Thứ Tư, 11 tháng 10, 2017

Bertrand Russell - Tôn giáo có đóng góp hữu ích cho văn minh nhân loại không?




Lê Dọn Bàn

http://sachhiem.net/SACHNGOAI/snL/LeDonBan/LDB14.php



Mục lục:

- Đạo Kitô và Tình Dục

- Những Phản đối với Tôn giáo

- Hồn người và Bất tử

- Những nguồn gốc của sự không khoan dung

- Học thuyết về Ý chí Tự do

- Ý tưởng về đạo hạnh chính trực













[Has Religion Made Useful Contributions to Civilization?]

Bertrand Russell

Có phải Tôn giáo đã làm được những Đóng góp Hữu ích cho Văn minh không?[1]

(1930)

Quan điểm riêng của tôi về tôn giáo là của Lucretius.[2] Tôi xem nó như một bệnh tật sinh ra từ sợ hãi, và như một nguồn của khốn khổ không kể hết được của loài người. Tuy nhiên tôi không thể phủ nhận rằng nó đã làm được một vài đóng góp cho văn minh. Nó đã giúp, trong những ngày đầu của lịch sử, vào việc chữa lịch, và nó là nguyên nhân khiến những nhà tu Egypt đã ghi chép những thiên thực theo năm tháng với cẩn thận đến mức sau cùng họ đã trở nên có thể đoán trước được chúng. Hai dịch vụ đóng góp này tôi sẵn sàng để thừa nhận, nhưng tôi không biết có những đóng góp nào khác.

Ngày nay, từ ‘tôn giáo’ được dùng trong một ý hướng rất lỏng lẻo. Một số người, dưới ảnh hưởng của đạo Phản Thệ cực đoan, dùng từ này để nói về bất kỳ những xác tín cá nhân nghiêm trọng nào về phần đạo đức hay bản chất của vũ trụ. Việc dùng từ này hoàn toàn không có tính lịch sử. Tôn giáo chủ yếu là một hiện tượng xã hội. Các Giáo hội có thể có nguồn gốc từ những người thầy sáng lập vốn có những niềm tin cá nhân mạnh mẽ, nhưng những người thày này đã hiếm khi có nhiều ảnh hưởng đến những giáo hội mà họ đã sáng lập, trong khi các giáo hội đã có nhiều ảnh hưởng to lớn vào những cộng đồng mà chúng phát triển trong đó. Lấy trường hợp vốn đáng chú ý nhất với những người trong nền văn minh phương Tây: sự giảng dạy của Christ, như nó đã xuất hiện trong những sách ghi chép cuộc đời của Christ [3] , có liên hệ ít ỏi hết sức khác thường với luân lý của những người Kitô. Điều quan trọng nhất về đạo Kitô, theo quan điểm xã hội và lịch sử, không phải là Christ, nhưng là Giáo hội, và nếu chúng ta có phán đoán đạo Kitô như một sức mạnh xã hội, chúng ta đừng xem những sách ghi chép về đời Jesus để làm tài liệu cho chúng ta. Jesus đã dạy rằng bạn nên đem của cải của mình cho người nghèo, rằng bạn không nên đánh trả, rằng bạn không nên đi nhà thờ [4] , và bạn không nên trừng phạt sự ngoại tình. Cả những người Catô lẫn những người Phản thệ đều đã không cho thấy có mong muốn mạnh mẽ nào để tuân theo lời dạy của ông trong một bất kỳ điểm nào của những phương diện này. Một số người trong dòng tu Franciscan, quả thực, đã cố gắng để dạy giáo lý về sự nghèo khó của những học trò đầu tiên của Jesus, nhưng vua Chiên đã lên án họ, và học thuyết của họ đã bị tuyên bố là ‘sai lạc với giáo lý chính thức’ [5] (của Giáo hội). Hay, lại nữa, hãy xem xét một câu văn, loại như ‘Chớ phán xét, để đừng bị phán xét’ và tự hỏi bạn một câu văn loại như thế đã có ảnh hưởng gì với những Toà án Pháp hình của Giáo hội Kitô [6] và tổ chức Ku Klux Klan.

Điều gì đúng với đạo Kitô thì cũng đúng ngang thế với đạo Phật. Phật thì hòa nhã thân ái và đã giác ngộ; trên giường bệnh sắp chết của mình, ông đã cười những học trò của mình, vì họ giả định rằng ông thì không chết. Tuy nhiên, chế độ thày tu của đạo Phật – như nó có mặt, lấy thí dụ, ở Tibet – đã là ngu dân, chuyên chế và nghiệt ngã trong mức độ cao nhất.

Không có gì là ngẫu nhiên về sự khác biệt này, giữa một Giáo hội và người sáng lập của nó. Ngay khi ‘sự thực tuyệt đối’ [7] được cho là đã chứa đựng trong những lời nói của một người nào đó, liền lập tức có một tập đoàn gồm những người thành thạo, chuyên để diễn giải những lời nói của người này, và những người chuyên môn này ‘không thể sai’ đòi được có quyền lực, vì họ đã giữ chìa khóa mở chân lý. Giống như bất kỳ giai cấp đặc quyền nào khác, họ dùng quyền lực của họ cho những ưu thế của riêng họ. Tuy nhiên về một phương diện, họ còn tệ hơn bất kỳ giai cấp đặc quyền nào khác, vì đó là công việc của họ để diễn giải chi tiết một sự thật không thay đổi, đã một lần được ‘vén lên cho thấy’ vĩnh viễn trong hoàn hảo tột bực, như thế khiến họ tất yếu trở thành những đối thủ của tất cả mọi tiến bộ trí tuệ và đạo đức. Giáo hội chống lại Galileo và Darwin; Trong thời chúng ta, nó chống lại Freud. Trong những thời, nó có sức mạnh to lớn nhất, nó đã đi còn xa hơn trong sự chống đối của nó với đời sống tri thức. Vua chiên Gregory the Great đã viết cho một thày chăn chiên trông coi hàng tỉnh nào đó một lá thư, bắt đầu: "Một báo cáo đã đến với ta mà ta không thể nhắc đến mà không nóng mặt, rằng ngươi đã giải thích cặn kẽ ngữ pháp cho một số người bạn.” Nhà chăn chiên cao cấp này bị thẩm quyền của vua chiên buộc phải chấm dứt cố gắng xấu xa này, và văn học Latinh đã không hồi phục cho đến tận thời Phục hưng. Rằng tôn giáo thì gây hại hiểm độc không chỉ về tri thức mà cũng về đạo đức nữa. Ý tôi về điều này là nó dạy những quy luật luân lý vốn không đưa đến thành quả hạnh phúc cho con người. Một vài năm trước đây, tại Germany, khi đang tiến hành một cuộc trưng cầu dân ý về việc liệu những dòng dõi hoàng tộc bị truất phế có vẫn được phép giữ những tài sản họ đã coi là của riêng hay không, những Giáo hội ở Germany đã chính thức tuyên bố rằng nếu tước đi quyền này của họ sẽ là điều trái với sự giảng dạy của đạo Kitô. Những Giáo hội, như mọi người đều biết, đã chống lại việc bãi bỏ chế độ nô lệ mãi cho đến tận khi họ vẫn còn dám làm thế, và với một vài trường hợp ngoại lệ vẫn được quảng cáo là tốt đẹp, trong thời nay, họ phản đối mọi phong trào nào hướng tới sự bình đẳng kinh tế. Vua chiên đã chính thức lên án chủ nghĩa Xã hội.

Đạo Kitô và Tình Dục

Tuy nhiên, đặc tính tồi tệ nhất của đạo Kitô là thái độ của nó đối với tình dục – một thái độ quá bệnh hoạn và quá phản tự nhiên khiến chỉ có thể hiểu được khi đặt nó trong tương quan với sự tật nguyền đau ốm của thế giới văn minh vào thời Đế Quốc Rome đã đang mục rữa. Đôi khi chúng ta nghe nói đến tác động khiến tư tưởng Kitô đã cải thiện thân phận của phụ nữ. Đây là một trong những sự xuyên tạc thô bỉ trắng trợn nhất của lịch sử mà nó có thể làm được. Phụ nữ không thể được hưởng một địa vị có thể chấp nhận được trong xã hội, khi trong đó điều được xem là cực kỳ quan trọng rằng họ phải không nên vi phạm một hệ thống quy luật đạo đức rất cứng rắn. Những nhà tu đã luôn luôn xem người Nữ chủ yếu như ‘giống Cái cám dỗ’; Họ đã nghĩ về Nàng chính yếu như người khơi dậy những thèm khát dục tình tội lỗi. Sự giảng dạy của Giáo hội, đã và vẫn là, trinh tiết là tốt nhất, nhưng hôn nhân thì được phép cho những ai là người thấy điều này không thể giữ nổi. “Tốt hơn để kết hôn thay vì để bị đốt”, như thánh chiên Paul đã nói.[8] Bằng cách làm hôn nhân không thể hủy bỏ được, và bằng cách dập tắt mọi kiến thức về ars amandi [9] , Giáo hội đã làm những gì nó có thể làm, để bảo đảm rằng hình thức quan hệ tình dục duy nhất, vốn nó cho phép, nên gồm rất ít vui thú và thật nhiều đau đớn. Việc chống đối sự ngừa thai, trong thực tế, có cùng động cơ: nếu một phụ nữ có một đứa con hàng năm cho đến khi nàng mòn mỏi chết đi, không thể giả định được rằng nàng sẽ nhận được nhiều vui thú từ đời sống lứa đôi của nàng; do đó sự ngừa thai phải làm cho thoái chí.

Khái niệm về Tội lỗi, vốn nó được buộc chặt với đạo đức Kitô, là một khái niệm gây một số lượng tai hại đặc biệt khác thường, vì nó có thể đem cho mọi người một khả năng tìm lối thoát cho chủ nghĩa bạo dâm của họ, vốn họ tin là chính đáng, và thậm chí là cao thượng. Chẳng hạn, hãy lấy ví dụ, về vấn đề phòng bệnh syphilis [10] . Được biết, bằng những biện pháp phòng ngừa trước, làm nguy cơ mắc bệnh này có thể trở thành không đáng kể. Tuy nhiên, những người Kitô phản đối việc phổ biến kiến ​​thức về sự kiện này, bởi vì họ chủ trương rằng những “kẻ tội lỗi” bị trừng phạt là điều tốt! Họ giữ ‘điều tốt’ này đến mức họ thậm chí còn sẵn lòng chấp nhận trừng phạt với cả những người vợ và con của “kẻ có tội”. Hiện có trên thế giới vào thời điểm này hàng nghìn trẻ em bị bệnh syphilis bẩm sinh, những người hẳn đã không bao giờ được ra đời, nhưng chỉ do ước muốn của những người Kitô để thấy những kẻ tội lỗi bị trừng phạt. [11] Tôi không thể hiểu được làm thế nào những giáo lý dẫn đến sự độc ác tàn bạo này lại có thể được xem là có bất kỳ tác động tốt nào trên đạo đức.

Không chỉ nhìn về phương diện hành vi tình dục, nhưng cũng còn về phương diện kiến ​​thức của những đề tài tình dục, rằng thái độ của những người Kitô thì nguy hiểm cho phúc lợi loài người. Mọi người, ai đã gắng thử nghiên cứu vấn đề này trong một tinh thần vô tư đều biết rằng sự ngu dốt tự gây nên, về những đề tài tình dục mà những người Kitô chính thống cố gắng để thực hiện với giới trẻ thì vô cùng nguy hiểm cho sức khoẻ tinh thần và thể chất, và gây ra trong những người nhận lấy kiến ​​thức của họ bằng lối nói chuyện “không đứng đắn”, như hầu hết trẻ em làm, một thái độ rằng tình dục tự nó thì “nhảm nhí” và đáng nhạo báng khinh miệt. Tôi không nghĩ rằng có thể có được bất kỳ một biện hộ nào cho quan điểm rằng kiến ​​thức thì từng bao giờ lại không đáng mong có. Tôi sẽ không nên đặt những rào cản trên đường tiếp thu kiến ​​thức của bất cứ ai ở mọi lứa tuổi. Nhưng trong trường hợp đặc biệt của kiến ​​thức về Tình Dục có những luận chứng nghiêng về tán thành nó vững mạnh hơn nhiều so với trong trường hợp của hầu hết kiến ​​thức khác. Một người ít có khả năng hành động khôn ngoan khi người ấy thiếu hiểu biết, hơn là khi người ấy được dẫn dạy, và là điều phi lý đáng khinh miệt để cho những người trẻ một cảm giác của “tội lỗi”, vì họ có một sự tò mò tự nhiên về một vấn đề quan trọng. Mọi em bé trai đều có thích thú chú tâm với những đoàn tàu hỏa. Giả sử chúng ta nói với cậu bé rằng một ham thích với những tàu hoả là xấu xa tội lỗi; Giả sử chúng ta băng kín mắt cậu bé bất cứ khi nào cậu bé đang ở trên một tàu hoả, hay trong một nhà ga; Giả sử chúng ta không bao giờ cho phép từ “tàu hỏa” được nhắc đến nếu có sự hiện diện của cậu bé, và giữ chặt một bí ẩn không thể xuyên thủng về phương tiện mà cậu bé được di chuyển nơi này sang nơi khác. Kết quả không phải là cậu bé sẽ ngưng sự thích thú chú tâm đến những đoàn tàu hỏa; Trái lại, cậu bé sẽ trở nên thích thú chú tâm hơn bao giờ hết, nhưng sẽ có cảm giác tội lỗi, bởi vì sự ham thích này đã được trình bày với cậu bé là không phải, là trái phép. Tất cả những cậu bé có trí thông minh năng động có thể do cách thức này gây cho vướng chứng suy nhược thần kinh, ở một mức độ ít hay nhiều nào đó. Đây chính là những gì đã được thực hiện trong vấn đề tình dục; Nhưng, vì tình dục thì thú vị hơn tàu hỏa, nên kết quả tồi tệ hơn. Hầu như mọi người trưởng thành trong cộng đồng những người Kitô đều ít nhiều bị bệnh thấm thỏm lo lắng như một kết quả của tabu [12] về kiến ​​thức tình dục khi họ còn trẻ. Và cảm giác về tội lỗi vốn đã được cấy ghép nhân tạo như thế là một trong những nguyên nhân của sự tàn ác, nhút nhát và ngu ngốc trong cuộc sống sau này. Không có nền tảng lý trí nào, thuộc bất kỳ loại nào, hay thứ nào, để giam giữ một đứa trẻ trong sự không hiểu biết gì về bất cứ gì mà đứa trẻ có thể muốn biết, dù là về tình dục hay về bất kỳ vấn đề nào khác. Và chúng ta sẽ không bao giờ có được một dân chúng có đầu óc lành mạnh, cho đến khi sự kiện này được nhìn nhận trong giáo dục nhi đồng, nhưng điều đó thì không thể, cho đến chừng nào những Giáo hội có khả năng để kiểm soát chính trị giáo dục.

Đặt những phản đối tương đối chi tiết này sang một bên, rõ ràng là những học thuyết căn bản của đạo Kitô đòi hỏi rất nhiều vặn vẹo đạo đức đến méo mó, trước khi chúng có thể được chấp nhận. Chúng ta được cho biết, thế giới đã được tạo ra bởi một Gót là ‘đấng’ vừa tốt tuyệt đối vừa có khả năng tuyệt đối. Trước khi Ông dựng nên thế giới, Ông đã nhìn thấy trước tất cả mọi đau đớn và khốn khổ mà nó sẽ chứa đựng; Do đó, ông chịu trách nhiệm về tất cả. Thật là không đi đến đâu để biện luận rằng đau đớn trên thế giới là do ‘tội lỗi’. Trước tiên, điều này thì không đúng sự thật; không phải là do tội lỗi khiến những con sông dâng nước gây lũ lụt, hay những núi lửa bùng nổ gây khô cháy. Nhưng ngay cả khi nếu đó là sự thật, điều ấy sẽ vẫn không làm nên khác biệt nào. Nếu tôi sắp sinh một đứa con, biết rằng đứa trẻ sẽ là một kẻ điên loạn giết người, tôi tất sẽ phải chịu trách nhiệm về những tội ác của nó. Nếu Gót đã biết trước những tội lỗi mà con người sẽ phạm, ông thì rõ ràng chịu trách nhiệm với tất cả những hậu quả của những tội lỗi đó, khi ông quyết định tạo ra con người. Biện luận thông thường của đạo Kitô là sự đau khổ trên thế giới là một sự thanh tẩy, gột rửa cho tội lỗi, và như thế là một điều tốt. Lập luận này là, tất nhiên, chỉ là một sự hợp lý hóa của chủ nghĩa bạo dâm độc ác [13] ; Nhưng trong bất kỳ trường hợp nào thì đó là một luận chứng rất nghèo nàn. Tôi sẽ mời bất kỳ người Kitô nào đi cùng tôi đến khu trẻ em của một bệnh viện, để xem ở đó có những đau khổ đang phải chịu đựng, và sau đó người ấy nếu có tiếp tục khẳng định rằng những đứa trẻ này quá truỵ lạc, đã bị ruồng bỏ, nên chúng xứng đáng với những gì đang kham chịu. Ngõ hầu để đem chính mình đi đến nói ra điều này, một người phải hủy diệt trong chính mình tất cả tình cảm của khoan dung và thương xót. Nói vắn tắt, người ấy phải làm chính mình trở nên cũng độc ác như Gót mà người ấy tin tưởng. Không người nào – là người tin rằng trong thế giới đau khổ này tất cả (những gì xảy ra như thế) là cho sự tốt lành nhất – có thể giữ những giá trị đạo đức của người ấy không bị tật nguyền, vì người ấy luôn phải tìm những lý do để bào chữa cho đau đớn và khốn khổ.

Những Phản đối với Tôn giáo

Những phản đối với tôn giáo có hai loại – trí tuệ và đạo đức. Sự phản đối về trí tuệ là rằng không có lý do nào để giả định bất kỳ một tôn giáo nào là đúng [14] ; sự phản đối về đạo đức là rằng những giới luật tôn giáo ra đời từ một thời khi con người đã độc ác hơn họ hiện nay, và do đó có khuynh hướng làm tồn tại mãi mãi những điều phi nhân vốn lương tâm đạo đức của thời đại tất đã vượt qua, nếu như đã không có khuynh hướng như thế.

Để nói về sự phản đối trí thức ​​trước tiên: trong thời đại thực tiễn của chúng ta có một khuynh hướng nhất định nào đó cho rằng đừng bận tâm về liệu giảng dạy tôn giáo thì đúng hay không, vì câu hỏi quan trọng là liệu nó thì có ích hay không. Tuy nhiên, một câu hỏi không thể được quyết định cho khéo, nếu không với một câu hỏi khác. Nếu chúng ta tin vào đạo Kitô, những khái niệm của chúng ta về những gì là tốt lành sẽ khác với những gì chúng sẽ là, nếu chúng ta không tin vào nó. Do đó, đối với những người Kitô, những ảnh hưởng của đạo Kitô có thể có vẻ tốt, trong khi đối với những người không tin tưởng, chúng có vẻ xấu. Hơn nữa, thái độ mà một người phải nên tin một mệnh đề như vậy và như vậy, độc lập với câu hỏi liệu có chứng cớ nào để ủng hộ nó không, là một thái độ tạo thù địch với bằng chứng, và khiến chúng ta đóng chặt não thức của chúng ta với mọi sự kiện không vừa vặn với tiên kiến của chúng ta.

Một loại nhất định nào đó của óc vô tư khoa học là một phẩm tính rất quan trọng, và nó là một loại vốn khó có thể có được trong một ai là người tưởng tượng rằng có những sự vật việc vốn nhiệm vụ của người ấy là để tin tưởng chúng. Do đó, chúng ta không thể quyết định liệu tôn giáo có làm được gì tốt hay không mà không cần điều tra vấn đề liệu tôn giáo thì đúng hay không.

Đối với những người Kitô, Muslim và Jew, câu hỏi cơ bản nhất liên quan đến sự đúng thực của tôn giáo là sự hiện hữu của Gót. Trong những thời tôn giáo vẫn còn thắng thế, từ “Gót” đã có một nghĩa hoàn toàn rõ ràng; Nhưng như một hậu quả của những tấn công của những nhà tư tưởng Duy lý, từ này đã trở nên ngày càng loãng nhạt hơn, mơ hồ hơn, đến khi khó có thể nhìn thấy ý của người ta khi họ khẳng định rằng họ tin vào Gót. Để bàn luận, chúng ta hãy lấy định nghĩa của Matthew Arnold: “Một quyền năng không phải tự thân chúng ta, vốn hướng đến sự ngay thẳng đạo đức.” Có lẽ chúng ta có thể làm điều này trở nên ngay cả còn mơ hồ hơn, và tự hỏi liệu chúng ta có bất kỳ bằng chứng nào về mục đích trong vũ trụ này, bên cạnh những mục đích của những sinh vật trên mặt của hành tinh này. Luận chứng thông thường của những người có tôn giáo về đề tài này thì đại thể như sau: “Tôi và những bạn bè của tôi đều là những cá nhân có đức hạnh và thông minh tuyệt vời. Khó có thể hình thành trong óc được rằng nhiều thông minh và đức hạnh như thế lại có thể xảy ra ngẫu nhiên. Thế nên, ít nhất phải có một ai đó, cũng thông minh và đức hạnh như chúng tôi, là người đẩy guồng máy vũ trụ vào chuyển động với một dự kiến tạo ra Chúng tôi” [15] . Tôi xin lỗi khi nói rằng tôi không thấy luận chứng này tuyệt vời đáng phục như nó được nhìn thấy thế bởi những ai là người sử dụng nó. Vũ trụ thì lớn rộng; dẫu vậy, nếu chúng ta tin Eddington [16] , có lẽ không nơi nào khác trong vũ trụ có những sinh vật thông minh như con người. Nếu bạn xem xét tổng lượng vật chất trên thế giới và so sánh nó với khối lượng hình thành những cơ thể của những sinh vật thông minh, bạn sẽ thấy rằng con số sau có tỷ lệ gần như nhỏ vô cùng với con số trước. Do đó, ngay cả khi xác xuất cực kỳ lớn lao đến hầu như không thể nào xảy ra rằng những luật của ngẫu nhiên sẽ tạo ra một cơ cấu sinh vật có khả năng thông minh từ một lựa chọn ngẫu nhiên của những atom, tuy nhiên có thể xảy ra rằng sẽ có trong vũ trụ một số rất nhỏ của những sinh vật loại như thế mà chúng ta quả thực tìm thấy trong thực tế.

Khi đó, lại nữa, đã xem như đỉnh cao của một tiến trình lớn rộng bao la dường vậy, chúng ta có vẻ không thực sự để đủ gọi là tuyệt vời. Dĩ nhiên, tôi nhận thức được rằng nhiều những nhà gót-học thì tuyệt vời hơn tôi rất nhiều, và rằng tôi không thể trọn vẹn cảm kích những công lao cho đến giờ đã nâng cao (thông minh) của riêng tôi. Dẫu sao đi nữa, ngay cả sau khi tính đến những thêm vào đầu óc này, tôi không thể không nghĩ rằng đấng Toàn năng hoạt động trong tất cả thời gian vĩnh cửu hẳn có lẽ đã tạo ra một gì đó tốt đẹp hơn. Và sau đó chúng ta phải ngẫm nghĩ rằng ngay cả kết quả này xảy ra chỉ là một hết sức ngắn ngủi. Trái đất sẽ không mãi giữ trong tình trạng có thể sinh sống được; Loài người sẽ chết hết, và nếu tiến trình vũ trụ là để minh chứng cho chính nó từ đây về sau, nó sẽ phải làm như vậy ở nơi nào khác hơn trên mặt của hành tinh chúng ta. Và ngay cả điều này nếu có xảy ra, sớm hay muộn, nó phải dừng lại. Luật thứ hai về nhiệt động lực học khiến chắc chắn là không thể không nghi ngờ rằng vũ trụ thì đang cạn kiệt, và rằng đến tận cùng không gì, dù đáng quan tâm dẫu chỉ mảy may, sẽ có thể có được ở bất cứ đâu [17] . Tất nhiên, chúng ta có thể nói rằng khi đến thời gian đó, Gót sẽ lại lên dây cót cho guồng máy; nhưng nếu chúng ta có nói điều này, chúng ta chỉ có thể dựa sự khẳng định của chúng ta trên niềm tin tôn giáo, chứ không trên một mảnh nhỏ nào của bằng chứng khoa học. Cho đến nay, theo như những bằng chứng khoa học, vũ trụ đã bò qua từng giai đoạn chậm chạp đi đến một kết quả đáng thương trên trái đất này, và đang tiếp tục bò qua những giai đoạn, lại còn đáng thương hơn nữa, đến một tình trạng của cái chết phổ quát. Nếu điều này được nhận như bằng chứng của mục đích, tôi chỉ có thể nói rằng mục đích là một điều không hấp dẫn với tôi. Do đó, tôi không thấy lý do để tin vào bất kỳ một loại Gót nào, cho dù mơ hồ đến đâu và thu giảm loãng nhạt thưa mỏng đến đâu. Tôi để qua một bên những luận chứng siêu hình cũ, vì chính những nhà bào chữa tôn giáo đều đã ném bỏ chúng.

Hồn người và sự bất tử

Sự nhấn mạnh của đạo Kitô về hồn người cá thể đã có một ảnh hưởng sâu xa trên luân lý của những cộng đồng người Kitô. Nó là một học thuyết có nền tảng cơ bản gần gũi với của những triết gia phái Stoics, nổi lên như của họ đã nổi lên trong những cộng đồng thôi không còn có thể ấp ủ những hoài bão chính trị. Động lực tự nhiên của cá nhân mạnh mẽ có nhân cách tử tế là cố gắng để làm tốt, nhưng nếu người này bị tước hết mọi quyền lực chính trị và mọi cơ hội để ảnh hưởng vào những gì xảy ra, người này sẽ bị đẩy lệch hướng ra khỏi tiến trình tự nhiên của mình, và sẽ quyết định rằng điều quan trọng là để là tốt. Đây là những gì đã xảy ra với những người Kitô đầu tiên; nó đã dẫn đến một khái niệm về sự thánh thiện cá nhân như một gì đó hoàn toàn độc lập với hành động đem lại ích lợi, vì sự thánh thiện phải là một gì đó có thể đạt đến được bởi những người bất lực trong hành động. Vì thế đức hạnh xã hội đã bị loại trừ khỏi đạo đức của đạo Kitô. Cho đến ngày nay, những người Kitô thường nghĩ rằng một người ngoại tình thì xấu xa hơn một người làm chính trị nhận hối lộ, mặc dù người sau có thể gây nhiều tổn hại gấp nghìn lần.

Quan niệm thời trung cổ về đức hạnh, như người ta thấy trong những bức tranh của họ, đã là về một gì đó không có thực chất, yếu ớt, và tình cảm. Người có đạo đức nhất là người đã rút ra khỏi thế giới; Những người duy nhất của hành động đã được coi như những ‘vị thánh’ là những người đã phí phạm mạng sống và của cải của những người dưới quyền của họ trong chiến tranh với những người Turk, như ‘thánh chiên’ Louis [18] . Giáo hội sẽ không bao giờ xem một người như một vị ‘thánh’ vì người này đã cải cách tài chính, hay luật hình sự, hay tư pháp [19] . Những đóng góp như vậy cho phúc lợi của con người được coi chỉ là không quan trọng. Tôi không tin rằng trong danh sách những thánh chiên gán mỗi ngày trong lịch hàng năm, lại có được một thánh chiên duy nhất nào mà công trạng của ông là do công trình phục vụ phúc lợi công cộng [20] .

Với sự tách biệt này giữa con người xã hội và con người đạo đức, đã đi đến một sự tách biệt ngày càng tăng giữa hồn người và thể xác, vốn đã tồn tại trong siêu hình học của đạo Kitô và trong những hệ thống triết học bắt nguồn từ Descartes. Người ta có thể nói, một cách rộng rãi, rằng thân xác đại diện cho phần xã hội và cộng đồng của một người, trong khi hồn người đại diện cho phần riêng tư cá nhân. Khi nhấn mạnh vào hồn người, đạo đức Kitô đã làm tự nó thành hoàn toàn cá nhân. Tôi nghĩ điều là rõ ràng rằng kết quả thực và cuối cùng của tất cả những thế kỷ của giáo thuyết Kitô là đã từng làm cho con người trở nên tự cao tự đại hơn, trong bản thân họ đã khép kín câm lặng hơn, hơn là tự nhiên đã làm họ; Vì những xung lực vốn tự nhiên mang một người ra bên ngoài những bức tường của tự ngã của người ấy là của tình dục, gia đình, và lòng yêu nước hay bản năng bầy đàn.

Tình dục, Giáo hội đã làm tất cả mọi thứ có thể làm được để giảm giá trị và làm suy thoái phân hủy; Tình cảm gia đình đã bị chính Christ và số đông đi theo ông khiển trách; Và lòng yêu nước, không thể tìm được chỗ đứng nào trong những quần thể dân chúng của Đế quốc Rome. Cuộc tranh cãi chống lại gia đình trong những sách ghi chép cuộc đời của Christ là một vấn đề chưa nhận được sự chú ý xứng đáng của nó. Giáo hội đối xử với Mẹ của Christ bằng sự tôn kính, nhưng chính ông đã cho thấy rất ít ỏi của thái độ này. “Người đàn bà kia, ta có dính dáng gì với ngươi?” (John 2, 4) là cách ông nói chuyện với bà[21] . Ông cũng nói rằng ông đã đến để đặt một người con trong xung đột chống lại cha người ấy, con gái chống lại mẹ người ấy, và con dâu chống lại mẹ chồng người ấy, và rằng ai là người yêu cha và mẹ người ấy nhiều hơn yêu ông, thì không xứng đáng với ông (Matt, 10, 35-37). [22] Tất cả những điều này có nghĩa là sự tan rã của quan hệ gia đình sinh học vì mục đích của tin tưởng tôn giáo – một thái độ có rất nhiều liên quan với sự không khoan dung vốn đã đi vào thế giới cùng với sự lan truyền của đạo Kitô.

Chủ nghĩa cá nhân này lên tới đỉnh cao trong học thuyết về sự bất tử của hồn người cá nhân, vốn tin rằng sau này sẽ tận hưởng hạnh phúc vô cùng hay bất hạnh vô tận tùy theo những hoàn cảnh. Những hoàn cảnh trong đó sự khác biệt quan trọng này đã tùy thuộc thì khá là đáng tò mò nên biết. Thí dụ, nếu bạn chết ngay sau khi một nhà chăn chiên rảy ‘nước thánh’ lên người bạn, trong khi lẩm bẩm một số từ ngữ nào đó, bạn thừa hưởng hạnh phúc vĩnh cửu; Ngược lại, nếu sau một đời dài và đạo đức, bạn bị sét đánh đúng trong giây phút đương khi bạn dùng thứ ngôn ngữ tồi tệ (như chửi thề) vì bạn làm đứt một sợi dây giày, bạn sẽ thừa hưởng sự đày đọa vĩnh cửu. Tôi không nói rằng những người Kitô Phản Thệ thời nay tin điều này, cũng không phải ngay cả những người Kitô Catô thời nay, những người đã chưa được dạy dỗ đầy đủ về gót-học; Nhưng tôi nói rằng quả thực đây là học thuyết chính thống và đã được tin tưởng vững chắc cho đến tận thời gần đây.

Những người (thực dân) Spaniards (xâm lăng) ở Mexico và Peru đã thường làm phép ‘rửa tội’ cho những trẻ sơ sinh dân bản địa America và sau đó ngay lập tức đập vỡ óc chúng ra: bằng cách này họ bảo đảm rằng những trẻ sơ sinh này đã lên Thiên Đàng. [23] Không một người Kitô chính thống nào có thể tìm thấy bất kỳ lý do hợp lý nào để lên án hành động này của họ, mặc dù tất cả ngày nay đều làm như vậy. Trong vô số cách thức, học thuyết về sự bất tử cá nhân dưới dạng Kitô của nó đã có những ảnh hưởng thảm khốc cho đạo đức, và sự tách rời siêu hình của hồn người và thân xác đã có những ảnh hưởng thảm hại cho triết học.

Những nguồn gốc của sự không khoan dung

Sự không khoan dung, thù hận lan rộng khắp thế giới với sự xuất hiện của đạo Kitô là một trong những đặc điểm đáng thắc mắc nhất, theo tôi nghĩ, là đến từ niềm tin của người Jew về tính đạo hạnh chính trực[24] và về thực tại độc nhất của Gót Jew. Tại sao người Jew đã có những khác thường này thì tôi không biết. Chúng dường như đã phát triển trong thời gian dân Jew lưu vong như một phản ứng chống lại nỗ lực để thu hút người Jew vào những nhóm người ngoài. [25] Tuy nhiên, những người Jew, và đặc biệt là những tiên tri, đã phát minh ra sự nhấn mạnh vào tính đạo hạnh chính trực cá nhân và ý tưởng rằng nó là xấu xa để khoan dung bất cứ tôn giáo nào ngoại trừ một. Hai ý tưởng này đã có một tác động thảm khốc bất thường vào lịch sử phương Tây.

Giáo hội đã làm ồn ào lớn chuyện về sự bức hại những người Kitô của Nhà nước Rome trước thời hoàng đế Constantine. Sự đàn áp này, tuy nhiên, đã là nhẹ nhàng và không liên tục, lúc có lúc không, và hoàn toàn chính trị. Trong suốt thời gian, từ thời Constantine cho đến cuối thế kỷ XVII, những người Kitô bị chính những Kitô khác bức hại còn dữ dội hơn là họ đã bị những hoàng đế Rome đàn áp. Trước khi có sự nổi lên của đạo Kitô, thái độ bức hại tôn giáo này đã không từng được biết đến trong thế giới thời cổ, ngoại trừ giữa những người Jew. Nếu bạn đọc, ví dụ như, Herodotus, bạn sẽ thấy một vài giải thích nhạt nhẽo và độ lượng về những tập quán của những quốc gia xa lạ mà ông có dịp đến thăm. Đôi khi, quả đúng, là có một phong tục man rợ đặc biệt nào đó có thể gây chấn động cho ông, nhưng nhìn chung, ông rất thân thiện với những gót nước ngoài và phong tục nước ngoài. Ông đã không lo lắng để chứng minh rằng những người gọi Zeus bằng một vài tên gọi khác sẽ phải chịu sự trừng phạt vĩnh cửu, và phải bị xử tử để sự trừng phạt của họ có thể bắt đầu càng sớm càng tốt. Thái độ này đã được dành riêng cho những người Kitô. Đúng là người Kitô hiện đại ít cứng rắn hơn, nhưng đó không phải là nhờ vào đạo Kitô; Đó là nhờ vào những thế hệ của những người tư tưởng tự do, từ thời Phục hưng đến ngày nay, những người đã làm cho những người Kitô cảm thấy xấu hổ về nhiều những tin tưởng truyền thống của họ. Thật là khôi hài khi nghe người Kitô thời nay nói với bạn rằng đạo Kitô thì thực sự dịu nhẹ và duy lý đến chừng nào!, và làm ngơ trước sự kiện rằng tất cả sự sự dịu nhẹ và duy lý của nó là đều đến từ sự giảng dạy của những người vốn trong thời của họ đã bị tất cả những người Kitô chính thống khủng bố.

Không ai ngày nay tin rằng thế giới đã được tạo ra vào năm 4004 TCN; Nhưng không lâu cho cho lắm trước đây, sự hoài nghi trên điều này đã được nghĩ là một tội ác ghê tởm. Cụ cố-cố nội của tôi, sau khi quan sát độ sâu của dung nham trên những sườn núi Etna, đã đi đến kết luận rằng thế giới phải là cổ hơn, so với lý thuyết Kitô chính thống đã giả định, và cụ đã công bố ý kiến ​​này trong một cuốn sách. Vì “phạm tội” này, cụ đã bị trục xuất khỏi quận hạt, và đã phải chịu sự tẩy chay của xã hội. Nếu cụ đã là một người trong hoàn cảnh khiêm tốn hơn, sự trừng phạt cụ chắc chắn đã nặng nề hơn. [26] Không công trạng gì từ những người Kitô chính thống khiến họ bây giờ không còn tin vào tất cả những điều ngớ ngẩn vốn đã được tin tưởng mới 150 năm trước đây. Sự ‘thiến hoạn’ dần dần học thuyết Kitô đã có tác dụng, bất chấp sức đề kháng mạnh mẽ nhất, và chỉ như là kết quả của những tấn công của những người tư tưởng tự do, không-tin-có-gót.

Học thuyết về Ý chí Tự do

Thái độ của những người Kitô về vấn đề luật của Tự nhiên đã từng là dao động và không chắc chắn đến gây tò mò thắc mắc. Một mặt, đã có một học thuyết về ý chí tự do, phần lớn những người Kitô tin vào nó; và học thuyết này đã đòi hỏi rằng những hành vi của con người, ít nhất sẽ không phải tuân theo luật của Tự nhiên. Mặt khác, đặc biệt trong thế kỷ thứ XVIII và XIX, đã có một tin tưởng vào Gót như Đấng Ban Luật và vào luật tự nhiên như một trong những bằng chứng chính cho sự hiện hữu của một đấng SángTạo. Trong thời gian gần đây, sự chống đối với sự cai quản của luật tự nhiên, vì mục đích bảo vệ cho ý chí tự do, đã bắt đầu được cảm nhận mạnh mẽ hơn sự tin tưởng vào luật tự nhiên như bằng chứng có thể dành cho một Đấng Ban Luật.

Những nhà Duy vật đã dùng những định luật của vật lý để cho thấy, hay cố gắng cho thấy, rằng những chuyển động của cơ thể con người đều tất định về cơ học, và rằng hệ quả là tất cả mọi sự vật việc chúng ta nói và mọi thay đổi về vị trí chúng ta có tác động, đều nằm ngoài phạm vi của bất kỳ ý chí tự do nào nếu có thể có được. Nếu điều này là như vậy, bất cứ sự vật việc gì may ra có thể còn lại cho những khả năng ý chí không bị giam giữ của chúng ta thì có giá trị ít ỏi. Nếu, khi một người viết một bài thơ hay phạm tội giết người, những động tác cơ thể liên quan đến hành động của người này chỉ do những nguyên nhân vật chất, có vẻ như phi lý để dựng một bức tượng cho người này trong một trường hợp và để treo cổ người này trong trường hợp kia. Có thể trong những hệ thống siêu hình nhất định nào đó, vẫn còn có một khu vực của suy tưởng thuần túy, trong đó ý chí sẽ là tự do; Nhưng vì rằng chỉ có thể truyền thông đến người khác bằng những phương tiện của động tác thân xác, vương quốc của tự do tất sẽ là một lĩnh vực có thể không bao giờ là đối tượng của truyền thông, và có thể không bao giờ có bất kỳ quan trọng xã hội nào.

Sau đó, lại nữa, học thuyết tiến hóa đã có một ảnh hưởng đáng kể với những người Kitô đã chấp nhận nó. Họ đã thấy rằng sẽ là điều trái khoáy và chướng tai, để làm những tuyên bố nhân danh cho con người vốn chúng đều hoàn toàn khác với những tuyên bố vốn được làm nhân danh cho những dạng khác của sự sống. Vì vậy, để bảo vệ ý chí tự do trong con người, họ đã phản đối mọi nỗ lực nhằm giải thích hành vi của vật chất sống trong những thuật ngữ của những luật vật lý và hóa học. Quan điểm của Descartes, đi tới kết quả rằng tất cả những động vật ‘hạ đẳng’ đều là những ‘máy tự động’[27] , thôi không còn được những nhà gót học tự do ưa thích. Học thuyết về sự liên tục [28] làm họ đã có khuynh hướng để đi một bước lại còn xa hơn nữa, và chủ trương rằng ngay cả những gì được gọi là vật chất chết thì không bị cai quản cứng nhắc trong hành vi của nó bằng bất kỳ những luật lệ không thay đổi nào. Họ xem dường đã bỏ qua sự kiện là nếu bạn bãi bỏ sự cai quản của luật lệ, bạn cũng hủy bỏ sự có thể có của những ‘phép lạ’, vì nếu những phép lạ là những hành động của Gót vốn chúng có thể vượt phạm những luật lệ cai quản những hiện tượng thông thường. Tuy nhiên, tôi có thể tưởng tượng nhà gót-học tự do hiện đại chủ trương với một vẻ thâm thuý rằng mọi sự sáng tạo thì đều kỳ diệu, như thế khiến ông thôi không còn cần thắt chặt trên những xảy ra nhất định nào đó như những bằng chứng đặc biệt về sự can thiệp của Gót.

Dưới ảnh hưởng của phản ứng này chống lại luật tự nhiên, một số nhà biện hộ của đạo Kitô đã nắm lấy những học thuyết mới nhất về atom, có xu hướng cho thấy rằng những luật vật lý mà chúng ta từ trước đến nay vẫn tin tưởng, đều chỉ có một gần đúng và (xác xuất) trung bình của sự thật khi áp dụng với một số lượng lớn những atom, trong khi những electron riêng biệt thì hoạt động rất giống như theo ý nó thích. Tin tưởng của riêng tôi rằng đây là một giai đoạn tạm thời, và rằng chẳng bao lâu những nhà vật lý sẽ tìm ra những định luật cai quản những hiện tượng của thế giới cực nhỏ, mặc dù những luật này có thể khác biệt đáng kể so với những định luật của vật lý truyền thống. [29] Tuy nhiên, dẫu có thể sẽ là thế nào chăng nữa, điều đáng kể là để quan sát rằng những học thuyết hiện đại về lĩnh vực gồm những hiện tượng của thế giới cực nhỏ, thì không chứa đựng ảnh hưởng nào đến bất cứ gì vốn có quan trọng thực tiễn. Những chuyển động nhìn thấy, và thực sự tất cả những chuyển động làm được bất kỳ khác biệt nào với bất kỳ một ai, đều gồm một số lượng rất lớn những atoms vốn chúng đi đến trọn vẹn trong phạm vi của những định luật cũ. Để viết một bài thơ hay thực hiện một vụ giết người (quay trở lại minh hoạ trước của chúng ta), cần di chuyển một khối lượng đáng kể của mực hay chì. Những electron gồm trong chất mực in có thể nhảy múa tự do quanh phòng khiêu vũ nhỏ bé của chúng, nhưng phòng khiêu vũ như một toàn bộ thì di chuyển theo những định luật của vật lý cũ, và chỉ điều này mà thôi là những gì nhà thơ và nhà xuất bản của ông quan tâm. Do đó, những học thuyết hiện đại không mang ý nghĩa nào tiếp nhận được với bất kỳ một vấn đề nào của lợi ích con người, với chúng nhà gót-học có sự quan tâm.

Như thế, câu hỏi về ý chí tự do vẫn nằm đúng vị trí nó đã có. Bất cứ gì có thể được nghĩ về nó như một vấn đề sau cùng của siêu hình học, thì rõ ràng là không ai tin vào nó trong thực tế. Tất cả mọi người đã luôn luôn tin rằng là để rèn luyện hay đào tạo cá tính con người là điều có thể làm được: Mọi người đã đều biết rằng rượu hay thuốc phiện sẽ có một tác động nhất định nào đó trên hành vi ứng xử. Những ‘sứ đồ’ rao giảng ý chí tự do duy trì rằng một người có thể bởi khả năng của ý chí tránh được bị say rượu, nhưng ông không duy trì rằng một người có thể nói “Hiến pháp Anh” khi say rượu cũng rõ ràng như khi người này tỉnh táo. Và tất cả những ai từng làm việc với những trẻ em đều biết rằng một chế độ ăn uống thích hợp quả thực làm cho chúng trở nên đạo đức hơn những lời rao giảng hùng hồn nhất thế giới. Một trong những tác dụng của học thuyết ý chí tự do trong thực hành là để ngăn ngừa mọi người đi theo hiểu biết thực tiễn thông thường loại như vậy để đi đến kết luận hợp lý của nó. Khi một người hành động theo những cách làm phiền chúng ta, chúng ta muốn nghĩ rằng người ấy thì xấu xa, và chúng ta từ chối đối mặt với thực tế là hành vi gây phiền nhiễu của người ấy là kết quả của những nguyên nhân trước đó, mà nếu bạn theo dõi chúng đủ lâu dài, sẽ đưa bạn vượt quá thời điểm ra đời của người ấy, và do đó đến những sự kiện mà người ấy không thể bị buộc có trách nhiệm bằng bất kỳ một mảnh kéo dài nào của tưởng tượng.

Không ai đối xử một chiếc xe hơi cũng ngu xuẩn như người ấy đối xử với một con người khác. Khi xe không chạy, người ấy không qui gán hành vi gây phiền nhiễu của nó với ‘tội lỗi’; Người ấy không nói, “Mày là một chiếc ô tô độc ác, và tao sẽ không cho mày thêm xăng nữa cho đến khi nào mày chạy!” Nhưng người này cố gắng tìm ra chuyện gì đã sai và chữa nó thành đúng. Một cách tương tự để đối xử với con người, tuy nhiên, thì được coi là trái với những ‘chân lý’ của đạo Kitô ‘thánh thiện’ của chúng ta. Và điều này cũng áp dụng ngay cả trong việc điều trị những trẻ nhỏ. Nhiều đứa trẻ có những thói quen xấu vốn bị sự trừng phạt làm cho thành xấu vĩnh viễn, nhưng có thể sẽ tự mất đi nếu đừng để ý đến. Tuy nhiên, những người nuôi dạy trẻ, với rất ít trường hợp ngoại lệ, xem trừng phạt là làm điều đúng, mặc dù làm như vậy họ phạm vào nguy hiểm có thể gây nên điên dại. Khi điên dại đã được gây ra, nó được thuật lại trong những tòa án như là một bằng chứng về sự gây tai hại của thói quen, không phải của hình phạt. (Tôi đang nói về việc một truy tố gần đây về tội ‘vi phạm thuần phong mỹ tục’ ở tiểu bang New York [30] ). Những cải cách trong giáo dục đã xảy đến, rất nhiều phần qua sự nghiên cứu về những người điên dại và có não thức yếu nhược, vì họ không bị gán cho trách nhiệm đạo đức đối với những thất bại của họ, và do đó đã được chữa trị một cách khoa học hơn so với những trẻ bình thường. Đến tận rất gần đây, đã chủ trương, nếu một đứa trẻ không thể học được bài học của nó, cách chữa bệnh đúng là đánh đòn bằng roi hay gậy. Quan điểm này gần như đã không còn nữa trong việc đối xử với trẻ em, nhưng nó vẫn tồn tại trong luật hình sự. Rõ ràng là một người có một khuynh hướng với tội ác phải bị giam giữ lại, nhưng cũng phải làm thế với một ai là người bị thú vật cắn, mắc bệnh ‘dại’, sợ nước [31] và muốn cắn người khác, mặc dù không ai coi người này có trách nhiệm đạo đức. Một người mắc bệnh dịch hạch phải bị giam giữ cho đến khi người này được chữa khỏi, mặc dù không ai nghĩ người này là độc ác xấu xa. Cùng một điều nên được thực hiện với một người phải chịu khổ sở vì có một khuynh hướng để phạm vào làm những giả mạo; Nhưng không nên có thêm ý kiến ​​về phạm tội trong trường hợp này hơn trong trường hợp kia. Và đây chỉ là một hiểu biết thực tiễn thông thường, mặc dù nó là một hình thức của hiểu biết thực tiễn thông thường mà đạo đức học và siêu hình học Kitô phản đối.

Để phán đoán về ảnh hưởng đạo đức của bất kỳ tổ chức nào đối với cộng đồng, chúng ta phải xem xét loại xung lực nào được hiện thân trong tổ chức, và đến mức độ nào mà tổ chức này tăng hiệu quả của xung lực trong cộng đồng đó. Đôi khi xung lực liên quan thì khá rõ ràng, đôi khi nó thì ẩn chìm hơn. Một hội Alpine của những người leo núi, lấy thí dụ, hiển nhiên là hiện thân của xung lực để phiêu lưu, và một hội hàn lâm của những học giả hiện thân cho xung lực hướng tới kiến ​​thức. Gia đình như một tổ chức hiện thân cho lòng ghen tuông nam nữ và tình cảm làm cha mẹ; Một câu lạc bộ bóng tròn hay một đảng chính trị là hiện thân của xung lực hướng đến lối chơi mang tính đua tranh; Nhưng hai tổ chức xã hội lớn nhất – cụ thể là Giáo hội và nhà nước – đều phức tạp hơn trong động cơ tâm lý của chúng. Mục đích chính của nhà nước rõ ràng là bảo đảm an ninh chống lại cả tội phạm bên trong lẫn kẻ thù bên ngoài. Nó bắt nguồn từ khuynh hướng trẻ em chen rúc vào nhau khi chúng sợ hãi, và tìm kiếm một người lớn là người sẽ cho chúng một cảm giác của an toàn.

Giáo hội có những nguồn gốc phức tạp hơn. Chắc chắn nguồn quan trọng nhất của tôn giáo là sợ hãi; Điều này có thể nhìn thấy được ngay trong thời hiện tại, vì bất cứ sự vật việc gì gây nên hoảng hốt báo động đều dễ dàng xoay những suy nghĩ của con người đến Gót. Chiến trận, dịch bệnh, và đắm tàu, ​​tất cả đều có khuynh hướng làm cho người ta thành có tôn giáo. Tuy nhiên, tôn giáo cũng có những kêu gọi khác, bênh cạnh kêu gọi đó của khiếp hãi; Nó đặc biệt kêu gọi tới lòng tự hào của con người. Nếu đạo Kitô là đúng, loài người không phải là những con giun đáng thương đến thế, như họ xem dường là; Họ là trong sự chú tâm của đấng Sáng tạo của vũ trụ, là người không quản ngại để lấy làm làm hài lòng với họ khi họ cư xử tốt lành, và không hài lòng khi họ cư xử tồi tệ. Đây là một sự tán dương lớn lao. Chúng ta không nên nghĩ đến việc nghiên cứu một tổ kiến ​​để tìm ra những con kiến ​​nào làm nhiệm vụ ‘làm kiến’ của chúng, và chắc chắn chúng ta không nên nghĩ đến việc loại riêng ra những con kiến đã chểnh mảng và ném chúng vào đám lửa cháy [32] . Nếu Gót làm điều này cho chúng ta, đó là một sự tán dương cho sự quan trọng của chúng ta; Và nó thậm chí còn là một tán dương sung sướng thích thú hơn nếu ông thưởng cho những người tốt trong chúng ta hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đường. Sau đó có một ý tưởng tương đương trong thời nay rằng sự tiến hóa vũ trụ thì được thiết kế để mang lại loại kết quả vốn chúng ta gọi là tốt – đó là nói rằng, loại kết quả đem cho chúng ta sung sướng. Ở đây một lần nữa là điều tâng bốc để giả sử rằng vũ trụ thì kiểm soát bởi một Hữu thể là người cũng chia sẻ những thị hiếu và thành kiến của chúng ta.[33]

Ý tưởng về sự đạo hạnh chính trực

Xung lực tâm lý thứ ba được hiện thân trong tôn giáo là điều đã dẫn tới khái niệm về sự đạo hạnh chính trực. Tôi biết rằng nhiều người tư tưởng tự do nghiên cứu khái niệm này với sự kính trọng lớn và đã cho rằng nó nên được giữ lại bất chấp sự phân rã của tôn giáo giáo điều. Tôi không thể đồng ý với họ về điểm này. Sự phân tích tâm lý của ý tưởng về sự đạo hạnh chính trực xem dường với tôi cho thấy rằng nó đã có gốc từ những đam mê không nên mong muốn có, và không nên được sự tán thành công khai của lý trí làm cho mạnh thêm. Sự đạo hạnh chính trực và sự không đạo hạnh chính trực phải được kết hợp với nhau; không thể nhấn mạnh vào một này mà không nhấn mạnh vào một kia. Bây giờ, trong thực tế “không đạo hạnh chính trực” là gì? Nó là hành vi ứng xử thực tế thuộc một loại không được bầy đàn ưa thích. Bằng cách gọi nó là không đạo hạnh chính trực, hay không đạo hạnh, và bằng cách sắp xếp một hệ thống đạo đức phức tạp xung quanh khái niệm này, bầy đàn tự biện chính cho mình trong việc trút sự trừng phạt xuống những đối tượng không được riêng nó ưa thích, trong khi cùng lúc, vì bầy đàn thì đạo hạnh chính trực theo định nghĩa, nó làm tăng tự hào riêng của nó lên, ngay tại thời điểm nó thả lỏng xung lực của nó để là tàn nhẫn. Đây là tâm lý học của đám đông mù quáng đánh và treo cổ giết nghi phạm không màng đến pháp luật [34], và của những cách khác trong đó những tội phạm bị trừng phạt. Yếu tính của khái niệm về đạo hạnh chính trực, do đó, là đem lại khả năng cho một lối xả thoát cho chủ nghĩa bạo dâm bằng cách đội lốt tàn ác như là công lý.

Nhưng, có thể nói, giải thích mà bạn vừa đem cho tính đạo hạnh chính trực thì hoàn toàn không thể áp dụng được cho những tiên tri Hebrew, là người, sau tất cả, với sự cho thấy của chính bạn, đã phát minh ra ý tưởng. Có sự thật trong điều này: Tính đạo hạnh chính trực qua miệng lưỡi của những tiên tri Hebrew có nghĩa là những gì đã được họ và Yahweh chấp nhận. Người ta tìm thấy cùng một thái độ diễn tả trongsách Công vụ các Tông Đồ, nơi mà những Tông Đồ bắt đầu tuyên bố bằng những lời “Vì nó xem dường tốt lành với Gót Ma [35] , và với chúng ta...” (Acts 25: 28). [36] Tuy nhiên, sự chắc chắn cá nhân này về phần thị hiếu và quan điểm của Gót thì không thể được lấy làm cơ sở cho bất cứ tổ chức nào. Điều đó đã từng luôn luôn là khó khăn mà đạo Phản Thệ đã buộc phải tranh cãi: một vị tiên tri mới có thể chủ trương rằng điều được vén lên cho thấy của ông thì có giá trị hơn những người trước ông, và không có gì trong quan điểm tổng quát của đạo Phản Thệ cho thấy tuyên bố này là không hợp lệ. Do đó đạo Phản Thệ chia thành vô số những giáo phái, làm suy yếu lẫn nhau; Và có lý do để giả định rằng một trăm năm sau kể từ đây, đạo Catô do đó sẽ là đại diện có tác dụng duy nhất của đức tin Kitô. Trong Giáo hội Catô, sự linh cảm loại như của những nhà tiên tri đã tán thưởng thì có chỗ đứng của nó; Nhưng người ta nhận ra rằng những hiện tượng vốn trông nhiều phần giống như cảm hứng thần thánh đích thực có thể đã được lấy cảm hứng từ Satan, và đó là công việc của Giáo hội để phân biệt cho tách bạch, cũng đúng như công việc của những người sành sỏi mỹ thuật để biết một tranh Leonardo thực với một tranh vẽ giả. Trong cách này, đồng thời sự vén lên cho thấy trở thành được thể chế hoá. Đạo hạnh chính trực là những gì Giáo hội chấp nhận, và không đạo hạnh chính trực là những gì nó không đồng ý. Thế nên, phần có tác dụng của khái niệm về đạo hạnh chính trực là sự biện minh cho sự thù ghét của bầy đàn.

Do đó, dường như ba xung lực con người được hiện thân trong tôn giáo là sợ hãi, kiêu căng và hận thù. Mục đích của tôn giáo, người ta có thể nói, là để đem cho một vẻ của tôn trọng với những đam mê này, miễn là chúng chạy trong những kênh nhất định. Đó là bởi vì những đam mê này, trên toàn bộ, tạo ra đau khổ con người khiến tôn giáo là một sức mạnh của cái ác, vì nó cho phép con người dầm mình trong những đam mê này với không kiềm chế, ở đó ngoại trừ sự chuẩn y may ra chúng có, ít nhất đến một mức độ nào đó kiểm soát chúng.

Tôi có thể tưởng tượng ở điểm này một phản đối, chắc chắn sẽ không được phần lớn những tín đồ chính thống thúc dục nhưng dẫu sao vẫn đáng để xem xét. Hận thù và sợ hãi, có thể nói, là những cá tính thiết yếu của con người; Loài người luôn luôn đã và luôn luôn sẽ cảm thấy chúng. Điều tốt nhất bạn có thể làm với chúng, tôi được bảo, là hướng chúng vào một số luồng chảy nhất định nào đó mà chúng ít gây hại hơn chúng sẽ gây hại nếu ở trong một số luồng chảy khác. Một nhà gót học Kitô có thể nói rằng sự đối xử với chúng của Giáo hội thì cũng tương tự như cách đối xử của Giáo hội với xung lực tình dục, vốn nó đáng trách. Nó cố gắng trả lại sự vô hại cho nhục dục, bằng cách hạn chế nó bên trong những phạm vi của hôn nhân. Vì vậy, có thể nói, nếu loài người chắc chắn sẽ không tránh khỏi phải cảm thấy hận thù, nó tốt hơn là nên hướng hận thù này chống lại những ai là người thực sự gây hại, và đây chính là những gì mà Giáo hội thực hiện bằng khái niệm của nó về đạo hạnh chính trực.

Có hai trả lời với luận điểm này – một tương đối nông cạn, trên mặt nổi; một kia đi đến gốc của vấn đề. Trả lời nông cạn là rằng khái niệm của Giáo hội về đạo hạnh chính trực thì không phải là điều tốt nhất có thể có được; trả lời nền tảng là rằng hận thù và sợ hãi, với kiến ​​thức tâm lý hiện tại của chúng ta và kỹ thuật công nghiệp hiện tại của chúng ta, có thể được loại trừ hoàn toàn khỏi đời sống con người.

Lấy điểm thứ nhất trước hết. Khái niệm của Giáo hội về đạo hạnh chính trực thì không ai ưa thích hay mong muốn, về mặt xã hội trong nhiều cách khác nhau – trước nhất và trên hết, trong sự hạ giá, coi khinh trí tuệ và khoa học. Khiếm khuyết này được thừa hưởng từ những sách ghi chép về Jesus. Christ bảo chúng ta hãy trở thành như những đứa trẻ nhỏ, [37] nhưng những đứa trẻ nhỏ không thể hiểu được toán học vi phân, hay kinh tế học về tiền tệ, hay những phương pháp y học hiện đại chống lại bệnh tật. Để thu tập được kiến ​​thức loại như vậy không là phần nhiệm vụ của chúng ta, theo như Giáo hội. Giáo hội thôi không còn dám chắc rằng kiến thức tự nó là tội lỗi, mặc dù nó đã làm như thế trong những ngày huy hoàng của nó; Nhưng việc thu thập kiến ​​thức, mặc dù không tội lỗi, thì nguy hiểm, vì nó có thể dẫn đến một sự tự hào trí tuệ, và do đó đến một tra hỏi về tín điều đạo Kitô. Chẳng hạn, lấy thí dụ, hai người đàn ông, một người trong số họ đã dập tắt bệnh sốt vàng da trong một số khu vực lớn ở vùng nhiệt đới, nhưng trong quá trình hoạt đông này, ông đã đôi khi có những quan hệ với những phụ nữ mà ông không kết hôn; Trong khi người kia lại lười biếng và hèn kém, sinh con năm một cho đến khi vợ ông này chết vì kiệt sức, và chẳng chăm sóc gì đến đám con cái của mình, khiến chúng chết một nửa vì những nguyên nhân có thể ngăn ngừa được, nhưng ông này không bao giờ thoả mãn quan hệ tình dục bất chính. Mỗi người người Kitô tốt phải chủ trương rằng người thứ hai trong hai người này thì đạo đức hơn người thứ nhất. Thái độ như vậy, tất nhiên, là mê tín và hoàn toàn trái với lý trí. Tuy nhiên, một gì đó của sự phi lý này thì không thể tránh được cho đến khi nào sự tránh được tội lỗi thì được cho là quan trọng hơn công trạng tích cực, và cho đến chừng nào sự quan trọng của kiến ​​thức như là một sự trợ giúp cho một đời sống hữu ích thì không được nhìn nhận.

Phản đối thứ hai và nền tảng hơn với sự sử dụng sợ hãi và hận thù được Giáo hội thực hành là rằng ngày nay những cảm xúc này có thể hầu như hoàn toàn được loại bỏ khỏi bản chất con người, bằng những cải cách về giáo dục, kinh tế, và chính trị. Những cải cách giáo dục phải là cơ bản, vì những người cảm thấy hận thù và sợ hãi cũng thán phục những cảm xúc này và muốn duy trì chúng cho lâu dài, mặc dù sự thán phục và ước muốn này có thể là vô thức, như trong những người Kitô bình thường. [38] Một nền giáo dục được hoạch định với mục đích loại bỏ sự sợ hãi thì chắc chắn không phải là khó khăn để tạo ra nếu muốn. Chỉ cần đối xử với một đứa trẻ bằng sự tử tế, đặt nó vào một môi trường trong đó sáng kiến có thể khởi xướng nhưng không đưa đến những kết quả thảm khốc, và để tránh cho đứa trẻ khỏi phải tiếp xúc với những ai là người lớn nhưng có những kinh hoàng không hợp lý, dù là với bóng tối, với chuột, hay với cách mạng xã hội. Một đứa trẻ cũng không phải chịu hình phạt nghiêm khắc, hay những trách mắng quá nặng và quá đáng. Để cứu một đứa trẻ khỏi hận thù là một việc làm phức tạp hơn. Những tình huống khởi lên sự ghen tức phải được tránh né rất cẩn thận bằng những phương tiện của sự thận trọng và công lý chính đáng giữa những trẻ em khác nhau. Một đứa trẻ phải cảm thấy bản thân mình là đối tượng của tình cảm ấm áp của một số người, ít nhất là của những người lớn mà nó có liên hệ, và nó phải không bị ngăn trở trong những hoạt động tự nhiên và sự tò mò tìm hiểu của nó, ngoại trừ khi nguy hiểm đến đời sống hay sức khoẻ. Đặc biệt, không có tabu về kiến ​​thức tình dục, hay về trò chuyện những vấn đề mà người lớn vẫn thường xem là ‘không thích hợp’. Nếu những quy tắc đơn giản này được tuân theo ngay từ đầu, đứa trẻ sẽ là không sợ hãi và là thân thiện.

Khi bước vào tuổi trưởng thành, một người trẻ tuổi được giáo dục như thế sẽ tự thấy mình rơi vào một thế giới đầy bất công, đầy tàn ác, đầy khổ đau vốn có thể ngăn ngừa được. Sự bất công, tàn ác và đau khổ hiện hữu trong thế giới ngày nay là một thừa kế từ quá khứ, và nguồn gốc sau cùng của chúng là kinh tế, vì sự cạnh tranh sống còn cho những phương tiện của sự sinh tồn đã là không thể tránh khỏi trong những thời trước. Nó không phải là không thể tránh khỏi trong thời của chúng ta. Với kỹ thuật công nghiệp hiện nay, nếu chúng ta chọn, chúng ta có thể cung cấp sinh kế khả dĩ đủ sống cho tất cả mọi người. Chúng ta cũng có thể bảo đảm rằng dân số thế giới sẽ đứng yên nếu chúng ta không bị cản trở bởi ảnh hưởng chính trị của những hội nhà thờ vốn thích chiến tranh, dịch bệnh và nạn đói hơn kiếm soát sinh sản bằng ngừa thai. Những kiến ​​thức mà trong đó hạnh phúc phổ quát có thể được bảo đảm thì hiện diện; Trở ngại chính đối với sự đem nó dùng vào mục đích đó là sự giảng dạy của tôn giáo. Tôn giáo ngăn cản những trẻ em của chúng ta có được một nền giáo dục dựa trên lý trí; Tôn giáo ngăn cản chúng ta loại bỏ những nguyên nhân căn bản của chiến tranh; Tôn giáo ngăn cản chúng ta giảng dạy về đạo đức của sự hợp tác khoa học thay cho những học thuyết ác nghiệt lỗi thời của tội lỗi và trừng phạt. Có thể nhân loại đang ở trên ngưỡng cửa của một thời hoàng kim; Nhưng nếu vậy, trước hết cần phải giết con rồng canh giữ cửa, và con rồng này là tôn giáo.[39]



[40] tôi thường tránh dùng từ này, vì theo tôi gọi thế thực sự không hoàn toàn đúng theo cách dùng và cả theo từ nguyên của nó, ‘atheism’ có nghĩa đơn giản, như tôi vẫn dịch, là ‘không tin có gót’; và trong triết học, văn học phương Tây, gót viết với chữ ‘G’ hoa, nghĩa là gót của ba tôn giáo Juda, Kitô, và Islam. Như thế vô thần là quan điểm tự nhiên của (a) tất cả loài người, trước khi có những tôn giáo, và vẫn cả trong ngày nay, của (b) khoảng 1/2 dân số thế giới, gồm những người không theo những tôn giáo Abraham rất mới này; vì ‘atheism’ là ‘không tin có Gót’; một Gót viết hoa, gót duy nhất (một ‘thực tại độc nhất’ Russell nói ở trên), một gót trong tin tưởng của những tôn giáo Abraham (Gót, Allah, Yahweh). Thêm nữa, nếu không tin có gót, bất kể gót nào (Zeus, Brahma, Vishu, Shiva, Thor,…) là quan điểm đáng kính trước sau của những người có tư tưởng tự do, đến từ những ‘hiểu biết thực tiễn thông thường’, không mê tín tôn giáo, là cơ bản của trí tuệ khoa học ngày nay (‘thưa đức vua, tôi không cần đến giả thuyết này’ [41] ) , thì ‘vô thần’ là thái độ nguyên thủy, thông thường và tự nhiên sẵn có của con người, từ những thời đại mông muội đến tiến bộ.

2.

Những bài viết của Russell về tôn giáo trong thế kỷ vừa qua, nổi tiếng được biết với những tấn công đầy cương quyết, đầy sôi nổi, mạnh mẽ, đôi khi độc hại, tấn công vào tôn giáo, những Giáo hội khác nhau, những tín ngưỡng khác loại, và tất cả những động lực làm cho người ta nghiêng về tôn giáo. Thuật ngữ “Nhà Thờ”, hoặc “hội những Nhà thờ” trong các bài viết của Russell nói về mặt tổ chức của đạo Kitô, cả Kitô Roma (Vatican) và Kitô Phản thệ, tất cả những giới thẩm quyền về học thuyết của của nó (những nhà chuyên nghiên cứu về gót (nhà gót học), và những nhà tư tưởng chuyên bào chữa và biện hộ cho lý thuyết gót học của nó (Christian apologist), và những nhà chăn chiên trong một tổ chức hình pyramid, từ cấp thấp nhất, trông coi một làng, xã, đến cấp tỉnh, thành phố, đến cấp cao nhất, trên đỉnh của pyramid này là vua chiên), tất cả những ai là người trong thực tế, đã và vẫn đang duy trì, diễn giải, bào chữa, và truyền bá, rao giảng những giáo điều của tôn giáo này.

Russell định nghĩa tôn giáo là “một tập hợp gồm những tin tưởng được giữ như những giáo điều, thống trị mọi sinh hoạt của đời sống, vượt quá hoặc trái với bằng chứng, và được cấy trồng nhồi sọ bởi những phương pháp vốn là tình cảm hoặc uy quyền độc đoán, nhưng không trí tuệ”. [42] Định nghĩa này, có thể phân tích để thấy có bốn đặc điểm quan trọng. Thứ nhất, bản chất của niềm tin là giáo điều hoặc dựa trên thẩm quyền tuyệt đối (chân lý như một gì đó dấu kín với con người, nhưng một số người, những tiên tri tôn giáo, tự tuyên bố rằng chỉ mình, và chính mình đã được lựa chọn, đã được ‘vén lên cho thấy’ chân lý). Thứ hai, niềm tin không chỉ không dựa trên bằng chứng, mà thậm chí có thể trái ngược với những bằng chứng. Thứ ba, vì niềm tin có thể không dựa trên bằng chứng, nó có thể thiếu sự minh chứng trí thức, hay lý trí hợp lý. Và thứ tư, đặc tính không hợp lý thường có của niềm tin khiến nó là thiết yếu để ‘đức tin’ phải được do một uy quyền xa lạ áp đặt trên cá nhân con người, hoặc bằng cách kêu gọi những tình cảm của con người, hay kêu gọi, nhắc nhở tới những thẩm quyền không thực sự can hệ gì với họ. Uy quyền dùng để áp đặt niềm tin được những người, – tự tuyên bố là người chăm giữ tôn giáo và nắm những địa vị trong tổ chức nhân danh nó – thực hành. Russell dùng từ ‘ niềm tin’(belief) và ‘đức tin’ (faith) hoán đổi cho nhau Ông định nghĩa niềm tin, hay ‘đức tin’, nghĩa là tin tưởng tôn giáo, là ‘một tin tưởng vững chắc vào một sự vật việc gì đó vốn không có bằng chứng”. [43] Theo định nghĩa này của ông, rõ ràng là bất kỳ tín ngưỡng nào nếu mang tính giáo điều (chỉ gót của tín ngưỡng mình mới là gót thực, chỉ sách đạo của mình mới là sách ‘Thánh’, chỉ tôn giáo của mình mới là ‘đạo’, là ‘công giáo’, những tôn giáo khác là ‘ngoại đạo’, tà đạo’, …) đều trở thành một tôn giáo. Russell ghép chung chủ nghĩa Cộng sản với đạo Kitô, vì chủ nghĩa Cộng sản (đặc biệt theo những hình thức Lenin/Stalin), theo ông, không chỉ là một học thuyết chính trị, nó cũng là một tôn giáo có ‘đức tin’ giáo điều phức tạp, và khởi hứng từ những văn bản của Marx (Bản tuyên ngôn quốc tế Cộng sản). Những người Cộng sản có niềm tin, thí dụ, vào thuyết kinh tế giá trị thặng dư của Marx, hay ‘chủ nghĩa cộng sản sẽ là giai đoạn lịch sử cuối cùng của loài người’; trong khi những người Kitô có vô số những niềm tin, dĩ nhiên trong mức độ thì rất phi lý và hết sức hàm hồ hơn nhiều, nên họ phải tự tôn sùng như một thứ phẩm hạnh đạo đức, gọi là ‘đức tin’, thí dụ, sự sống lại của Christ, sự tận thế, sự phán xét cuối cùng của Gót, sự vĩnh cửu của linh hồn, ... Ít hay nhiều, chúng đều không thể chứng minh được hoàn toàn, dù thuần lý hay bằng chứng cứ.

Chúng ta có thể thấy định nghĩa trên của Russell thì giới hạn về phạm vi, ông chủ yếu nhìn vào bản chất thể chế hoá, cấu trúc hóa, hay tổ chức hóa của tôn giáo; nên khi ông nói về tôn giáo, chúng ta có thể thêm ‘tôn giáo có tổ chức’ mà không sợ sai lầm. Nếu chúng ta thử mượn một định nghĩa khác về tôn giáo, thí dụ để tạm so sánh phạm vi bàn luận; hãy xem tôn giáo là (a) ‘một cơ thể, một sinh vật có sáu chiều, điển hình gồm những giáo lý, huyền thoại, giáo thuyết đạo đức, nghi thức, và những tổ chức xã hội, và tất cả sống động qua những kinh nghiệm tôn giáo nhiều loại” (như nói trong The Varieties of Religious Experience: A Study in Human Nature của William James, hay The Sociology of Religion của Emile Durkheim), hay khuynh hướng mới trong thế kỷ này (b) tôn giáo là một hiện tượng của thế giới tự nhiên [44] (thực ra, quay về với nhận định đã nhắc ở trên của chính Russell ‘Tôn giáo chủ yếu là một hiện tượng xã hội’). Russell trước sau liên tục tấn công những Giáo hội (‘the Church’, ở đây, tôi dùng thay cho từ ‘giáo hội’, hay từ tự tâng bốc ‘hội thánh’) đã được thiết lập vững chãi ở phương Tây, đặc biệt nhấn mạnh vào những khía cạnh lý thuyết và đạo đức của tôn giáo. Điều này, có lẽ, sự nhấn mạnh này làm Russell thu hẹp phạm vi của định nghĩa về tôn giáo của ông. Những tôn giáo phương Đông, mặt khác chẳng hạn, thực sự có sự quan tâm nhiều hơn đến những khía cạnh tôn giáo trong kinh nghiệm sống cá nhân, sinh hoạt xã hội và nghi lễ tín ngưỡng. Thêm nữa, cũng cần thiết phải có một định nghĩa toàn diện hơn về tôn giáo, để hiểu được hiện tượng này vốn đã ảnh hưởng con người qua suốt lịch sử nhân loại. Tôn giáo, như chúng ta có thể nói, là sự nhận hiểu, dù qua sợ hãi hay thán phục, về một thực tại siêu việt, thần thánh hay trên thần thánh, và điển hình qua những dạng thức xã hội, đạo đức, nghi thức, kinh nghiệm, huyền bí và tư tưởng nó gọi là giáo lý.

Không phải Russell không biết đến những khía cạnh này của tôn giáo. Trong bài viết “Yếu tính và Hiệu quả của Tôn giáo”, Russell nói về một “kinh nghiệm của sự khôn ngoan bất ngờ vốn là nguồn gốc của những gì là yếu tính trong tôn giáo” vốn chủ nghĩa huyền bí diễn dịch nó như một sự tiếp xúc với một thế giới sâu xa hơn, trung thực hơn và thống nhất hơn, so với của những tin tưởng chung của chúng ta. [45] Ông không phủ nhận sự kiện rằng có những xung lực của con người vốn làm nên tôn giáo. Nhưng những xung lực đó khi bị những tôn giáo thuần phục và thể chế hóa, đã đưa ra một quan điểm tôn giáo méo mó và còi cọc về đời sống và đạo đức, nó ức chế khát vọng của con người để sống trong một thế giới rộng lớn của sáng kiến và hy vọng.

3.

Russell nói rằng sợ hãi Thiên nhiên khiến tôn giáo đã xảy ra. Sợ hãi là cơ sở của tín điều tôn giáo. Ông nói “Sợ hãi là nền tảng của toàn bộ sự việc – sợ hãi sự bí ẩn, sợ thất bại, sợ cái chết.” [46] Người ta tìm thấy một phản đề “giữa những sự vật việc có thể bị ảnh hưởng bởi những ham muốn của chúng ta và những sự vật việc vốn không thể bị ảnh hưởng như thế” [47] bất chấp những tiến bộ khoa học con người đã thực hiện đươc. Sức mạnh của con người thì rất hạn chế trên trái đất, con người không thể ngăn chặn cái chết, nhưng chỉ có thể trì hoãn nó. Russell đồng ý rằng tôn giáo là một nỗ lực để vượt qua phản đề này. Trong bài viết Những gì tôi tin tưởng Russell nói: “Nếu thế giới thì được Gót kiểm soát, và nếu Gót có thể làm lay chuyển được bằng cầu nguyện, chúng ta có được một phần chia của sự toàn năng. Thế nên, sự tin tưởng vào Gót vẫn phục vụ cho sự nhân văn hóa thế giới tự nhiên, và làm cho người ta cảm thấy rằng những sức mạnh thiên nhiên thực sự là những đồng minh của họ” [48]

Russell nghĩ rằng có ba điều làm cho con người sợ hãi; “Một là những gì thiên nhiên có thể làm cho anh ta; nó có thể đánh gục anh ta bằng sấm sét, hoặc ‘nuốt chửng’ anh ta trong một trận động đất. Và một là những gì người khác có thể làm được – họ có thể giết anh ta trong chiến tranh. Và thứ ba, vốn có rất nhiều liên quan đến tôn giáo, là những gì những đam mê mãnh liệt của chính anh có thể đưa anh đến – những điều mà anh biết rằng trong một khoảnh khắc bình tĩnh nào đó anh ta sẽ hối hận đã làm chúng. Vì những lý do như thế, hầu hết mọi người đều có rất nhiều sợ hãi trong đời sống của họ, và tôn giáo đã giúp họ không bị những sợ hãi này làm khiếp hãi.” Con người là một phần củaThiên nhiên, vốn đã tạo ra những ham muốn, hy vọng và sợ hãi của mình. Nhưng bản thân Tự nhiên thì trung lập, đúng hơn thì dửng dưng và lãnh đạm với tất cả, tự nó không mang những gía trị như tốt hay xấu, nhưng Russell đem cho con người ưu quyền cao hơn Thiên nhiên, vì con người là kẻ đã gán những giá trị như thế đó cho Thiên nhiên. Con người là trọng tài cuối cùng và không thể thiếu được về giá trị, và trong thế giới của những giá trị, Thiên nhiên chỉ là một phần. Như vậy Russell nhắc nhở con người rằng mình là vua trong lĩnh vực của những giá trị, và nếu sợ hãi Thiên nhiên, – qua hình thức tôn giáo, tin rằng những giá trị nhân văn, hay đạo đức là do một gót nào đó ban cho, – là mình thấp hèn, buông bỏ tự do lý trí của mình.

4.

Theo dõi sự tiến hóa của tôn giáo, Russell nói rằng tôn giáo là một hiện tượng phức tạp, có cả phương diện cá nhân lẫn xã hội. Những tôn giáo được biết đến sớm nhất là xã hội chứ không phải là cá nhân. Ông nói trong Giáo dục và trật tự xã hội. “Khi một người làm điều gì đó khiến các vị gót không bằng lòng, họ có khuynh hướng trừng phạt không chỉ cá nhân có tội những toàn thể bộ lạc. Do đó hành vi của cá nhân là một vấn đề quan tâm cộng đồng, vì những tệ nạn cá nhân đã gây ra những tai hoạ công cộng”. Do đó nổi lên những luật lệ đạo đức có nguồn phát sinh từ tôn giáo (‘không được làm điều này , điều kia vì nếu thế, điều này cá nhân sẽ bị Trời đánh, điều kia sẽ bị Ma bắt’, hay tập thể: ‘tai hoạ sẽ giáng xuống đoàn quân’, ‘dịch bệnh giáng xuống cả làng’, ‘hạn hán cả vùng’, ‘bão tố cho cả đoàn thuyền’ ...) mặc dù chúng lạ lùng, quái dị. Russell thừa nhận rằng đó là tôn giáo đã gây ra chúng. Sự đánh giá của ông với tôn giáo chấm dứt ở đó, như rõ ràng từ dòng sau. “Nếu có luân lý dù thế nào thì tốt hơn không có, khi đó tôn giáo là một sức mạnh để làm tốt.” [49] Mặc dù đã có một sự nhấn mạnh về khía cạnh xã hội ban đầu của tôn giáo, nó cũng đã phát triển một khía cạnh cá nhân thuần túy. Đạo Lão, đạo Phật, đạo Orphic (cổ Hellas) và các tiên tri Hebrew, theo lời của Russell, đã phát triển tính chất cá nhân này. Ông nghĩ rằng “chúng phát sinh từ nhận thức rằng đời sống tự nhiên thì buồn khổ, và thành hình sự tìm kiếm một lối sống trong đó cho phép con người thoát khỏi những bất hạnh, hoặc ít nhất có thể kham chịu được chúng”.

Với sự trôi qua của thời gian đi đến sự ra đời của những tôn giáo chính trị và những người có quan tâm đến linh hồn của cá thể. Không phải là tính cách xã hội của tôn giáo đã phát triển thành một tôn giáo chính trị, nhưng tính cách xã hội vẫn ở lại vị trí vẫn có của nó, ở đó đã phát triển một tính cách bổ sung vượt trội. Tôn giáo trở nên chính trị khi nó ảnh hưởng đến việc quản trị một quốc gia và vì những người trong guồng máy quản trị đó, theo tôi, nhận thấy tôn giáo phục vụ cho mục đích cai trị thống nhất những đế quốc rộng lớn của họ. Những nhà lãnh đạo của nhà nước trở thành những con người tôn giáo nắm giữ vai trò lãnh đạo đất nước trên cơ sở những phép tắc tôn giáo. Russell trích dẫn đạo Khổng và Islam như những thí dụ dụ về tôn giáo chính trị. Tư tưởng của Confticius đã trở thành quan tâm chủ yếu của chính quyền khi khải giải quyết những vấn đề chính trị, xã hội (Han Wude bắt đầu mở trường huấn luyện công chức, dùng kinh sách Confucius làm tài liệu giáo khoa, thi cử), và với sự thấm nhuần của các đức tính loại như ‘trung’, ‘nghĩa’,...như thế, về thực hành là để làm chính sự tốt được dễ dàng. Islam, theo Russell, ngay từ khởi đầu, đã là một tôn giáo chính trị; Tiên tri Mahomet đã tự mình là một người cai trị con người, và những Caliphs kế vị ông vẫn tiếp tục như vậy cho đến cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Đạo Kitô là tôn giáo của cá nhân do nguyên nhân thực tế là nó đã phát sinh trong số những người bị mất (tù binh, dân thuộc địa) hay không có (phụ nữ, nô lệ) quyền lực chính trị. Thành tố chính trị trong đạo Kitô đã thể hiện với Hoàng đế Constantine. Sự khác biệt Islam và Kitô là ‘Caliph kết hợp trong chính mình cả thẩm quyền thế tục và tinh thần, vốn không khác biệt với một người Muslim, trong khi đạo Kitô, bởi tính đứng ngoài-chính trị ban đầu, đã dẫn đến tạo ra hai chính trị gia đối lập, cụ thể là, vua chiên và Hoàng đế.’ (Đúng hơn là những người Kitô, ở Rome và Byzantine, đứng ngoài chính trị, nhưng tự cho là mình có thần quyền – hay gót quyền – và như thế đứng vượt trên thế quyền của những hoàng đế đương thời, theo ý tôi). Russell nhìn chủ nghĩa cộng sản (hình thức Stalinism), như nó đã phát triển ở Russia, như một tôn giáo chính trị, tương tự như Islam.

5.

Những bài viết của Russell về tôn giáo hầu hết đều giới hạn vào đạo Kitô và ít nhiều với hai tôn giáo gần gũi của nó là Juda và Islam. Hai phản đối lớn Russell đưa ra chống lại tôn giáo, ở đây là đạo Kitô, là về phương diện trí tuệ (‘Đến mức như tôi cố nhớ được, không đâu trong những sách về đời Jesus, thấy có lấy một lời nào ca ngợi trí thông minh’[50] ) và đạo đức (‘Tôi nói – với tất cả thận trọng rằng – đạo Kitô, như được tổ chức sau những Giáo hội của nó, đã từng và vẫn còn là thù nghịch chính của các tiến bộ đạo đức trên toàn thế giới.’[51] ) Vắn tắt, theo ông, đạo Kitô phản tri thức, ngay trong khu vườn nguyên thuỷ của huyền thoại Kitô, con người đã đầu tiên bị buộc tội chỉ vì ‘ăn trái cấm’ của cây kiến thức (tất cả dẫn đến một lịch sử của một "Gót học" phản triết hoc và phản khoa học). Đạo Kitô phản đạo đức [52] – bởi truyền bá một luân lý – ‘quá bệnh hoạn và quá phản tự nhiên’ – hay đúng hơn những gì đạo Kitô xem là đạo đức, đều đưa đến mâu thuấn, xung đột, trước sau đều dẫn đến những hình thức bạo động; đều phản lại những giá trị đạo đức đích thực và chân chính của con người (điển hình qua vấn đề tình dục, địa vị phụ nữ, nô lệ, chế độ thực dân, chiến tranh tôn giáo, diệt chủng, diệt văn hoá), phản lại những giá trị tôn trọng sự sống, tôn trọng tự do con người, ngày nay chúng ta gọi là những giá trị nhân văn. Russell không chú ý đến đạo đức của một tôn giáo đang thay đổi liên tục theo thời gian, vì tự nó phải thay đổi, tiến hoá để sống còn. Nhưng theo ông, để biết một tôn giáo có tốt lành hay không, trước tiên phải hỏi liệu tôn giáo đó có đúng hay không, hay có chân lý như vẫn tự xưng hay không. Và với ông đạo Kitô đã sai lầm ngay từ những tiền đề nền tảng của nó (điển hình như sự hiện hữu của Gót, sự bất tử của linh hồn...) chưa kể những những tuyên bố về khởi nguyên vũ trụ và bản chất con người, tất cả đều đã thay đổi ít nhiều vì quá lỗi thời , tất cả đều dựa trên những kiến thức mông muội, thời những bộ lạc sống du mục trên sa mạc, mới bắt đầu định cư và tạo dựng nền văn minh nông nghiệp ở vùng Trung Đông. Về đạo đức, lầm lạc từ nguồn: vì người ta tin (hay tin/tưởng rằng mình tin) theo một tôn giáo, cụ thể như đạo Kitô, không vì động cơ trí thức, nhưng vì những động cơ tình cảm (sợ hãi là nguyên nhân chính, nếu không nói là duy nhất!); và như thế Russell đã không xa với Nietzsche, người cho rằng đạo đức Kitô sinh ra như một phản ứng của những người nô lệ, và phát triển từ một tâm lý nô lệ (ressentiment) [53] , trong khi Russell, trong bài này, cũng nói tương tự: nó đã ‘nổi lên ... trong những cộng đồng vốn thôi không còn có thể ấp ủ những hoài bão chính trị’ , giữa những ‘cá nhân mạnh mẽ có nhân cách tử tế là cố gắng để làm tốt,’... (nhưng những) ‘người này bị tước hết mọi quyền lực chính trị và mọi cơ hội để ảnh hưởng vào những gì xảy ra’. Những người bất lực trong đời sống, tìm ‘cứu rỗi’ ở đời sau, giữ một đạo đức hoàn toàn dựa trên thưởng và phạt, cố sống lương thiện dưới ám ảnh cúa phán xét vô hình, nên luôn luôn ‘mắt la mày lét’ lúc nào cũng như sợ có ai đang rình rập, bắt tội mình! Một tâm lý bệnh hoạn, thích hợp với tâm lý của những người bị ‘lính kín’ theo dõi; Freud nêu thẳng thừng là tâm lý của những người Kitô là của những con bệnh thần kinh (‘neurosis)! [54] Đó là về triết học - trước câu hỏi Có phải đạo Kitô phi lý không? tất cả đều trả lời “Có’, [55] nhưng không giải thích được hiện tượng tại sao ngày nay vẫn có đông người tin theo – ở những nước chậm tiến Á Phi (hay ở nước ta, những dân tộc thiểu số). Gần đây, về lịch sử và xã hội học, đã có học giả đưa ra giải thích mới hơn – đạo Kitô là một tôn giáo dù phi lý nhưng không phải là không thể không có đông đảo người tin theo (Not the Impossible Faith) [56] vì nó đáp ứng tin tưởng của những người ít học, thiếu hay không có khả năng suy nghĩ trừu tượng, thêm có khuynh hướng thích những giải thích những biến cố lịch sử bằng ‘âm mưu’, hay xã hội bằng ‘phép lạ’, bằng ‘huyền bí’; thích những ‘chuyện lạ bốn phương’ vô lý nhưng dễ nghe vì dễ hiểu, đánh đúng vào tâm lý của một người tri thức nghèo nàn, nhưng hiếu kỳ, tò mò, thường cho rằng ‘thành hoàng làng mình không thiêng bằng thành hoàng làng kia’, hay ‘ tâm lý ‘ Bụt chùa nhà không thiêng’, và cũng là tâm lý chung từ Đông sang Tây, cho đến ngày nay ‘đứng núi này trông núi nọ”; hay đơn giản ‘cỏ sân hàng xóm xanh hơn cỏ sân mình’! Những người này rất dễ dãi về tư tưởng, không có khả năng suy nghĩ sâu xa, nhưng nhiều mơ tưởng và thèm khát. Trong hoàn cảnh đó, nếu một ai tự xưng rằng mình có quyền lực siêu nhiên, làm được những phép lạ, đi trên nước, cải tử hoàn sinh, và nhất là rằng chỉ cần tin tuyệt đối vào, và cầu nguyện với siêu nhiên đó là có tất cả những gì vẫn thầm kín ước muốn (dù ngu xuẩn, vô lý, tàn ác hay tốt lành, cao thượng đến đâu). Những người Russell đã đâu đó có nhắc đến rằng họ chả bao giờ suy nghĩ, cả đời, chỉ tin theo! (‘Hầu hết mọi người sẽ chết sớm hơn là suy nghĩ; trong thực tế, họ đều làm vậy’ lời ông).

6.

Tôi không thể không đồng ý với Russell, nên tạm dừng ở đây. Chúng ta đều biết rằng không thể nói phải trái, hay đúng sai, tốt xấu với những người như thế. Những cố gắng để chứng minh sai lầm về trí thức không đi đến đâu, dù hết luận chứng này đến luận chứng kia; vì họ tri thức hay khả năng suy luận trừu tượng đã lêch lạc. Có những học giả ngày nay đã đi đến nhận định rằng – không thể làm người ta buông bỏ một tôn giáo qua những cố gắng để giải thích tôn giáo đó, như Kitô hay Islam, là sai lầm về học thuyết, giáo lý hay tư tưởng (như Russell); đơn giản vì người ta tin theo chúng vì tình cảm, tâm lý, không vì tư tưởng. Những cố gắng giải thích về đạo đức cũng không đi đến đâu, vì mỗi tôn giáo đều tự cho là có một đạo đức riêng, siêu việt, bắt nguồn từ những sách thánh, và đều được cấy trồng, nhào nặn trong não thức họ ngay từ thơ ấu, nghĩa là khi chưa thể phân biệt đúng sai, tốt xấu, trắng đen, …Điển hình, những người Kitô, có một ‘vương quốc của Gót’ đâu đó trên cao kia, và kéo dài đến tận đằng sau cái chết (hãy trông họ cố gắng ‘cải đạo’, ‘rửa tội’ cho một người hấp hối!) , với một ‘đạo đức Kitô’ khá phức tạp, nghiêm nhặt. Không chỉ hành động, nhưng cả tư tưởng thầm kín cũng bị kiểm duyệt, theo dõi, họ phải théo đó xưng tội, cầu nguyện hàng ngày, hàng tuần. Những tín đồ tôn giáo, đặc biệt là Kitô và Islam, là những người đã nhiễm một thứ bênh tâm thần. Cho dù không nặng đến mức nguy hiểm trực tiếp đến tính mạng (dù như cóvirus trong đầu) nhưng hoàn toàn sẽ không thể chữa khỏi, đơn giản vì chính họ khăng khăng tin rằng mình không hề bị bệnh, một người ‘ngoan đạo’, giữ ‘đức tin’ đến mức như ‘thánh thiện’, luôn đi nhà thờ, năng xưng tội, lúc nào cũng sống và cố làm theo ý Gót, nhận được gì cũng khiêm tốn cho là ‘nhờ ơn trên’! bất hạnh nào xảy ra cũng ‘lỗi tại tôi, mọi đàng!’. Sao có thể gọi là có bệnh thần kinh được! Nếu một người bệnh không cho là mình bị bệnh như thế, thì có bao giờ khỏi bệnh, có bao giờ chữa chạy, tìm thày giỏi, thuốc hay! Thế nên, không bao giờ họ sẽ buông bỏ những ‘huyễn tưởng’, những ‘phi lý’ của họ, vì với họ đó là những ‘thực thể huyền nhiệm’, những ‘chân lý’ đã được ‘vén lên cho thấy’, hai nghìn năm trước, với một bộ lạc du mục, giữa sa mạc, ở một địa điểm hẻo lánh, ở Trung đông, thay vì Rome, hay Athens, hay Baghdad.

Nếu chúng ta, có người vẫn thấy cần còn phải nói, là để nói với (a) những người trẻ tuổi trong đám họ có lẽ vẫn chưa bị đầu độc nhiều, và (b) nhất là với những những người quanh họ, để những người này cần được nhắc nhở, rằng hãy luôn luôn để ý cẩn thận, đừng chểnh mảng, nhẹ dạ, để bị họ lợi dụng, quyến rũ hay mê hoặc rồi đi đến sai phạm pháp luật trần thế đương thời, gây hại cho mình và cho cả cộng đồng, xã hội của mình đang sống, và với (c) tất cả chúng ta, những người còn tỉnh táo, đừng để những tín đồ tôn giáo ẩn núp dưới danh nghĩa ‘giáo dục’ nhằm tuyên truyền, nhồi nhọ làm hư hỏng những đầu óc non trẻ, trong sạch, và lợi dụng những tổ chức y tế và xã hội để đưa đẩy, chiêu dụ những người gặp sinh kế khó khăn, sức khỏe suy yếu, hay tinh thần chao động vào mạng lưới tôn giáo vẵn giăng sẵn chờ con mồi của họ, nhất là giữ tất cả họ đứng ngoài chính trị của quốc gia, vì họ họ là những ‘dân Chúa’ chỉ nhằm phục vụ một ‘nước Chúa’, – và chúng ta biết, cũng như họ – quyền lợi của ‘nước Chúa’ và đất nước họ đang sinh sống luôn luôn có mâu thuẫn, và lợi ích của ‘dân chúa’ và của dân chúng trong một quôc gia nhiều tín ngưỡng, luôn luôn xung đột.



Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất

(Sep/2017)

(Còn tiếp...)

http://chuyendaudau.blogspot.com/

http://chuyendaudau.wordpress.com

_____________________________

[1] Bài luận văn ngắn này đã phổ biến năm từ 1929; [trong tùng thư: Little blue book, số 1463, 31 trang. Nhà xb: Haldeman-Julius Publications, Girard, Kansas, (1929)] sau cho in trong tuyển tập Tại sao tôi không là người Kitô, xuất bản năm 1936. Trong đó, bản tôi dùng để dịch, London: Unwin Paperbacks (1982), gồm những bài phê bình tôn giáo (Abraham) nổi tiếng, và một số tôi đã dịch trước đây, như:

- Tại sao tôi không là người Kitô,

- Những gì tôi Tin tưởng,

- Tôn giáo có thể chữa được các khó khăn của chúng ta không?

[2] Titus Lucretius Carus, Nhà thơ Rome, thế kỷ I TCN; học trò của Epicurus, nay còn lại tác phẩm The Nature of the Universe (Bản chất của Vũ trụ / De Rerum Natura). Epicurus và những người theo ông, như Lucretius ở đây, đã tuyên chiến với tôn giáo, vốn gây ra khiếp sợ và ngu tối cho con người. De Rerum Natura của Lucretius là một bài thơ triết học vĩ đại, chứa đựng những gì có nội dung như một tuyên ngôn của những người duy vật và không-tin-có-gót (vô thần) trong lịch sử triết học phương Tây:

“…Khi nhìn đầy đủ về đời sống của con người trên quả đất, nằm thối rữa và ghê tởm đáng ghét.

Bị nghiền nát dưới gánh nặng bất động của những gông cùm nặng nề ác độc của tôn giáo

Ai từ trời cao đã hé lộ vầng trán khô héo

Hạ thấp xuống trên đầu những con người với đe dọa đáng sợ

Ngẩng mắt của kẻ chịu phận sống chết lên thách thức, đã là một người Greek, người đầu tiên, táo bạo, thách thức trời cao;

Chống lại kẻ địch không ngưng nghỉ của con người, đã là Người đầu tiên lâm trận.

Người ấy không thể bị nghiến nát bởi những chuyện kể về các vị gót, cũng như sấm sét thịnh nộ của trời cao,

…”

[3] Gospels: vẫn dịch là “Tin Mừng”(cũng gọi là “Tân ước”, “Phúc âm”) – đơn giản là tên gọi chung bốn quyển sách kể lại cùng một câu chuyện về đời sống rất ngắn ngủi của một nhân vật huyền thoại, với những chi tiết trùng hợp, lẫn lộn, và cả mâu thuẫn. Nhân vật này được gọi là ‘Jesus người thành Narazeth’. Chủ yếu trình bày Jesus đã ra đời và đặc biệt bị giết chết như thế nào, theo khuôn của truyền thuyết Hebrew vẫn có về một ‘vị cứu thế’ tương lai của dân tộc Jews, (messiah; christus (Latin) <christos (Greek)).

[4] Đúng hơn là nhà thờ của đạo Juda (synagogue), Jesus là người theo đạo Juda

[5] Heretic: dị giáo

[6] Inquisition

[7] Vẫn gọi là ‘chân lý’

[8] I Corinthians 7:9. Bản Kinh James “But if they cannot contain, let them marry: for it is better to marry than to burn.” = “Nếu họ không tự kiềm chế, hãy cho họ lấy vợ lấy chồng; vì thà lấy nhau như thế (thoả mãn tình dục với người hôn phối) hơn là (tìm những cách khác, như tự thoả mãn, hay ngoài hôn nhân chẳng hạn) để đi đến “tội lỗi”, khiến sau khi chết phải chịu trừng phạt thiêu đốt trong hoả ngục”. Nhưng các bản tiếng Việt mới, đã né tránh ý, ngày nay bị phê phán, phải chữa chạy, của Paul, nên dịch, lấy một thí dụ, thành: ‘Nhưng nếu họ không tự chế được thì nên kết hôn. Chẳng thà kết hôn còn hơn bị lửa dục nung đốt.’ – hiển nhiên không phải nghĩa kinh Thánh muốn nói (=‘better to marry than to burn’) – vì phàm là con người lành mạnh, dù độc thân hay đã kết hôn, ai cũng ít nhiều đều bị lửa dục nung đốt. Nên quan điểm xem hôn nhân là giải pháp cho 'lửa dục' thì chẳng những sai lầm, vô giá trị, lại thêm hạ giá hôn nhân con người. Tình dục, hay 'lửa dục' đi nữa là những trạng thái tâm lý tự nhiên của con người lành mạnh, chỉ 'một thái độ quá bệnh hoạn và quá phản tự nhiên' mới gán buộc nó với khái niệm “tội lỗi”!

[9] Ars amandi (Latin): The Art of Love = Nghệ thuật Yêu Đương = tình yêu nhục cảm, cũng là nhan đề của quyển sách nổi tiếng – Ars Amatoria – của Ovidius Naso (43 TCN) về đề tài này.

[10] vẫn dịch là bệnh ‘giang mai’, tôi nghĩ nên dùng tên gọi như trên, nay cũng khá quen thuộc; thêm nữa nó giữ cho chúng ta từ nguyên: từ Syphilis, sive Morbus Gallicus, tên một bài thơ Latin (1530), trong đó nhân vật Syphilus, được cho là người đầu tiên đã biết mắc bệnh này.

[11] Năm 2007, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã ước lượng có khoảng 2 triệu trẻ con hàng năm bị nhiễmsyphilis từ người mẹ. Chưa kể, thách thức vẫn có, đến từ cùng thái độ, của Vatican với giới y tế quốc tế, điển hình qua sự chống đối của hội Nhà thờ, về việc sử dụng condom để ngăn chặn sự lan truyền HIV, một hiện tượng mới xảy ra ở cuối thế kỷ này trong những nước chậm tiến Africa.

[12] taboo: ở đây là những cấm kị không được nói ra.

[13] sadism

[14] Tưởng nên nhắc lại ở đây, trong ba tôn giáo lớn của châu Europe, cùng chung tổ Abraham: Juda, Kitô, Islam, tôn giáo nào cũng cho chỉ mình là đúng, hai tôn giáo kia là hoàn toàn sai lầm; chỉ tôn giáo của mình mới có sự thật (chân lý), chỉ Gót của mình (Yahweh, Gót, Allah) mới là gót thực. Chỉ prophet của mình (Moses, Jesus, Mohamed) mới là prophet thực. Chưa kể trong cùng tôn giáo, ba nhánh của Islam (Sunnis, Shi'as và Kharijites) cũng như ba nhánh của Kitô (Chính thống, Ca tô, Phản thệ) đều dày đặc những lịch sử lâu dài hàng thế kỷ của phân rẽ, kỳ thị, thù hận, chém giết, tiêu diệt lẫn nhau.

[15] Theo Aristotle mỗi chuyển động tương ứng với một chỗi những biến cố đưa đến chuyển động (thay đổi, tăng trưởng, tan chảy, ngội lạnh dần,...). Ông đã diễn dịch rằng tất cả (vũ trụ và nội dung của nó) phải có một động lực đầu tiên, vĩnh cửu, như một tác nhân nhưng tự nó không có tác nhân. TrongMetaphysics, ông gọi động lực đầu tiên, như nguồn của tất cả chuyển động trong vũ trụ là Đông lực chính (Prime Mover = the first, eternal, unmoved mover.)

Diễn dịch này yếu, không thuần lý, hiển nhiên không vững vì sự thiết lập của một gì đó ‘đầu tiên’ thì tùy tiện, không tất yếu, như Aristotle đã giả định, để cố dẫn tới như bằng chứng cho sự hiện hữu của Gót. Một giả thuyết khác có thể thay thế – thay vì đường thẳng, trước sau, chúng ta có một vòng tròn, trên đó, các biến cố tác động lẫn nhau, cả hai chiều, như thế không cần đến giả định một nào là đầu tiên, hay cuối cùng; tất cả vô tận, không ngừng tác động lẫn nhau (Kinh Hoa Nghiêm – trùng trùng duyên khởi: “Cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt. Cái này có nên cái kia có,...”)

[16] Sir Arthur Eddington (1882-1944) nhà vật lý thiên văn học lỗi lạc của United Kingdom, đầu thế kỷ XX.

[17] The Second Law of Thermodynamics.

[18] St. Louis: vua Louis IX (1214-1270) France, sau khi tham dự hai cuộc Thập tự chinh thứ Bảy, và thứ Tám, tuy thất bại cả hai, đã bị bắt làm tù binh, và sau cùng đã chết vì nhiễm bệnh, được phong ‘thánh chiên’ St. Louis.

[19] Nên tôi dich là ‘thánh chiên’= thánh của những con chiên Kitô, không phải của nhân loại.

[20] Nhân đây, không thể không nhắc lại – trong danh sách thánh chiên tử đạo Việtnam, chúng ta thấy những tội đồ xã hội: gián điệp nước ngoài, phản quốc, nghịch đạo, chống pháp luật triều đình đương thời, ....đây là những cái chết vì hành vi xã hội/chính trị (‘dân Chúa’ chết, hy sinh cho ‘nước Chúa’, không vì xã hội thực tại, không cho đất nước đang sống), nhưng chúng được một tin tưởng mù quáng đến bệnh hoạn, xưng tụng là ‘đức tin’ tôn giáo dẫn đạo, với động cơ chính yếu là phần thưởng vĩnh cửu đã được hứa hẹn (Matt:10:39 ‘Ai gìn giữ sự sống mình, thì sẽ mất; còn ai vì cớ ta mất sự sống mình, thì sẽ tìm lại được.’)

[21] Bản dịch: (a) tiếng Việt 1930 “Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Hỡi đờn bà kia, ta với ngươi có sự gì chăng?” – (b) Nhưng bản mới hơn (2010) đã chữa đi cho ‘lễ phép/gia giáo’, không còn giọng sách mé: “Chúa Giê-xu đáp, “Thưa mẹ [a], tại sao mẹ lại xen vào chuyện của con?” – bản King James “Jesus saith unto her, Woman, what have I to do with thee?” là bản tác giả dùng ở trên.

[22] Những câu nổi tiếng: Matt: 10:34-37: “Chớ tưởng rằng ta đến để đem sự bình an cho thế gian; ta đến, không phải đem sự bình an, mà là đem gươm dáo. Ta đến để phân rẽ con trai với cha, con gái với mẹ, dâu với bà gia; và người ta sẽ có kẻ thù nghịch, là người nhà mình. Ai yêu cha mẹ hơn ta thì không đáng cho ta; ai yêu con trai hay là con gái hơn ta thì cũng không đáng cho ta;...”

[23] Ở đây, muốn nói với ý rằng những kẻ xâm lăng, giết người, diệt chủng, diệt văn hóa này, đặc biệt những tín đồ Kitô thuần thành người Spain đã dùng lễ rửa tội (baptism) như một bào chữa. Kiểu như nói – Vâng, chúng tôi giết họ, nhưng chúng tôi đã bảo đảm rằng những ‘linh hồn’ của họ đã được cứu vớt, đã lên thiên đàng!

Nguồn của những gì tac giả kể trên, có lẽ là từ tác giả Bartolomé de las Casas (1484-1566), một nhà chăn chiên người Spain, người đã viết nhiều sách rất có ảnh hưởng về những sự ác độc của những người Spaniard đối dân chúng bản địa ở Trung America. Las Casas đã là một trong những người Europe đầu tiên đến và định cư ở Tân Thế giới, đã là một người chủ nô lệ, và năm 1510 được thụ chức thày chăn chiên Kitô. Nhưng vài năm sau, Las Casas đã trở nên tỉnh ngộ, và quả quyết rằng những hành động của những người Spain ở Tân Thế giới phải bị xem là phi pháp, và rằng bất công, ngược đãi lớn lao đã giáng xuống những người bản xứ, khi ấy gọi là ‘Indian’ (chúng ta dịch là những người ‘da đỏ’). Hệ quả là ông trả tự do cho những nô lệ của ông, và bắt đầu vận động cải cách cho một chế độ thực dân nhân đạo hơn.. Năm 1542 ông viết A Short Account of the Destruction of the Indies (Brevísima relación de la destrucción de las Indias, xuất bản năm 1552).

Đây là một câu chuyện xảy ra ở vùng Hispaniola.

“They snatcht young Babes from the Mothers Breasts, and then dasht out the brains of those innocents against the Rocks; others they cast into Rivers scoffing and jeering them, and call’d upon their Bodies when falling with derision, the true testimony of their Cruelty, to come to them, and inhumanely exposing others to their Merciless Swords, together with the Mothers that gave them Life.”

Một câu chuyện khác ở vùng Yucatan:

“No Solifidian can believe the particular Narrations of their Barbarism, and Cruelty in those Countreys. I will only relate two or three Stories which are fresh in my memory. The Spaniards used to trace the steps of the Indians, both Men and Women with curst Currs, furious Dogs; an IndianWoman that was sick hapned to be in the way in sight, who perceiving that she was not able to avoid being torn in pieces by the Dogs, takes a Cord that she had and hangs her self upon a Beam, tying her Child (which she unforunately had with her) to her foot; and no sooner had she done, yet the Dogs were at her, tearing the Child, but a Priest coming that way Baptiz’d it before quite dead”.

[24] righteousness

[25] Babylonian Exile, còn gọi là Babylonian Captivity, những người Jew bị bắt, trục xuất, lưu vong và bị cầm giữ ở Babylonia sau khi vương quốc Juda của họ bị chinh phục trong những năm 598/7 và 587/6. Sự lưu vong của dân tộc này chính thức chấm dứt vào năm 538, khi Cyrus Đại đế, Persia, sau khi chinh phục Babylonia, đã cho phép những người Jew lưu vong ở đây được trở về đất Palestine.

[26] Sir Charles Lyell, 1st Baronet, (1797 – 1875)?

[27] automata

[28] Câu nói nổi tiếng của Leibniz: natura non facit saltus (thiên nhiên không nhảy vọt).

[29] quantum physics – và tiên đoán của Russell, 1930, nay đã thành thực tại

[30] UNITED STATES v. DENNETT, 39 F.2d 564 (2d Cir. 1930) bản án về nội dung: truyền đơn giảng dạy giáo dục sinh lý thì không vi phạm luật về ‘thuần phong mỹ tục’, không phải sách khiêu dâm)

[31] hydrophobia

[32] Russell cho thấy sự ghê tởm đăc biệt của ông, ở đây và những chỗ khác, với khái niệm ác độc ‘hoả ngục’ Kitô. Từ lặt vặt nhỏ nhặt (nói dối, trộm cắp vặt, ngay cả chỉ nghĩ ngợi nhưng trái với ý gót, ngược với ý nhà thờ,...) đến lớn lao (hiếp dâm, giết người,...) nhất nhất, theo kinh Thánh, đều bị ném vào lò lửa!

[33] Russell mỉa mai: Gót là do chúng ta tạo ra – nên chúng ta muốn hay có gì thì Gót này cũng có/muốn như thế, chỉ có điều là của gót thì phải hay hơn, tốt hơn, đẹp hơn (do tưởng tượng của chúng ta)!

[34] lynching

[35] Trong nguyên văn ‘Holy Ghost’ (từ trong thánh Kinh bản King James), ngày nay đổi thành ‘Holy Spirit’ = Gót Thánh Linh, một trong ba ngôi Gót: Gót Cha (hình ảnh nguyên thuỷ của người cha, trưởng tộc, hà khắc, độc đoán....), Gót Con (nhấn mạnh vào phương diện con người, bị đổ máu, biết đau đớn,..), và Gót Ma (nhấn mạnh vào phương diện tinh thần, vô hình nên có mặt khắp nơi, đọc được những suy nghĩ thầm kín của mỗi người).

[36] “For it seemed good to the Holy Ghost, and to us, to lay upon you no greater burden than these necessary things;”

[37] Jêsus gọi một đứa trẻ đến, để ở giữa môn đồ, mà phán rằng: ‘quả thật, ta nói cùng các ngươi, nếu các ngươi không đổi lại và nên như đứa trẻ, thì chẳng được vào nước thiên đàng đâu.’(Matthew 18:2-4). & ‘Jêsus phán rằng: Hãy để con trẻ đến cùng ta, đừng ngăn trở; vì nước thiên đàng thuộc về những kẻ giống như con trẻ ấy’ (Matthew 19:14)

[38] Thí dụ: Nuôi dưỡng hận thù nghìn năm với những người Jew (‘bọn giết Chúa’) ở Europe; hay sau thế chiến thứ 2, chiến tranh lạnh, vẫn cho là giữa khối Tư bản và Cộng sản trên thế giới, thực sự là sự thể hiện của hận thù vẫn âm ỉ của những người Kitô với những người không-Kitô (sau khi là đồng minh trong thế chiến thứ 2), và đặc biệt vẫn kéo dài cho đến nay ở cả trong lẫn ngoài Việtnam (gọi những người cộng sản là ‘quỉ đỏ, ‘vô thần’, ‘độc tài’) che dấu dưới nhiều hình thức hợp thời trang (nhân quyền, dân chủ, tự do tôn giáo), nguyên nhân chính yếu chỉ vì những người Cộng sản, theo định nghĩa, không tin vào gót Kitô, kiềm giữ nhà thờ trong lĩnh vực tôn giáo của nó, không cho can dự vào chính trị (như tinh thần của cuộc cách mạng France 1789, gạt thần quyền, giáo quyền khỏi chính quyền)

[39] Ở phương Tây con rồng là biểu tượng của tà ác. Nhiều truyền thuyết mô tả rồng như quái vật tham lam, giữ những kho vàng và châu báu quý giá khác. Trong thần thoại và văn hoá dân gian phương Tây, rồng là con quái vật phải bị chinh phục. Vì rồng được xem là đại diện cho mặt đen tối của nhân loại, gồm tham lam, ham muốn, và bạo lực, sự chinh phục một con rồng tượng trưng cho sự đối đầu và dập tắt những bản năng xấu xa đó.

[40] Russell – Thế nào là một người theo thuyết Không-thể-biết?

[41] Pierre-Simon Laplace (1749-1827): “Je n'avais pas besoin de cette hypothèse-là.” trả lời Napoleon.

[42] Russell. Thực hành và lý thuyết của Bolshevik (London: George Allen & Unwin, 1975) p.55.

[43] Russell, Xã hội loài người trong Đạo đức và Chính trị (London; George Allen & Unwin, 1971) p.215.

[44] Daniel Clement. Breaking the Spell: Religion as a Natural Phenomenon

[45] Russell. Yếu tính và Hiệu quả của Tôn giáo

[46] Russell. Tại sao tôi không là người Kitô

[47] Russell. Những gì tôi tin tưởng

[48] Russell. Những bài viết cơ bản của Bertrand Russell p. 370.

[49] Russell. Education and Social Orders

[50] "So far as I can remember, there is not one word in the Gospels in praise of intelligence.”

[51] ‘I say quite deliberately that the Christian religion, as organized in its churches, has been and still is the principal enemy of moral progress in the world.’

[52] Christopher Hitchens - Đạo Kitô là một Hệ thống vô Đạo đức bản tôi tạm dịch trên blog này.

[53] Nietzsche - Về Lai lịch của Đạo đức, bản tôi dịch, đã phổ biến trên blog này

[54] Freud ‘that religion is comparable to a childhood neurosis’ xem Tương lai của một Ảo tưởng bản tôi dịch, đã phổ biến trên blog này

[55] Michael Martin – Có phải đạo Kitô phi lý không? bản tôi dịch, đã phổ biến trên blog này

[56] Richard Carrier. Not the Impossible Faith

Kiến Nghị Về Chuẫn Bị Cho Cuộc Bầu Cử Đại Biểu Quốc Hội Khóa XV (2021-2026)





Để giúp Mặt Trận Tổ Quốc và Ông Chủ Tịch lần đầu tiên làm tốt nhất công tác còn sót lại duy nhất của Mặt Trận Tổ Quốc là “giới thiệu nhân sự” và “tổ chức hiệp thương” các ứng cử viên Quốc Hội và Hội Đồng Nhân Dân các cấp, nhằm thực hiện được việc lần đầu tiên cuộc bầu cử Quốc Hội Khóa XV (2021-2026) thực sự “thành công tốt đẹp”, tôi kính đề xuất các ý kiến sau:

1) Loại Bỏ Hình Thức Tỷ Lệ Tuổi Trẻ Cho Kỳ Bầu Cử Khóa XV và Khóa XVI

Cơ quan lập pháp quốc gia đòi hỏi các nghị sĩ phải đáp ứng các tiêu chí nhất định trước hết và trên hết về trình độ tư duy, mức độ tri thức, trình độ học vấn thực thụ, quá trình công tác chuyên môn nghiệp vụ thực thụ tại doanh nghiệp. Công tác Đoàn hay tổ chức chính trị xã hội không bao giờ được xem là “kinh nghiệm làm việc cho một kế sinh nhai” vì không một văn bằng nào tại bất kỳ học viện/đại học/cao đẳng nào về chuyên ngành đào tạo công tác Đoàn như một nghề nghiệp cần thiết đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp để người tốt nghiệp có thể tham gia xin được tuyển dụng vào doanh nghiệp để công tác Đoàn chuyên nghiệp. Vì vậy, toàn do Nhà Nước tự động bố trí tại các cơ quan Nhà Nước, tự động đẩy cấp lãnh đạo Đoàn cho Mặt Trận Tổ Quốc giới thiệu/hiệp thương vào Quốc Hội để trở thành nghị sĩ danh chính ngôn thuận bất kể người đó không có trình độ tư duy, mức độ tri thức, trình độ học vấn thực thụ, quá trình công tác chuyên môn nghiệp vụ thực thụ tại doanh nghiệp.

Vì vậy, dù “tuổi trẻ” là một lợi thế trong chiến tranh chính trị nhằm quảng bá với thế giới về sự thực đã có “trẻ hóa” trong lĩnh vực chính trị dân chủ tại Việt Nam, vẫn khó thể chấp nhận nghị sĩ “trẻ tuổi” chỉ toàn là (a) thuộc giới hậu duệ của tinh hoa chính trị hoặc (b) từ giới lãnh đạo Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh không có trình độ tư duy, mức độ tri thức, trình độ học vấn thực thụ, quá trình công tác chuyên môn nghiệp vụ thực thụ tại doanh nghiệp nghĩa là không bao giờ có đủ năng lực làm công tác lập pháp mà chỉ mang danh nghĩa thuần túy bảo vệ quyền lợi thanh thiếu niên.

Vì tất cả lý do trên, Mặt Trận Tổ Quốc phải dũng cảm thuyết phục Đảng nhìn nhận lại thực lực bất khả tương hợp của Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh trong công tác lập pháp để (a) không giới thiệu lãnh đạo Trung Ương Đoàn hoặc Tỉnh Đoàn – như Trần Thị Vĩnh Nghi – vào Quốc Hội và (b) tạm không đặt chỉ tiêu tuổi tác trẻ của đội ngũ nghị sĩ vì hiện xã hội Việt Nam không có lực lượng trẻ tuổi có danh tiếng về trình độ tư duy, mức độ tri thức, trình độ học vấn thực thụ, quá trình công tác chuyên môn nghiệp vụ thực thụ tại doanh nghiệp mà thậm chí nếu có cũng không thuộc phân nhóm thuộc giới tinh hoa chính trị nước nhà cũng như không có Đảng tịch để được Mặt Trận Tổ Quốc giới thiệu, thậm chí họ không đoái hoài đến việc hy sinh thời gian chuyên môn tức làm việc kiếm tiền để tự ra ứng cử rồi kiêm nhiệm công tác nghị viện.

2) Loại Bỏ Hình Thức Tỷ Lệ Quan Chức

Do tuyệt đại đa số các nghị sĩ thuộc giai tầng đảng viên lãnh đạo từ trug ương đến địa phương, nếu lấy địa phương Thành phố Hồ Chí Minh làm cơ sở so sánh, thì việc 30 nghị sĩ chức sắc Đảng của đoàn Thành phố Hồ Chí Minh chỉ có 2 là người ngoài Đảng thì mỗi kỳ họp Quốc Hội tại Hà Nội luôn có rất nhiều nghị sĩ chức sắc nhiều lần trở về Thành phố Hồ Chí Minh họp Đảng/họp cơ quan/họp Thành phố/họp Thành ủy, chứng tỏ (a) toàn bộ các cơ quan của các nghị sĩ này đã vi phạm luật pháp quốc gia khi đã không bảo đảm thời gian công tác Quốc Hội của các nhân sự mà các cơ quan đã ký vào hồ sơ ứng cử của họ, (b) toàn bộ các nghị sĩ chức sắc Đảng vừa vi phạm pháp luật quốc gia chứng tỏ thất bại không những trong quản lý thời gian và quản lý công việc mà còn thất bại trong phân công phân nhiệm, và (c) Đảng và Nhà Nước nhất thiết phải cải tổ khẩn cấp cơ chế tổ chức phân quyền phân nhiệm vì khi một quan chức nghị sĩ ra Hà Nội dự kỳ họp thì không bất kỳ ai được phân quyền ở lại địa phương thay mặt quản lý công việc.

Vì lý do tự tung tự tác vi phạm pháp luật nêu trên của các cơ quan Đảng và chính quyền địa phương, và vì sự tổ chức luộm thuộm của các cơ quan này trong quản lý Nhà Nước, Mặt Trận Tổ Quốc nên kiến nghị với Đảng tạm thời ngưng giới thiệu đảng viên chức sắc nào ở địa phương thuộc diện không-thể-vắng-mặt-tại-địa-phương-và-không-thể-được-thay-thế-bởi-bất-kỳ-quan-chức-nào-khác-khi-dự-kỳ-họp-Quốc-Hội ra ứng cử Quốc Hội Khóa XV năm 2021 và Khóa XVI năm 2026.

3) Loại Bỏ Những Ứng Viên Cụ Thể Sau Khỏi Danh Sách Mặt Trận Tổ Quốc “Phải” Giới Thiệu Cho Kỳ Bầu Cử Khóa XV:

– Tiến Sĩ Trần Hoàng Ngân, Thành Ủy Viên Thành phố Hồ Chí Minh, hiện là Nghị Sĩ Khóa XIV (lý do: xin tham khảo Thư Gởi Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Thị Kim Ngân)

– Thạc Sĩ Phan Nguyễn Như Khuê của Thành phố Hồ Chí Minh, hiện là Nghị Sĩ Khóa XIV (lý do: như báo chí chính thống đã nêu)

– Trần Thị Vĩnh Nghi, Thành Ủy Viên Thành phố Cần Thơ, hiện là Nghị Sĩ Khóa XIV (lý do: như báo chí chính thống đã nêu)

– Tất cả những ứng viên tiềm tàng sở hữu chất liệu Trịnh Xuân Thanh, Nguyễn Thị Nguyệt Hường, Châu Thị Thu Nga, v.v. mà Mặt Trận Tổ Quốc bắt buộc phải biết rõ.

Trích Thư Gởi Chủ Tịch Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam Trần Thanh Mẫn của Hoàng Hữa Phước

Nguyễn Công Khế








TƯ LIỆU LỊCH SỬ:
Nguyễn Công Khế dùng thủ đoạn ti tiện đuổi Huỳnh Tấn Mẫm ra khỏi nghề báo, cướp ghế Tổng biên tập báo Thanh Niên







Nếu nhà báo Minh Diện không viết bài “Nguyễn Công Khế đã dùng tiểu xảo chiếm ghế TBT báo Thanh Niên của Huỳnh Tấn Mẫm như thế nào?” thì ít ai biết được chuyện Nguyễn Công Khế dùng “tiểu xảo” nhằm chiếm ghế TBT báo Thanh Niên của Huỳnh Tấn Mẫm. Để làm rõ bản chất sự việc, nhóm phóng viên CLB Nhà báo trẻ đã tìm lại từng trang của tàng thư công văn, giấy tờ liên quan từ 30 năm trước. Xin công khai đến quý độc giả, nhất là đội ngũ cán bộ, phóng viên, công nhân viên Báo Thanh Niên để thấy được thói ti tiện, bất chấp thủ đoạn vốn nằm trong bản chất con người Nguyễn Công Khế từ ngày xưa và không hề thay đổi cho đến tận bây giờ.



Huỳnh Tấn Mẫm trong phong trào sinh viên




Huỳnh Tấn Mẫm là người kiên quyết bảo vệ Nguyễn Công Khế


Cuối năm 1985, Nguyễn Công Khế đang là phóng viên báo Phụ Nữ Việt Nam, đang chuẩn bị hồ sơ xin kết nạp Đảng thì xuất hiện thông tin tố cáo Khế tư thông với địch trong thời gian bị tù (từ tháng 5/1972 đến tháng 2/1975), nội dung tố cáo Khế đã thành khẩn khai báo, cung cấp nhiều thông tin về tổ chức, hoạt động của Tổng đoàn Học sinh Đà Nẵng khiến hàng loạt đồng chí bị bắt, cầm tù, thủ tiêu ngay sau thời điểm Khế bị bắt.


Dù chưa có kết luận chính thức của TW Đoàn nhưng nhờ biên bản xác nhận, bảo lãnh của những người đồng chí, đồng đội trong khoảng thời gian cùng bị giam cầm với Khế tại nhà giam Chí Hòa như Lê Văn Nuôi, Đặng Thanh Tịnh, Đoàn Khắc Xuyên và đặc biệt là Huỳnh Tấn Mẫm (Trưởng ban Mặt trận TW Đoàn, Thường trực Ủy ban TW Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam) mà Khế được kết nạp vào Đảng ngày 3/2/1986 tại Chi bộ Văn phòng 2, Phụ nữ Trung ương (Quận ủy Quận 3, Tp. Hồ Chí Minh). Thời ấy, được kết nạp vào Đảng là sự tự hào ghê gớm và cũng là điều kiện tiên quyết nếu muốn thăng hoa sự nghiệp.



Huỳnh Tấn Mẫm đã dùng những lời lẽ tốt đẹp nhất để bảo vệ Nguyễn Công Khế trước các lời dèm pha, đồn thổi về việc Khế đầu hàng địch




Sự ra đời của Tuần tin Thanh Niên, tiền thân của Báo Thanh Niên



Từ năm 1984, sau khi hoàn thành luận án Phó tiến sĩ tại Viện Hàm lâm Khoa học Xã hội Liên Xô, Huỳnh Tấn Mẫm về nước, tiếp tục công tác tại TW Đoàn với chức danh Trưởng ban Mặt trận TW Đoàn, Thường trực Ủy ban TW Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam và bắt đầu nung nấu ý tưởng hình thành một tờ báo để làm diễn đàn nhằm tập hợp, tổ chức thanh niên, cũng vừa là phương tiện để trao đổi, tuyên truyền, hướng dẫn thanh niên trong giai đoạn mới. Khi anh trình bày ý tưởng, ngoài Lê Quang Vịnh (Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam), hầu hết các lãnh đạo của TW Đoàn đều gạt phắt vì khi ấy TW Đoàn đã có 2 tờ báo là Tiền Phong và Thiếu niên Tiền phong.


Để có giấy phép thành lập tờ báo, suốt gần 02 năm ròng rã, bất chấp mọi sự ngăn cản, phản đối, Huỳnh Tấn Mẫm đã ra bắc vào nam gõ cửa khắp nơi để bảo vệ ý tưởng, chính kiến của mình. Mãi đến đầu năm 1986, Ban Tuyên huấn TW mới ra công văn cho phép xuất bản “Tuần tin Thanh Niên”. Nếu không có cái bản lĩnh mang tên “Huỳnh Tấn Mẫm” ấy thì chắc chắn tờ “Thanh Niên” không bao giờ xuất hiện.






Biết Khế có khả năng viết lách, Huỳnh Tấn Mẫm đã làm thủ tục cho Khế về Tuần tin Thanh Niên, đầu tiên bị báo Phụ Nữ Việt Nam, nơi Khế đang công tác từ chối. Nhờ sự kiên trì của Huỳnh Tấn Mẫm, Đặng Thanh Tịnh mà cuối cùng Khế được về Thanh Niên làm việc. Huỳnh Tấn Mẫm không ngờ việc anh nỗ lực để bảo vệ và đưa Nguyễn Công Khế về Tuần tin Thanh Niên lại là một quyết định sai lầm lớn nhất và không thể sửa chữa suốt cuộc đời làm báo.


Thủ đoạn ti tiện của Nguyễn Công Khế đã chấm dứt sự nghiệp báo chí của Huỳnh Tấn Mẫm


Tổng biên tập Huỳnh Tấn Mẫm đã đưa những ý tưởng cải cách, đổi mới của mình làm tiêu chí hoạt động của Tuần tin Thanh Niên, nhờ thế tờ báo tìm được chỗ đứng trong lòng bạn đọc ngay từ những số đầu tiên và phát triển nhanh chóng, tia-ra liên tục tăng.


Sau khi đưa Nguyễn Công Khế về Tuần tin Thanh Niên, Huỳnh Tấn Mẫm tiếp tục nâng đỡ, giúp đỡ Khế. Tháng 6/1987, qua sự đề nghị của anh Mẫm, Khế được thăng chức Phó tổng biên tập và tham vọng quyền lực của Khế cũng bắt đầu từ đấy.



Ngày 8/6/1987, TW Đoàn ra quyết định đề bạt Nguyễn Công Khế làm Phó Tổng biên tập Tuần tin Thanh Niên theo đề nghị của Huỳnh Tấn Mẫm



Chỉ ít lâu sau khi được cất nhắc lên ghế Phó tổng biên tập, Khế bỗng “phát hiện” mình có tài lãnh đạo, quyết không cam chịu làm cái bóng cho Huỳnh Tấn Mẫm. Từng bước, từng bước một Khế tìm đủ mọi cách để triệt hạ uy tín Tổng biên tập Huỳnh Tấn Mẫm nhưng không thành công. Bằng bản lĩnh, khí chất của mình, Huỳnh Tấn Mẫm đã vượt qua tất cả.


Để đạt được mục đích, Khế đã giở mánh khóe cuối cùng và nhơ bẩn, ti tiện nhất để hạ gục bằng được Huỳnh Tấn Mẫm bằng yếu tố “gia đình”. Thủ đoạn của Khế cùng đồng bọn là vu vạ cho chị Nguyễn Lương Dung (vợ anh Huỳnh Tấn Mẫm) đã “giật hụi hơn cả trăm cây vàng” (!?) để chị dính vào vòng lao lý và lấy đó làm cái cớ để triệt uy tín Huỳnh Tấn Mẫm trong các cuộc họp giao ban cán bộ TW Đoàn phía nam. Nghe một số cán bộ TW Đoàn kể lại, thời điểm đó Khế đã rỉ tai, tạo dư luận khắp nơi nhằm bêu rếu Tổng biên tập Huỳnh Tấn Mẫm. Quá thất vọng trước tình đời đen bạc, Huỳnh Tấn Mẫm chỉ cười nhạt và lạnh lùng ra đi, bỏ lại Tuần tin Thanh niên mà anh đã tốn bao tâm huyết gầy dựng. Nhà báo Minh Diện nhớ lại: Buổi sáng hôm ấy, cuộc họp cuối cùng ở số nhà 27 - Cao Thắng, Quận 3, Tp. Hồ Chí Minh, Huỳnh Tấn Mẫm đứng dậy mỉm cười, nói: “Thôi các anh làm gì thì làm!” và ra khỏi phòng họp. Tôi nhớ mãi nụ cười buồn trên gương mặt rất lạnh, toát lên vẻ kiêu hãnh và khinh khi!. Thiếu sâu sát, quá nhẹ dạ cả tin vào những lời đường mật của Nguyễn Công Khế, ngày 1/11/1988, TW Đoàn đã vội vã ra quyết định số 88 TB/TWĐTN, chính thức kết thúc sự nghiệp báo chí của Huỳnh Tấn Mẫm và giao cho Nguyễn Công Khế “phụ trách toàn diện” mọi hoạt động của Tuần tin Thanh niên.



Quyết định vội vã của TW Đoàn đã chính thức kết thúc cuộc đời làm báo của Huỳnh Tấn Mẫm và giao cho Khế "phụ trách toàn diện" Tuần tin Thanh Niên


Tin vào những lời đường mật của Khế, chỉ 03 ngày sau, Bí thư thứ nhất TW Đoàn Hà Quang Dự tiếp tục ký công văn gửi Ban Tuyên huấn TW về việc đề cử Nguyễn Công Khế làm quyền Tổng biên tập Tuần tin Thanh Niên

Thủ đoạn bỉ ổi của Nguyễn Công Khế bị bại lộ khi chỉ vài tháng sau, chị Nguyễn Lương Dung (vợ anh Mẫm) được minh oan, lúc này TW Đoàn mới ngã ngửa nhưng tất cả đều đã quá muộn. Ngày 3/6/1989, Bí thư Trịnh Tố Tâm đã ký thông báo / nghị quyết thi hành kỷ luật đảng viên với hình thức “khiển trách” đối với Nguyễn Công Khế. Tuy nhiên, vì vấn đề “bảo vệ nội bộ” nên văn bản hoàn toàn không nhắc đến bản chất sự việc mà chỉ nêu một số khuyết điểm nhẹ nhàng của Khế:
Phong cách lãnh đạo mang tính chất gia trưởng thiếu dân chủ, thể hiện mối quan hệ giữa đồng chí với đồng chí Mẫm, giữa đồng chí với anh chị em dưới quyền, nói năng thiếu cân nhắc chín chắn, nóng nảy thiếu bình tĩnh.
Ý thức tổ chức kỷ luật yếu: cũng là một nguyên nhân của việc gây mất đoàn kết nội bộ. Đồng chí và đồng chí Mẫm tìm mọi cách chống phá nhau, là đối địch của nhau, ý thức tự phê bình yếu, phê bình người khác thiếu thuyết phục.
Suốt một thời gian dài là người phụ trách tờ báo nhưng không quan tâm đến công tác quần chúng, không tổ chức công đoàn. Hội nhà báo tuy có nhưng hoạt động yếu, quản lý cơ quan mang tính cách gia đình chủ nghĩa.



Thông báo về việc xử lý kỷ luật đảng viên đối với Nguyễn Công Khế (trang 1)


Thông báo về việc xử lý kỷ luật đảng viên đối với Nguyễn Công Khế (trang 2)







Án kỷ luật của TW Đoàn chỉ làm chậm bước tiến của Khế và cũng không hề được Khế kê khai trong những bản kiểm điểm đảng viên hàng năm. Bằng “năng khiếu” chạy chọt, y đã dàn xếp thành công cho Lương Ngọc Bộ (Phó Tổng biên tập báo Tiền Phong) tạm thời “giữ giúp” ghế Tổng biên tập Tuần tin Thanh Niên dưới hình thức kiêm nhiệm và phải trả lại cho Khế chỉ 01 năm sau đó.






Tháng 9/1990, Lương Ngọc Bộ đã “trả lại” Quyền Tổng biên tập Tuần tin Thanh Niên cho Khế


Đúng một năm sau, Nguyễn Công Khế chính thức trở thành Tổng biên tập Báo Thanh Niên. Những cái tên “Tuần tin Thanh Niên” và “Huỳnh Tấn Mẫm” trong nghề báo chỉ còn là quá khứ...


Qua câu chuyện từ 30 năm trước, cho thấy tính phàm ăn tục uống, thượng đội hạ đạp, lừa thầy phản bạn đã nằm trong máu của Khế từ ngày xưa. Bản năng loài linh cẩu đó, đến tận bây giờ vẫn chưa từng thay đổi. Về quá khứ Nguyễn Công Khế thì còn nhiều chuyện kinh thiên động địa, nhất là giai đoạn mà y đã đánh lừa cả lịch sử, chúng tôi sẽ quay lại trong một thiên phóng sự khác.


Nguyễn Công Khế xử lý việc phải ra tòa vì trốn nợ như thế nào?

CLB Nhà báo trẻ




5.




Cú lừa táng tận lương tâm của Nguyễn Công Khế đối với cán bộ công nhân viên báo Thanh Niên









Trong các phóng sự trước, bạn đọc đã rõ Nguyễn Công Khế làm giàu bằng nhiều mánh khóe lừa đảo táo tợn đối với các nhà đầu tư, nhà tài trợ, nhưng tán tận lương tâm hơn, ngay cả người trong nhà, đó là tập thể cán bộ, phóng viên, công nhân viên Báo Thanh Niên - những người đồng chí, đồng đội đã gắn bó với Khế hơn chục năm qua cũng bị y nhẫn tâm lừa gạt, lợi dụng để làm giàu bất chính. Trong phóng sự này, CLB Nhà báo trẻ phân tích dự án bất động sản “Khu nhà ở cán bộ, phóng viên, nhân viên Báo Thanh Niên” mà UBND Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho Công đoàn Báo Thanh Niên, với dự án này, Nguyễn Công Khế đã bỏ túi hàng trăm tỷ đồng. Ấy vậy mà, nhiều cán bộ tờ báo vẫn còn “tri ân” Khế vì đã giúp họ thu hồi vốn mà không hề hay biết rằng, họ chỉ là những chú chim non rơi vào miệng con linh cẩu phàm ăn tục uống…
Ngày 02/06/2006, UBND Thành phố Hồ Chí Minh ban hành văn bản số 3570/UBND-ĐT về việc chấp thuận cho Công đoàn Báo Thanh Niên lập dự án “Khu nhà ở Cán bộ - phóng viên - nhân viên Báo Thanh Niên” tại phường Long Phước, Quận 9. Đây là niềm vui lớn đối với toàn thể cán bộ, công nhân viên tờ báo khi việc sở hữu một mảnh đất, một căn nhà so với mức lương của nghề báo lúc đó vẫn chỉ là một ước mơ ngoài tầm với. Sau nhiều lần họp bình xét, Công đoàn mới quyết định được danh sách nhân sự được hưởng quyền lợi gồm58 cán bộ có đóng góp, thâm niên, có thể kể đến như: Lê Văn Quý (văn phòng), Đàm Văn Thanh Huy (Ban Chính trị-Xã hội), Võ Thị Tạo (Ban Bạn đọc), Cao Minh Phát (Thanh Niên tiếng Anh), Trần T.Hoàng Anh (Ban Văn nghệ), Dương Quốc Hùng (Phòng Quảng cáo), Trương Nguyễn Mỹ Hạnh (Ban Thư ký),… Những cán bộ, công nhân viên này đã tìm mọi cách gom góp, vay mượn nhằm kiếm đủ số tiền góp vốn mua đất với giá từ 100-300 triệu đồng/lô, đây là những khoản tiền lớn vào thời điểm đó. Tổng số tiền huy động được từ cán bộ, công nhân viên Báo Thanh Niên lên tới 12,75 tỷ đồng. Mỗi cán bộ, công nhân viên đều háo hức, chờ đón ngày cầm trong tay quyển sổ đỏ mang tên chính mình nhưng có ngờ đâu…



Vị trí khu đất hơn 5,6 ha được UBND Thành phố chấp thuận cho Công đoàn Báo Thanh Niên lập dự án xây dựng nhà ở cho cán bộ, công nhân viên




Chây ì không thực hiện dự án nhằm chiếm dụng vốn


Dù Nguyễn Công Khế đã ký quyết định số 09/QĐ-TN về việc thành lập Ban quản lý dự án ngay sau khi UBND Thành phố có chủ trương về việc trao cho Báo Thanh Niên sử dụng khu đất, nhưng sau khi gom được 12,75 tỷ đồng từ CB-CNV, Khế chuyển ngay khoản vốn này vào ngân hàng để lấy lãi đồng thời chỉ đạo Ban quản lý dự án “án binh bất động” suốt một năm ròng với lý do chưa tìm được nhà đầu tư.


Hơn một năm, ngày 19/10/2007, công ty Vincom đã góp 54,3 tỷ đồng vào dự án qua hợp đồng nguyên tắc hợp tác đầu tư, cộng thêm khoản bán 1 thửa đất của dự án cho bên ngoài được 3,9 tỷ đồng, khoản lãi 161 triệu đồng (khoản gửi ngân hàng hơn 1 năm từ tiền huy động vốn của cán bộ Báo Thanh Niên), vay thêm từ Báo Thanh Niên 400 triệu, tổng cộng Khế đã huy động được 71,52 tỷ đồng và dự án vẫn “treo”. Đầu năm 2008, công ty Vincom rút lui khỏi dự án, chuyển quyền và nghĩa vụ liên quan cho công ty TNHH Đầu tư và Phát triển Sinh Thái tiếp tục thực hiện hợp đồng nguyên tắc trên.







Đến đây mọi thủ tục pháp lý, vốn đều đã hoàn tất nhưng Nguyễn Công Khế vẫn chưa cho triển khai dự án với lý do “thị trường bất động sản đang đóng băng, mong anh chị em thông cảm”… và dự án tiếp tục im lìm thêm 2 năm nữa. Như vậy, sau 04 năm từ ngày góp vốn, cán bộ, công nhân viên Báo Thanh Niên vẫn chưa thấy hình dạng mảnh đất của mình như thế nào, nằm ở đâu!? Đơn thư chất vấn, khiếu nại tới tấp gửi về Văn phòng Công đoàn với tần suất dày đặc, thậm chí nhiều cán bộ, công nhân viên chính thức lên tiếng đòi thu hồi vốn và phạt vi phạm hợp đồng.


Đoạt đất ở của cán bộ, công nhân viên, chiếm dụng vốn của cá nhân, tổ chức


Năm 2010, sau khi rời khỏi chức danh Tổng biên tập Báo Thanh Niên để chính thức tập trung làm “kinh tế” với TNCorp, Nguyễn Công Khế đã nuôi dã tâm nuốt trọn khu đất mang đẫm mồ hôi, nước mắt của cán bộ, công nhân viên tờ báo. Tháng 8/2010, Nguyễn Ngọc Toàn, Chủ tịch Công đoàn Báo Thanh Niên đã ký ủy quyềncho Nguyễn Công Khế thay mặt Công đoàn Báo Thanh niên tiếp tục thực hiện dự án “Nhà ở cán bộ, phóng viên, công nhân viên Báo Thanh Niên”, Khế đã ngay lập tức thực hiện 2 việc:


Đầu tiên, ngay sau khi nhận ủy quyền, Nguyễn Công Khế tìm cách “hất cẳng” nhà đầu tư Sinh Thái bằng cách thuyết phục doanh nghiệp này tự nguyện rút khỏi dự án. Không còn đủ kiên nhẫn theo đuổi, với hi vọng thu hồi khoản vốn đầu tư 54,3 tỷ đồng, công ty Sinh Thái đã đáp ứng theo yêu cầu của Khế.



Ngay sau đó, đầu tháng 9/2010, Nguyễn Công Khế tiếp tục “thuyết phục” Công đoàn Báo Thanh Niên giải thích với những cán bộ, công nhân viên đã góp vốn về những khó khăn, không thể thực hiện dự án và đồng ý “chơi đẹp” bằng cách bồi thường 60% theo hợp đồng và yêu cầu Công đoàn bàn giao dự án cho TNCorp.



Dù thất vọng vì ước mơ không thể thành hiện thực, nhưng cán bộ, công nhân viên Báo Thanh Niên vẫn tri ân Nguyễn Công Khế, vì dù sao họ cũng thu hồi lại được vốn với khoản bồi thường hợp đồng khá “hời”. Về phần Nguyễn Công Khế, nghiễm nhiên có khu đất hơn 5,6 ha đầy tiềm năng, tiền trả vốn góp và bồi thường hợp đồng cho cán bộ, công nhân viên thì Khế đắp từ khoản đầu tư 54,3 tỷ đồng của công ty Sinh Thái. Còn khoản nợ công ty Sinh Thái thì treo mãi đó, chây ì không chịu trả dù bị nhắc nhở nhiều lần.

Thuyết minh Báo cáo tài chính hợp nhất của TNCorp tại trang 21, ghi rõ các khoản phải trả, phải nộp ngắn hạn khác, trong đó khoản nợ của công ty Sinh Thái vẫn y nguyên con số 54,3 tỷ đồng kéo dài suốt từ 2010 đến nay




Công ty “ma” mang tên Long Phước Garden và khoản lợi tức kếch sù đến từ tập đoàn Trung Nguyên



Sau khi có biên bản thỏa thuận bàn giao của Công đoàn Báo Thanh Niên, Nguyễn Công Khế lập tức chỉ đạo thực hiện các thủ tục pháp lý để chuyển đổi mục đích dự án, từ “Nhà ở cán bộ, phóng viên, nhân viên Báo Thanh Niên” thành “Khu nhà ở kinh doanh thương mại” để tìm kiếm đối tác góp vốn mới. Ngày 13/02/2012, UBND Thành phố đã ban hành văn bản số 558/UBND-ĐTMT về việc chấp thuận cho TNCorp làm chủ đầu tư dự án. Tháng 5/2012, Nguyễn Công Khế thành lập công ty TNHH 1TV BĐS Long Phước Garden thuộc TNCorp và ban hành quyết định số 04/QĐ-HĐQT/12 giao dự án trên cho công ty “ma” này thực hiện. Ngày 6/9/2012, UBND Tp. Hồ Chí Minh tiếp tục ban hành văn bản số 4492/UBND-ĐTMT về việc chấp thuận cho TNCorp làm chủ đầu tư dự án “Khu nhà ở thương mại Long Phước Garden”. Tới đây, Nguyễn Công Khế đã chính thức chiếm đoạt hoàn toàn khu đất và thay đổi thành công mục đích sử dụng.


Tháng 4/2013, Nguyễn Công Khế bắt tay với “người cõi trên” Đặng Lê Nguyên Vũ, ông chủ của công ty Cổ phần Tập đoàn Trung Nguyên. Khế lại tiếp tục thành công với chiêu bài “hợp tác đầu tư” (tương tự như công ty Sinh Thái từ hơn 8 năm trước) nhưng với nguồn ngân sách lớn hơn nhiều. Tổng vốn mà Khế huy động được từ Trung Nguyên lên tới 103 tỷ đồng.



Nguyễn Công Khế trong loạt bài PR vụ “thiền, tuyệt thực 49 ngày” của “người cõi trên” Đặng Lê Nguyên Vũ trên tờ báo “dự án” Một Thế Giới


Quyết định việc hợp tác đầu tư với Trung Nguyên, trước mắt tạm ứng 90 tỷ để “thanh lý và chi trả các khoản chi phí liên quan”(!?)


Thuyết minh Báo cáo tài chính hợp nhất của TNCorp tại trang 20, cho thấy, đến cuối năm 2014, Trung Nguyên đã chuyển toàn bộ nguồn vốn hợp tác đầu tư lên tới 103 tỷ đồng cho TNCorp

Với nguồn lợi tức khổng lồ thu được, Nguyễn Công Khế quyết định nhượng luôn khu đất dự án cho tập đoàn Trung Nguyên như đã trình bày trong báo Báo cáo thường niên năm 2014 tại Đại hội cổ đông diễn ra ngày 29/5/2015. Đến đây, công ty “ma” Long Phước Garden cũng đã hết sứ mệnh lịch sử, tháng 9/2015, Nguyễn Công Khế quyết định giải thể công ty này.


Sau 9 năm “chiến đấu” với khu đất dự án “nhà ở cho cán bộ, phóng viên, công nhân viên Báo Thanh Niên”, Nguyễn Công Khế đã hút cạn máu và nước mắt của những người đồng đội, đồng chí đã từng gắn bó suốt mấy chục năm qua. Số tiền kếch sù mà Khế kiếm được bộ phận tài chính tập đoàn thống kê lại như sau:
Năm 2006-2007: Thu từ huy động vốn của cán bộ công nhân viên và đầu tư của công ty Sinh Thái:71,52 tỷ đồng.
Năm 2010: Chi trả vốn, bồi thường hợp đồng cho cán bộ, công nhân viên: 19,04 tỷ đồng.
Năm 2013: Thu từ huy động vốn (lần 1) từ tập đoàn Trung Nguyên: 90 tỷ đồng.
Năm 2014: Thu từ huy động vốn (lần 2) từ tập đoàn Trung Nguyên: 13 tỷ đồng.

Từ dự án khu đất dành cho cán bộ, phóng viên, công nhân viên Báo Thanh Niên, Nguyễn Công Khế đã chiếm dụng được 155,48 tỷ đồng. Dù có bị ép phải trả nợ cho công ty Sinh Thái (54,3 tỷ đồng) thì Khế vẫn ẵm trọn 101,18 tỷ đồng tiền mặt. Các cán bộ, phóng viên, công nhân viên Báo Thanh Niên không những bị tước đi quyền lợi mà họ đáng được hưởng từ dự án chính sách, mà ngược lại, họ phải nai lưng huy động vốn để mang lại khoản lợi nhuận bất chính khổng lồ cho Nguyễn Công Khế mà không hề hay biết. Trong khi đó, dù đã thỏa thuận sẽ trích 3 tỷ đồng lợi nhuận dự án cho Công đoàn Báo Thanh Niên nhưng Khế đã lờ tịt, xem như không có.


Đón xem kỳ tiếp: [TƯ LIỆU LỊCH SỬ] Nguyễn Công Khế dùng thủ đoạn ti tiện đuổi Huỳnh Tấn Mẫm ra khỏi nghề báo, cướp ghế Tổng biên tập báo Thanh Niên.
CLB Nhà báo trẻ
http://nguyencongkhe.blogspot.com/2015/12/cu-lua-tang-tan-luong-tam-cua-nguyen-cong-khe.html






4.



Nguyễn Công Khế và cú lừa 300 tỷ ngoạn mục!


Trong phóng sự đầu, CLB Nhà báo trẻ đã phanh phui việc Nguyễn Công Khế đã dùng thủ đoạn “đầu tư” thêm 300 tỷ đồng (khống) vào tập đoàn Truyền thông Thanh Niên (TNCorp), nâng sở hữu cổ phần cá nhân lên tới 74,39% (chưa kể số cổ phần của vợ, con, công ty “ma” Quế Mi do vợ đứng tên,…). Như vậy, Nguyễn Công Khế đã chính thức “hô biến” tập đoàn kinh tế thuộc Hội Liên hiệp Thanh Niên Việt Nam trở thành tập đoàn kinh tế tư nhân, điều hành theo mô típ gia đình trị. Trong phóng sự này, chúng tôi sẽ làm rõ nguồn gốc của nguồn vốn 300 tỷ và thủ đoạn “lấy mỡ cá rán cá”, “đảo nợ” của Nguyễn Công Khế nhằm chiếm đoạt tập đoàn Truyền thông Thanh Niên và tài sản của tổ chức, cá nhân.




Vợ chồng Nguyễn Công Khế - Đặng Thị Thanh Xuân



Nhắc lại việc tăng vốn thêm 300 tỷ của TNCorp nhằm thực hiện việc xây dựng Khu du lịch sinh thái nghỉ dưỡng cao cấp Vĩnh Hy (Ninh Thuận). Theo phóng sự trước, độc giả đã biết, Nguyễn Công Khế là nhà đầu tư “chiến lược” duy nhất góp toàn bộ khoản vốn khống trên, nâng sở hữu cổ phần cá nhân lên 74,39%.

Danh sách cổ đông nội bộ và người có liên quan sau thời điểm tăng vốn cho thấy, chưa tính anh em, dâu, rể, riêng vợ chồng Khế đã sở hữu tới 75,793% CP của TNCorp

Dự án đã hết hạn nhưng vẫn chưa bị thu hồi giấy chứng nhận đầu tư?


Ngày 09/12/2011 TNCorp được UBND tỉnh Ninh Thuận cấp Giấy chứng nhận đầu tư số 43121000162 với mục đích đầu tư xây dựng Khu Du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng cao cấp Vĩnh Hy trên lô đất 29,65 ha tọa lạc tại Bãi Lớn và Bải Hời, thôn Vĩnh Hy, xã Vĩnh Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận với tổng vốn đầu tư 290 tỷ đồng. Theo giấy CNĐT, tiến độ thực hiện dự án phải thực hiện trong vòng 30 tháng, tức là khoảng thời gian từ tháng 01/2014 đến tháng 06/2014 dự án phải hoàn tất và đưa vào hoạt động kinh doanh.

Giấy chứng nhận đầu tư của dự án Vĩnh Hy (trang 1)

Theo Giấy chứng nhận đầu tư, dự án của TNCorp đã quá hạn 18 tháng nhưng chưa hiểu vì lý do gì mà vẫn chưa bị thu hồi giấy phép. Mãi đến Quý 3/2014, TNCorp mới làm thủ tục “tăng vốn” nhằm triển khai dự án này và đến thời điểm hiện tại, dự án vẫn còn nằm trên giấy ngoài việc ký hợp đồng với công ty TNHH Tư vấn Thiết kế và Đầu tư Ninh Thuận nhằm “khảo sát địa hình”. Trình bày bản Báo cáo thường niên năm 2014 tại Đại hội cổ đông TNCorp tổ chức ngày 29/5/2015, Nguyễn Công Khế lớn tiếng khẳng định: “Dự án "cơ bản" đã xong các bước hoàn thiện thủ tục để xin cấp phép và "dự kiến" vào Quý 3/2015 dự án sẽ khởi công xây dựng” (!?)


Nguồn gốc nguồn vốn khống 300 tỷ Nguyễn Công Khế đầu tư nhằm chiếm đoạt Tập đoàn Truyền thông Thanh Niên

Tham khảo các hồ sơ, chứng từ tài chính, chúng tôi đã phát hiện thủ đoạn gian lận vô cùng táo tợn và tinh vi của Nguyễn Công Khế nhằm hợp thức hóa việc chiếm đoạt TNCorp và hàng loạt hành vi “đảo nợ” nhằm chiếm đoạt tài sản ngân hàng, tổ chức.

Tháng 11/2014, dùng quyền của Chủ tịch HĐQT, Nguyễn Công Khế đã dùng chính nguồn lợi tức của các cổ đông và các khoản vay ngân hàng của TNCorp để “góp vốn”, mua cổ phần của của chính tập đoàn này dưới danh nghĩa cá nhân.





Tháng 3/2015, dưới áp lực Đại hội Cổ đông TNCorp đã gần kề, để làm đẹp báo cáo tài chính và hợp thức hóa khoản 300 tỷ góp vốn, Nguyễn Công Khế cùng vợ là Đặng Thị Thanh Xuân đã liều lĩnh móc nối cùng Nguyễn Văn Thu (sinh ngày 4/3/1960, thường trú tại 154 Ngõ 158, phố Ngọc Hà, phường Ngọc Hà, Q. Bà Đình, Hà Nội) - Tổng giám đốc công ty CP Đầu tư Thương mại và Kinh doanh Bất động sản NewStar để lập hồ sơ hợp tác đầu tư khống nhằm thuyết phục tỷ phú Phạm Nhật Vượng (ông chủ VinGroup) bảo lãnh cho vợ chồng Khế vay 300 tỷ của Sacombank nhằm “trả nợ” TNCorp.
















Bằng hợp đồng hợp tác đầu tư và phương án vay vốn trên cùng với “uy tín” sẵn có, Khế đã thuyết phục ông Phạm Nhật Vượng (vốn là nhà đầu tư, nhà tài trợ lâu năm cho TNCorp, đã nhiều lần góp vốn, tài trợ cho các “dự án truyền thông” của tập đoàn này) dùng 13 triệu cổ phiếu của VinGroup (trị giá 637 tỷ đồng) để làm tài sản bảo lãnh cho khoản vay 300 tỷ của vợ chồng Khế tại Sacombank.


Nguyễn Công Khế đã dùng tiểu xảo chiếm ghế TBT báo Thanh Niên của Huỳnh Tấn Mẫm như thế nào?







Một chuyện còn hằn trong trí nhớ của tôi.


Khi được bầu vào Ban thường vụ Trung ương đoàn, làm Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên Viêt Nam, Huỳnh Tấn Mẫm muốn Hội là một tổ chức quần chúng, phải khác đoàn, chứ khộng theo kiểu “B phẩy”. Và Hội cần có tiếng nói riêng.





Những năm đầu thập kỷ tám mươi của thế kỷ trước, ra một tờ báo khó như bắc thang lên trời! Người ta nói Trung ương đoàn chỉ cần hai tờ báo, chỉ hai tờ mà thôi, đó là tờ Tiền Phong và Thiến Niên Tiền Phong. Ngay trong cơ quan Trung ương đoàn cũng ít người ủng hộ Huỳnh Tấn Mẫm. Nhưng Huỳnh Tấn Mẫm đã nói là làm, làm kỳ được, bất chấp sự can ngăn không bỏ cuộc. Hình như đó chính là cái khí phách đã tạo nên một Huỳnh Tấn Mẫm hiên ngang, sống có bản lĩnh, rõ chủ đích và chính kiến, tuy có luc như lì lợm trong phong trào đấu trang trước giải phóng, nhưng đó là những phẩm chất cần có của người làm cách mạng.



Như con thoi, Huỳnh Tấn Mẫm từ Nam ra Bắc, mò mẫm gõ cửa từ ông Tố Hữu đến ông Phạm Văn Đồng. Chỉ có anh, ngày ấy, mới ra được tờ bán nguyệt san Thanh Niên.


Có giấy phép trong tay, Huỳnh Tấn Mẫm quy tụ một số anh em chiến hữu trong phong trào sinh viên học sinh trước giải phóng lại làm báo. Một trong số đó là Nguyễn Công Khế, lúc đó đang ở báo Phụ Nữ Việt Nam và hình như chưa viết được gì nhiều.


Nguyển Công Khế trở thành Phó Tổng biên tập báo Thanh Niên. Với hình thức, nội dung ít bảo thủ hơn tờ Tiền Phong, tờ Thanh Niên tìm được chỗ đứng trong bạn đọc ngay từ ngày đầu, và sau đó mỗi ngày một khởi sắc, tia-ra phát hành tăng vùn vụt.


Nhưng ngược chiều với sự đi lên cùa tờ báo là sự đi xuống cùa tình người! Mối quan hệ giữa Huỳnh Tấn Mẫm - Nguyễn Công Khế tưởng keo sơn, bị rạn nứt dần, rồi vỡ ra, thành một cuộc chiến một mất một còn.


Ngày ấy, ít có cuộc họp giao ban cán bộ Trung ương đoàn phía Nam nào không nhắc tới chuyện Mẫm, Khế. Rồi những cuộc họp kiềm điềm trong nội bộ đảng căng thẳng như sợi dây đàn không phân thắng bại. Nguyễn Công Khế mang cả chuyện gia đình của Huỳnh Tấn Mẫm ra đề triệt uy tín Mẫm.


Ngày đó tôi bảo vệ Huỳnh Tấn Mẫm, vì tôi cho rằng, anh là người có công ra tờ báo Thanh Niên, không nên cướp giật thành quả của người khác. Cùng quan điểm với tôi là Trần Quang, Trưởng ban Đại diện báo Tiền Phong, Phó bí thư Đảng ủy trung ương đoàn phía Nam. Nhưng sau đó Nguyễn Công Khế thường xuyên gặp riêng Trần Quang, hai người trở nên thân thiết, và Trần Quang ngả về phía Nguyễn Công Khế.


Buổi sáng hôm ấy, cuộc họp cuối cùng ở số nhà 27 - Cao Thắng, Quận 3, thành phố Hồ Chí Minh, Huỳnh Tấn Mẫm đứng dậy mỉm cười, nói: “Thôi các anh làm gì thì làm!” và ra khỏi phòng họp. Tôi nhớ mãi nụ cười buồn trên gương mặt rất lạnh, toát lên vẻ kiêu hãnh và khinh khi!
Mấy ngay sau, tôi hiểu động cơ Trần Quang bỏ Huỳnh Tấn Mẫn ngả sang Nguyễn Cống Khế. Đó là cái quyết định đề bạt Trần Quang làm Tổng biên tập báo Thanh Niên, do bí thư thứ nhất Trung ương đoàn Hà Quang Dự ký.


Anh Trần Quang bàn giao Ban đại diện báo Tiền Phong cho tôi, chuẩn bị làm Tổng biên tập báo Thanh Niên. Quyết định đã nắm chắc trong tay còn chạy đằng nào ? Nhưng cái anh nông dân Trần Quang ham lợi nhỏ, đâm cả tin, bị mắc lừa!


Nguyễn Công Khế phát hiện ra một thủ tục nhỏ, bị bỏ quên, là chưa lấy phiếu tín nhiệm đồng chí Trần Quang. Thế có chết không cơ chứ? Nhẽ ra Nguyễn Công Khế phải phát hiện sớm hơn, phải chủ động làm cái thủ tục đó, đằng này đề đồng chí Trần Quang cầm quyết định trong tay rồi mới lôi ra. Thôi, đành phải làm ngược một tý vậy! Cuộc bỏ phiếu tín nhiệm của báo Thanh Niên diễn ra chóng vánh như có sự chuẩn bị trước, và đồng chí Trần Quang chỉ được vài phiếu chiếu lệ. Cái quyết định bổ nhiệm làm Tổng biên tập báo Thanh Niên bị vứt vào sọt rác, khi Trần Quang chưa được ngồi ghế Tổng biên tập một ngày. Thế mới biết cái “sức mạnh tập thể”, tỉ lệ phiéu bầu của “dân chủ” nó mạnh cỡ nào khi mà ngừoi ta có thủ đoạn (!?).


Nguyễn Công Khế bay ra Hà Nội, và sau những ngày dàn xếp , Lương Ngọc Bộ, Phó Tổng biên tập báo Tiền Phong nhận quyết định làm Tổng biên tập báo Thanh Niên. Đây là một trò chơi quyền lực rất “sến” của Trung ương đoàn nói chung, Nguyễn Công Khế, Lương Ngọc Bộ nói riêng Đó là quyết định Lương Ngọc Bộ vừa làm Phó Tổng biên tập báo Tiền Phong, vừa làm Tổng biên tập báo Thanh Niên 6 tháng , rồi bàn giao cho Nguyễn Công Khế.


Anh Nguyễn Công Khế đã làm cho tờ báo Thanh Niên nổi tiếng. Đó là điều không ai phủ nhận. Nhưng, người mang nặng đẻ đau và sinh ra tờ báo Thanh Niên là Huỳnh Tấn Mẫm.


Ngày 3/1/2006, tại Hà Nội, Báo Thanh Niên tổ chức trọng thể lễ đón nhận Huân chương Lao động hạng nhất - phần thưởng cao quý của Đảng, Nhà nước trao tặng để ghi nhận thành tựu trong 20 năm Báo Thanh niên đồng hành cùng bạn đọc.


Nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã gửi lẵng hoa đến chúc mừng. Nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh cũng gửi thư chung vui cùng những người làm báo Thanh niên. Bức thư có đoạn viết: "Thanh niên là tờ báo trẻ của làng báo Cách mạng Việt Nam nhưng đã có nhiều cố gắng vượt bậc trong công tác tổ chức đội ngũ, tổ chức nghiệp vụ nên đã sớm khẳng định được vị trí của mình, sớm trở thành người bạn gần gũi, tin cậy của đông đảo bạn đọc trong và ngoài nước".


Có mặt đầu tiên khi buổi lễ còn chưa bắt đầu là những nhà lãnh đạo qua các thời kỳ của Đoàn thanh niên: các ông Vũ Oanh, ông Đặng Quốc Bảo, Vũ Mão, Hà Quang Dự... Mọi người đã "thảo luận" rất sôi nổi về bài thơ mà ông Vũ Mão vừa "xuất khẩu thành chương" tặng Thanh Niên tròn 20 tuổi. Tổng biên tập đầu tiên của Báo Thanh niên - anh Huỳnh Tấn Mẫm, đặc biệt tâm đắc với mấy câu thơ:

"Nêu cao gương tốt hiển vinh
Thương người như thể chính mình gian nan
Bước chân vượt mấy suối ngàn
Trái tim nồng cháy chứa chan phúc đời".


Ông Nguyễn Khoa Điềm gắn Huân chương Lao động hạng Nhì cho Tổng biên tập báo Thanh niên Nguyễn Công Khế. Khi ấy, tôi nhìn anh Mẫm và nghĩ: Công Khế được khen thuwỏng, anh Mẫm phải có phần thưởng xứng đáng mới phải, công đầu phải thuộc về anh.

Mấy chục năm qua rồi. Chủ nhật vừa qua tôi lại thấy Huỳnh Tấn Mẫm xuất hiện trong vai trò một trong những trí thức, nhân sĩ yêu nước cầm chịch cuộc mít tinh trước Nhà hát thành phố phàn đối Trung Quốc xâm lược biển đảo Việt Nam.







MINH DIỆN
(từ: Blog TMH)

Thứ Ba, 10 tháng 10, 2017

XUẤT SINH NHẬP TỬ




Tác giả: Chiếu Viễn


“Sinh” (生) là một từ hội ý (từ do hai hay nhiều bộ chữ ghép tạo thành), đây là chữ Giáp Cốt(1) cổ của Trung Quốc, bên trên là chữ “thảo mộc”, bên dưới là “mặt đất” hoặc “thổ nhưỡng”. Nghĩa gốc của từ này chỉ cây cỏ sinh trưởng trên mặt đất. Ngoài ra chữ “sinh” còn có nghĩa là sản sinh, sáng tạo và nuôi dưỡng.


Trong thư pháp chữ Khải, chữ “sinh” (生) bên trên là “nhân” (人), bên dưới là “thổ” (土), “con người ở trên mặt đất” nghĩa là sinh. Con người sau khi chết đi thì an vị dưới đất, không thể ở trên mặt đất được. Vậy thì nơi ở của người sống nên là ở trên mặt đất, nơi có ánh Mặt trời, nếu ở lâu trong căn phòng dưới mặt đất hoặc dưới gầm cầu, đường hầm thì sẽ mang đến âm khí u ám, không có lợi cho sức khỏe.







Nếu nhìn từ góc độ khác, theo lý luận của Đạo gia, trong không gian vũ trụ mà xã hội nhân loại tồn tại này, hết thảy vạn vật đều do âm dương Ngũ hành tạo thành, vật chất cấu thành thân thể người cũng không phải ngoại lệ. “Thổ” đứng vị trí thứ năm trong ngũ hành, cho nên đối với sinh mệnh ở cảnh giới rất cao mà nói, thân thể người chính là đất, con người sống ở thế gian chính là bị chôn vùi trong đất, “sinh” đối với con người lại chính là “tử” trong mắt của các sinh mệnh cao tầng, con người đến thế gian chính là đi vào cõi chết. Câu nói của Lão Tử “xuất sinh nhập tử” (sinh ra là chết đi) chính là có hàm nghĩa như vậy.

Từ câu “Trời như quả trứng, đất như lòng đỏ” nhìn nhận thiên văn học cổ đại



Tác giả: Quan Tâm


Trong các sách cổ của Trung Quốc đã sớm đề cập một cách có hệ thống những nhận thức về thiên văn học như: trái đất là vật thể trôi nổi trong không trung, quy luật và nguyên lý chuyển động của các hành tinh, cho đến quan hệ đối ứng giữa vũ trụ, trái đất và con người. Đây là cơ sở để chế định ra Hoàng lịch (hiện nay gọi là “Âm lịch”, cách gọi này không đúng), bao gồm cả những lý số trong Kinh Dịch suy đoán được mối quan hệ đối ứng giữa thiên tượng với những sự việc diễn ra trong xã hội con người. Bởi vậy, những nhà thiên văn học chân chính thời cổ đại rất thông hiểu thiên văn, địa lý, dự đoán được những thịnh suy trong đời người và quy luật vận hành của xã hội.


Thời nhà Minh đã cho rằng trái đất hình tròn. Trong “Minh Sử” mục Thiên văn nhất viết: “Trời ôm lấy đất như quả trứng bao lấy lòng đỏ”, họ cho rằng trời có chín tầng, còn mặt đất thì tròn trịa, có nghĩa là đất hình tròn và nằm bên trong trời, tương ứng với thiên độ. Trung Quốc nằm ở phía bắc của Xích đạo, cho nên Bắc cực thường hiện, Nam cực thường ẩn.


Thời nhà Minh đã biết trái đất hình tròn, vũ trụ là không gia đa chiều.


Trong phần Thiên văn của “Minh Sử” nói rằng “trời có chín tầng”, ý nói tam giới tương quan với thể hệ trái đất có chín cảnh giới lớn, Phật gia chia nhỏ hơn có 33 tầng trời. Các tầng trời khác nhau có các sinh mệnh khác nhau, ở dưới cõi người phàm là địa ngục, người ta gọi là âm gian, ở trên cõi người phàm là không gian cao tầng nơi người trời và các vị thần tiên của hai gia Phật và Đạo sinh tồn. Nguyên lý và quy luật của thiên, địa, nhân là thông suốt từ trên xuống dưới, hình thành nên học thuyết “Thiên nhân hợp nhất” độc đáo nhất trong lịch sử văn hóa nhân loại, dựa vào học thuyết này không chỉ có thể tổng kết quá khứ, hiện tại mà còn có thể suy đoán được tương lai.


Dưới đây là những luận thuật trong các tác phẩm nổi tiếng thời cổ đại có liên quan đến vấn đề này:


“Địa quan tư đồ” miêu tả việc dùng mặt trời để đo phương vị
Trong “Chu Lễ” có ghi chép: Một trong những nhiệm vụ của Đại tư đồ là biên soạn và quản lý bản đồ địa lý trong thiên hạ, nên tự nhiên cũng nắm vững tri thức và kỹ năng về đo đạc bản đồ. Vậy sử dụng ánh sáng mặt trời để đo phương vị như thế nào?


Trong “Địa quan tư đồ” có một đoạn giải thích như sau: Nơi mà bóng của mặt trời chiếu chính diện thì đó là vùng đất trung tâm. Khi mặt trời ở phía nam của vùng đất thì bóng ngắn, nóng hơn, khi mặt trời ở phía bắc của vùng đất thì bóng dài, lạnh hơn. Khi mặt trời ở phía đông của vùng đất, bóng nghiêng về hướng tây, nhiều gió, mặt trời chiếu về phía tây, bóng nghiêng về hướng đông, nhiều mây.


Đoạn này có nghĩa là thông qua đo đạc bóng của mặt trời, người ta có thể xác định được đâu là vùng đất trung tâm, nếu là khu vực phía nam của vùng đất (gần với mặt trời) thì bóng mặt trời ngắn, khí hậu sẽ nóng bức, khu vực phía bắc của vùng đất (cách xa mặt trời) thì bóng mặt trời dài, khí hậu sẽ lạnh lẽo. Khu vực phía đông (trông thấy mặt trời sớm hơn, khi vùng đất trung tâm ở vào lúc chính ngọ thì ở đây đã là hoàng hôn), khí hậu hay có gió; nếu vị trí của vùng đất lệch về phía tây (trông thấy mặt trời muộn hơn, khi vùng đất trung tâm ở vào lúc chính ngọ thì ở đây mới là sáng sớm), khí hậu sẽ hay có mưa ẩm.


Đoạn này cho thấy rằng vào hai nghìn mấy trăm năm trước, tổ tiên chúng ta trong quá trình đo đạc địa lý thực tế đã biết trái đất có hình cầu rồi.


2. Thời nhà Hán đã biết trái đất có hình tròn


Trong cuốn sách “Hỗn thiên nghi chú” (giải thích về cỗ máy định vị thiên thể Hỗn thiên nghi) của Trương Hành có viết: “Trời như quả trứng, đất như lòng đỏ”, trong sách “Linh hiến” Trương Hành không đề cập đến nguyên nhân của nhật thực, mà chủ yếu bàn luận về nguyên nhân của nguyệt thực:


“Ánh sáng của mặt trăng sinh ra do mặt trời chiếu vào, phần không có ánh sáng của mặt trăng là do mặt trời bị che lấp. Hướng vào mặt trời thì ánh sáng đầy đủ, lại gần mặt trời thì ánh sáng tắt. Các vì sao được chiếu rọi, nhờ nước mà chuyển ánh sáng lấp lánh. Khi mặt trời mọc, ánh sáng thường không hợp, bị trái đất che mất nên yếu. Khi các vì sao ẩn đi thì xuất hiện nguyệt thực”. Đoạn này ý nói rằng bản thân mặt trăng không phát ra ánh sáng, mà do ánh mặt trời chiếu vào mặt trăng mới sinh ra ánh sáng. Mặt trăng sở dĩ xuất hiện một phần bị khuyết là bởi bộ phận đó không được mặt trời chiếu vào. Cho nên khi mặt trăng và mặt trời đối mặt nhau thì xuất hiện trăng tròn. Khi mặt trăng lại gần mặt trời thì phần trăng khuyết càng ngày càng lớn, cuối cùng hoàn toàn không nhìn thấy.


“Chu bễ toán kinh” cho rằng mặt trăng sở dĩ phát ánh sáng là do mặt trời chiếu vào mà sinh ra: “Mặt trời chiếu vào mặt trăng, sinh ra ánh sáng của mặt trăng, vậy nên trở thành minh nguyệt [trăng sáng]”. Kinh Phòng thời Tây Hán giải thích về mối quan hệ giữa mặt trời và mặt trăng và nguyên nhân sinh ra ánh sáng mặt trăng như sau: “Các nhà thiên văn học cho rằng mặt trời như viên bi, mặt trăng như tấm kính; hoặc ngược lại cho rằng mặt trăng như viên bi, chỗ được mặt trời chiếu vào thì sáng, chỗ không được chiếu thì tối”.


Trong “Khai nguyên chiêm kinh” thời Tây Hán, Lưu Hướng giải thích nguyên nhân của nhật thực như sau: “Nhật thực là do mặt trăng che”. Vương Sung thời Đông Hán trong “Luận Hành – thuyết nhật” đã nói một cách minh xác hơn: “Hoặc nói, nhật thực là do mặt trăng che mặt trời. Mặt trời ở trên, mặt trăng ở dưới che mất mặt trời”.


3. Cỗ máy Hỗn thiên nghi thời nhà Đường mô phỏng chính xác quỹ đạo vận hành của mặt trời, mặt trăng và trái đất.


Trong sách sử “Đường thư” có ghi chép: Viên Thiên Cương và Lý Thuần Phong thời nhà Đường đã chế tạo ra cỗ máy Hỗn thiên nghi mô phỏng chính xác quỹ đạo và quy luật vận hành của mặt trời, mặt trăng, trái đất cũng như các hành tinh, hằng tinh.


Hỗn thiên nghi là cỗ máy mô phỏng sự vận động của mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Hỗn thiên nghi được Lý Thuần Phong thời Đường cải tiến chạy bằng nước, dùng nước làm động lực thúc đẩy Hỗn thiên nghi tự động vận hành, có hình người bằng đồng gõ chuông gõ trống để dự báo thời thần, có thể nói rằng đây là chiếc đồng hồ sớm nhất. Có lẽ chiếc đồng hồ thời cận đại cũng từ đó mà ra, chỉ có điều nó không có quan hệ đối ứng với mặt trời, mặt trăng và các vì sao.


Cỗ máy này sau một thời gian dài vận hành đã bị kẹt do rỉ sét. Một người Tây vực tên là Cù Đàm Tất Đạt có may mắn trở thành một trong số những nhân viên duy tu cỗ máy này. Nhờ nghiên cứu, học tập các sách khoa học cổ đại Trung Quốc, ông đã hiểu ra những nguyên lý thiên văn cốt yếu. Ông đã viết cuốn “Khai Nguyên chiêm kinh”, trong đó quyển thượng ghi chép nhận thức về thiên văn của người Trung Quốc từ thời Đường trở về trước, còn quyển hạ chứa đựng nhiều huyền cơ vô hạn hơn nữa, đáng tiếc là cuốn sách đó không may đã bị tiêu hủy trong các vụ án văn tự thời Mãn Thanh kéo dài suốt 150 năm, nhưng may mắn là quyển thượng đã được tìm thấy trong quá trình khảo cổ.


Viên Thiên Cương tinh thông thiên văn và toán học, mười cuốn toán học mà ông sáng tác đều trở thành sách giáo khoa thời nhà Đường. Một người khác là Lý Thuần Phong cũng rất tinh thông toán học và thiên văn. “Thôi bối đồ” của Lý Thuần Phong đã tính toán ra các sự việc xuyên suốt qua các triều đại từ sau thời nhà Đường, mà tượng thứ 44, 46 lại chính là nói về những sự việc hiện nay chưa xảy ra nhưng sắp phát sinh.


Hiện nay khi những dự báo thời tiết trong mấy ngày mà khoa học thực chứng đưa ra đã gần như không còn chính xác, thì loại trí tuệ tuần hoàn thống nhất thiên, địa, nhân này quả khiến các nhà khoa học hiện đại phải kinh ngạc.


4. Giải thích về hiện tượng nguyệt thực và nhật thực trong “Minh Sử”


Ngoài phần Thiên Văn quyển một trong “Minh Sử” nói về “đất nằm trong trời, hình thể của nó là tròn đầy”, thì trong “Minh Sử” cuốn Lịch thứ nhất, quyển thứ 31 cũng bàn luận về nguyệt thực như sau: “Phần tối ấy là cái bóng, bóng che mặt trăng, không có khác về sớm muộn cao thấp, tứ thời nhiều lần xuất hiện sự dị thường ấy. Ví như treo một viên bi đen trong phòng tối, bên trái thắp nến, bên phải treo một viên bi trắng, nếu ánh nến bao phủ lấy viên bi đen, thì viên bi trắng không nhận được ánh sáng. Người đứng quan sát ở các vị trí khác nhau thì hình ảnh khác nhau. Vậy nên nói nguyệt thực sai khác theo thời”.


Bên cạnh đó, cuốn sách cũng bàn về hiện tượng nhật thực, cuốn sách viết rằng: “Đường đi của mặt trời và của mặt trăng có hai chỗ giao nhau, nếu đúng lúc giao nhau, thì bị ăn hết, nếu gần trước và sau lúc giao nhau, thì bị ăn nhưng chưa hết. Ngày này có hạn. Cũng có giới hạn về vị trí quan sát, giả dụ như ở Trung Quốc có nguyệt thực toàn phần, ở rìa thì trông thấy mặt trời khuyết một nửa, còn ở những nơi ngoài Trung Quốc thì mới giao chứ chưa ăn. Tại sao như vậy? Mặt trời như viên bi đỏ, mặt trăng như viên bi đen, hai viên bi cùng treo trên một đường thẳng, mặt trời ở trên mặt trăng ở dưới, khi ở dưới ngước nhìn lên, bi đen sẽ che bi đỏ, giống như bị ăn hết; còn quan sát ở biên thì có sai khác về xa gần, nên tỉ lệ bị ăn nhiều ít khác nhau”.


5. Giải thích hiện tượng tự nhiên trong “Thiên Tự Văn”


Trong “Thiên Tự Văn” – một cuốn sách phổ cập của học sinh tiểu học thời Trung Quốc cổ đại, câu đầu tiên là: “Thiên địa huyền hoàng, vũ trụ hồng hoang, vân đằng trí vũ, lộ kết thành sương”, đều diễn giải về hiện tượng tự nhiên.


Thiên địa huyền hoàng, chỉ trời như như sắc xanh pha đen của lòng trắng trứng, đất như lòng đỏ. Điều này tương hợp với những học thuyết của Đạo gia như “trời như quả trứng, đất như lòng đỏ” trong “Hỗn Thiên Nghi chú” và “Trời ôm lấy đất như lòng đỏ trong quả trứng, cho nên trời có chín tầng, đất thì tròn trịa, hoặc nói là đất tròn, đất ở trong trời, hình thể của nó tròn đầy, tương ứng với thiên độ…” trong “Minh Sử”.


Từ những tư liệu ở trên, có thể thấy người Trung Quốc xưa đã sớm biết rằng trái đất hình tròn, họ cũng biết rõ những nguyên lý, quy luật vận hành của thiên thể và vạn sự vạn vật. Chỉ có điều những kiến thức này đã bị che đậy chặt chẽ để xác lập nền giáo dục ngu dân duy vật hiện đại. Nếu không, nền giáo dục duy vật hiện đại dựa trên cơ sở của thuyết tiến hóa và thuyết vô thần sẽ không cách nào đứng vững được.


Sự tồn tại của vạn vật đều có nguyên lý sản sinh, kỹ thuật chế tạo ra sinh mệnh cũng như nguyên liệu và công nghệ liên quan đến nó. Nếu không thì tuyệt đối không thể tồn tại sinh mệnh. Chiểu theo khoa học thực chứng hiện đại, dựa trên nguyên lý chế tạo khoa học kỹ thuật công nghệ cao và nguyên vật liệu hiện nay mà lý giải, thì cơ chế tuần hoàn từ trong ra đến ngoài như chim bay thú chạy, hoa cỏ cây cối cho đến phức tạp, tinh vi như con người, lại còn sinh sôi nảy nở đời này qua đời khác là tuyệt đối không thể tồn tại! Máy móc thông minh hiện đại dẫu có tiên tiến đến đâu nhưng nếu so sánh với điều đó thì những điều khoa học kỹ thuật tạo ra được chỉ là nhỏ đến mức không đáng nói. Vũ trụ và vạn vật do ai tạo ra? Trí huệ vĩ đại và trình độ khoa học kỹ thuật cao như vậy thì chỉ có sinh mệnh cao cấp hơn con người mới có thể nắm vững, Thần mới thực sự là nhà khoa học vĩ đại. Ngoài đó ra không có câu trả lời nào hợp lý hơn.

THƠ VÀ SỰ LẠM PHÁT THƠ





Nguyễn Hiếu


VÌ SAO THƠ LẠM PHÁT?


Có một mệnh đề trong lí luận kinh điển theo chủ nghĩa đang bao trùm lên thể chế này mà bất kì một ông cán bộ nào có chút địa vị của xã hội ta mặc dù chả biết gì về triết học, kinh tế học nhưng rất thích nhắc đến đó là “hạ tấng cơ sở quyết định thượng tầng kiến trúc”- Diễn nôm ra, tức là cơ sở vật chất tác động quan trọng đến suy nghĩ, tư duy. Chả biết câu này đúng sai thế nào nhưng nhìn vào sự phát triển thơ đối chiếu với nền kinh tế nứơc ta thì quả là như vậy. Gần chục năm nay nưóc ta đi vào cơn khủng hoảng kinh tế chưa từng thấy biểu hiện qua chỉ số lạm phát kỉ lục. Chưa đầy một thập kỉ mà giá trị đồng tiền giảm tới hơn mười lần khiến giá cả tăng vọt, dân tình điêu đứng. Vậy mà trong thời gian này, thơ – một thứ sản phẩm trí tuệ ra đời từ những bộ óc siêu việt trong thời thịnh trị, dân an quốc vượng thì trong thời lạm phát mọi mặt của nước ta, thơ bỗng nhiên trở thành sản phẩm gia tăng vùn vụt của đủ hạng người, trong đó có thứ người no cơm ấm cật đang cần một cái danh mang tính hào hoa, phong nhã. Vì lẽ đó thơ cũng theo kinh tế mà rơi vào tình trạng lạm phát ghê gớm.

Ngoài nguyên nhân do ham muốn của số người thích mua danh ba vạn thì còn thêm hàng loạt nguyên nhân khiến sự lạm phát thơ ngày càng mạnh mẽ. Thứ ngưòi gọi là “nhà thơ”sinh sôi nhanh hơn cả chuột – giống động vật đẻ vô tội vạ – đến độ có người đã báo động cầm một hòn sỏi ném vu vơ ra ngoài đường thì thể nào cũng trúng một nhà thơ. Sự lạm phát này đã làm thơ, một thể loại cao quí, bị tầm thường hóa đến độ không ít người phát sợ.

Có người khi vui miệng đã đề nghị nên thành lập một trại “cai nghiện thơ”,và trước cửa nhà người, không muốn bị làm phiền vì thơ ca, đã để tấm biển “đề nghị để giầy, dép và thơ ở ngoài”.

Nguyên nhân thứ hai khiến thơ trở thành lạm phát phải kể đến là d đặc trưng ngôn ngữ xứ ta dễ bắt vận, dễ nói thành vần – không phải ngẫu nhiên những kẻ tâm thần, đầu óc không bình thường hay nói vần, thích đọc vè là vì vậy.

Một tác động làm thơ tăng như một đại nạn là cơ chế bỏ tiền ra in thơ. Thời mọi sự còn tử tế để in một tập thơ thì chí ít phải là nhà thơ đàng hoàng có môn bài, có danh là Hội viên Hội Nhà văn. Nay thì bất kì một vị nào có tiền khi đã no chán mọi thứ chơi vật chất như chó cảnh, chìm muông …lại có đôi chút khả năng biết bắt vần viết ra những câu có đôi chút nhịp điệu là loay hoay thế nào cũng chôm một ít tiền vợ mang đến các nhà xuất bản xin giấy phép in thơ mình. Ông nào rủng rỉnh tài chính còn thuê một vài cây bút đôi chút có danh để viết bài giới thiệu. Và, nếu chỉ căn cứ vào những bài tựa các tập thơ này thì dân An nam ta sẽ hí hửng tưởng xứ ta đang được ông Hoàng Mười phù hộ nên mới mọc ra nhiều đệ tử của Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm , Puskin, Gớt đến thế.

Trong sự cấp giấy phép in thơ này thì Nhà xuất bản Hội Nhà văn – một nhà xuất bản có một thời danh giá nay trở thành một tổ hợp thủ công chuyên cấp giấy phép để in thơ.

Một nguyên nhân nữa để thơ bung ra như mối gặp trời mưa là hai ông chánh, phó chủ tịch, ông Trưỏng ban Tổ chức Hội Nhà văn đều là nhà thơ.

Ông chủ tịch Hội thì với thơ ai cũng đều có câu khen rất tài hoa trong ngôn từ, mặc dù hình như ông chẳng đọc thơ của ai bao giờ, trừ những tập ông được mời viết lời tựa.

Câu bình cửa miệng của ông mỗi khi nói về thơ ai cũng hao hao như nhau “Nhan sắc lắm, lay động lắm ”.

Làm thơ và đựơc gọi là nhà thơ trong thời lạm phát dễ như thế nên người ta đổ xô làm những thứ gọi là thơ. Viết một truyện ngắn, một vở kịch và cao hơn cả là một tiểu thuyết thì cực khó, còn để đẻ ra một bài văn vần gọi là thơ thì quá dễ. Vì vậy thơ bung ra nhan nhản, từ ông thứ trưởng đương chức đến các sinh hoạt hội người cao tuổi, đều ngày ngày cặm cụi gò lưng làm thơ để hi vọng đựơc gọi và đựơc tự phong là nhà thơ.

Thơ lạm phát kéo theo sự gia tăng khủng khiếp một thứ, đó là ngưòi đựơc gọi là nhà thơ. Vì nhà thơ có vai vế trong hội nghề như vậy nên những đợt kết nạp và những giải thưỏng hàng năm đầu nghiêng về ngưòi làm thơ và thơ.

Với tình trạng này, danh hiệu và giải thưởng một thời cao quí là Hội viên , giải thưỏng Hội Nhà văn Việt Nam bỗng bị hạ thấp rất nhiều, nếu không muốn nói là rẻ rúng khi chỉ cần có trong tay hai ba tập thơ tự in, chất lượng nhàng nhàng, nhưng được sự chiếu cố của ông trưỏng ban, ông Chủ tịch hội thì sớm muộn sẽ được vào hội.

Còn giải thưỏng thì thật tuỳ hứng, nếu không muốn nói là giải thưỏng này đã được chỉ đạo theo kiểu chỉ định thầu trong kinh tế.

Tôi không tin dư luận cho rằng, vì yếu tố kinh tế nên năm nào Hội Nhà văn cũng kết nạp hàng đống các vị làm thơ chỉ ở trình độ nghiệp dư vào hội viên.

Nếu đây là sự thật thì nó có khác gì sự mua quan bán tước đang hoành hành ở nứoc ta.
Và như để chứng minh cho sự đúng đắn trong chiến lược phát triển hội viên Hội viên Hội Nhà văn Việt Nâm nên trên dưói một thập niên vừa qua, giải thưởng hàng năm, nhiều tập thơ xoàng xoàng đựơc các vị có chức quyền trong Hội Nhà văn để mắt tới, đã trúng giải.


Về thơ trẻ tôi xin mượn cách đánh giá của nhạc sĩ Văn Dung khi nói đến nhạc trẻ “đó là kiểu thơ chỉ để ý đến hình dáng, điệu bộ. trang phục mà quên đi nội dung, chất giọng”.

Cũng trong động tác để nhấn thêm sự khẳng định đúng đắn trong sự phát triển hội viên, sự phát triển đáng tự hào của phong trào thơ nước nhà của các vị lãnh đạo Hội Nhà văn Việt Nam, ngưòi ta đã tổ chức hàng loạt các cuộc hội thảo để tôn vinh một vài nhà thơ, xem như một biểu tượng, một thứ “đề can” cho hiện trạng thơ phát triển ầm ĩ đến lạm phát như hiện nay (sự hội thảo này có lẽ chỉ đúng nhất khi nói đến thơ của Đồng Đức Bốn- một tài năng vượt trội trong thể thể lục bát đặc sản của thi ca Việt Nam).

THỬ BÀN VỀ HIỆN TƯỢNG MAI VĂN PHẤN

Như trên tôi đã nói, số lượng các tập thơ ra đời hàng năm, từ khi có cơ chế tự in cùng với sự dễ dãi, mất công bằng trong việc kết nạp người làm thơ vào Hội Nhà văn thì hàng năm cả nứơc ta không dưới hai, ba ngìn tập thơ được xuất bản, và mỗi năm có hàng nghìn người tham gia vào đội ngũ làm thơ (đọc thơ dễ hơn đọc văn (vì nó phù hợp với sự lười đọc đang bao phủ toàn bộ nền văn hoá đọc của xứ ta). Vì thế, người ta không lấy làm lạ khi Nhà văn Tuyết Sương TPHồ Chí Minh, tác giả 5 cuốn tiểu thuyết trong đó có cuốn “cô y tá nhỏ” khá nổi tiếng, rồi nhà văn Trần Chiến, tác giả cuốn tiểu thuyết vào hàng xuất sắc bao năm vẫn không được các vị trong Ban chấp hành để mắt tới).

Không gì dễ hơn khi tự tạo lập cho mình danh hiệu nhà thơ. Tôi biết có một người không hề có chút thiên bẩm nào trong sáng tác văn nghệ, nhưng có thể cho ra đời mọi tác phẩm đủ mọi thể loại: cầm kì, thi, họa, trừ tiểu thuyết.

Thời buổi thưong mại này,l khi người ta có tiền thì muốn thành nhà gì cũng được, trừ thành một tiểu thuyết gia, huống hồ làm một nhà thơ.

Trên số lượng về thơ và nhà thơ mà hai ông nhà thơ chánh phó, chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam đã cố tạo ra vài cái đỉnh khẳng định sự thắng lợi của sự bội thu thơ. Sự biểu dương và tôn vinh cố ý thơ Mai Văn Phấn là một trường hợp như thế.

Phải công nhận về mặt phương pháp luận thì Mai Văn Phấn tỏ ra khôn ngoan khi chọn một kiểu thơ “không phải là thơ”, một thứ văn xuôi cắt ngắn, một cách viết giống hệt bản dịch ra tiếng Việt từ tiếng nứơc ngoài của người đang ở độ tuổi trí tuệ còn chưa lú lẫn. Trong khi hầu hết những người viết thơ đang sáng tác theokiểu cú pháp, hình thức thơ cũ kĩ, mà trong chiều sâu của tâm hồn và nhận thức của họ, cũng thấy không mấy hấp dẫn thì Mai Văn Phấn quả là khôn ngoan đi theo một lối đi tưởng như mới trong làng thơ ta hiện nay.

Nhưng đọc kĩ một chút thì thơ Mai Văn Phấn là sự lặp lại hiện tượng giống như thơ của Nguyễn Quang Thiều cách đây trên dưới hai mươi năm. Hồi đó NguyeenxQuang Thiều đang sung sức, cũng bắt đầu nhàm chán cáí lối thơ và tư duy thơ cổ lỗ của các bậc đàn anh đi trứơc, lại sẵn có khả năng ngoại ngữ nên Thiều đã chọn con đưòng mô phỏng thơ nứơc ngoài, chủ yếu là thơ tiếng Anh mà ít nhiều tôi nhìn thấy tựa tựa cách viết theo những bài thơ lừng lẫy trong tập lá cỏ của Witman.

Thơ Thiều thủa sung sức giống hệt như những bản dịch từ thơ nứơc ngoài.
Cũng xin nói thêm khi Nguyễn Quang Thiều làm những bài thơ này, cũng là lúc nền văn chương nước ta đã bắt đầu đổi mới. Các cây bút đã chán ngấy một kiểu văn chương minh hoạ, những câu thơ cũ kĩ nặng chất truyền thông, thì Thiều quả là khôn ngoan khi đem đến cách viết mới mà thực ra là sự mô phỏng lối nghĩ, lối câu trúc của thơ nứớc ngoài.

Thời đầu đổi mới đó văn xuôi còn để lại Nguyễn Huy Thiệp trong sự phá phách lật đổ các thần tượng, giải thiêng những điều húy, kị; còn trong thơ thì ồn lên sự làm mới của thơ Thiều .

Tôi chỉ hơi lạ, trong văn xuôi, Thiều có những cách viết có cảm hứng hướng về làng quê thôn giã (tiêu biểu là truyện ngắn “‘mùa hoa cải bên sông”), thì trong thơ Thiều “sự cách tân” lại hướng ngoại mà thực chất là sự mô phỏng thơ nước ngoài.

Hơn hai hai mươi năm sau, Mai Văn Phấn lại rập lại cách đi đó của đàn anh.

Điều này cắt nghĩa, vì sao hai ông nhà thơ chức dịch của Hội Nhà văn bỗng nhiên lại tán tụng thơ Mai Văn Phấn và kéo theo hàng đống các vị, một là theo voi ăn bã mía, hai là sợ mình bị đánh giá là ngu dốt khi không tán dưong thơ Mai Văn Phấn theo kiểu Trạng Quỳnh đã từng diễu “địt mẹ thằng nào bảo thằng nào”.

Ngôn ngữ, tư duy của ngưòi Việt ta khác hẳn ngôn ngữ, cách tư duy của người nứơc ngoài.Vậy mà, Nguyễn Quang Thiều và nay Mai Văn Phấn lại tung ra những đoạn chữ mà ngưòi ta gọi là thơ cùng những suy nghĩ gần như rập lại cách nói, cách tư duy của ngưòi nước ngoài, cụ thể là tư duy của dân đất mới châu Mỹ. Trong suy nghĩ người Việt rất kiêng kị khi nói về quạ (theo quan điểm cổ xưa đó là loài chim chuyên mang điều gở ), nay Mai Văn Phấn lại mô phỏng cách nghĩ nứơc ngoài, cũng nói về con quạ với những câu gọi là thơ, giống như thơ dịch, với kiểu tư duy và cách đặt câu xa lạ với ngôn ngữ, cách tư duy truỳên thống của người đọc xứ ta

“Con cá nhẩy vào đám mây tự vẫn”- Biến tấu con quạ.

Rồi lảm nhảm, loằng ngoàng nói về mái nhà như một người ngớ ngẩn đang học nói tiếng Việt:

“Thùng rác quay mắc phải khung ảnh, quạt trần, dây điện thoại. Chiếc quần lót mặc kẹt giữa tủ bát đĩa và máy tập thể hình. Chổi cùn, bình diệt muỗi, đĩa CD chui vào tủ lạnh …- Chạy theo mái nhà.

Trời ạ! Thế mà ngưòi ta dám gọi là thơ thì thật là liều.

Tôi còn nhớ Chế Lan Viên đã từng có ý định cách tân hình thức thơ bằng kéo dài câu thơ một cách bất thường. Dạo đó ta gọi là thơ văn xuôi. Đọc lại bài thơ tiêu biểu cho sự cách tân này của ông là bài : những cành phong lan bể:

“ xanh biếc mùa thu bể như hàng nghìn mùa thu còn tâm hồn nằm đọng lại/ Sóng như hàng nghìn trưa xanh trời đã tan xanh thôi không trở lại làm trời/ Nếu núi làm con trai thì bể là mùa thu đã biến thành con gái , mỗi đêm ngày da thịt sóng sinh sôi”.

Ta vẫn thấy một cách nghĩ Việt Nam, những âm điệu của ngôn ngữ Việt cực kì thơ ẩn dấu trong hình thức văn xuôi mang đặc trưng mà chỉ có thơ mới có.

Còn đọc thơ Mai Văn Phấn chỉ thấy những câu văn không ra văn, thơ không ra thơ, mang đủt hứ suy ngĩ vớ vẩn, theo kiểu bạ đâu nói đó. Tối nghĩa và hạ thấp rất nhiều, chẳng những thể loại thơ, mà còn làm mất đi vẻ đẹp, sự trong sáng của tiếng Việt.

Tôi nhớ trong làng thơ xứ ta hiện nay, không ít vị làm thơ muốn đổi mới sự thể hiện thơ. Điều này là một yêu cầu chính đáng, cần khuyến khích. Nếu Lê Đạt muốn cách tân bằng sự đảo lộn cú pháp, trật tự ngữ pháp để tạo ra sắc thái mới của thơ, Lê Huy Quang cũng đi theo hứơng này và cũng có ít nhiều thành công, hay Nguyễn Đình Chính cách tân bằng đưa ngôn từ trầm tục vào thơ ..

Nhưng, dù tôi không tán thành việc dung tục hoá trong thơ Chính, nhưng vẫn phải công nhận NguyễnĐình Chính, ngoài tư cách là một tiểu thuyết gia ưa tìm tòi, thì ông là một nhà thơ đầy nội lực thi ca. Nội lực này lại càng đựơc đẩy lên khi chất công dân của ông được thể hiện một cách dữ dội và bản lĩnh trong những câu thơ muốn phá bung khuôn khổ …

Hoặc ca từ trong những ca khúc tài danh của Trịnh Công Sơn. Trong những ca từ mang nặng chất thơ của Trịnh Công Sơn, nếu tách ra từng dòng hay để hiểu trực diện nghĩa thì thật khó, nhưng ở những ca từ đó tràn ngập sự hư ảo, lung linh, cao siêu của triết ly thiền, nên tạo ra quá nhiều tầng nghĩa mà ngưòi đọc chỉ cảm chứ không thể diễn thành lời một cách rành mạch.

Trở lại thơ Mai Văn Phấn. Để chứng minh thơ Mai Văn Phấn là hiện tượng đổi mới thơ ca, Hội Nhà văn không ngần ngại tiến hành một loạt hoạt động để ghi nhận hiện tượng này. Làm hội thảo, rồi trao giải thưởng cho Mai Văn Phấn và trao giải cho các cây bút trẻ có lối viết hao hao như Mai Văn Phấn, như Đỗ Dõan Phương.

Xin đọc mấy câu mà ngưòi ta cố gọi là thơ của cây bút trẻ này:

“Bây giờ là quãng đường dài nhất/ mọi ngưòi giúp cô tiền đò, tiền đường/ và bắc những cây cầu bằng vải đỏ / hát những câu an ủi dặn dò…/ khắc ghi vào đầu khuôn mặt già nua của cô để từ nay nhớ hoặc sợ - Thăm vườn nhà cũ.

Kì quặc thật. Thế này mà người ta gọi là thơ thì tôi nghĩ, một là ngưòi đó bị nhiễm sự lai căng dở dang của kẻ quá yêu tiếng nứơc ngoài chê bai tiếng mẹ đẻ, hai là cái đầu đó có vấn đề về tâm thần.

Tôi có cảm thấy một chu kì đã thành qui luật là mỗi khi ngưòi ta tôn vinh thứ thơ lai căng này thì cũng là lúc các nhà thơ của ta đang đi vào bế tắc, cả trong tư tưởng và cách biểu hiện.

Thơ Mai Văn Phấn và một số tập thơ nhận giải thưởng của Hội Nhà văn không chỉ là những ví dụ cho sự bế tắc mà còn vô tình tạo ra một thứ sai lầm khi làm hỏng thẩm mỹ về thơ của ngưòi đọc Việt nam, làm rối ngôn ngữ nước ta, trong khi đáng ra với chức phận nhà thơ phải làm cho ngôn ngữ này ngày càng đẹp hơn,dân tộc hơn và trong sáng hơn.



Quỳnh Mai - Hội Ngộ Văn chương

Vì sao màu tím được coi là màu của các bậc vương giả?





Nguồn: “Why is purple considered the color of royalty?”,


Biên dịch & Hiệu đính: Lê Hoàng Giang


Màu tím đã gắn liền với nhiều bậc quân vương từ thời kỳ cổ đại, khi đó màu này được quý trọng vì có sắc đậm và thường được dành riêng cho giới tinh hoa. Vua Ba Tư Cyrus đã dùng một tấm áo chẽn màu tím làm hoàng bào, và một số hoàng đế La Mã đã cấm không cho dân thường mặc quần áo màu tím, nếu vi phạm sẽ bị xử tử. Màu tím được đặc biệt tôn kính dưới thời Đế quốc Byzantine. Các hoàng đế Byzantine mặc áo choàng dài màu tím, ký các sắc lệnh bằng mực tím, và con cháu của họ thường được gọi là “sinh ra trong sắc tím[1]”.


Nguyên nhân màu tím có được danh tiếng vương giả như vậy chỉ đơn giản là vì quy luật cung – cầu. Trong suốt nhiều thế kỷ, việc buôn bán thuốc nhuộm màu tím tập trung ở thành phố Tyre của người Phoenicia, ngày nay thuộc Lebannon (Li-băng). “Màu tím xứ Tyre” của người Phoenicia có từ một loài ốc biển ngày nay có tên Bolinus brandaris, loài ốc này quý hiếm đến mức giá trị của chúng được tính bằng số vàng có khối lượng tương ứng. Để tạo ra được thuốc nhuộm tím, thợ nhuộm phải đập vỡ vỏ ốc, trích xuất chất dịch nhầy màu tím và đem phơi ra ánh sáng mặt trời trong một khoảng thời gian chính xác. Cần đến 250.000 con ốc mới đủ tạo ra một ounce (khoảng 30 gram) thuốc nhuộm dùng được, nhưng kết quả thu được sẽ có màu tím rực rỡ và khó phai mờ.


Trang phục nhuộm màu tím có giá đắt đến mức không tưởng – một pound (khoảng 0,45 kg) len màu tím còn đắt hơn số tiền người bình thường kiếm được trong một năm – vì vậy chúng đương nhiên trở thành biểu trưng cho giới giàu có và quyền lực. Thêm nữa là màu tím xứ Tyre còn được cho là tượng trưng cho màu máu khô – màu mà tương truyền là có ý nghĩa linh thiêng. Sự độc quyền sử dụng màu tím của giới hoàng gia cuối cùng đã dần biến mất sau khi Đế quốc Byzantine sụp đổ vào thế kỷ 15, nhưng màu tím vẫn không trở nên phổ biến hơn cho đến những năm 1850, khi thuốc nhuộm tổng hợp bắt đầu xuất hiện.


—————-


[1] Nguyên văn: “born in the purple”.

Thứ Hai, 9 tháng 10, 2017

TỪ BẢN NGỮ VÀ TỪ NGOẠI LAI




• Nguyễn Thiện Giáp


Căn cứ vào nguồn gốc của các từ, người ta chia từ vựng thành hai lớp: từ bản ngữ và từ ngoại lai. Hai khái niệm này cần được xác định một cách biện chứng và lịch sử.


Bất kì ngôn ngữ nào, trong quá trình hình thành và phát triển của mình cũng thu hút nhiều yếu tố của các ngôn ngữ khác, do đó có nhiều từ ngữ giống hoặc tương tự với các từ ngữ của các ngôn ngữ khác. Chẳng hạn, tiếng Việt hiện đại của chúng ta ngày nay chứa đựng nhiều từ ngữ giống hoặc tương tự với các từ ngữ trong nhiều thứ tiếng khác như: tiếng Mường, tiếng Thái, tiếng Tày-Nùng, tiếng Bana, tiếng Gialai, tiếng Êđê, tiếng Khmer, tiếng Hán, tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Anh... Nếu không nhìn nhận vấn đề một cách biện chứng và lịch sử thì rất khó xác định đâu là từ bản ngữ, đâu là từ ngoại lai. Có người cho rằng chỉ có thể gọi một cách hợp lí từ ngoại lai trong một ngôn ngữ nhất định là những yếu tố đã thâm nhập sau cái thời kì ít nhiều chính xác đánh dấu một cách quy ước giai đoạn đầu của ngôn ngữ ấy. Trong thực tế. vấn đề xác định thời gian hình thành của một ngôn ngữ dân tộc nào đó là rất phức tạp và không phải bao giờ cũng cho một câu trả lời chắc chắn. Vì vậy, chúng ta vẫn vấp phải cái khó khăn trong khi phân biệt từ bản ngữ và từ ngoại lai. Nội dung của hai khái niệm này chỉ có thể xác định một cách tương đối chắc chắn nếu xét chúng trong những giai đoạn lịch sử cụ thể nhất định. Các giai đoạn phát triển của một ngôn ngữ kế tiếp lẫn nhau, mỗi giai đoạn bao gồm những yếu tố thuộc ba loại:


Những yếu tố cũ, giai đoạn trước để lại;
Những yếu tố mới du nhập vào từ các ngôn ngữ khác trong giai đoạn ấy;
Những sản phẩm mới được cấu tạo trên cơ sở những yếu tố cũ và những yếu tố mới du nhập vào.


Xét trong giai đoạn ấy, những từ thuộc loại một và loại ba có thể được coi từ bản ngữ, còn những từ thuộc loại hai là những từ ngoại lai. Như vậy, khái niệm từ ngoại lai và từ bản ngữ được quan niệm một cách biện chứng. Những từ ngoại lai trong giai đoạn này có thể trở thành từ bản ngữ trong giai đoạn tiếp theo.


Cách xác định từ bản ngữ và từ ngoại lai căn cứ vào nguồn gốc đòi hỏi phải biết từ nguyên của các từ. Công việc này không phải bao giờ cũng thực hiện được dễ dàng. Trong việc sử dụng ngôn ngữ, chỉ những khác biệt phản ánh tình trạng hiện thời của ngôn ngữ là quan trọng. Vì vậy, từ bản ngữ và từ ngoại lai còn được xác định về phương diện đồng đại thuần tuý. Một số nhà nghiên cứu đã đưa ra các khái niệm từ bản ngữ đồng đại và từ ngoại lai đồng đại.


Từ ngoại lai đồng đại là những từ có những nét không nhập hệ (non intégrés) vào cấu trúc đương thời của ngôn ngữ. Từ ngoại lai đồng đại có thể là những từ ngoại lai còn giữ những đặc trưng của ngoại ngữ khiến cho chúng khác với các từ bản ngữ đồng đại. Đối với tiếng Việt, những đơn vị đó có thể là.


Những từ phiên âm nhưng viết liền như: cácbon, amin, amoniac, ampe...
Những từ phiên âm nhưng viết rời như: a-xít, a-mi-la-da, a-ni-lin, a-nô-phen, a-pa-tít, a-xê-ti-len...
Những đơn vị có cách kết hợp âm vị bất thường như: pa-tê, noãn xào, xoong, séc, loong toong...
Những từ Hán Việt không hoạt động tự do như: sơn, thuỷ, gia, quốc, hải...
Tổ hợp các từ Hán Việt không hoạt động tự do như: ba đào, giai nhân, tham quan, sở dĩ, phạm trù, tiền phong...
Những từ không phải tiếp thu của ngoại ngữ nào nhưng lại có những nét làm cho nó khác hẳn các từ khác và được xử lí một cách khác cũng là từ ngoại lai đồng đại. Thí dụ: leeng keeng, loong coong, bù nhìn, mồ hóng, mồ hôi, lê ki ma, chôôc...


ừ bản ngữ đồng đại là những từ mà xét về cấu trúc ngữ âm cũng như thái độ hình thái học hoàn toàn nằm trong cấu trúc đương thời của bản ngữ mặc dù xét về phương diện lịch đại đó có thể là những từ có nguồn gốc ngoại lai. Thí dụ:


Những từ mượn tiếng Hán cổ, những từ Hán Việt đã Việt hoá về ngữ âm và những từ tiếp nhận từ các ngôn ngữ Ấn-Âu nhưng có dạng ngữ âm trùng với âm tiết: xăng, bì, lốp, gần, đầu, thần, ngọc, bia, phin, phớt...
Những từ Hán Việt đã có khả năng hoạt động tự do như tất cả các từ thuần Việt khác: ông, bà, tài, đức, thọ, học, thanh, hiếm, trí, phô, chúc thọ, chức tước, ông bà, nguy hiểm, sự vật, trí não, học tập, thành phố...
Bây giờ chúng ta hãy đi sâu vào lớp từ ngoại lai.


Nếu căn cứ vào mối liên hệ với sự vật và khái niệm, có thể chia từ ngoại lai thành hai loại:


Những từ ngoại lai biểu thị những sự vật và khái niệm mới xuất hiện, trong bản ngữ chưa có từ biểu thị. Các từ xô viết, công xô môn, đồng chí, hợp tác xã, may ô, xà phòng v.v... trong tiếng Việt là như vậy.
Những từ biểu thị những sự vật và khái niệm đã có từ trước trong bản ngữ đã có từ biểu thị rồi. Trong trường hợp này, từ ngoại lai đồng nghĩa với từ bản ngữ. Tiếng Việt tiếp nhận từ ngữ tiếng Hán một cách hệ thống, vì vậy có hàng loạt từ gốc Hán đồng nghĩa với các từ thuần Việt. Thí dụ: thiên – trời, địa – đất, cử – cất, tồn – còn, tử – con, tôn – cháu...
Nếu xét về thành phần ngoại lai, có thể chia từ ngoại lai thành từ phiên âm và từ sao phỏng.


Từ phiên âm là tiếp nhận cả hình thức lẫn nội dung của từ của ngôn ngữ khác. Hình thức ngữ âm của các từ của ngoại ngữ có thể thay đổi ít nhiều cho phù hợp với quy luật ngữ âm của bản ngữ. Thí dụ:


Pháp Việt
glaïeul layơn, dơn
planton loong toong
fromage pho mát
cravate ca la vát, ca ra vát, ca vát,...
Từ sao phỏng là những từ tiếp nhận một mặt nào đó của từ của ngôn ngữ khác. Từ sao phỏng có hai loại: sao phỏng cấu tạo từ và sao phỏng ngữ nghĩa.


Sao phỏng cấu tạo từ là trường hợp dùng chất liệu của bản ngữ để cấu tạo một từ nào đó dựa theo mẫu về kết cấu của các từ tương ứng trong ngôn ngữ khác. Thực chất của loại này là dịch từng yếu tố có tính chất hình thái học của các từ của ngôn ngữ khác. Như vậy, nó chỉ tiếp nhận mẫu cấu tạo từ trong ngôn ngữ khác mà thôi. Thí dụ: từ tiếng Nga подразделение là sao phỏng cấu tạo từ của từ tiếng Pháp subdivision (sự chia nhỏ). Nó được thực hiện bằng cách dịch tiền tố sub- bằng tiền tố под-, chính tố -divis- bằng -раздел- và hậu tố -ion bằng -ение. Trong tiếng Việt, các đơn vị từ vựng như chắn bùn, chắn xích, chiến tranh lạnh... cũng là sao phỏng cấu tạo từ của các đơn vị tương ứng trong tiếng Pháp là garde boue, garde chain, guerre froide... Ngoài hiện tượng sao phỏng cấu tạo từ hoàn toàn như những thí dụ trên, còn có hiện tượng sao phỏng cấu tạo từ không hoàn toàn. Những từ sao phỏng kiểu này một phần là dịch các yếu tố tương đương của ngoại ngữ, phần còn lại là tiếp nhận nguyên si của ngôn ngữ đó. Chẳng hạn từ идолослвужение của tiếng Nga bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp là từ eidololatreia (sự thờ thần tượng), trong đó, chính tố идоло- được tiếp nhận, còn chính tố latr- và phụ tố -eia được dịch ra tiếng Nga là служ- và -ение.


Từ телевидение (vô tuyến truyền hình) bắt nguồn từ từ televisia trong đó chính tố теле- có nguồn gốc Hi Lạp, còn chính tố -vis- và phụ tố -ia (gốc Latin) được dịch ra tiếng Na là -вид- và -ение.


Sao phỏng ngữ nghĩa là hiện tượng các từ tiếp nhận thêm ý nghĩa của các từ tương ứng trong ngôn ngữ khác. Cơ sở để từ này có thể tiếp thu thêm ý nghĩa của từ tương ứng trong ngôn ngữ khác là ý nghĩa định danh trực tiếp của chúng phải giống nhau. Từ này chỉ tiếp nhận thêm ý nghĩa bóng vốn chỉ có ở từ kia. Thí dụ: Từ tiếng Nga трогать có thêm ý nghĩa "gây xúc động" là nhờ sao phỏng ý nghĩa của từ toucher trong tiếng Pháp. Cơ sở của sự sao phỏng này là cả hai từ đều có ý nghĩa trực tiếp là "sờ mó". Ý nghĩa "tầm thường, vô vị" của từ плоскиы cũng là do sao phỏng ý nghĩa của từ tiếng Pháp plat mà có. Cả hai từ này đều có ý nghĩa trực tiếp là "bằng phẳng". Từ ngựa trong tiếng Việt và từ cheval trong tiếng Pháp cùng chỉ một loài động vật, nhưng từ cheval còn chỉ một đơn vị sức kéo, do đó, từ ngựa đã có thêm cả ý nghĩa này (máy 15 ngựa). Nếu hiện tượng sao phỏng cấu tạo từ dẫn đến sự xuất hiện trong ngôn ngữ những từ mới thì hiện tượng sao phỏng ngữ nghĩa chỉ dẫn đến sự xuất hiện những từ đồng âm hoặc những ý nghĩa mới của từ đã có.


Hiện tượng tiếp nhận từ ngữ của ngôn ngữ khác không diễn ra một cách đơn giản như ta chuyển thóc lúa từ bồ này sang bồ kia mà các từ ngữ ngoại lai phải chịu sự biến đổi theo quy luật của ngôn ngữ tiếp nhận. Nói chung, quá trình đồng hoá các từ ngoại lai diễn ra trên cả ba mặt ngữ âm, ngữ nghĩa và ngữ pháp. Mỗi ngôn ngữ có hệ thống ngữ âm riêng. Khi một từ chuyển từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ kia phải có sự biến đổi diện mạo của mình cho phù hợp với hệ thống ngữ âm của ngôn ngữ chủ thể. Chẳng hạn, các từ tiếng Pháp gare, poste, gramme sang tiếng Việt đã đổi thành ga, bốt, gam. Khi đã tồn tại với tư cách là một thành viên của ngôn ngữ chủ thể, từ ngoại lai lại chịu sự biến đổi theo quy luật riêng của ngôn ngữ chủ thể. Từ ngoại lai và từ gốc mà nó xuất thân có thể phát triển theo những hướng hoàn toàn khác nhau.


Thí dụ: Vào thời kì của tiếng Hán cổ, cả tiếng Việt và tiếng Hán đều có phụ âm vô thanh. Từ can của tiếng Hán cổ khi chuyển sang tiếng Việt vẫn giữ nguyên diện mạo như vậy. Nhưng sau đó, các từ trong tiếng Hán biến đổi theo quy luật vô thanh hoá, còn các từ trong tiếng Việt lại biến đổi theo quy luật hữu thanh hoá. Do đó, từ can trong tiếng Hán hiện đại vẫn đọc như vậy, còn trong tiếng Việt, can đã đổi thành gan.
Ở bình diện ngữ nghĩa, quá trình đồng hoá cũng diễn ra tương tự như vậy. Khi tiếp nhận, ngôn ngữ này có thể thể không tiếp nhận tất cả các ý nghĩa của từ trong ngôn ngữ khác.


Thí dụ: từ balle trong tiếng Pháp có các nghĩa: 1) quả bóng, 2) đầu đạn, nhưng tiếng Việt chỉ tiếp nhận từ này với ý nghĩa thứ nhất mà thôi. Do mối quan hệ với các từ bản ngữ, ý nghĩa của các từ hồng, hoàng, thanh trong tiếng Hán có ý nghĩa tương tự như các từ đỏ, vàng, xanh của tiếng Việt. Khi du nhập vào tiếng Việt, các từ này cũng được dùng để biểu thị những màu ấy nhưng ở sắc độ nhạt hơn.
Về mặt ngữ pháp, các từ ngoại lai cũng được đồng hoá theo bản ngữ. Chẳng hạn, tiếng Việt là ngôn ngữ không biến hình, hiện tượng chuyển loại xảy ra rất dễ dàng. Nhiều từ tiếng VIệt tiếp nhận của tiếng Pháp cũng tuân theo quy luật đó: double, blue là tính từ, vào tiếng Việt đúp, lơ có thể làm động từ. Nhiều cụm từ tiếng Pháp khi vào tiếng Việt đã được nhận thức như một từ, thí dụ: à la xô (à l’assaut), phú la căng (foutre le camp – "cuốn xéo"), cập bà lời (t’as pas k’eoil) v.v...


Theo Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên). Dẫn luận ngôn ngữ học. Nxb Giáo dục, H., 1998, trang 129–134.