh và không ngừng vươn xa…

Vị của con gái


Vị của con gái



Có một thói quen thế này:

Ba cô gái: Nâu đá nhiều sữa, nâu đá ít sữa, nâu nóng cực ít sữa.

Tôi đã quen như thế với vị của các cô gái thường café phố cổ sáng thứ 7, mỗi người một vị và cùng thú thưởng thức từng giọt café chạm vào đầu lưỡi. Tôi vẫn thích cái cảm giác khó gọi thành tên đến thảnh thơi và quên đi mọi thứ xung quanh để chỉ tập trung vào cảm giác tận hưởng ngay lúc này. Vị cảm của từng thú vui cũng có khi được ví von với cách cảm về vị của con gái. Đỏng đảnh lắm, cá tính lắm, đáng yêu nhưng cũng có khi khó chiều, khó ưa lắm.
Con gái à, đổi vị thì sao nhỉ? Bất ngờ một sáng nào đó, tôi thích một ly đen nóng không đường?

Con gái hình như thường thích những gì mới lạ hơn con trai thì phải? Café ư… tùy địa điểm, tùy đối tượng để nàng gọi cho mình một loại đồ uống vô cùng nữ tính, điệu đà, độc đáo thay vì tính cách của con trai thường chỉ trung thành với một hoặc một vài loại đơn giản nào đó. Thế nhưng, con gái đôi khi cũng thích thử cảm giác mới của những vị mà nhiều người nghĩ chỉ dành cho con trai. Con gái nếu đi theo nhóm thì sẽ chẳng có đồ uống nào giống đồ uống nào, các nàng thích sự đa dạng cũng giống như vẻ phức tạp trong bản chất con người họ. Tùy cách con gái “chọn vị” – lấy ví dụ về đồ uống cũng như tôi gọi nhân hóa lên tất cả những gì tạo nên một con người mang tên “phái yếu”. Vị của mùi, của hình thức bề ngoài, của cách nói chuyện hoặc sâu hơn bên trong nữa là vị của tính cách, vị của tâm hồn. Mỗi sự lựa chọn và cách thể hiện của vị khiến cho người con gái ấy trở nên cá tính và cực kỳ đặc biệt như thế. Mỗi cô gái có một vị thú vị lắm!

Để viết về một người con gái, một người phụ nữ, một người đàn bà thì hẳn bạn đã nghe đến câu chuyện rằng tác giả sẽ mang đến cho bạn một tập rất dày nhưng chỉ toàn giấy trắng rồi chứ! Con gái vốn thế phải không – lúc thì ngây ngô đến dễ thương nhưng lúc thì phức tạp đến khó hiểu? “Cái cảm” của bản thân họ và “sự nếm” của người thưởng thức thường có sự pha tạp của sự hoài nghi khi người ta nghĩ về con gái. Đặc biệt với con trai, họ cứ tưởng dễ nắm bắt lấy một cô gái nhưng dường như vẫn có những lúc vắt tay lên trán than rằng, chẳng hiểu gì về họ cả. Đúng vậy đó, thực tế con gái là một giới tính trái dấu với con trai, cũng là con người có cách suy nghĩ, cá tính riêng; và chỉ có điều con gái có những cách thể hiện thế nào để phù hợp với người nếm trong từng hoàn cảnh.

Người phương Đông quan niệm có 5 vị cơ bản trong cách cảm nhận bằng vị giác: Mặn, ngọt, chua, cay và đắng. Sự cảm nhận của mỗi cá nhân về từng vị là khác nhau. Có người thích vị này, có người hợp vị khác, có người chịu được sự tột cùng trong giới hạn ngưỡng của vị đó, nhưng cũng có người đôi khi chỉ chạm vào vị đó để thưởng thức thêm cho đủ sự trọn vẹn của ngũ vị. Điều này hệt như cái cách chúng ta trải qua bất kỳ chuyện nào dù lớn, dù nhỏ trong cuộc sống. Liệu bạn có đủ tinh tế để cảm nhận: Đắng tượng trưng cho khó khăn ban đầu, cay tượng trưng cho sự nản chí, chua là sự thất bại, mặn là sự cố gắng, ngọt là sự thành công.

Từ những cung bậc cảm xúc và cách thể hiện ra bên ngoài khi đối diện với cuộc sống, mọi việc đều bắt đầu từ đắng, “thuốc đắng giã tật”, vượt qua đắng để mạnh mẽ hơn và cảm thấy ấm áp, nhẹ nhõm hơn khi nếm qua vị cay; nhăn nhó nhưng có lẽ sẽ dịu, thanh và chín chắn hơn khi vượt qua thất bại với vị chua; thêm vị mặn như một chất xúc tác để có thêm hứng thú, sáng tạo và thử thách để thấy rằng chẳng có gì là nhạt nhẽo trên cuộc đời này cả. Để rồi cuối cùng, vị ngọt luôn là cảm giác của sự chờ đợi nhất, ngọt vừa đủ, không quá để nếm từng giọt hạnh phúc của sung sướng, đón nhận niềm vui khi đã trải qua đủ cả đắng, cay, chua, mặn.
Tôi yêu những cô gái có vị ngọt nhưng lại tò mò về những cô gái có vị đắng

Đắng là vị nhạy cảm nhất trong các vị, của café, của socola, của bia. Đắng là vị phát hiện rõ rệt và là cảm giác của sự khó chịu. Đắng là vị khó kết hợp với tất cả các vị khác nhất. Đắng trong cảm nhận chưa quen ban đầu của một điều gì đó khó chạm tới. Những cô gái có vị đắng thường khoác lên mình một vẻ bề ngoài khó tiếp cận, một lối suy nghĩ không mấy dễ hiểu, đắng mà! Thế nhưng, phần thưởng dành cho những ai biết cảm thì sẽ thấy vị ngọt bí ẩn đằng sau một tách café đắng, vị ngậy bên trong thỏi socola nguyên chất và vị sảng khoái khi tận hưởng ly bia tươi đắng.

Sẽ thế nào nếu bạn là một cô gái có vị ngọt? Ngọt dễ làm ta liên tưởng đến một số tính từ như: xinh xắn, ngọt ngào, dễ thương, nhẹ nhàng… Vị ngọt thường được coi là mang đến cảm giác tích cực, thoải mái, dễ ưa nhưng đối nghịch với nó thì cũng dễ chán. Ngọt từ bên trong, sâu sắc một cách vừa phải và có chút gì đấy pha trộn của cay, chua, mặn nhé – sẽ là một vị của sự pha trộn hoàn hảo hơn. Thỉnh thoảng biến hóa và thử đổi vị xem sao?

Con gái à, bạn thấy mình có vị gì? Có bị quá đắng khiến mình trở nên khó chịu và bị tránh xa hay không? Quá cay đến xè lưỡi để bị ấn tượng không dám lại gần ở lần thứ hai? Quá chua đến đanh đá để người nếm phải nhăn nhó đến khó chịu và tẩy chay hay không? Quá mặn để đáng bị bỏ đi? Hay thậm chí quá ngọt để kích thích sự hưng phấn vượt quá ngưỡng cho phép hay không? Mỗi vị một chút, tùy theo hoàn cảnh để tự mình cảm nhận sự đa dạng và hoàn hảo trong tính cách của một người phụ nữ, trải nghiệm mọi cung bậc của cảm xúc, phù hợp trong cách thể hiện vị để người nếm luôn thích thú và mới mẻ với một người con gái đặc biệt.

Con trai à, gửi đến các chàng thông điệp về sự đa dạng vẫn luôn ẩn chứa ở những cô gái vẫn đang trải nghiệm để hướng đến vị ngọt thật sự nhé. Dành đủ thời gian để nếm trọn vẹn từng vị, không phán xét, không khó chịu có lẽ sẽ là giây phút thoải mái để hiểu rằng cuộc đời luôn mang đến đủ thứ, đủ loại người mà bạn cần và rồi sẽ có lúc bạn cảm nhận được vị ngọt ngay cả khi đang ngậm một thứ gì đắng nhất. Trọn vẹn trong sự cân bằng hoàn hảo!

Có nhiều cách để cảm nhận vẻ đẹp của một người con gái, qua vị có lẽ cũng là một góc nhìn mang tính cá nhân, cũng hấp dẫn đấy chứ nhỉ?



Bùi Phương Linh

Người nằm bên tôi


Người nằm bên tôi



Người nằm bên tôi buồn như bóng tối
trong ngác ngơ dội giấc lạc loài
tôi bình yên như vầng dương mới mọc
không dám hôn Người . . . sợ chạm dấu ăn năn

Người nằm bên tôi đẹp tựa mùa trăng
ảo ảnh vỡ tan tháng ngày cầm cự
ôm lặng im nghe tim mình tình tự
tôi không dám ôm Người . . . nhịp thở quá mông lung

Người nằm bên tôi giấc mượt êm nhung
nét mặt thánh trầm hồ như Đức Chúa
tôi nằm bên Người buồn nghiêng thập giá
muốn đóng Người vào nền nã hư hao

Người nằm bên tôi
Người nằm bên tôi
Người nằm bên tôi . . .

SaiGon 22.06.2014






Đêm không một mình



Đêm không một mình
Tôi nói chuyện cùng người nơi xa đã ngủ
Tự thú tôi yêu . . .

Tình tôi như cánh diều
vút lộng hồn gió
Hồ như hư vô đứng đó
Tôi mở trong tôi
một ngõ đợi chờ . . .

SaiGon 27.06.2014


Tác giả : Hà Duy Phương

Nếu nghĩ rằng Mỹ ủng hộ Việt Nam là hơi…lú




TT Obama gặp Chủ tịch TT Sang. Ảnh: Internet

Ngày 10/7, với 100% phiếu thuận, Thượng viện Mỹ thông qua Nghị quyết S.RES. 412 về Biển Đông, yêu cầu TQ quay lại nguyên trạng trước ngày 01/5/2014.

Dân Việt mừng húm, cuối cùng đế quốc Mỹ đã giúp…những người cộng sản Việt Nam. Giá Mỹ đưa Hạm đội 7, tầu sân bay vào biển Đông thì càng tuyệt. Nếu tiện, cho vài phát Tomahawk vào cái giàn khoan cho tiêu luôn. Hết lằng nhằng, dền dứ, dọa nhau.



Mừng thì có mừng, nhưng xin các cụ nhìn lại chút và bình tĩnh suy xét. Mỹ và Việt Nam có gì chung để giúp nhau nào.

Mỗi lần gặp nhau chỉ bàn cãi Nhân quyền, Dân chủ, Tự do, Tín ngưỡng… những giá trị phổ quát cả thế giới đồng ý, nhưng Việt Nam “một mình một ngựa”. Khi nào bị ép quá, thả vài tù nhân lấy lệ. Xong việc lại vẫn như xưa. Chả có đất nước nào hành xử kiểu mất lòng tin đến thế.

Chiều nay đi qua Nhà Trắng, mình gõ cửa Obama xem ý ủng hộ Việt Nam thế nào. Thấy mỗi chú chó Bo ra sủa “go go – gâu, gâu”, ý nói đi đi, làm gì có chuyện ngược đời thế. Lú mới nghĩ thế.

Thượng viện Mỹ làm việc này là vì quyền lợi của Hoa Kỳ ở biển Đông. Họ hiểu, không làm tới nơi tới chốn, sẽ có kịch bản Ukraine – Nga, cũng như nhiều xung đột khác trên thế giới.

Preventive measure – phòng bệnh còn hơn chữa bệnh, là thượng sách. Để xảy ra mới giải quyết thì quá muộn và tốn kém. Tốt nhất diệt từ trong trứng mầm mồng bành trướng của Bắc Kinh. Mỹ sợ nhất sau này vào thăm cảng Cam Ranh lại phải xin phép Trung Quốc.

Hơn nữa vụ Ukraine đã cho Mỹ bài học về cách dùng lạt mềm buộc chặt. Putin đang xuống thang vì bị cô lập, đánh Ukraine thì không được rồi, mà rút thì hèn. Tiến thoái lưỡng nan, cô lập về kinh tế và ngoại giao đang làm nước Nga mất đi hình ảnh đẹp, kinh tế suy thoái. Để tình trạng này lâu, Putin dễ về vườn đuổi gà cho vợ đã li dị. Ông vừa lật đật lên tiếng đòi cải thiện quan hệ với Mỹ.

Với Trung Quốc cũng thế. Thượng viện thông qua nghị quyết về biển Đông là màn dạo đầu cho những tính toán dài hơi của Hoa Kỳ.


Chú chó Bo của gia đình Obama. Ảnh: Internet

Người Mỹ nhìn hai anh em cộng sản như môi với răng, bỗng thành kẻ thù không đợi trời chung, mang thuyền đánh cá và tầu tuần ngư dền dứ nhau, như hai đứa trẻ mới lớn học đánh trận giả.

Thằng anh không ra hồn thằng anh, lừa dối có hạng. Thằng em cũng chẳng hơn gì, theo anh, trung thành tuyệt đối, ai nói xấu anh là không đựợc, coi như…trốn thuế và dùng bao cao su đã qua sử dụng.

Một hôm, thằng anh dở trò khốn. Em bị anh đánh, chẳng biết kêu ai, vì có chơi thân với ai bao giờ đâu, cứ nghĩ anh tao khỏe lắm, đố thằng nào dám sờ. Hóa ra anh tao mới là côn đồ chính hiệu.

Trong chính sách đối ngoại của VN, Mỹ luôn là đối tượng nguy hiểm, Trung Quốc là bạn. Trong hoàn cảnh ấy mà nghĩ Mỹ đứng ra bảo vệ VN là hơi…lú.

Chẳng qua, thấy cảnh đuổi nhau mà không bắn (no fire no fun), cao bồi ngứa mắt, đánh thì đánh luôn đi, kiểu ú tim gì thế.

Nếu Trung Quốc cho rằng biển Đông là của mình, Việt Nam “xâm lược” bằng tầu đánh cá, sao không bắn bỏ. Chẳng qua là nhận bừa, bắn chủ nhà thì rõ là ăn cướp còn gì.

Thằng em cũng thế. Là đất của mình, có trộm vào, sao không đập vào mặt, vả cho nó gẫy răng, mà lại bảo, gia đình anh em bảo nhau. Quốc gia gì mà yếm thế đến vậy, ai còn dám chơi. Người ta có thể giúp người yếu, không ai giúp kẻ hèn.

Chả biết các cụ thế nào, tôi nghĩ Mỹ chẳng ưa gì Việt Nam, nhưng thấy ngứa mắt do Trung Quốc dở trò bẩn ở biển Đông, để lâu phân trâu hóa bùn, quyền lợi Mỹ bị va chạm. nên cao bồi bỏ phiếu cái roẹt.

Không hiểu viết thế này thì Cua Times có…lú không?

HM. 11-7-2014

Thứ Hai, 7 tháng 7, 2014

Trí thức lưu manh hóa vì đâu?







Số liệu thống kê cho biết, cả nước hiện có hơn 9. 000 giáo sư, 24.000 tiến sĩ, 101.000 thạc sĩ và 2.700.000 cử nhân đại học (*). Một con số lý tưởng cho nền kinh tế tri thức.


Việt Nam hiện nay có nhiều điều kiện để trở thành nước có nền kinh tế phát triển như: nguồn lao động trẻ, vị trí đắc địa trong khu vực, tài nguyên khoáng sản dồi dào…, nhưng nước ta vẫn trong cái vòng luẩn quẩn của nghèo nàn, lạc hậu… Nguyên nhân chính là ở yếu tố con người, do đất nước chúng ta không tôn trọng giá trị con người, không tôn trọng trí thức đích thực.

Yếu tố con người chưa được quan tâm thích đáng trong khi đó là nhân tố chính cho sự hưng thịnh của một quốc gia. Một xã hội bảo thủ, trọng thành tích, hám danh, sĩ diện với bằng cấp thường dị ứng với sự sáng tạo, canh tân; lo lắng trước những tư tưởng cải cách và xa rời các tiến bộ khoa học kĩ thuật. Xã hội đó đương nhiên sẽ tụt hậu.

Vấn đề đầu tư vào giáo dục luôn quyết định hưng, suy của một quốc gia. Nền giáo dục của Việt Nam và cả xã hội Việt Nam làm nhân tài không có đất dụng võ. Với bằng cấp tràn lan, làm người Việt ảo tưởng về mình. Mỗi năm chúng ta có rất nhiều kỹ sư, cử nhân, tiến sĩ, giáo sư mới nhưng nền kinh tế của chúng ta lẹt đẹt. èo uột, đất nước chúng ta lạc hậu.

Con số lượng hùng hậu giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ, cử nhân đã nêu trên là con số lý tưởng cho nền kinh tế tri thức. Nhưng hiện vẫn đốt đuốc tìm lao động chuyên gia, thiếu hẳn những công trình khoa học – sáng tạo – sáng chế được ứng dụng vào thưc tiễn cuộc sống… Trong khi nền kinh tế sản xuất vẫn là nhân công giá rẻ, miệt mài với gia công phụ thuộc, công nghệ thì vẫn đang loay hoay ở trình… “sản xuất mì tôm”.

Người Hàn Quốc họ có quyền tự hào vì họ xây dựng được những sản phẩm mang tính thương hiệu quốc tế như: Sam Sung, Huyndai, Kia. Người Nhật có thể vỗ ngực tự hào với Sony, Toyota, Honda… Singapore có quyền hãnh diện về hàng xuất khẩu điện tử của mình ra khắp thế giới… Chúng ta không có một sản phẩm Việt sánh ngang tầm các nước trên thế giới.

Thực tế này cho thấy, chất xám Việt đang bị lãng phí. Lãng phí từ khâu đào tạo (đào tạo quá nhiều giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ giả và dỏm), lãng phí cả khâu sử dụng – nhân tài thực sự chưa được tin dùng và sử dụng hợp lý và trọng dụng họ.

Nghèo, dốt, thua kém người khác chưa hẳn là cái tội. Cái tội là ở chổ: nghèo, đói, lạc hậu, thua kém người khác nhưng lại không biết, hay biết mà không chiu thừa nhận và tệ hơn là phải phủ nhận mình nghèo bằng mọi giá vì cái sĩ, để rồi không chịu tìm tòi hướng đi, lối thoát cho mình. Và nếu chúng ta không khắc phục được sự yếu kém của đất nước, nạn nhân cũng chính là chúng ta. Chúng ta là nạn nhân của chúng ta.

Bất cứ xã hội nào, trí thức và yếu tố con người mới là yếu tố hàng đầu để đưa đất nước đi lên. Nước Mỹ phồn vinh với giấc mơ Mỹ và là miền đất hứa của biết bao người trên thế giới, Người Hàn Quốc chấp nhận “ăn mày chất xám” ở phương tây, tinh thần Samurai của Nhật…. Sao không để cho trí thức Việt được tự do trong sáng tạo, tự do trong tư tưởng, tự do trong lựa chọn của mình !? Để họ được cống hiến !?

Ở một góc độ nào đó, có thể nói và khẳng định rằng, đất nước không phát triển được như người ta là vì trí thức Việt chưa phát huy hết vai trò và sứ mệnh của mình. Và lại ở một góc độ nào đó, họ bị kiềm kẹp, bị cột, bị trói chặt tư duy, tư tưởng, và cả ý thức hệ, họ cũng muốn sống, muốn cống hiến lắm, muốn được hy sinh nhưng ý thức hệ, sự khác biệt trong tư duy và tư tưởng đã làm cho họ không được chọn.

Họ bị cuốn vào vòng xoáy luẩn quẩn của giới trí thức Việt bao đời nay, vòng xoáy của một xã hội mà ngay cả đến trí thức cũng bị đẩy vào con đường “lưu manh hóa”, ở đó nhân phẩm của trí thức bị người khác chà đạp và tự mình chà đạp lên mà sống, để rồi họ không kịp nhận ra họ vừa là “nạn nhân” mà còn đồng thời là “thủ phạm”. Họ hành hạ nhau và dẫm đạp lên nhau mà sống.

Rồi cứ thế, mỗi người trong xã hội cứ liên tục hại mình, hại người khác. Có thể nói trí thức Việt Nam nói riêng và người Việt nói chung vừa tự hại mình và hại người, nạn nhân của nhau, nạn nhân của định hướng xã hội, nạn nhân của sự dẫn dắt tồi tệ.


(Ảnh của Book Hunter)

Trong một xã hội, khi sự thật bị bóp méo, tẩy chay trí thức Việt từ chổ ”người sáng” cũng trở thành “người mù”, ngay thẳng cũng trở thành “còng lưng”. Họ im lặng, cúi đầu để hưởng cuộc sống an nhàn thay vì cất tiếng nói phản kháng rồi bị vùi dập.

Với mức giá, mức lương hiện tại, xã hội còn nhiều trí thức không sống được vói mức lương thực của mình. Người lao động trí thức bị bần cùng hóa và bị đẩy đến chỗ không còn có thể nghĩ gì khác ngoài việc làm sao kiếm cho đủ tiền để sống. Đây chính là một trong những lý do làm nên sự tha hóa, biến chất của giới lao động trí thức, thay vì đầu tư vào nghiên cứu, nâng cao chuyên môn tay nghề, phát minh ra cái này, khám phá ra cái kia họ lao đầu vào kiếm tiền kiếm sống, làm sao phải sống được cái đã. Chính điều này dẫn họ tới kết quả làm nhiều việc trái nghề, trái lương tâm, trái đạo đức xã hội…

Mua quan, bán chức, mua vị trí công tác diễn ra đều đặn ở giới trí thức. Rồi khi lên nắm cán bộ thi nhau chia chác, nhũng nhiễu, thằng lên sau thì dốt hơn nhưng lưu manh, khốn nạn hơn thằng trước. Khốn khổ cho một xã hội!

Chưa dừng lại ở đó, giới lao động trí óc ở Việt Nam không những bị bần cùng hóa về đời sống vật chất, mà còn bị bần cùng hóa hay tự bần cùng hóa cả về tư duy đời sống tinh thần khác. Hiện tượng này đang thành ra phổ biến: những người, lẽ ra, phải làm việc với sách vở lại rất ít đọc sách, không quan tâm đến các vấn đề xã hội. Họ tự phủ nhận vai trò và trách nhiệm xã hội của họ. Hoặc học nhiều đọc nhiều, có bằng này bằng nọ chỉ để tự hào, để khoe khoang, để lên lớp nhau, để mơn trớn nhau vì cái tính sĩ diện hảo.

Và cách người Nga đáp trả: Mày giỏi (giáo dục cao, học giỏi… ) sao mày không giàu (không bán kiến thức lấy tiền tiêu cho sang trọng)? Câu nói đó có lẽ hơi sống sượng, chợ búa, nhưng nó chỉ ra một thứ rất đáng nghĩ rằng: nếu như kiến thức của bạn không mang lại giá trị cho chính bản thân thì bạn cần kiến thức đó làm gì. Để trang trí hả? Để khoe mẽ hả? Nói thẳng ra, hơi chợ búa, nhưng đấy là cách nghĩ của những con buôn chứ không phải của trí thức.

Mặt khác, một số đông trí thức và tự nhận mình là trí thức lại cố định, cột chặt và để người khác cột, trói chặt tư duy và suy nghĩ của mình bằng những định kiến có sẵn, những quan điểm tâm lý đám đông và những quy luật bất thành văn khác về tư duy và quan điểm của họ. Điều này dẫn đến họ không tự do tư duy, không có tính bức phá không có khả năng phán xét đâu đúng đâu sai, họ chỉ biết nghe, biết chấp nhận những điều từ người khác mớm cho, từ trên đưa xuống không cần phán xét coi nó đúng hay sai, lợi hại ra sao.

Sự bần cùng hóa tinh thần là một trong những nguyên nhân khiến giới lao động trí óc ở đây đánh mất sức mạnh, đánh mất khả năng phân biệt đúng sai, phải trái, và khiến họ có thể vi phạm các chuẩn mực đạo đức mà vẫn cảm thấy yên ổn lương tâm. Họ tìm sự yên ổn bằng cách sử dụng các lý lẽ mang tính ngụy biện để bào chữa hoặc hợp pháp hóa cho sự vi phạm đạo đức hay sự vi phạm pháp luật. Họ đã dùng cái sai này để ngụy biện bao che, phủ lấp cái sai khác, trong khi những giải pháp đúng đắn, khoa học đã không được lựa chọn.

Chính sự bần cùng và tự bần cùng hóa về tư duy, đạo đức và tinh thần, đời sống, trí tuệ đã khiến cho trí thức Việt Nam bị tha hóa nhiều mặt, mất cả năng lực làm việc trong lĩnh vực chuyên môn của mình, mất luôn cả bản lĩnh văn hóa, cả ý thức về sự đúng sai, cả phẩm chất đạo đức công dân. Để tự giữ cho mình trong sạch, chuẩn mực còn khó, nói chi đến chuyện dám đứng lên bảo vệ công lý, bảo vệ sự thật ! Chính vì thế nhiều người còn chút lương tri họ chấp nhận cắn răng chiệu đựng và thõa hiệp với cái ác và cái xấu để yên ổn mà sống.

Họ dối trá, tiếp tay cho sự dối trá, họ lừa lọc, tiếp tay cho sự lừa lọc, họ sĩ diện và tiếp tay cho sự sĩ diện. Tất cả nó làm nên dung mạo của nền trí thức bị lưu manh hóa.

Đất nước này đã phải trả cái giá quá đắt cho tệ nạn “lưu manh hóa trí thức” này rồi, bây giờ đã đến lúc chúng ta phải biết tự đứng dậy, dám nhìn thẳng, nhìn thật vào sự thật, nhìn vào thực tế,… tự bản thân mình thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn ấy, đừng tự hại mình và hại người nữa.

Người Việt, trí thức Việt, dân Việt trách móc xã hội này đôi khi, nhưng nếu nhìn kỹ lại, thì chính họ chính chúng ta tạo nên xã hội này. Trí thức Việt nói riêng, dân Việt nói chung nhiều lúc đôi khi có xu hướng, chờ đợi mong mỏi một vị minh quân, một vị lãnh đạo tài ba xuất chúng nào đấy xuất hiện để đưa lối dẫn đường họ và lãnh đạo đất nước đang tụt hậu này.

Nhưng họ quên rằng không ai dẵn dắt và hành động tốt hơn họ tự dẫn dắt, định hướng cho mình. Đã đến lúc cả dân tộc này và giới trí thức Việt cần nhìn thẳng vào chính mình, nhìn vào thực tế và tự gánh trách nhiệm cũng như vài trò của mình để tự thoát ra cái vòng luẩn quẩn này chứ không phải một ai đó, một vị cứu tinh nào đó hay một vị minh quân còn ẩn dật đâu đó.

Tiểu Bối

—–

Không có Tôn giáo nào cao trọng hơn Sự thật






Đây là một mẫu đối thoại ngắn giữa Thần học gia người Brazil,
Leonardo Boff, và Đức Đạt Lai Lạt Ma…
Tại một cuộc hội thảo bàn tròn về “Tôn giáo và tự do” có Đức Đạt Lai Lạt Ma và tôi cùng tham dự. Lúc tạm nghỉ, tôi hỏi ngài vừa tinh nghịch vừa tò mò:





“Thưa ngài, tôn giáo nào tốt nhất? ”
Tôi nghĩ ngài sẽ nói: “Phật giáo Tây tạng” hoặc “Các tôn giáo phương Đông, lâu đời hơn Ki-tô giáo nhiều”.
Đức Đạt Lai Lạt Ma trầm ngâm giây lát, mỉm cười và nhìn vào mắt tôi…
Điều này làm tôi ngạc nhiên vì tôi biết đây là một câu hỏi ranh mãnh.
Ngài trả lời:
“Tôn giáo tốt nhất là tôn giáo đưa anh đến gần Đấng tối cao nhất. Là tôn giáo biến anh thành con người tốt hơn”.
Để giấu sự bối rối của tôi trước 1 câu trả lời đầy khôn ngoan như thế, tôi hỏi:
“Cái gì làm tôi tốt hơn? ”



Ngài trả lời:

“Tất cả cái gì làm anh
Biết thương cảm hơn
Biết theo lẽ phải hơn
Biết từ bỏ hơn
Dịu dàng hơn
Nhân hậu hơn
Có trách nhiệm hơn
Có đạo đức hơn”.
“Tôn giáo nào biến anh thành như vậy Là tôn giáo tốt nhất”.

Tôi thinh lặng giây lát, lòng đầy thán phục, ngay cả bây giờ, khi nghĩ đến câu trả lời đầy khôn ngoan và khó phản bác:
“Anh bạn tôi ơi! Tôi không quan tâm đến tôn giáo của anh

Điều thật sự quan trọng đối với tôi là cách cư xử của anh đối với người đồng đẳng, gia đình, công việc, cộng đồng và đối với thế giới.

Hãy nhớ rằng vũ trụ dội lại hành động và tư tưởng của chúng ta. Quy luật của hành động và phản ứng không chỉ dành riêng cho vật lý.

Nó cũng được áp dụng cho tương quan con người.

Nếu tôi ở hiền, thì tôi gặp lành,
Nếu tôi gieo gió, thì tôi gặt bão.
Những gì ông bà nói với chúng ta là sự thật thuần túy.

Chúng ta luôn nhận được những gì chúng ta mong muốn cho người khác.

Hạnh phúc không phải là vấn đề số mệnh. Đó là vấn đề lựa chọn.”

Cuối cùng ngài nói:
“Hãy suy tư cẩn thận vì Tư tưởng sẽ biến thành Lời nói,
Hãy ăn nói cẩn thận vì Lời nói sẽ biến thành Hành động,
Hãy hành xử cẩn thận vì Hành động sẽ biến thành Thói quen,
Hãy chú trọng Thói quen vì chúng hình thành Nhân cách,
Hãy chú trọng Nhân cách vì nó hình thành Số mệnh,
Và Số mệnh của anh sẽ là Cuộc đời của anh.

… và …
“Không có tôn giáo nào cao trọng hơn Sự thật

Chủ Nhật, 25 tháng 5, 2014

thơ Nguyễn Hoàng Anh Thư





Những ngôn từ nối nhau như sợ không kịp diễn tả những cảm xúc trào dâng. Như thể, chỉ chậm một khoảnh khắc là thiên nhiên xanh trên trái đất này sẽ biến mất, như vó ngựa trên thảo nguyên, như thoáng ánh cầu vồng sau cơn mưa, như hơi thở nhẹ…
Đó là những gì có thể cảm nhận từ thơ của Nguyễn Hoàng Anh Thư (bút danh Nhật Thu), hiện là cô giáo dạy văn trường Hai Bà Trưng - Huế. 


NGUYỄN HOÀNG ANH THƯ



Nỗi sợ hãi của loài thú hoang


Chúng tôi đã lo sợ như thể
Mặt đất đã không còn bóng cây thưa
Mưa - đông - chớp - lốc
Nỗi lo âu điền vào không khí đen màu
Cuộc sống như làn hơi đè nén
Và di chuyển, bơi, hít vào lồng ngực
Ngạt hơi tràn sợ hãi há hốc tai

Loài thú hoang sợ ngày qua nhàn rỗi
Còn loài người sợ mất việc làm
Kẹt xe - chen lấn - xô bồ
(chẳng bù một chút với loài thú hoang ấy nhỉ)
Và loài người sợ vỡ sông ngân
Ngập tràn nỗi nợ nần trần gian vô hóa giải
Tình yêu nồng cháy sợ hãi
nỗi mặc cảm trơ dòng

Và chúng ta sợ như loài thú hoang hết đường về rừng xưa ngày đó
Sợ những thứ rơi ảo giác
Sợ cuồng phong giận dữ không nhận ra cõi sống đang về
Chúng ta sợ mất nguồn kết nối
Sợi giao cảm không bắt nhịp nỗi nhớ về mạch trái tim
Sợ cả nền văn minh mà chúng ta đang rơi ảo giác
Gẫy nhiễu cả chặng dừng
loài thú hoang ngơ ngẩn
tìm hoài vọng màu xanh

Một thế giới tinh khiết từ thực tế
Một ảo vọng tràn về
Loài thú hoang muốn mở mắt của bạn thức dậy từ ngày hôn mê...




Lời thách thức của những chiếc búa



Lưỡi búa vẫn vẹn nguyên từ kỉ nguyên Phấn Trắng
Đã có những bàn tay con người vượn đục đẽo tìm sự văn minh
Trẻ con ở phương Tây rất mê chiếc búa Socola của Thần Sấm
Khi người lớn chưa dẫn chúng đi chơi vào dịp lễ
Điều thú vị đã ở trong những căn bếp ấm cúng với nhiều thức ăn
ngon mắt
Còn đám trẻ con nhà nghèo ở quê tôi vùng biển chỉ biết nghịch cát và
vui đùa cùng những bông hoa mặt trời sắc nhọn rỉ máu ra tay
Chiếc búa của Thiên Lôi cứ chớp liên hồi
Ngắt quãng cả một dòng thâm u trong những nếp nhăn trên trán
con người
Họ chưa và chẳng nghĩ ra được sự công bằng tuyệt đối
Trên những nhát chặt đẽo của người thợ rừng lành nghề cũng chỉ là
tương đối
Trên những phiên tòa chật cứng những tội lỗi
Sẽ còn nỗi xót xa ai oán khi chiếc búa của thẩm phán bị xê xích bởi dư
luận và sự ngụy biện tinh ranh
Sự ngụy biện bị che đậy bằng những lòng lang đội lốt
Sự ranh mãnh hiểm ác ấy đâu biết con linh miêu mắt trong suốt nhìn
xuyên từng uẩn khúc gấp hằn lên hàng hàng thiên niên kỉ
Nó sẽ mang sức mạnh hồi sinh
Những con người trong hàng ngàn nấm mộ hiu hắt trên những nghĩa
trang, trên những ụ sâu của rừng thiêng sông suối
Những lời rì rầm sẽ cứ vọng mãi... vọng ngân
Như những bài Thánh ca - như tiếng chuông nguyện cầu
Sâu tựa ánh từ bi của ngài Quán Thế Âm
Vọng vang những điều tưởng như là cuộc đời vô thường nhưng
bất diệt
Những linh hồn còn sống
Họ đang sống với chúng ta
Cũng biết vui buồn hờn giận..., còn nhiều vất vưởng những oan khiên
mang nặng trong những phận mỏng tựa làn hơi
Nhưng họ đã trải qua những phong ba
Còn con người - đang đối diện từng giây với những hỉ nộ ái ố, với
những lời nói và hành động của cõi sống
Đang hy vọng có những cây búa thần thánh trong những phiên tòa
Và con người vẫn còn niềm tin vào tâm linh bí ẩn...




Một đêm... mưa mùa đông


Không gian rộng lớn của siêu cảm giác
...được làm đầy với đêm tối
Nàng Thơ... như một sự sùng bái ảo giác
Đó là mỗi giọt mưa
nó tuyệt vời như lời sống bện chặt
Nàng thường đối chất với cảm giác
bối rối, trêu chọc, đề cao hay ngưỡng mộ
như sự run rẩy mây mù
cảm thấy như sắc đẹp
với khả năng siêu phàm
Nàng Thơ đứng quá giang trong mưa
tại phần đầu của đoạn đường
nối vào tôi chờ đợi
mà không có hy vọng của một chuyến đi.
Tôi biết mỗi giọt mưa của ngôn ngữ không tên
Giọt mưa là chuỗi các biểu hiện mệt mỏi,
nhưng hấp dẫn
Những hạt mưa chết rủa bởi tôi được ngâm qua
Và, giọt mưa nằm trên đường đứt gãy những hoạt động
Thực và Hư
Ảo và Mộng (hầu như thực đã rất ít)
nhưng nó rung với một điện sinh ra từ ý nghĩa trái ngược nhau
Nó là thời gian của mưa rơi.

Và hôm sau,
Một màn sương bao phủ tất cả mọi thứ,
và với ánh nắng mặt trời,
đã bắt đầu phát triển mạnh và kỳ lạ
Tôi cảm thấy vẻ đẹp của buổi sáng
Tôi có thể hiểu như thế nào là một người sắp chết đuối
Có thể cảm thấy một khát sâu dập tắt hữu thể.
Làm thế nào để thân không còn là nô lệ của người Thầy trong tâm trí
của mình
Tự do thả rơi bản ngã
Rơi vào tấm màn che của thế giới tự nhiên
thông qua một vẻ đẹp của một khối đa diện Platon và vĩnh cửu.
Như rơi từ đỉnh đèo
Có cảm giác của một hiển linh
hạnh phúc, sức mạnh được tạo ra bởi nó đã đi xuyên qua sự u ám
Chính xác như dòng hải lưu quen thuộc của ngư dân trên biển
Như mặt trăng của trái đất từ một đến hai bể đúc ánh sáng trên diện
tích của bóng tối, ấp lên mặt nước
Là sự đứng dậy từ quỹ đạo tình cảm
Phải vượt qua sự tràn ngập trong điều xấu hổ
Và lướt nhẹ sự mặc khải
ánh sáng u ám... đã đi xuyên
Tạo sức mạnh kỳ lạ của thời điểm
Như một sự nhầm lẫn thời gian
sự kết hợp run rẩy cùng của bóng tối, ánh sáng
và đổi hướng trong thời gian thật mỏng
Như là một cảnh quan tươi đẹp
để trong mắt một người mù
không còn phải hít phải không khí nhiễu loạn
Đêm... thật yên tĩnh
Sự yên tĩnh đang lắng nghe từng nhịp thở
Rất thực...
Để rơi vào giấc mơ.

Ngày tàn của trí thức



Tại các quốc gia Tây Phương, khi thế quyền bị tách rời khỏi thần quyền, khi không còn các Đấng Quân Vương trị dân với sự ủy nhiệm của Thiên Chúa, và đương nhiên là theo Thánh Ý Ngài, thì quyền hành bỗng dưng gặp phải một sự thiếu vắng ý nghĩa, một định hướng luân lý, một nền tảng để có thể xây dựng trên đó những giá trị đạo đức. Khi đó, cái « thời » của người trí thức đã đến. Người trí thức trở thành những kẻ định ra hướng đi của xã hội, vẽ đường cho những cải cách, những cuộc cách mạng, phê phán về tính « xấu » , « tốt » , của những quyết định và chương trình chính trị. Các chủ thuyết lớn ra đời, mang theo những ước vọng, lập ra những khuôn mẫu giáo điều, dựng nên những thần tượng, lấp vào chỗ trống của Thần Quyền. Thời của những chủ thuyết cứu rỗi (messianisme) đã đến, với hàng giáo phẩm không ai khác hơn là tầng lớp trí thức.

Dưới bầu trời phương Đông, không có Thần Quyền, chỉ có « Thiên Mệnh », một phần lệ thuộc « vận khí » của triều đại, nói nôm na là sự may mắn của triều đại ấy (có lẽ thể hiện Ý Trời ?), một phần được quy định bởi « nhân tâm ». Mà « nhân tâm » thì phần lớn được diễn đạt qua tầng lớp trí thức, tức là những kẻ biết nói văn vẻ, biết biện luận theo sách vở kinh điển, và nhất là biết viết.

Đến khi Đông Tây gặp nhau, thì trí thức phương Đông trở thành những người được đào luyện bởi phương Tây, với ít ra là những cung cách bên ngoài rập khuôn theo Tây Phương. Trí thức Đông Phương cũng phần nào được cộng hưởng sự vinh quang của các « đồng nghiệp » của họ bên trời Tây.

Rồi, thời gian trôi … Ngày nay, công kích xỉ vả trí thức trở thành một trò chơi được ham chuộng. Nước ta có Phạm Thị Hoài, qua bài trả lời phỏng vấn về trí thức trên báo Cánh Én, trước đó đã có Hà Sĩ Phu, và một số người nói theo ông ta, dư luận đều đã đề cập đến nhiều nên xin miễn bàn thêm (riêng bài của chị Hoài đã đưa đến một diễn đàn trên web với những đóng góp phong phú suốt nhiều tháng). Bên nước Đại Pháp, tờ Le Débat, một diễn đàn quan trọng của giới trí thức, ra số kỷ niệm 20 năm với bài tựa của Pierre Nora, nhan đề : « Giã từ trí thức ».

Tác giả này cho rằng có lẽ phải từ bỏ danh xưng trí thức, vì nó gắn liền với quá nhiều sai lầm và tội ác. Ông đề nghị nên đem chôn « trí thức » cùng với thế kỷ vừa chấm dứt ! Trong cùng số báo, sử gia Winock đặt câu hỏi : « Đâu là công dụng của trí thức ? » Sirinelli, một sử gia khác, diễn tả về trí thức qua «cảm tưởng mặt trời lặn», một cảm tưởng buồn … Cùng lúc, Régis Debray cho xuất bản một quyển sách tên là « Trí Thức Pháp, tiếp theo và hết ». Debray, văn sĩ tài danh, thủ khoa trường Normale Sup, chiến hữu của Che Guevarra tại bưng biền Nam Mỹ, cố vấn của Tổng Thống Mitterrand, người đã từng tham gia hầu hết các cuộc đấu tranh của trí thức suốt những thập niên vừa qua, thẳng thắn công nhận mình đã lầm đường (« j’ai déconné à plein tubes »), cũng như tầng lớp trí thức nước ông, để rồi cho rằng tầng lớp này đã chết. « Xác chết của nó còn động đậy, nó còn làm vẻ, làm dáng, nhưng trong thực tế, nó chỉ là một con ma nham nhở » (Eric Conan –Express).

Ngược lại, Alain Finkielkraut, triết gia hiện rất được chú ý, cho rằng « thái độ của người trí thức giống như một tuổi trẻ vị thành niên được kéo dài một cách quá đáng ». Tổng hợp hai ý kiến cho ra một thây ma lìa đời vào tuổi vị thành niên, nên còn tiếc nuối bám víu cõi hồng trần …

Những nguyên do của suy tàn


Vì sao hình ảnh của người trí thức lại trở nên tàn tạ như vậy ? Nội dung lập trường gọi là thiên tả của hầu như toàn thể tầng lớp trí thức suốt nhiều thập niên, đã được cảm nhận như một chuỗi sai lầm với nhiều tai hại. Sở dĩ tôi nói «gọi là » thiên tả vì trong một thời gian dài người trí thức đã cố công bảo vệ những lập trường theo chính quan điểm Marxiste, kết tụ trong chủ thuyết Staline-Mao. Họ đã bao che chế độ Goulag, miệt thị những nhân chứng phơi trần tính cách phi nhân của CS Liên Sô. Họ đã làm ngơ trước « Trăm Hoa Đua Nở » với « Bước Nhảy Vọt » và tiếp tục thần tượng hóa Mao Trạch Đông. Họ ủng hộ Bắc Việt Nam, ủng hộ Khmer Đỏ, ngay cả khi đã được biết về những cuộc thảm sát gây nên bởi tổ chức này.

Họ cho rằng « muốn ăn trứng thì phải đập vỏ trứng », muốn chiến thắng tư bản thì bằng bất cứ giá nào, phải sát cánh đàng sau các lực lượng « tiến bộ », không được gây tổn hại cho các lực lượng này, không được phân tán lực lượng, lẫn lộn mục tiêu v.v… « Những kẻ chống Cộng là đồ chó !», như lời Sartre. « Thà sai lầm với Sartre còn hơn là có lý với Aaron » là một khẩu hiệu thời thượng khác, cho thấy người trí thức đã chấp nhận thà lầm lẫn (theo Sartre) còn hơn là phản lại « cách mạng » (như Aaron).

Người trí thức Tây Phương đặc biệt là Pháp, vào lúc đó bị ám ảnh bởi quyền hành, bởi viễn tượng cách mạng « một buổi chiều » (le grand soir). Họ sẵn sàng tự tha hóa, sẵn sàng từ bỏ vai trò trí thức thực sự cho cái viễn tượng sẽ cướp được chính quyền ấy. Sự thất bại của cuộc chính biến tháng 5 1968 khiến một số trong họ quay về với những sinh hoạt trí thức thuần túy hơn. Biến cố Hung Gia Lợi, rồi Tiệp Khắc cũng là những chấn động lớn trong hàng ngũ họ. Sự thật càng ngày càng được phơi bày.

Đến khi thảm kịch của thuyền nhân Việt Nam được đem ra trước dư luận, thì người ta thấy Sartre và Aaron bắt tay hòa giải với nhau trên thềm điện Elysée, khi hai người cùng đến vận động cho việc cứu vớt đồng bào ta trên biển Đông. Sartre trở thành biểu tượng của sự dấn thân của thiên tài trí tuệ cho những mục tiêu chính trị sai lầm đến độ ngu xuẩn. Phải chăng Debray đã có lý khi trích dẫn Proust : « càng ngày tôi đánh giá thấp cái giá trị của trí thông minh » ?


Trí thức cộng với quyền hành: không còn là trí thức
Thật vậy, khi trí thức bị ràng buộc vào quyền hành, thứ quyền hành mà chúng ta thường biết cho tới nay, bất kể trong tiến trình đang chinh phục quyền hành ấy hay đang cố nắm giữ nó, thì cái tính trí thức kia bắt buộc phải bị lu mờ đi. Khi đó, quyền hành luôn chiếm ưu tiên trên sinh hoạt trí thức. Sáng tạo của trí thức sẽ phải phục vụ quyền hành. Thông thường hơn hết là sáng tạo trí thức phải lu mờ đi, phải bị che phủ bởi tầng mây quyền hành. Mà sinh hoạt trí thức không có sáng tạo, thì là gì ? ích lợi gì ? (câu hỏi của Winock)

Con người trí thức khi nằm trong quyền hành, không còn suy nghĩ như trí thức, cũng không còn nhìn các người trí thức khác với cái nhìn trí thức. Nhà văn Phạm Thị Hoài đã nhận thấy điều đó. Hai ngàn ba trăm năm trước, Lý Tư, tác giả của những bài Khắc Thạch được kể là những áng văn hay, học trò của Tuân Tử, bạn học của Hàn Phi, khi làm tể tướng cho Tần Thủy Hoàng, có phát biểu như sau về trí thức :

« (…) Bây giờ thiên hạ đã định, pháp luật phát xuất tự một nơi, trăm họ thì gắng việc công nông, kẻ sĩ thì học tập (!) những điều nghiêm cấm. (…) Tuy vậy, người ta vẫn cho cái học riêng của mình là hay, để chê những kiến lập của bề trên. Nay bệ hạ gồm thâu thiên hạ, phân biệt trắng đen, ấn định tôn chỉ, thế mà bọn tư học cùng nhau bài bác pháp giáo, nghe lệnh trên ban xuống đều đem sở học ra mà nghị luận. Vào thì chê bai trong lòng, ra thì bàn bạc ngoài ngõ (…). Vậy mà không cấm, thì ở trên thế vua sẽ phải bị giảm sút, ở dưới loạn đảng sẽ nhóm thành. Cấm đi thì tiện. Xin rằng các sách sử không phải chép về nhà Tần thì đốt đi. (…) Ai dám nói chuyện về Thi Thư thì bắt bỏ chợ. Ai dám khen việc đời xưa mà chê việc đời nay thì giết cả họ. (…) Những sách không bị loại bỏ là sách thuốc, sách bói và sách trồng trọt. Ai muốn học về pháp lệnh thì phải lấy quan lại làm thày.» (theo Trần Trọng San : Văn Học Trung Quốc đời Chu Tần)

Người trí thức Hàn Phi vắn tắt : « Nước của minh chủ không văn chương sử sách, chỉ có pháp luật để dạy, không cần trích dẫn vua trước, cứ lấy quan lại làm thày (dĩ lại vi sư). » (Hàn Phi Tử 19 – thiên 49)

Đơn giản : quyền hành muốn « nuốt » trí thức, kể cả cái « tính trí thức » trong nội tâm của chính người cầm quyền. Nhiều khi vì muốn duy trì cái « tính trí thức » ấy mà có người phải từ bỏ quyền hành, như Đức Khổng Tử.

Tuy nhiên, cũng có những ngoại lệ. Tôi rất thích thú khi thấy bộ trưởng Allegre của Pháp nói chuyện trên đài truyền hình về một quyển sách của ông bàn quanh vấn đề khoa học và niềm tin tôn giáo. Thích thú vì khám phá ra một ngoại lệ. Ít lâu sau ông bộ trưởng trí thức trực ngôn này bị mời về vườn hay đúng hơn là về Đại Học tiếp tục « gõ đầu trẻ ». Tôi cũng đã mua quyển « anthologie de la poésie francaise » của Tổng Thống Pompidou, chỉ vì tò mò muốn xem một ông tổng thống « làm » trí thức, viết chuyện thơ văn, không chủ đích chính trị. Malraux cũng là một ngoại lệ, Havel cũng vậy. Có lẽ những người trí thức ấy đã không bị tha hóa bởi quyền hành. Malraux, vì sinh hoạt trí thức của ông không có vẻ bị ảnh hưởng bởi thời gian tham chánh, Havel, vì phản ứng rất « trí thức » trước đòi hỏi ly khai của Slovaquie…

Giải pháp để có một tầng lớp trí thức đúng nghĩa
Nếu sự tha hóa của trí thức phần lớn là do liên hệ của tầng lớp này vói quyền hành, thì có lẽ chỉ có hai giải pháp :

1) Tách trí thức khỏi quyền hành :

Cái khó của một nước như Việt Nam trong quá trình lịch sử là quyền hành thu hút hầu hết trí thức. Bên ngoài quyền hành là các thày đồ (… thày đạc, dạy học dạy hành …), mà « lẽ sống » vẫn là đào tạo học trò đi học làm quan. Hoặc giả có thể trông vào « tính trí thức » tự nhiên của dân gian, dù không có cái sở học khoa bảng ? Tại sao không ? Biết đâu chừng đó chính là yếu tố nền tảng duy trì sinh hoạt trí thức đúng nghĩa, biệt lập với tham vọng quyền hành, suốt dòng lịch sử nước ta ?

Sự sáng suốt của người dân, mầm mống của một nền « dân chủ » bất thành danh của Việt Nam ? « Phép vua thua lệ làng » , một loại « dân chủ trực tiếp » ? Thật ra, ngày nay không còn là lúc để tự thỏa mãn một cách viển vông với những nhận định kiểu này. Nhu cầu có được một tầng lớp trí thức đúng nghĩa là một thúc bách lớn. Nó đòi hỏi một Xã Hội Công Dân, biệt lập với chính quyền, trong đó người trí thức có cơ hội làm nhiệm vụ của mình. Nó đòi hỏi một nền giáo dục độc lập, những cơ cấu văn học nghệ thuật và thông tin độc lập. Nó đòi hỏi thay đổi cấu trúc quyền hành hiện tại của Việt Nam.
Thật ra, kinh nghiệm tại các nước Tây Phương cho thấy điều này chưa đủ. Các xã hội Tây Phương vẫn có một xã hội công dân tương đối phong phú nhưng tầng lớp trí thức của họ, như ta đã thấy ở trên, vẫn bệ rạc.

Ở Tây Phương, trí thức còn là nạn nhân của sự phát triển của các phương tiện truyền thông đại chúng. Điều này đã đưa người trí thức đến phản xạ chạy theo dư luận, tìm sự ngoạn mục, tuyên bố dao to búa lớn, tranh thủ thời gian và do đó suy tư phiến diện. Thay vì đi vào những vấn đề nền tảng, suy nghĩ trong dài hạn, trong chiều sâu, tìm những khuynh hướng lâu dài trong sự chuyển hóa của các xã hội, phân tích những khái niệm và sự biến dịch của chúng cũng như sự hình thành của những khái niệm mới, thì người trí thức, do ảnh hưởng của truyền thông đại chúng, trở thành những kịch sĩ của một sân khấu thời sự rẻ tiền, hò hét quanh những vấn đề đang được ánh đèn dư luận chiếu đến, trong phút chốc, rồi hối hả quay sang vấn đề khác.

Họ suy tư vội vã, để kịp bao dàn sân khấu, để luôn hiện diện trước một công chúng hay thay đổi thị hiếu, luôn sẵn sàng đào thải họ vào quên lãng. Tại Việt Nam, vấn đề này chưa thực sự đặt ra, và những nhận định quanh nó chỉ đáng được đặt trong ngoạc đơn. Sự phát triển của một tầng lớp trí thức đúng nghĩa biệt lập với quyền hành mới thực sự là vấn đề trước mắt, và không phải dễ thực hiện …

2) Thay đổi bản chất của quyền hành :

Ít ra là trên phương diện lý thuyết, một câu hỏi cần được nêu lên : có thể nào người trí thức vẫn nằm trong quyền hành mà không bị tha hóa, không mất « tính trí thức » ? Có thể. Nếu bản chất của quyền hành thay đổi, hay nếu năng lực nội tại của người trí thức ấy cho phép. Năng lực nội tại của người trí thức thì không có tính quy luật, không thể trông cậy vào nó. Chỉ còn thay đổi bản chất của quyền hành. Khi đó, phải tự hỏi :

- thay đổi để trở thành như thế nào ?
– làm sao thay đổi ?
– và nhất là ai chủ động thay đổi ?
Từ các xã hội độc tài rõ rệt, đến các quốc gia dân chủ hình thức, quyền hành gần như lúc nào cũng được coi như cứu cánh, như điểm đến của cuộc hành trình chính trị. Suốt cuộc đời chính trị, người ta làm như thế, nói như thế, viết như thế, có những thái độ cử chỉ như thế, thậm chí biểu diễn thổi kèn saxo, đội nón cao bồi, lên truyền hình hát nhạc « sến », v.v… đều với chủ đích nhắm vào quyền hành. Cái nội dung lời nói hay câu viết không quan trọng bằng tác dụng của những thứ ấy trong việc đưa tác giả của chúng đến gần quyền hành, hay bắm chặt quyền hành hơn. Tất cả những gì đưa đến quyền hành thì coi như tốt, còn lại là điều phải cố công loại bỏ.
Đạt đến quyền hành để làm gì ? Chúng ta có cảm tưởng đối với các đấu sĩ chính trị chuyên nghiệp này, đó là điều phụ thuộc ! Đành rằng khi tranh thủ quyền hành, người ta cũng có những chương trình kế hoạch kinh bang tế thế, hưng vượng quốc gia v.v… nhưng khi đã đạt đến quyền hành, họ nhẹ nhàng quay lưng phản lại những lời hứa cũ, nếu nó không thuận lợi cho sự bám lấy quyền hành của họ. Lãnh tụ Xã Hội Léon Blum trong Hội Nghị thành Tours của Quốc Tế Thợ Thuyền năm 1920 có chất vấn phe CS Đệ Tam : « các ông muốn đạt đến chính quyền để cải tạo xã hội, hay chỉ dùng chiêu bài cải tạo xã hội để nắm chính quyền ? » Thật ra, câu chất vấn này phần nào có thể đặt ra cho hầu hết những kẻ cầm quyền.

Thay đổi bản chất của quyền hành là làm cho quyền hành không còn là điểm đến của cuộc hành trình, mà ngược lại, là điểm khởi đầu. Tức là phải đưa quyền hành xuống đến gần người dân, để những sáng kiến phát xuất từ người dân có được cái « quyền hành » đưa đến thực hiện. Như thế quyền hành sẽ là khởi điểm của cuộc hành trình, thực hiện sáng kiến cải thiện là tự thân cuộc hành trình ấy, và thành quả cải thiện thành công là điểm đến.
Nếu quan niệm được quyền hành như vậy, thì trí thức không những sẽ không bị tha hóa bởi quyền hành, mà ngược lại sẽ tìm thấy nơi quyền hành động cơ để thực hiện những sáng kiến của mình.
Trên phương diện thực tế, quan điểm dân chủ trực tiếp này vấp phải nhiều trở ngại kỹ thuật, nên thường bị coi là không tưởng. Theo tôi, trở ngại kỹ thuật có thể vượt qua (xin bàn đến trong dịp khác). Cái khó vượt qua là phản ứng bám trụ quyền hành của giai cấp chính trị chuyên nghiệp sợ phải đập bể nồi cơm của họ.

Làm sao thay đổi ? Điều vừa nói, cộng với định nghĩa của một thay đổi từ bản chất, từ cấu trúc, cho thấy ngay câu trả lời : đó là một cuộc cách mạng. Mà cách mạng thì tự nó hình thành qua những điều kiện khách quan. Có còn cần phải tự hỏi : « làm sao » ?

Ai chủ động thay đổi ? Nhất định không phải là những kẻ hiện nắm quyền. Một trở ngại không nhỏ là những kẻ đối lập cũng quan niệm quyền hành trong bản chất y hệt như nhóm cầm quyền mà họ muốn thay thế. Tức là đối với những người đối lập này, quyền hành vẫn là điểm đến của cuộc hành trình chính trị của họ. Giả sử họ thay thế được một chính thể độc tài trắng trợn bằng một thể chế dân chủ hình thức, thì tình hình quả có khá hơn, nhưng vấn đề căn bản vẫn chưa được giải quyết.

Tóm lại:

Ít ra là trong trường hợp Việt Nam tôi không thấy cần phải xỉ vả trí thức. Họ làm những gì có thể làm được trong những điều kiện cụ thể ràng buộc họ. Lọt vào quyền hành và bị tha hóa không nhất thiết biến họ thành những người xấu xa, hay dốt nát. Như một tập thể, họ đa dạng như những loài hoa, người thế này, kẻ thế khác…
Vấn đề là môi trường. Nếu môi trường sinh hoạt của họ khác đi, thì ta sẽ thấy một bộ mặt mới của trí thức Việt Nam, và những cánh hoa sẽ nở đẹp trong khu vườn trí thức.

———-

http://bookhunterclub.com/ngay-tan-cua-tri-thuc/