STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh
" Cả cuộc đời ba không có gì để lại cho các con ngoài số vốn kiến thức mà ba mẹ tảo tần nuôi các con ăn học.Mong các con trở thành những người hữu ích cho xã hội" ( trích từ TT "Vững Niềm Tin")
Thứ Ba, 4 tháng 10, 2016
Siêu mini(chuổi ngọc)-giá 150k
Siêu mini(chuổi ngọc)-giá 150k--ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh
Khi chúng ta lùn hơn Campuchia, kém Thái Lan nửa cái đầu
Tôi tin rằng người Việt Nam có tố chất không thua gì người Campuchia hay người Thái Lan. Nếu chúng ta làm tốt vấn đề dinh dưỡng và thể chất thì chiều cao sẽ được cải thiện để khi gặp thì họ phải ngước nhìn ta thay vì ta ngước nhìn họ.
Trong một lần phát biểu mới đây, Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến cho biết chiều cao trung bình của nam thanh niên Việt Nam chỉ đạt 163,7 cm, chiều cao trung bình của nữ thanh niên Việt Nam là 153 cm. Con số này khiến không ít người giật mình vì không ngờ chiều cao trung bình của người Việt Nam thấp như vậy. Và chúng ta sẽ còn giật mình hơn nếu thấy chiều cao của Việt Nam đang thua kém cả người Campuchia và thấp hơn Thái Lan nửa cái đầu.
Theo thống kê của Average Height thì đàn ông Campuchia cao hơn Việt Nam 0,4 cm còn đàn ông Thái Lan đã cao vượt mốc 170 cm. Cũng theo thống kê của trang dữ liệu này thì phụ nữ Campuchia cao hơn chúng ta 0,2 cm còn phụ nữ Thái Lan đạt 159 cm. Con số này cũng khá phù hợp với thống kê mà báo Inquirer của Philippines đưa năm 2014 cho thấy người Campuchia cao hơn người Việt Nam.
Chiều cao thì có đáng quan tâm không? Rất đáng quan tâm vì khi bạn cao thì người khác sẽ phải ngước nhìn. Ở một góc độ nào đó, chiều cao trung bình cũng đánh giá mức độ phát triển của dân tộc đó so với thế giới. Nếu dân tộc đó no ấm thì người dân sẽ có chiều cao tốt hơn.
Lấy ví dụ ở bán đảo Triều Tiên. Ở phía nam vĩ tuyến 38 thì điều kiện kinh tế xã hội, người dân có chế độ dinh dưỡng tốt hơn và chiều cao rất đáng ngưỡng mộ. Số liệu của các tổ chức thế giới chỉ ra rằng đàn ông Hàn Quốc cao 173,5 cm và nữ giới là 161,1 cm. Còn ở phía bắc vĩ tuyến 38 thì điều kiện cuộc sống khó khăn hơn nên chiều cao cũng giảm đi. Đàn ông phía bắc bán đảo Triều Tiên chỉ cao 165,6 cm còn phụ nữ thì chỉ cao 154,9 cm. Cùng một dân tộc, cùng có điều kiện về địa lý, thổ nhưỡng như nhau nhưng chiều cao chênh lệch thì rõ ràng là do vấn đề dinh dưỡng.
Tôi tin rằng người Việt Nam có tố chất không thua gì người Campuchia hay người Thái Lan. Nếu chúng ta làm tốt vấn đề dinh dưỡng và thể chất thì chiều cao sẽ được cải thiện để khi gặp thì họ phải ngước nhìn ta thay vì ta ngước nhìn họ.
Vấn đề là phải có chiến lược để phát triển chiều cao mà nước Nhật đã từng thực hiện. Trước đây, khi Nhật đưa quân vào Đông Dương thì người ta thấy tầm vóc của họ nhỏ và gọi họ là Nhật lùn. Còn giờ chúng ta cần phải ngước nhìn khi chiều cao trung bình của người Nhật là 170,7 cm với nam, 158 cm với nữ. Người Nhật đã cao vọt sau nửa thế kỷ nhờ họ có chiến lược cải tạo nòi giống rất hiệu quả.
Sau chiến tranh thế giới thứ 2, dù kinh tế khó khăn nhưng Nhật vẫn tuyên truyền cho người dân hiểu chiều cao gắn với tự hào dân tộc, để khẳng định với thế giới rằng người Nhật không thấp kém. Họ khuyến khích phát triển thể thao từ trường học rất mạnh mẽ và nhờ phong trào thể dục tốt thì Nhật là cường quốc thể thao châu Á. Họ tạo điều kiện để áp dụng dinh dưỡng phương Tây một cách khoa học vào bữa ăn để tăng cường canxi phát triển xương. Và họ đã thành công.
Người Việt Nam sau 15 năm chiều cao gần như không cải thiện thêm. Tài liệu của tiến sĩ Paul Schultz của trường Đại học Yale chỉ ra rằng hồi đầu thập niên 90, chiều cao đàn ông Việt Nam là 162,1 cm, phụ nữ là 152,16 cm. Sau 15 năm mà chỉ cao thêm 1 cm là quá dở. Chúng ta chỉ lo đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng dường như bỏ quên việc đơn giản nhưng vĩ đại với nòi giống là tìm cách nâng chiều cao. Các biện pháp tuyên truyền khuyến khích dù có nhưng không đủ mạnh và hiệu quả để tác động tới xã hội.
Nhưng dù sao thì việc chăm lo chiều cao cho người Việt bây giờ cũng chưa muộn. Hãy tìm cách để 20 năm nữa, chúng ta ngang hàng khi đứng cạnh người Thái và không bị Campuchia vượt lên. Hay ít ra nếu khi đó có ngập lụt phức tạp thì chiều cao sẽ giúp con người chúng ta có cơ hội hít thở tốt hơn.
Anh Tú
Thứ Hai, 3 tháng 10, 2016
Nhớ Giáo sư Trần Văn Khê: Ngài chơi với ai mà chẳng biết một áng văn nào của Việt Nam?
Minh Trần / VNCA
[trích trong bài "Nhớ Giáo sư Trần Văn Khê: Tinh thần dân tộc chảy trong huyết quản"]
Niềm kiêu hãnh người Việt
Có một câu chuyện mang rất nhiều cảm hứng đã được Giáo sư kể đi kể lại cho các học trò. Câu chuyện ấy cũng được ông ghi lại trong cuốn hồi ký, kể về cuộc tranh luận bên lề buổi sinh hoạt của Hội Truyền bá Tanka Nhật Bản tại Paris vào năm 1964. Tham dự hầu hết là người Nhật và Pháp, duy chỉ có Giáo sư là người Việt. Diễn giả của buổi sinh hoạt ấy là một cựu Đề đốc Thủy sư người Pháp.
Vị này khởi đầu buổi nói chuyện với sự so sánh:
"Thưa quý vị, tôi là Thủy sư đề đốc, đã sống ở Việt Nam 20 năm mà không thấy một áng văn nào đáng kể. Nhưng khi sang nước Nhật, chỉ trong vòng một, hai năm mà tôi đã thấy cả một rừng văn học. Và trong khu rừng ấy, trong đó Tanka là một đóa hoa tuyệt đẹp. Trong thơ Tanka, chỉ cần nói một ngọn núi, một con sông mà tả được bao nhiêu tình cảm. Chỉ 31 âm tiết mà nói bao nhiêu chuyện sâu sắc, đậm đà. Nội hai điều đó thôi đã thấy các nước khác không dễ có được".
Giáo sư Trần Văn Khê vô cùng bức xúc. Sau khi buổi nói chuyện bước vào phần giao lưu, cử tọa hỏi còn ai đặt câu hỏi nữa hay không, Giáo sư đã đứng dậy xin phép phát biểu. Rào trước đón sau để không bị ai bắt bẻ, Giáo sư nói với một thái độ hết sức khiêm cung:
"Tôi không phải là người nghiên cứu văn học, tôi là Giáo sư nghiên cứu âm nhạc, là thành viên hội đồng quốc tế âm nhạc của UNESCO.
Trong lời mở đầu phần nói chuyện, ông Thủy sư Đề đốc nói rằng đã ở Việt Nam hai mươi năm mà không thấy áng văn nào đáng kể. Tôi là người Việt, khi nghe câu đó tôi đã rất ngạc nhiên. Thưa ngài, chẳng biết khi ngài qua nước Việt, ngài chơi với ai mà chẳng biết một áng văn nào của Việt Nam? Có lẽ ngài chỉ chơi với những người quan tâm đến chuyện ăn uống, chơi bời, hút sách... thì làm sao biết được đến văn chương?
Phải chi ngài chơi với Giáo sư Emile Gaspardone thì ngài sẽ biết đến một thư mục gồm trên 1.500 sách báo về văn chương Việt Nam, in trên Tạp chí Viễn Đông bác cổ của Pháp số 1 năm 1934. Hay nếu ngài gặp ông Maurice Durand thì ngài sẽ có dịp đọc qua hàng ngàn câu ca dao Việt Nam mà ông Durand đã cất công sưu tập... Ông còn hiểu biết về nghệ thuật chầu văn, ông còn xuất bản sách ghi lại các sinh hoạt văn hóa của người Việt Nam.
Nếu ngài làm bạn với những người như thế, ngài sẽ biết rằng nước tôi không chỉ có một, mà có đến hàng ngàn áng văn kiệt tác. Tôi không biết ngài đối xử với người Việt Nam thế nào, nhưng người nước tôi thường rất hiếu khách, sẵn sàng nói cái hay trong văn hóa của mình cho người khác nghe. Nhưng người Việt chúng tôi cũng "chọn mặt gửi vàng", với những người phách lối có khi chúng tôi không tiếp chuyện. Việc ngài không biết về áng văn nào của Việt Nam cho thấy ngài giao du với những người Pháp như thế nào, ngài đối xử với người Việt ra sao. Tôi rất tiếc vì điều đó. Vậy mà ông còn dùng đại ngôn trong lời mở đầu".
Chơi đàn tranh như một niềm vui hàng ngày của cố giáo sư Trần Văn Khê.
Rồi để so sánh với Tanka, Giáo sư đưa ra những câu thơ như:
"Núi cao chi lắm núi ơi/ Núi che mặt trời, không thấy người yêu"
hay
"Đêm qua mận mới hỏi đào/ Vườn hồng đã có ai vào hay chưa"
để đối chiếu: tức là cũng dùng núi non, hoa lá để nói thay tâm sự của mình.
Còn về âm tiết, Giáo sư kể lại câu chuyện về Mạc Đĩnh Chi thời nhà Trần đi sứ sang nhà Nguyên (Trung Quốc). Lúc ấy bà hậu phi của vua Nguyên vừa mất, họ muốn thử tài sứ giả nên mời ông làm một bài điếu văn, đề bài là phải có bốn chữ "nhất". Đại sứ không hốt hoảng mà ứng tác liền:
"Thanh thiên nhất đóa vân
Hồng lô nhất điểm tuyết
Thượng uyển nhất chi hoa
Dao trì nhất phiến nguyệt
Y! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết!
(Nghĩa là:
Một đám mây giữa trời xanh
Một bông tuyết trong lò lửa
Một bông hoa giữa vườn thượng uyển
Một vầng trăng trên mặt nước ao
Than ôi! Mây tản, tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết!)
- Tất cả chỉ 29 âm chứ không phải 31 âm để nói việc người vừa mất đẹp và cao quý như thế nào).
Khi Giáo sư Trần Văn Khê dịch và giải nghĩa những câu thơ này thì khán giả vỗ tay nhiệt liệt. Đã vậy, Giáo sư còn thòng thêm một câu:
"Tất cả những điều trên tôi biết được là nhờ học ở trường trung học"để cho thấy văn học Việt Nam "thâm hậu" như thế nào. Ông Thủy sư Đề đốc đỏ mặt và phải xin lỗi Giáo sư Trần Văn Khê lẫn người Việt Nam ngay trong chương trình. Kết thúc buổi nói chuyện, ông Thủy sư lại đến gặp riêng Giáo sư và ngỏ ý mời ông đến nhà dùng cơm để được nghe nhiều hơn về văn hóa Việt Nam. Giáo sư tế nhị từ chối, còn nói người Việt không mạo muội đến dùng cơm ở nhà người lạ. Vị Thủy sư Đề đốc nói: "Vậy là ông chưa tha thứ cho tôi". Giáo sư lại nói: "Có một câu mà tôi không thể dùng tiếng Pháp mà phải dùng tiếng Anh. Đó là: I forgive, but I cannot yet forget (Tạm dịch: Tôi tha thứ, nhưng tôi không thể quên)".
...
Hồi chừng năm 2004, thầy quyết định bỏ hết để về Việt Nam và nghĩ mình phải làm gì đó trong những ngày còn lại để giúp cho đồng bào. "Không có hạnh phúc nào bằng được nói tiếng Việt, giảng dạy cho người Việt Nam. Không có cái ngon nào bằng được ăn món ăn Việt Nam và được nghe âm nhạc Việt Nam trên đất nước Việt Nam". "Không thể lấy bánh mì Pate mà thay cơm Việt Nam, không thể lấy rượu Tây mà thay được ngụm nước quê nhà."
Trích những lời dạy của Giáo sư Trần Văn Khê dành cho các học trò tại tư gia.
Minh Trần - Xuân 2016
Link http://vnca.cand.com.vn/Ly-luan/Nho-Giao-su-Tran-Van-Khe-Tinh-than-dan-toc-chay-trong-huyet-quan-381318/ 08:00 05/02/2016
BÀI THƠ XUÔI CHO ANH
TRẦN THU THẢO
Chàng dáng ơ hờ trên đường qua phố chợ
Tóc rối khô trăm lượt gió chông chênh
Mắt đắm nhìn sao quá đổi mông mênh
Môi vướng vất vài sợi thuốc vàng ngạo nghễ.
Hơi thở mòn nhà em xa quá thể
Đôi chân buồn chở nặng tấm lòng khô
Tìm đến em phải chăng nối khúc Nhị hồ
Cũng rời rã độc điệu như tiếng chim tìm bầy lạc lõng
Bước chân vội thềm nhà em vàng võ
Tường xám xanh khung lá cửa chơ vơ
Em ngồi đây chờ anh đến không ngờ
Tim yếu ớt đập lời ca cách trở
Anh cho em niềm vui
Em tặng anh nỗi buồn đắng chát
Anh cho em tình yêu
Em bù đắp ánh mắt hoài nghi
Tặng anh vòng hoa sầu
Kết cho em xâu chuỗi ưu tư
Đày đọa linh hồn cho nỗi đau chất ngất
Em muốn quì trước anh bày tỏ niềm riêng
Như con chiên ngoan xưng tội ngày thứ Tám
- Vâng thưa anh, em phạm tội xem nhẹ tình ta
Em xem nhẹ tình đôi ta diễm tuyệt
- Vâng thưa anh, em nhuộm đen tình ta
Em nhuộm đen tình đôi ta cay đắng.
Rồi nhẹ nhàng, em tìm lại được em
Chúa vẫn thứ tha
Kẻ tông đồ bắt mình dâng cho kẻ ác
Phật vẫn thứ tha
Khi tên đồ tễ đã quăng dao
Vậy thì anh
Hãy thương xót lấy em
Em yếu đuối
Hãy giúp em lòng can đảm
Xin chớ lạnh lùng
Nhìn em sa xuống vực đau thương
Hãy nói thật nhiều
Hãy cười thật lắm
Hãy giúp em bước qua hố thẳm buồn rầu
Hãy ca ngợi với em đời vẫn đẹp
Hãy cứ dối
Để em cố tin là thật
Hãy cứ cười
Cho em qua khỏi ngày tháng lao đao.
(Những ngày tháng cũ)
Tóc rối khô trăm lượt gió chông chênh
Mắt đắm nhìn sao quá đổi mông mênh
Môi vướng vất vài sợi thuốc vàng ngạo nghễ.
Hơi thở mòn nhà em xa quá thể
Đôi chân buồn chở nặng tấm lòng khô
Tìm đến em phải chăng nối khúc Nhị hồ
Cũng rời rã độc điệu như tiếng chim tìm bầy lạc lõng
Bước chân vội thềm nhà em vàng võ
Tường xám xanh khung lá cửa chơ vơ
Em ngồi đây chờ anh đến không ngờ
Tim yếu ớt đập lời ca cách trở
Anh cho em niềm vui
Em tặng anh nỗi buồn đắng chát
Anh cho em tình yêu
Em bù đắp ánh mắt hoài nghi
Tặng anh vòng hoa sầu
Kết cho em xâu chuỗi ưu tư
Đày đọa linh hồn cho nỗi đau chất ngất
Em muốn quì trước anh bày tỏ niềm riêng
Như con chiên ngoan xưng tội ngày thứ Tám
- Vâng thưa anh, em phạm tội xem nhẹ tình ta
Em xem nhẹ tình đôi ta diễm tuyệt
- Vâng thưa anh, em nhuộm đen tình ta
Em nhuộm đen tình đôi ta cay đắng.
Rồi nhẹ nhàng, em tìm lại được em
Chúa vẫn thứ tha
Kẻ tông đồ bắt mình dâng cho kẻ ác
Phật vẫn thứ tha
Khi tên đồ tễ đã quăng dao
Vậy thì anh
Hãy thương xót lấy em
Em yếu đuối
Hãy giúp em lòng can đảm
Xin chớ lạnh lùng
Nhìn em sa xuống vực đau thương
Hãy nói thật nhiều
Hãy cười thật lắm
Hãy giúp em bước qua hố thẳm buồn rầu
Hãy ca ngợi với em đời vẫn đẹp
Hãy cứ dối
Để em cố tin là thật
Hãy cứ cười
Cho em qua khỏi ngày tháng lao đao.
(Những ngày tháng cũ)
Chủ Nhật, 2 tháng 10, 2016
Tại sao cô đơn là định mệnh (nhưng không sao cả)
Sự thật là, một cá nhân nhạy cảm và thông minh sớm muộn cũng không thể nào tránh khỏi cảm giác cô đơn tột cùng.
Không có nhiều lời tự thú nào đáng hổ thẹn hơn là thừa nhận việc chúng ta đang cô đơn. Ta vẫn thường mặc định rằng một người đáng kính trọng thì không thể nào phải chịu cô độc, trừ khi người đó chuyển đến một nơi xa lạ hoặc không may gặp cảnh góa bụa. Thế nhưng sự thật là cảm giác cô đơn tột độ là một phần không thể tách rời của một cá nhân nhạy cảm và thông minh. Đó là một đặc tính tự nhiên của một sự tồn tại phức tạp. Có một vài lý do chính cho việc này:
- Trong khi ta tha thiết được người khác công nhận và mong muốn được chia sẻ, thì rất nhiều điều trong số đó lại không dễ được xã hội chấp nhận chút nào. Nhiều ý tưởng trong góc khuất của bộ óc chúng ta quá kỳ quặc, quá khó hiểu hoặc quá đáng báo động để có thể chia sẻ với một ai khác. Chúng ta đối diện với sự lựa chọn giữa việc thành thật và việc được xã hội chấp nhận, dễ hiểu là hầu hết chúng ta sẽ chọn cách thứ hai.
- Để lắng nghe và thấu hiểu người khác tốn rất nhiều công sức. Chúng ta không nên đổ lỗi cho người khác chỉ vì họ không thể tập trung vào con người ta. Họ có thể muốn gặp ta, nhưng ta nên chấp nhận rằng phần lớn nguồn năng lượng của họ được dùng để giữ chủ đề cuộc nói chuyện xoay quanh cuộc đời họ.
- Chúng ta đều phải chết một mình, điều đó có nghĩa là ta phải tự mình trải qua mọi nỗi đau. Người khác có thể đưa lời an ủi chúng ta nhưng trong mỗi cuộc đời, mỗi người chúng ta sẽ phải một mình lênh đênh trên đại dương, chìm trong những con sóng và những người khác, kể cả những người tử tế, sẽ đứng trên bờ và hân hoan vẫy tay.
- Việc tìm được một người đồng điệu tâm hồn với ta là gần như không thể: chúng ta khao khát sự đồng nhất tận cùng nhưng sẽ luôn luôn tồn tại sự thiếu hòa hợp, bởi chúng ta xuất hiện trên Trái Đất vào những thời điểm khác nhau, là sản phẩm của những gia đình và trải nghiệm khác nhau và đơn giản là chúng ta không cùng một loại người. Do đó những người khác sẽ không đơn giản là bước vào đời và nghĩ giống ta. Nhìn lên bầu trời đêm, ngay khi ta muốn họ nói gì đó cao xa và đẹp đẽ, họ có lẽ chỉ đơn giản nhớ đến những chuyện vặt chán chường hay những chi tiết ngẫu nhiên về cuộc sống của họ (hoặc ngược lại). Điều này gần-như-là-hoạt-họa.
- Chúng ta gần như sẽ không thể gặp được người hiểu ta rõ nhất, nhưng họ thực sự tồn tại. Có thể họ đã từng đi ngang qua chúng ta trên đường, dù một trong hai người hoàn toàn không có ý niệm nào về mối liên hệ tiềm tàng đó. Hoặc có lẽ họ đã chết ở Sydney hai tuần trước hoặc sẽ không sinh ra trên đời cho đến tận thế kỷ 22. Việc này không phải là một âm mưu. Chúng ta chỉ cần thêm may mắn, có lẽ cần rất nhiều.
- Khi ta càng suy nghĩ nhiều và nhận thức nhiều, vấn đề sẽ càng trở nên nghiêm trọng. Đơn giản là sẽ càng có ít người giống ta. Đây hoàn toàn không phải là nét huyền bí của chủ nghĩa lãng mạn: cô đơn thực sự là khoản thuế chúng ta phải trả để duy trì một bộ óc phức tạp.
- Khao khát được lột trần một ai đó hẳn nhiên cấp bách hơn mong muốn có một cuộc đối thoại có ý nghĩa, và ta cuối cùng bị khóa chặt trong những mối quan hệ với những người mà ta không có nhiều chuyện để nói, vì ta đã từng say đắm hình dáng một chiếc mũi hoặc chìm sâu trong một màu mắt tuyệt đẹp.
Tuy nhiên, bất chấp tất cả, chúng ta không nên sợ hãi hay xấu hổ bởi cuộc đời ta thấm đẫm sự cô đơn.
Ở một giây phút đáng giận gần cuối đời, tác gia Đức Goethe, người tưởng chừng có rất nhiều bạn bè, cay đắng thừa nhận: “Không ai từng hiểu tôi đúng nghĩa, tôi chưa từng được ai thấu hiểu hoàn toàn; và không ai hiểu một ai khác”.
Quả là một sự giác ngộ hữu ích của con người vĩ đại đó. Đó không phải lỗi của chúng ta: sự xa cách và việc không hiểu được nhau không phải là dấu hiệu của cuộc đời tồi tệ; ngược lại, đó là việc chúng ta cần nhận thức được từ lúc đầu tiên. Và khi ta hiểu được, nó sẽ mang lại cho ta nhiều lợi ích:
- Chỉ khi chấp nhận cô đơn ta mới có thể sáng tạo: ta có thể bắt đầu gửi đi thông điệp trong một cái chai, ta có thể hát, làm thơ, viết sách và blogs, làm tất cả những hoạt động xuất phát từ việc nhận ra những người xung quanh chúng ta sẽ không bao giờ hiểu được con người ta hoàn toàn nhưng những người khác - ở một không gian và thời gian khác, có thể dễ dàng làm được việc đó.
- Lịch sử của nghệ thuật là sự ghi dấu của những con người không thể nói chuyện được với ai cùng thời. Chúng ta có thể giải được sự gần gũi được mã hóa trong ngôn từ của một nhà thơ La Mã mất năm thứ 10 trước CN hoặc trong lời nhạc của một ca sỹ vừa hát lên nỗi buồn của chính chúng ta trong một bản nhạc được thu âm tại Nashville năm 1963.
- Sự cô đơn giúp ta có thể tận hưởng sự gần gũi thực sự nếu có một cơ hội tốt. Sự cô đơn nâng tầm những cuộc đối thoại của ta với chính bản thân chúng ta, nó đưa đến cho ta một cá tính. Ta sẽ không lặp lại những gì người khác nghĩ. Ta có một quan điểm. Ta có thể cô độc tại thì hiện tại nhưng ta sẽ có mối liên kết gần gũi, thú vị với ai đó mà ta tìm được trong thì tương lai.
- Ngay cả những người mà chúng ta nghĩ sẽ không cô đơn thực tế cũng cô đơn. Những năm sau này, những người mà bạn thấy mang nụ cười thường trực có thể sẽ thú nhận, trong khủng khoảng, rằng họ cảm thấy không được thấu hiểu. Việc bên nhau đầy niềm vui và những tiếng cười không phải là bằng chứng của việc họ đã tìm thấy câu trả lời; nó là chứng cứ của khoảng thời gian tuyệt vọng một số người cố gắng để giấu sự thật là chúng ta đều cô đơn một cách không thể cứu chữa.
- Sự cô đơn mang đến cho ta nét tao nhã kỳ lạ. Nó gợi ý rằng có nhiều điều để biết về chúng ta hơn những gì mà thói thường của giao tiếp xã hội có thể mang lại - đây là một việc đáng tự hào. Cảm giác cô độc thực sự là một dấu hiệu của chiều sâu nội tâm. Khi ta thừa nhận sự cô đơn của chính ta, ta đang đăng ký vào một câu lạc bộ bao gồm những người ta biết từ những bức họa của Edward Hopper, thơ Baudelaire và những bài ca của Leonard Cohen. Cô đơn, ta nối tiếp một truyền thống rộng lớn; ta thấy bản thân ta được nối kết (một cách đáng kinh ngạc).
Chịu đựng nỗi cô đơn gần như luôn tốt đẹp hơn những gì ta phải chịu thỏa hiệp để được hòa nhập vào cộng đồng mà ta không thuộc về. Cô đơn đơn giản là cái giá phải trả để giữ vững một quan điểm chân thành và đầy chân thành về việc thế nào là một sự bầu bạn đích thức.
Trạm Đọc (Read Station)
Theo The Book of Life
Lưu Nguyễn Ngân Hà dịch
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)