" Cả cuộc đời ba không có gì để lại cho các con ngoài số vốn kiến thức mà ba mẹ tảo tần nuôi các con ăn học.Mong các con trở thành những người hữu ích cho xã hội" ( trích từ TT "Vững Niềm Tin")
Thứ Năm, 8 tháng 12, 2016
Cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa tự do

Nguồn: Ross Douthat, “The Crisis for Liberalism,” The New York Times, 19/11/2016.
Biên dịch: Ngô Việt Nguyên | Biên tập: Nguyễn Huy Hoàng
Chiến dịch tranh cử tổng thống Mỹ năm 2016 là một cuộc khủng hoảng đối với chủ nghĩa bảo thủ; hậu quả của nó là một khủng hoảng của chủ nghĩa tự do. Cánh hữu, bất ngờ giành được quyền lực, đang tạm dừng nhìn lại mình trong lúc chờ xem chủ nghĩa Trump có ý nghĩa như thế nào trên thực tế. Cánh tả, bất ngờ mất đi quyền lực, không còn lựa chọn nào khác ngoài việc bắt đầu tranh luận họ đã mất phương hướng như thế nào.
Rất nhiều lập luận đó đã xoay quanh khái niệm “chính trị bản sắc,” được dùng để tóm gọn tầm nhìn về chủ nghĩa tự do chính trị như một liên minh của các nhóm khác nhau – người đồng tính, da đen, gốc Á, gốc Tây Ban Nha, phụ nữ, người Do Thái, người Hồi giáo, v.v. – gắn kết với nhau trong một cuộc chiến chung chống lại bá quyền mục nát của người Mỹ Cơ Đốc giáo da trắng.
Tầm nhìn này đã có một sức hấp dẫn dễ nhận thấy trong kỷ nguyên Obama, khi nó giành được Nhà Trắng hai lần và dường như hứa hẹn giành được đa số chính trị lâu dài trong tương lai. Và chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2016 đáng lẽ phải củng cố lời hứa đó, vì nó là cuộc đối đầu giữa liên minh đa dạng của chủ nghĩa tự do với tầm nhìn rõ ràng phản động của Donald Trump.
Nhưng thay vào đó, năm 2016 lại phơi bày hai điểm yếu của chủ nghĩa tự do: người da trắng theo đuổi một nền chính trị bản sắc của riêng mình, và phụ nữ và các nhóm thiểu số không sợ Trump như mà đa số nhà tự do chủ nghĩa dự đoán, và không thống nhất bầu cho Hillary.
Vì thế, giờ đây chủ nghĩa tự do bản sắc phải hứng chịu chỉ trích từ hai hướng. Từ trung tả, nó bị phê phán là một thế lực phi tự do và gây phân rã, đẩy những người da trắng, có thiên hướng tình dục đúng với sinh học, và dị tính luyến ái có thiện chí sang cánh hữu và ngăn cản chủ nghĩa tự do nói ngôn ngữ của giá trị chung. Từ cánh tả, nó bị phê phán là một biểu hiện của đặc quyền giai cấp, ít quan tâm đến công bằng kinh tế miễn là người Hồi giáo dòng Sufi đồng tính da đen được góp mặt trong show truyền hình siêu anh hùng mới nhất trên Netflix.
Cả hai phê phán này đều có những điểm có lý. Nhưng tôi không chắc chúng nắm bắt được đầy đủ sức kéo của một nền chính trị bản sắc, nguồn năng lượng đưa nó lên trên những tầm nhìn dựa trên giai cấp và mang tính hình thức về chủ nghĩa tự do.
Đúng là nền chính trị bản sắc thường phi tự do, cả trong việc chú trọng vào những trải nghiệm nhóm hơn là chủ nghĩa cá nhân, lẫn trong mạng lưới của những điều tuyệt đối về đạo đức –những từ cấm kỵ, những người phát ngôn linh thiêng, những tranh luận bị cấm đoán – mà nó tìm cách giăng lên diễn ngôn của chủ nghĩa tự do cánh tả. Đúng là nó cũng đề cao siêu hình hơn vật chất, đề cao sự công nhận hơn sự tái phân phối.
Nhưng các xã hội tự do luôn phụ thuộc vào nền tảng phi tự do hoặc “tiền tự do” (pre-liberal) để đáp ứng những nhu cầu đa dạng của con người – ý nghĩa, sự thân thuộc (trong một cộng đồng), một chiều dọc về cuộc sống con người, một hy vọng về sự bất tử – mà cả John Stuart Mill lẫn Karl Marx đều không giải quyết thỏa đáng.
Trong lịch sử nước Mỹ, nền tảng đó có nhiều hình thức: Những mối quan hệ của đời sống gia đình, quyền lực của tôn giáo (thường là Tin Lành), một chủ nghĩa yêu nước cuồng nhiệt, và một nền văn hóa Anglo-Saxon mà người nhập cư được kỳ vọng là phải đồng hóa theo.
Mỗi nền tảng trong số này thường thể hiện những điều tệ hại của chủ nghĩa phi tự do: bất khoan dung tôn giáo, phân biệt chủng tộc và chủ nghĩa sô vanh, sự đàn áp quyền lực cá nhân và gia đình. Nhưng chúng cũng cung cấp những nền tảng chung về đạo đức, văn hóa và siêu hình mà các nhà cải cách chính trị – những người theo chủ nghĩa bãi nô, những người truyền bá phong trào Tin mừng xã hội (Social Gospellers), những người theo Chính sách Kinh tế mới (New Dealers), những người đấu tranh cho dân quyền – dựa vào để mở rộng hứa hẹn của chủ nghĩa tự do.
Ngược lại, phần lớn nền chính trị cánh tả sau thập niên 1960 là một thử nghiệm trong việc cắt đứt các xã hội phương Tây khỏi những nền tảng đó, như lời bài “Imagine” (Tưởng tượng) của John Lennon. Không thiên đường hay tôn giáo, không quốc gia hay biên giới hay lòng trung thành địa phương dưới bất kỳ hình thức nào – đây thường là những giá trị của phe trung tả và cực tả, của các nhà tân tự do vốn mong quản lý nền kinh tế tư bản toàn cầu, và của các nhà tân Marxist vốn mong vượt qua.
Không may là những giá trị của “Imagine” đơn thuần là không đáp ứng đủ những nhu cầu của đời sống con người. Con người có một ước vọng đoàn kết mà chủ nghĩa thế giới không thể thỏa mãn, những lợi ích phi vật chất mà sự tái phân phối không thể đáp ứng, và sự khao khát những điều linh thiêng mà chủ nghĩa thế tục không thể trả lời.
Vì thế, khi tôn giáo hao mòn, gia đình suy yếu, và lòng yêu nước phai nhạt, các hình thức nhóm bản sắc khác chắc chắn sẽ tự khẳng định mình. Không phải ngẫu nhiên mà nền chính trị bản sắc đặc biệt mạnh mẽ ở các trường đại học ưu tú, những thể chế hậu tôn giáo và hậu dân tộc chủ nghĩa tự ý thức nhất; cũng không phải ngẫu nhiên mà những làn sóng gần đây của các cuộc biểu tình ở các trường đại học và hoạt động xã hội và đạo đức hóa tình dục thường xuyên gợi nhớ về phong trào tái thức tỉnh tôn giáo. Sinh viên đại học hiện nay sống trọn vẹn nhất trong xã hội không tưởng kiểu Lennon mà chủ nghĩa tự do hậu thập niên 1960 tìm cách xây dựng, nhưng thường thấy nó không thoải mái: Người sinh viên ấy muốn có cảm giác thuộc về một cộng đồng, một nền tảng đạo đức cá nhân, và một tiêu chuẩn về công lý cao hơn tiêu chuẩn mà một nền chính trị cả hình thức đơn thuần lẫn vật chất tuyệt đối cung cấp.
Vì vậy, với chủ nghĩa tự do ngày nay, vốn phải đối mặt với một chủ nghĩa dân tộc cánh hữu và những mâu thuẫn nội bộ của chính mình, việc giải quyết những yếu kém chính trị của chính trị bản sắc bằng cách trở nên dân túy và bớt đúng đắn chính trị hơn có thể sẽ không đủ. Cả hai điều này sẽ là những thay đổi đáng muốn, nhưng chúng vẫn không thể đáp ứng được nhiều nhu cầu của con người. Với những nhu cầu đó, một tầm nhìn sâu sắc hơn chủ nghĩa tự do đơn thuần vẫn là cần thiết – một cái gì đó như “vì Chúa và gia đình và đất nước,” dù nghe có phản động.
Nó phản động, nhưng nó chính là những điều nền tảng, lâu đời hơn mà chủ nghĩa tự do ngày nay đã đánh mất. Cho đến khi tìm lại được chúng, nó sẽ phải đối mặt sự phân lập trong nội bộ liên minh của mình cũng như chủ nghĩa Trump từ bên ngoài, và nó sẽ đấu tranh để chế ngự cả hai.
Ross Douthat, cây viết xã luận của The New York Times, là tác giả cuốn Bad Religion: How We Became a Nation of Heretics (New York: Free Press, 2012)
- See more at: http://nghiencuuquocte.org/2016/12/09/cuoc-khung-hoang-cua-chu-nghia-tu/#sthash.EX1JWkob.dpuf
Thứ Ba, 6 tháng 12, 2016
Trump sẽ làm chấm dứt quyền lực mềm của nước Mỹ?

Nguồn: Shashi Tharoor, “The End of US Soft Power?” Project Syndicate, 11/11/2016.
Biên dịch: Phạm Thị Thoa | Hiệu đính: Nguyễn Huy Hoàng
Chắc chắn, một nạn nhân lớn của việc Donald Trump đắc cử tổng thống Mỹ là quyền lực mềm của Mỹ trên toàn thế giới. Đây là một diễn biến khó – thậm chí có lẽ không thể – đảo ngược, đặc biệt là đối với Trump.
Thông thường, quyền lực chính trị toàn cầu của các nước được đánh giá bằng sức mạnh quân sự: nước nào có quân đội lớn nhất thì có quyền lực lớn nhất. Nhưng logic này không luôn đúng trong thực tế. Mỹ đã thua trong Chiến tranh Việt Nam; Liên Xô thì bị đánh bại ở Afghanistan. Trong những năm đầu ở Iraq, Mỹ đã nhận ra sự thông thái trong câu nói của Talleyrand (thủ tướng đầu tiên của Pháp dưới triều vua Louis XVIII) rằng một điều mà ta không thể làm với lưỡi lê là ngồi lên nó.
Sau đó quyền lực mềm xuất hiện. Thuật ngữ này được giáo sư Joseph S. Nye tại Đại học Harvard đặt ra năm 1990 để lý giải sức ảnh hưởng mà một quốc gia – và cụ thể là Mỹ – giành được, bên ngoài sức mạnh quân đội (hay quyền lực “cứng”). Theo Nye, quyền lực của một đất nước nằm ở “khả năng thay đổi hành vi của các nước khác” để đạt được mục tiêu mà nó muốn, thông qua ép buộc (cây gậy), mua chuộc (củ cà rốt), hoặc thu hút (quyền lực mềm). Ông chỉ ra rằng “nếu có khả năng thu hút người khác, ta có thể tiết kiệm những cây gậy và củ cà rốt.”
Nye lập luận rằng quyền lực mềm của một quốc gia bắt nguồn từ “văn hóa (ở những điểm thu hút các nước khác), các giá trị chính trị (khi quốc gia đó đáp ứng được chúng ở trong nước và quốc tế), và các chính sách đối ngoại (khi chúng được coi là có tính chính danh và có thẩm quyền đạo đức). Nhưng tôi tin rằng quyền lực mềm của mỗi quốc gia cũng được tạo ra từ nhận thức của thế giới về bản chất của đất nước đó: những liên tưởng và thái độ gợi lên khi tên của một đất nước được nhắc đến. Quyền lực cứng được thi hành, còn quyền lực mềm thì được khơi gợi.
Mỹ là nền kinh tế lớn nhất và nền dân chủ lâu đời nhất trên thế giới, một nơi trú ẩn cho người di cư, và là mảnh đất của Giấc mơ Mỹ – hứa hẹn rằng mọi người có thể đều thành công nếu họ làm việc đủ chăm chỉ. Đây cũng là quê hương của Boeing và Intel, Google và Apple, Microsoft và MTV, Holywood và Disneyland, McDonald’s và Starbucks – nói ngắn gọn, một số thương hiệu và ngành công nghiệp dễ nhận biết và có sức ảnh hưởng lớn nhất trên thế giới.
Sức cuốn hút của các tài sản này, và của lối sống Mỹ mà chúng đại diện, đã cho phép nước Mỹ thuyết phục, thay vì bắt ép, những nước khác thông qua chương trình trình nghị sự của mình. Trong ý nghĩa này, quyền lực mềm đóng vai trò vừa thay thế vừa bổ sung cho quyền lực cứng.
Tuy nhiên, cũng có những hạn chế đối với quyền lực mềm của mỗi quốc gia – kể cả của Mỹ. Sau các cuộc khủng bố ngày 11 tháng 9, đã có một làn sóng thiện chí hướng về Mỹ. Rồi nước này phát động cuộc chiến chống khủng bố, dựa nhiều vào sức mạnh cứng. Các công cụ của sức mạnh này – xâm lược Iraq, giam giữ vô thời hạn “các chiến binh thù địch” và các nghi phạm khác tại nhà tù Guantanamo, vụ bê bối nhà tù Abu Ghraib, các “khu vực đen” của CIA bị tiết lộ, các nhà thầu an ninh tư nhân Mỹ giết hại dân thường Iraq – không còn được công chúng toàn cầu đón nhận.
Các tài sản quyền lực mềm của Mỹ vẫn chưa đủ để bù đắp cho những khiếm khuyết của cách tiếp cận sức mạnh cứng của đất nước này. Những người say mê văn hóa Mỹ không sẵn sàng bỏ qua những hành động vượt quá giới hạn ở Guantanamo. Hệ điều hành Windows của Microsoft không khiến người sử dụng chấp nhận những cuộc tra tấn tiến hành bởi quốc gia phát triển ra nó. Quyền lực mềm của Mỹ đã tụt dốc nhanh chóng, cho thấy cách một quốc gia sử dụng sức mạnh cứng ảnh hưởng như thế nào đến năng lực gây dựng quyền lực mềm của quốc gia đó.
Tình hình trong nước đã nhanh chóng giúp Mỹ vượt qua những bước thụt lùi của chính sách đối ngoại, một phần nhờ vào sự kết nối chưa từng có ngày nay. Trong một thế giới của truyền thông đại chúng trực tuyến, các quốc gia sẽ được đánh giá bởi công chúng toàn cầu vốn bị nhồi nhét không ngừng các tin tức trực tuyến, các video trên smartphone, các tin đồn trên Twitter.
Trong một thời đại công nghệ như vậy, Nye viết, có ba kiểu quốc gia có khả năng giành được quyền lực mềm: “những nước có văn hóa và lý tưởng chủ đạo gần với những chuẩn mực quốc tế thịnh hành (nay nhấn mạnh vào chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa đa nguyên, tự chủ); những nước có nhiều khả năng tiếp cận nhất đến nhiều kênh truyền thông và do đó có nhiều ảnh hưởng hơn lên cách định hình các sự kiện; và những nước có uy tín được củng cố bởi những thành tích trong nước và quốc tế.” Mỹ đã làm khá tốt ở tất cả các mặt này.
Quả thật, văn hóa và các lý tưởng Mỹ đã đặt ra tiêu chuẩn cho các nước khác, và uy tín quốc tế của Mỹ dựa trên những dàn xếp nội bộ của nước này. Vượt qua di sản của chế độ nô lệ và phân biệt chủng tộc kéo dài hàng thế kỷ để bầu lên một vị tổng thống da màu vào năm 2008 và một lần nữa vào 2012, Mỹ dường như đã chứng tỏ khả năng tái tạo và làm mới bản thân của mình.
Việc Trump lên nắm quyền đã phá vỡ hình ảnh này. Nó phơi bày và khuyến khích những xu hướng mà thế giới chưa bao giờ gắn với nước Mỹ: bài ngoại, thù ghét phụ nữ, chủ nghĩa bi quan, và ích kỷ. Một hệ thống hứa hẹn một sân chơi bình đẳng mà ở đó ai cũng có thể đạt được khát vọng của mình đang bị chính các nhà lãnh đạo của nó chỉ trích là đang đè nặng lên những công dân bình thường. Một quốc gia tự tin khuyên bảo các nước khác thực hành dân chủ lại bầu lên một vị tổng thổng đã tuyên bố có thể sẽ không công nhận kết quả nếu ông thất cử.
Nye đã lập luận rằng, trong thời đại thông tin, quyền lực mềm thường được tích lũy ở quốc gia nào có câu chuyện hay hơn. Mỹ từ lâu đã là “vùng đất của những câu chuyện hay hơn.” Nó có một nền báo chí tự do và một xã hội mở; nó chào đón người di cư và người tị nạn; nó khao khát những ý tưởng mới và có sở trường sáng tạo. Tất cả những yếu tố này đã cho Mỹ khả năng vượt trội để viết ra những câu chuyện thuyết phục và hấp dẫn hơn câu chuyện của các đối thủ.
Nhưng câu chuyện về nước Mỹ được kể trong cuộc bầu cử này đã làm suy giảm sâu sắc quyền lực mềm mà Mỹ gợi lên. Sợ hãi đè bẹp hy vọng. Giấc mơ Mỹ biến thành ác mộng của thế giới. Và những ác ma thoát ra từ chiếc hộp Pandora năm 2016 – vang vọng trong những báo cáo trên diện rộng về lời lẽ phân biệt chủng tộc của những người ủng hộ Trump đối với những người da màu ở nước Mỹ – sẽ tiếp tục tự tung tự tác trong nhận thức về mình của đất nước, cũng như làm hoen ố nhận thức của tất cả những người khác. Trong mắt chúng ta, nước Mỹ sẽ không bao giờ trở lại như trước – và nhiệm kỳ của Trump thậm chí còn chưa bắt đầu.
Shashi Tharoor, cựu Phó Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, cựu Quốc vụ khanh về Phát triển Nguồn nhân lực và Quốc vụ khanh về Ngoại vụ của Ấn Độ, hiện là Nghị sĩ Đảng Quốc đại Ấn Độ và Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về Đối ngoại. Ông là tác giả cuốn Pax Indica: India and the World of the 21st Century.
- See more at: http://nghiencuuquocte.org/2016/12/07/trump-se-lam-cham-dut-quyen-luc-mem-cua-nuoc/#sthash.JB2kD8G9.dpuf
Phán tăng đồ 判僧徒
Thơ » Việt Nam » Lý » Đàm Dĩ Mông
判僧徒
方今僧徒頗與夫相半。自結伴侶,妄立師資,聚類群居,多為穢行。或於戒場精舍公行酒肉,或於禪房凈院私自奸淫。晝伏夜行,有如狐鼠。
敗俗傷教,漸漸成風。此而不禁,久必滋甚。
Phán tăng đồ
Phương kim tăng đồ phả dữ dịch phu tương bán. Từ kế bạn lữ, vọng lập sư tư, tụ loại quần cư, đa vi uế hành. Hoặc ư giới trường tinh xá công hành tửu nhục, hoặc ư thiền phòng tịnh viện tư tự gian dâm. Trú phục dạ hành, hữu như hồ thử.
Bại tục thương giáo, tiệm tiệm thành phong. Thử nhi bất cấm, cửu tất tư thậm.
Trong Việt sử lược còn ghi lại một lời tâu này của ông với vua Lý Cao Tông về việc hạn chế nhà chùa và bắt các sư sãi hoàn tục. Lời tâu này giúp hiểu thêm về những cuộc đấu tranh tư tưởng giữa Phật và Nho trong giai đoạn này.
Nguồn: Thơ văn Lý Trần, NXB Khoa học xã hội, 1977
Bản dịch của Phạm Tú Châu
Hiện nay, số sư sãi đã gần ngang với số phu dịch. Tự kết bè lũ, lập càn thủ lĩnh, tụ họp thành bầy, làm nhiều việc xấu. Hoặc ở nơi giới trường, tinh xá mà công nhiên rượu thịt; hoặc ở chốn tăng phòng, tịnh viện mà tiêng tự gian dâm. Ngày ẩn tối ra, như phường cào chuột.
Bại hoại phong tục, phương hại giáo lý, dần dần đã thành thói quen. Nay không cấm đi, lâu ngày càng tệ.
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chủ Nhật, 4 tháng 12, 2016
MÓN QUÀ CỦA THƯỢNG ĐẾ
Bóng tối há miệng sổ sàng
thả mù sương bàng bạc
tội lỗi nhởn nhơ bước ra
từ da thịt đàn bà
mùi rơm rạ giục giã
khát thèm
ảo giác
thôi thúc đặt môi hôn
chảy tràn lừa lọc
loài côn trùng rên rỉ
thỏa mãn
cuộc truy hoan
cô độc
Mặt trời bật khóc
rơi những bông hoa tuyết rạng ngời
trên đôi môi người thiếu phụ
đỏ ửng
hừng đông
nụ cười tinh khiết
niềm tin
ấm áp
hương tình tỏa lan
dịu dàng
gọi mời hôn phối
đơn côi
Ông già noel hứng khởi tặng quà
cho những đứa trẻ mới vừa sinh ra
Văn chương thiếu tính chuyên nghiệ
Lê Hoài Nam
(Tham luận tại Hội nghị nhà văn khu vực phía Bắc, tháng 10 năm 2008)
Khoảng dăm bảy năm trở lại đây, trên các bãi cỏ lăn cỏ lác hoang vu hai bên bờ con sông Ninh Cơ quê tôi, tự dưng mọc lên những cơ sở đóng tàu sông biển, mật độ ngày càng dầy, tính đến cuối năm 2007 đã có tới 40 cơ sở, xí nghiệp. Vào buổi tối nọ, một vị lãnh đạo tỉnh kéo tôi lên mảnh sân thượng tầng ba của một toà nhà ven sông, chỉ tay về phía những "hoa lửa hàn" sáng loà hai bên bờ sông, ông nói với tôi: "Anh thấy đấy, công nghệ đóng tàu sông biển hiện nay là ngành công nghiệp mũi nhọn của tỉnh ta, nó sẽ làm cho tỉnh ta thịnh vượng, cất cánh." Ông nói thế thì tôi cũng biết thế, chứ tôi chưa yên tâm lắm về sự lạc quan quá sớm của ông. Và quả thật, chỉ chưa đầy một năm sau, nghĩa là vào thời điểm tôi đặt bút viết bài tham luận này, hầu hết các cơ sở sáng loà ánh lửa hàn ấy sập tối om om vì đã ngừng sản xuất, những con tàu đang đóng dở dang giờ nằm trơ dưới nắng mưa như những bộ xương khủng long thời tiền sử. Công nhân thôi việc hàng loạt chuyển đi tìm việc khác. Nhiều cơ sở đã bắt đầu tính đến chuyện bán sắt vụn, giải thể.
Nguyên nhân dẫn đến thảm trạng trên, có thể phân tích dài dài, nhưng cái căn nguyên cốt lõi nhất, ôm trùm nhất là ngành công nghiệp và thương mại đóng tàu của chúng ta còn thiếu tính chuyên nghiệp. Cái sự thiếu tính chuyên nghiệp được thể hiện ở sự hiểu biết chung về ngành tàu thuỷ trên thế giới, về dự báo nhu cầu thị trường, ở trình độ thiết kế và thi công, ở khả năng cạnh tranh và sự rủi ro có thể gặp v.v...
Văn chương của chúng ta hiện nay, thôi thì cái mặt hay ho của nó chúng ta đã nói nhiều rồi, còn cái mặt dở thì mặt dở nổi cộm nhất, dễ nhìn thấy nhất, ấy là sự thiếu tính chuyên nghiệp. Cái sự thiếu tính chuyên nghiệp nó diễn ra từ thủ đô cho tới các tỉnh, nó có cả trong những hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và cả những cây bút chưa hội viên, song ở các tỉnh hiện trạng này thấy rõ hơn cả. Thực ra, nhờ những cơ may trong lịch sử mà vào các thế kỷ trước ở các tỉnh từng sinh ra và dung dưỡng khá nhiều nhà văn nhà thơ tên tuổi. Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Hàn Mặc Tử, kể cả Nam Cao. Chưa bao giờ những người này ngồi ở thủ đô mà viết văn. Họ sinh sống và viết văn trong những cái làng nghèo đồng chiêm (Nguyễn Khuyến, Nam Cao) và ở các thành phố, thị xã tỉnh lẻ (Tú Xương, Hàn Mặc Tử). Nhân vật trong thơ Nguyễn Khuyến, trong truyện ngắn, tiểu thuyết Nam Cao toàn là nhân vật thật hoặc nguyên mẫu người thật sống ở hai cái làng đồng chiêm của hai ông. Nhân vật của Tú Xương cũng rặt người thật ở cái thành phố tỉnh lẻ Nam Ðịnh. Nhưng ở những gì họ viết ra, ta thấy cái tính chuyên nghiệp của ngòi bút rất cao. Tính chuyên nghiệp được thể hiện ở sự am tường cái nghề văn họ đang theo đuổi, ở tầm hiểu biết văn hoá nhân loại và thẩm thấu chiều sâu văn hoá dân tộc, ở khả năng sáng tác phong phú, dồi dào, bút pháp điêu luyện, thể hiện những giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc, hữu dụng cho cuộc sống, được đông đảo bạn đọc đón nhận.
Nhưng những năm gần đây, hẳn là do cái nhịp sống ở các tỉnh có sự o bế, trì đọng, nhôm nhem nào đó, nó kích cầu cho cái quan niệm xấu đều hơn tốt lỏi - một quan niệm được sinh ra từ môi trường văn hoá tiểu nông - có điều kiện hiện diện, bùng phát, chi phối đời sống văn nghệ. Cái sự xấu đềuđầy tính tự phụ nó sẵn sàng cầm chân những ai đứng cao hơn nó kéo tụt xuống cho bằng hoặc thấp hơn nó. Nó đắc ý, hả hê khi thấy người khác kém cỏi hơn nó, bất hạnh hơn nó. Vì thế, khi cái sự xấu đều lấn sân thì đương nhiên cái sự tốt lỏi khó sống, bị rẻ rúng. Sự sáng tạo trong âm thầm cô đơn, vốn là bản chất của nghề văn, luôn phải dè chừng với thứ văn hoá đám đông xấu đều huyên náo, làm mưa làm gió.
Thử làm một phép so sánh: cách đây khoảng 20-25 năm, một Hội Văn học Nghệ thuật (VHNT) địa phương mỗi năm chỉ in được dăm bảy cuốn sách, chục cuốn là nhiều. Còn bây giờ một năm cái Hội ấy in vài chục đầu sách là chuyện "nhỏ như con thỏ". Vậy ai dám nói văn chương ngày nay mất mùa, chỉ là nói càn! Cách đây 20 -25 năm mỗi năm một Hội VHNT tỉnh chỉ kết nạp dăm bảy người, bây giờ mỗi năm vài ba chục người mà xem chừng đám đông ôm hồ sơ xin vào Hội vẫn còn xếp hàng rồng rắn! Ai dám bảo Hội VHNT các tỉnh bây giờ trì trệ, biến tướng biến chất, chỉ là hạng nói nhảm! Biến tướng biến chất mà người ta lại tha thiết xin gia nhập thế đông đúc à!
Vâng, hội viên đông gấp bội, sách ra nhiều gập bội, chỉ có điều phần lớn cái gọi là tác phẩm văn chương ấy nếu không nhạt nhẽo thì lại giáo điều, hoặc vay mượn của người này người khác một cách lộ liễu, sống sít; thậm chí nó sặc mùi hủ lậu. Nó hủ lậu vì nó phơi ra những điều đã quá nhàm chán, cũ kỹ, mốc meo, tù túng, không còn một chút giá trị dung dưỡng trí tuệ, nâng giấc tinh thần con người. Và đương nhiên nó không còn giữ được vai trò góp phần to lớn vào công tác chính trị tư tưởng của Ðảng như hiện nay một số người vẫn còn tự huyễn hoặc.
Cũng là dễ hiểu, bởi lâu nay ở tỉnh rất hiếm những người viết xuất hiện trong tư thế của một trí thức, theo đúng nghĩa của khái niệm này. Các sinh viên từ tỉnh ra Hà Nội học và tốt nghiệp trường viết văn cũng không thấy trở về chốn cũ nữa. Xung thêm vào làng văn nghệ tỉnh thường chỉ thấy 2 loại người:
Một, đấy là những người không có công ăn việc làm hoặc không biết làm việc gì thì tìm đến với cây bút, bởi vốn liếng bỏ ra mua cây bút rất rẻ, kẻ hành khất cũng có thể mua một lúc vài ba cây. Loại người ít vốn này rất cần xin gia nhập Hội VHNT, để được đầu tư tiền in sách, được nổi danh. Loại người này coi tổ chức Hội như một cái phao cứu sinh của đời mình.
Hai, đấy là những người từng có những cương vị không to thì nhỏ trong guồng máy công chức nhà nước. Nhưng khi còn đương chức, anh ta (chị ta) mải mê phấn đấu cho những tham vọng chẳng liên quan gì đến văn chương cả; chỉ đến khi về hưu, sức khoẻ và tinh thần đều đã suy giảm, lại bị hẫng hụt, cô quạnh, họ mới tìm đến với văn học. Họ quan niệm, khi còn sung sức có quyền có tiền rồi thì khi về già phải kiếm thêm cái danh nữa, cho dù là cái danh hão, mới đáng mặt một kiếp người hạnh phúc viên mãn. Mà cái danh thì Hội VHNT chính là chỗ dễ kiếm nhất.
Cả hai dạng người ấy tìm đến với văn học, có thể có người đã có sẵn một chút năng khiếu trời cho hoặc tích tụ được một chút vốn sống thực tế ở xã hội, nhưng về mặt văn hoá, kiến văn, bút pháp hầu như chưa chuẩn bị được gì. Có người trong đời còn chưa từng đọc một cuốn văn học dịch, không thuộc một câu trong Truyện Kiều, hoàn toàn xa lạ với những khái niệm “hiện sinh”, “hiện thực huyền ảo”…, dù những khái niệm này với thế giới, không còn là mới nữa.
Những năm gần đây, trong hàng ngũ lãnh đạo các Hội VHNT tỉnh, những người không làm văn chương đông dần lên, những người làm văn chương ít dần, nhất là người làm văn chương có tính chuyên nghiệp vào thời điểm này đã trở nên rất hiếm hoi, thì đó lại càng là một môi trường màu mỡ cho đám đông văn chương nghiệp dư bành trướng, sinh sôi.
Viết nghiệp dư, nhưng đã là hội viên của Hội VHNT thì không thể không viết. Viết ào ào. Viết như búa bổ. Viết nhảm, viết nhạt, viết thô thiển, hủ lậu, nhưng vẫn được in. Mỗi Hội VHNT tỉnh đều có một tờ tạp chí, được kinh phí nhà nước hỗ trợ, nếu không in tác phẩm của hội viên thì in của ai? Mà đã in thì coi như những tác phẩm ấy được thừa nhận, chí ít thì cũng trong phạm vi một tỉnh một vùng (cho dù ở khá nhiều tỉnh hiện nay, tờ tạp chí văn nghệ in ra chủ yếu dùng để tặng nhau, mà tặng nhau trong giới, chứ tặng người ngoài giới chưa chắc họ đã có thời gian để đọc).
Dăm bảy năm nay, các Hội VHNT địa phương lại có thêm một nguồn đầu tư gọi là tài trợ sáng tác từ chính phủ, rót qua Uỷ ban Toàn quốc Liên hiệp VHNT Việt Nam, rồi cơ quan này có trách nhiệm phân bổ về các tỉnh. Hội nào ít cũng được vài ba trăm triệu; Hội nhiều thì bảy tám trăm triệu một năm. Cứ đều đặn rót về. Cái khoản "lộc nước" này tuy không lớn nhưng nó cũng đủ độ kích thích nguồn cảm hứng sáng tác ghê gớm. Có người sắp đến kỳ tiền rót về mà trong tay mới có dăm cái truyện ngắn, là phải vội vàng tăng tốc viết cho nhanh thêm vài ba cái nữa, in thành tập cho kịp lọt vào danh sách tài trợ. Có người in tập thơ mà non nửa số bài trong tập đã từng in ở các tập năm trước, dĩ nhiên là cũng nhằm mục đích ẵm khoản tiền tài trợ. Một miếng giữa làng hơn một sàng giữa chợ, vạ gì không in. Nhưng chỉ in 500 cuốn, thậm chí 200 hoặc 100 cuốn đủ tặng người thân và làm "chứng chỉ" quyết toán cái món tài trợ. Sách in ra, công chúng lạnh nhạt, trong giới cũng thờ ơ; để xua bớt cái không khí buồn tẻ ấy liền nặn ra cuộc hội thảo, cơ hội ngàn vàng cho các tác giả tự thể hiện mình và tâng bốc nhau. Các bài tâng bốc ấy lại được in "thâm canh" trong tạp chí văn nghệ. Tự lừa phỉnh mình và phỉnh nịnh lẫn nhau cũng là một nhu cầu tinh thần có thật trong văn giới thời nay. Chỉ công chúng độc giả là thua đơn thiệt kép, họ chẳng đón nhận được một chữ nào có giá trị từ những "nhà văn nghệ sĩ" ấy.
Rồi cứ 5 năm một lần, những "nhà" ấy lại được thêm một khoản "lộc nước" nữa, đó là giải thưởng văn học nghệ thuật. Giải thưởng này thường được mang tên một địa danh nổi tiếng hoặc một danh nhân văn hoá, văn học sáng giá. Mỗi lần như thế vài ba chục cuốn sách được trao giải, nếu tính cả các bộ môn khác như hội hoạ, nhiếp ảnh, sân khấu, âm nhạc... thì số "nhà" được giải lên tới bảy tám chục, thậm chí hàng trăm. Tiền giải thưởng chẳng đáng kể gì nhưng được cái tiếng thơm lưu danh thiên cổ!
Cái bằng công nhận giải thưởng thiết kế rất to. Có nơi làm to hơn cả cái bằng khen của chính phủ. Có nơi thiết kế hoa văn cổ kính như cái sắc chỉ vua ban cho kẻ sĩ thời xưa. Chất liệu của bằng là giấy cup-sê cứng, bóng láng, lồng trong khung kính mạ vàng, có thể lưu giữ được hàng trăm năm.
Nhiều lúc tôi cứ vơ vẩn tự hỏi, không hiểu một, hai trăm năm sau, con cháu chúng ta nhìn những tấm bằng giải thưởng rồi dò tìm đọc những tác phẩm được giải ấy, mới vỡ nhẽ ra những thứ được giải ấy toàn là hàng thứ phẩm, nếu không muốn nói là hàng dởm, họ sẽ nghĩ sao về văn chương thời chúng ta đang sống?
Mỗi lần tự hỏi như thế tôi lại bật ra tiếng cười. Miệng bật ra tiếng cười nhưng hai khoé mắt lại lăn ra những giọt lệ.
Khi viết bài này, tôi hoàn toàn không có ý chê bai hay khinh khi cái sự nghiệp dư trong văn chương, bởi có ai cầm bút trở thành nhà văn nhà thơ chuyên nghiệp mà không phải trải qua cái thời đoạn nghiệp dư kia chứ. Nhưng nếu bằng lòng với tính nghiệp dư, đẩy tính nghiệp dư trở thành lực lượng nòng cốt, chủ đạo, thành phổ biến, chi phối đời sống văn học của cả một địa phương, một vùng đất, thì lại là điều đáng lo ngại, là một hiện tượng xã hội rất không bình thường.
Thị trấn Liễu Ðề, tháng 10 năm 2008
(Tham luận tại Hội nghị nhà văn khu vực phía Bắc, tháng 10 năm 2008)
Khoảng dăm bảy năm trở lại đây, trên các bãi cỏ lăn cỏ lác hoang vu hai bên bờ con sông Ninh Cơ quê tôi, tự dưng mọc lên những cơ sở đóng tàu sông biển, mật độ ngày càng dầy, tính đến cuối năm 2007 đã có tới 40 cơ sở, xí nghiệp. Vào buổi tối nọ, một vị lãnh đạo tỉnh kéo tôi lên mảnh sân thượng tầng ba của một toà nhà ven sông, chỉ tay về phía những "hoa lửa hàn" sáng loà hai bên bờ sông, ông nói với tôi: "Anh thấy đấy, công nghệ đóng tàu sông biển hiện nay là ngành công nghiệp mũi nhọn của tỉnh ta, nó sẽ làm cho tỉnh ta thịnh vượng, cất cánh." Ông nói thế thì tôi cũng biết thế, chứ tôi chưa yên tâm lắm về sự lạc quan quá sớm của ông. Và quả thật, chỉ chưa đầy một năm sau, nghĩa là vào thời điểm tôi đặt bút viết bài tham luận này, hầu hết các cơ sở sáng loà ánh lửa hàn ấy sập tối om om vì đã ngừng sản xuất, những con tàu đang đóng dở dang giờ nằm trơ dưới nắng mưa như những bộ xương khủng long thời tiền sử. Công nhân thôi việc hàng loạt chuyển đi tìm việc khác. Nhiều cơ sở đã bắt đầu tính đến chuyện bán sắt vụn, giải thể.
Nguyên nhân dẫn đến thảm trạng trên, có thể phân tích dài dài, nhưng cái căn nguyên cốt lõi nhất, ôm trùm nhất là ngành công nghiệp và thương mại đóng tàu của chúng ta còn thiếu tính chuyên nghiệp. Cái sự thiếu tính chuyên nghiệp được thể hiện ở sự hiểu biết chung về ngành tàu thuỷ trên thế giới, về dự báo nhu cầu thị trường, ở trình độ thiết kế và thi công, ở khả năng cạnh tranh và sự rủi ro có thể gặp v.v...
Văn chương của chúng ta hiện nay, thôi thì cái mặt hay ho của nó chúng ta đã nói nhiều rồi, còn cái mặt dở thì mặt dở nổi cộm nhất, dễ nhìn thấy nhất, ấy là sự thiếu tính chuyên nghiệp. Cái sự thiếu tính chuyên nghiệp nó diễn ra từ thủ đô cho tới các tỉnh, nó có cả trong những hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và cả những cây bút chưa hội viên, song ở các tỉnh hiện trạng này thấy rõ hơn cả. Thực ra, nhờ những cơ may trong lịch sử mà vào các thế kỷ trước ở các tỉnh từng sinh ra và dung dưỡng khá nhiều nhà văn nhà thơ tên tuổi. Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Hàn Mặc Tử, kể cả Nam Cao. Chưa bao giờ những người này ngồi ở thủ đô mà viết văn. Họ sinh sống và viết văn trong những cái làng nghèo đồng chiêm (Nguyễn Khuyến, Nam Cao) và ở các thành phố, thị xã tỉnh lẻ (Tú Xương, Hàn Mặc Tử). Nhân vật trong thơ Nguyễn Khuyến, trong truyện ngắn, tiểu thuyết Nam Cao toàn là nhân vật thật hoặc nguyên mẫu người thật sống ở hai cái làng đồng chiêm của hai ông. Nhân vật của Tú Xương cũng rặt người thật ở cái thành phố tỉnh lẻ Nam Ðịnh. Nhưng ở những gì họ viết ra, ta thấy cái tính chuyên nghiệp của ngòi bút rất cao. Tính chuyên nghiệp được thể hiện ở sự am tường cái nghề văn họ đang theo đuổi, ở tầm hiểu biết văn hoá nhân loại và thẩm thấu chiều sâu văn hoá dân tộc, ở khả năng sáng tác phong phú, dồi dào, bút pháp điêu luyện, thể hiện những giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc, hữu dụng cho cuộc sống, được đông đảo bạn đọc đón nhận.
Nhưng những năm gần đây, hẳn là do cái nhịp sống ở các tỉnh có sự o bế, trì đọng, nhôm nhem nào đó, nó kích cầu cho cái quan niệm xấu đều hơn tốt lỏi - một quan niệm được sinh ra từ môi trường văn hoá tiểu nông - có điều kiện hiện diện, bùng phát, chi phối đời sống văn nghệ. Cái sự xấu đềuđầy tính tự phụ nó sẵn sàng cầm chân những ai đứng cao hơn nó kéo tụt xuống cho bằng hoặc thấp hơn nó. Nó đắc ý, hả hê khi thấy người khác kém cỏi hơn nó, bất hạnh hơn nó. Vì thế, khi cái sự xấu đều lấn sân thì đương nhiên cái sự tốt lỏi khó sống, bị rẻ rúng. Sự sáng tạo trong âm thầm cô đơn, vốn là bản chất của nghề văn, luôn phải dè chừng với thứ văn hoá đám đông xấu đều huyên náo, làm mưa làm gió.
Thử làm một phép so sánh: cách đây khoảng 20-25 năm, một Hội Văn học Nghệ thuật (VHNT) địa phương mỗi năm chỉ in được dăm bảy cuốn sách, chục cuốn là nhiều. Còn bây giờ một năm cái Hội ấy in vài chục đầu sách là chuyện "nhỏ như con thỏ". Vậy ai dám nói văn chương ngày nay mất mùa, chỉ là nói càn! Cách đây 20 -25 năm mỗi năm một Hội VHNT tỉnh chỉ kết nạp dăm bảy người, bây giờ mỗi năm vài ba chục người mà xem chừng đám đông ôm hồ sơ xin vào Hội vẫn còn xếp hàng rồng rắn! Ai dám bảo Hội VHNT các tỉnh bây giờ trì trệ, biến tướng biến chất, chỉ là hạng nói nhảm! Biến tướng biến chất mà người ta lại tha thiết xin gia nhập thế đông đúc à!
Vâng, hội viên đông gấp bội, sách ra nhiều gập bội, chỉ có điều phần lớn cái gọi là tác phẩm văn chương ấy nếu không nhạt nhẽo thì lại giáo điều, hoặc vay mượn của người này người khác một cách lộ liễu, sống sít; thậm chí nó sặc mùi hủ lậu. Nó hủ lậu vì nó phơi ra những điều đã quá nhàm chán, cũ kỹ, mốc meo, tù túng, không còn một chút giá trị dung dưỡng trí tuệ, nâng giấc tinh thần con người. Và đương nhiên nó không còn giữ được vai trò góp phần to lớn vào công tác chính trị tư tưởng của Ðảng như hiện nay một số người vẫn còn tự huyễn hoặc.
Cũng là dễ hiểu, bởi lâu nay ở tỉnh rất hiếm những người viết xuất hiện trong tư thế của một trí thức, theo đúng nghĩa của khái niệm này. Các sinh viên từ tỉnh ra Hà Nội học và tốt nghiệp trường viết văn cũng không thấy trở về chốn cũ nữa. Xung thêm vào làng văn nghệ tỉnh thường chỉ thấy 2 loại người:
Một, đấy là những người không có công ăn việc làm hoặc không biết làm việc gì thì tìm đến với cây bút, bởi vốn liếng bỏ ra mua cây bút rất rẻ, kẻ hành khất cũng có thể mua một lúc vài ba cây. Loại người ít vốn này rất cần xin gia nhập Hội VHNT, để được đầu tư tiền in sách, được nổi danh. Loại người này coi tổ chức Hội như một cái phao cứu sinh của đời mình.
Hai, đấy là những người từng có những cương vị không to thì nhỏ trong guồng máy công chức nhà nước. Nhưng khi còn đương chức, anh ta (chị ta) mải mê phấn đấu cho những tham vọng chẳng liên quan gì đến văn chương cả; chỉ đến khi về hưu, sức khoẻ và tinh thần đều đã suy giảm, lại bị hẫng hụt, cô quạnh, họ mới tìm đến với văn học. Họ quan niệm, khi còn sung sức có quyền có tiền rồi thì khi về già phải kiếm thêm cái danh nữa, cho dù là cái danh hão, mới đáng mặt một kiếp người hạnh phúc viên mãn. Mà cái danh thì Hội VHNT chính là chỗ dễ kiếm nhất.
Cả hai dạng người ấy tìm đến với văn học, có thể có người đã có sẵn một chút năng khiếu trời cho hoặc tích tụ được một chút vốn sống thực tế ở xã hội, nhưng về mặt văn hoá, kiến văn, bút pháp hầu như chưa chuẩn bị được gì. Có người trong đời còn chưa từng đọc một cuốn văn học dịch, không thuộc một câu trong Truyện Kiều, hoàn toàn xa lạ với những khái niệm “hiện sinh”, “hiện thực huyền ảo”…, dù những khái niệm này với thế giới, không còn là mới nữa.
Những năm gần đây, trong hàng ngũ lãnh đạo các Hội VHNT tỉnh, những người không làm văn chương đông dần lên, những người làm văn chương ít dần, nhất là người làm văn chương có tính chuyên nghiệp vào thời điểm này đã trở nên rất hiếm hoi, thì đó lại càng là một môi trường màu mỡ cho đám đông văn chương nghiệp dư bành trướng, sinh sôi.
Viết nghiệp dư, nhưng đã là hội viên của Hội VHNT thì không thể không viết. Viết ào ào. Viết như búa bổ. Viết nhảm, viết nhạt, viết thô thiển, hủ lậu, nhưng vẫn được in. Mỗi Hội VHNT tỉnh đều có một tờ tạp chí, được kinh phí nhà nước hỗ trợ, nếu không in tác phẩm của hội viên thì in của ai? Mà đã in thì coi như những tác phẩm ấy được thừa nhận, chí ít thì cũng trong phạm vi một tỉnh một vùng (cho dù ở khá nhiều tỉnh hiện nay, tờ tạp chí văn nghệ in ra chủ yếu dùng để tặng nhau, mà tặng nhau trong giới, chứ tặng người ngoài giới chưa chắc họ đã có thời gian để đọc).
Dăm bảy năm nay, các Hội VHNT địa phương lại có thêm một nguồn đầu tư gọi là tài trợ sáng tác từ chính phủ, rót qua Uỷ ban Toàn quốc Liên hiệp VHNT Việt Nam, rồi cơ quan này có trách nhiệm phân bổ về các tỉnh. Hội nào ít cũng được vài ba trăm triệu; Hội nhiều thì bảy tám trăm triệu một năm. Cứ đều đặn rót về. Cái khoản "lộc nước" này tuy không lớn nhưng nó cũng đủ độ kích thích nguồn cảm hứng sáng tác ghê gớm. Có người sắp đến kỳ tiền rót về mà trong tay mới có dăm cái truyện ngắn, là phải vội vàng tăng tốc viết cho nhanh thêm vài ba cái nữa, in thành tập cho kịp lọt vào danh sách tài trợ. Có người in tập thơ mà non nửa số bài trong tập đã từng in ở các tập năm trước, dĩ nhiên là cũng nhằm mục đích ẵm khoản tiền tài trợ. Một miếng giữa làng hơn một sàng giữa chợ, vạ gì không in. Nhưng chỉ in 500 cuốn, thậm chí 200 hoặc 100 cuốn đủ tặng người thân và làm "chứng chỉ" quyết toán cái món tài trợ. Sách in ra, công chúng lạnh nhạt, trong giới cũng thờ ơ; để xua bớt cái không khí buồn tẻ ấy liền nặn ra cuộc hội thảo, cơ hội ngàn vàng cho các tác giả tự thể hiện mình và tâng bốc nhau. Các bài tâng bốc ấy lại được in "thâm canh" trong tạp chí văn nghệ. Tự lừa phỉnh mình và phỉnh nịnh lẫn nhau cũng là một nhu cầu tinh thần có thật trong văn giới thời nay. Chỉ công chúng độc giả là thua đơn thiệt kép, họ chẳng đón nhận được một chữ nào có giá trị từ những "nhà văn nghệ sĩ" ấy.
Rồi cứ 5 năm một lần, những "nhà" ấy lại được thêm một khoản "lộc nước" nữa, đó là giải thưởng văn học nghệ thuật. Giải thưởng này thường được mang tên một địa danh nổi tiếng hoặc một danh nhân văn hoá, văn học sáng giá. Mỗi lần như thế vài ba chục cuốn sách được trao giải, nếu tính cả các bộ môn khác như hội hoạ, nhiếp ảnh, sân khấu, âm nhạc... thì số "nhà" được giải lên tới bảy tám chục, thậm chí hàng trăm. Tiền giải thưởng chẳng đáng kể gì nhưng được cái tiếng thơm lưu danh thiên cổ!
Cái bằng công nhận giải thưởng thiết kế rất to. Có nơi làm to hơn cả cái bằng khen của chính phủ. Có nơi thiết kế hoa văn cổ kính như cái sắc chỉ vua ban cho kẻ sĩ thời xưa. Chất liệu của bằng là giấy cup-sê cứng, bóng láng, lồng trong khung kính mạ vàng, có thể lưu giữ được hàng trăm năm.
Nhiều lúc tôi cứ vơ vẩn tự hỏi, không hiểu một, hai trăm năm sau, con cháu chúng ta nhìn những tấm bằng giải thưởng rồi dò tìm đọc những tác phẩm được giải ấy, mới vỡ nhẽ ra những thứ được giải ấy toàn là hàng thứ phẩm, nếu không muốn nói là hàng dởm, họ sẽ nghĩ sao về văn chương thời chúng ta đang sống?
Mỗi lần tự hỏi như thế tôi lại bật ra tiếng cười. Miệng bật ra tiếng cười nhưng hai khoé mắt lại lăn ra những giọt lệ.
Khi viết bài này, tôi hoàn toàn không có ý chê bai hay khinh khi cái sự nghiệp dư trong văn chương, bởi có ai cầm bút trở thành nhà văn nhà thơ chuyên nghiệp mà không phải trải qua cái thời đoạn nghiệp dư kia chứ. Nhưng nếu bằng lòng với tính nghiệp dư, đẩy tính nghiệp dư trở thành lực lượng nòng cốt, chủ đạo, thành phổ biến, chi phối đời sống văn học của cả một địa phương, một vùng đất, thì lại là điều đáng lo ngại, là một hiện tượng xã hội rất không bình thường.
Thị trấn Liễu Ðề, tháng 10 năm 2008
Một Câu Nói Ngây Thơ Của Đứa Trẻ Đã Làm Thay Đổi Vận Mệnh Của Cả Nhà

Chỉ một câu nói hết mức hồn nhiên ngây thơ của đứa trẻ đã khiến người cha giật mình suy ngẫm, sau đó vận mệnh nghèo khổ của cả nhà mau chóng được thay đổi. Vì sao lại như vậy?
Cổ nhân nói “quân tử thận độc”, chính là nhắc nhở chúng ta khi đối mặt với chính mình, cần phải chính trực, quang minh, tấm lòng bình thản không lay động. Có một câu chuyện được lưu truyền, kể rằng một gia đình nọ, cuộc sống rất nghèo khó, người cha vì không có tiền, thường lợi dụng ban đêm ra vườn rau nhà người ta hái trộm. Một đêm nọ, anh ta mang theo cả con trai của ông ta đi trộm đồ ăn, lúc này, đứa trẻ thật thà nói một câu, đã cải biến vận mệnh cả nhà cậu.
Ở trong một ngôi làng nọ, có một gia đình nghèo khó bần cùng, người cha vì không có tiền, thường lợi dụng ban đêm lẻn vào vườn rau nhà người ta hái trộm, hôm đó anh ta mang theo cả con trai đi cùng. Khi người cha vừa mới nhổ một cây củ cải, đứa con bỗng nhiên ở sau lưng khẽ kêu:“Cha..cha.., có người nhìn thấy kìa”.
Cha của cậu kinh hãi, ngó nhìn bốn phía, hoảng hốt hói: “Người đó ở chỗ nào?”. Đứa trẻ vừa chỉ tay lên trời, vừa trả lời: “Cha! Cha xem, là mặt trăng đang nhìn cha đó!”.
Người cha này nghe con trai nói vậy, đầu tiên thì cảm thấy sững sờ, tiếp đó lại cảm thấy hối hận vì hành vi của mình. Có chút hụt hẫng nhưng lại có chút vui mừng, vì thế anh lặng lẽ dắt tay con trai đi về nhà. Dọc đường về, anh ta thầm nghĩ: “Trộm cắp là gây nghiệp rất lớn, có lẽ là ông trời từ bi, mượn miệng con trai để giúp mình tỉnh ngộ, từ nay phải sửa sai hướng thiện thôi!”.
Ngạn ngữ có câu: “người đang làm trời đang nhìn, thiện ác khác nhau ở một niệm”. Trong câu chuyện, người cha kia đã suy nghĩ lại, vậy đã xảy ra chuyện gì tiếp theo?
Nguyên là, chủ nhân của vườn rau vì thường bị mất trộm, tức giận vô cùng, đêm hôm đó đã sớm núp ở phía sau để rình bắt kẻ trộm. Lão nghĩ thầm tên trộm này thật đáng ghét, nhất định phải tóm gọn. Khi ông ta nhìn thấy có kẻ trộm lẻn vào, đang định hô hoán bắt trộm thì nghe được câu nói của đứa trẻ, nhất thời cũng sững người.
Ở dưới ánh trăng, ông chủ vườn rau nhìn thấy gương mặt của tên trộm, biết gia đình hắn là nghèo khó trong thôn. Nhìn thấy hai cha con hắn lặng lẽ dắt nhau rời đi, ông ta cũng bất giác ngẩng đầu nhìn ánh trăng mà im lặng không nói gì.
Về nhà ông chủ vườn rau đem chuyện này kể với vợ, vợ ông nói: “Mặt trăng kia chẳng phải cũng đang nhìn ông sao?”.
Cả đêm hôm đó, ông chủ này trằn trọc không sao ngủ được. Đến trưa hôm sau ông ta chạy đi tìm hai cha con ăn trộm kia, nói: “Này anh kia, nhà của ta hiện đang cần tìm thêm người làm, anh có thể làm được không? Ngoài tiền công, còn có thể cho anh một ít đồ ăn mang về nhà”.
Như vậy là một cơ hội việc làm tốt, có thể mang đến no ấm cho cả nhà nay đã được đáp ứng rồi.
Đêm hôm đó, người cha nghèo kia nắm tay con trai, lặng lẽ ngồi ngắm trăng, bỗng đứa trẻ nói:“Ôi.. cha nhìn xem! Là trăng đang cười kìa!”.
Lúc này ở nhà ông chủ vườn rau, ông ta cũng đang cùng vợ ngồi ngắm trăng, ông nói với vợ:“Chưa bao giờ từng cảm giác thấy mặt trăng đang nhìn mình, xem mình đang làm việc gì, hôm nay thử xem sao… Ôi! Bà xem trăng đang cười kìa!”.
Trong lịch sử cũng có một câu chuyện xưa, “Chuyện trong đêm có bốn người biết”. Kể rằng giữa sau thời Đông Hán, triều chính ngày càng hủ bại, quan lại tham ô. Thái thú triều Hán là Dương Chấn khi nhậm chức thái thú Kinh Châu, từng đề bạt tú tài Vương Mật làm quan huyện Xương.
Về sau có một lần Dương Chấn đi ngang qua huyện Xương, Vương Mật vì cảm kích cái ơn đề bạt của ông, ngay lúc nửa đêm đặc biệt đem 10 cân vàng đến để tạ ơn Dương Chấn. Dương Chấn đã cự tuyệt phần hậu lễ này. Vương Mật nói: “Bây giờ đêm đã khuya, sẽ không có ai biết chuyện này đâu, xin ông hãy nhận lấy”. Dương Chấn đáp rằng: “Trời biết, Đất biết, ông biết, tôi biết, sao lại nói là không ai biết? Ông hãy đem số vàng này về đi”. Vương Mật rất xấu hổ mà đem số vàng này trở về.
Cho dù là ban đêm, bạn đang làm chuyện gì, đừng nghĩ rằng chỉ mình bạn biết, mặt trăng trên bầu trời cũng đang mở to hai mắt đang nhìn bạn đó!
Bảo An, dịch từ NTDTV
Thứ Sáu, 2 tháng 12, 2016
PHONG TRÀO CHỐNG CỘNG VIỆT NAM ĐANG THAY ĐỔI THEO HƯỚNG NÀO?
Những tổ chức, hội đoàn tư xưng là thuộc “phong trào dân chủ Việt Nam” đều tuyên bố rằng mình đang tiêu tiền ngoại bang để tạo ra sự thay đổi cho đất nước. Vậy phong trào này đang thay đổi ra sao? Nếu nó thay đổi theo hướng tiến bộ, người ta còn có thể tạm tin vào tuyên bố này. Nhưng nếu phong trào ngày càng thoái hóa đi, thì hiển nhiên nó không có tư cách nói về sự thay đổi và không nên động tay vào tiến trình thay đổi của đất nước. Ốc không mang nổi mình ốc thì đừng nên gánh việc thiên hạ.
Trong thực tế, dưới đây là những hướng thay đổi đang tiếp diễn một cách bền vững trong phong trào chống Cộng Việt Nam:
1. Thế hệ tôn thờ lí tưởng biến mất, thế hệ tôn thờ tiền bạc, danh tiếng lên ngôi
Thế hệ tôn thờ lí tưởng của phong trào chống Cộng Việt Nam đã khép lại khi Mẹ Nấm Gấu, nhân vật cuối cùng còn chút lí tưởng trong phong trào, hết thời và bị bán đứng. Lúc này, phong trào hoàn toàn nằm trong tay những cái mồm chỉ mở ra vì tiền và tiếng tăm. Nếu nhóm Cây xanh Hà Nội không trở thành một trường đào tạo viết hồ sơ xin tiền, trung tâm môi giới tiền tài trợ và đường đến sứ quán, liệu có còn một “thanh niên dân chủ” nào sót lại bên cạnh Đoan Trang không? Câu hỏi thừa: Thảo Gạo đã bỏ dở ngay khi một lực lượng bên ngoài cho cô ta cơ hội đạt được địa vị và tiếng tăm ngang bằng với Trang sau vài năm phấn đấu. Nếu không có tiền và lệnh của Hội Thánh, liệu có giáo dân nào đi biểu tình trong vụ cá chết không? Và nếu không đạt chỉ tiêu bán hàng chính trị đa cấp để tạo ảo tưởng cho mỗi thành viên về tầm ảnh hưởng vĩ đại của mình, liệu nhóm Bạn Tương Tri của Nguyễn Tiến Trung có còn tồn tại?
Tôi thách những nhà chống Cộng chủ chốt còn sót lại, dù là ở nước ngoài và không bị đe dọa bởi an ninh, dám bạch hóa tài chính. Chắc chắn họ không dám, bởi nếu làm vậy, họ sẽ gây thất vọng ghê gớm cho đám đông nhẹ dạ đang tin nghe theo.
Giải Nhân quyền năm nay là cột mốc hiện rõ đã thoái hóa của phong trào chống Cộng, từ những người thờ lí tưởng thành những người thờ tiền. Trong khi giải thưởng của mọi năm trước đều được trao cho những nhân vật cộm cán vừa có ít nhiều thực quyền, vừa có tiếng trên truyền thông, thì giải năm nay lại chỉ được trao cho những con tốt mà có hay không tồn tại cũng chẳng ảnh hưởng nhiều lắm. Như phân tích của bài trước, rõ ràng giờ đây, chỉ còn những con tốt trong phong trào tỏ ra trung thành với lí tưởng nhân quyền, còn các nhân vật có tí tiếng, tí miếng đều đã chuyển sang trung thành với thứ khác.
2. Phong trào ngày càng tập trung về mặt quyền lực
So với những năm trước, số vụ tranh chấp tiền, quyền công khai trong phong trào chống Cộng năm nay đã giảm hẳn. Tuy vậy, đừng nghĩ thay đổi này xuất phát từ việc những người chống Cộng đã trở nên tử tế hơn. Trong thực tế, vẫn có những sự vụ thể hiện từng làn sóng đấu đá ngầm, như cuộc tranh giành nhân lực khiến Thảo Gạo bỏ Đoan Trang theo Trịnh Hội, hay tiến trình bán đứng Mẹ Nấm Gấu, khiến 10 000 đô tiền tài trợ của Vũ Đông Hà được sang tên. Nói cách khác, tranh tiền đoạt quyền với đồng chí, đồng đảng vẫn là một công tác hàng ngày của các nhà chống Cộng lớn ở Việt Nam. Có điều cuộc xâu xé này đang được tiến hành ngày một tàn khốc hơn, tập trung hơn, ngầm ẩn hơn, như một kết quả của tiến trình mà quyền lực trong phong trào chống Cộng Việt Nam được tập trung hóa. Giờ đây, cuộc tranh chấp diễn ra giữa những sứ quân cát cứ - mà tất cả đều có sẵn cả dòng tiền, danh tiếng lẫn mối quan hệ với nước ngoài, thay vì giữa những cá nhân lẻ tẻ, và nhiều khi vô danh tiểu tốt như trước đây. Những nhân vật không có đủ tố chất để diễn xuất như một “nhà hoạt động” chuyên nghiệp và làm hàng trước mắt phương Tây cũng đã bị gạt hẳn khỏi cuộc tranh chấp.
Chi tiết này thể hiện một thực tế quan trọng. Đó là khi quyền lực trong phong trào chống Cộng ngày càng được tập trung, nó cũng ngày càng rơi vào tay các nhà tài trợ phương Tây, và rời xa tầm tay người Việt. Nói cách khác, cuộc tranh chấp quyền lực trong phong trào chống Cộng Việt Nam đã trở thành cuộc thi lấy lòng các nhà tài trợ ngoại quốc.
3. Phong trào đã tự từ bỏ chính danh
Dù vẫn luôn miệng chửi Cộng sản không có chính danh, trong thực tế, những người chống Cộng Việt Nam đã tự từ bỏ tính chính danh của chính bản than họ. Ngày nay, trừ những nhân vật hải ngoại và vài thành phần tiểu tốt trong nước, tuyệt đại đa số những nhà chống Cộng không còn dám công khai tuyên bố rằng mình đang hoạt động “chống Cộng”, “chống độc tài” hoặc “đấu tranh vì tự do, dân chủ, nhân quyền”… như trước đây. Thay vào đó, họ đang tránh những danh xưng này như tránh hủi vì sợ đàn áp. Bơm thổi đồng đảng hoặc bơm đểu đối thủ cạnh tranh bằng những danh xưng đó thì họ vẫn làm, nhưng tự thừa nhận để hoạt động đường đường chính chính thì không. Hàng ngày, vài đám đông quanh họ viết hàng nghìn status để ca tụng những nhà hoạt động dân chủ, nhân quyền can đảm, nhưng thực ra từ lâu, trong phong trào đã chẳng còn “nhà hoạt động dân chủ, nhân quyền” nào hết. Và tất nhiên, thế thì tất cả đều hèn, chứ lấy đâu ra can đảm.
Trong thực tế, các nhà chống Cộng đã bán tính chính danh của mình để lấy những lớp vỏ bọc cho họ sự an toàn. Chẳng hạn, nhóm Đoan Trang mạo danh bảo vệ môi trường, Phạm Chí Dũng mạo danh báo chí khách quan, độc lập, Phạm Lê Vương Các và Trịnh Hữu Long mạo danh luật gia, trong khi nói trắng ra thì tất cả số người này chỉ đang lợi dụng vấn đề môi trường, báo chí và luật pháp để chống Cộng. Dù sao thế vẫn chưa bệnh hoạn bằng nhóm No-U, đoàn người tạp nham chống Cộng nhân danh… bóng đá.
Việc cánh chống Cộng trong nước từ bỏ tính chính danh của mình cũng là điều dễ hiểu. Trước hết, phải khẳng định rằng ngay từ đầu, đã chỉ có rất ít những người chống Cộng có đủ phẩm chất để xứng đáng với các danh tính đó. Thiểu số đó giờ đã chết, qui ẩn hoặc biến chất. Số “nhà hoạt động” còn sót lại, những người hoặc không hiểu dân chủ, nhân quyền là gì, hoặc chỉ muốn lợi dụng những từ ngữ này để kiếm chác tiền, quyền và danh tiếng, bán đứng thứ chính danh mà họ không có tư cách giữ, và cũng không thể giữ cũng là lẽ đương nhiên.
Tình trạng này có một hệ lụy: Đó là các nhóm chống Cộng trong nước chắc chắn sẽ phải lệ thuộc vào các nhóm chống Cộng nước ngoài, nhất là Việt Tân, về mặt chính danh. Không có chữ kí của một vài nhân vật hải ngoại, sẽ chẳng có tổ chức hoặc chính khách nước ngoài nào coi các nhà hoạt động đeo mặt nạ trong nước là người đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền. Trớ trêu thay, những kẻ được giữ chính danh lại là những kẻ nhá nhem, bẩn thỉu nhất.
Tình trạng này có một hệ lụy: Đó là các nhóm chống Cộng trong nước chắc chắn sẽ phải lệ thuộc vào các nhóm chống Cộng nước ngoài, nhất là Việt Tân, về mặt chính danh. Không có chữ kí của một vài nhân vật hải ngoại, sẽ chẳng có tổ chức hoặc chính khách nước ngoài nào coi các nhà hoạt động đeo mặt nạ trong nước là người đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền. Trớ trêu thay, những kẻ được giữ chính danh lại là những kẻ nhá nhem, bẩn thỉu nhất.
4. Phong trào chống Cộng phối hợp ngày một ăn ý với các nhóm lợi ích
Dù lủng củng trong nội bộ đến đâu, phong trào chống Cộng Việt Nam cũng đang phối hợp ngày một nhuần nhuyễn, ăn ý hơn với các nhóm lợi ích. Đáng tiếc, đây là những nhóm lợi ích trong chính quyền Việt Nam và các nước khác, chứ không phả những nhóm lợi ích của dân. Như những bài trước đã chỉ ra, sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa các hội đoàn chống Cộng, nhóm lợi ích chi phối truyền thông đại chứng Việt Nam và nhà thờ Công giáo trong vụ cá chết, vụ báo chí với công an và vụ MC Phan Anh. Trong cả ba vụ việc này, người dân chỉ là một công cụ để lợi dụng, một nạn nhân bị cả hai phe đang tranh chấp nhau lừa dối. Như vậy, dù vẫn buộc phải hô khẩu hiệu về một cuộc “cách mạng dân chủ”, hứa hẹn sẽ đưa cả nước tiến lên một thiên đường dân chủ trong mơ. Trong thực tế, phe chống Cộng đang phấn đấu để được sánh vai với các bè cánh khác ở Việt Nam trong tư cách một lực lượng dân chủ mới.
Thực tế này buộc ta phải xét lại ngay đến cả cái tên của họ. Đã đành họ không thật sự bận tâm đến nhân quyền và dân chủ, giờ họ còn không chống Cộng, mà thay vào đó, lại bắt tay với các phe cánh trong “chính quyền Cộng sản” để lừa dân. Chúng ta biết gọi họ là gì? Và những diễn biến này thể hiện một sự thoái hóa mới xảy ra, hay ngay từ đầu phong trào chống Cộng đã được xây trên nền móng tiền tài, thông tin và nhân lực cài cắm của các nhóm lợi ích?
5. Phong trào chống Cộng thừa nhận rằng mình cũng chẳng hơn Cộng sản
Trước đây, giữa các nhà chống Cộng có một sự nhất trí ngấm ngầm. Đó là trong mọi phát biểu công khai, họ phải coi phe chống Cộng và Đảng Cộng sản Việt Nam là hai cực đối lập tốt – xấu. Cộng sản thì đã sai lầm, gian ác, lưu manh ngay từ những ngày đầu thành lập. Trong khi đó, phe chống Cộng thì từ đầu đến cuối luôn chí thiện, chí nhân, chí đức, toàn là các anh hùng, anh thư… Họ nói thế, quả cũng kích động được một bộ phận người dân khi trước, vì lúc đó người ta đang bận thất vọng với chính quyền. Còn giờ mà nói giọng đó ngoài đường, chắc không khỏi bị dân cười khẩy.
Cho nên gần đây, cô Đoan Trang, sử gia kiêm phát ngôn không chính thức của phong trào chống Cộng đã có một phát ngôn mang tính bước ngoặt. Trong một bài đăng ngày 22 tháng 11 trên facebook, Đoan Trang biện hộ rằng trong thời gian hoạt động cách mạng ngày xưa, những người Cộng sản đời đầu cũng “nói xấu, chơi bẩn, cắn xé lẫn nhau”, cũng “giành giật từng xu tài trợ nước ngoài” hệt như những người chống Cộng bây giờ, vậy nên dân đừng thất vọng về phe chống Cộng!
Nói cách khác, theo Đoan Trang, thì phe chống Cộng không còn là “tiếng nói của lương tâm và sự thật”, “anh hùng anh thư của thời đại” hay tác nhân đem đến thay đổi cho đất nước nữa, mà chỉ là một bản sao bẩn thỉu, nhớp nháp của chính Đảng Cộng sản mà thôi. Thật kinh người, hóa ra những ông chống Cộng vốn không khác gì những ông Cộng sản!
Mà cách biện hộ của Đoan Trang cũng thật lạ. Cô cho những người chống Cộng cái quyền hành xử bỉ ổi, vô liêm với nhau, chỉ vì Cộng sản trước đây 100 năm cũng bỉ ổi, vô liêm như thế! Đúng vẫn cứ là đúng, sai vẫn cứ là sai, chứ ở đâu ra cái lối ngụy biện như vậy? Nếu vì thấy người khác làm bậy mà mình cũng tự cho mình cái quyền làm bậy, thì đạo đức và luật pháp sinh ra để làm gì? Khi Đoan Trang đem cái lối lập luận của cô đi “đấu tranh” để “thay đổi xã hội Việt Nam”, tôi thấy rất ái ngại cho xã hội. Còn khi biết Trang làm trong ban biên tập Luật khoa, thì tôi bắt đầu hiểu vì sao các bài viết trong trang này thường xuyên sai kiến thức luật và chính trị căn bản đến thế.
Nhìn chung, nếu những nhà chống Cộng như Đoan Trang chịu tự cải tạo bản thân, thay vì đòi cải tạo xã hội, thì họ sẽ có ích cho xã hội hơn. Còn nếu cứ cố làm siêu nhân cứu thế giới như bây giờ, thì họ sẽ chr làm vấy thêm những nhơ nhớp của bản thân ra thế giới.
Bài viết tự biện hộ của Đoan Trang còn tiêu biểu cho một thói quen ngày càng lan tràn trong những người chống Cộng. Đó là họ vừa xin xỏ long thương hại của dân, vừa chửi dân ngu và đòi giáo hóa dân, vừa mô tả lực lượng của mình như thể họ là cứu tinh của nhân dân. Thật bậy bạ và nực cười. Sao người dân có thể cần sự cứu vớt và giáo hóa của những kẻ ô hợp, luộm thuộm và lưu manh đang viết bài cầu xin sự thương hại của họ?
Loại người vừa muốn làm ăn mày, vừa muốn làm thầy, vừa muốn làm anh hùng, anh thư như Đoan Trang lẽ ra phải xem là kí sinh trùng của xã hội, cần tiêu hủy ngay, tránh gây mất vệ sinh môi trường đô thị!
Những Nhà Dân Chủ Độc Tài
Thứ Năm, 1 tháng 12, 2016
Thứ Tư, 30 tháng 11, 2016
Viết khóc hay viết cười Cái nào dễ
Hôm nào đó lâu rồi tôi thấy cái mục bookends của New York Times có đưa ra câu hỏi: giữa hai cách viết, viết một cách nghiêm túc hay viết một cách tếu táo, cách nào dễ viết. Tôi chỉ đọc câu hỏi nhưng không đọc các bài thảo luận. Từ cái câu hỏi này tôi nảy ra câu tự hỏi khác. Viết cho người đọc cảm động đến khóc, hay viết làm cho người đọc bật cười, cách nào dễ. Mỗi cách có ưu điểm riêng, nhưng viết cách nào cũng khó cả. Tôi nghĩ, viết làm cho người ta khóc làm cho người ta nhớ đến người viết và tác phẩm nhiều hơn. Tuy nhiên viết “bi kịch” cũng như viết truyện tình, càng nhiều người khai thác, càng khó hơn gây ấn tượng với độc giả hơn. Nếu bảo tôi phải chọn một trong hai cách viết tôi thích làm người ta cười hơn.
Vốn kém nhan sắc, tôi thường nghe nói con gái xấu thì phải có nết đẹp, phải hiền hậu ngoan ngoãn để dễ (được) thương. Không thuộc loại ngoan hiền, ngay từ lúc nhỏ tôi đã nghiệm ra một điều, nếu tôi chọc người ta cười, người ta có thiện cảm với tôi hơn. Ai cũng thích người chọc cho mình cười, miễn là mình đừng cười trên nỗi đau khổ của đối tượng. Cuộc đời có quá nhiều đau khổ nên khi đọc sách xem phim tôi thường cố tránh chuyện buồn, những chuyện tác giả cố vắt cho ra nước mắt của người đọc làm lòng tôi nặng nề. Với nhiều độc giả Việt, đọc mà không khóc thì truyện nhạt, không hay. Đó là một trong những lý do nhiều người không thích truyện dịch Tây phương vì nó nhạt quá. Truyện Tây phương hay là ở chỗ tình tiết ly kì, cấu trúc biến hóa, hàm chứa tư tưởng lớn, hay giàu tính sáng tạo, v.v… Những truyện buồn đặc biệt thường được báo trước, melodrama.
Viết cho người đọc chảy nước mắt rất khó. Người viết phải có mức nhạy cảm rất cao, bản thân mình phải đau nỗi đau đó, thì mới thuyết phục được độc giả. Tôi trốn tránh chuyện buồn một phần là vì tôi rất dễ rơi nước mắt. Tôi đọc một bài thơ hay, nghe một khúc nhạc hay, dù bài thơ hay đoạn nhạc không thuộc loại buồn nhưng hễ tôi thấy rung động là tôi chảy nước mắt. Chiều qua ngồi trên xe lửa, nghe mấy bài hát của Leonard Cohen, đến bài By The Rivers Dark tôi cũng nước mắt vòng quanh, phải lén lau nước mắt, sợ người ngồi chung quanh ái ngại chẳng hiểu chuyện gì. Mà bài hát này chẳng có gì gọi là đau buồn. “I live my life in Babylon.” Cohen có lẽ nhắc đến những người Jew bị bắt buộc rời bỏ quê hương đến sinh sống lập nghiệp ở thành phố Babylon làm tôi nghĩ đến kiếp sống tha hương của tôi.
Cũng vì cái tính mau nước mắt này mà tôi phục Trần nguyễn Trang
đài sát ván. Tôi chú ý đến Trần Nguyễn Trang Đài đã lâu. Từ khi còn gặp đâu đó trên các diễn đàn mạng trước khi tôi đến với Gió O. Gặp mặt càng hiểu vì sao nàng luôn được các diễn đàn yêu mến. Tài hoa quá mà không yêu sao được. Hôm gặp nhau ở ngày Dó Oi, chúng tôi bàn tán chút đỉnh về đề tài thuyết trình. Thuyết trình là nàng Trang Đài ấy, chứ tôi ngay từ đầu đã giao hẹn trước với Vũ Khuyên và O Huệ là “chỉ nói vài câu giỡn chơi cho vui thôi chứ không có tham luận đâu nghen.”. Trang Đài chìa bài của nàng ra trước mặt tôi phân bua: “Em đã nói với O Huệ là ngay bây giờ nếu rút tên em ra là vẫn OK nhen. Còn hễ để em nói là em cứ tiến lên đó.” Bài của Trang Đài làm tôi có ấn tượng rất mạnh. Chủ đề nghiêm túc. Bố cục rõ ràng, ba phần: Tự do, Phồn Thực, Hoang Đường. Cả ba ý đều hay. Nàng viết theo cách viết luận văn nghiêm túc. Mỗi phân đoạn đều nêu rõ tiểu đề. Nàng lại có cả những con số về các thể loại bài vở của Gió O, rất công phu. Tuy công phu như thế nhưng theo Trang Đài thì nàng viết không vất vả lắm; nàng gõ vội vàng sau khi chơi cả ngày với các con trong công viên rồi lên sân khấu ngay. Tôi phục Trang Đài quá cỡ. Sau này trong Bảng Phong Thần của ngày Dó Oi, O Huệ khen là bài của Trang Đài nặng kí nhất. Ngay lúc ấy tôi cũng thấy là bài của Trang Đài nặng kí thật.
Một chút lấn cấn của Trang Đài “cho phép Gió O rút bài mình bây giờ vẫn còn kịp” làm tôi bớt sợ hơn. Nghĩ thầm, bài hay như thế mà tác giả còn e ngại, thì nỗi khiếp vía của tôi thật là bình thường. Tôi rất sợ xuất hiện trước đám đông. Đám cưới cháu kêu tôi bằng dì, nhà gái gọi tôi lên chúc vài câu tôi thụt lui, đẩy chồng lên nói giúp. Trang Đài “cằn nhằn” với tôi chị lên nói người ta cười, em nói chẳng ai cười. Tôi nghĩ thầm, người ta chắc đang bận kềm lòng để nước mắt đừng chảy ra.
Đi đâu cho thiếp theo cùng,
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam.
Ví dầu tình có dở dang,
Thì cho thiếp gọi đò ngang thiếp về
Tôi đã kềm lòng để đừng rơi nước mắt, nhưng nước mắt ràn rụa ướt cả cái kính lão. Tôi chảy nước mắt vì bài thơ hay, vì giọng hát run run như sắp khóc của Trang Đài. Chỉ cần trích dẫn bốn câu thơ-ca dao-bài hát mà Trang Đài nhắc cho người nghe nhớ lại thân phận bọt bèo của người phụ nữ VN, năn nỉ được thương yêu hầu hạ, rồi khi bị hất hủi lại năn nỉ xin cho được về nhà bên kia sông. Về nhà, tôi vẫn nhớ bài ca dao với giọng hát của nàng và câu hỏi, nếu như nàng là phụ nữ có ba con đang sống ở Vũng Áng thì đời nàng sẽ ra sao. Tôi phục Trang Đài sau khi hát bài ca dao, nghĩ về thân phận người đàn bà ở Vũng Áng vẫn còn tiếp tục thuyết trình được. Chứ nếu là tôi thì chắc tôi sẽ khóc ngay trên khán đài. Đông Thi mà khóc mếu máo thì khó coi chết được.
Rõ ràng, làm người ta khóc rất khó nhưng làm được thì người nghe nhớ nhiều hơn.
Tôi chọn viết cái gì cho vui, nói cái gì cho người ta cười vì… dễ hơn. Dĩ nhiên, mức độ thâm thúy của cái cười đòi hỏi mức độ của tài năng. Đa phần, người nghe rất dễ tính. Mục hài trên sân sấu bao giờ cũng được ưa chuộng. Một trong những cái dễ gây cười nhất là cứ việc bêu xấu mình. Khi mình dám bêu xấu mình thì mình sẽ không còn sợ xấu nữa. Tôi thích chọc người ta cười, vì khi cười người ta dễ tính hơn, và dễ bỏ qua những khiếm khuyết.
Điều mà tôi muốn nghe là tiếng cười của khán giả, hôm ấy rất nhiều đại thụ trong văn học hải ngoại. Tôi sợ nói quá nên không nghe thấy gì ngoài tiếng nói run run của tôi. O Huệ có gửi cho cái video mà mãi đến bây giờ tôi vẫn không dám xem. Điều làm tôi sợ nhất là tôi sẽ nổi tiếng. Không phải nổi tiếng nói hay, mà là nổi tiếng vừa già vừa xấu.
Nguyễn thị Hải Hà
Một chút lấn cấn của Trang Đài “cho phép Gió O rút bài mình bây giờ vẫn còn kịp” làm tôi bớt sợ hơn. Nghĩ thầm, bài hay như thế mà tác giả còn e ngại, thì nỗi khiếp vía của tôi thật là bình thường. Tôi rất sợ xuất hiện trước đám đông. Đám cưới cháu kêu tôi bằng dì, nhà gái gọi tôi lên chúc vài câu tôi thụt lui, đẩy chồng lên nói giúp. Trang Đài “cằn nhằn” với tôi chị lên nói người ta cười, em nói chẳng ai cười. Tôi nghĩ thầm, người ta chắc đang bận kềm lòng để nước mắt đừng chảy ra.
Đi đâu cho thiếp theo cùng,
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam.
Ví dầu tình có dở dang,
Thì cho thiếp gọi đò ngang thiếp về
Tôi đã kềm lòng để đừng rơi nước mắt, nhưng nước mắt ràn rụa ướt cả cái kính lão. Tôi chảy nước mắt vì bài thơ hay, vì giọng hát run run như sắp khóc của Trang Đài. Chỉ cần trích dẫn bốn câu thơ-ca dao-bài hát mà Trang Đài nhắc cho người nghe nhớ lại thân phận bọt bèo của người phụ nữ VN, năn nỉ được thương yêu hầu hạ, rồi khi bị hất hủi lại năn nỉ xin cho được về nhà bên kia sông. Về nhà, tôi vẫn nhớ bài ca dao với giọng hát của nàng và câu hỏi, nếu như nàng là phụ nữ có ba con đang sống ở Vũng Áng thì đời nàng sẽ ra sao. Tôi phục Trang Đài sau khi hát bài ca dao, nghĩ về thân phận người đàn bà ở Vũng Áng vẫn còn tiếp tục thuyết trình được. Chứ nếu là tôi thì chắc tôi sẽ khóc ngay trên khán đài. Đông Thi mà khóc mếu máo thì khó coi chết được.
Rõ ràng, làm người ta khóc rất khó nhưng làm được thì người nghe nhớ nhiều hơn.
Tôi chọn viết cái gì cho vui, nói cái gì cho người ta cười vì… dễ hơn. Dĩ nhiên, mức độ thâm thúy của cái cười đòi hỏi mức độ của tài năng. Đa phần, người nghe rất dễ tính. Mục hài trên sân sấu bao giờ cũng được ưa chuộng. Một trong những cái dễ gây cười nhất là cứ việc bêu xấu mình. Khi mình dám bêu xấu mình thì mình sẽ không còn sợ xấu nữa. Tôi thích chọc người ta cười, vì khi cười người ta dễ tính hơn, và dễ bỏ qua những khiếm khuyết.
Điều mà tôi muốn nghe là tiếng cười của khán giả, hôm ấy rất nhiều đại thụ trong văn học hải ngoại. Tôi sợ nói quá nên không nghe thấy gì ngoài tiếng nói run run của tôi. O Huệ có gửi cho cái video mà mãi đến bây giờ tôi vẫn không dám xem. Điều làm tôi sợ nhất là tôi sẽ nổi tiếng. Không phải nổi tiếng nói hay, mà là nổi tiếng vừa già vừa xấu.
Nguyễn thị Hải Hà
Con Mở Cửa Ngày Đầu Tháng Chạp
Con mở cửa ngày đầu tháng Chạp
vạt đàn tranh
đưa võng
tiếng trời
rạ ôm ruộng
húp bầu đất cạn
buổi chợ chiều lấp lửng
khô ran
chiếc áo trắng
mài nước sông mấy bận
cái quần con
nhảy cò chập
co chân
lập đông đáo đầu hè
cục cựa
cục vôi thừa
lấp xấp ô quan
Con mở cửa ngày đầu tháng Chạp
một màu xanh rớt xuống
vỡ giữa hồ
con bói cá
lao đi cùng bí mật
rêu xanh buồn
nằm khóc bạn
tồ ô
Con mở cửa ngày đầu tháng Chạp
rèm vô ngôn
ẩn hiện chân không
trái mù u
hẹn hò vạn hạnh
cây tầm vông
cắc cớ giận Ông Trời
Trangđài Glasssey-Trầnguyễn
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)