" Cả cuộc đời ba không có gì để lại cho các con ngoài số vốn kiến thức mà ba mẹ tảo tần nuôi các con ăn học.Mong các con trở thành những người hữu ích cho xã hội" ( trích từ TT "Vững Niềm Tin")
Thứ Tư, 26 tháng 10, 2016
Những Tiếng Nói Trung Thực
(Đi dự RMS của Homeless Women ‘s writings- Tháng 9/12/2016)
Họ ngồi đó
những người đàn bà không nhà
mặc trên người những chiếc áo tươm tất nhất
họ đến từ nơi tạm trú
mang theo những câu thơ
Khách mời ngồi chung quanh
nghiêng tai
tiếng thơ rơi
Từ trang sách đặt trên lòng
một người lên tiếng đọc
chị nói về tuổi thơ
về một người Bà đã khuất
Từ trang sách trên tay
người đàn bà khác nói về những con đường mình đi qua
hoang mang về con đường trước mặt
Không cầm sách
một người còn trẻ lắm
đứng lên
vẽ một vòng tròn trên không gian
chị đọc tương lai mình vào một lớp học chị sẽ bước vào
Có chị nói về mái tóc của người mẹ
có chị nói về bàn tay người cha
có chị nói về một vầng trăng
có chị nói về một chiếc lá rơi
cả tóc mẹ
cả tay cha
cả vầng trăng và chiếc lá
không ai nói mình còn giữ được
Tôi ngồi lắng nghe bằng mắt
những người đàn bà ở độ tuổi khác nhau
giống như những chiếc lá
một vài chiếc tươi
nhiều chiếc đã sang màu
nhưng hình như tất cả nỗi buồn của họ
còn xanh mướt
Giọt thơ rơi, rơi, rơi
từng trang sách ướt.
Trần Mộng Tú
Thứ Hai, 24 tháng 10, 2016
Chủ Nhật, 23 tháng 10, 2016
Tiếng hú trên đỉnh cô phong
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH
Không Lộ là một vị thiền sư thời Lý, ông họ Dương, quê ở Hải Thanh, chùa Nghiêm Quang - nay là chùa Keo, thuộc xã Vũ Nghĩa, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình; dòng dõi nhiều đời làm nghề chài lưới, sau bỏ nghiệp sông nước, xuất gia tu Phật, thường trì tụng Đà-la-ni.
Nguyên tác bài thơ Ngôn hoài
Tương truyền, Không Lộ, Giác Hải và Đạo Hạnh là bạn đồng tu; họ thường vân du đây đó, dùng pháp thuật lạ lùng, kêu gió, gọi mưa, dùng nước phép chữa bệnh, tùy duyên hóa độ chúng sanh. Tài năng và đức độ của họ đều được vua phong tặng chức vụ Quốc Sư, tuy nhiên, cả ba đều không màng danh lợi, chuộng nếp sống quê mùa, thanh bần giản dị làm vui (an bần lạc đạo)! Về già, Không Lộ về quê lập chùa, thâu nhận đệ tử và giáo hóa chúng đồ.
Ngoài hành trạng nổi bật như thế, Không Lộ còn để lại hai bài thơ nổi tiếng, tứ lời giản dị, văn phong thanh cao, thiền ý thâm sâu rất có giá trị văn học và thiền học.
Nguyên tác bài thơ Ngôn hoài
Tương truyền, Không Lộ, Giác Hải và Đạo Hạnh là bạn đồng tu; họ thường vân du đây đó, dùng pháp thuật lạ lùng, kêu gió, gọi mưa, dùng nước phép chữa bệnh, tùy duyên hóa độ chúng sanh. Tài năng và đức độ của họ đều được vua phong tặng chức vụ Quốc Sư, tuy nhiên, cả ba đều không màng danh lợi, chuộng nếp sống quê mùa, thanh bần giản dị làm vui (an bần lạc đạo)! Về già, Không Lộ về quê lập chùa, thâu nhận đệ tử và giáo hóa chúng đồ.
Ngoài hành trạng nổi bật như thế, Không Lộ còn để lại hai bài thơ nổi tiếng, tứ lời giản dị, văn phong thanh cao, thiền ý thâm sâu rất có giá trị văn học và thiền học.
Bài thơ thứ nhất:
“Vạn lý thanh giang, vạn lý thiên
Nhất thôn tang giá nhất thôn yên
Ngư ông thùy trước vô nhân hoán
Quá ngọ tình lai tuyết mãn thuyền!”
Tạm dịch:
“Trời nước xanh xanh, muôn dặm liền
Làng dâu lạnh giá, khói đông miên
Ông chài say ngủ, không ai gọi
Trưa trợt, mây quang, tuyết ngập thuyền!”
Bài thơ Ngư nhàn này, ai cũng bảo đây là một điển hình thi pháp của nghệ thuật thiền tông. Nó không nói bằng những thuật ngữ Phật học dành cho lý trí suy nghiệm, không nói bằng tư duy khái niệm mệt mề khô rỗng - mà nói bằng tư duy hình tượng -những hình ảnh khói sương, những nét chấm phá trời, nước, mây thủy mặc. Đây là ngôn ngữ của những cảm xúc giác quan! Muôn dặm sông xanh tiếp muôn dặm trời xanh, thôn làng lạnh giá chìm trong làn khói nửa thực, nửa hư. Giữa trời nước mênh mông ấy, ông chài ngủ say tít trên chiếc thuyền câu, không ai lay gọi được. Trời đã quá trưa, quang tạnh, tuyết rơi ngập thuyền... Người và vật dường như cùng hòa với nhau làm một? Cái ta bé mọn, nhỏ nhoi với những lo âu, phiền muộn của cuộc đời chợt như mất tích, mù tăm giữa vũ trụ bao la? Trời đất người đều tịnh định, hòa đồng, nhất thể? Hay là tác giả muốn khơi mở thế giới vong ngã, vong pháp - chỉ còn sự sống vô biên thầm lặng dịch hóa đến muôn cùng?
Tuy nhiên, bài thơ này, ta còn nghe hơi hướm nhàn của Lão Trang, ta còn đọc ra tư tưởng trời đất người hòa nhập - tam tài thiên địa nhân - của Nho triết, tương tự bóng dáng đại ngã nhất nguyên của Bà-la-môn giáo!
Và bài thơ thứ hai sau đây - Ngôn hoài - mới chính là trọng tâm khảo sát của chúng ta:
“Trạch đắc long xà địa khả cư
Dã tình chung nhật lạc vô dư
Hữu thời trực thướng cô phong đỉnh
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư”
Tạm dịch:
“Thế đất rắn rồng chọn được nơi
Tình quê chan chứa suốt ngày vui
Có khi chót vót đầu non quạnh
Một tiếng cười vang lạnh cả trời!”
Hoặc:
“Rắn rồng, chọn đất dễ ưa
Tình quê vui thú sớm trưa chẳng rời
Có khi đứng chót non vời
Cất dài tiếng hú, đất trời lạnh băng!”
Về mặt văn bản học, các nhà nghiên cứu cho rằng, bài thơ này, Không Lộ đã lấy ý từ bài thơ của Thứ sử Lý Cao làm tặng Dược Sơn, Duy Nghiễm, nhân đêm kia, thiền sư kinh hành trên núi cao, chợt thấy mây vẹt, trăng tỏ - bèn cất tiếng cười dài vang xa đến 90 dặm Đông Phong Dương:
“Tuyển đắc u cư hiệp dã tình
Chung niên vô tống diệc vô nghinh
Hữu thời trực thướng cô phong đỉnh
Nguyệt hạ, phi vân tiếu nhất thanh!”
Tạm dịch:
“Được nơi thanh vắng thú quê
Quanh năm đưa đón chưa hề biết hay!
Chợt khi lên thẳng non tây
Mây tan, trăng tỏ - vỗ tay cười dài!”
Nếu so sánh hai văn bản – thì đúng là Không Lộ của chúng ta đã tá văn, nếu như không muốn nói là đạo văn của Lý Cao! Bài thơ thất ngôn tứ tuyệt có 28 chữ mà Không Lộ đã vay của Lý Cao hết 14 chữ: đắc, cư, dã tình, chung, hữu thời trực thướng cô phong đỉnh, nhất thanh! Do vậy, có nhà nghiên cứu đã loại bài thơ này ra khỏi các tuyển tập văn học sử. Họ có lý. Tuy nhiên, ta hãy cùng nhau khảo sát, xem thử có phát kiến gì mới mẻ để khả dĩ biện hộ cho thiền sư Không Lộ hay chăng?
Trong văn học, thiền học Việt kể từ thời Lý, các vị thiền sư thường hay mượn lời, mượn ý của các thiền đức, cao tăng đời trước để dạy môn sinh. Ví như vua Trần Thái Tông có nói rằng: “Mỗi lần nêu lên là mỗi lần mới”. Tức là lặp lại mà vẫn sinh động, hiện tiền; vẫn là ánh nắng tinh khôi, vẫn là giọt sương trong vắt sáng nay trên đầu cây ngọn cỏ! Ánh nắng, giọt sương có bao giờ cũ? Đất trời cũng bắt chước, cũng lập lại như vậy ru? Có lẽ vị vua khai tổ triều Trần, có một đời sống giới định tuệ nghiêm túc - thật sự thấy như vậy chăng? Trước đó nữa, Lý Giác và Pháp Thuận cùng vui cảnh, vui tình, xướng họa bài thơ Nga nga – hóa ra chỉ sửa mấy chữ bài thơ của Lạc Tân Vương làm lúc 10 tuổi! Gần hơn, Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, Truyện Kiều của Nguyễn Du - đều không mượn của người ta cả hay sao? Đây chính là loại hình văn học phổ biến ở trong các nước đồng văn, được gọi là hiện tượng tập cổ quen thuộc của các tác gia đông phương. Chúng đâu chỉ đơn thuần là giao lưu văn hóa. Các thiền sư nhờ học vấn thâm uyên – nên chỉ cần mượn một nhóm từ, một cụm từ hoặc luyến láy, chuyển đảo một vài tứ của cổ thi, thiền ngữ, thiền thoại, niệm, tụng gì đó – là có thể mở ra cả một trời liên tưởng về ngữ nghĩa hoặc hình tượng văn học, thiền học. Những cảm xúc nghệ thuật, do vậy, chúng có thể tương thuộc, tương đồng, đào sâu thêm, nới rộng ra, làm cho chúng mới mẻ hơn mà thôi vậy.
Trở lại với bài thơ Ngôn hoài.
Trạch đắc long xà địa khả cư...
( Rắn rồng chọn đất dễ ưa...)
Câu thơ đầu, trước đây có một số nhà nghiên cứu bảo là vị thiền sư này lựa tìm được một chỗ đất hợp với phong thuỷ - do hai chữ long xà! Xin thưa, tả thanh long, hữu bạch hổ; rồng xanh mà dài, hổ trắng mà cao mới là thế đất hợp với phong thủy - chứ không hề có xà nào ở đây cả! Phong thủy là các lực, các từ, các khí của ngoại giới thiên nhiên, chúng tương quan, tương tác với nhau mà ảnh hưởng, liên hệ đến con người là tiểu vũ trụ. Nói cách khác, phong thủy là các định luật tự nhiên của trời đất tác động đến sông núi, mùa tiết, muôn sinh và thảo mộc. Ở đây, nói đến phong thủy tác động đến nơi ở của con người: Ai thuận thiên (thuận với các định luật vũ trụ)thì còn, ai nghịch thiên thì mất! (thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong). Đối với khoa thiên văn, địa lý thì phong thủy quan trọng như vậy đấy. Nhưng đối với nhà Phật, nhà Thiền - chúng chỉ là ngoại duyên (thuận duyên, trợ duyên hoặc ngại duyên, chướng duyên) mà thôi. Duyên cũng có hai là nội duyên và ngoại duyên (theo Abhidharma – trong và ngoài tương tác có cả thảy 24 duyên). Duyên bên ngoàikhông quan trọng bằng duyên bên trong. Ngay cái duyên bên trong này cũng không quan trọng bằng nhân bên trong. Nói khái lược như vậy để biết rằng, người tu Phật, tu Thiền dẫu xem ngoại duyên là có thật – nhưng họ vẫn xem trọng nội nhân, nội duyên hơn. Bởi vì chính nội nhân, nội duyên này mới là cái gốc, cái bản căn, chúngduyên hệ với ngoại duyên mới sinh ra hữu vi, vô vi, khổ lạc, tham sân, si tuệ, trí bi, mê ngộ, sinh tử, Niết-bàn... Biết phong thủy, có thể mượn phong thủy – nhưng chưa bao giờ con cái nhà Phật xem phong thủy là yếu tố tích cực có thể quyết định số mạng, vận mạng con người (Định mệnh thuyết của Khổng Nho - cái tơ cái tóc cũng do trời định; tuy nhiên, nếu hiểu thiên - thiên lý, thiên mệnh - là những luật tắc của vũ trụ thì nó lại khác). Là một vị thiền sư uyên thâm, thông tuệ, chẳng lẽ nào nhữngbuồn vui, khổ lạc, trược thanh, mê ngộ của chính mình – Không Lộ lại nương nhờ vào cuộc đất do phong thủy (ngoại duyên) quyết định? Hóa ra, có lẽ do cả một thời đại chuộng huyền thuật, phép lạ - phong thủy lại đóng một vai trò quan trọng với mọi nhà, nên Không Lộ chỉ nói cười vui với thiên hạ rằng là, tui cũng tìm được cái chỗ đất có thể ở được, nó cũng có long, có xà như ai vậy. Xà – chính là nụ cười mỉm (vi tiếu), nụ cười nhỏ nhẻ của bậc thông đạt - do đã kinh qua tất cả thế trí, không nhạo báng ai mà chỉ muốn hòa kỳ quang, đồng kỳ trần (hòa với ánh sáng, cùng với bụi bặm - Lão) một chút mà chơi thôi.
Câu thơ thứ hai:
Dã tình chung nhật lạc vô dư...
(Tình quê vui thú sớm trưa chẳng rời...)
Người ta cũng đã bàn luận khá nhiều về hai chữ dã tình. Ai cũng biết dã tình là tình quê. Nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy (Văn hóa Việt Nam..., tr. 203, Nxb VHTT, 2005) có nói, các bản dịch đều dịch là tình quê, dạ quê là không thích hợp. Đại lược, theo anh, chữ dã tình phải liên hệ với liên văn bản từ bài thơ của Lý Cao, đó là hai chữ “u cư”mới đúng: Trạch đắc u cư hiệp dã tình. Theo với sự liên tưởng ấy, dã tình phải là nơi u cư, nhưng u cư này không phải là nơi ở ẩn của những Nho gia bất đắc chí. Tôi đồng ý với anh Thúy - cả Nguyễn Khắc Phi - khi đã lựa chọn nghĩa u cư là tính ưa ẩn dật nhàn tản, cộng thêm với tính chất phóng khoáng theo cả hai nghĩa của Từ nguyên. Phát kiến ấy thật là tuyệt, đã giải mã được ngữ nghĩa mới lạ để mở mắt cho những học giả dốt mà ưa nói chữ. Đồng thời, mở hé được cánh cửa tâm linh, để cho những anh chàng trí thức một cục, một hòn, chủ quan, phiến diện bình giảng rằng là,kết hợp giữa niềm vui về hạnh phúc trần thế...; rằng là tình yêu quê hương đất nước, đặc biệt với đất nước nông nghiệp thường được bắt đầu từ nguồn vui “thú quê” chung đó!? (Văn 10, NXB Giáo dục, 1991). Ở đây, tại văn cảnh này, ngữ cảnh này, tôi muốn tiếp với anh Thúy để nói thêm rằng, tính ưa ẩn dật nhàn tản, phóng khoáng kia cũng vẫn là của Khổng, của Lão chứ chưa phải là của Phật, của Thiền! Muốn nắm hết tâm yếu thiền - thiền Đông độ, thiền Zen hoặc cả thiền Vipassanā nguyên thủy - thì ẩn dật, nhàn tản, phóng khoáng đều chưa phải là thiền duyệt, niềm vui thầm lặng nội tâm (lạc về thiền, lạc về quả) của thiền gia! Ẩn dật là còn ngại trú xứ, ngại hồng trần! Nhàn tản là còn ngại công việc, ngại bận rộn. Phóng khoáng là còn ngại buộc ràng, ngại luật nghi!
Các vị thiền sư là những bậc đạt ngộ, do kinh nghiệm tâm linh tu chứng, họ thường vô ngại trước mọi chướng duyên. Ví dụ, có vị vô ngại trước vô thường biến đổi của cuộc đời: “Nhậm vận thịnh suy vô bố úy” (Gẫm chuyện thịnh suy không sợ hãi - Vạn Hạnh). Có vị, càng chướng ngại chừng nào thì tâm tuệ càng sáng trong, càng cao đẹp chừng ấy: “Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận, liên phát lô trung thấp vị can” (Trên non ngọc đốt màu thêm nhuận, sen nở trong lò sắc chẳng phai - Ngộ Ấn).Có vị không cần hỏi gì cả, chỉ tin vào nắm tay quyền biến phương tiện của mình: “Đại dụng hiện tiền quyền tại thủ, thùy tri phàm thánh dữ tây đông” (Trước mắt, nắm tay dùng việc lớn, biết chi phàm thánh với tây đông - Khánh Hỷ). Những tư tưởng lớn, tâm tuệ lớn như thế ấy, trong thiền học Việt , kể không hết đâu. Tuy nhiên, có lẽ, câu nói sau đây của một vị thiền sư đương đại, nó gần với văn mạch luận chứng của chúng ta: “Tự do là ung dung trong ràng buộc, hạnh phúc là tự tại giữa khổ đau”(Viên Minh).
Vậy, Không Lộ là một vị thiền sư có định, có thần thông, có tuệ - không lý nào lại còn ngại lắm chuyện tầm thường như thế. Có lẽ, do người ta chưa giải mã được câu thơ thứ hai này, nó nằm nơi chỗ “dã tình” và “lạc vô dư”. Nó là hai nghĩa đối sánh trong câu, bổ túc cho nhau để làm nên một tâm tuệ vẹn toàn. Dã tình là tình quê mùa thảo dã, tình thế gian, lạc vô dư là niềm vui vượt ngoài trần tục, niềm vui siêu thế. Vô dư – cái từ huyền mật, bí hiểm - mà từ xưa đến nay chưa ai diễn nghĩa đúng nên cứ rơi vào những niềm vui dung tục, tầm thường. Vô dư là thuật ngữ của Phật học (Hữu dư Niết-bàn, Vô dư Niết-bàn), có nghĩa là không còn dư sót bất kỳ một lậu hoặc phiền não nào dù thô hay tế - chỉ cái tâm, cái tuệ của bậc giải thoát! Lạc vô dư - chữ lạcnày cũng không phải là khổ-lạc tương quan đối đãi nhau - mà phải là cái lạc siêu thế, ly thoát khổ-lạc (dukkha) tại thế. Nó tại thế gian mà vẫn xuất thế gian – đúng như câu kinh: Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác, ly thế mịch bồ đề, cáp như tầm thố giác. Tạm diễn nghĩa: Phật pháp ở thế gian, không thể rời thế gian để tầm cầu giác ngộ; ra khỏi thế gian mà tìm kiếm bồ-đề thì chẳng khác gì đi tìm sừng thỏ! Người học Phật có căn bản giáo pháp ai cũng hiểu điều tôi vừa nói.
Có nắm bắt được ngữ nghĩa tinh mật ấy, chúng ta mới với tới được câu thơ thứ ba, vì nó chính là sức bật của lạc vô dư ở câu hai:
Hữu thời trực thướng cô phong đỉnh...
(Có khi đứng chót non vời...)
Hữu thời - có thời - nhưng thời nào? Chính là thời của lạc vô dư, nó không còn hạn cuộc vào thời gian tại thế sinh diệt nữa. Chính ở đây mới hiển lộ được nghĩa của động từ trực thướng: Lên thẳng ngay, lên thẳng ngay tức khắc. Dưới núi trên núi là một. Bờ này bờ kia là tức khắc ở đây và bây giờ. Nó không còn lệ thuộc thời gian vật lý hay thời gian tâm lý phạm trù. Đây chính là sát-na kỳ ngộ chói lòa vĩnh cửu, mà người ta hay nói văn chương bóng bẩy rằng là cố quận, rằng là thiên thu... gì gì đó cũng được ráo trọi. Chính sự bừng nở ấy, trực thướng ấy, giây khắc ấy mới hội ngộ được với đỉnh cô liêu, đỉnh cô phong, đỉnh tuệ giác bất động tịch mịch của chính mình. Đúng như câu thơ của một thiền sư thi sĩ lãng đãng nào đó: “Bây giờ ta lại gặp ta; thiên thu, cố quận thiệt là hoát nhiên”.
Cảm hứng trầm hùng của tâm linh siêu thoát, do nhân và duyên ở ba câu đầu nên có lẽ, câu thứ tư, nó đọng lại, nó nén chặt lại - dồn tụ nội lực mà bùng vỡ ra:
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư!
(Cất dài tiếng hú đất trời lạnh băng!)
Trường khiếu nhất thanh - một tiếng cười dài, một tiếng hét dài, một tiếng hú dài - mọi người thường dịch như thế. Và có lẽ họ dịch đúng, vì chính ở tại đỉnh cô phong ấy, tiếng cười của sự giác ngộ, của siêu thoát ấy mới làm lạnh cả hư không mênh mông, rộng lớn, dao động cả vũ trụ càn khôn! Tuy nhiên, khi viết đến ngang đây, một trực giác tâm linh xẹt đến, tôi bèn đi lục tra tất cả các từ, tự điển hiện có trong tay – thì chữ khiếu, ngoài nghĩa kêu lên, hô lên, la hét lên, lỗ hổng (như cửu khiếu), còn có nghĩa là năng lực hiểu biết, năng lực hiểu biết từ chỗ nào đó nó thoát ra. Tự dưng, tôi nổi cả da gà, lẽ nào nó vi diệu đến thế, bất khả tư nghị đến thế! Tôi rất dè dặt, thận trọng - cả chủ quan nữa - mà nói rằng, tại sao một vài ngữ nghĩa nằm ẩn trong một bài thơ đã ngàn năm qua, lại chưa ai phát hiện?
Tôi bần thần dã dượi. Kinh khiếp quá. Bài thơ Ngôn hoài vậy là khó có thể dịch bằng hiển ngữ rạch ròi. Cảm nhận thầm lặng. Cảm nhận và không thốt nên lời. Vì rằng đây là tiếng hú, tiếng cười trên đỉnh cô phong, đỉnh cô liêu của tuệ giác! Tiếng hú, tiếng cười ở biên cõi này vốn không có người hú, người cười! Chỉ có năng lực của sự giác ngộ tự nó bùng vỡ thành băng giá làm đông lạnh cả thiên nhiên ngoại vật. Có thể tạm dịch lơi khơi như thế này được chăng?
“Rắn rồng chọn đất dễ ưa,
Niềm quê lạc đạo sớm trưa nhẹ lòng,
Có khi chót vót cô phong,
Cười dài một tiếng hư không lạnh mình!”
Bây giờ, sau khi đi qua những tầng lớp ngữ nghĩa của bài thơ Ngôn hoài – ta mới thấy rõ, bài thơ của Thứ sử Lý Cao, do ngại chuyện đưa đón tầm thường (vô tống diệc vô nghinh) nên tìm được chỗ ẩn cư (trạch đắc u cư) có tình quê, có thú quê (dã tình); rồi có khi lên đỉnh núi cao (cô phong đỉnh), thấy mây vẹt, trăng tỏ (nguyệt hạ, phi vân) bèn cất lên một tiếng cười (tiếu nhất thanh)! Hai câu đầu có cốt cách xử sĩ thanh cao của Nho hay Lão. Tuy nhiên, câu hai không có đủ nội lực để đẩy lên câu ba như bài Ngôn hoài. Nên cô phong đỉnh ở đây không phải là không gian tâm linh của tuệ giác. Điều ấy càng rõ nghĩa hơn ở câu tư: Mây vẹt, trăng tỏ (vô minh tan, minh hiện), sau đó mới là tiếng cười của sự giác ngộ! Cấu trúc bài thơ này lỏng lẻo ngữ nghĩa, không chặt chẽ nhân quả bằng bài Ngôn hoài - có thể sử dụng kiến thức vỏ não cũng làm được! Nguyễn Đình Chú có vẻ chê tiếng cười của Dược Sơn -Duy Nghiễm: “Tiếng cười dài dưới trăng mây kia, tuy có hấp dẫn, nhưng dù sao chỉ là tiếng cười cao đạo của một con người đã không thích gì mấy sự hòa nhập trần gian...!” (KTNN,Số 147, 8-1994)
Vậy thì xin các nhà nghiên cứu văn học, văn học sử hãy trả lại nguyên vị giá trị tót vời của bài thơ Ngôn hoài – nó xứng đáng đại biểu cho văn học, thiền học không chỉ ở thời Lý mà cả cho cả mọi thời! Nghi ngờ tá văn, đạo văn là có tội. Lại càng có tội hơn khi giảng dạy văn học mà phân tích, bình luận áp đặt, chủ quan, không tới, đôi chỗ chứng tỏ kiến thức nông cạn của người viết:
Trong Văn 10, Nxb Giáo dục, 1991 của một vị giáo sư mà Nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy không muốn nêu tên, có phán: “Sự kết hợp giữa niềm vui về hạnh phúc trần thế với khát vọng hòa nhập với vũ trụ bao la. Thứ nhất, là tình yêu quê hương đất nước, đặc biệt với đất nước nông nghiệp thường được bắt đầu từ nguồn vui “thú quê” chung đó. Thứ hai, là khát vọng vươn tới trời đất vũ trụ bao la như một nhu cầu nhân văn cao đẹp. Nhà sư đang vui nỗi vui trần thế, bỗng nhiên lên đỉnh núi cao trơ trọi, kêu vang một tiếng làm lạnh cả bầu trời. Ở đây đã trèo lên là trèo lên thẳng một mạch, không chút rụt rè. Đã lên cao là lên cao không lưng chừng. Và một tiếng kêu vang đủ làm cho cả vũ trụ bao la kia kinh ngạc đến rùng mình ớn lạnh.” (trích lại, Văn hóa Việt ... của Đỗ Lai Thúy, Nxb VHTT, tr. 202).
Khá hơn một chút, Trần Đình Sử - có vẻ như đã nói gần gần đúng, rằng là: “...Nêu ý nghĩa biểu trưng của bài thơ “Lên thẳng” là hình ảnh của đốn ngộ, xảy ra trong chốc lát, như ánh chớp. “Đỉnh núi cao trơ trọi” đây thuần túy là ẩn dụ chỉ thế giới không vô. “Thái hư” là thế giới của nhà Phật mà chỉ kẻ đắc đạo mới có thể đạt đến. Và “cất tiếng kêu dài làm lạnh cõi thái hư ấy là dấu hiệu hòa nhập giữa ta và thế giới, thế giới và ta.” (Trích lại, tr.182, VHPG... của Nguyễn Công Lý, Nxb ĐHQG, TP/HCM). Cái gọi là không vô ấy, không phải đơn giản, dễ hiểu đâu (Có rất nhiều cái không: ngoan không, hư vô, không đối đãi với có, không của ý niệm, không của tâm, không của cảnh, không của vô, không của không, không trụ xứ, không vô biên, thức không, không có gì cả, không của phi tưởng; mười mấy cái không ấy đều không phải làkhông tánh (Suñyatā)- vì duyên khởi, vì vô ngã nên không - của Nikāya hoặc của Kim cương Bát-nhã - thấy được cái không này mới có tuệ giác); và còn cái thái hưkia – hư không rộng lớn – thì nhà Phật đắc nó mà làm gì! Còn sự hòa nhập giữa ta và thế giới cũng có phải là của Phật đâu! (xem dưới). Một chỗ khác thì Trần Đình Sử lại bình giảng khá lạ lùng: “...Thú quê là thú quê thật, leo núi là leo núi thật, cả bài như một bức tranh tả thực và tư thế hiên ngang chinh phục vũ trụ được hiểu khá rõ...” (Trích lại, Văn hóa Việt Nam... của Đỗ Lai Thúy, tr. 202, Nxb VHTT, 2005). Hèn gì, mà trong Văn học Lý Trần, người ta đã dịch chữ trực thướng là leo lên, trèo lên, xông lên, xông thẳng lên... như đi đánh giặc!? Oan uổng quá! Biết bao nhiêu thế hệ học sinh đã không thể hiểu được sức mạnh tâm linh của cha ông nội hàm trong dòng văn hóa dân tộc – là do các bậc thầy giáo, các ông Nghè, ông Cống, các nhà nghiên cứu văn học – đã không tự trang bị đủ cho mình những kiến thức cần thiết.
Có người nói từa tựa như đúng lắm, kêu lắm, cao siêu lắm, nhưng chỉ chứng tỏ kiến thức khuyết lõm của mình: “...Để hòa đồng và vui suốt ngày với thiên nhiên là hình ảnh con người mang khát vọng hòa nhập và chế ngự thiên nhiên... Là một tiếng kêu sảng khoái của một tâm hồn khoáng đạt với tư tưởng phá chấp triệt để và tinh thần thoải mái tột cùng, chứ không thể là của một người suốt ngày gõ mõ tụng kinh, câu nệ và tín điều một cách cứng nhắc khô khan. Tiếng kêu đó chính là sự trực cảm tâm linh, là trạng thái chứng ngộ của thiền sư. Cũng nhờ trực ngộ mà con người hòa nhập vào đại ngã vũ trụ. (Đoạn văn trên là của Nguyễn Công Lý trích của Nguyễn Công Lý trong VHPG, Sđd, tr.182-183). Lời bình giảng ấy thật là tệ hại, phàm phu tục tử hết chỗ nói. Vui suốt ngày với thiên nhiên không phải là tâm tuệ của một bậc thiền sư đạt ngộ! Khát vọng là những tâm và tâm sở si uế và trần tục! Giác ngộ, giải thoát của nhà Phật không bao giờ có tham vọng chế ngự thiên nhiên, chinh phục thiên nhiên như tây phương khoa học trục vật! (trên thì hòa đồng mà dưới là chế ngự!).Tiếng kêu sảng khoái - chắc là tiếng kêu trong phòng the! Lạc của thiền duyệt không phải là “tinh thần thoải mái tột cùng” như một cảm giác dung tục, tầm thường như thế! (Nói thêm: Đạo Phật chung chung, thời nào cũng vậy, giáo phái nào cũng vậy - có thể có chăng câu nệ và tín điều? Câu nệ là câu nệ gì? Câu nệ hình thức lễ nghi – cái dĩ lễ chế tâm cần thiết để thu thúc bản năng? Và tín điều? Xin thưa, Đạo Phật không có tín điều, đừng nhầm lẫn Đạo Phật với các tôn giáo hữu thần, mặc khải!) Còn nữa, “con người hòa nhập vào đại ngã vũ trụ” (tiểu ngã, Atman – hòa nhập đại ngã, phạm thể - Mahātman, Brāhman) là tư tưởng của Bà-la-môn giáo chứ không phải của Phật! (Chưa nói đến luận văn tiến sĩ, Sđd của tác giả này, có thể có trên trăm chỗ hiểu sai về Phật, về thiền một cách trầm trọng - mặc dầu có hằng chục GS, PGS... khen ngợi).
Dầu sao, có điều an ủi, là không phải ai cũng thế; Nhà thơ Chế Lan Viên có đôi mắt xanh, có nội lực văn hóa thâm hậu đã thấy được sức mạnh tâm linh tỏa ra từ bài thơ này, tiếng hú này - trong dòng mạch văn hóa, tiếp khí, tiếp lực, un đúc sức mạnh cho dân tộc - nên đã cô đọng, gãy gọn, rất ấn tượng, rất hạo nhiên: “Không có tiếng kêu dài này thì không có chiến thắng Bạch Đằng!” (Trích lại, Văn học Phật giáo... củaNguyễn Công Lý, Nxb Đại học Quốc gia TP-HCM, tr, 182).
Để nói lên lời kết:
Vì tiếng cười, tiếng hú của thiền sư Không Lộ nó cao diệu, mênh mông, ngoài biên tế, phạm trù, vượt không thời gian, chẳng ở nơi cái vỏ của ngôn ngữ khái niệm; làtiếng vọng dài của tuệ giác bên kia bờ - nên tôi xin mượn câu kết của Bát-nhã tâm kinh để nói điều không thể nói: Gate, gate, paragate, parasamgate; Bodhi-svāha! (Vượt qua, vượt qua, cứ vượt qua, hãy vượt qua một cách trọn vẹn; chào mừng sự bùng vỡ của tuệ giác!).
Tiếng hú từ ngàn năm trước ấy - chính là sự bùng vỡ của tuệ giác - đã bay qua sông dài, biển rộng, sử lịch, thời đại, văn học, thiền học, khổ đế của trần gian - cho đến hôm nay, tôi vẫn còn bị chấn động, bồi hồi và nghe buốt lạnh cả từng con chữ!
Am Mây Tía
Tiết đông lạnh, 2007
M.Đ.T.T.A
(nguồn: TCSH số 228 - 02 - 2008)
---------------------------
* Bài viết này được lấy cảm hứng từ bài tiểu luận: “Không Lộ thiền sư - người làm lạnh vũ trụ” của Nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy trong Văn hóa Việt ... Nxb Văn hóa Thông tin, 2005.
Bí mật của thiền định
Bản tin của Reuters dẫn tuyên bố của giáo sư Owen Flangan thuộc viện đại học Duke ở North Carolina đã tuyên bố rằng:"Bây giờ, chúng tôi có thể lập thuyết với nhiều tin tưởng rằng những bóng dáng các nhà sư có dáng dấp thanh thoát, an tịnh mà ta hay thấy ở những nơi như Dharamsala, Ấn độ, là họ thực sự hạnh phúc"
Chưa bao giờ các công trình nghiên cứu về những bí mật của Thiền định lại được các phương tiện thông tin đại chúng, các hãng truyền thông lớn, đề cập đến nhiều như thời gian vừa qua. Các hãng tin như AP, Reuter các báo như News Week, Time... đều có nhiều bài viết chi tiết mô tả những khám phá của các nhà khoa học Anh, Mỹ qua phương pháp chụp cộng hưởng từ hoạt động của bộ não các Thiền sư, đã phát hiện ra nhiều điều mà trước đây, khi nói đến hầu hết mọi người đều nghĩ rằng đó chỉ là những cảm giác có được do phương pháp tự kỷ ảm thị hoặc tưởng tượng mà thành.
Bản tin của Reuters dẫn tuyên bố của giáo sư Owen Flangan thuộc viện đại học Duke ở North Carolina đã tuyên bố rằng:"Bây giờ, chúng tôi có thể lập thuyết với nhiều tin tưởng rằng những bóng dáng các nhà sư có dáng dấp thanh thoát, an tịnh mà ta hay thấy ở những nơi như Dharamsala, Ấn độ, là họ thực sự hạnh phúc".
Bản tin của Reuters dẫn tuyên bố của giáo sư Owen Flangan thuộc viện đại học Duke ở North Carolina đã tuyên bố rằng:"Bây giờ, chúng tôi có thể lập thuyết với nhiều tin tưởng rằng những bóng dáng các nhà sư có dáng dấp thanh thoát, an tịnh mà ta hay thấy ở những nơi như Dharamsala, Ấn độ, là họ thực sự hạnh phúc".
Năm 1967, giáo sư Herbert Benson ở đại học Y Harvard đã tiến hành nghiên cứu trên 36 người thiền định và thấy rằng khi ngồi thiền họ dùng lượng oxy ít hơn bình thường 17%, giảm 3 nhịp tim/phút và tăng sóng theta ở não - hệt như trạng thái trước ngủ - trong khi toàn não vẫn tỉnh táo. 7 năm sau, tiến sĩ tâm thần học Gregg Jacobs, Đại học Harvard, qua ghi sóng não đã phát hiện ra rằng những người thiền có thể sản ra rất nhiều sóng theta và có thể phong tỏa phần não trước vốn nhận và xử lý cảm giác, ngoài ra họ cũng giảm thiểu hoạt động ở phần thùy đỉnh não, nơi phụ trách các cảm giác về không gian - thời gian. Bằng cách "tắt" thùy đỉnh não, người ta có thể mất cảm giác về giới hạn và thấy vũ trụ "trở thành một".
Cuộc nghiên cứu khác gần đây của Paul Ekman thuộc Trung tâm Y học, Viện đại học California, San Francisco, gợi ý rằng thiền định và quán chiếu có thể chế phục được nhân hạnh đào (amygdale), một vùng não lưu trữ những ký ức sợ hãi. Ekman khám phá ra rằng những thiền sư cao cấp khó bị chấn kích, bất an, hoảng hốt hay nổi giận như những người thường khác. Tuyến thượng thận, mơi tiết ra Adrrenalin, điền khiển nhịp tim trong các trường hợp sợ hãi, hoảng hốt gần như được các Thiền sư khống chế hoàn toàn. Ông tuyên bố trong một báo cáo trong tạp chí Nhà Khoa học mới (New Scientist) rằng: "Lập thuyết hữu lý nhất là có cái gì đó nơi hành thiền của Phật giáo đã dẫn đến một nguồn an lạc mà tất cả chúng ta đều mưu cầu".
Các nhà khoa học đều tin chắc rằng Thiền định hoàn toàn có khả năng "rửa" lại não, giải tỏa các khu vực căng thẳng vì máu ở trong tình trạng ách tắc. Các trào lưu Thiền định ở Mỹ đều tin rằng Thiền định có thể chữa được được các bệnh tim mạch, stress, ung thư, thậm chí cả AISD và đã có trường hợp thay thế cho Viagra! Những điều này thật ra không phải quá cường điệu, mọi hoạt động của cơ thể, mọi bệnh tật xét ra cho cùng đều xuất phát từ bộ não. Một bộ não khỏe mạnh chắc chắn sẽ có một cơ thể khỏe mạnh.
Thử lý giải những điều này trên cơ sở những điều đã biết và dựa trên các kinh sách về Thiền định trong Phật giáo chúng ta thấy; bộ não con người có 100 tỷ tế bào thần kinh. Mỗi tế bào thần kinh qua những đường dẫn truyền lại có quan hệ với 50 ngàn tế bào thần kinh khác. Điều này dễ hiểu sự hoạt động phức tạp trong việc xử lý các khối lượng thông tin khổng lồ của bộ não. Thế nhưng điều này cũng cho chúng ta hiểu câu nói mà nhà Phật hay nói: "Một niệm mà sinh thì trùng trùng duyên khởi". Một tế bào thần kinh hoạt động, tức khắc sự lan truyền diễn ra như trong phản ứng hạt nhân! Các ý nghĩ nối tiếp ý nghĩ, sự tư duy hình thành. Các bạn hãy thử ngồi năm phút lúc rảnh rỗi và đếm xem trong chừng đó thời gian mình đã nghĩ về bao nhiêu điều! Thường là không ít hơn 10 chuyện nghĩ khác nhau!
Thật kỳ lạ, ngoài những lúc tập trung làm việc, thì ra chúng ta sử dụng bộ não rất nhiều vào những chuyện vớ vẫn không đầu không cuối một cách chẳng để làm gì .
Tuy vậy đó là điều bình thường của người khỏe mạnh. Ở người bị bệnh tâm thần thì ý nghĩ của họ có thể chỉ có một nhưng họ không thể dừng nó lại được, nó cứ phát triển một cách bùng nổ và đến mức độ nào đó thì người bệnh sống với các ý nghĩ ấy, các ý nghĩ đều trở thành thật, và chúng ta gọi họ bị bịnh điên. Những người trong trạng thái stress, cũng không dứt ra được các tình cảm mà họ rơi vào. Điều này kéo dài sẽ đưa đến những hiệu ứng tiêu cực trên toàn cơ thể. Có người thì bị tim mạch, người thì đau dạ dày, người thì mất ngủ, suy nhược thần kinh, cơ thể...
Như vậy là người khỏe mạnh bình thường đều đã biết rằng các ý nghĩ là không có thật và không nên theo. Chúng ta đều biết dừng lại sau khi "chạy" theo nó một đoạn. Điều này tuy bình thường nhưng các thiền sư thì bảo đó là vọng tưởng. Cách gọi này không phải là không có lý ở góc độ vô bổ, vô nghĩa. Các phương pháp thiền định đều tìm cách chặn các niệm không cho nó khởi lên ngay từ gốc. Có phương pháp thì hướng sự tập trung suy nghĩ vào chuyện khác như đếm hơi thở, theo dõi cơ thể trên từng centimét vuông một, hoặc theo dõi một cách khách quan suy nghĩ của mình không lơi lỏng, nghĩ cái gì là biết mình đang nghĩ cái đó; .. Tất thảy đều một mục đích làm sự hoạt động của bộ não con người lắng xuống, yên tĩnh lại, dần dần đạt đến sự rỗng không.
Điều này hoàn toàn không dễ nếu không nói là vô cùng khó. Theo bản năng, bộ não chúng ta không chịu tĩnh lặng, ngay cả khi đang ngủ. Trong kinh Phật chúng ta đọc thấy câu "Chư Phật ngủ không mơ bao giờ!". Điều này cho thấy bậc giác ngộ đã hoàn toàn đạt đến một trạng thái hoạt động khác của bộ não và điều này thì rõ ràng khoa học chưa biết đến..
Nhà Thiền có câu chuyện như sau: Hương Nghiêm thông hiểu thiên kinh vạn quyển nhưng vẫn là người chưa ngộ đạo. Một hôm Quy Sơn đến và nói: "Anh thật là thông minh tài trí nhưng hãy nói cho tôi biết, anh từ đâu mà có?". Hương Nghiêm về lục tung hết tất cả sách vở để tìm câu trả lời. Đi đến cùng câu hỏi ấy là vũ trụ này từ đâu mà có. Không tự trả lời được ông tìm đến Quy Sơn và cầu khẩn: "Xin hé mở cho tôi cái bí mật của lời nói này". Quy Sơn bảo: "Nếu ta giải thích cho ngươi rõ ràng sau này ngươi sẽ oán ta". Thế là Hương Nghiêm vứt bỏ tất cả để về quê cuốc đất. Một ngày kia sau mười năm, lúc đang dãy cỏ, ông cuốc đụng một miểng sành và nhặt lấy quăng vào một bụi trúc. Miểng sành chạm phải một cây trúc khô và ngân lên một tiếng ngân đặc biệt. Hương Nghiêm bừng ngộ. Ông hiểu được ông từ đâu mà có, vũ trụ này từ đâu mà có. Ông quỳ xuống, lạy về phía Quy Sơn và bảo: "Sư phụ, lòng tốt của thầy thật bao la. Nếu ngày ấy thầy giải thích thì hôm nay làm sao con có được kinh nghiệm kỳ diệu này".
Triết học hiện đại, triết học phương Tây thì tiếp cận các quy luật, các thuộc tính của vật chất, của vũ trụ của sự sống... thông qua các khái niệm. Triết học phương Đông nói chung và Phật giáo nói riêng, không làm như vậy, các khái niệm luôn là vật cản, là tri chướng, không cho con người có thể mang cả trí tuệ cũng như thể xác của họ thâm nhập vào các quy luật có tính toàn vũ trụ. Khi giác ngộ thì mỗi tế bào cũng thấm đẫm cái quy luật được chứng đắc ấy.. Tôn giáo nào cũng vậy, cái mục tiêu cuối cùng luôn là động lực khiến các tín đồ theo và phấn đấu. Ở Phật giáo đó là giác ngộ, là Niết Bàn.
Thêm một kiến giải nữa về giác ngộ là thêm một hạt muối thả vào biển. Tuy vậy, vẫn không phải là không có cách. Chúng ta hãy thử giả định rằng chúng ta đã giác ngộ, chúng ta đã tuệ thông với nhiều phép thần thông tuyệt diệu, tai có thể nghe ngàn dặm, mắt có thể nhìn qua núi non biển cả, thân hình có thể đi mây về gió, tỏa sáng hào quang, tinh thần thông suốt không bị bất cứ một trở ngại nào, tạo hóa làm gì cũng có thể hiểu được, ông Thượng Đế, nếu có, thì ngồi uống trà với ổng mà không một chút e ngại .v.v... thì lúc ấy, cơ thể ta sẽ như thế nào? Bởi vì các phép thần thông ấy khó biết, khó giải bày, bởi vì cái đời sống tinh thần ấy hầu như không thể hiểu được, không thể kiểm chứng, không thể xác nhận nên chúng ta sẽ tìm hiểu ở một góc độ khác là xem lúc ấy cơ thể ta sẽ như thế nào.
Cái gì không biết chứ chắc chắn một điều rằng nó sẽ không giống với cái cơ thể ta trước đó. Cái gì không biết chứ chắc chắn một điều là ta sẽ chẳng có bệnh tật gì cả? Thật vô duyên khi một bậc giác ngộ mà bị huyết áp, lớn tim, ho lao hoặc ung thư. Có thể có một số bệnh ngoại khoa cấp tính như gãy xương, ruột thừa, hoặc bệnh kiết lỵ do ngộ độc nấm độc mà Đức Thế Tôn đã mắc phải... còn ngoài ra cơ thể ta là một sự khỏe mạnh đến trong suốt. Bệnh gì không biết chứ bệnh do tâm thần sinh ra như huyết áp, tim mạch, stress, mất ngủ, đau đầu, chóng mặt, hoa mắt, suy nhược, đau khớp, đái đường... sẽ không bao giờ mắc phải. Người đã mắc phải, thì nếu giác ngộ xong bệnh này cũng sẽ biến mất.
Chắc chắn là như vậy rồi. Chúng ta hãy hình dung, những bệnh trên xuất hiện do căng thẳng, lo nghĩ mà có. Người giác ngộ thế nào không biết chứ chắc chắn đó là người không còn biết sợ, biết lo nữa. Cuộc sống của họ là một sự ân sủng của tạo hóa ban cho trong từng giây, từng phút, thì hỏi làm sao huyết áp tăng cho được? Bệnh huyết áp là bệnh tây y bảo không chữa được. Chúng ta chưa có bằng chứng nhưng với những gì biết được chúng ta có thể chắc chắn rằng người giác ngộ không bao giờ tăng huyết áp. Các bác sĩ tim mạch hẳn cũng đồng ý điều này.. Và kể từ đó ta sẽ có những giấc ngủ luôn thật ngon, đặc biệt là không bao giờ mộng mị. Ngài A-nan khi kể về những giấc mơ của mình cho Phật nghe Phật cũng bảo rằng chư Phật ngủ chẳng mơ bao giờ. Không có bất cứ một giấc mơ nào dầu tốt hoặc xấu, dầu lành hoặc ác xuất hiện trong giấc ngủ người giác ngộ.
Đây là cái phần nhô lên nhỏ nhoi của tảng băng trôi; cái phần lớn nhất, quan trọng nhất, tinh hoa nhất của nó vẫn chìm dưới nước chưa được biết đến. Chỉ với một chút có thể nhận thấy này chúng ta đã có thể tin rằng nó rất thật..
Với giả định này chúng ta có thể tạm tin rằng người trong một chốc giác ngộ sẽ tự nhận thấy những chuyển biến kỳ lạ chưa từng biết đến xảy ra trong cơ thể mình. Nó rõ ràng như ngài Huệ Khả nói, "Nó thường biết rõ ràng, ngôn từ nói không tới!". Nó thấy được sờ sờ như ngài Huệ Năng nói "Ai dè....", nó cũng tràn đầy xúc cảm như ngài Bạt Tụy đã đi không vững, húc đầu vào cột nhà mấy lần, về đến nhà khóc suốt ba đêm ba ngày vì nó. Thiền sư Vô Môn Huệ Khai sau sáu năm miên mật, một ngày nọ khi nghe tiếng trống báo giờ cơm trưa sư hoát nhiên đại ngộ và ứng khẩu bài kệ sau:
Trời quang mây tạnh sấm dậy vang lừng.
Mọi vật trên đất, mắt bỗng thấy hết.
hồng nghìn tía cúi đầu làm lễ.
Núi Tu-di cũng nhảy múa vui mừng.
Sư được Thiền Sư Nguyệt Lâm ấn chứng. Khi mà mô tả cái khác biệt của mình trong giây phút trước và giây phút sau bằng những hình ảnh như thế, sấm dậy vang lừng, núi Tu di cũng nhảy múa, thì ta biết đó là những cảm giác rất cụ thể rõ ràng như thấy trước mắt, sờ bằng tay, hoàn toàn không có một chút nào của tâm thức. Nó không giống như Archimede hoặc Newton reo lên sung sướng nhưng rất dễ đột tử vì vỡ tim hoặc tai biến mạch máu não, người giác ngộ thì khác hoàn toàn.
Và ở cái trạng thái này thì sự vô minh hay giác ngộ, niết bàn hay địa ngục, thánh hay phàm, ma hay Phật, sân si hay buông xả, ngã hay vô ngã, thế giới vật chất là thường hay vô thường... nào có gì quan trọng! Mỗi phút giây là mỗi ân sủng mà tạo hóa đã ban cho. Các phép thần thông cũng đâu có gì là quan trọng bởi bản thân họ là một thần thông tuyệt diệu nhất. Trong trạng thái tĩnh lặng, yên vui ấy tai ta sẽ nghe tất cả âm thanh kỳ diệu của tạo hóa, từ tiếng chim hót đến điệu nhạc disco inh tai nhức óc, từ tiếng của chồi cây đang vươn lên đến âm thanh của các vì tinh tú xa xôi.
Năm 761 vua Túc Tông nhà Đường thỉnh Huệ Trung đến kinh đô phong làm Quốc sư. Suốt trong lần yến kiến vua đã hỏi ông nhiều câu, tuy nhiên ông không hề nhìn vua lấy một lần. Vua giận mới bảo: "Trẫm là Thiên Tử nước Đại Đường, sao thầy không một lần hạ cố nhìn đến trẫm?". Huệ Trung trả lời: "Bệ hạ có nhìn thấy hư không trên kia chăng?". "Có". "Hư không có nháy mắt với bệ hạ không?". Cái tâm thế hoàn toàn không thuộc về ý thức nhưng biết rõ là mình đồng với vũ trụ, hòa với cỏ cây rất thật ấy, khoa học hiện đại, tâm lý học hiện đại hoàn toàn chưa biết đến.
Có thật vậy không, không biết, chỉ có một điều chắc chắn là ta sẽ nghe rõ nhất những tiếng nói từ trong của cơ thể ta. Chính đây là bí ẩn của các bậc giác ngộ. Gần như tất cả đều biết giây phút mình ra đi và tất cả đều bình thản đón nhận. Nói như vậy là đã hơi xa cách, ở trạng thái này thì cái chết và cái sống không hề có phân biệt. Hay một điều là nó không cần đến một chút nào của ý thức để xác tín điều đó. Chúng ta, người đời vẫn hay nói về sự thanh thản khi chết, chuẩn bị cho cái chết, xem cái chết tựa lông hồng, thế nhưng xem cái chết như đang sống mà không cần đến một chút ý thức nào thì chỉ có ở người giác ngộ .
Có thật vậy không, không biết, chỉ có một điều chắc chắn là ta sẽ nghe rõ nhất những tiếng nói từ trong của cơ thể ta. Chính đây là bí ẩn của các bậc giác ngộ. Gần như tất cả đều biết giây phút mình ra đi và tất cả đều bình thản đón nhận. Nói như vậy là đã hơi xa cách, ở trạng thái này thì cái chết và cái sống không hề có phân biệt. Hay một điều là nó không cần đến một chút nào của ý thức để xác tín điều đó. Chúng ta, người đời vẫn hay nói về sự thanh thản khi chết, chuẩn bị cho cái chết, xem cái chết tựa lông hồng, thế nhưng xem cái chết như đang sống mà không cần đến một chút ý thức nào thì chỉ có ở người giác ngộ .
Tóm lại, đó vẫn là chuyện... như là chúng ta xem phim khủng long! Tất cả dựa trên một ít "xương cốt" hóa thạch để lại chứ khủng long sống thế nào, kêu rống thế nào thì chẳng ai biết. Các nhà khoa học đang tìm cách tái sinh nó. Giác ngộ cũng vậy, các Phật tử đều đang chờ Di Lặc xuất hiện mặc dầu tinh thần Phật giáo không xem điều đó làm trọng.
Hình như đã đến lúc con người bắt đầu hiểu được giá trị của mặt bên kia trong hoạt động của bộ não, mặt tĩnh lặng, không hoạt động nhưng lại vô cùng tỉnh thức. Con người đã nghĩ ra hằng trăm phương pháp thể dục cho cơ thể, thế nhưng một phương pháp thể dục cho tinh thần thì hầu như chưa ai nghĩ đến. May sao con người đã có phương pháp thiền định từ hơn 2500 năm trước, tuy bị lãng quên hoặc ngộ nhận nhiều điều nhưng cuối cùng chắc chắn nó sẽ có những đóng góp tích cực cho cuộc sống và văn minh nhân loại trong thiên niên kỷ thứ ba này.
http://www.phatgiaonguyenthuy.com/news-2133/Bi-mat-cua-thien-dinh.html
đêm của quỷ
Ngu Yên
Chạng vạng mang theo âm khí làm lạnh đường xuống xóm thị xã tây đà.
Quán X, đêm nay dành riêng cho quỷ, vì quỷ và người không chơi với nhau.
Kinh sách tưởng rằng người sợ quỷ.
Thật ra, quỷ rất sợ người.
Địa chỉ ae0da, cộng thành aa, bỏ ed, còn 0.
Con số tiêu biểu lòng tự tôn của các oan hồn nghệ sĩ. Lúc sống, ai cũng dành đứng đầu. Thấy không? chỉ một hàng ngang dài vô tận, vì khộng ai chịu đứng sau. Dù vậy, chẳng mấy ai toại nguyện, thành thử, hầu hết, chết oan.
Người chết không thành quỷ, chỉ giải thoát con quỷ sẵn có bên trong. Con quỷ bất tử, sinh ra từ mặt trái con người.
Trước quán treo bảng:
" Đêm nay không mở cửa đón khách thường xuyên. Sinh hoạt đặc nhiệm Nhóm Văn Nghệ Sĩ Quỷ."
Người qua đường nghe tiếng hủy hoại của giông bão bên trong.
Hẹn 6 giờ, 8 giờ bắt đầu, đến trễ, 9 giờ xin lỗi.
Chủ đề: " Ăn tủy văn hóa, uống máu nghệ thuật"
Chương trình liệt kê:
Trị liệu thi ca tiểu đường.
Đề phòng tiểu thuyết cao mỡ.
Chữa bệnh truyện ngắn cao máu.
Trụ sinh chống tiểu luận ho lao.
Giải phẫu triết lý ung thư.
Nhạc chọn lọc tương lai. Nhạc chưa sáng tác.
Diễn văn của quỷ, không quan trọng nội dung, vì không chết, cần gì bất tử.
Người đã chết, thơ văn nghệ thuật tư tưởng không thể hồi sinh.
Muốn sống lại, quỷ phải chết lần nữa.
Ưu điểm nhất của quỷ là đen thui giống nhau. Khi không thể phân biệt mặt mũi, không cần so đo tài năng, không cần tranh đấu danh vọng.
Quan trọng nhất của quỷ là tình yêu, vì quỷ dâm dục hơn người. Dâm dục bất tử và không bị nuôi con.
Quỷ có thời giờ vô hạn để tối tác. Vì vậy, đêm văn nghệ của quỷ, đầy tối tạo. Quỷ sợ sáng.
Đề tài thảo luận sau cùng: "Làm Sao Quỷ Có Thể Chết?" Đã chán làm người, nay chán làm quỷ, nhưng không chết.
Sống đời đời là hinh phạt khủng khiếp, cho dù là ai, kể cả Thượng Đế.
Trong hình ảnh đó, tác phẩm bất tử là xác ướp. Tự sầu khổ vì bị chưng bày, tra khảo, vay mượn. Chính nó cũng muốn chết, cho yên thân.
Tác giả bất tử là quỷ.
Hội thảo sôi nổi. Chưa có giải pháp, đã hết giờ. Mặt trời rục rịch đội mồ đi lên.
Hẹn lần tới sẽ tranh cãi tiếp.
Trước khi chia tay,
Mỗi con quỷ móc trái tim, đặt xuống bàn, rồi trịnh trọng nâng lên, "dzô", tất cả cùng nuốt vào. Trông hùng hồn, sảng khoái. Cử chỉ lương thiện nhất của quỷ.
Nhưng quỷ làm gì có tim.
Tim của người.
Ngu Yên
Thứ Bảy, 22 tháng 10, 2016
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)