Thứ Năm, 22 tháng 6, 2017

Cao Ðài Dưới Chế Ðộ Ngô Ðình Diệm




Nam Giao 



Hộ Pháp Cao Đài Phạm Công Tắc (1890-1959) và đội Hộ Vệ Quân trước Tòa Thánh Thất tại Tây Ninh (Photo – Internet/VNMLQHT)

Lời Giới Thiệu (nhấn mạnh và hình ảnh) của hoangnamgiao –

● “Cao Đài Dưới Chế Độ Ngô Đình Diệm” là tên của một tập tài liệu do nhà biên khảo Huỳnh Tâm chấp bút và do Hội Thánh Ngoại Giáo Cao Đài Âu Châu bảo trợ tinh thần và yểm trợ phổ biến. Tài liệu do Giáo sư Gustave Meillon (thuộc Académie des Sciences d’Outre-Mer) viết lời giới thiệu và được phát hành vào năm 1990. Biên khảo nầy chủ yếu xử dụng tài liệu của Ban Đạo Sử Cao Đài và Thư viện Cao Đài tại Pháp (Quận 5, thủ đô Paris), ghi lại những mốc lịch sử trong mối quan hệ giữa Đạo Cao Đài (thông qua Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ / Tây Ninh) và chính quyền Đệ nhất Cộng hòa từ ngày 12-1-1950 đến ngày 22-12-1963. Trong 14 năm đó, với hình thức trình bày “sử biên niên”, tác giả đã đặc biệt làm nổi bật tương quan giữa hai nhân vật Hộ Pháp Phạm Công Tắc và Tổng thống Ngô Đình Diệm của nền Đệ nhất Cộng hòa.

● Đạo Cao Đài được chính thức thành lập thông qua Đại lễ Khai Đạo vào ngày 19-11-1926 tại chùa Thiền Lâm, tỉnh Tây Ninh, với sự hình thành của Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Là một tôn giáo xuất sinh từ Việt Nam, dung hợp giáo lý của Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo, Hồi giáo và Cơ Đốc giáo, Đạo phát triển mạnh ở Nam Bộ, lan ra miền Trung và qua cả Cao Miên. [Theo số liệu của cơ quan thống kê Việt Nam cho đến năm 2010, Đạo Cao Đài có khoảng 2,4 triệu tín đồ trong 35 tỉnh/thành ở Việt Nam, và vào khoảng 30 nghìn tín đồ ở Hoa Kỳ, Châu Âu và Úc châu. – Wikipedia]. Trôi nỗi giữa buổi giao thời của phong trào giải thực và chiến tranh lạnh, đạo Cao Đài đã liên tục phải ứng phó với những thế lực ngoại nhập (như Pháp, Nhật, Cộng sản quốc tế, Mỹ …) trên đất nước Việt Nam thông qua những “con bài” ủy nhiệm của họ. Trong đó, “oan trái” nhất là ứng phó với chính quyền Ngô Đình Diệm, khởi đi với tư cách “đồng minh” nhưng kết thúc bi thảm vì bị chính quyền nầy “phản bội”.

● Đàn áp tôn giáo và tiêu diệt đảng phái đối lập là hai chủ trương đặc thù của chế độ Diệm. Chúng ta đã có rất nhiều tài liệu về chủ trương nầy đối với Phật giáo và Hòa Hảo, … nhưng về Cao Đài thì chỉ có một số tài liệu về hai nhân vật nỗi bật nhất của Cao Đài là Phạm Công Tắc và Trình Minh Thế mà thôi. Do vậy, tập biên niên sử “Cao Đài Dưới Chế Độ Ngô Đình Diệm” nầy chính là tiếng nói chính thức và có thẩm quyền của tín đồ Cao Đài về chính quyền Ngô Đình Diệm, sẽ giúp chúng ta thêm dữ kiện trong việc phân định tội lỗi lịch sử của chế độ nầy một cách chính xác và đầy đủ hơn. – NAM GIAO




Lời Giới Thiệu (của GS Gustave Meillon)



Giáo sư Gustave Meillon (1915-1994)

[Photo: http://caodaitv.free.fr/archivetv1/2008duhanhdhpad02.htm ]

Ðức tin Cao Ðài đã vượt qua những trở lực để vươn mình vào ánh sáng dưới mặt Trời và những nguyên nhân ngăn cản đã bỏ lại sau lưng trên dòng thời gian lịch sử, trang sử truyền giáo ấy bởi giá trị hiến dâng của toàn đạo chịu nhọc nhằn khổ sở đổi lấy bi tráng nầy, đã chứng minh ngọn nóng của lửa Thiên vẫn thắp sáng và nay là trường ca bất tận sống cùng Nhân loại. Lịch sử đạo Cao Ðài với bao niềm tự tin đã dâng về đấng Ngôi Cao từ những an lành trong cõi đời, đến khung cửa trí tuệ được mở rộng và đôi bàn tay huyền diệu biết nâng niu đầm ấm cho nhau, biết kính trọng đức Cao Ðài vẫn hằng sống ngự trị ở khắp mọi nơi, ngay cả lòng bao dung và vị tha trên đường chân lý phục vụ Từ Bi Bác Ái Công Bình bước vào thời đại vĩnh cửu và cuốn sách Cao Ðài Dưới Chế Ðộ Ngô Ðình Diệm của nhà biên khảo Huỳnh Tâm là những thành tựu đắp xây công nghiệp Ðạo.

Ban Ðạo Sử Cao Ðài Âu Châu xét rằng cuốn sách Cao Ðài Dưới Chế Ðộ Ngô Ðình Diệm của nhà biên khảo Huỳnh Tâm xem như một vị trí công quả rất đáng nâng niu đã vượt ra thời gian và sẽ được lưu truyền một công trình biên khảo sau 20 năm, nay Hiền Huynh Huỳnh Tâm cập nhật hóa tất cả tài liệu của Ðạo đã lưu trữ tại Hội Thánh Ngoại Giáo Cao Ðài Âu Châu và những dữ kiện được đối chiếu, hầu giúp bạn đọc sau nầy có dịp nghiên cứu truyền giáo của đạo Cao Ðài dưới chế độ kỳ thị Tín ngưỡng và đạo đã cống hiến sự nghiệp đức tin cho đất nước Việt Nam vô điều kiện.

Cuốn sách Cao Ðài Dưới Chế Ðộ Ngô Ðình Diệm của biên khảo Huỳnh Tâm đã trình bày và được mở ra những trang sử tư liệu rõ ràng trước hoàn cảnh Ðạo nhận phải những phức tạp trên cao điểm gay gắt từ năm 1954-1963 do chế độ Đệ nhứt Cộng hòa bày biện. Ðạo vẫn truyền lưu và lịch sử vẫn phải ghi nhận như một chứng nhân của bao thời trôi theo dòng đời từ Pháp thuộc đến đệ nhứt Cộng hòa, đệ nhị Công hòa rồi nay Xã hội Chủ nghĩa và Ðạo vẫn truyền giáo trên những mặt đời thênh thang đến khắp cùng vũ trụ và sự nghiệp truyền giáo Cao Ðài không ngừng nghĩ một giây khắc nào, từ đây Nhân loại cất cao âm hưởng vinh ca Ðức Cao Ðài vào tần nhịp khắp cùng vũ trụ.

Ðã bao chế độ trôi qua từng ấy kiếp sống thay nhau nhường chỗ, nhưng Ðạo vẫn là Ðạo của muôn đời còn đó và lời cầu Kinh, Tân Luật, Pháp Chánh Truyền, Ðạo Luật, Thánh Ngôn vẫn là chất liệu tinh anh nuôi sống cho tất cả tâm hồn tươi mát và cuốn sách Cao Ðài Dưới Chế Ðộ Ngô Ðình Diệm cũng để ghi nhận một thời gay gắt, nói lên tính năng động của cơ Ðạo thăng trầm theo vận sinh tồn của vũ trụ và trần thế vẫn sàng sảy để tỏ rõ thân thế miên trường của đạo Cao Ðài, đạo Cao Ðài sẽ là dòng đời lịch sử nương chuyển theo lưu truyền 700.000 mùa mai nở.

Paris 25/12/1990

Giáo Sư Gustave Meillon



Lời Trình Dâng

Ánh sáng của Ðạo chỉ lối cho chúng tôi đến với Ban Ðạo Sử Cao Ðài tọa lạc tại Paris 5, nơi lưu trữ tư liệu Ðạo đầy đủ nhứt ở Âu Châu, bởi Quý Ngài Tiền Khai Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ Tòa Thánh Tây Ninh như Ðức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt “Lê Văn Trung”, Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, Chánh Phối Sư Thượng Vinh Thanh “Trần Quang Vinh” đã ủy thác cho Hội Thánh Ngoại Giáo Cao Ðài Âu Châu truyền giáo vào Phương Tây và từ ấy đã có rất nhiều nhà biên khảo Tây phương đến BÐSCÐ nghiên cứu, nhưng trên lãnh vực biên khảo và ghi nhận những khúc quanh lịch sử của Ðạo có liên quan đến nền Ðệ nhứt Cộng Hòa do Tổng Thống Ngô Ðình Diệm trị vì 9 năm vẫn chưa được khám phá.

Từ cơ duyên ấy trách nhiệm nầy của người Tín đồ Cao Ðài và lương tâm người biên khảo xin dâng hiến phần công quả nhỏ, làm gạch nối bạn đọc hầu tham khảo lịch sử của đạo Cao Ðài sau thời Pháp thuộc và gửi đến Ban Ðạo Sử cuốn sách Cao Ðài Dưới Chế Ðộ Ngô Ðình Diệm, nhằm bổ túc vào những dữ kiện truyền giáo đã trải qua một chế độ kỳ thị Tôn giáo và những biến cố của Ðạo ở thời nầy.

Chúng tôi khởi đầu biên khảo cuốn sách nầy bởi động lực kỳ thị Tôn giáo và thiếu vắng nhân bản của chế độ Ngô Ðình Diệm, những chính sách nghiệt ngã của nhà Ngô dành cho đạo Cao Ðài chồng chất chưa được lịch sử ghi nhận, nếu có chăng cũng là phần ghi chú nhỏ trong hời hợt, quên lững và dị biệt, bởi người viết sử của thời nầy trống vắng tinh thần chứng nhân và bỏ rơi giá trị Ðức tin, Nhân bản đến mức độ không còn vì lòng trung thực.

Từ những yếu tố ấy chúng tôi không ngần ngại lấy lương tri để biên khảo đề tài nầy và suy nghĩ những cưu mang đích thực vì tất cả cho lẽ sống đức tin công bình, bởi những sự kiện hiển nhiên của lịch sử và tự nó sống trên lưu truyền mà không cần đến mọi sáng tạo theo cảm tính của hư cấu.

Nay chúng tôi đã hoàn tất biên khảo Cao Ðài Dưới Chế Ðộ Ngô Ðình Diệm sớm hơn hai năm dự định và chúng tôi xin cảm ơn Hội Thánh Ngoại Giáo Cao Ðài Âu Châu, Giáo sư Gustave Meillon, Ban Ðạo Sử Cao Ðài, Thư Viện Cao Ðài tại Pháp đã bảo trợ tinh thần, tư liệu tham khảo và vật chất cần thiết trong lúc biên khảo, với lòng chân thành nầy chúng tôi xin cầu nguyện Chí Tôn và Phật Mẫu chan rưới phép lành đến khắp cùng quý vị và bạn đọc xa gần như ý .

Mùa Ðông Paris 1990

Huỳnh Tâm

Cao Ðài Dưới Chế Ðộ Ngô Ðình Diệm

28/10/1914 - Ðức Hộ Pháp ở buổi xuân thời thường giao tiếp với Phan bội Châu, Phan châu Trinh, Lê văn Trung, Cao quỳnh Cư, Cao hoài Sang, Thuần Ðức (Nguyễn trung Hậu), Trương hữu Ðức, Lương khắc Ninh và Gibert Chiếu và Người liên giao toàn khối Văn học Nghệ thuật Nam-Bắc đồng suy tư tìm sinh lực đổi mới cho quê hương, xứ sở.

Người thân thương mọi giới qua tinh thần bao dung và văn học nghệ thuật được nhân sĩ toàn quốc kính trọng như một hiền sĩ đương thời yêu nước.

Người theo năm tháng trăng trở nhìn về phía trước viễn cảnh của đất nước Việt Nam vì độc lập và tự trị, những nhịp cầu lương tâm ấy mở ra chân trời như tiếng gọi giao lưu thúc dục con dân đất Việt đi tìm hạnh phúc cho toàn dân và phát triển xứ sở thịnh vượng, từ ấy những suy tư ngồi lại như thời hàn vi của Ngô Ðình Diệm thường vấn an Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, ngày Ngô Ðình Diệm lên ngôi Thủ Tướng lập ra chế độ kỳ thị Tôn giáo.

26/7/1915 - Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc trong buổi đương thời Pháp thuộc vẫn như mọi công chức khác thuyên chuyển đi làm việc tại Hưng Thạnh, Qui Nhơn Trung Kỳ. Ðất Qui Nhơn đoán nhận khí thế sinh anh hùng nhập cuộc, cửa ngỏ giao lưu nhân sĩ miền Trung từ Bình Thuận cho đến Nghệ An, những Chí sĩ miền Trung nung đúc cách mạng dân tộc đang vươn mình.

Người từ Nam ra Trung như lời kêu gọi của Tổ Quốc, hợp thành tầng lớp thanh niên Tây học nhiệt huyết để tìm một định chế cho tương lai xứ sở. Tại Qui Nhơn Ngài cùng những nhân sĩ miền Trung đẩy mạnh khai tử nạn mù chữ, lập ra hội khuyến học bảo trợ xây dựng trường sở, mở thêm lớp học đêm và ngày nâng cao dân trí, khuyến khích phát triển kinh tế mở rộng cơ sở kinh doanh phục vụ dân sinh.

Ngài cùng đứng tên nhiều tờ báo và thành lập Văn Ðàn Thi Xã tại Qui Nhơn, mượn môi trường văn học nghệ thuật làm đất chiêu hiền đãi sĩ và tìm những đồng thuận để khai phóng quê hương đổi mới, cùng dung hợp Ðông-Tây hòa nhứt để trở mình khỏi ách đô hộ ngoại bang, tinh thần Nho sĩ Tây học bột phát tại miền Trung cao độ, như quy hội về Trường Sơn, Triều đình nhà Nguyễn để mắt bất đồng, Chính quyền Pháp thuộc ra tay đàn áp tàn bạo trí thức miền Trung yêu nước.

11/4/1928 - Ðức Hộ Pháp thế đời hành Ðạo đem hết tất lòng và khả năng truyền giáo xây dựng nền đạo, tín đồ nhập môn cầu đạo mỗi lúc mỗi đông, chính quyền thuộc địa Pháp xem Ngài như một trở ngại lớn cho sự đô hộ tại Việt Nam. Lúc ấy Ngô Ðình Diệm cũng từ quan bỏ triều đình nhà Nguyễn, để đi tìm giải pháp mới cho Việt Nam.



Hộ Pháp Phạm Công Tắc và hai anh em ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu

12/01/1950 - Ngô Ðình Diệm gia nhập tổ chức chính trị Mặt Trận Quốc Gia do cựu Thủ Tướng Bác sĩ Lê Văn Hoạch sáng lập và lãnh đạo, nguyên là một tín đồ Cao Ðài, ở thời điểm nầy ông Ngô Ðình Diệm rất mật thiết với đạo Cao Ðài.

27/02/1950 - Sinh viên Ðỗ Vạn Lý tín đồ đạo Cao Ðài du học tại Hoa Kỳ, đón tiếp và giới thiệu Ngô Ðình Diệm với Quốc Hội Hoa Kỳ, Sinh viên Ðỗ Vạn Lý qui tụ được sinh viên Việt Nam đang du học tại Hoa Kỳ và một số sinh viên Chính quốc tiếp xúc Ngô Ðình Diệm.

Sau ấy Ngô Ðình Diệm được đức Hồng y Spellman bảo trợ và đề nghị với Chính phủ Hoa Kỳ tổ chức đưa Ngô Ðình Diệm về Việt Nam thay thế Bảo Ðại.

27/3/1950 - Ðức Hộ Pháp hội đàm cùng với Hoàng đế Bảo Ðại tại Ðà Lạt về tình hình đất nước đang chuyển mình vào thế không thuận cho tương lai Việt Nam .

Người có đề nghị cùng Hoàng đế Bảo Ðại, thành lập một Chính phủ có nhiều thành phần và Ngô Ðình Diệm cũng được đề nghị trong danh sách ấy.

29/03/1950 - Quốc Trưởng Bảo Ðại ủy quyền cho Ðức Hộ Pháp đến Nam Vang Hội nghị an ninh Việt-Miên.

Thông cáo chung: Dành mọi đặc quyền và ưu đãi cộng đồng Việt kiều như những cộng đồng kiều dân khác đang sinh sống trên đất nước Cao Miên. Hai dân tộc Việt-Miên đồng quyền Tự do Tín ngưỡng không phân biệt Tôn giáo, ổn định biên giới và bang giao mật thiết.

Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc cũng nhân dịp nầy ngõ lời giới thiệu với Hoàng đế Cao Miên về thân thế của Ngô Ðình Diệm, Hoàng đế Cao Miên rất hoan hỉ cảm tình Ngô Ðình Diệm từ ấy.

18/10/1950 - Ðức Hộ Pháp ra miền Bắc hội đàm cùng các nhà lãnh đạo tinh thần Tôn giáo tại Hà Nội như: Ðức Giám mục Lê Hữu Từ, Thượng Tọa Thích Tâm Châu và các đảng phái chính trị, để tìm giải pháp cho Việt Nam. Tại Thánh thất Hoàn mã Hà Nội, Ðức Hộ Pháp ban phép lành dạy toàn đạo và Chức sắc lấy tình thương yêu, hòa thuận để vượt qua những biến cố thử thách và đất nước sẽ biến đổi vào những năm kế tiếp, tín đồ Cao Ðài Hà Nội ghi nhớ lời vàng thước ngọc không quên lời Tiên tri của Người.

Cũng ở dịp nầy Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc hội đàm với Linh mục Lê Hữu Từ và Người để lời khen ngợi Ngô Ðình Diệm.

1954 Linh mục Lê Hữu Từ vào Nam cũng kể lại cho Ngô Ðình Diệm biết về những mẫu chuyện trao đổi với Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc tại Hà Nội và Linh mục có lời khuyên Ngô Ðình Diệm không nên phụ Người (Ðức Hộ Pháp) .

Sau nầy Ngô Ðình Diệm quên lời dạy bảo của Linh mục Lê Hữu Từ “Không nên phụ lòng Người”, nhưng Ngô Ðình Diệm đổi lòng thành ra “Nên phụ lòng Người”.

27/05/1953 - Tại Sài Gòn mở ra Hội nghị Ðoàn kết Ðộc lập Hòa bình cho Việt Nam, do Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ Tòa Thánh Tây Ninh tích cực tổ chức để tìm những giải pháp thiết thực mưu cầu hạnh phúc toàn dân và phổ biến lập trường của nhân dân Việt Nam vì tự do, độc lập, để chuẩn bị vận động cho Thủ tướng Ngô Ðình Diệm về nước

20/6/1953 - Ngô Ðình Diệm đến Belgique (Bỉ quốc) cư ngụ tại xứ đạo Mons, để chuẩn bị yết kiến Quốc Trưởng Bảo Ðại, thời điểm nầy Ngô Ðình Diệm tranh thủ tìm mọi hậu thuẫn của các chính giới trong và ngoài nước tại Âu châu.

Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc kêu gọi Hội Thánh Ngoại Giáo Cao Ðài Âu Châu tạo mọi điều kiện để Ngô Ðình Diệm tiếp xúc với Quốc Hội và Chính phủ Pháp quốc.

10-27/10/1953 - Ðức Hộ Pháp đại diện Ðức Quốc Trưởng Bảo Ðại triệu tập hội nghị toàn quốc tại Sài Gòn nhằm tiếp ứng tình hình mới Việt Nam hậu Pháp thuộc, có các Tôn giáo và đảng phái chính trị đồng thuận xây dựng một Việt Nam tương lai như: Cao Ðài, Hòa Hảo, Ðại Việt, Việt Quốc và có các ông Ngô Ðình Nhu, Nguyễn Xuân Chữ v.v…

28/5/1954 - Vào lúc 18 giờ 30 tại điện Elysées, Bộ Trưởng Ngoại giao ông Mecheri tiếp đón phái đoàn Cao Ðài dưới sự hướng dẫn của Ðức Hộ Pháp trong nghi lễ Quốc khách, thảm nhung danh dự hướng vào sảnh đường điện Elysées. Tổng Thống Pháp René Coty và Thủ Tướng Laniel bắt tay chào mừng Ðức Hộ Pháp và đoàn tùy tùng.

Hội nghị ra thông cáo chung đồng thuận tìm một giải pháp Việt Nam tự trị.

29/5/1954 - Vào lúc 17 giờ tại Hôtel Georges V Paris, Ðức Hộ Pháp mở cuộc họp báo dành riêng cho báo giới và ký giả phỏng vấn về tôn giáo Cao Ðài và tình hình Việt Nam hiện tại cũng như trong tương lai, sau cùng Ngài dùng thời gian đi thăm gia đình và viếng mộ phần đại văn hào Victor Hugo “tức Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn” tại điện Panthéon và yết kiến Quốc Trưởng Bảo Ðại.

5/6/1954 - Toàn đạo tổ chức ngày sinh nhựt Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc hưởng thọ 60 tuổi “Lục tuần” tại Hộ Pháp Ðường. Có trên 60 Ðại sứ khắp nơi trên thế giới đến Tòa Thánh Tây Ninh để chúc thọ Ðức Hộ Pháp và chụp hình chung lưu niệm.

Nhân ngày lễ Lục tuần Ðức Hộ Pháp gửi đến các Ðại sứ một thông điệp kêu gọi “Nhân loại hãy hướng về thế giới vì Công bình, hạnh phúc và hổ trợ cho Việt Nam sớm được độc lập”. Lời kêu gọi của Người được các Ðại sứ tiếp nhận và hưởng ứng .

Cùng ngày Thần Học Quốc Tế và Thông Thiên Học Quốc Tế đồng tiếp nhận đức tin Cao Ðài được vào chương trình truyền thông Quốc Tế và Tòa Thánh nhận điện văn chúc thọ của Ngô Ðình Diệm gửi đến Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc .

10/6/1954 - Ðức Hộ Pháp đến Ðiện Thorène yết kiến cùng Quốc Trưởng Bảo Ðại và có sự tham dự quý ông Ngô Ðình Diệm, Phó Thủ Tướng Nguyễn Trung Vinh, Tổng Trưởng Tài Chánh Dương Tất Tài, Trung Tướng Nguyễn Văn Xuân, Dương Hồng Chương và Ðỗ Hùng…

15/6/1954 - Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc hội kiến cùng quốc Trưởng Bảo Ðại và Ngô Ðình Diệm tại điện Thorène, về những sự kiện đất nước chuyển biến trong hội nghị Genève.

Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc Cố vấn Quốc Trưởng Bảo Ðại, đề nghị trao quyền cho Ngô Ðình Diệm làm Thủ tướng và được Quốc Trưởng Bảo Ðại chấp thuận để cho Ngô Ðình Diệm về nước toàn quyền thành lập chính phủ.

Quốc Trưởng Bảo Ðại khuyên nhủ Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm rằng: “Ông hãy hợp nhứt các giáo phái vào cộng đồng Quốc gia, thống nhứt phần đất còn lại của chúng ta”.

Và Quốc Trưởng Bảo Ðại ký cho Ngô Ðình Diệm ngân phiếu Một triệu đồng bạc để tổ chức những cuộc biểu tình tự phát, Ngô Ðình Diệm cằm chi phiếu cảm ơn và tâu: “Bẩm Hoàng Thượng nếu khi nào Ngài thấy tôi có lỗi, Ngài chỉ nói một lời là tôi từ chức ngay”.

Và Quốc Trưởng Bảo Ðại đề nghị với Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc: “Nhờ Ngài Hộ Pháp Phạm Công Tắc về Việt Nam huy động Tín đồ Cao Ðài và toàn dân đón tiếp ông Ngô Ðình Diệm”.

26/06/1954 - Ngô Ðình Diệm về nước để chấp chánh quyền Thủ Tướng, sau nầy là nền Ðệ nhứt Cộng Hòa Việt Nam theo thể thức dân cử phổ thông đầu phiếu, cùng ngày Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc và phái đoàn Cao Ðài thay mặt Quốc Trưởng Bảo Ðại chuẩn bị đến Genève tham dự Hội nghị Quốc tế chia hai miền Nam-Bắc đất nước Việt Nam thành hai khối Cộng sản và Quốc gia.

13/7/1954 - Thủ Tướng Pháp Quốc ông Laniel tiếp Ðức Hộ Pháp tại điện Matignon bởi tình thân hữu và Thủ Tướng Pháp rất cảm kích đức tin Cao Ðài từng soi sáng những tấm lòng hy sinh phụng sự nhân loại.

Trong buổi tiếp kiến với Thủ Tướng Laniel, đức Hộ Pháp thừa dịp giới thiệu Ngô Ðình Diệm hầu gây cảm tình với Chính phủ Pháp, nhằm mở đường thuận lợi cho sự bang giao sau nầy của Chính phủ Ngô Ðình Diệm.

15/7/1954 - Ðức Hộ Pháp cùng phái đoàn Cao Ðài đến Thụy Sĩ, do Cựu Hoàng Bảo Ðại ủy quyền dự Hội nghị Genève. Tại Hôtel Régina là nơi làm việc của phái đoàn Cao Ðài và văn phòng Ðức Hộ Pháp mở cửa trên 24/24 giờ hầu tiếp đón các phái đoàn cũng như những dữ kiện lịch sử Việt Nam phát ra từ Genève, tại đây phái đoàn Cao Ðài có nhiệm vụ dung hòa và kêu gọi đôi bên VNDCCH và VNCH hãy hy sinh quyền lợi phe phái để ngồi lại tự mình giải quyết cho dân tộc hòa bình, tránh cảnh chiến tranh chia đôi Dân tộc, đức Hộ Pháp không muốn lịch sử dân tộc Việt Nam lập lại lần thứ hai như Trịnh-Nguyễn .

Phái đoàn Cao Ðài đứng trước Liên Hiệp Quốc làm chứng nhân lịch sử Việt Nam. Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc thay mặt toàn dân Việt Nam làm quan sát viên hội nghị Genève về Việt Nam, Người kêu gọi hội nghị hãy vì Tự do, Hòa Bình và hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam.

Ông Phạm văn Ðồng trưởng phái đoàn VNDCCH, Bác sĩ Trần Văn Ðỗ trưởng phái đoàn VNCH, cả hai không đồng thuận để ngồi lại tự giải quyết lợi ích chung vì Việt Nam . Vì lẽ bất đồng ý thức hệ đưa đất nước phải chia đôi, vĩ tuyến 17 làm phân ranh hai miền Nam-Bắc.

Phái đoàn đạo Cao Ðài và phái đoàn VNCH cùng một vị trí, đối diện với phái đoàn VNDCCH, trong Hội nghị quốc tế Genève đình chiến Việt Nam. Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc thay mặt Quốc Trưởng Bảo Ðại và toàn dân tuyên bố tại Liên Hiệp Quốc: “Nếu Việt Minh và Pháp tuân lịnh ngoại bang chia nước Việt Nam làm hai mà không có sự chấp thuận của toàn dân Việt Nam thì Bần đạo chống cả hai hết”.

Lời tuyên bố cương quyết vì thương yêu dân tộc Việt Nam vô bờ bến của Ðức Hộ Pháp, nay vẫn còn lưu trữ tại thư viện Liên Hiệp Quốc Genève .

18/7/1954 - Ðức Hộ Pháp mở cuộc họp báo tại Genève vào lúc 17 giờ với sự hiện diện cả hai phái đoàn VNDCCH, VNCH, các Ðại sứ tại Liên Hiệp Quốc và phóng viên ký giả quốc tế . Người kêu gọi thế giới tạo mọi điều kiện cho Việt Nam sớm được Ðộc lập .

20/7/1954 - Genève, Hiệp định đình chiến Việt Nam chính thức chia đôi từ vĩ tuyến 17 thành hai vùng ảnh hưởng, miền Bắc do khối Cộng sản Nga cầm quyền, miền Nam do khối tư bản Mỹ chi phối. Genève đánh dấu một khúc quanh lịch sử Dân tộc Việt Nam chia đôi đất nước, phái đoàn Cao Ðài làm hết sức mình để kết hợp và dung hòa nhưng sự cố chấp và chia để trị đã đè nặng quê hương khắc khoải bởi hai khối quyền lợi vị kỷ, họ từ chối quyền sống làm người và tinh thần dân tộc Việt Nam Lạc Hồng trên 5000 năm văn hiến.

Biến cố Genève, Ðức Hộ Pháp Phạm công Tắc và toàn đạo Cao Ðài để hết tất lòng cho sự độc lập Việt Nam. Lời Tiên tri của Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc tại Genève như sau: “Hôm nay là ngày khởi đầu cho nội chiến, rồi đây dân tộc Việt Nam sẽ nghèo khó nhứt trên thế giới bởi không có thời gian để phát triển đất nước, lẽ ấy chúng ta là con dân đạo phải hy sinh vì dân tộc mà không hổ với Tổ Tiên”.

Ðình chiến hai miền Nam-Bắc Việt Nam được ấn ký chưa ráo mực bắt đầu trầm mình vào nội chiến Huynh-đệ tương tàn chồng chất triền miên .

10/08/1954 - Tướng Hoa Kỳ Lansdale cố vấn cho Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm, đến núi Bà Ðen thuyết phục tướng Trịnh Minh Thế quân đội Cao Ðài Liên Minh và hối lộ các cấp chỉ huy lực lượng võ trang quân đội Cao Ðài, cùng lúc tướng Lansdale sử dụng tiền bạc mua được tướng Nguyễn Thành Phương và Nguyễn Văn Thành về hợp tác với Ngô Ðình Diệm.

19/08/1954 - Ngô Ðình Diệm cũng cố địa vị ra tay tiêu trừ các thế lực tạm chung sống và mượn hoàn cảnh đương thời để cho kế sách âm mưu chiếm đoạt lòng yêu nước của toàn dân và khai trừ những nhân sĩ yêu nước đã từng chia sẻ và tạo ra Ngô Ðình Diệm.

12/10/1954 - Ðức Hộ Pháp đến Tokyo (Nhật) rước di hài của Ðức Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể (qui danh Nguyễn Phúc Vân, đích tôn của Ðông Cung Cảnh) về nước ngày 20/10/1954, theo như di ngôn của Ðức Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể ủy nhiệm cho Ðức Hộ Pháp Phạm công Tắc và toàn đạo Cao Ðài đem di hài về Tòa Thánh Tây Ninh hương khói.

Chính phủ Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm, Tín đồ Cao Ðài và hai người con của đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể, ra sân bay Tân Sơn Nhứt đón rước di hài theo nghi lễ Hoàng Gia.

Di hài đến Sài Gòn được quàn tại đền thờ Ðức Tổ Hùng Vương 3 ngày để đồng bào, nhân sĩ, những Ðại sứ ngoại giao đoàn và Chính phủ đến tưởng niệm vị anh hùng vong thân, sau 3 ngày dưới sự hướng dẫn của Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc và Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm cùng tháp tùng di linh hài Ðức Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể về Tổ đình Tòa Thánh Tây Ninh thờ phụng tại Báo Quốc Từ .

29/01/1955 – 08/02/1955 - Lễ Khánh Thành Tòa Thánh Tây Ninh.

Chương trình khánh thành Tòa Thánh trong 12 ngày có trên 950.000 Tín Ðồ về dự lễ và trên 120.000 quan khách cùng tham dự, Nội ô Tòa Thánh cũng như 18 phận đạo ngày đêm tấp nập, chưa kể tín hữu và người dân Tây Ninh tham dự, 21 trai trường đón tiếp từ 6 giờ sáng, cứ 15 phút có một hiệp trên 1.500 người ăn cơm cho đến 20 giờ đêm mới chấm dứt .

31/01/1955 - Tại Ðại Ðồng Xã trước Ðền Thánh là nơi cử hành chánh lễ Khánh thành Ðền Thánh, bề ngang 10 thước, bề dài 40 thước, hai khán đài nam và nữ, mỗi khán đài chứa trên 1.000 người, hết chỗ chen chân. Phía trước khán đài danh dự, ngoài Ðức Hộ Pháp còn có Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm, Ðại sứ các Quốc gia và Ðại diện của các Tôn Giáo, ở phía dưới là khán đài của Chức Sắc Cửu Trùng Ðài, Hiệp Thiên Ðài, Hội Thánh Phước Thiện Tòa Thánh Tây Ninh, Chức sắc các Chi Phái, Chức sắc các Tông Ðạo, Hội Thánh Ngoại Giáo về tham dự cùng các Bộ phủ Chính quyền nhà nước cũng như các chính giới trong và ngoài nước Việt Nam, ngoài ra còn có một khán đài dành riêng cho các cơ quan báo chí khắp nơi loan tin và tường thuật, Ðạo hữu đứng hai bên trong và ngoài rừng thiên nhiên, cũng như các cửa lộ dẫn vào Tòa Thánh.

Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc đọc diễn văn: “Ðến lúc Bần Ðạo cần cho Thế giới hiểu rõ uy tín của đạo Cao Ðài cả về phẩm lẫn lượng đặc điểm là cho các nước hiểu quyền năng Ðức Chí Tôn trong kỳ hỗn loạn nầy, để mong rằng nhơn-loại nên hướng về hạnh phúc chung bớt sự tương tàn, tương sát lẫn nhau !”.

Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm đọc diển văn . “Ðức tin Việt Nam sẽ đến với nhân loại như một hoài bảo canh tân xã hội hoàn toàn mới”. “Hôm nay là ngày khánh thành Tòa Thánh để đánh dấu nền tảng Tôn giáo của Việt Nam, tôi xin chúc mừng Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ Tòa Thánh Tây Ninh đã cho tôi một vinh dự nầy và tôi xin kêu gọi toàn đạo hỗ trợ cho Chính phủ để kiến tạo đất nước, như trước đây toàn đạo đã từng hỗ trợ cho Chính phủ”.

07/02/1955 - vào lúc 0 giờ Ðức Hộ Pháp cắt dây băng trấn thần Ðền Thánh, toàn đạo khởi hành Ðại lễ vinh danh Ðức Chí Tôn cùng Tam giáo.

Bãi đàn Ðức Hộ Pháp tuyên bố cùng với Ngô Ðình Diệm: “Trong lúc hỗn loạn nầy, số phận hẩm hiu nhứt là các dân tộc nhược tiểu. Thế giới hiện nay có hai chủ trương: Một bên lấy võ-lực làm căn bản, một bên đem tiền tài để huy động khắp nơi.

Nhưng ta không sợ. Bằng võ-lực: Ta có thể hợp sức nhiều nước để chống lại. Bằng tiền-tài: Ta có thể không mắc mưu, nếu ta không ham lợi. Nói tóm lại chỉ có thống nhứt tinh thần mới có thể thoát khỏi tai-họa hữu hình, mà chỉ có thống nhứt tôn giáo mới thống nhứt nổi tinh thần. Vậy con cái Ðức Chí Tôn phải đồng tâm hiệp lực để Ðạo được mau tiến triển để làm tròn phận sự một công dân của một quốc gia, một hiếu tử của Ðức Cha-Lành”.

11/02/1955 - Tướng Trịnh Minh Thế phong cấp quân hàm cho Hồ Ðức Trung và Nguyễn Văn Ðờn lên Thiếu tá chuẩn bị về Sài Gòn đầu hàng Ngô Ðình Diệm và Tướng Trịnh Minh Thế đến Trí Huệ Cung xin ý kiến Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc cùng mời Người về Sài Gòn để dự lễ Quốc Gia Hóa Quân Ðội Cao Ðài. Người tiên tri trước rằng: “Qua không thể nào ngồi chứng kiến cái chết của các con, tùy ý các con định liệu”.

13/02/1955 - Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm đọc diển văn khai mạc lễ Quốc gia hóa quân đội Cao Ðài Liên Minh (CĐLM) chính thức sát nhập vào Quân đội Quốc gia Việt Nam. Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm gắn quân hàm Thiếu Tướng cho Trịnh Minh Thế.

Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc âu lo cho đàn con mất tổ và Ngài phán rằng: “Vô Phương hết Thế không Thành”. Lời Tiên tri 78 ngày sau:

– Trung Tướng Nguyễn thành Phương bị sa thải ra khỏi quân đội Quốc gia, vì kế hoạch bội nghĩa của Ngô Ðình Diệm đã kết thúc qua hồ sơ bản án “Trung tướng Nguyễn Thành Phương tàng trữ xe hơi”, từ ấy Diệm-Phương thành hai kẻ bội phản không cùng một chiến tuyến để đối diện với Cộng sản, Nguyễn Thành Phương tự đầu quân vào Bình Xuyên để đối kháng với Ngô Ðình Diệm .

– Thiếu Tướng Trình Minh Thế bị tử trận oan uổng và bí mật tại dạ cầu Tân Thuận Sài gòn, bởi viên đạn đi vào từ tai trái xuyên qua mắt phải.

– Trung Tướng Nguyễn văn Thành bị cách chức đày đi Côn Ðảo.

Triều đại nhà Ngô không chấp nhận ngồi chung ba tướng Phương, Thế, Thành.



Tướng Trịnh Minh Thế (1922-1955), Thiếu tướng trong Quân dội Cao Đài – “bị tử trận oan uổng và bí mật” tại cầu Tân Thuận, Sài Gòn.

03/05/1955 - Ngô Ðình Diệm ra tay lấy trước mạng Thiếu Tướng Trịnh Minh Thế tại dạ cầu Tân Thuận, sau 78 ngày trên cầu vai quân hàm Thiếu tướng, hưởng dương 33 tuổi. Truy phong Trung tướng, xác quàn tại Tòa Ðô Chính Sài Gòn và được tổ chức quốc táng, Ðại tá Văn Thành Cao đọc điếu văn với hàng nước mắt thương tiếc cho người vắng số, chính trị muôn mặt kẻ đọc điếu văn chính là danh thủ, chỉ một viên đạn trúng tai trái xuyên vô mắt phải, vào lúc 03 giờ 15 phút chiều, Ngô Ðình Diệm thăng thưởng chiến công quân hàm Ðại tá cho danh thủ Văn Thành Cao tại dinh Ðộc Lập.

Trong những ngày tang chế, linh cửu của Thiếu tướng Trịnh Minh Thế còn quàn tại Tòa Ðô Chính, lời phu nhân cố Thiếu tướng Trịnh Minh Thế, bà Nguyễn Thị Kim đau khổ ôm xác chồng trong tuyệt vọng thống thiết và tiết lộ: “Phải chi ông nhà tôi đừng nghe lời xúi biểu của ông Nhị Lang thì hôm nay đâu có xẩy ra nông nỗi nầy”, và “nếu như ông nhà tôi vâng lời theo Thánh ý của Ðức Hộ Pháp thì hẳn không vắng số như hôm nay” .

Sau cái chết của Thiếu Tướng Trịnh Minh Thế, Ngô Ðình Diệm chỉ thị cho Trần Kim Tuyến khai thác hồ sơ và những hành vi hai mặt bội phản CÐLM của Nhị Lang như sau:

“1/ Nhị Lang tự ý thay mặt Thiếu tướng Trịnh Minh Thế đến Vũng Tàu họp mật với Bảy Viễn.

2/ Nhị Lang tự ý thay mặt Thiếu tướng Trịnh Minh Thế xuống Cái Vồn họp mật với Năm Lửa.

3/ Nhị Lang tự ý họp mật với Lâm Thành Nguyên ở Sài Gòn “tự Ba Cụt”.

4/ Nhị Lang tự ý đại diện Thiếu tướng Trịnh Minh Thế ký vào “Tối hậu thư” buộc Ngô Ðình Diệm phải thi hành theo những điều kiện của C.D.L.M.”

Kế sĩ gian phi tạo ra 04 dữ kiện trên để cho mối đa nghi từ Ngô Ðình Nhu ra tay ám sát Trung tướng Trịnh Minh Thế và Ngô Ðình Diệm, chưa kịp vung lưới bắt Nhị Lang quân sư phù thủy phản bội CDLM đã tẩu thoát đến Cao Miên ngày 18/02/1956, tiếp tục ăn cơm đạo Cao Ðài và sau đó bội phản đạo Cao Ðài lần cuối vào năm 1975.

28/04/1955 - Ngô Ðình Diệm thành lập Hội Ðồng Nhân Dân Cách Mạng truất phế Bảo Ðại tại Tòa Ðô Chính Sài Gòn. Mượn tay các Tướng lãnh Cao Ðài truất phế Bảo Ðại như Trung Tướng Nguyễn Thành Phương, Trịnh Minh Thế, Hồ Hán Sơn và các tướng Nguyễn Văn Vỹ, Lê Văn Tỵ. Tướng Nguyễn Văn Vỹ tuyên bố trên đài phát thanh:


“1/ Tôi nhất định không nhìn nhận quyền hành của Bảo Ðại, bởi vì tôi nhận thấy phong trào cách mạng là đúng với chính nghĩa.

2/ Tôi hoàn toàn chấp nhận những nghị quyết Đại hội Nhân dân Cách mạng đã biểu quyết trong phiên nhóm hôm 29/04/1955. Tuyên bố truất phế Bảo Ðại và toàn chế độ thực dân Pháp.

3/ Tôi không nhận đặc ân của Bảo Ðại ban bố cho tôi.

4/ Tôi tình nguyện và nhất định ở lại dinh Ðộc Lập và tôi sẵn sàng hiến mình cho chính phủ lâm thời thành lập nay mai và cho Ủy Ban Cách Mạng sử dụng.

Bức thư nầy do chính tay tôi viết đúng theo tư tưởng của tôi trước Tổ quốc, tôi yêu cầu được phổ biến bằng báo chí và đài phát thanh.

Ký tên

Nguyễn Văn Vỹ”

Kế hoạch của Ngô Ðình Diệm mượn tay các tướng lãnh, tiểu trừ ảnh hưởng Bảo Ðại trong chính quyền mới, Ngô Ðình Diệm đứng ngoài Hội Ðồng Truất phế Bảo Ðại để không mang tiếng bội nghĩa

17/05/1955 - Sau khi Ngô Ðình Diệm tiểu trừ được Tướng Nguyễn Văn Hinh và quân đội Bình Xuyên, miền Nam không còn những đối đầu quân sự ngôi Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm được ổn định và ông chuẩn bị chính sách khủng bố đảng phái và các Tôn giáo như: Cao Ðài, Phật Giáo, Hòa Hảo và nhân sĩ yêu nước. Khởi đầu cho chính sách, Ngô Ðình Nhu hạ thủ Ðại Tá Hồ Hán Sơn tại Tây Ninh .

20/08/1955 - Ngô Ðình Diệm lập mưu đồ cho Nguyễn Văn Thành lật đổ quyền Tổng Tư Lệnh quân đội Cao Ðài của Trần Quang Vinh.

Nguyễn Văn Thành nắm quyền Tổng Tư Lệnh liền tổ chức phản loạn và thanh trừng nội bộ.

Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc thu quyền của Nguyễn Văn Thành và giao cho Ðại Tá Lê Văn Tất.

Nguyễn Thành Phương mượn quân đội Liên Minh của Trịnh Minh Thế mưu gian ác khủng bố ám sát Ðại tá Lê Văn Tất, buộc nhường quyền cho Nguyễn Thành Phương, bất chấp tuân lịnh của Hội Thánh .

Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc nhận định tình thế quân đội Cao Ðài không làm tròn sứ mạng vì Ðạo-Ðời đúng nghĩa-vụ và danh dự, để Ngô Ðình Diệm giựt dây nội bộ chia rẽ, Ðức Hộ Pháp không hài lòng những việc làm của Trung tướng Nguyễn Thành Phương, Thiếu Tướng Trịnh Minh Thế và Tướng Nguyễn Văn Thành bởi tự ý về Sài Gòn cộng tác với Ngô Ðình Diệm để rồi rơi vào kế sách phản bội, Ngô Ðình Diệm chiến thắng rực rỡ kế sách Quốc gia hóa quân đội Cao Ðài, các Tướng lãnh Cao Ðài Liên Minh thất trận chính trị và tan vỡ tại Sài Gòn.

Ngô Ðình Diệm mượn danh thủ Ðại tá Văn Thành Cao và Ðại úy Quy điều động các đơn vị Cao Ðài Liên Minh về Tây Ninh khủng bố, phong tỏa Tòa Thánh, bắt giam Chức sắc Thiên Phong và Tín đồ cùng bao vây Hộ Pháp Ðường, để chặn lối đối đầu của những tiểu đoàn Cao Ðài không chấp nhận Quốc gia hóa và thị uy như một thông cáo nhằm thách đố đạo Cao Ðài .

02/09/1955 - Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm chỉ thị kế hoạch của Ngô Ðình Nhu cho Tổng Tư Lệnh Quân Ðội Cao Ðài Nguyễn Thành Phương ra sức tăng cường, bao vây siết chặt Nội ô Tòa Thánh Tây Ninh và thành lập Ủy Ban Thanh Trừng, bắt Chức sắc, Tín đồ giam cầm và bắt tín đồ Nữ phái câu lưu tra tấn ép buộc khai theo hồ sơ ngụy tạo nội dung nhiều điều khiếm nhã cho Ðức Hộ Pháp, bao vây Hộ Pháp Ðường cầm tù lỏng Ðức Hộ Pháp cho đến 16/2/1956.

Bởi Ngô Ðình Diệm tối mắt nghe lời sàm tấu của những bầy tôi nịnh thần, sợ đạo Cao Ðài có nhiều ảnh hưởng trong xã hội, với tính phán đoán cực kỳ đa nghi của Ngô Ðình Nhu, nhà Ngô đã quên lúc thăng trầm đời áo vải để quyết định bắt Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc vì Người là chứng nhân hiểu rõ Ngô Ðình Diệm đã một thời van xin quì lạy trợ lực vật chất và tinh thần để về cầm quyền Việt Nam, nay Ngô Ðình Diệm trở giáo phất cờ bao vây Tòa Thánh, bắt Chức sắc, Tín đồ Cao Ðài cầm tù tra khảo không luật pháp và cấm phổ truyền đức tin Cao Ðài, sự kiện nầy còn gọi là (“biến cố Ngô Ðình Diệm”).

Ngài Linh Mục Cao văn Luận viết rằng: “Ðạo Cao Ðài hỗ trợ cho Ngô đình Diệm về nước lập chánh phủ và đạo Cao Ðài đã nuôi Ngô Ðình Diệm sống những ngày tháng tại Hoa Kỳ và tại Paris v.v… Sau khi Ngô Ðình Diệm được chính quyền trong tay quên nhân nghĩa ấy”

Trước tình thế phản bội của anh em Ngô Ðình Diệm đối xử với đạo Cao Ðài không còn lễ nghĩa nên Phó chủ tịch Hội đồng Hồ Hán Sơn lui về Tây Ninh và sau đó bị giết một cách rất bí mật do chính tay Ngô Ðình Nhu mua chuộc tướng Nguyễn Thành Phương và Ngô Ðình Diệm trả mọi chi phí để cho Nguyễn Thành Phương bao vây Tòa Thánh.

Kế hoạch Diệm dùng Nguyễn Thành Phương kết thúc, lực lượng võ trang Cao Ðài đã hoàn toàn quốc gia hóa và Diệm-Nhu nghinh tiếp Nguyễn Thành Phương với một giá rất rẻ Phó Thủ Tướng không ngai vào lao lớn Chí Hòa được tra tấn và cho ra đời một thân tàn danh liệt suốt kiếp, lịch sử đã chứng minh kẻ bội phản được phán xét dưới mặt trời công bình.



Thiếu tướng Nguyễn Thành Phương, Tư lệnh Nghĩa binh Cao Đài,đọc diễn văn quy thuận chính phủ (Ảnh chụp 7-5-1955 / Nguồn: RFA)

23/10/1955 - Ngô Ðình Diệm tự ý phản bội truất phế Quốc Trưởng Bảo Ðại bằng trưng cầu dân ý, chấp chính lên làm Tổng Thống lập nền Ðệ nhứt Cộng Hòa Việt Nam đầu tiên tại miền Nam, trên danh nghĩa miền Nam thanh bình và có vị Tổng Thống anh minh.

Chính thể nền Cộng Hòa miền Nam lại mở ra sự bất ổn mới để quên đi những nhân sĩ đã từng ủng hộ Ngô Ðình Diệm lên làm Tổng Thống, một triều đại mới thể hiện khả năng Ngô chí sĩ độc thoại yêu nước cô đơn, bởi gia đình trị đứng trên cao cả dân tộc và chính thể Cộng Hòa thiết lập chế độ độc tôn, làm mất năng tính của một vị Tổng Thống anh minh và tự nó buộc vào vắng bóng Nhân sĩ.

Lòng dân bắt đầu bất tín Ngô Ðình Diệm và đến lúc không tha thứ một chế độ cai trị đất nước tan rã trầm trọng như:

– Bội phản tinh thần Nhân sĩ của buổi ban đầu thành lập nền Ðệ nhứt Cộng Hòa và các tín ngưỡng Việt Nam, đảng phái yêu nước.

– Thất nghĩa với đức tin Cao Ðài và đồ mưu sách động quật mồ Ðức Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể tại Thánh Ðịa Tây Ninh.

– Không thi hành những điều khoản đã hứa với nhân dân và ám sát Thiếu Tướng Trịnh Minh Thế.

– Ngô Ðình Diệm phản bội lòng tin yêu nước của Ðức Ngự Mã Thiên Quân “Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc.

– Ngô Ðình Diệm thanh trừng MTTNTLQG tại dinh Ðộc lập, để lập triều đại gia đình trị và Cần-La .

– Ngô Ðình Diệm mướn bồi bút H. Hoài Hương, viết thiên phóng sự dài hạng trên nhựt báo Dân Nguyện với giá 1.200.000 đồng, nhằm mục đích bôi đen uy tín Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc đang lưu vong tại Nam Vang.

16/11/1955 - Ngô Ðình Diệm đề bạt danh thủ Văn Thánh Cao làm chỉ huy trưởng chiến dịch miền Ðông, nhằm trong kế hoạch “Cao Ðài trừ Cao Ðài” phong tỏa Tòa Thánh Tây Ninh.

Cùng ngày Ngô Ðình Diệm thăng quân hàm cho danh thủ lên cấp Thiếu tướng chỉ huy CÐLM thay Thiếu tướng Trịnh Minh Thế.

14/02/1956 - Ngô Ðình Diệm ra lịnh cho Trung Tướng Nguyễn Thành Phương bao vây Tòa Thánh Tây Ninh và thanh trừng nội bộ các Tướng Tá trong quân đội Cao Ðài còn trung thành với Ðạo, như Thiếu tướng Lê Văn Tất, Ðại úy Vui, Trung úy Khoa, Trung tá Phú, bị thanh trừng nên các vị tướng lãnh đành phải rời Tòa Thánh, vượt biên lưu vong tại Cao Miên.

Thánh thất Kim Biên, Trấn đạo Tần Nhơn là nơi cư ngụ tạm thời của quân sĩ lưu vong.

16/02/1956 - Ðức Hộ Pháp không thể để cho cảnh đồng đạo tương tàn buộc lòng phải rời khỏi Tòa Thánh vào lúc 6 giờ sáng, do Giáo hữu Thượng Của Thanh lái xe đưa đoàn tùy tùng đến Kampuchia. Ðức Hộ Pháp và đoàn tùy tùng chính thức lưu vong tại Thánh Thất Kim Biên, Trấn đạo Tần Nhơn thủ đô Phnom Penh.

Thiếu Tướng Lê Văn Tất đón tiếp Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc về Thánh Thất Kim Biên.

Ðức Hộ Pháp tạm dùng cửa ngõ trung lập Kampuchia để truyền giáo và thi thố đức hạnh cùng thông công với nhân loại theo Thánh ý của Chí Tôn.

Ðức Hộ Pháp tuyên bố như sau: “Bần Ðạo buộc mình phải xuất ngoại đặng bảo thủ tự do cá nhân của Bần Ðạo, hầu đem ra một giải pháp mới mẻ có thể thống nhứt hoàn đồ và chủng tộc là phương pháp Hòa Bình chung sống”.



Thánh Thất Kim Biên tại Phnom Penh, 1937

10/03/1956 - Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc ủy nhiệm cho Tòa Thánh Tây Ninh ký thỏa ước Bính Thân (28/01/1956) cùng với chính phủ Ngô Ðình Diệm nhằm xác nhận chủ quyền của đạo Cao Ðài.

12/3/1956 - Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm truất phế Quốc Trưởng Bảo Ðại, phong tỏa bao vây Tòa Thánh Tây Ninh bắt Ðức Hộ Pháp và cấm truyền giáo Cao Ðài.

Việt Nam sản sinh cùng lúc hai vị nhân tài sát phạt toàn dân như Ngô Ðình Diệm thi hành chính sách độc tài gia đình trị và bội phản nhơn nghĩa miền Nam, Hồ chí Minh thi hành chính sách cộng sản trị, đấu tố toàn dân đến cửa nghèo đói, thủ tiêu tất cả trí thức và nhân tài không đồng chính kiến ở khắp hai miền Nam-Bắc .

Việt Nam nội chiến Ngô-Hồ phân tranh như “Trịnh-Nguyễn”.

15/3/1956 - Tại Nam Vang Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc khôi phục lại tinh thần Dân tộc trong lòng Việt kiều và xây dựng Thánh Thất Kim Biên Trấn Ðạo Tần Nhơn để mở ra chân trời truyền giáo hải ngoại.

Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc nhờ những phương tiện của Hội Thánh Ngoại Giáo Cao Ðài Tây phương vận động chính sách “Hòa Bình Chung Sống” để giải trừ chế độ Ngô-Hồ phi nhân. Người hướng dẫn tín đồ xuyên suốt qui luật chung sống, xây dựng nhân nghĩa, xã hội công bình hạnh phúc và cứu khổ .

17/3/1956 - Ðức Hộ Pháp kêu gọi Tình Thương xóa bỏ hận thù đem Từ Bi Bác Ái Công Bình làm phương châm ngoại giao danh dự, Ngài gửi đến Liên Hiệp Quốc và các đại cường quốc những thông điệp và đính kèm Cương Lĩnh có ba phần trọng yếu.

1- Thống nhứt lãnh thổ và khối dân tộc Việt Nam với phương pháp ôn hòa.

2- Tránh mọi xâm phạm nội quyền Việt Nam.

3- Xây dựng hòa bình, hạnh phúc và tự do dân chủ cho toàn dân.

20/03/1956 - Thư gởi Chủ Tịch Liên Hiệp Quốc và Thủ Tướng Chánh Phủ các Cường Quốc.


“Kính quí Ngài,

Sau 80 năm bị đô hộ dưới quyền Pháp thuộc, ngày 09.03.1945 toàn cả quốc dân Việt Nam quật cường giải ách nô lệ việc trọng đại ấy đã có tiếng đồn khắp cả thế giới và các liệt cường quốc đều hiểu rõ.

Ðã 11 năm tranh đấu không ngừng để định dựng chủ quyền độc lập cho Tổ Quốc, dân tộc Việt Nam đã phải chịu bao nhiêu thống khổ, tang tóc về tài sản cũng như sinh mạng, lại thêm bị hai ngoại quyền Cộng sản và Tư bản xen vào nội bộ, chia quốc dân Việt Nam làm hai xu hướng.

Kể từ ngày quân đội Pháp thất trận ở Ðiện Biên Phủ lại thêm một tai hại lớn lao nữa trồng lên đầu dân Việt Nam. Thật vậy chín nước ở Hội Nghị Genève với hảo ý đem hòa bình lại cho xứ Việt Nam và chấm dứt chiến tranh giữa Pháp và Việt Minh đã vô tình mà không nhận định sự tai hại cho Việt Nam là thế nào, nên đã ký một hiệp định chia đôi lãnh thổ Việt Nam từ vĩ tuyến 17 rồi lại định cho Việt Nam phải tự tìm phương thống nhất.

Chúng ta nên nhớ rằng khi ký Hiệp Ðịnh Genève thì vĩ tuyến 17 đã biến thành một cách thực tế ranh giới chia hẳn hai miền Nam Bắc, miền Bắc thì do Cụ Hồ Chí Minh với chánh phủ thân Nga và miền Nam thì Cụ Ngô Ðình Diệm với chánh phủ thân Mỹ.

Là nạn nhân của thời cuộc và sự tranh chấp của chủ nghĩa Quốc tế, dân tộc vô phúc này, thay vì đặng giúp đỡ và an ủi lại phải thêm một vết đau thương do chín nước đã vô tình xâm phạm quyền dân tộc tự quyết của họ.

Tình trạng ấy đã hiển nhiên và không một ai có thể nào chối cãi. Việc cốt yếu hiện nay là phải tầm một diệu dược để cứu chữa bệnh trạng ấy.

Bần Ðạo rất hài lòng nhận nơi đây hảo ý và sự cố gắng dẻo dai của các Cường quốc Trung lập để tìm một giải pháp hòa bình mong giải quyết vấn đề Việt Nam.

Là giáo chủ một Tôn Giáo tượng trưng tinh thần của một dân tộc đủ phong tục, đủ văn hiến, do một nền văn minh tối cổ Khổng Giáo, Bần Ðạo không thể nào ngồi yên đặng nhìn sự thống khổ của họ vì lẽ bất công của xã hội nhơn quần.

Vì cớ nên Bần Ðạo định góp sức mọn mình với sự cố gắng của các liệt cường để tìm phương pháp cứu vãn tình thế, giải nạn cho chủng tộc Việt Nam đặng bảo vệ hòa bình và hạnh phúc cho họ.

Hôm nay Bần Ðạo phải xuất ngoại cốt yếu để bảo thủ tự do của cá nhân, hầu có đủ phương tiện kêu gọi lòng nhân đạo của các liệt cường giúp sức cho Bần Ðạo đủ phương hòa giải hầu tránh nạn cốt nhục tương tàn của sắc dân Việt sắp gây nội chiến và đôi ảnh hưởng.

Nhơn đó Bần Ðạo xin gởi theo đây một chương trình tối thiểu mà đại ý là một đường lối chung sống lập thành tại nước Việt Nam một chánh phủ liên bang hầu có thể thực thi Thống Nhất theo như Hiệp Ðịnh Genève đã đề nghị.

Chương trình này Bần Ðạo đã định rõ trong bức điện văn gởi cho tứ cường trong buổi hội nghị Genève kỳ nhì vào ngày 21 tháng 7 năm 1955 và đã nhờ Thủ Tướng Edgar Faure chuyển đệ.

Bần Ðạo chỉ xin Liên Hiệp Quốc và các liệt cường thật tâm ủng hộ và cương quyết bảo đảm cho Bần Ðạo được tự do tuyên truyền giải pháp này khỏi sự khủng bố của hai Chánh Phủ đương quyền Hồ Chí Minh và Ngô Ðình Diệm trong khi Bần Ðạo thật hành sứ mạng hòa bình này.

Bần Ðạo quả quyết rằng: Ðồng bào Việt Nam luôn luôn yêu chuộng hòa bình sẽ hưởng ứng nhiệt liệt phong trào này nếu họ được tự do phát biểu ý chí của họ.

Bần Ðạo tỏ lòng tri ân Quí Vị.

Phnom Penh, ngày 20.03.1956

Hộ Pháp

Phạm Công Tắc”

26/03/1956 - Chánh Sách Hòa Bình Chung Sống Do Dân Phục Vụ Dân Lập Quyền Dân.

Ðề nghị của Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc giáo chủ đạo Cao Ðài gởi cho Liên Hiệp Quốc cùng các cường quốc và chánh phủ hai miền Nam-Bắc Việt Nam.

CUƠNG LĨNH


I – Thống Nhất lãnh thổ và khối dân tộc Việt Nam với phương pháp ôn hòa

II – Tránh mọi sự xâm phạm vào nội quyền Việt Nam.

III- Xây dựng Hòa Bình, Hạnh Phúc và Tự Do Dân chủ cho dân

I- THỐNG NHẤT LÃNH THỔ VÀ KHỐI DÂN TỘC VIỆT NAM

VỚI PHƯƠNG PHÁP HÒA BÌNH

A- GIAI ÐỌAN THỨ NHỨT:

1/ Ðể hai chánh phủ địa phương tạm giữ nguyên vẹn nền tự trị nội bộ mỗi miền theo ranh giới vĩ tuyến.

2/ Thành lập một “Ủy Ban Hòa Giải Dân Tộc” gồm các nhân sĩ trung lập và một số đại diện bằng nhau của Chánh Phủ hai miền để tìm những điểm dung hợp giữa hai miền.

3/ Tổ chức nước Việt Nam thống Nhất thành chế độ liên bang trung lập gồm hai phần liên kết (Nam và Bắc) theo hình thức Thụy sĩ với một chánh phủ liên bang lâm thời, để điều hòa nền kinh tế trong nước và để thay mặt cho nước Việt Nam thống nhất đối với quốc tế và Liên Hiệp Quốc.

4/ Bãi bỏ bức rào vĩ tuyến 17. Dân chúng được bảo đảm sự lưu thông tự do trên toàn lãnh thổ Việt Nam để so sánh và chọn lựa chế độ sở thích mà định cư.

Vĩ tuyến 17 chỉ là một ranh giới hành chánh của hai miền hiện hữu mà thôi, còn dân tộc Việt Nam vẫn là một khối duy nhất trung lập và tự do.

B- GIAI ÐOẠN THỨ NHÌ

1/ Ðánh thức tinh thần dân tộc đến mức trưởng thành, đủ sức đảm nhiệm công việc nước theo nhịp tiến triển của thế giới trong khuôn khổ tự do và dân chủ.

2/ Khi dân tộc đã trưởng thành và khối tinh thần đã thống nhất thì toàn dân Việt Nam sẽ tự giải quyết thể chế thiệt họ theo nguyên tắc tự quyết bằng cách mở các cuộc tổng tuyển cử theo hiệp định Genève tháng 07/1954, để thành lập quốc hội duy nhất cho việt Nam. Cuộc tổng tuyển cử này sẽ tổ chức dưới sự kiểm soát và trách nhiệm trọn quyền của Liên Hiệp Quốc để ngăn ngừa mọi điều áp bức dân chúng.

3/ Quốc Hội này sẽ định thể chế thiệt thọ và thành lập một chánh phủ trung ương nắm trọn quyền trong nước Việt Nam.

II TRÁNH MỌI XÂM PHẠM NỘI QUYỀN VIỆT NAM

1- Hữu dụng nền độc lập của mỗi miền đã thu hồi do hai khối đã nhìn nhận (chánh phủ Hồ chí Minh ở miền Bắc và chánh phủ Ngô Ðình Diệm ở miền Nam).

2- Nương vào các nước trung lập như Ấn độ, Anh, Miến Ðiện, A phú Hãn… để mở một đường lối thứ ba gọi là “đường lối dân tộc” căn cứ trên khối dân tộc để làm trung gian hòa giải hai chế độ.

3- Tránh mọi hướng dẫn ảnh hưởng hoặc can thiệp của một khối nào trong hai khối đối lập Nga Mỹ, vì đó là nguyên căn một cuộc tương tàn có thể gây nên trận thế giới chiến tranh thứ ba…

Gia nhập vào một trong hai khối Nga hoặc Mỹ tức là chịu làm chư hầu cho khối ấy và tự nhiên là thù địch của khối kia.

Như chính sách ” Hòa Bình Chung Sống ” không thể thực hiện đặng; bằng chứng là tình trạng của Ðức, Áo, Trung Hoa, Triều Tiên và Việt Nam hiện tại.

III XÂY DỰNG HÒA BÌNH HẠNH PHÚC VÀ TỰ DO DÂN CHỦ CHO TOÀN DÂN

1- Kích thích và thúc đẩy cuộc “thi đua Nhơn Nghĩa” giữa hai miền Bắc và Nam để thực hiện hạnh phúc cho nhân dân trong cảnh Hòa Bình xây dựng trên nguyên tắc bác ái, công bình và nhơn đạo.

2- Áp dụng và thực hành bản tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hiệp Quốc, thực hiện tự do dân chủ trên toàn lãnh thổ Việt Nam.

3- Thâu thập tất cả mọi ý kiến, phát huy do tinh thần hiền triết cổ truyền của chủng tộc đưa lên và giao lại cho Liên Hiệp Quốc hòa giải để thi hành cho dân chúng nhờ.

4- Dùng tất cả biện pháp để thống nhất tinh thần dân tộc trong việc xây dựng hạnh phúc với điều hay lẽ đẹp trên căn bản hy sinh và phụng sự.

5- Hai miền phải thành thật bãi bỏ mọi tuyên truyền ngụy biện xuyên tạc lẫn nhau. Phải để cho nhân dân đứng trước sự thật tế mà nhận xét sự hành động của đôi bên rồi lần lần sẽ đi đến chỗ thống nhất ý kiến.

6- Sự thực hiện “Chánh sách Hòa Bình chung sống” trên đây sẽ đặng thi hành dưới sự ủng hộ và kiểm soát thường trực của Liên Hiệp Quốc và các phần tử Trung Lập trong nước và ngoài nước, hầu ngăn ngừa mọi áp bức nhân dân do nơi quyền độc tài của địa phương hay do áp lực của ngoại quyền xúi giục.

Nam Vang, ngày 26.03.1956

Hộ Pháp

Phạm Công Tắc

28/03/1956 - Thư gửi cho: Cụ HỒ CHÍ MINH, CHỦ TỊCH C.P.V.N.D.C.C.H. và Cụ NGÔ ÐÌNH DIỆM, TỔNG THỐNG C.P.C.H.V.N.


“Kính hai Cụ,

Cũng như Bần Ðạo, có lẽ hai cụ hiểu rõ hơn Bần Ðạo nữa về thế nguy ngập cho Tổ Quốc và giống nòi Việt Nam ta đã trót chịu hơn 11 năm tang tóc vì nạn cốt nhục tương tàn nồi da xáo thịt.

Cái họa ấy do đâu?

Phải chăng vì đồng bào ta vô ý thức mà trở thành nạn nhân của hai ảnh hưởng ngoại quyền gây loạn ? Tình thế phải chấm dứt mới thực hiện đặng phương pháp giải ách lệ thuộc ngoại bang và thâu hồi độc lập thật sự.

Bần đạo đã có dịp viết thơ tỏ nỗi niềm nguy hại nếu hai chánh phủ chẳng tìm phương thoát khỏi ngoại quyền xúi giục, thì nội chiến Nam Bắc sẽ phải không tránh khỏi.

Thoảng như tai hại ấy vẫn tiếp tục gây nạn cốt nhục tương tàn thì năng lực tranh đấu cách mạng giải phóng dân tộc sẽ tiêu hao mà trở thành bánh vẽ. Vì khi phong trào cách mạng đã kiệt lực thì ách lệ thuộc sẽ trồng vào đầu cổ dân còn nguy hại hơn Pháp thuộc nữa chớ.

Hội Nghị Genève buổi nọ đã sanh sản ra hiệp định 20.07.1954, là món độc dược để đầu độc cho quốc dân ta đi đến cảnh chết vô phương cứu chữa, là giam hãm ta vào giữa cuộc tranh đấu của hai ảnh hưởng quốc tế. Ta muốn thoát ly tức là ta tìm một giải pháp bảo thủ nội quyền đặng định vận mệnh tương lai là do nơi tay ta đào tạo, chớ chẳng chịu ngoại quyền nào làm chủ nội bộ của ta. Muốn đặng như thế, Bần đạo xin gởi theo đây một chương trình thống nhất tổ quốc giang sơn cho hai cụ để trọn tâm nghiên cứu và tìm thêm những giải pháp hay, khéo bổ cứu vào mọi mặt khuyết điểm hầu có thể thi hành đặng theo ước vọng thống nhất và hòa bình của dân tộc.

Bần đạo đã lưu vong nơi nước ngoài chỉ có mục đích là bảo thủ trọn vẹn tinh thần trung lập của Bần Ðạo đặng kêu gọi tinh thần ái quốc chân chính và nồng nàn của hai cụ bỏ tị hiềm và thành kiến đặng đủ phương cứu quốc.

Bần đạo trân trọng gởi lời yêu mến kính phục của Bần đạo luôn dịp gởi cả vận mạng số kiếp của Tổ Quốc và giống nòi cho hai Cụ định liệu.

Phnom-Penh ngày 28/03/1956

Hộ Pháp

Phạm Công Tắc”

21/4/1956 - Chủ Tịch Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát và Ðình Chiến tại Cao Miên. “International Commission for Supervision and Control in Combodia” gửi văn thư ký tên phúc đáp đồng tình Chính Sách Hòa Bình Chung Sống do Ðức Hộ Pháp đề nghị .

24/4/1956 - Ðức Hộ Pháp nhận văn thư phúc đáp ủng hộ Chính Sách Hòa Bình Chung Sống cho Việt Nam như:

– Thủ Tướng Anh Quốc ông Sir Winston Churchill, S.W.7.

– Quốc Trưởng Cao Miên ông Norodom Sihanouk Upayuvareach du Cambodia.

– Tổng Thống Pháp Quốc ông Guy Mollet .

26/4/1956 - Ðức Hộ Pháp nhận văn thư phúc đáp của ông Quốc Vụ Khanh Pháp Quốc ấn ký “Ministre d’État Pierre Mendès France” đồng quan điểm Chính Sách Hòa Bình Chung Sống cho Việt Nam.

27/4/1956 - Ðức Hộ Pháp nhận văn thư phúc đáp của Thủ Tướng Tây Ban Nha ông Felipe Polo Martinex Valdés Espagne. ấn ký đồng tình Chính Sách Hòa Bình Chung Sống cho Việt Nam.

28/04/1956 - Thơ gởi : Cụ NGÔ ÐÌNH DIỆM, TỔNG THỐNG C.P.C.H.V.N. (SAIGON) và Cụ HỒ CHÍ MINH, CHỦ TỊCH C.P.D.C.C.V.N. (HÀ NỘI)


“Kính hai Cụ.

Từ ngày Bần Ðạo kính gởi đến hai Cụ bức tâm thư số : 21/HP.HN. đề ngày 28.08.1956 thì Bần Ðạo rất vui mừng nhận thấy hai Cụ đã tỏ thiện chí muốn xây dựng hòa bình và thống nhứt lãnh thổ nước Việt Nam yêu quí của ta bằng biện pháp ôn hòa.

Phương ngôn tổ phụ lưu truyền có nói: “Vạn sự khởi đầu nan” và phương ngôn Pháp có câu: “ chỉ bước đầu là khó” thế mà hai Cụ hiện nay đã khởi bước đầu tiên rồi. Thật là may mắn cho dân tộc Việt Nam.

Vậy Bần Ðạo ước mong sao cho hai Cụ lần lượt tiến dần chỗ gặp gỡ và thỏa thuận để tự giải quyết vấn đề nội bộ giữa người Việt với người Việt khỏi phải gây cảnh lưu huyết đau khổ cho giống nòi và khỏi để cho ngoại quyền bỉ xử.

Theo Bần Ðạo nhận xét điều hiện tình khó giải quyết vấn đề tín nhiệm giữa Chánh phủ hai miền.

Ðài Vô tuyến truyền thanh của đôi bên hằng ngày chỉ trích chánh sách độc tài tức là không có tự do Dân chủ ở Miền kia.

Gần đây Cụ Ngô Tổng Thống và Cụ Ðại sứ Trần Văn Chương lại còn tuyên bố đòi hỏi cho có tự do dân chủ ở Bắc Việt mới mở cuộc Tổng tuyển cử được.

Nếu bầu không khí bất hòa ấy không giải quyết thì khó mà tiến đến bước thứ nhì cho đặng.

Bần Ðạo vẫn biết thiện chí và lòng yêu nước thành thật nồng nàn của hai Cụ nên Bần Ðạo thiết tha yêu cầu hai Cụ long trọng tuyên bố rằng: Hai Cụ bằng lòng tôn trọng và thực hành các quyền tự do Dân chủ nhứt là quyền tự do ngôn luận trong vùng đất dưới chánh quyền cai trị của hai Cụ, cho phép báo chí hai Miền đặng lưu thông toàn quốc, đặng vậy thì hữu phước cho dân tộc Việt Nam biết bao nhiêu !

Bần đạo thân ái kính chào hai Cụ và kính cẩn xin hai Cụ nhận nơi đây lòng tri ân của Bần Ðạo.

Phnom Penh, ngày 18 tháng 03 Bính Thân (DL 28.04.1956)

Hộ Pháp

Phạm Công Tắc”

30/04/1956 - BẢN TUYÊN NGÔN


“Trót mười năm khi trở về nước, sau 5 năm hai tháng bị đồ lưu nơi hải ngoại.

Bần Ðạo đã hết sức lực và tâm não đặng nghiên cứu và thi hành các phương pháp bảo vệ phong trào Cách Mạng và giải ách lệ thuộc của Tổ Quốc và giống nòi, lại tìm phương hay bảo thủ tinh thần dân tộc hầu đủ phương Thống Nhất hoàng đồ, tránh nạn Nam Bắc phân tranh, nồi da xáo thịt.

Rủi thay ! Khi trở về nước Bần Ðạo bị ở trong một cảnh ngộ khó khăn là sự chia rẽ của hai Miền: Nam thì Quốc Gia, Bắc thì Cộng Sản.

Trong cuộc tranh đấu họ đã gây thù, kết oán với nhau rất nhiều mà khối quân lực của Cao Ðài là tay mở màn Cách Mạng đã đảo chánh quyền Pháp Quốc. Bần Ðạo khi ấy không có ý định giữ gìn tồn tại Quân Lực Cao Ðài, nhưng vì trường hợp tranh đấu đã gây hấn quá kịch liệt giữa khối Quốc Gia và Cộng Sản, nên cả tín đồ của Ðạo đã bị khủng bố, tàn sát quá thê thảm và quá nhiều vì hai lằn tên mũi đạn của Pháp và Việt Minh, nên buộc lòng Bần Ðạo phải chấp thuận cho quân lực ấy còn tồn tại vì nó đã đứng trong hàng ngũ của khối Quốc Gia và trong phận sự thiêng liêng tranh đấu đặng thực hiện Ðộc Lập.

Sau cuộc hội đàm cùng Ðức Bảo Ðại và định cho đức Ngài lãnh phận sự làm trung gian hòa giải đặng đem hòa bình và hạnh phúc lại cho nước nhà trong cuộc hội nghị tại Hồng Kông năm 1949, thì khi đức Ngài về nước chính mình Bần Ðạo đã giao trọn quyền sử dụng quân đội Cao Ðài cho Ðức Ngài điều khiển trong hàng ngũ quân lực Quốc Gia. Kịp khi đức Ngài đi Pháp mới tạm giao Quân Lực ấy cho Bần Ðạo, trong lúc vắng mặt, Ðức Ngài đã ra lệnh hai chánh Phủ của Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm và Bửu Lộc thi hành hợp pháp Quốc Gia hóa Quân đội Cao Ðài, nhưng sự thi hành ấy vẫn kéo dài cho tới ngày chánh phủ Ngô Ðình Diệm thọ phong toàn quyền cũng chưa quyết định. Bần Ðạo buộc phải nhắc nhở và cầu cho chánh phủ Ngô Ðình Diệm quốc gia hóa Quân đội Cao Ðài một cách hợp pháp.

Cốt ý Bần Ðạo nói ra đây đặng tỏ cho cả toàn quốc dân hiểu biết rằng Bần Ðạo không buổi nào muốn giải quyết vận mạng nước nhà với quân lực, mà chỉ dùng phương pháp đạo đức đặng đem hòa bình hạnh phúc lại cho giống nòi mà thôi.

Giai đoạn thứ nhất đã qua, đến giai đoạn thứ nhì này, Bần Ðạo buộc mình phải xuất ngoại đặng bảo thủ tự do cá nhân của Bần Ðạo hầu đem ra một giải pháp mới mẻ có thể thống nhất Hoàng đồ và chủng tộc là phương pháp Hòa Bình và chung sống.

Vì cớ cho nên cả quân lực nào ngoài quân lực Quân đội quốc gia chánh qui chẳng còn hữu ích chi trong cuộc tranh đấu mới mẻ của Bần Ðạo đã đề xướng là phong trào tranh đấu Chánh trị Quốc tế mà thôi.

Từ đây bất kỳ khối quân lực nào mượn danh Bần Ðạo đặng tổ chức là giả dối.

Vậy toàn cả tín đồ của Ðạo và toàn quốc dân Việt Nam chú ý cho lắm, kẻo bị kẻ vô tâm mưu mô gạt gẫm. Bần Ðạo cầu nguyện Ðức Chí Tôn ban hồng ân cho toàn Ðạo và toàn Quốc Dân đủ sáng suốt nhận định thời cuộc.

Bần Ðạo để lời ưu ái nồng nàn cầu hòa bình và cầu hạnh phúc cho đồng bào và tổ quốc.

Phnom Penh ngày 20.03 Bính Thân (30.04.1956)

Hộ Pháp

Phạm Công Tắc”

02/5/1956 - Ðức Hộ Pháp nhận văn thư phúc đáp của Hội Ðồng Bảo An Liên Hiệp Quốc ấn ký. “Chef De Section, Département Des Affaires Politiques Et Du Conseil De Sécurité (Nations Unies)”. Ủng hộ đề nghị Chính Sách Hòa Bình Chung Sống cho Việt Nam.

03/5/1956 - Ðức Hộ Pháp nhận văn thư phúc đáp Ðại Sứ Pháp Quốc tại Cao Miên ấn ký “Haut Commissariat République De France Au Cambodge”, Ủng hộ Chính Sách Hòa Bình Chung Sống cho Việt Nam.

14/5/1956 - Ðức Hộ Pháp nhận văn thư phúc đáp của Ủy Ban Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc ấn ký, “Division Des Droits De L’Homme Des Nations Unies” Ủng hộ và đồng tình đề nghị Chính Sách Hòa Bình Chung Sống cho Việt Nam.

16/5/1956 - Ðức Hộ Pháp nhận văn thư phúc đáp lần thứ hai của ông Quốc Trưởng Cao Miên ấn ký, “Samdech Norodom Sihanouk Upayuvareach”. hoàn toàn ủng hộ và đồng tình Chính Sách Hòa Bình Chung Sống cho Việt Nam.

19/5/1956 - Ðức Hộ Pháp nhận văn thư phúc đáp của ông Tổng Thống Phi Luật Tân ấn ký “Office of the President of the Phillippines”. Ủng hộ và đồng tình cho Chính Sách Hòa Bình Chung Sống cho Việt Nam.

23/6/1956 - Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc ủy nhiệm cho ngài Hiến Pháp Trương Hữu Ðức đại diện Tòa Thánh Tây Ninh, yết kiến Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm để tỏ bày lòng tha thiết yêu chuộng Hòa Bình Chung Sống của dân tộc trên hai miền quê hương.

Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm và Hồ chí Minh không hài lòng chính sách Hòa Bình Chung Sống, Ðức Hộ Pháp thi thố đạo đức thì trái lại hai vị nguyên thủ Nam-Bắc, ra sức công phá lẫn nhau, trong bóng tối Nam-Bắc tranh hùng vị kỷ đánh mất quyền lợi dân tộc.

12/10/1956 - Chính thể Cộng Hòa tạm ổn định theo kiểu yêu nước của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm như đã cầm tù 3200 và sát hại trên 2700 Tín đồ Cao Ðài, xem như một thành công đã dẹp hết các đảng phái Quốc gia đối lập yêu nước và áp chế được các Tôn giáo, Ngô Ðình Diệm cho ra đời Phong trào Cách mạnh Quốc gia và đảng Cần Lao do ông Ngô Ðình Nhu lãnh đạo, điều hướng mọi hoạt động chính trị trên toàn quốc.

12/11/1956 - BỨC THƯ TÂM HUYẾT KÍNH NGÀI TỔNG THỔNG (N.Đ.D.)


“Từ ngày Bần Ðạo ra khỏi nước tới nay, Bần Ðạo chưa hề gởi thư cho Tổng Thống về mục đích của Bần Ðạo muốn đạt đến chỗ nào.

Bần Ðạo vì tin nơi lòng đạo đức và trí thức cao thượng của Ngài nên để Ngài tìm hiểu và suy đoán.

Tổng Thống và Bần Ðạo chẳng phải là người xa lạ với nhau về tinh thần Ái quốc và vị chúng, Bần Ðạo bỏ công chức hồi pháp thuộc cũng như Ngài đã bỏ quan trường buổi ấy. Hai tâm đức cũng như nhau bởi đau khổ thấy giống nòi đã bị lệ thuộc, làm tôi đòi thiên hạ và nước chịu nạn thống trị của ngoại bang.

Trường hợp tranh đấu của chúng ta dẫu khác đường lối mà trí ý có lẽ cũng đồng. Vậy tinh thần đôi ta cũng một khuôn khổ, một ý chí.

Chỉ có một điều Ngài có thể phiền trách Bần Ðạo đặng, là mọi hành vi của Bần Ðạo đối cùng Ngài từ khi Ngài nắm chánh quyền đến giờ, đều là âm thầm, kín đáo chớ chẳng như ai kia xưng hô công nghiệp đặng thân cận cùng Ngài.

Bần Ðạo không muốn chính mình Ngài hiểu biết nữa mà chớ. Hôm nay Bần đạo viết thư này vì thấy đủ bằng cớ rằng chính phủ Ngài họa ảnh của Bần Ðạo với một vẻ lầm lạc vụng về, thô kém từ hình trạng lẫn tinh thần. Dẫu rằng đôi ta đã nhiều dịp gặp nhau, hiểu biết nhau từ buổi hội đàm tay ba cùng Ðức Bảo Ðại tại Paris, trước khi Ngài về nước đảm nhận trọng quyền. Thêm nữa chúng ta có nhiều lần mặt nhìn mặt, tay bắt tay hội đàm cùng nhau mật thiết. Bởi cớ mà Bần Ðạo lầm tưởng Ngài biết rõ tâm tính của Bần Ðạo hơn ai hết mới thờ ơ như thế.

Ngài cũng nên hồi tưởng lại, nhớ kỹ càng mọi lẽ, mọi hành vi rồi định thử coi Bần Ðạo là người ơn hay người oán. Vậy Bần Ðạo xin tiếp tục tưởng rằng hay trạng thái hình dung của Bần Ðạo chẳng phải chính tay của Ngài, mà là tay của ngoại lai có lẽ Bần Ðạo xin nói rõ và thú thật cùng ngài rằng Bần Ðạo không thể nào ngồi xem tổ quốc và giống nòi bị ngoại bang lệ thuộc một phen nữa. Chẳng phải bị quyền lực ngoại bang của một nước như Pháp buổi nọ mà lại bị hai khối: Ðế Quốc Thực Dân Tư Bản và Cộng Sản Quốc Tế đua nhau tranh quyền bá chủ hoàn cầu. Bần Ðạo xuất ngoại cốt để đủ quyền tự do của Bần Ðạo đặng đầu cáo hội nghị Genève đã chủ định chia hai đất nước từ vĩ tuyến 17, Bần Ðạo cho đó là một hành động áp bức, bất công như bức thơ số 20/HP-HN ngày 26 tháng 3 năm 1956 mà Bần Ðạo đã gởi cho Liên Hiệp Quốc và các Liệt Cường Quốc Tế.

Nếu Bần Ðạo còn ở trong nước thì chắc rằng Ngài không cho Bần Ðạo làm việc ấy.

Việc làm này Ngài đã đặng biết trước vì khi hội nghị Genève dưới quyền Thủ Tướng của Tứ Cường, Bần Ðạo đã đánh một điện văn, mà bức điện văn ấy, Bần Ðạo đã cầu Ngài cùng ký tên với Bần Ðạo, Ngài cho lịnh nội bộ chính phủ của Ngài trả lời rằng theo thủ tục tức Ngài không thể ký bức điện văn ấy chung cùng Bần Ðạo và biểu Bần Ðạo tùy tiện gởi đi. Bức điện văn ấy cốt để làm ngưng cuộc Tổng Tuyển Cử ngày 20.08.1956 cho đến ngày toàn dân giác ngộ, biết rõ chủ quyền của họ rồi mới định đoạt. Nếu thi hành liền thì không tránh khỏi nội loạn.

Nghe ra dường như Ngài đã phiền trách Bần Ðạo đã làm CHỦ TỊCH ÐOÀN MẶT TRẬN TOÀN LỰC QUỐC GIA, điều ấy là một điều mà Bần Ðạo vẫn mãi còn ân hận. Khi ở Genève, sau khi Việt Minh đã thắng trận Ðiện Biên Phủ và Hội Nghị Genève đã định chia đôi đất nước, thì Bần Ðạo đã biết trước rằng họ đã gieo một tai hại lớn lao cho tương lai đất nước Tổ Quốc, nên hội diện cùng phái đoàn Việt Minh cốt để hiệp đồng tâm đức đặng thống nhất nước nhà với phương pháp hòa bình, hầu tránh nạn chiến tranh tàn khốc do ngoại bang xúi giục. Nhưng Bần Ðạo đã bị thất bại vì sự khinh rẻ khối quốc gia và Việt Minh, cho rằng chính phủ Quốc Gia vô quyền hành, vô năng lực mà họ gọi là chính phủ bù nhìn. Thật ra chính quyền buổi nọ không căn bản, không năng lực vì nạn đảng phái tương tranh, nhơn tâm bất nhứt, nên không thể đương đầu đối diện cùng họ. Cái khuyết điểm trọng hệ hơn hết là chánh phủ Quốc Gia buổi nọ không hiến pháp và Quốc Hội làm hậu thuẫn. Không biết bao phen Bần Ðạo đã than thở cùng linh đệ của Ngài là ông Ngô Ðình Nhu về lẽ ấy, Ngài có thể hỏi chứng nơi ông thì dư rõ.

Bần Ðạo đã cầu khẩn Quốc Trưởng Bảo Ðại ban cho ta một khí cụ cần thiết ấy, song Ngài vẫn chần chờ không quyết định, lại ra lệnh cho chánh phủ Nguyễn văn Tâm lập một Quốc Hội bù nhìn như Ngài đã biết.

Năng lực tranh đấu cùng Việt Minh đã thất thế cùng mọi mặt về chính trị và quân sự. Khi họ thắng trận Ðiện Biên Phủ, đánh bại Pháp quân thì họ đã quá hãnh diện, khinh khi chánh phủ Quốc Gia.

Họ quyết định ký hòa ước với chánh phủ Pháp mà thôi, chớ không kể rằng ta có mặt.

Bởi hổ nhục ấy nên Bần Ðạo mới tầm phương thống nhứt Quân Lực các đảng phái đặng hiệp một cùng Quân lực Việt Quốc Gia thành một lực lượng duy nhất, đủ uy tín, oai quyền hầu ăn nói với họ.

Hại nỗi, trong khi Bần Ðạo cầu nài cho Trung Tướng Nguyễn văn Hinh buổi nọ là Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Ðội Quốc Gia cùng Trần Văn Soái, Nguyễn thành Phương, Lê Văn Viễn hội hiệp cùng nhau liệu phương thống nhất. Bởi tin tưởng rằng sở vọng ấy đắc thành mới xin phép chánh phủ Ngài đi giao du nơi Ðài Loan, Nhựt Bổn và Triều Tiên đặng hiểu rõ tình hình quốc tế, khi trở về, thì thấy sự nghiệp ấy đã tan vỡ bởi ngoài tranh chấp uy tín đã chia đôi họ, trở thành thù địch. Ðiều ấy có lẽ chẳng cần nói mà chính ngài cũng đã dư hiểu.

Có lẽ Ngài còn nhớ, Bần Ðạo đến Genève làm quan sát viên với một ủy ban do đức Bảo Ðại chỉ định, khi đã hay biết quả quyết rằng hội nghị đã quyết chia nước thì Bần Ðạo đã tuyên bố đã làm xáo động cả dư luận Quốc Tế rằng : Nếu Việt Minh và Pháp tuân lịnh hội nghị chia nước ra làm hai, không có sự chấp thuận của toàn dân Việt Nam, thì ta sẽ chia đầu cùng cả hai bên hết thảy.

Lời tuyên bố ấy của một người Ðạo như Bần Ðạo làm điều ấy đặng. Ðến nay, Bần Ðạo phải nhìn nhận công nghiệp ấy đã về Ngài vì Ngài đã thắng Pháp với một đường lối chính trị hay khéo. Ước mong rằng Ngài cũng thắng Việt Minh với một đường lối ấy thì kỳ công của Ngài sẽ đặng hoàn toàn trọn vẹn.

Bần Ðạo chỉ lo âu có một điều là sau 80 năm bị pháp thuộc, dân tộc đã quật cường với biết bao xương máu mà ta lại còn phải chịu cảnh lưu huyết của ta một cách oan uổng, cốt nhục tương tàn, nồi da xáo thịt thêm nữa. Chủng tộc ta dân số chẳng hơn ai mà trót trên 10 năm tranh đấu, hy sinh sanh mạng, tài sản đã quá nhiều, Quốc Dân đã quá đau khổ với nạn chiến tranh, nên trong bức thơ số 21/HP-HN ngày 26.03.1956 của Bần Ðạo gởi cho Ngài và Hồ Chí Minh, cầu khẩn nơi lòng Ái Quốc nồng nàn đã sẳn có của hai Ngài, đặng giải diệt vong cho đồng bào và Tổ Quốc.

Kết luận là Bần Ðạo tưởng quả quyết rằng mọi hành động của Bần Ðạo đều là công khai và hợp pháp, chẳng một điều chi bí mật, dối gian, vì các hành động ấy đều xuất hiện do nơi lòng Ái Quốc nồng nàn và lương tâm Bần Ðạo ra lịnh thi thố.

Ngài đừng nghe chi những lời sàm nịnh của kẻ hầu cận bên Ngài cho rằng Bần Ðạo muốn lập uy tín riêng mình hầu mong mỏi đoạt thủ chánh quyền, lập thành chánh phủ, thoảng như tình thế biến thiên thế nào đi nữa thì cũng là tuồng cũ soạn lại mà thôi, chớ không chi khác cùng Bần Ðạo hết, sự hay khéo của ta là làm thế nào bảo thủ toàn vẹn cả các thắng lợi mà toàn thể chúng ta thâu hoạch được đặng may múng thành hình, một đường lụa dệt mà mỗi tay thợ thay đổi mối cắt đứt rồi khởi đầu lại nữa thì đường ấy không thể nên hình, càng thay tay, càng rối rấm. Bần Ðạo đã hiểu rõ như thế nên định phận mình chỉ biết giúp đỡ cho mỗi chánh phủ từ trước tới giờ, chớ rất gớm ghê những phen thay đổi.

Thật ra nếu Bần Ðạo có tham vọng chiếm đoạt chánh quyền thì đã làm rồi trước khi Ðức Quốc Trưởng và Ngài về nước. Trong đạo sử của ta chưa từng thấy một vị giáo chủ ra tranh đoạt để giành chủ quyền đời. Ấy là điều đại kỵ của Bần Ðạo. Bởi vậy nên mới chính mình đi Hương Cảng hội đàm đặng rước Ðức Bảo Ðại về nước cầm quyền Quốc Trưởng trong buổi nước nhà nguy biến, chớ Bần Ðạo không chịu ngó vào nội bộ chánh quyền.

Cả đời Bần Ðạo đã nguyện hy sinh đặng làm bạn và làm tôi tớ cho những tâm hồn đau khổ, cho những kẻ dốt nát nghèo hèn. Ngoài ra không có một điều chi tham vọng, không công danh, không quyền lợi, mới sanh một cách bất ngờ, một tâm tình không nịnh hót, không bợ đỡ, không cầu thân, không sàm nịnh, dường như đã thành kiêu căng, tự tin ? Với tánh đức ấy nên muốn cho kẻ hèn hạ đặng nên danh, người vinh hoa đặng công chánh. Bằng cớ hiển nhiên mà cả chủng tộc đều thấy rõ Bần Ðạo dám can đảm nâng đỡ binh vực, dạy dỗ những hạng cùng dân nghèo hèn, dốt nát ra thi thố cùng đời không hơn không kém, đã hy sinh nửa kiếp sống tạo nghiệp chung cho nơi cửa Ðạo, cho họ đủ sang trọng, vinh hiển, chớ chẳng kể chi đến gia nghiệp riêng rẽ của mình.

Bắt chước hạnh Chúa là thương yêu, nuôi dưỡng kẻ nghèo khó, cơ hàn, nhịn ăn chia áo cho họ. Tuy vào Ðạo Cao Ðài mà trước mặt kẻ tín đồ, Bần Ðạo chưa hề chối Ðạo Công Giáo. Một điều có thể làm cho kẻ gian ác, xảo trá, tà tâm oán ghét hơn là theo lời Chúa dạy : chẳng nên đem bánh trẻ con đặng cho kẻ nghèo khổ bần cùng là con yêu dấu của Chúa dạy:

Một điều đáng buồn cười hơn hết là những hạng dốt nát thường thường có tinh thần bội phản. Khi nó đã lập được thân danh, coi mình là trọng, không biết nhân nghĩa là gì bởi thiếu học, nó trở lại phản phúc là kẻ thường tình không chi làm lạ.

Thường người tu vì Từ Bi mà đã bị làm nạn nhơn của kẻ gian hùng ấy nhiều hơn hết. Bần Ðạo tiếc rằng Ngài không tìm hiểu rõ Bần Ðạo, mà đã ra lịnh cho chánh phủ của Ngài làm nhiều điều không hay đối cùng Ðạo và Bần Ðạo đã làm cho tình thâm cảm giữa đôi ta một phần tiêu giảm quá nhiều rất nên đáng tiếc.

Bần đạo nhứt quyết ngày trở về nước là ngày thấy đủ rõ ràng bằng cớ là chánh phủ miền Nam khỏi bị khối Mỹ và chánh Phủ miền Bắc khỏi bị khối Nga; lệ thuộc với bất cứ với phương pháp nào một cách trực tiếp hay gián tiếp cũng vậy.

Sự đòi hỏi này chắc Ngài cũng biết rằng Bần Ðạo chẳng phải xin xỏ cho thân danh cá nhân của Bần Ðạo mà là cho Ngài và cụ Hồ Chí Minh rõ rệt.

Nếu Bần Ðạo muốn cầu danh lợi cho Ðạo và riêng Bần Ðạo thì chắc hẳn không phải đường lối như thế, dám đủ can đảm ôm thù thiên hạ nơi mình đặng cứu vận mạng Tổ quốc giống nòi, cử chỉ như thế không lẽ bị Ngài ghét bỏ. Trường hợp của Ngài cũng như của Bần Ðạo, thời thế đã gây nên cho đôi ta cái hại phân chia nhau. Ðiều ấy do đâu mà đến chớ chẳng phải do nơi đôi ta đào tạo, cổ tục ta có nói : Thời thế tạo anh hùng, mà cũng không nhắc để cái phản ảnh của nó là: Anh hùng tạo thời thế. Hai điều ấy Ngài đủ sức lực, đủ can đảm, đủ quyền hành thi thố, thực hiện cả hai. Bần Ðạo mong ước và cầu khẩn nơi Ðức Chí Tôn và các đấng thiêng liêng phò hộ Ngài, giúp đỡ Ngài thành công trong sứ mạng cứu nước, cứu giống nòi trong lúc Quốc Gia nguy biến. Ta còn có ngày gặp gở nhau nữa.

Bần Ðạo gởi lời thân ái chào Ngài.

Nam Vang ngày 10 tháng 10 Bính Thân (dl 12.11.1956)

Hộ Pháp

Phạm Công Tắc”

18/01/1959 - Bắt đầu tình thế miền Nam biến động và hoàn toàn mất ổn định, chính thể Ngô Ðình Diệm chuẩn bị đối phó với Việt cộng, sau tháng “. 09/1956, đoàn đại biểu Xứ ủy Nam Bộ dự Hội nghị Trung ương lần thứ 15 tại Hà Nội về Nam. Ngày 25/10/1959-11/1959 Xứ ủy Nam Bộ mở ra phiên họp lần thứ 4 tại cục R miền Ðông. Nhằm triển khai Nghị quyết chiếm miền Nam “Lấy sức mạnh vũ trang địa phương, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang chính qui để đánh đổ quyền thống trị của miền Nam phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng và ngày 20/12/1960 đảng Cộng sản cho ra đời Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam”.

17/5/1959 - Ðức Hộ Pháp Phạm công Tắc qui Tiên vào lúc 13 giờ tại bệnh viện Calmette và liên đài quàn tại Thánh Thất Kim Biên hưởng thọ được 70 tuổi, nhằm ngày rước Thánh lễ Pentecôte.

Hiện di hài còn quàn tại Thánh thất Kim Biên, Trấn đạo Tần Nhơn (Nam Vang).

Ngài đã làm xong sứ mạng Thiêng Liêng tối trọng của một đấng Hộ Pháp Chưởng Quản Hiệp Thiên Ðài thay Trời độ thế.

20/03/1963 - Ngô Ðình Diệm cô độc nay lập lại những giải pháp thống nhứt Việt Nam với Cộng sản Hà Nội, trên những giải pháp căn bản của Ðức Hộ Pháp đã từng đưa ra trước đây, Ngô Ðình Diệm bí mật tiếp xúc đại diện Bắc Việt và Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam, bởi trung gian ông Miezyslav Maneli đại diện của Ba Lan trong Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Ðình Chiến Việt Nam.

Tổng Thống Pháp De Gaulle gặp dịp muốn tìm ảnh hưởng Ðông Dương cũng tuyên bố ngày 29/08/1963, “Sẵn sàng giúp Việt Nam cả hai miền Nam-Bắc, trong việc tìm kiếm hòa bình, độc lập và thống nhứt”

1/11/1963 - Nền Ðệ nhứt Cộng Hòa Việt Nam cáo chung, bởi các tướng lãnh đảo chính và thành lập nền Ðệ nhị Cộng Hòa .

Gia đình trị nhà Ngô bị các tướng lãnh thủ tiêu tại Chợ Lớn, kết thúc triều đại Cần Lao đảng trị 9 năm và Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia đi theo nền Ðệ nhứt Cộng hòa không còn để lại một vết dầu loang, cả gia đình nhà Ngô đứng trên sự phán xét của nhãn tiền công chính, ánh sáng mặt trời chỉ ưu đãi cho những ai vì đồng sinh .

23/12/1963 - Ngày lịch sử binh sĩ Cao Ðài về nước chấm dứt đời binh nghiệp lưu vong tại đất chùa tháp Cao Miên, dưới sự hướng dẫn của Thiếu Tướng Lê Văn Tất.

Chế độ nhà Ngô 9 năm trị vì đã làm khổ biết bao lương dân, Tín ngưỡng miền Nam Việt Nam Nội ngoại bất hòa và nhà Ngô bội phản dân tộc, triệt tiêu đạo Cao Ðài, tạo ra nhiều mâu thuẫn xô đẩy vài chi phái Cao Ðài theo Cộng sản sát phạt tình Huynh-đệ lẫn nhau, chế độ đệ nhứt Cộng Hòa toàn bộ cáo chung để lại cho đất nước một dáng vấp phân rã bất đồng và nền Ðệ Nhị Cộng Hòa Việt Nam được lập lại.

Biên khảo Huỳnh Tâm

Nguồn: http://minhtrietviet.net/dao-cao-dai-duoi-che-do-ngo-dinh-diem-2/

Thứ Ba, 20 tháng 6, 2017

Khi Sếp chơi Phây…




Tác giả: Song Hà

Cả công ty bỗng dưng xôn xao vì sếp bắt đầu dùng phây.
Sáng nay họp giao ban, sếp bảo:
– Để chị về đăng ký cái phây chứ không lạc hậu mất, chuyện gì cũng bảo đọc trên phây, thấy trên phây, nhiều khi các cô nói xấu chị trên phây mà chị không biết cũng nên.
Trưa sếp gọi điện cho cậu điện nước của công ty.
– Này sao chị không vào được phây?
– Thế chị đã đăng ký tài khoản chưa? Cậu điện nước hỏi.
– Thì chị gõ họ tên và ngày tháng năm sinh vào 2 ô để trống rồi “en tơ” cái mà nó im re không cho chị vào. Hay tại mình chưa đưa phong bì cho bọn phây nhỉ?
– Dạ để tí em lập cho.

Ừ nhanh lên nhé, để chị viết bài về cái TPP phát. Sáng nay đi ăn bún thấy chúng nó bóng bàn về TPP kinh quá, mà thực ra TPP là “thực phẩm phân phối” chứ có gì lạ đâu! Nhanh nhá!
Cuối cùng thì sếp cũng có phây. Sau khi add tất cả 64 nhân viên và một mớ người khác vào, sếp bắt đầu thử. Đầu tiên nhờ đứa cháu chụp cho cái ảnh đang ngắm hoàng hôn rồi post lên. Like điên đảo luôn. Đứa nào like nhanh nhất chị ghi vào sổ.
“Thúy Hường phòng tài vụ like sau 2 giây. Bạch Tuyết phòng nhân sự like sau 4 giây. À sao chưa thấy đám con Huệ, con Minh còm nhỉ? Cả thằng Tùng lái xe và con Na vệ sinh nữa, chúng đâu cả rồi? Thật không thể chấp nhận được.”
Cáu quá sếp gọi mấy đứa ra hỏi:
– Này sao thiếu 2 nai, con Na với thằng Tùng giận gì chị mà không thấy nai ảnh của chị?
Đồng chí văn thư bảo:
– Dạ, đồng chí Tùng dùng điện thoại cục gạch 1280 không vào mạng được, còn đồng chí Na vệ sinh đang cho con bú, với lại nó không chơi phây chị ạ.
Sếp nhăn mặt nói:
– Phải quán triệt mới được, thế kỷ 21 rồi mà lạc hậu.
Mới chơi nên sếp rất hào hứng. Cứ 30p sếp lại up cái ảnh. 70 phút sếp đăng một tút. Đi làm tóc về sếp up 12 ảnh, viết mấy câu buồn bã “Mình già thật rồi”. 64 like, vô số comment.
– Chị ơi trẻ quá.
– Tóc đẹp lắm chị ạ.
– Đẹp đẹp chị ơi.
Gọt xoài đứt tay, sếp up 4 ảnh, viết tút “Vết thương nào rồi cũng sẽ lành phải không anh?” 58 like. 42 comment với chia sẻ.
– Chị ơi, chị làm sao thế?
– Thương chị quá, ôm chị thật chặt.
– Cố lên chị, bọn em luôn đứng bên chị.
Đang ngồi đếm nai chợt có đứa nhảy vào comment “Cho chết mẹ con khọm già đi”. Đọc xong sếp tím mặt rút ngay phích cắm điện. Lát sau len lén bật máy tính lên vẫn thấy comment lúc nãy chưa biến mất, sếp gọi ngay cho cậu điện nước.
– A lô Hoạch hả em, lên ngay, lên điều tra xem đứa nào nó chửi chị này.
Đồng chí Hoạch chạy lên. Sếp chỉ vào nick chửi mình, hỏi:
– Chú xem nó thuộc ban nào, bộ phận nào mà dám xúc phạm chị?
Đồng chí Hoạch ngó qua, bảo:
– Dạ đứa này không thuộc biên chế công ty mình.
– Thế nó ở đâu ra?
– Dạ, nó là bọn trên mạng thôi chị.
– À thế hả, giờ làm sao cho nó biến mất hộ chị.
Đồng chí Hoạch dí chuột xóa comment xong dặn:
– Lần sau đứa nào chửi chị, chị cứ lóc lại là xong.
Sếp tròn mắt:
– Lóc là sao em?
– Dạ là khóa lại đó chị, như ta khóa cửa phòng không cho người lạ vào í.
– Thế à, thế cái khóa ấy nó bán ở đâu để lát chị bảo tài vụ chi tiền nhờ chú mua cho chị một cái?
– À cái đó không mất tiền.
Sếp gật gật, nói:
– Nhưng chị hỏi cái, đứa nãy chửi chị, con cái nhà ai cậu biết không?
– Dạ, em chịu.
– Ừ thế thì thôi, đồ vô văn hóa.
Tối về sếp thông báo trên phây thằng út 4 tuổi đau bụng. 61 like.
– Chị ơi chị chụp phân của bé lên em nhờ chồng em là bác sỹ khoa tim mạch xem hộ cho.
– Đợi tí để chị bảo nó ị đã.
10 phút sau chị tương quả hình rất diễm lệ lên tường, tất nhiên là sản phẩm của cậu út. Lại 61 like. Rất nhiều comment nức nở khen:
– Em thấy phân đẹp mà chị ơi.
Thậm chí có nick xuýt xoa bình luận:
– Nói không phải nịnh .. chứ trông như một kiệt tác điêu khắc chị ạ.
Đồng chí Na mới lập nick cũng lao vào trầm trồ:
– Em ngồi đếm được cả thảy 7 màu chị ơi, em thật nhìn rực rỡ như cầu vồng ấy.
Sếp ưng lắm, bảo:
– Để mai chị đi siêu âm trĩ của chị rồi up lên nhờ mọi người cho ý kiến cái luôn. Biết hay thế này chị dùng phây lâu rồi!”

Viết cho ngày báo chí



Khi báo chí là công cụ thì thông tin là thuốc độc. Khi thông tin là thuộc độc thì người đọc là nạn nhân. Nạn nhân của thông tin sai trái sẽ tạo ra những con người vô tâm, vô cảm và ngu muội trước những gì đang xảy ra. Báo chí là công cụ thì xã hội sẽ suy tàn
Viết cho ngày báo chí

Tác giả: FB Nhà báo Lê Thọ Bình


Với tôi, làm báo là nghề cao quý. Vì nhà báo là người truyền tải sự thật và hiểu về giá trị của hiện tại hơn ai hết. Nhà báo, theo một cách nào đó, cũng chính là người đang làm công việc giáo dục và đang tự học hỏi từng ngày.

Tuy nhiên, vì sao gần hai chục năm trở lại đây, một bộ phận không nhỏ nhà báo lại bị xã hội khinh miệt và “một bộ phận các nhà báo đang trở thành những “băng đảng đâm thuê chém mướn” (như lời nhà báo quá cố Hữu Thọ từng nhận xét)?
Có một thực tế là, báo chí là “Tấm gương” phản ánh đời sống xã hội hiện tại. Một bộ mặt nhem nhuốc đứng trước gương không thể cho ra một hình ảnh sạch sẽ.

Như trên đã nói, báo chí chỉ thực sự có giá trị khi nó truyền tải sự thật. Sự thật không còn là sự thật khi thông tin bị bóp méo. Câu hỏi đặt ra là, vì sao thông tin lại bị bóp méo? Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, nhưng cốt lõi của vấn đề vẫn là báo chí đang trở thành công cụ của quyền lực.

Khi báo chí là công cụ thì thông tin là thuốc độc. Khi thông tin là thuộc độc thì người đọc là nạn nhân. Nạn nhân của thông tin sai trái sẽ tạo ra những con người vô tâm, vô cảm và ngu muội trước những gì đang xảy ra. Báo chí là công cụ thì xã hội sẽ suy tàn.

Lối thoát duy nhất là cần thực hiện quyền hiến định: tự do báo chí. Tự do báo chí không chỉ là quyền tự do ngôn luận, nó còn là quyền truyền tải sự thật. Bên cạnh truyền tải sự thật, tự do báo chí còn là quyền tiếp nhận sự thật. Được tự do viết mà cấm đoán người đọc thì không thể có cái gọi là tự do. Độc giả phải có quyền trong việc tiếp nhận thông tin và truyền tải thông tin đó cho nhau nếu họ thấy cần thiết.

Tự do báo chí không phải là đặc quyền của những người làm báo. Tự do báo chí là thước đo của một xã hội văn minh.

Tần Mục Công mất ngựa quý




Tần Mục Công rất thích ngựa. Ông không tiếc chi ra vàng bạc nặng tay để tìm mua vài chú ngựa nuôi trong cung. Một hôm, người tùy tùng phụ trách nuôi ngựa thần sắc hoảng hốt chạy tới bẩm báo nói rằng một con tuấn mã màu trắng đã biến mất.

Tần Mục Công nghe xong lập tức chạy tới chuồng ngựa kiểm tra, chỉ thấy nửa sợi dây thừng vẫn còn cột trên máng, nhất định là con ngựa quật cường này đã lồng khỏi dây cương chạy mất. Tần Mục Công sốt sắng đứng ngồi không yên, đích thân dẫn người đi tìm. Họ men theo dấu chân ngựa lúc ẩn, lúc hiện trên đường, đi mãi tới một sơn cốc, núi Kỳ Sơn.
Không bao lâu, họ nghe thấy tiếng người náo nhiệt, hóa ra là nhóm người vùng sơn cốc đang vây quanh một đống lửa, nướng thịt ngựa, quây quần thưởng thức ngon lành. Tần Mục Công đưa mắt nhìn thì thấy tấm da ngựa màu trắng trong đám cỏ. Đó chính là con tuấn mã mà ông bị mất.

“Đây là ngựa của ta mà!”, ông kinh ngạc thốt lên. Những người dân miền sơn cước đang ăn thịt ngựa đứng phắt dậy, kinh sợ nhìn Tần Mục Công và binh lính đứng đằng sau. Những đôi mắt lo sợ nhìn nhau, nín thở. Họ đang chờ đợi sự trừng phạt từ đức vua.

Nhưng trong khoảnh khắc ấy, khuôn mặt của Tần Mục Công đã trở lại điềm nhiên như thường. Ông cười nói: “Ăn thịt tuấn mã mà không uống rượu liền, sẽ bị đau bụng, tổn hại tới sức khỏe”.

Thế là ông dặn dò tùy tùng quay về hoàng cung mang vài hũ rượu ngon tới để người dân sơn cước nhắm cùng thịt ngựa, rồi mới quay người bỏ đi. Phía sau bóng dáng của Tần Mục Công và binh lính là những ánh mắt đầy hoài nghi.

Một năm sau, Tần và Tấn đánh nhau to tại Hàn Nguyên. Trận chiến diễn ra vô cùng khốc liệt. Quân Tần rơi vào vòng vây của quân Tấn. Cỗ xe chiến mã của Tần Mục Công cũng sa lầy sâu trong trận địa, mũi giáo lớn của quân địch chĩa thẳng vào áo giáp của ông.

Trong thời khắc tính mạng như ngọn đèn trước gió đó, đột nhiên một đội quân gồm mấy trăm tráng sĩ thét lớn, lao vào đột phá vòng vây. Họ quyết một phen sống mái, liều chết xông pha, khiến quân Tấn mặt mày choáng váng, lúng túng, hoang mang, nhất thời không biết phải làm thế nào. Quân Tần thừa cơ phản công, chỉ một trận đã đánh bại quân Tấn, đồng thời bắt sống Tấn Huệ Công.

Sau chuyện đó, Tần Mục Công triệu kiến đội quân kỳ lạ đã kịp thời tới cứu viện. Ông bèn hỏi họ: “Trẫm không nhớ rằng mình đã gia ân gì cho các vị. Vì sao các vị lại sẵn sàng xả thân cứu trẫm?”. Những người đó cười mà đáp lại rằng: “Chúng thần chính là những người đã giết con tuấn mã của ngài năm xưa nhưng lại được ngài ban cho rượu ngon vậy!”.

Nhờ khi xưa không coi trọng lợi ích bản thân, có thể thấu hiểu và khoan dung cho lỗi lầm của người khác, đã khiến Tần Mục Công có được niềm vui bất ngờ.

Những bậc tài trí mưu lược kiệt xuất trong lịch sử xưa nay không phải vì họ có thần lực bách chiến bách thắng mà là vì họ có trái tim có thể gói trọn cả thiên hạ. Tần Mục Công nhờ vậy mới có thể xưng bá thời Xuân Thu. Câu chuyện này cũng đã minh chứng cho câu nói: “Tấm lòng rộng rãi bao nhiêu thì vũ đài cũng lớn bấy nhiêu”.

Thứ Bảy, 17 tháng 6, 2017

Tự Điển Tiếng Việt Đổi Đời - 4





Đào Văn Bình





N.

- Nam Hàn trở thành Hàn Quốc. Bắc Hàn trở thành Triều Tiên. Lộn xộn quá, nhớ không nổi! Cả thế giới đều gọi Bán Đảo Triều Tiên, tại sao không gọi Bắc Triều Tiên, Nam Triều Tiên cho dễ nhớ?

- Nạn nhân trở thành bị hại. Hung thủ, kẻ sát nhân trở thành kẻ thủ ác.

- Ngày hội trở thành lễ hội. Trong nước không phân biệt được thế nào là ngày lễ, thế nào là ngày hội. Ngày lễ để kỷ niệm một biến cố lịch sử, hay khánh thành một công trình lớn: Như Lễ Hai Bà Trưng, Lễ Giỗ Trận Đống Đa, Lễ Quốc Khánh, Lễ Khánh Thành… Còn ngày hội chỉ là tụ họp vui chơi, không phải là ngày nghỉ lễ chính thức của học sinh hay công chúng. Chẳng hạn như: Hội Lim, Ngày Hội Thả Diều Đà Nẵng, Ngày Hội Cà-Phê Ban Mê Thuột, Ngày Hội Hoa Đà Lạt, Hội Đua Thuyền…Nhưng một ngày lễ nếu quy tụ đông đảo tín đồ, người hành hương thì có thể gọi là lễ hội như Lễ Hội Chùa Hương, Lễ Hội Đền Hùng.

- Nghi ngờ trở thành nghi án. Thí dụ: Nghi án đập đá (Nghi ngờ có sử dụng bạch phiến)

- Ngoại tệ trở thành ngoại hối. Dự trữ ngoại tệ trở thành dự trữ ngoại hối. Ngoại tệ gửi về nước trở thành kiều hối. Trong khi theo tự điển Việt Nam, nội hối là “đổi tiền trong nước”. Còn ngoại hối là “đổi tiền với nước khác”. Nói tóm lại, trong nước bịa đặt ra chữ mới mà không cần tra cứu tự điển gì cả. Đúng là điếc không sợ súng!

- Ngũ Giác Đài trở thành Lầu Năm Góc do các ông bà ở hải ngoại lấy nguyên những bản tin trong nước rồi đua nhau chuyển tiếp lên các diễn đàn…khiến tiếng Việt đổi đời trở thành tiếng Việt chính thống.

- Người dân bị thiệt hại (vụ Formosa) trở thành những người dân bị hại (VOV) Đúng là tiếng Việt điên khùng. Xin nhớ cho, bị thiệt hại thuộc về dân sự như bị thiệt hại về tài sản, nghề nghiệp sinh sống. Còn “bị hại” là bị sát hại, giết hại, làm cho tù đày, tán gia bại sản.

- Người hâm mộ, kẻ hâm mộ/khán giả hâm mộ trở thành fan. “Á hậu H.O chia sẻ chuyện gia đình trong lần đầu họp fan” (Đài Tiếng Nói Việt Nam). Tiếng Việt lai căng, bát nháo không thể tưởng tượng được, nhất là lại được đưa lên một trang thông tin tiêu biểu cho tiếng nói của một quốc gia.

- Người ngoại quốc trở thành tây. Báo chí trong nước bây giờ rất lạ. Tất cả người ngoại quốc dù là Mỹ, Anh, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Hòa Lan đều được đổ đồng bằng hai chữ “ông Tây”. Đọc bản tin “Ông Tây lấy vợ Việt” tôi cứ nghĩ rằng đây là một người Pháp lấy vợ Việt Nam nhưng lại là một ông người Hà Lan lấy vợ Việt Nam. Rồi “Một ông Tây hát cải lương” hóa ra một thanh niên Mỹ hát cải lương. Ngày xưa, cho tới năm 1954, ở ngoài Bắc, lính Pháp mình gọi là lính Tây, khu phố mà người Pháp ở gọi là Phố Tây. Tây Đen là lính Maroc, Algerie, Senegal, Tunisie… mấy người Pháp mình gọi là “mấy thằng Tây” (Westerner) vừa căm thù vừa khinh ghét. Chính tôi ở ngoài Bắc trước 1954 cũng gọi “mấy thằng Tây”, kính trọng lắm là “mấy ông Tây”. Nhưng nay thời thuộc địa qua rồi, mọi danh từ có vẻ như căm ghét, khinh thị phải quên đi. Thế giới này cần chung sống hòa bình và kính trọng lẫn nhau. Mình nên bỏ chữ “Tây” và thay bằng “người Pháp”, “người Mỹ”. “người Tây BanNha”, “người Hà Lan” cho lịch sự.

- Người trong gia đình nay trở thành thành viên của gia đình. “ Cháu là người trong gia đình” nay thời kỳ “hội nhập” phải nói, “Cháu là thành viên của gia đình” giống như thành viên của một tổ chức nào đó.

- Người viết chuyên đề trở thành blogger. Trang tin chuyên đề trở thành trang blog

- Nguy nga, tráng lệ, đồ sộ, trang trọng, lộng lẫy nay chết hết chỉ còn có hoành tráng

- Nhà để xe trở thành garage

- Nhà Trắng hay Tòa Bạch Ốc? Trong thời kỳ chiến tranh, danh từ The White House được hai miền nam-bắc dịch khác nhau. Miền Nam dịch là Tòa Bạch Ốc. Miền Bắc dịch với tính cách khinh thị (coi nhẹ) là Nhà Trắng. Dù người Mỹ dùng chữ “house” thí dụ, House of Representatives nhưng không thể dịch là “Nhà Đại Biểu” mà phải dịch là Hạ Nghị Viện. Theo tôi nghĩ, nơi ở, nơi làm việc của các vị nguyên thủ quốc gia không thể gọi là “nhà” mà phải dịch là Dinh, Điện hay Phủ. Thí dụ: Điện Kremlin, Điện Versailles, Dinh Độc Lập, Phủ Toàn Quyền, Phủ Thống Sứ, Phủ Chủ Tịch…Chiến tranh đã qua đi hơn 40 năm, hai bên đã khép lại quá khứ. Việt-Mỹ đã ký thỏa ước hợp tác toàn diện (Comprehensive Partnership) . Hợp tác toàn diện cũng có nghĩa là hai bên phải tôn trọng lẫn nhau. Chúng ta nên tôn trọng người Mỹ và người Mỹ dĩ nhiên cũng phải tôn trọng Việt Nam. Do đó, danh từ Nhà Trắng nên bỏ đi, không nên có thái độ khinh thị. Theo tôi, The White House nên dịch là: Tòa Bạch Ốc, Bạch Cung hay Bạch Dinh. (Vũng Tàu có Bạch Dinh là nơi nghỉ mát của Vua Bảo Đại)

- Nhạc Trịnh Công Sơn trở thành nhạc Trịnh. Trong khi nhạc Phạm Duy lại không nói là nhạc Phạm, nhạc Phan Đỉnh Điểu lại không nói nhạc Phan

- Nhân đạo trở thành nhân văn. Xin nhớ nhân đạo khác nhân văn.

- Nhanh lên, mau lên trở thành khẩn trương lên

- Nhập lượng-xuất lượng, vốn-thành phẩm trở thành đầu ra-đầu vào (input-output) nghe sao thô tục quá.

- Nhập viện. Trong nước bây giờ, tường thuật bất kỳ một biến cố nào có người bị thương đều thêm hai chữ “phải nhập viện” (phải vào bệnh viện). Trên thế giới này không hề có kiểu tường thuật như vậy. Thí dụ: Phóng viên đưa tin người chồng vũ phu đã đánh đập người vợ dã man vì ngăn cản không cho uống rượu, hoặc một tai nạn xe hơi khiến bốn người trọng thương. Như thế là đủ. Còn chuyện có vào nhà thương hay không, không phải chuyện của phóng viên. Dĩ nhiên, nếu bị thương nặng thì người ta đương nhiên đi bác sĩ hoặc vào bệnh viện, phóng viên khỏi tường thuật chuyện đương nhiên. Đúng là một nền báo chí kém cỏi.

- Nợ chạm mức giới hạn trở thành nợ trần giống như nợ đời, nợ trần ai. (VOA)

- Nói không biết ngượng trở thành mồm không biết ngượng. Đây là ngôn ngữ của mụ bán “bún mắng cháo chửi” ở Hà Nội được tường thuật trên CNN.

- Nơi du lịch/địa điểm du lịch trở thành điểm đến. Thí dụ: “Thành Phố HCM là một điểm đến thu hút du khách quốc tế”. (VnPlus) Câu nói bình thường chỉ là, “Thành Phố HCM là địa điểm du lịch thu hút du khách quốc tế”.

- Nổi bật trở thành nổi cộm. Hai chữ này VOA và BBC tiếng Việt rất thích dùng, làm ra vẻ như ta đây là “bác học”.

- Nông phẩm biến thành sản phẩm nông nghiệp , dã thú biến thành động vật hoang dã tức kéo dài tiếng Việt ra một cách thừa thãi.

- Nồng độ rượu trong máu (để phạt lái xe) trở thành nồng độ cồn. (Ảnh hưởng thuộc địa Pháp vẫn còn dai dẳng)

- Nữ công nhân trở thành lao động nữ. Nam công nhân trở thành lao động nam. Đúng là đổi đời.

- Nữ ký giả /nữ phóng viên trở thành nhà báo nữ. Nếu như vậy thì nữ thủ tướng sẽ trở thanh thủ tướng nữ, bà bộ trưởng sẽ trở thành bộ trưởng nữ và nữ quân nhân sẽ trở thành quân nhân nữ hay lính gái lính trai.

- Nữ quân nhân hải quân trở thành “phụ nữ quân chủng hải quân”. Sao dùng chữ khó khăn quá vậy?

- Nước dâng cao trở thành triều cường. “Người dân TP.HCM dầm mình lội triều cường” (Báo Tuổi Trẻ).

- Nuôi và gây giống trở thành nuôi trồng. Thí dụ: Nuôi trồng thủy sản. Thật không thể tưởng tượng được người ta có thể “trồng” tôm, cá v.v…Thế mà cả nước nói như vẹt mà không một ý thức gì cả.



O.

- Ông/Bà trở thành Mr. & Mrs.

- Ống sắt trở thành tuýp, ống tuýp (Tiếng Pháp là tube):



P.

- Phái tính (phái nam, phái nữ) trở thành giới tính. Giới có nghĩa là giới hạn, ngăn cấm hoàn toàn không có nghĩa là đàn ông/đàn bà, trai/gái hay nam/nữ.

- Phẩm chất trở thành chất lượng. Ngày xưa Miền Nam phân biệt phẩm và lượng. Phẩm thì gọi là phẩm chất. Còn lượng thì gọi là số lượng. Thí dụ: Số lượng thì nhiều nhưng phẩm chất không bao nhiêu.

- Phân phát, phân phối, lan truyền trở thành phát tán.

- Pháo hạm trở thành tàu pháo

- Phạt ngay tại chỗ trở thành phạt nóng. Thưởng ngay trở thành thưởng nóng. Gửi giấy phạt về nhà trở thành phạt nguội. Thật khôi hài quá mức!

- Phát thanh thì nói phát thanh. Còn đài truyền hình thay vì phát hình lại nói phát sóng, phủ sóng. Điên rồ quá!

- Phê bình, chỉ trích, công kích trở thành ném đá (giống như hình phạt ném đá thời Trung Cổ).

- Phê bình cắt cụt chỉ còn phê (giống như phê vào công văn)

- Phi công chính trở thành cơ trưởng tức phụ trách máy móc chính

- Phi công phụ trở thành cơ phó tức phụ máy móc

- Phi đạn trở thành rocket

- Phi hành đoàn trở thành tổ bay, tổ lái

- Phải chịu thuế/ đánh thuế trở thành áp thuế. Bản tin trong nước do bà con “chống cộng” lấy rồi phổ biến rộng rãi trên Yahoo Groups ở hải ngoại: “Trump đe dọa áp thuế quyết liệt, lên tới 35% với các nhà sản xuất ô-tô ở nước ngoài rồi đem vào Mỹ bán.” Tôi không hiểu “áp thuế quyết liệt” là đánh thuế như thế nào? Đúng là ngu dốt lại hay “đao to búa lớn”. Đánh thuế thì hoặc “đánh thuế cao” hoặc “giảm thuế” chứ làm gì có “ quyết liệt ở đây?

Trong nước bị di truyền và ám ảnh bởi những từ ngữ chiến tranh, tuyên truyền, kích động có từ 70 năm trước trong cuộc sồng hằng ngày. Một đất nước như vậy làm sao có thể yên bình được? Muốn người dân điên cuồng lao vào chém giết chỉ cần tuyên truyền, kích động bằng những ngôn từ hận thù, sắt máu - dù dân chủ, tự do như Hoa Kỳ. Xin nhớ những chủ nghĩa gây thảm họa cho loài người đều phát xuất từ Âu Châu. Chính vì thế mà thế giới ngày hôm nay, người ta quý trọng lập trường ôn hòa (moderate) và sợ hãi lập trường quá khích (extremist) và cực hữu (far right). Ngôn ngữ cũng vậy, phải hòa nhã, dịu dàng, lịch sự mới chinh phục được lòng người. Lão Tử nói rằng người ta sợ hãi cái gì sắc nhọn, thích cái gì vuông vức, tròn trịa. Cái gì cứng quá thì gẫy, cái gì mềm mại thì còn “Răng cứng thì rụng, lưỡi mềm thì còn”. Một cơn bão lớn thổi tới, cây cổ thụ khổng lồ 100 năm ở Mỹ cũng trốc gốc, nhưng cây tre biết ngả nghiêng theo chiều gió thì vẫn đứng khơi khơi. Lãnh đạo một đất nước cũng vậy, phải tránh những lời nói kích động, đao to búa lớn, mị dân, rỗng tuếch mà người Mỹ gọi là “rhetoric”. Kích động lòng dân thì dễ nhưng an dân, giữ được lòng dân mới khó. Nguyễn Trãi trong Bình Ngô Đại Cáo đã dạy “Việc nhân nghĩa cốt ở an dân.”

- Pháo bây giờ phân ra pháo nổ và pháo hoa (VietnamPlus). Thí dụ: “Nghệ An: Dân tự phát đốt pháo nổ, pháo hoa tự chế tại vùng quê”. Đúng là loại ngôn ngữ điên khùng. Từ ngàn xưa tới giờ, nói “đốt pháo” là người ta hiểu loại pháo gì. Còn pháo hoa/pháo bông thì gọi là “bắn” chứ không gọi là “đốt”, chẳng hạn như bắn pháo sáng (hỏa châu)

- Pháo tháp, đồn canh trở thành lô-cốt

- Phát động phong trào trở thành khởi động phong trào, (Diễn Đàn YahooGroups ở hải ngoại cũng đã lây bệnh trong nước rồi.)

- Phạt nặng, lên một bản án nặng nề biến thành “xứ lý nghiêm”. Thí dụ: “Xử lý nghiêm xe chạy ngược chiều, xử lý nghiêm lấn chiếm vỉa hè”. Thật tình tôi không hiểu “xử lý nghiêm” là xử lý như thế nào. Là người học Luật, tôi thấy câu nói này mơ hồ. Thi hành luật pháp thì phải nghiêm minh. Còn hình phạt thì nặng hay nhẹ chứ không phải nghiêm. Thí dụ: Phạt nặng những xe chạy ngược chiều. Phạt nặng xe vận tải quá trọng lượng. Lên một bản án nặng nề cho kẻ dâm ô/hãm hiếp trẻ em. Phạt nặng những chủ nhân lấn chiếm vỉa hè trái phép.

- Phổ biến/mở rộng trở thành nhân rộng

- Phong tỏa (tài sản) trở thành đóng băng (Freezing of asset. Chữ “freezing” ở đây có nghĩa là ngăn không cho chuyển dịch một tài sản, trương mục, tài khoản…chứ không phải bỏ vào tủ lạnh để cho nó thành đông đá/đóng băng.

- Phòng tập thể dục trở thành gym

- Phỏng vấn, lấy tin, săn tin, thu hình, làm phóng sự trở thành tác nghiệp giống như ký giả Tàu Hồng Kông hay Đài Loan nói chuyện với nhau.

- Phụ tá trở thành trợ lý. Thí dụ: Trợ lý tổng thống (phụ tá tổng thống), trợ lý bộ trưởng (phụ tá bộ trưởng, thứ trưởng)

- Positive =có dấu hiệu… như ung thư chẳng hạn trở thành dương tính. Trong khi theo từ điển tiếng Việt trong nước “dương tính” là “tính chất mạnh của giống đực”. Negative = không có dấu hiệu…như ung thư chẳng hạn trở thành âm tính. Trong khi từ điển tiếng Việt Nam trước và sau 1975 không hề có hai chữ “âm tính”. Thật bừa bãi quá mức! Ở Việt Nam bây giờ tha hồ nói và viết, không cần biết đúng sai, không cần biết sách vở có dạy như vậy hay không và cũng có ai phê phán hay dòm ngó tới.



Q.

- Quan điểm trở thành góc nhìn (BBC tiếng Việt)

- Quan thuế trở thàng hải quan. Tại Phi Cảng Tân Sơn Nhất hay Phi Trường Nội Bài tôi có thấy biển (hải) gì đâu? Ngày xưa chưa có phi trường, hải quan được đóng ở cửa biển để thu thuế. Ngày nay quan thuế thu ở hải cảng, phi trường, biên giới… có còn nằm ở cửa biển nữa đâu mà cứ dùng mãi?

- Quần áo lót, đồ lót trở thành nội y giống như ngôn ngữ của các thái giám Trung Hoa gọi quần áo lót của các bà hoàng hậu, quý phi.

- Quân cảng trở thành cảng quân sự.

- Quân chủ biến thành phong kiến. Trong nước không phân biệt được thế nào là chế độ quân chủ (Monarchy) và thế nào là chế độ phong kiến (Feudalism). Phong kiến là cắt đất, phong hầu để thành lập một quốc gia riêng (kiến quốc) đã chấm dứt khi Nhà Chu tiêu vong. Từ Tần, Hán trở đi, chế độ phong kiến không còn mà chỉ còn chế độ quân chủ giống như chế độ quân chủ trên toàn thế giới. Ở Việt Nam làm gì có chế độ phong kiến. Dĩ nhiên một số tập tục của thời phong kiến còn rơi rớt lại khi Trung Hoa chuyển sang chế độ quân chủ, nhưng không thể gọi đó là chế độ phong kiến, nhất là ở Việt Nam.

- Quang đãng trở thành thông thoáng. Thí dụ: “Đường phố quang đãng” trở thành “Đường phố thông thoáng”. Thậm chí thủ tục, giấy tờ dễ dãi cho người dân cũng gọi là “thông thoáng”.

- Quy mô, cỡ lớn/ lớn trở thành đại trà. Sản xuất lớn trở thành sản xuất đại trà.

- Quy luật vật lý (Đài Tiếng Nói Việt Nam VOV). Làm gì có “quy luật vật lý” mà chỉ có “định luật vật lý” thôi. Quy luật do con người đặt ra và có thể sửa đổi. Còn định luật thuộc về thiên nhiên không bao giờ sửa đổi được, thí dụ: Định luật của sự rơi, định luật Archimede. Người viết bài này không có kiến thức về khoa học dạy từ Trung Học Đệ I Cấp (Lớp 6-9)

- Quyền Anh đã chết chỉ còn boxing.



R.

- Rau (vegetable, légume) biến thành rau xanh. Như vậy rau tía tô màu đỏ tía, hành củ và tỏi màu trắng, sà-lách/rau diếp Đà Lạt màu mỡ gà, cà tím, cà-rốt, củ cải đỏ, rau dền đỏ, bắp cải màu trắng…có trồng không và gọi là rau gì? Trong nước có tật thêm cái đuôi vào các danh từ đã có từ ngàn năm nay rồi. Nói trồng rau là người ta hiểu rồi lại còn bịa đặt ra trồng “rau xanh”.

- Rau không bón phân hóa học trở thành rau sạch làm người ta nghĩ tới rau nhơ bẩn có dính phân vào đó. Khi sáng chế ra chữ mới phải suy nghĩ cẩn thận để tránh sự liên tưởng tới nghĩa xấu.

S.

- Sân khấu trở thành sàn diễn. Võ đài trở thành sàn đấu. Bục trình diễn thời trang trở thành sàn catwalk. Nơi mua bán chứng khoán trở thành sàn chứng khoán, phòng họp của thượng viện Mỹ (Senate Floor) trở thành sàn thượng viện….Rồi mai đây diễn đàn Liên Hiệp Quốc sẽ thành sàn Liên Hiệp Quốc, phòng họp của quốc hội (House Floor) thành sàn quốc hội…cái gì cũng là sàn tất cả. Ngôn ngữ truyền thống nằm chình ình trong sách vở nhưng chết lần chết mòn chỉ vì ngu dốt tiếng Anh lẫn tiếng Việt.

- Sinh đôi trở thành song sinh. Thích dùng tiếng Tàu mà đòi thoát Trung. Giống như thấy hàng Trung Quốc rẻ dù độc hại, tranh nhau mua rồi khoe mà đòi chống Trung Quốc. Nghe hai chữ “sinh đôi” nó đẹp và thuần Việt làm sao. Truyện Kiều trở thành bất tử và thấm vào máu thịt Việt Nam là vì Cụ Nguyễn Du dùng ít điển tích và dùng những chữ thuần Việt.

- Sinh Vật Học (biology) trở thành Sinh Học (Cắt cụt tiếng Việt cho mày chết luôn!)

- Số lần xuất hiện trở thành tần xuất

- Sở thích thành gu (gout)

- Soạn bài giảng trở thành soạn giáo án, nghe thấy mà ghê, giống như án lệnh của tòa.

- Sòng bài trở thành casino

- Sức vóc trở thành thể hình thể lực. Thí dụ: Các cầu thủ Việt Nam thể hình thể lực kém so với các cầu thủ Âu Châu. Miền Nam có hai chữ sức vóc rất hay tại sao không dùng? Sức là sức khỏe, vóc là chiều cao, lớn bé.

- Suy nghĩ trở thành tư duy. Thích dùng chữ khó khăn để chứng tỏ ta đây là người trí thức. Nhưng thực ra người trí thức đạt đạo lại bình dị, không làm dáng, rởm đời. Miền Nam trước đây, khi nói chuyện với bạn bè mà dùng hai chữ “tư duy” chẳng hạn như, “Chuyện đó tao phải suy nghĩ nhức đầu.” mà lại nói, “Chuyện đó tao phải tư duy nhức đầu.” chắc bạn nó chửi vào mặt mình là thằng phách lối. Nói năng với bạn bè, hay trước công chúng mà dùng những chữ kiểu cọ, xổ Nho, đao to búa lớn, khó khăn, nhức đầu thì người ta sẽ nghĩ mình là kẻ đầu óc không bình thường hoặc phách lối, dạy đời. Xin nhớ cho ngôn ngữ là truyền đạt vừa tư tưởng lẫn tình cảm. Ngôn ngữ phải dùng đúng nơi, đúng chỗ. Cái quý nhất là đơn giản, dễ hiểu, thông dụng, lịch sự và lễ độ. Đừng chế bậy.



T.

- Tác động qua lại trở thành tương tác. Ngay chính bản thân tôi, nghe hai chữ “tương tác” tôi vẫn không hiểu nghĩa là gì.

- Tài liệu trở thành tư liệu (tư liệu là tài liệu riêng của một người)

- Tài tử điện ảnh, người mẫu, ca sĩ nổi tiếng trở thành sao, các sao. Cho nên tôi tạm có câu đố chơi cho vui: Các sao ra xem sao. Sao? Nói sao?

- Tài xế trở thành lái xe (Tài xế là danh từ, còn lái xe là động từ). Đào tạo tài xế trở thành đào tạo lái xe. Đúng là tiếng Việt điên khùng.

- Tái bổ nhiệm trở thành bổ nhiệm lại nghe quê mùa làm sao ấy. Thí dụ: “Bổ nhiệm lại hai thứ trưởng Bộ Công An và Bộ Quốc Phòng. (VOV)” Người ta nói: tái đấu chứ không nói đấu lại, tái cử chứ không nói ứng cử lại, tái xuất giang hồ, tái diễn chứ không nói xảy ra một lần nữa.

- Tân trang/làm mới trở thành nâng cấp (upgrade)

-Chính mắt nhìn, tận mắt nhìn biến thành mục sở thị. Ông nào chế ra chữ này nên học tiếng phổ thông Trung Hoa rồi qua Tàu sống để khỏi làm phiền người dân Việt Nam.

- Tăng tốc độ cắt cụt chỉ còn tăng tốc. Như thế, lái với tốc độ lớn trở thành lái với tốc lớn. Xin nhớ cho chữ tốc đứng một mình có nhiều nghĩa. Thí dụ: Mái nhà bị bão thổi tốc lên. Váy cô ta bị gió thổi tốc lên.

- Tập họp/biểu tình trở thành mít tinh

- Tay đua xe đạp trở thành cua-rơ

- Tay lái /bánh lái trở thành vô-lăng

- Tây Ban Cầm đã chết chỉ còn Guitar

- Thăm viếng, du ngoạn trở thành tham quan. Muốn thoát Trung mà lại ôm cứng tiếng Tàu.

- Thản nhiên biến thành vô tư. “Người dân vô tư hành hạ hoa ở Lễ hội hoa hồng Bulgaria” (VOV). Xin nhớ cho vô tư là công bình (Chí công vô tư). Vô tư lự là không lo nghĩ gì.Còn thản nhiên là làm mà không cần biết hậu quả, không cần biết người chung quanh, bất chấp luật lệ. Thí dụ: Ông ta thản nhiên đổ rác ngay dưới tấm bảng “Cấm Đổ Rác”. Người nào dùng hai chữ “vô tư” ở đây chắc chắn không được cắp sách đến trường.

- Tháng Giêng trở thành Tháng Một. Tháng Chạp cũng chết luôn chỉ còn Tháng 12.

- Thắng hai trái trở thành làm cú đúp

- Thắng ba trái trở thành hat trick

- Thắng rõ rệt, thắng áp đảo/ trên chân rõ ràng trở thành thắng thuyết phục (thuyết phục ai ở đây?)

- Thế lực trở thành quyền lực. Thí dụ: “Quen biết trở thành thứ quyền lực mà người ta có thể mang ra để thách thức luật pháp.” (VnExpress) Ở đây không phải là quyền lực mà là thế lực. Quyền lực là sứ mạnh của người nắm quyền . Còn thế lực là sức mạnh dựa vào một người có quyền …chẳng hạn như vợ con, anh em, người tình của người nắm quyền. Thí dụ: “Ông ta là người rất có thế lực vì là bố vợ của ông giám đốc công an tỉnh.”

- Thế Vận Hội trở thành Olympic

- Thị trường chứng khoán/ trụ sở mua bán chứng khoán/nơi mua bán chứng khoán trở thành sàn chứng khoán. Trong nước thấy chữ “floor” tưởng đó là “sàn” thực ra “floor” còn có nghĩa là địa điểm, chỗ. Thí dụ

”Senate Floor” tức địa điểm, phòng hội của Thượng Nghị Viện Hoa Kỳ.

- Thổ sản trở thành đặc sản. Xin nhớ cho thổ sản khác đặc sản. Thổ sản là chỉ nơi đó mới có. Còn đặc sản thì chỗ nào cũng có. Thí dụ “nhãn Hưng Yên” là thổ sản của Hưng Yên mà nơi khác không có. Trong nhãn Hưng Yên có thể có nhiều đặc sản/đặc biệt, chẳng hạn nhãn giống này, nhãn giống kia, nhãn có hột, nhãn không hột…

- Thời tiết khắc nghiệt, thời tiết tệ hại trở thành thời tiết cực đoan

- Thù nghịch trở thành khắc tinh . VOA tiếng Việt, “Tân tư lệnh hải quân TQ: ‘Khắc tinh’ của Việt Nam?”

Người viết bài này tiếng Việt quá kém không phân biệt được nghĩa của hai chữ “thù nghịch” và “khắc tinh”. Phó Đô Đốc Thẩm Kim Long của Trung Quốc, người đã từng chỉ huy Hạm Đội Nam Hải, cưỡng chiếm Hoàng Sa năm 1974 và Gạc Ma năm 1988, nay được đề cử làm tư lệnh hải quân Trung Quốc, thì viên tướng hải quân này có quá khứ thù nghịch/ tội ác với Việt Nam chứ sao gọi là khắc tinh? Xin nhớ cho tất cả các danh tướng Việt Nam như Ngô Quyền, Lê Đại Hành, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ đều là khắc tinh của các danh tướng Trung Quốc. Nói khác đi, các danh tướng Tàu dù chinh đông, chinh tây, nổi danh khắp thế giới nhưng tới Việt Nam thì hoặc bị chém đầu, treo cổ tự sát hay chui vào ống đồng mà chạy. Tức danh tướng Việt Nam là khắc tinh của tất cả các danh tướng Tàu…chứ làm gì có tướng Tàu là khắc tinh của các tướng Việt Nam. Xin người viết bài này học lại lịch sử Việt Nam đã được dạy từ bậc Tiểu Học.

- Thủ quân (một đội bóng) trở thành đội trưởng. Tranh bóng trở thành tranh chấp bóng (giống như tranh chấp quyền lực). Các cầu thủ gạo cội, các tuyển thủ trở thành các cao thủ. (ảnh hưởng bởi phim bộ Hồng Kông) Thật là “nhà quê” khi gọi các tuyển thủ bóng đá là các cao thủ. “Một đường truyền rất tốt/thuận lợi cho…” trở thành “Một đường truyền thông thoáng”. Tường thuật các trận túc cầu bây giờ toàn là dân Miền Bắc thiếu kiến thức, thiếu ngữ vựng về môn túc cầu. Một trận đấu 90 phút mà phải nghe cả ngàn lần các từ ngữ như “thi đấu” “xử lý bóng không tốt”, “xử lý bóng tốt”, “tình huống” làm cho người nghe bực cả mình. Rồi tài năng, tài nghệ trở thành tố chất (tố chất của Công Phượng), giao trả gắn bó (theo thuật ngữ rất sống động của ký giả Huyền Vũ) trở thành “bật nhả”, đưa bóng xuyên qua hàng phòng vệ của đối phương nay được các ông Bắc Kỳ gọi là “chọc khe” sao thô tục quá. Rồi “một đường truyền thiếu suy tính” trở thành “một đường truyền thiếu cảm giác”. Ở trong nước không phân biệt được thế nào là thành phần thế nào là đội hình cho nên cái gì cũng dùng hai chữ “đội hình”. . Thành phần là danh sách cầu thủ. Còn đội hình là chiến thuật, chẳng hạn đá với chiến thuật 4-2-4. Tường thuật một trận túc cầu bao gồm cả phần bình luận. Cầu thủ đá hay, đá dở như thế nào…chẳng hạn khéo léo lừa qua hàng phòng vệ đối phương, dàn xếp ăn ý, khôn ngoan đưa bóng cho đồng đội làm bàn, dứt điểm đúng lúc, thừa lúc sơ hở của thủ môn...thì nói ra. Dùng các chữ “xử lý bóng tốt, xử lý bóng không tốt” chỉ để che dấu kiến thức nghèo nàn về môn túc cầu của mình. Rồi “trọng tài biên” trở thành “trợ lý trọng tài”. Rồi “người bị đốn ngã” , “người bị chèn lấn trái phép”, “bị níu áo” ‘bị xô ngã”, “bị đối phương vào bóng quá nguy hiểm” trở thành “ người bị phạm lỗi”. Đúng là loại ngôn ngữ điên khùng. Nó điên khùng ở chỗ, thay vì nói, “người nằm sân, người bị thương là Công Phượng ” lại nói, “người bị phạm lỗi là Công Phượng”. Rồi tranh bóng ở trên cao trở thành “không chiến”!

- Thư thả, nghỉ ngơi, cho bớt căng thẳng trở thành thư giãn.

- Thử để biết/trải qua/ nếm mùi/ thưởng thúc trở thành trải nghiệm. Chỗ nào cũng thấy trải nghiệm, nói như vẹt vậy. Thí dụ: Thay vì nói, “Sinh viên quốc tế hào hứng thưởng thức (enjoy) hương vị Tết Việt Nam” lại viết, “Sinh viên quốc tế hào hứng trải nghiệm hương vị Tết Việt Nam” (VOV). Chúng ta hãy so sánh hai câu sau đây: 1. “Chúng tôi đã trải qua (trải nghiệm) bốn ngày Tết ở Hà Nội.” Câu nói này không hàm ý Tết ở Hà Nội như thế nào. 2. “Chúng tôi đã thưởng thức bốn ngày Tết ở Hà Nội.” Câu nói này hàm ý tác giả vui vẻ thưởng thức hương vị Tết ở Hà Nội. Do đó dùng hai chữ trải nghiệm chỉ có nghĩa là trải qua, đi qua, kinh qua chứ không có bất cứ một ý nghĩa gì khác.

Khi mà hệ thống truyền thông độc quyền thì hệ quả của nó là người dân sẽ nói như những con vẹt vì không có bất cứ một tiếng nói thứ hai hay đẹp hơn. Muốn hay đẹp thì phải “trăm hoa đua nở”. Dĩ nhiên khi “trăm hoa đua nở” sẽ có hoa thúi, hoa cứt lợn, hoa hèn… nhưng sẽ có những loài hoa quý và người dân có học sẽ biết chọn thế nào là loài hoa quý. Một đất nước mà không phân biệt được thế nào là văn chương, ngôn ngữ trí thức, thế nào là văn chương bát nháo, thì đó là một đất nước văn hóa kém, hổ lốn, dù có một triệu tiến sĩ cũng vất đi. Sau đây là một thí dụ viết văn rất bát nháo của BBC Việt ngữ: Thay vì viết, “Lãnh sự quán Việt Nam chưa tiếp xúc với Đoàn Thị Hương”, BBC tiếng Việt viết, “Chưa tiếp xúc lãnh sự với Đoàn Thị Hương” Rồi cũng BBC tiếng Việt ngày 22/3/2017: “Mỹ và Anh cấm laptop lên cabin máy bay vì lo khủng bố”. Câu văn không pha tiếng Anh “ba rọi” chỉ là, “Mỹ và Anh cấm đem máy điện tử xách tay lên máy bay vì sợ khủng bố.”

- Thua ngược, không đáng thua mà thua trở thành thua sốc.

- Thuốc quá hạn trở thành thuốc hết đát. Thí dụ: “bác sĩ người Hàn Quốc dùng thuốc hết “đát”. (Đài Tiếng Nói Việt Nam). Chưa thấy một loại tiếng Việt nào quái đản như thế này!

- Thủy thủ đoàn biến thành kíp tàu. Tại sao dùng chữ lạ lùng như vậy?

- Tìm hiểu trở thành soi, săm soi. Thí dụ; Săm soi chuyên cơ (phi cơ riêng) của Tổng Thống Obama. Đọc hai chữ “săm soi” tôi có cảm tưởng lấy cái que chọc vào đâu đó.

- Tiến hành cuộc điều tra nay thêm cái đuôi “điều tra làm rõ”. Làm rõ cái gì mới được chứ? Trên thế giới này, sau khi có một vụ án mạng hay tai nạn lớn xảy ra, cơ quan công lực thường tới thu thập chứng cớ ở hiện trường, phỏng vấn nhân chứng (nếu có) rồi tiến hành cuộc điều ra để truy tầm thủ phạm, đồng phạm…sau đó họp báo công bố kết quả cho công chúng biết. Nay trong nước không hiểu vì sao, các ông phóng viên lại thêm hai chữ “làm rõ” rất thừa thãi và vô duyên. Truyền thông có học hành đàng hoàng chỉ cần viết, “Nhà chức trách đang tiến hành cuộc điều tra” là người ta hiểu rồi. Thêm hai chữ “làm rõ” vào khiến câu văn trở nên quê mùa.

- Tiền trà nước trở thành tiền bo (pour boire). Tiền thưởng Tết cũng gọi là tiền bo.

- Tiếng Hoa, tiếng Tàu trở thành tiếng Trung (tiếng Trung, tiếng Nam, tiếng Bắc)

- Tiếp xúc trở thành tiếp cận. Ông bộ trưởng không muốn tiếp xúc với báo chí trở thành Ông bộ trưởng không muốn tiếp cận với báo chí. Không cho đến gần trở thành không được tiếp cận. Đúng là tiếng Việt điên khùng.

- Tiết kiệm (economy) hạng ba, giá rẻ trở thành kinh tề. Thay vì nói, “Mua cái này rẻ/tiết kiệm được tiền” lại nói “Mua cái này kinh tế lắm. Đúng là tiếng Việt điên khùng.

- Tiết lộ thành rò rỉ. Tiết lộ là để lộ, bị lộ ra ngoài hay “bật mí” cho người ta biết. Còn rò rỉ có ý nghĩa khác. Chẳng hạn chiếc thùng bị rò ở đáy cho nên nước rỉ ra ngoài. Rò rỉ có thể âm thầm, không ai biết. Vì tiếng Việt không rành cho nên trong nước và BBC tiếng Việt đã dùng rò rỉ để thay thế tiết lộ thế mà cũng được hải ngoại đua nhau bắt chước.

-Tiêu chuẩn, mẫu mực trở thành chuẩn mực. Bịa thêm ra chữ mới để làm gì trong khi chữ cũ đầy rẫy ra đó?

- Tiêu đề, nhan đề trở thành tít (titre)

- Tiêu thụ trở thành tiêu dùng

- Tiểu thương biến thành doanh nghiệp nhỏ. Hai chữ “tiểu thương” đã có cả trăm năm nay sao còn bịa đặt ra “doanh nghiệp nhỏ” làm gì nữa?

- Tìm cách/phương thức giải quyết trở thành khắc phục. Đôi khi khắc phục có nghĩa là ráng chịu cho quen, đừng kêu la, khiếu nại gì cả. Thí dụ: Bộ Nội Vụ tới thăm một trại giam, tù nhân than đói quá. Cán bộ nói, “Các anh cố gắng khắc phục.” Điều đó có nghĩa là Bộ Nội Vụ chẳng giải quyết gì cả. Tù nhân ráng mà lo lấy. Đói ráng chịu, đừng kêu la.

- Tin tức trở thành thông tin trong khi thông tin là loan truyền tin tức như Bộ Thông Tin, Cơ Quan Thông Tin. Còn những gì liên quan đến một cá nhân thì gọi là “dữ kiện” hay “chi tiết” chứ không phải “thông tin”.

- Tin nóng! Trong nước lẫn hải ngoại tràn ngập tin nóng nhưng tôi thật tình không hiểu tin nóng là tin gì. Tin nóng là tin hấp dẫn, tin mới nhất, tin động trời hay tin có liên quan đến xác thịt? Xin những ai dùng hai chữ “tin nóng” giải thích dùm cho, tôi hết lòng cảm ơn.

- Tờ truyền đơn trở thành tờ rơi. Truyền đơn đôi khi phát tay chứ có rơi rớt trên đường đâu. Còn tờ rơi là vứt rơi rớt trên đường.

- Tòa Bạch Ốc trở thành Nhà Trắng do các ông bà ở hải ngoại lấy nguyên bản tin trong nước rồi đua nhau chuyển tiếp lên các diễn đàn YahooGroups…khiến tiếng Việt đổi đời trở thành tiếng Việt chính thống ở hải ngoại.

- Tổng Sản Lượng Quốc Gia trở thành GDP (người kém tiếng Anh không hiểu gì cả)

- Trả lời, lên tiếng/đóng góp ý kiến trở thành phản hồi. Thí dụ: “Bộ Công Thương phản hồi việc kê khai tài sản của bà HTKT” (VnPlus). Trong nước thích dùng chữ nghĩa khó khăn học được từ đời Mao Trạch Đông. Câu văn đơn giản chỉ là, “Bộ Công Thương lên tiếng/trả lời về việc kê khai tài sản của Bà HTKT”

- Trạm, ga chuyển tiếp trở thành trạm, ga trung chuyển

- Trận đấu hay, đẹp mắt trở thành trận đấu kinh điển (giống như ở Hàn Lâm Viện vậy)

- Trao đổi, tiếp xúc trở thành giao lưu, hiệp thông (hình như là danh từ riêng của Thiên Chúa Giáo)

- Trẻ em/trẻ con bị bệnh biến thành bệnh nhi. Bệnh viện nhi đồng cũng biến thành bệnh nhi. Đúng là hỗn loạn, không còn ra thể thống gì nữa.

- Trích ngừa, chủng ngừa trở thành tiêm vaccine

- Trình bày quan điểm đối nghịch/ ý kiến đối nghịch, không đồng ý trở thành phản biện. Thật đao to búa lớn!

- Trồng cây trở thành trồng cây xanh. (tiếng Việt có thêm đuôi)

- Trục trặc/ trở ngại trở thành sự cố

- Trực thăng/máy bay săn tàu ngầm chỉ còn trực thăng/máy bay săn ngầm (cắt cụt tiếng Việt)

- Trung Học Chuyên Ngành/chuyên môn trở thành Trung Học Chuyên (cắt cụt tiếng Việt)

Trung Học Đệ I Cấp (Lớp 6 tới Lớp 9) trở thành Trung Học Cơ Sở. Tôi thật tình không hiểu tại sao trong nước dùng danh từ Cơ Sở cho các trường Trung Học Đệ I Cấp hay Trung Học Chuyển Tiếp mà người Mỹ gọi là Middle School hay Internediate School. Trước đây Miền Nam mô phỏng theo nền giáo dục của Pháp, phân chia trung học ra thành hai bậc gọi là: Trung Học Đệ I Cấp (Lớp 6-9) và Trung Học Đệ II Cấp (Lớp 10-12).

- Trung Quốc, Trung Hoa, Tàu, Hoa Lục trở thành China. Như vậy tại sao không nói nước USA hay nước France cho nó gọn?

- Trung Ương (T.Ư) viết tắt thành TW. Đúng là tiếng Việt quái đản!

- Truyền hình trở thành Tivi

Truyền hình đời sống thực (Reality TV.) biến thành Truyền hình thực tế. Dịch như vậy quá ngây ngô, thế mà cả nước không ai có ý kiến gì khác.

- Tự nhiên/thản nhiên trở thành vô tư. Cứ tự nhiên trở thành cứ vô tư đi (VOV Đài Tiếng Nói Việt Nam). Xin nhớ cho vô tư là không thiên vị. Còn vô tư lự là không lo nghĩ gì cả. Còn Thản nhiên là làm mà không cần để ý đến những người chung quanh, không cần biết đến luật pháp là gì. Ở Việt Nam bây giờ có báo là cứ viết, có đài phát thanh, truyền hình là cứ nói …không cần biết đúng sai và cũng không có ai đế mắt tới. Có lẽ cả nước chỉ lo kiếm tiền, ăn nhậu, vui chơi, giải trí, làm tình, bài bạc, xì ke ma túy, chuyển tiền ra ngoại quốc và ước mơ đi Mỹ…ngoài ra thì sống chết mặc bay.

- Tuổi vị thành niên trở thành tuổi teen. Tây đô hộ 100 năm mà tiếng Việt chưa mất gốc. Mỹ mới vào từ 1995 (bình thường hóa) mà tiếng Anh đang trở thành ngôn ngữ chính, giống như Phi Luật Tân. Còn tiếng mẹ đẻ đang trở thành ngôn ngữ phụ (second language). Nghẻo hèn quá cho nên bắt chước kẻ hùng mạnh cũng là niềm hãnh diện. Nếu có mắt nhìn ra hải ngoại phải biết xấu hổ vì lớp người sống xa Tổ Quốc một đại dương mênh mông lại mở các Trường Việt Ngữ để bảo tồn tiếng Việt cho con cháu trong khi ở trong nước lại hãnh diện vì lai căng, giống Mỹ.

V.

- Vào bệnh viện, vào nhà thương trở thành nhập viện (viện dưỡng lão, viện mồ côi, viện hàn lâm, viện tế bần… biết nhập viện nào đây? Tôi không hiểu sao một nước còn đói nghèo mà lại thích dùng chữ “đao to búa lớn” như thế.

- Vào các trang thông tin điện tử trở thành truy cập. “Truy” là “đuổi” như truy nã, truy kích, truy sát. Tại sao “vào” một trang thông tin điện tử để xem, để tìm hiểu, để lấy tin tức lại gọi là “đuổi theo”.

- Vẻ mặt biến thành ngoại diện. Thí dụ: “Bạn muốn có khuôn mặt/vẻ mặt giống con gái Tổng Thống Donald Trump” biến thành, “Bạn muốn có ngoại diện giống con gái Tổng thống Mỹ Donald Trump”. (VOA tiếng Việt). Đúng là dốt hay nói chữ. Rồi “có bộ mặt” biến thành “ngoại hình” (VOA tiếng Việt). Đúng là tiếng Việt truyền thống đã chết và được thay thế bằng tiếng Việt lai căng, bát nháo.

- Vi khuẩn, siêu vi trùng trở thành vi-rút

- Vĩ Cầm trở thành Violon.

- Việc trở thành công đoạn. Thí dụ: “Việc đầu tiên là mài dao với nước lạnh và đá mài.“ trở thành, “Công đoạn đầu tiên là mài dao với nước lạnh và đá mài.” Rồi “cỡ” như cỡ lớn, cỡ nhỏ trở thành “kích cỡ”. Tôi không hiểu tại sao trong nước thích dùng chữ cầu kỳ trong khi kêu gào “tiếng Việt trong sáng”.

- Viện bảo tàng, khu vực bảo tàng chỉ còn bảo tàng. Xin nhớ, viện bảo tàng là danh từ. Còn bảo tàng là động từ. Trong nước hiện có khuynh hướng “cắt cụt” tiếng Việt khiến nhiều danh từ trở nên vô nghĩa hoặc trùng với danh từ khác nhưng khác nghĩa. Thí dụ: Lệ phí chỉ còn phí, săn tàu ngầm chỉ còn săn ngầm, choáng váng chỉ còn choáng, bệnh viện chỉ còn viện. Nhưng một số lại thêm “cái đuôi” vào làm tiếng Việt trở nên dị hợm. Thí dụ: đóng tàu trở thành đóng mới, xây nhà trở thành xây mới, trồng cây trở thành trồng cây xanh.

- Vụ tai tiếng trở thành scandal

- Vượt mức quy định trở thành vượt ngưỡng. Vượt ngưỡng gì mới được chứ? Ngưỡng cửa chăng? Đúng là bạ gì viết nấy, không thèm ra cứu từ điển hay hỏi người lớn xem có đúng không.

X.

- Xa lộ trở thành đường cao tốc. Ở Mỹ này người ta phân biệt Xa Lộ (Freeway) và Đường Tốc Hành (Expressway). Xa Lộ xuyên bang hay xuyên thành phố chạy tới 80 dặm/giờ. Còn Đường Tốc Hành/Cao Tốc chỉ là đường nối hai đầu của một thành phố chạy với vận tốc tối đa 50 dặm/giờ.

- Xác định trở thành khẳng định. “Việt Nam khẳng định Đoàn Thị Hương là công dân VN”. BBC Việt ngữ và Việt Nam không phân biệt được thế nào là xác định, thế nào là khẳng định. Khi có sự tranh cãi, nếu thấy dữ kiện đúng thì mình khẳng định, nói dứt khoát là đúng. Còn xác định là xác nhận một sự kiện mà không có tranh luận. Khi đến gặp Cô Đoàn Thị Hương, tòa lãnh sự xác nhận cô đúng là công dân Việt Nam chứ không khẳng định vì không có sự tranh cãi về quốc tịch với các giới chức Mã Lai. Câu văn trên cho thấy trình độ Việt ngữ của BBC và trong nước quá kém. Trình độ của VOA khá hơn một chút khi dùng hai chữ “xác nhận”.

- Xây gấp, hoàn thành sớm biến thành đẩy nhanh tiến độ thi công. Sao dùng chữ dài lòng thòng và cầu kỳ quá vậy? Hãy so sánh hai câu: 1) “Công nhân đang cố gắng để sớm hoàn thành Cầu Cần Thơ.” 2) “Công nhân đang đẩy nhanh tiến độ thi công để sớm hoàn thành Cầu Cần Thơ.” Xem câu văn nào giản dị hơn?

- Xây thêm bốn căn nhà trở thành xây mới bốn căn hộ.

- Xe cộ trở thành phương tiện. Thí dụ: Cấm các phương tiện lưu thông ở một số tuyến đường. Rồi, “Phương tiện đổ về Thủ đô tăng đột biến trong ngày 4 Tết” (VnPlus) Thay vì nói, “Dòng xe cộ đổ về thủ đô tăng bất thường ngày Mùng 4 Tết”, hoặc “Cấm xe cộ lưu thông ở một số tuyến/đoạn đường”.

- Xe buýt: Việt Nam bây giờ không phân biệt được thế nào là xe chở học sinh, xe chuyên chở công cộng, mà đều gọi tất cả các loại xe này là xe buýt. Xe đang chạy trong thành phố phải mua vé đó là “xe chuyên chở công cộng”, còn xe chở học sinh là “xe đưa rước học sinh”.

- Xe hơi trở thành xe ô-tô.

- Xe gắn máy trở thành xe mô-tô

- Xe phế thải trở thành xe quá đát. (Báo Thanh Niên) Thật ngu dốt không thể tưởng tưởng tượng được. Quá hạn chỉ dùng cho thực phẩm, thuốc men. Còn xe cộ, máy bay, máy móc quá cũ không dùng nữa thì gọi là “phế thải”.

- Xe pick-up, xe chở hàng nhỏ trở thành xe bán tải. Xe thì chở ít hoặc chở nhiều, hoặc hạng nặng, hạng nhẹ sao lại là “bán” tức một nửa?

- Xe vận tải trở thành xe tải (cắt cụt tiếng Việt). Như vậy “liên đoàn/công đoàn vận tải trở thành “liên đoàn tải” và “ngành vận tải” trở thành “ngành tải”. Thật quái đản!

- Xe vận tải hạng nặng trở thành xe siêu trường siêu trọng, xe container

- Xuồng máy trở thành ca-nô

Chúng tôi còn tiếp tục cập nhật cho cuốn tự điển này thêm phong phú. Nhưng càng viết lại càng đau lòng. Tiếng Việt đổi đời, buồn ơi chào mi! Và buồn cho nhiều thế hệ mai sau.

Đào Văn Bình

(California ngày 21/4/2017)

Tự Điển Tiếng Việt Đổi Đời - 3





Đào Văn Bình

Muốn trừng trị, trừng phạt phải biết sai phạm ở chỗ nào biến thành “Xử lý phải có địa chỉ rõ ràng”. Đó là tiếng Việt điên khùng của ông Tiến Sĩ Nguyễn Viết Chức đăng trên VOV ngày 30/3/2017 (ĐVB)

H.

- Hải cảng trở thành cảng biển cũng giống như phi cảng trở thành cảng bay.

- Hạm đội trở thành đội tàu. Thí dụ: Hạm Đội 7 trở thành Đội Tàu Số 7

- Hầm trú ẩn trở thành Bunker/Boong- ke

- Hàng đầu, đứng đầu trở thành top. Chữ này thấy nhan nhản trên các diễn đàn ở hải ngoại.

- Hành động, chuyển động (move) trở thành động thái trong khi tử điển Việt Nam trước và sau 1975 không hề có hai chữ “động thái”. Đây là sự bịa đặt chữ nghĩa một cách bát nháo.

- Hành trình khám phá các vụ án trở thành hành trình phá án tức bác bỏ bản án của tòa dưới. Lên kế hoạch, lập kế hoạch truy bắt/truy nã hung thủ/bắt trọn ổ trở thành lên kế hoạch phá án.

- Hào hứng, hấp dẫn, sôi nổi (cuộc đua, trận đá bóng, trình diễn văn nghệ…) trở thành kịch tính. Rồi giá vàng lên xuống cũng “kịch tính”. Thậm chí vụ thảm sát tại tòa soạn báo hí họa Charlie Hebdo (Paris) cũng “đầy kịch tính”. Có lẽ phải cho ông nào sáng chế ra hai chữ “kịch tính” này vào bệnh viện tâm thần để chữa trị mới được.

- Hay đẹp trở thành kinh điển. Một trận đấu hay, đẹp trở thành một trận đấu kinh điển. Đau đầu quá!

- Hết hàng trở thành cháy hàng. Hết vé trở thành cháy vé. Hết phòng trở thành cháy phòng, trình diễn hết mình trở thành cháy hết mình. Hết săng trở thành cháy săng! Đúng là loại ngôn ngữ đường phố và bát nháo quá đỗi. Cả nước có mấy chục ngàn ông “Tiến Sĩ”, bao nhiêu viện ngôn ngữ, bao giải thưởng văn chương….mà không thấy ai lên tiếng về vấn đề này.

- Hiện ra (trên màn ảnh) trở thành hiển thị. Tôi không hiểu sao trong nước thích dùng tiếng Tàu, trong khi bao tiếng thuần Việt lại không dùng.

- Hiểu ngầm trở thành mặc định. Sao dùng chữ khó quá? Giới bình dân chịu sao thấu? Hơn thế nữa, từ điển Việt Nam trước và sau 1975, kể cả Hán- Việt Từ Điển của Đào Duy Anh cũng không có hai chữ “mặc định”.

- Hình ảnh lấy ra từ máy thu hình biến thành hình ảnh chiết xuất từ camera. Sao dùng chữ lai căng và khó khăn quá vậy? Hai chữ “chiết xuất” được dùng cho phòng thí nghiệm.

- Hình dáng trở thành ngoại hình. Có hình dáng đẹp trở thành Có ngoại hình đẹp. Hình như những người sáng chế ra những từ ngữ lạ lùng này không được đi học từ thuở nhỏ hoặc không hề đọc văn chương, sách truyện Việt Nam.

- Hỗ tương, qua lại, lẫn nhau trở thành tương tác. Thích dùng chữ cầu kỳ, khó khăn trong khi kiến thức chẳng bao nhiêu.

- Hồi đáp, trả lời trở thành phản hồi. Phản là quay ngược, hồi là lui lại, trả lại. Hai chữ này ghép với nhau không hề có nghĩa là trả lời hay hồi đáp mà chỉ là dùng chữ kiểu cọ, hoàn toàn vô nghĩa.

- Hợp chất, vật liệu tổng hợp/hỗn hợp trở thành composite

- Hợp tác, người hùn hạp, cùng đứng chung, cùng làm ăn buôn bán với mình (partner) trở thành đối tác (làm việc đối nghịch với mình) như đối phương, đối thủ, đối đầu, đối thoại, đối lập, đối kháng... Từ điển Việt Nam trước và sau 1975 đều không có hai chữ “đối tác”. Tự Điển Hán- Việt của Đào Duy Anh cũng không có hai chữ “đối tác”. Chỉ vì ngu dốt tiếng Việt cho nên đã dịch “partner” thành “đối tác”.

- Hư hỏng, xập xệ, đã cũ, không được như trước nữa trở thành xuống cấp. Thí dụ: Bộ ngực bà ta đã xệ, không còn căng nữa trở thành bộ ngực bà ta đã xuống cấp. (Nếu dùng hai chữ này trong các màn diễu cợt, chọc cười khán gỉa hoặc chuyện tiếu lâm thì được)

- Huy hiệu trở thành logo.

K.

- Kẹt xe trở thành ùn tắc, ách tắc.

- Kết hợp, tổng hợp biến thành tích hợp. Hai chữ tích hợp không có trong từ điển tiếng Việt của Miền Nam trước đây.

- Khách trở thành khách mời. Tức là có những vị khách không mời mà đến.

- Khoảng cách/ chiều dài /mức độ trở thành cự ly

- Khởi đầu, mở đầu, mở màn trở thành kích hoạt. “Triều Tiên kích hoạt chiến thuật đó bằng việc ra thông báo cấm tất cả người Malaysia…” (Báo VnExpress). Đúng là dốt hay nói chữ, bịa chữ trong khi tự điển Việt Nam không hề có hai chữ “kích hoạt”.

- Không khí lạnh sẽ tràn vào phía bắc biến thành không khí lạnh tăng cường giống như đổ thêm quân vào trận chiến. Các chữ “trời sẽ lạnh thêm” vừa dịu dàng, vừa dễ hiểu không chịu dùng mà lại thích “tăng cường”.

- Không thể tưởng tượng được (unimaginable) biến thành không tưởng (utopia). Trong nước tiếng Việt quá kém, không phân biệt được thế nào là không thể tưởng tượng được thế nào là không tưởng. Không thể tưởng tượng được là sự kiện đã xảy ra nhưng ngoài dự đoán, ước đoán của mình. Thí dụ: “Thật không thể tưởng tượng được Đức đã thắng Ba Tây 7- 1 trong trận bán kết 2004”. Còn không tưởng là không bao giờ xảy ra và sẽ không bao giờ xảy ra. Thí dụ: “Trung Quốc mơ chiếm hết Biển Đông, khống chế Á Châu rồi đánh gục Mỹ. Đúng là chuyện hão huyền, không tưởng.”

- Khu nghỉ mát/nghỉ dưỡng trở thành resort. Du lịch trở thành “đi tour”. Trong nước cũng như hải ngoại, một số lớn danh từ tiếng Việt sẽ chết để nhường chỗ cho tiếng Anh. Bố mẹ thích dùng tiếng Anh ba rọi như thế thì mở Trường Việt Ngữ để làm gì?

- Khu vực chăm sóc bệnh nhân nguy kịch/khu vực chăm sóc đặc biệt (critical care, intensive care) trở thành Khu vực chăm sóc tích cực. Chăm sóc bệnh nhân mà cũng có tiêu cực và tích cực nữa sao? Bệnh viện có biết bao nhiêu là bác sĩ mà không có tới một ông có thể dịch “critical care” ra tiếng Việt? Rồi Bộ Y Tề để làm gì ? Sao không dịch tất cả các thuật ngữ Y Khoa từ tiếng Anh ra tiếng Việt để phổ biến cho tất cá các bệnh viện trong nước? Thật đáng buồn. Trong nước có một “bệnh dịch” là đua nhau tặng hoa và chụp hình để trình diễn, trong khi tình trạng tồi tệ thì phớt lờ rồi báo cáo láo để lừa dối cấp trên và dân chúng.

- Khu vực đi bộ trở thành không gian đi bộ. Không gian ở ngoài trái đất làm sao có thể đi bộ ở đó được. Nhưng khu vực đi bộ đó chúng ta có thể tạo một không khí yên tĩnh hay một môi trường thoải mái, tươi mát cho người đi bộ. Nhà bếp chật hẹp trở thành “không gian nấu ăn chật hẹp” (Đài Tiếng Nói Việt Nam).

Đúng là tiếng Việt điên khùng! Từ xưa đến giờ người ta nói, “Tạo một khung cảnh/ một bầu không khí ấm cúng cho gia đình” chứ người ta không nói. “Tạo một không gian ấm cúng cho gia đình”. Người nào dùng hai chữ “không gian” ở đây tức là không được cắp sách đến trường, không đọc sách vở của tổ tiên.

- Kích thích (kinh tế, tiêu thụ) trở thành kích cầu trong khi trong tự điểnViệt Nam hoàn toàn không có hai chữ kích cầu mà chỉ có: kích thích, kích hỏa, kích động như kích động nhạc.

- Kiểm soát không lưu trở thành quản lý bay

- Kỹ nghệ trở thành công nghiệp/công nghệ. Xin nhớ công nghệ là kỹ nghệ chế tạo máy móc. Còn kỹ nghệ là chế tác, sản xuất lớn theo khoa học. Chẳng hạn kỹ nghệ sản xuất rượu bia, kỹ nghệ gái điếm, kỹ nghệ sản xuất xe hơi…. Miền Nam trước đây có Trường Kỹ Sư Công Nghệ để đào tạo kỹ sư chế tạo máy móc.

L.

- Lạ lùng trở thành ngỡ ngàng. Thí dụ: Đẹp lạ lùng trở thành đẹp ngỡ ngàng. Người viết văn như thế này chắc chắn chưa được cắp sách đến trường. Ngỡ ngàng là tình cảm không ưng ý hay trái với dự đoán của minh. Thí du: 1) Sau 25 năm từ Mỹ trở về tôi thật ngỡ ngàng khi thấy cô nữ sinh khả ái năm xưa nay trở thành một bà già tiều tụy. 2) Tôi thật ngỡ ngàng khi cô ta nói cô ta là hoa hậu nhưng mở miệng nói ra toàn chuyện thô tục. (Vì tôi cứ ngỡ cô ta là hoa hậu thì phải ăn nói lịch sự)

- Lạc tay lái, lạc bánh lái trở thành mất lái, mất phanh

- Làm cho vững chắc thêm (bằng cách đóng thêm cột, thêm ván, đắp thêm đất..,) trở thành gia cố chẳng hạn “gia cố các bờ kè”, “gia cố các thuyền” sao dùng chữ khó khăn và lạ hoắc như vậy? Chắc phiên dịch từ tiếng Tàu có từ thời Cách Mạng Văn Hóa của Mao Trạch Đông. Trong tự điển Hán- Việt của Đào Duy Anh không có hai chữ “gia cố”.

- Làm điếm trở thành làm gái. Như vậy làm trai là làm đĩ đực chăng? Nếu nói “làm gái” để chỉ gái điếm thì chúng ta phải hiểu câu nói này như thế nào, “Làm gái thì phải biết công- dung- ngôn- hạnh.”

- Làm điệu, làm dáng, điệu bộ trước ống kính trở thành tạo dáng, thả dáng. Những hình ảnh làm điệu, làm bộ, làm dáng này lan tràn các báo điện tử lớn như VOV, VnExpress, VietnamPlus, Thanh Niên, Tiền Phong… đều là những quảng cáo trá hình cho các cô người mẫu, ca sĩ để kiếm tiền. Đúng là một nền báo chí rẻ tiền.

- Làm hồ sơ giả (để lấy tiền) trở thành chi khống, làm hồ sơ khống.

- Làm việc trở thành thi công. Công nhân đang làm việc trở thành công nhân đang thi công. Tại sao công nhân phải thi đua với nhau? Trên thế giới này làm gì có chuyện đó. Công nhân làm hết giờ thì nghỉ hay về nhà. Nếu làm thêm (overtime) thì phải trả theo giờ phụ trội, gấp đôi. Điên khùng hay sao mà thi đua?

- Lạnh buốt, lạnh cắt da trở thành rét đậm rét hại, giống như một bà nhà quê nói tiếng Việt vậy.

- Lề thói, thói quen, cách thức, cố tật… trở thành văn hóa. Thí dụ: Văn hóa đái bậy ỉa bậy, văn hóa nhận phong bì của bác sĩ, văn hóa du côn, văn hóa tham nhũng, văn hóa chửi thề, văn hóa nói dối, văn hóa ẩm thực, văn hóa xấu hổ, văn hóa khinh bỉ…trong khi văn hóa là cái gì tốt đẹp nhất biểu tượng của một dân tộc.

- Lệ phí, phí tổn cắt cụt chỉ còn phí như thu phí qua cầu. Thậm bán vé xe buýt (xe chuyên chở công cộng) cũng gọi là thu phí. Đúng là ngôn ngữ điên khùng. Từ ngàn xưa đến giờ người ta nói: sở phí, học phí, lệ phí, kinh phí, chi phí, chiến phí…nề nếp đâu vào đó. Nay phá nát tiếng Việt.

- Lịch trình cắt cụt chỉ còn lịch. “Lịch thi Trung học Phổ thông quốc gia năm 2017” (VietnamPlus). Lịch là cuốn sách ghi ngày tháng của một năm. Lịch trình là thời biểu ghi rõ ngày nào làm cái gì giống như thời khóa biểu. Hai chữ này không thể thay thế cho nhau.

- Liên lạc trở thành liên hệ. Liên lạc là dùng thư từ, điện thoại, điện thư để liên lạc, có thể là thăm hỏi, lấy tin, làm ăn, buôn bán. Còn liên hệ là có một mối giao tình, hợp tác, dính líu với nhau. Do đó người ta nói “mối liên hệ vợ chồng” chứ không ai nói, “Mối liên lạc vợ chồng”.

- Lò lửa trở thành chảo lửa. Thí dụ: Chảo lửa Trung Đông. Xin nhớ cho lò lửa khác chảo lửa Hơn thế nữa không ai nói chảo lửa mà chỉ nói chảo dầu. Trên thế giới này làm gì có chảo lửa? Chỉ có chảo dầu thôi.BBC Việt ngữ thích dùng lại tiếng Việt bát nháo này.

- Lõa thể, cởi truồng trở thành nude

- Lợi dụng/nhân cơ hội trở thành tranh thủ. Thí dụ:”Nhân cơ hội mỗi năm có một tháng nghỉ phép...” trở thành “Tranh thủ mỗi năm có một tháng nghỉ phép…” Tranh thủ ở trong nước còn có nghĩa là “cố gắng” chẳng hạn như “ Làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm”.

- Lợi tức trở thành thu nhập. Thuế lợi tức trở thành thuế thu nhập trong khi theo Từ Điển Việt Nam trong nước “thu nhập” là động từ chỉ việc thu nhận tiền bạc chứ tự thân “thu nhập” không phải số tiền kiếm được do buôn bán hay do lương bổng. Tôi xin bà con ở ngoại ngoại đừng dùng hai chữ “thu nhập” nữa vì nó không phải là “lợi tức” (income).

M.

- Mánh lới, thủ đoạn trở thành chiêu trò. Thí dụ: “Chiêu trò rút tiền của bà Sáu Phấn” (Báo Thanh Niên). Đây là ngôn ngữ của bọn buôn lậu, mánh mung.

- Mặt chưa trang điểm trở thành mặt mộc

- Máy bay riêng, máy bay đặc biệt (của tổng thống chẳng hạn) trở thành chuyên cơ tức máy móc đặc biệt.

- Máy điện tử trở thảnh điện toán (Tôi có máy điện tử từ năm 1995 nhưng có bao giờ tính toán hoặc làm toán trên máy điện tử đâu.)

- Máy hình, máy thu hình trở thành camera. Thí dụ: Gắn camera xử phạt vi phạm dọc trục buýt BRT (Báo An Ninh Thủ Đô). Câu văn vừa lai căng vừa lủng củng. Câu văn không lai căng và gẫy gọn sẽ là: “Gắn máy thu hình phạt vi phạm dọc theo tuyến xe chuyên chở công cộng BRT”

- Máy tự chụp hình trở thành chụp hình tự sướng, thật thô tục quá đỗi!

- Metro! (Metro Bà Quẹo, Metro Bình Phú) Cả nước không biết dịch metro là “xe điện ngầm” cho nên các trạm xe điện ngầm đều trương bảng “metro”. Tinh thần nô lệ như thế mà đòi độc lập tự chủ.

- Minh họa (illustrated) được dùng loạn xạ. Trong nước không hiểu hai chữ “minh họa” là gì. Minh họa có nghĩa là vẽ ra, chẳng hạn như truyện bằng tranh, hình bìa và một số trang trong một cuốn truyện do một họa sĩ vẽ , người Mỹ gọi là “illustrated”. Còn nếu là bức ảnh thì nhà xuất bản sẽ ghi chú “photograph by…” tức “hình của”. Ngày nay, tất cả những tấm hình đi kèm với một bải viết nào đó mà không ăn nhập chi với đề tài, mà chỉ lấy một hình tượng trưng - đều được ghi chú là “minh họa”. Đúng là điếc không sợ súng! Chẳng hạn bài viết có đề tài “Đánh Ghen” mà không có một bức họa/tranh nào về đánh ghen cả, tác giả có thể lấy một bức hình hai người đàn bà đang túm tóc nhau, nhưng không được ghi chú “hình ảnh minh họa” mà có thể ghi, ”Đây là hình đánh ghen được đăng trên báo ABC” hoặc “Đây là hình ảnh tượng trưng các bà đánh ghen”.

- Môi giới, dắt mối trở thành cò. Tại bệnh viện cũng có “cò” để môi giới với y tá, bác sĩ chữa bệnh cho đàng hoàng, nếu không cho mày ra nghĩa địa. Nhiều báo còn dùng hai chữ “cò mồi”. Cò mồi là cùng băng đảng nhưng đóng giả để lường gạt người ta, hoàn toàn khác với môi giới, dắt mối để kiếm tiền.

- Mới sinh được tám tháng trở thành tám tháng tuổi. Cây đa cổ thụ 100 năm trở thành Cây đa cổ thụ 100 năm tuổi. (Bắt chước tiếng Anh thêm chữ old vào)

- Món hàng bán được giá, có giá trị trở thành “giá trị kinh tế cao”. Thích dùng chữ khó khăn.

- Một con hổ trở thành một cá thể hổ

- Một con khỉ Voọc trở thành một cá thể Voọc

- Một con bò, 1300 con bò trở thành “1300 cá thể bò nhập khẩu từ Mỹ” (Báo Tiền Phong). Cứ cái điệu viết văn nhảm nhí như thế này, trong tương lai gần sẽ là: Mẹ tôi đi chợ mua một cá thể gà. Đám cưới rất lớn có tới chục cá thể heo quay. Chục cá thể lợn xổng chuồng làm tôi đuổi hết hơi. Bán cho tôi một cá thể ngựa. Mạo tự “con” để chỉ các con vật, đồ vật như : Con chó, con mèo, con chim, con cá, con trâu, con bò, con dao, con quay, con thoi, con cúi, con diều…rồi sẽ chết trong ngôn ngữ Việt Nam. Người nào dùng hai chữ “cá thể” ở đây chắc chắn không được cắp sách đến trường. Cá thể là đơn lẻ khác với tập thể. Thí dụ: Làm ăn cá thể. Nó không phải là mạo tự để chỉ các con vật, đồ vật.

- Một số hình ảnh, một loạt hình ảnh trở thành chùm ảnh (giống như chùm khế ngọt). Một số bài thơ trở thành chùm thơ. Nếu vậy một mớ sách vở sẽ trở thành một chùm sách vở!

- Mũ/nón an toàn trở thành mũ/nón bảo hiểm. (Bảo hiểm là bỏ tiền ra để nhờ một công ty trả tiền mình trong trường hợp có tai nạn, nhà cháy, hàng hóa hư hỏng v.v..)

- Mức nợ tối đa trở thành nợ trần giống như nợ trần gian, nợ đời. Chữ “ceiling” của Mỹ nghĩa bóng ở đây có nghĩa là chạm mức tối đa chứ không phải trần nhà. Bất cứ ở quốc gia nào, một danh từ đều có nghĩa đen và nghĩa bóng. Thí dụ: Hot issues không phải là “những đề tài nóng” mà là những vấn đề được bàn cãi sôi nổi thường xuất hiện trong những cuộc bầu cử, sau bầu cử thì lại ”chìm xuồng”.

- Muốn trừng trị, trừng phạt phải biết sai phạm ở chỗ nào biến thành “Xử lý phải có địa chỉ rõ ràng”. Đó là tiếng Việt điên khùng của ông Tiến Sĩ Nguyễn Viết Chức đăng trên VOV ngày 30/3/2017.

(Còn tiếp)