Thứ Hai, 11 tháng 7, 2016

LUẬT TRONG VĂN MINH Á ÐÔNG: TRUNG HOA, NHẬT BẢN VÀ VIỆT NAM



Tôi sẽ nói 3 vấn đề: Luật và đạo đức; Chữ Hòa trong văn minh Trung Hoa, Nhật Bản và trong giới luật Phật giáo; Ðạo Phật trong luật cổ Nhật Bản và Việt Nam.

I - LUẬT VÀ ÐẠO ÐỨC

Ðây là vấn đề liên quan đặc biệt đến Khổng giáo. Vì vậy, phải nói đến triết lý Khổng giáo trước hết.

Câu hỏi căn bản của Khổng giáo là: điều ác (xấu) đến từ đâu, đến từ bản tính của con người hay từ giáo dục xấu?

Có thể có hai câu trả lời, mỗi câu bao hàm một quan niệm khác nhau về quyền lực và về giáo dục. Câu trả lời lạc quan: bản tính con người là thiện. Khổng tử viết: "Nhân chi sơ, tính bản thiện". Khổng Tử, Mạnh Tử, khuynh hướng chính thống dạy như vậy.

"Tính bản thiện". Vậy nếu con người trở nên xấu là tại xã hội đã đi lệch những quy tắc thiên nhiên mà trời đã định. Bởi vì người là sản phẩm của giáo dục và của đời sống xã hội, cách chữa trị là giáo dục xã hội và con người, giáo dục theo những nguyên tắc thiên nhiên. Khổng giáo, do đó, đặt nặng vấn đề giáo dục. Giáo dục để làm con người trở nên thiện bằng cách giúp con người trở về với cái thiện bẩm sinh. Nói cách khác, đề án xã hội của Khổng giáo là đặt trật tự chính trị dưới đòi hỏi của đạo đức. Thời của Khổng Tử (thế kỷ 6 trước Tây lịch) là thời loạn, không có kỷ cương, chư hầu tranh ngôi. Khổng Tử muốn tái lập trật tự bằng cách đặt trật tự đó dưới sự cai trị của tầng lớp nho sĩ được lựa chọn vì có trí thức, vì có thẩm quyền, vì có đạo đức. Ðó là một sự thách đố mà nhiều người cho là mộng mị, viễn vông - thách đố dựa trên sự tin tưởng rằng quyền lực phải đi đôi với đạo đức. Trích Khổng Tử, Mạnh Tử... ra thì nhiều lắm về điểm này, bởi vì trong 25 thế kỷ, văn hóa Trung Hoa chỉ nhắc lui nhắc tới lời nhắn nhủ này thôi. Ðại khái là: một chính thể hữu hiệu là một chính thể đạo đức; vua cai trị với đạo đức là hợp thiên mệnh, vua cai trị với bạo lực là trái. Vua như vậy thì quan cũng như vậy. Tóm lại, căn bản của quyền lực, theo Khổng, là đạo đức, là đạo đức cai trị, và mộng mị của Khổng chính là cho rằng có thể cai trị bằng đạo đức mà không cần luật. Trong triết lý, khuynh hướng đó mang tên là nhân trị chủ nghĩa. Cai trị bằng người.
Câu trả lời thứ hai về câu hỏi nêu lên ban nảy có tính cách bi quan: bản tính con người là ác. Ðây là chủ trương của Tuân Tử, cũng là môn đồ của đức Khổng (thế kỷ 3 trước TL). Tuân Tử chứng kiến sức mạnh đang dâng lên của Tần Thủy Hoàng. Lạ thật, kẻ thôn tính thiên hạ không phải là một thiên tử đạo đức, mà là một bạo chúa cai trị bằng bạo lực và mưu mô. Lạ nữa, thiên hạ thôn tính rồi, đao binh chấm dứt, hòa bình vãn hồi, chính hòa bình tạo nên những điều kiện thuận lợi cho sự trù phú vật chất và cho sự mở mang đạo đức và trí thức của dân gian.

Ấy thế thì, Tuân Tử kết luận, đạo đức không phải bẩm sinh. Con người bản chất là tham lam, nhưng vì sống trong xã hội, tham lam gì cũng phải để ý đến cái ước muốn của người khác. Các thiên tử trong lịch sử (Nghiêu Thuấn là những hiền nhân) đã chế ra lễ, luật để chấm dứt lộn xộn và tranh chấp, để người người có thể sống trong ổn định. Ðạo đức là cốt để làm thuần con người, nhưng đạo đức không quan trọng bằng luật.

Hai người học trò của Tuân Tử đã khai triển triệt để lý thuyết của thầy. Người thứ nhất là Hàn Phi Tử, triết gia, lý thuyết gia. Ông để lại quyển sách, nền tảng của lý thuyết "pháp trị chủ nghĩa". Người thứ hai là Lý Tư, chính trị gia, áp dụng lý thuyết, sau khi đã trừ khử tánh mạng của bạn đồng môn và trở thành tể tướng của Tần Thủy Hoàng.

Pháp trị chủ nghĩa lấy lập trường đối chọi thẳng thừng với nhân trị chủ nghĩa. Bên kia mộng mị thì bên này thực tế. Bởi vì bản tính con người là ác, đừng hòng dạy dỗ nó trở thành thiện. Muốn duy trì hòa bình xã hội, chỉ có cách bắt con người tuân theo luật, mà luật được tuân theo là vì con người sợ trừng phạt. Bí quyết của một chính quyền hữu hiệu là một bộ luật - luật hình - được minh thị công bố và áp dụng một cách vô tư. Công bố: lúc đầu là khắc trên vạc dầu, sau là đá, gỗ, không phải dân sợ mà quan cũng sợ. Ðây cũng là một cách hạn chế quyền hành độc đoán, bởi vì tin tưởng vào đạo đức của quan là không đủ. Hàn Phi Tử có lý thuyết rất tân tiến về luật, nhất là về sự áp dụng luật và tính cách vô tư, không thiên vị của luật.

Không phải cái gì của phái "pháp gia" cũng dở đâu. Hay lắm! Có điều là, cũng giống như phái "nhân trị" cho rằng có thể cai trị bằng đạo đức mà không cần luật, phái pháp gia tin rằng có thể cai trị bằng luật mà không cần đạo đức.

Lý Tư chẳng cần đạo đức. Ông gà cho Tần Thủy Hoàng rằng cái bọn quân sư nhà Nho trong triều là bọn ăn hại, ăn bám, bọn trí thức phách lối, phá hoại, mở miệng ra là chỉ trích. Cách hay nhất để triệt bọn chúng nó là đốt hết sách. Khổ nỗi, mấy ông nhà Nho này quen lối học thuộc lòng, cho nên cũng khó đốt được sách trong bụng mấy ông. Vậy thì chôn sống mấy ông là hay nhất.

Ðó là tôi nói sơ lược về nhân trị và pháp trị. Bây giờ đi sâu thêm vào học thuyết để thấy cái đốp chát giữa hai phe.

Khổng Tử nói: nếu vua cai trị bằng biện pháp chính trị và bằng luật hình, dân sẽ cố tránh không vi phạm, nhưng sẽ không có ý thức gì về danh dự cả. Nếu vua cai trị bằng đạo đức, bằng lễ nghĩa, dân không những có ý thức danh dự, mà còn được hoán cải toàn vẹn.

Thương Ưởng (338 trước TL) bảo: nếu vua cai trị bằng luật hình, dân sẽ sợ; dân sợ thì không phạm tội; dân không phạm tội thì xã hội hòa bình, hạnh phúc. Trái lại, nếu vua chỉ cai trị bằng chính trực, dân sẽ phóng túng; dân phóng túng thì trật tự rối loạn, xã hội khổ sở.

Khổng Tử dạy: chính sự tốt là nhờ người hiền và có khả năng.

Hàn Phi bác: chẳng nên cầu hiền, chỉ cần nắm được những giải pháp cụ thể, thiết thực hằng ngày. Cứu người chết đuối ở sông Hương, chẳng lẽ phải chạy vào Đà Nẵng để tìm cho được chàng quán quân bơi lội! Một người cai trị bình thường, nhưng cai trị với luật, vẫn đạt kết quả tốt. Rót nước mắm vào chai mà dùng cái phễu thì ai rót cũng được. Cái phễu, đó là luật, là dụng cụ, chứ không phải người.

Mạnh Tử nhận xét: người ta vươn đến thiện như nước chảy vào chỗ thấp.

Thương Ưởng nói ngược: người ta vươn đến lợi ích riêng (ích kỷ) như nước chảy vào chỗ thấp.

Hàn Phi Tử bình chú câu chuyện sau đây: Quan tể tướng uống rượu hơi nhiều, say, ngủ vùi. Người giữ mũ của quan sợ quan lạnh, lấy áo trùm cho quan. Tỉnh ngủ và tỉnh rượu, quan thức dậy khoan khoái. Khoan khoái một hồi, chợt quan hỏi tả hữu: "Ai trùm áo cho ta vậy?" - "Dạ, quan giữ mũ". Quan gọi người giữ mũ và người giữ áo lại, phạt cả hai: người giữ áo vì sơ suất, người giữ mũ vì vượt quá quyền hạn của mình.

Hàn Phi Tử bình chú: chẳng phải là quan không biết rằng quan ngủ lạnh như vậy thì có thể trúng gió; chỉ vì quan quan niệm rằng thi hành bổn phận không phân minh là có hại hơn là trúng gió.

Khổng Tư bảo: "Nếu đức và nhạc không được vun trồng, hình luật sẽ không thấy được chỗ trung dung, và [...] người ta sẽ không biết đặt chân đặt tay vào chỗ nào".

Lại một chuyện khác. Thời nhà Chu, có người cha ăn trộm cừu. Ra trước công đình, quan hỏi người con, con khai tội cha. Quan kết án, chém người con vì bất hiếu. Khổng Tử tán thành. Hàn Phi Tử kết án ông quan. Khổng Tử cũng khen ngợi một người con đã đào ngũ hai lần vì có cha già phải phụng dưỡng.

Nói tóm lại: một bên cậy trên người tốt, một bên cậy trên luật hữu hiệu. Theo phái pháp gia, dựa trên yếu tố người là bấp bênh, không vững chắc, lại dễ đưa đến hệ quả là trao cho nhà cầm quyền một uy quyền độc đoán.

Có điều là trong lịch sử Trung Quốc, tư tưởng của phái pháp gia chẳng bao giờ chiếm được ưu thế lâu dài. Tôi đã nói: không phải pháp gia dở đâu. Họ có nhiều điểm tích cực lắm. Họ đả phá tư tưởng tùy tiện. Họ đả phá khuynh hướng rập theo khuôn sáo. Ðó là hai tệ hại lớn của Trung Hoa. Tùy tiện đưa đến độc tài. Khuôn sáo tạo ra bảo thủ, cổ hủ. Trật tự xây dựng trên một thứ luật không thiên lệch và tách biệt ra khỏi người, là một trật tự đúng đắn, vững chắc.

Thế nhưng tại sao tư tưởng của họ không bám rễ được? Muốn trả lời câu hỏi này, hình như chỉ cần hỏi một người dân bình thường Trung Hoa, Nhật Bản hoặc Việt Nam: ai có lý? Khổng tử hay Hàn Phi? Có lẽ ai cũng thấy xã hội cần luật. Nhưng hình như văn minh Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam không duy lý như văn minh Âu châu. Hình như đạo đức vẫn là đòi hỏi từ trong tâm khảm. Hình như tính xuề xòa vẫn là khuyết tật cố hữu: chín bỏ làm mười. Hình như đức tính khoan hòa, độ lượng, trung dung vẫn là lý tưởng trong cách xử thế của con người.

Mà cũng lạ: các tay pháp gia đầu não đều bị chết bi đát. Thương Ưởng (đời Tần) bị xé xác sau khi vua mất, vì đã dám buộc đông cung thái tử phải tôn trọng luật pháp. Hàn Phi được Tần Thủy Hoàng mời vào nghỉ mát trong nhà ngục rồi được ban cho ân huệ cuối cùng: quyền được tự tử. Lý Tư hại bạn, rồi cũng bị chết không khác bạn.

Ưu điểm của pháp gia là biết vai trò quan trọng của luật. Nhược điểm là họ đi quá lố. Họ cho rằng con người hành động theo hai nguyên nhân chính: sợ và lợi. Sợ, cho nên phải biết phạt. Ham lợi, cho nên phải biết thưởng. Họ không nghĩ rằng, sợ cũng có giới hạn mà ham lợi cũng có giới hạn, và khi con người đã bị phi nhân hóa thì chẳng còn ai cảm thấy yên ổn nữa. Phái pháp gia chỉ biết dùng bạo lực mà thôi, quên rằng con người còn biết công bằng, danh dự, nhân ái.

Cho nên tôi kết luận: cả hai đều cần thiết. Văn minh của ta trọng đạo đức. Ðến lúc phải cần luật. Ngược lại, văn minh Tây phương vốn chuộng luật. Bây giờ người ta chứng kiến một sự trở lại mạnh mẽ của đạo đức. Tôi muốn nói vài lời về chuyện này trước khi bắt qua điểm khác.

Như ta đã thấy, muốn điều tiết xã hội, văn minh nào cũng sử dụng những nguyên tắc của tôn giáo, của luân lý và của luật pháp. Tây phương vùng vẫy ra khỏi sức mạnh của tôn giáo và của luân lý Ki Tô giáo, đã cố gắng để tách luật ra khỏi luân lý. Hiện tượng mà người ta đang thấy hiện nay trong đời sống của luật pháp là sự trở lại của luân lý dưới hình thức đạo đức. Tôi chỉ giới hạn ở hai lãnh vực: làm ăn, kinh doanh và sinh học.

1 - Làm ăn, kinh doanh.

Xét về lịch sử Tây phương, mối liên hệ giữa kinh tế và đạo đức được nhấn mạnh từ lâu. Từ Trung cổ, kinh tế hàng hóa đã phát triển bên lề xã hội phong kiến và đã khoác cho mình chiếc áo đạo đức bằng cách tán dương giá trị của tiền bạc, của cần lao, của sự tin cậy lẫn nhau, của sự khéo léo. Ðó là những giá trị mới của giai cấp tư sản đang manh nha, rất khác với những giá trị của giai cấp quý tộc và của võ quan. Sau đó, các người Tin lành khai triển ở Mỹ một thứ tôn giáo mới đặt trên những đức tính cá nhân: cần mẫn, tiết kiệm, đạm bạc và sự thành đạt nghề nghiệp - những giá trị mà Max Weber xem như là tinh túy của chủ nghĩa tư bản.

Sau đó, hồi thế kỷ 18, A. Smith, lý thuyết gia của chủ nghĩa tư bản kinh tế cũng đồng thời là lý thuyết gia của đạo đức (ông viết sách: "Théorie des sentiments moraux"), lấy đạo đức để biện minh cho thị trường tự do và hợp đồng tự do giữa tư nhân, không cần Nhà nước. Với thế kỷ 19, thế kỷ vàng son của chủ nghĩa tư bản, bao nhiêu lý thuyết đã được tạo nên để ví chủ nghĩa tư bản với một nền văn minh mới, trong đó đầu óc kinh doanh là một hình thức luân lý mới.

Nói tóm lại, sự bành trướng của kinh tế tư bản chủ nghĩa luôn luôn đi đôi với sự phát huy của một lý thuyết đạo đức để biện minh. Bởi vậy, quan tâm đạo đức của lĩnh vực luật kinh doanh ngày nay không có gì mới:

Trong luật hợp đồng, đạo đức là sự trung thực (loyauté). Luật buộc phải có sự trung thực đó trong suốt quá trình của hợp đồng, từ khi ký đến khi thực hiện, trong luật quốc nội cũng như luật quốc tế.

Trong đời sống kinh tế, luật buộc phải có đạo đức xã hội: thân thể con người không thể xem là món hàng; thuần phong mỹ tục phải được tôn trọng v.v...

Trong sự cạnh tranh, cũng phải cạnh tranh trong công bằng và trung thực: quảng cáo, chẳng hạn, phải được kiểm soát.

Vậy thì cái gì là mới? Nghi ngờ. Hoài nghi. Bên trong, người ta không tin rằng những luật đó là hữu hiệu. Chuyên viên dùng những kẻ hở của luật để vượt qua luật. Luật thì càng ngày càng phức tạp, bí hiểm.

Nhưng mối nghi ngờ nặng nhất là nghi ngờ rằng luật không dẹp nỗi tham nhũng. Tham nhũng thâm nhập các đảng chính trị. Tham nhũng hoành hành trong các mánh lới chiếm thị trường quốc tế. Ðiều nguy hại nhất là tham nhũng phá hủy đạo đức của tư bản chủ nghĩa (cần lao, bình đẳng trước may rủi), tạo khoảng cách giữa hai giai tầng xã hội: một bên là hạng người đút tham nhũng và nhận tham nhũng, một bên là tất cả mọi người khác.

Bất lực, hoài nghi, vô hiệu hóa luật pháp... những chỉ trích đó rốt cuộc gây nên một khủng hoảng tin tưởng trong xã hội Tây phương hiện nay, đến nỗi giới kinh doanh phải báo động hòng suy nghĩ về việc làm thế nào để đạo đức được tôn trọng trong thế giới của họ, làm thế nào để đạo đức hóa nền kinh tế bởi chính giới doanh nhân.

2 - Ðạo đức sinh học

Ðây là vấn đề sôi nổi của thời đại. Thụ thai nhân tạo, thay đổi giống: những tiến bộ khoa học khiếp đảm trong lĩnh vực này sẽ đưa nhân loại đến đâu? Tôi trích một câu của Konrad Lorenz: "Tôi nghĩ rằng, động đến vấn đề gène cũng nguy hiểm không kém gì động đến bom nguyên tử. Trong tình trạng hiểu biết hiện nay của chúng ta, ta chưa đủ sức tự vệ để tự cho phép mình động đến mã số gène của chính mình". Lorenz chỉ vào mặt các khoa học gia đang táy máy động đến những vấn đề đó, gọi họ là "bọn côn đồ khoa học".

Ðã là "côn đồ" thì tất nhiên luật pháp bị thách thức. Trong chừng mực nào, họ là khoa học gia, trong chừng mực nào táy máy của họ có tính cách côn đồ? Chận đứng công việc của họ thì khoa học không tiến; khoa học tiến hỗn loạn thì không những đạo đức không còn mà nhân loại không chừng sẽ mất luôn nhân tính. Luật ì ạch chạy theo tiến triển khoa học. Vừa chạy theo vừa cảm thấy bất lực, cho nên phải nhờ cậy đến quan điểm của đạo đức và của triết lý.

II - CHỮ HÒA TRONG VĂN MINH TRUNG HOA, NHẬT BẢN VÀ TRONG GIỚI LUẬT PHẬT GIÁO.

Các luật gia Ðức thuộc trường phái lịch sử cho rằng mỗi dân tộc có một cái hồn, một "volksseele". Quan niệm này bị nhiều người chỉ trích, vì thiếu tính cách khoa học, ai muốn quả quyết gì cũng được. Thế nhưng phải nhận rằng mỗi dân tộc có một cách sống, cách suy nghĩ riêng và cách sống đó ảnh hưởng trên luật, chính trị, triết lý, tư tưởng, văn chương... Tôi mở một cuốn giáo khoa về luật Nhật Bản của một giáo sư danh tiếng, Yosiyuki Noda, và tôi thấy gì?

Chương 1: Dân chúng Nhật không thích luật.

Chương 2: Những đặc điểm của đời sống tinh thần của dân tộc Nhật.

Sau đó mới đến chương 3, chương 4 v.v... về luật Nhật Bản. Mở đầu chương 2, ông nói thành thật: tôi không đủ thẩm quyền để phê phán tính cách khoa học của các lý thuyết nói về đặc tính dân tộc, nhưng sau khi đọc kỹ những lý thuyết đó, tôi có cảm tưởng rằng, có lẽ không đến nỗi viễn vông khi nói rằng mỗi dân tộc có một đặc tính.

Riêng tôi, tôi muốn nói thêm: mỗi nền văn hóa có một đặc tính. Ðặc tính của văn hóa Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam là chuộng chữ "Hòa". Hòa hợp. Với mình, thì hòa giữa thể xác và tinh thần, trong nhà thì hòa giữa vợ chồng, con cái, anh chị em. Trong làng xóm thì hòa với láng giềng. Vào sở thì hòa với đồng nghiệp. Lý tưởng là như vậy.

Ðó cũng là lý tưởng của Khổng Tử. Ngài nói: chuyện đáng lo trong nước không phải là thiếu vật dụng mà là thiếu quân bình trong việc phân chia. Thế là hòa trong lĩnh vực xã hội, kinh tế. Ngài nói thêm: nghe kiện cáo thì ngài chẳng hơn ai, nhưng ngài biết một điều quan trọng hơn thế là làm sao đừng xảy ra kiện tụng.

Kinh Thư tán dương vua Nghiêu vì biết cai trị bằng chữ Hòa. Vua Thuấn dùng nhạc để làm hòa tính tình.

Muốn trích dẫn Khổng Mạnh về chữ "hòa" thì trích dẫn bao nhiêu cũng được, mở sách ra là thấy. Nhìn vũ trụ? Vũ trụ không phải biến dịch hỗn độn mà rất có trật tự, cho nên mới gọi là Thái Hòa: "Ðạo trời biến đổi, mọi vật theo đúng khuynh hướng tiến triển của tính, gìn giữ Thái Hòa". (Kiền đạo biến hóa, các chính tính mệnh bảo hợp Thái Hòa (Kinh Dịch).

Nhìn vào nội tâm? "Chỉ có người hết sức thành thật trong thiên hạ mới có thể phát triển trọn vẹn tính mình; có thể làm trọn tính mình thì có thể làm trọn được tính người; có thể làm trọn được tính người thì có thể làm trọn hết được tính vật". Nghĩa là hòa với mình thì hòa được với người, hòa được với cả vũ trụ. "Cách vật trí tri, thành ý, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ" là chu kỳ của chữ "Hòa". Hòa từ trong với thành ý để hòa với bên ngoài, với gia đình, với xã hội, với quốc gia, với cả hoàn cầu, vì lý tưởng của Khổng là "thế giới đại đồng".

Từ chỗ thành thực với bản tính, sách Trung Dung trình bày cả một vũ trụ quan quân bình và hòa diệu giữa ngoại giới với nội giới, khách quan và chủ quan, vật và tâm, hiện tượng và bản thể. Tại sao? Tại vì bản tính vốn thiện, vốn quân bình hòa diệu. "Mạc hiện hồ ẩn, mạc hiển hồ vi...". Chẳng cái gì ẩn náu trong lòng mà không hiển hiện ra được, chẳng cái gì nhỏ mấy ở trong lòng mà không thể trở nên rõ rệt được. Cho nên "mừng, giận,vui, khi chưa tác động, còn tiềm tàng ở trong bản thể của tính thì gọi là trung; khi đã phát xuất tác động rồi mà thấy đều được điều hòa trung tiết thì gọi là hòa diệu quân bình".

Tây phương nhấn mạnh công bằng. Ðông phương nhấn mạnh hòa. Nhưng hòa là bao gồm cả công bằng. Không thể quan niệm hòa mà không có công bằng. Bởi vì bất công là phá hủy hài hòa, kể cả hài hòa của vũ trụ, thiên tai sẽ giáng xuống đầu (vua). Trung Hoa có môt quan niệm rất động về hòa và công bằng. Chỗ nào trống thì phải lấp đầy; chỗ nào đầy quá thì phải lấy bớt. Chỗ thấp thì làm cao lên; chỗ cao thì phải san sẻ. Lão Tử nói hay lắm: "Lớn, là đi quá xa; đi xa thì phải trở về". Vũ trụ quan của Lão Tử cũng quy vào chữ "Hòa". "Ðạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật. Vạn vật phụ âm nhi bão dương, sung khí dĩ vi hòa". (Ðạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh ra vạn vật. Vạn vật ôm khí âm, cõng khí dương, hai khí mâu thuẫn hỗn hợp thành ra hòa).

Bây giờ nói qua về Nhật. Nhật chịu ảnh hưởng văn minh Trung Hoa, tất nhiên không xa lạ gì với chữ Hòa. Nhưng, hơn cả Trung Hoa, hòa đi vào "hiến pháp" đầu tiên trong lịch sử Nhật. Vua Thánh Ðức (Shotoku, 574-622) ban hành một hiến chương, gọi là "hiến chương 17 điều", trong đó chữ "hòa" thấm nhuần từ đầu tới cuối [1]

Ngay từ điều 1: "Trên tất cả, hãy lấy chữ "hòa" làm gốc; cách cư xử tốt nhất là tránh bất hòa. Người nào cũng có đầu óc, bè phái, ít người không thiên vị. Bởi vậy, lắm lúc có người bất tuân vua mình, cha mình, lại tranh chấp với chung quanh. Nếu mọi người, trên cũng như dưới, biết hòa hợp với nhau và tranh luận trong hòa khí, mọi việc sẽ tốt đẹp. Như vậy, có việc gì mà không làm được?".

Nhiều tác giả Nhật nhấn mạnh: Vua Thánh Ðức không nói: phải vâng lời, mà nói: tranh luận phải được diễn ra trong không khí hòa hợp và như vậy thì mới đi đến kết luận đúng đắn. Ðây là ý nghĩa của điều 17 trong hiến chương vừa nói.

Ðiều 17: "Trên những vấn đề công vụ quan trọng, không được quyết định một mình, mà phải quyết định sau khi bàn luận đầy đủ với nhiều người. Còn những quyết định nhỏ không quan trọng thì không cần thiết phải bàn luận với nhiều người. Nhưng khi bàn luận về những vấn đề công trọng đại, phải luôn luôn cẩn trọng để tránh phạm sai lầm. Bởi vậy, nếu bàn luận đầy đủ với nhiều người thì lý lẽ sáng tỏ sẽ đưa đến kết luận đúng đắn".

Tôi tưởng chuyện này là chuyện trăm ngàn năm về trước, không ngờ đọc sách về kinh tế tư bản hiện nay ở Nhật mới biết rằng đây không hẳn là chuyện đời xưa. Ðây là chuyện vẫn xảy ra trong lối làm việc của các doanh nghiệp hiện nay, được canh tân lại mà thôi. Hơn thế nữa, đây là khuôn vàng thước ngọc. Một trong những cách thức để đi đến sự đồng thuận - tuy rằng sự đồng thuận này có vẻ hình thức - là ringi. Nghĩa là yêu cầu tất cả nhân viên liên hệ trong hãng đồng ý bằng bút mực hẳn hoi về một quyết định được đưa ra dưới hình thức dự thảo. Một cách thức khác nữa là hội họp liên hãng (giữa nhiều hãng khác nhau) để đi đến đồng thuận: đó làrenrakukai.

Còn nữa, nhiều lắm. Chỉ trích thêm ở đây một điều lệ trong một hãng lớn.

Ðiều 5: "Chúng tôi quan niệm rằng hòa là giá trị tối cao. Quyền lợi của hãng thắng quyền lợi của mỗi nhân viên. Ðiều quan trọng nhất trong quyền lợi của hãng là hòa hợp, hòa bình, sự đồng thuận của các nhân viên, sự nhất trí của mọi con tim. Ở hãng, chỉ nói những gì hợp với tinh thần nhất trí, đừng tranh luận.

Tác giả viết thêm: người Nhật hết sức tránh tranh cãi, bất lợi cho hòa khí, mà lại còn gây mầm mống cho chia rẻ về sau. Vì vậy để lấy quyết định, phải qua nhiều hình thức: họp sơ bộ nhiều lần, gọi là nemawashi (lấy bớt rễ nhỏ để bứng trồng một cây) để lấy ý kiến và để chấp thuận một dự thảo, nhiều khi cứ hai người họp với nhau để bàn và cứ thế mà tiếp tục dần dần. Nhiều khi không phải họp hai người, mà là nhiều người trong một buổi họp long trọng: đó là ringi hoặc mochimawari.

Nếu thất bại, thì là thất bại chung, chứ không phải chỉ chủ hãng thất rebại. Nếu đó là một ê kíp thể thao, thì tất cả phải... xuống tóc. Ngày Nhật đầu hàng, toàn thể cả nước tạ tội với Thiên Hoàng.

Rất có thể, như tôi đã nói, những hình thức hội họp như thế có thể chỉ là hình thức; những quyết định thực sự có thể đã được lấy rồi bằng cách khác. Nhưng đây không phải là điều tôi muốn nói. Ðiều tôi muốn nói là: cách thức làm việc của ngày hôm nay vẫn còn giữ hình thức những quan hệ của ngày xưa, khiến cho những quan hệ đoàn thể vẫn tiếp tục song hành với những quan hệ có tính cách pháp lý hiện đại.

Tôi đi xa hơn nữa và lấy một ví dụ trong lĩnh vực chính trị để thấy sự nối dài kỳ lạ của truyền thống ngàn năm trước với đời sống chính trị của thời đại nguyên tử ngày nay ở Nhật.

Cựu thủ tướng Zenkô Suzuki (1980-1982) ban bố và áp dụng một nguyên tắc mà ông xem là căn bản của chính phủ ông vừa thành lập. Nguyên tắc đó là... hòa! Y hệt điều 1 hiến chương Thánh Ðức. Y hệt!

Tôi kể giông dài một chút. Từ sau chiến tranh thứ hai cho đến ngày ông Suzuki thành lập chính phủ (tháng 7-1980), đảng Tự do dân chủ là đảng cầm quyền, luôn luôn chiếm đa số ở Quốc hội. Nhưng đảng này không thuần nhất: trong nội bộ, nhiều nhóm, nhiều bè phái mặc cả với nhau, phái Ôhira, phái Tanaka, phái Fukuda, phái Nakasone, phái Miki v.v... nếu nhìn tình hình vào tháng 5 năm 1980. Tình trạng bè phái đó giết chết nội các Ôhira[2] và giết chết luôn cả ông thủ tướng này, bởi vì ông đứng tim (12-6-1980) trong khi tranh cử, nghĩa là sau khi chính phủ ông bị lật đổ, Quốc hội bầu cử lại. Các bè phái trong đảng mặc cả với nhau và đồng ý chỉ định Suzuki làm Chủ tịch đảng, nghĩa là làm thủ tướng khi đảng này thắng cử. Tại sao chỉ định ông Suzuki? Vì ông này ôn hòa và dung hòa được những khuynh hướng tranh chấp trong đảng. Lên chức thủ tướng, ông Suzuki biết vị thế của ông, và biết rằng nếu các bè phái trong đảng không thỏa thuận với nhau như thế này nữa, e có ngày không xa chính phủ của ông cũng sẽ đứng tim. Ðó là lý do khiến điều 1 trong hiến chương Thánh Ðức là thang thuốc cứu tinh của nội các Suzuki.

Còn hơn thế nữa. Tuy rằng tuyển cử 22-6-1980 mang lại thắng lợi cho đảng Tự do dân chủ, ông Suzuki biết rằng dân chúng bỏ phiếu cho đảng vì sự bất an chính trị và vì xúc động trước cái chết bất đắc kỳ tử của ông Ôhira. Ông biết rằng một cử chỉ độc tài có thể làm phe đối lập phản ứng mạnh mẽ và khiến dư luận thay đổi thái độ gây bất lợi cho tuyển cử lần sau. Hòa với đối lập và hòa với dư luận là cần thiết đối với chính phủ Suzuki để vượt qua những khủng hoảng ở giai đoạn đó.

Vẫn hơn thế nữa. Hòa bình và hợp tác quốc tế là điều kiện không thể không có đối với Nhật và đối với kinh tế của Nhật. Lúc đó, nhất là sau vụ can thiệp của Liên-xô vào Afghanistan, Mỹ làm áp lực để buộc Nhật tăng cường quân lực. Suzuki một mặt phải hòa hoãn với Mỹ để củng cố liên minh với Mỹ, một mặt phải thương thuyết với Reagan để khỏi đi ngược với tinh thần chống võ trang của hiến pháp hiện tại và khỏi phải gây thiệt hại cho kinh tế Nhật đang thiếu hụt. Tháng 7-1981, tại hội nghị thượng đỉnh Ottawa, Suzuki tranh thủ nhét vào bản tuyên bố chung mấy chữ: "Wa no seishin" (Spirit of harmony, tinh thần hòa hợp) để kêu gọi hợp tác chặt chẽ giữa 7 nước giàu mạnh nhất về kinh tế trên thế giới.

Thế đấy, Suzuki, một chính trị gia được tôi luyện trong môi trường tranh chấp ở nội bộ đảng của ông cũng như ở nghị trường, đã tuyên dương điều 1 trong hiến chương Thánh Ðức. Ông không nổi bật như một lãnh tụ, nhưng ông vững chãi và quân bình.

Như tôi đã nói ở trên, người Nhật không thích luật, không thích thấy tòa án. Ðáo tụng đình là cái chuyện người Nhật rất ớn. Cho nên, tránh kiện tụng được đến đâu thì tránh. Mà tránh thì phải hòa giải, dung hòa, giàn xếp. Xã hội Nhật quả là một xã hội lạ lùng: một lối sống rất mới vẫn tiếp tục song hành với một lối sống cổ, cái cà vạt với chiếc kimono. Tư bản chủ nghĩa là cạnh tranh. Và cạnh tranh ở Nhật ráo riết lắm. Thế mà luật không lấn át nỗi giri. Thế mà kinh tế cũng không qua mặt được đầu óc lễ nghĩa.


Lễ, đó là Trung Hoa, là Khổng, là Nho. Khổng lấy lễ để cai trị, không lấy luật. Lễ là luân lý, một thứ luân lý rất hình thức - chữ hình thức dùng ở đây không có nghĩa xấu. Lễ là hình thức, luật cũng là hình thức, cả hai đều là hình thức chủ nghĩa, nhưng khác nhau ở cách nhìn chiều hướng. Luật khi nào cũng buộc phải tôn trọng hình thức: lập chúc thư, ký hợp đồng... Ðể làm gì? Ðể có bằng cớ rõ ràng về ý định. Có ý định và ý định đó phát biểu rõ ràng qua hình thức bên ngoài. Luật là đi từ ý định bên trong và ghi ý định đó rõ ràng ở bên ngoài, từ trong ra ngoài. Lễ, ngược lại, đi từ cử chỉ ở bên ngoài để un đúc, vun trồng tính tình ở bên trong, từ ngoài vào trong. Cho nên luân lý của Khổng là luân lý xã hội. Luật là biểu hiện của cá nhân chủ nghĩa. Lễ là biểu hiện của cộng đồng chủ nghĩa (communautarisme). Xã hội, đoàn thể là có trước con người, cho nên ý định của con người phải phù hợp với hòa hợp xã hội, và sự phù hợp này được định nghĩa ở bên ngoài các cá nhân.


Vậy, lễ là Khổng, là Trung Hoa. Nhật Bản du nhập văn hóa Trung Hoa cũng lấy lễ làm gốc. Nhưng làm sao duy trì lễ được từ lúc Minh Trị Thiên Hoàng canh tân ráo riết chính trị và kinh tế? Làm sao lễ nghĩa được khi tương quan kinh tế đi vào cạnh tranh? Ấy thế mà Nhật duy trì được ý thức hòa hợp xã hội dưới chữ "Wa".Cả trăm ngàn cung cách, lễ nghĩa vẫn tiếp tục tồn tại để nâng đỡ trật tự, tôn ty xã hội và nhất là để làm giảm bớt, làm thoa dịu những quan hệ kinh tế quá thô bạo. Chỗ nào cũng có lễ: khai mạc, kỷ niệm, sinh nhật, cưới hỏi, lễ lược, tiệc tùng cho đến cái tách trà uống với đồng nghiệp, cái chấp tay cúi đầu, tất cả đời sống xã hội được lễ hóa một cách tự nhiên đến nỗi chẳng còn để mấy chỗ hở cho một cung cách cá nhân riêng biệt, đến nỗi khi cá nhân bộc lộ đặc tính thì cảm thấy kỳ kỳ thế nào. Ðây là nét độc đáo của xã hội Nhật hiện nay. Trong đời sống luật pháp, đầu óc chuộng chữ hòa đó được biểu lộ rất rõ: Nhật có dân số gấp đôi Pháp, và có kinh tế nếu không cao hơn thì ít nhất cũng bằng Pháp, vậy mà số luật sư ở Nhật thấp hơn Pháp nhiều. Mà nghề luật thì cũng không mấy người ưa.


Tại sao hòa sống dai dẳng như thế ở Nhật và mạnh hơn hết thảy các nước cùng văn hóa Trung Hoa? Nhiều thuyết được đưa ra và nhiều lý lẽ được đưa ra. Một trong những lý lẽ đó là sự canh tân Trung Hoa đã phải trải qua bao nhiêu cách mạng, còn sự canh tân ở Nhật thì không qua cách mạng nào cả. Nhật không biết cách mạng! Tôi đọc trong sách của Giáo sư Noda: người Nhật nghe nói đến cách mạng thì sợ lắm. Nhật học thuộc lòng Khổng Mạnh, nhưng khi nghe Mạnh nói dân có thể lật đổ một bạo chúa thì người Nhật lờ đi, dẹp chuyện đó qua một bên. Lịch sử Nhật cũng lạ kỳ: từ đầu đến đuôi, chỉ có một dòng vua, chẳng Ðinh, Lê, Lý, Trần, Hồ, Lê, Mạc, Nguyễn gì cả.

Người Nhật sợ cách mạng... Thế thì có người hỏi: tại sao Trung Quốc lễ nghĩa như vậy mà lại cách mạng? Câu hỏi làm nhiều lý thuyết gia đau đầu lắm. Bởi vì lễ không thể nảy nở nếu xã hội không được cấu trúc chặt chẽ. Thế thì một xã hội cấu trúc chặt chẽ như Trung Quốc sao lại thành một xã hội cách mạng? Thôi, không phải chỗ để nói. Ở đây, tôi không lý tưởng hóa chữ Hòa đâu. Hòa có mặt tích cực và có mặt tiêu cực.

Dù sao đi nữa, không ai chối cãi rằng đây là đặc tính quan trọng của văn hóa Á Ðông.

Bây giờ tôi nói đến Hòa trong giới luật Phật giáo.

Tôi vừa nói: Hòa có mặt tích cực, có mặt tiêu cực. Hòa có khi làm nhũn cá tính, không phát huy được sáng kiến, trốn tránh trách nhiệm, lẫn vào đám đông. Tôi ở Pháp cho nên biết rằng mục đích giáo dục ở Tây phương là phát huy sáng kiến, đặc tính cá nhân, dám nói khác. Tôi cũng biết rằng quy luật cạnh tranh là đạp lên chân nhau mà bước, nếu cần. Thú thực, đồng nghiệp của tôi bước lên chân tôi có khi nát cả chân. Ðây quả là một vấn đề xung khắc văn hóa Ðông - Tây. Chính tôi không biết phải dạy con tôi thế nào.



Trong một tạp chí ăn khách ở Pháp (Express, 30-7/5-8-1998) tôi có đọc một bài phỏng vấn một vị tăng Tây Tạng có tiếng, trí thức, đồng thời cũng là một giáo sư về văn hóa Tây Tạng ở Ðại học Pháp: Dagpo Rimpotché. Câu hỏi mở đầu với chữ khổ:

- Các tôn giáo Ki Tô gán cho sự khổ một giá trị cứu rỗi. Người ta giải thích rằng khổ giúp ta đạt đến một tương lai tốt hơn.

Trả lời:
- Phật giáo không nghĩ như vậy. Ðối với Phật giáo, khổ không bao giờ được xem như hoặc được trình bày như một giá trị. Khổ, thì phải diệt nó. Tất nhiên, phải thực tế: ai cũng nằm dưới luật khổ. Thế thì thay vì để cho khổ dẫm nát, ta hãy dùng khổ để vươn lên, dùng khổ như là một khí cụ để học cách hiểu mình hơn và hiểu người khác hơn. Sửa đổi bên trong của mình toàn vẹn, lìa ra khỏi khổ, điều đó rất cần thiết để phát triển từ bi và có lẽ, sau đó, một thái độ vị tha: lúc nào cũng nhường phần thắng cho người khác và hạ mình xuống hàng thứ hai. Người khác đứng đầu, ưu tiên.

Vị tăng này là giáo sư, và tất nhiên phải lên trật, lên ngạch, nghĩa là phải dẫm lên chân người khác chứ!

Do đó mà có câu hỏi tiếp theo:

- Ðồng nghiệp của ông muốn chiếm chỗ của ông. Ông nói với người ấy thế này chăng: "O.K, tôi xuống hàng thứ hai"? Có thể nào dung hòa từ bi với cạnh tranh?

Trả lời:
- Cạnh tranh là cái mặt đối chọi lại với những gì tôi vừa nói, bởi vì dựa trên quyền lợi cá nhân. Nhưng không phải vì, về mặt tâm linh, tôi nhường chỗ thắng cho người khác mà tôi nhất thiết phải biến mình thành thánh và để cho kẻ khác dẫm chân! Hy sinh về mặt vật chất cho người khác, điều đó chẳng đem lợi lộc gì đến cho người khác cả. Thật ra, điều mà ta cần thay đổi là cách suy nghĩ của ta: trong trường hợp nghề nghiệp chẳng hạn, thay vì trước đây chúng ta tranh giành nhau chỉ vì mục tiêu vị kỷ, bây giờ hãy thử tập hành động vì lợi ích toàn thể và làm theo những quy tắc đạo đức.

Tôi nghĩ vị tăng đó sống thực như vậy. Và tôi phục. Vì sao? Vì vị tăng sống với tục mà vẫn sống đạo được như thường, là chuyện quá khó.

Giới luật Phật giáo là giới luật của Tăng và giữa Tăng với Tăng, nghĩa là cùng ở trong một đoàn thể thuần nhất, cùng đạo, cùng chia sẻ những giá trị giống nhau, cùng tu, cùng nhắm mục đích như nhau. Trong một đoàn thể thuần nhất như vậy, chữ hòa sẽ không còn mặt tiêu cực nữa, mà chỉ còn mặt tích cực. Nói như hiến pháp của vua Thánh Ðức, trong một đoàn thể thuần nhất như vậy, hòa quả là có địa vị tối thượng. Không có hòa thì không làm gì hết.



Tôi đọc quyển Cương yếu giới luật của H.T. Thiện Siêu, trang 69, nói về Lục hòa, trang 84 và trước đó nói về phá hòa hợp Tăng, trang 107 về giới trường, trang 137, 138 về Kiết-ma phi tướng. Hòa thượng nhấn mạnh: hòa hợp triệt để, chứ không phải chỉ là thiểu số phục tùng đa số.

Trang 132: Thuyết giới tự tứ cốt là hòa, nếu không hòa thì làm sao mà thuyết! Và Tăng hòa ở đây là gì? Là tránh bốn việc: ngôn tránh, mích tránh, phạm tránh và sự tránh[3]. Mỗi một việc ngôn tránh là đã vĩ đại rồi. Miệng mồm người ta vốn là đầu mối của bất hòa.

Ở trang 138, cũng vẫn về kiết ma phi tướng, nói "hòa hợp triệt để" cũng chưa đủ, Hòa thượng còn thêm: "hòa hợp triệt để 100% mới hợp lệ". Cho nên, hòa là một trong bảy yếu tố để một chúng Tỳ-kheo hưng thịnh. Thế nào là một chúng Tỳ-kheo hưng thịnh và một chúng Tỳ-kheo thối đọa? Tôi đọc Tăng Chi Bộ kinh do Thượng Tọa Chơn Thiện trích dẫn (tr. 438 - Phật học khái luận): "Một chúng Tỳ-kheo hưng thịnh khi nào thực hiện được 7 điều:

Ðiều 1: Chúng Tỳ-kheo thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo.

Ðiều 2: Tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết, và làm việc Tăng trong niệm đoàn kết".

Nói chữ hòa trong Phật giáo có lẽ nói mãi không cùng. Trung đạo là gì, nếu không phải là hòa, không phải chỉ hòa với chung quanh mà còn hòa với chính chúng ta. Trong Tăng Chi Bộ kinh mà tôi vừa trích, Phật dạy một cư sĩ thế này, khi ông ấy hỏi làm thế nào để một cư sĩ tại gia sống hạnh phúc an lạc ngay trong hiện tại và hạnh phúc an lạc trong tương lai: "Này cư sĩ, có bốn pháp đưa đến hạnh phúc hiện tại, an lạc hiện tại, đó là: đầy đủ sự tháo vác, đầy đủ sự phòng hộ, làm bạn với thiện, sống thăng bằng điều hòa".

Thế nào là sống thăng bằng điều hòa? Không phung phí, không bủn xỉn.

Từ chuyện nhỏ nhặt thường tình đến chuyện triết lý cao xa, ở đâu cũng thấy chữ Hòa. Cho nên tôi khỏi phái nói dài.

III - ÐẠO PHẬT TRONG LUẬT CỔ NHẬT BẢN VÀ VIỆT NAM.
Ở trên, tôi đã nói rằng Nhật chịu ảnh hưởng Khổng giáo. Bây giờ, phải nói rằng Nhật là một nước Phật giáo. Ðọc trong lịch sử Phật giáo ở Nhật, tôi thấy các sách nhấn mạnh vai trò của Thánh Ðức thái tử mà tôi đã trình bày ở trên. Thánh Ðức làm tôi nghĩ đến thời Lý, Trần của ta. Vì vậy tôi muốn nói vài lời về ảnh hưởng Phật giáo trên chính trị và luật ở thời Thánh Ðức và thời Lý, Trần.

Ðạo Phật được truyền vào Nhật hồi thế kỷ thứ 6. Trước đó, nước này không có suy tư về triết lý. Tín ngưỡng của dân gian lúc đó là thần đạo (Shinto) rất đơn giản trong sự sợ hãi thiên nhiên. Ðơn giản có một vẻ đẹp riêng của nó. Và người Nhật thấy thiên nhiên có một vẻ đẹp đơn giản. Có lẽ đây là một nét chính trong tâm hồn và văn hóa của Nhật. Người Nhật thích thơ, thích họa hơn là thích suy tư triết lý, trái với Trung Hoa, trái với Ấn Ðộ. Ngôn ngữ của Nhật cũng vậy, giàu về âm điệu nhưng mông lung, khó suy luận chặt chẽ. Vì vậy mà tư tưởng về luật cũng không nảy nở được. Nói tóm: người Nhật có đầu óc thực dụng hơn trừu tượng. Họ vận dụng và thích nghi Khổng giáo, Phật giáo với tính thực dụng đó.

Về địa thế, Nhật là một hòn đảo. Sự tiếp xúc với Á châu lục địa mang đến một làn sóng cách mạng về văn hóa và tư tưởng ở Nhật.

Năm 538 hoặc 552, Nhật lần đầu tiên tiếp một phái bộ, phái bộ dâng lên nhiều phẩm vật (lọng, cờ...) và một tượng Phật bằng vàng và đồng. Sách chép: nhà vua ngắm nghía, thán phục vẻ đẹp của bức tượng. Quan trọng lắm. Trong thần đạo lúc đó không có tượng, nghĩa là thiếu nghệ thuật về tượng. Mà Trung Hoa, Ấn Ðộ, Triều Tiên... thì nghệ thuật đúc tượng và tranh vẽ rất phong phú. Dân Nhật chuộng vẻ đẹp chăng? Chỉ biết rằng Phật giáo phát triển rất nhanh sau đó.

Cuối thế kỷ thứ 6, loạn lạc ở Triều Tiên khiến nhiều người Triều Tiên qua tị nạn ở Nhật, trong đó có nhiều nghệ nhân, nghệ sĩ là Phật tử. Sau đó, dưới thời Nam Tống (1127-1129) nhiều thiền sư trốn loạn Mông Cổ qua sống ở Nhật. Ảnh hưởng Phật giáo mạnh lên hơn nữa. Phật giáo ảnh hưởng đậm đà trên đạo đức, văn chương và nghệ thuật. Vua Thánh Ðức (574-622) được xem như người xây dựng nền móng Phật giáo ở Nhật. Vua cũng được xem như nhà chính trị lỗi lạc xây dựng nên nước Nhật như là một quốc gia và một quốc gia văn minh.

Khi Thánh Ðức lên ngôi (593), Phật giáo đã du nhập vào Nhật được nửa thế kỷ rồi, nhưng đó hãy còn là tín ngưỡng của dân ngụ cư, tị nạn, thương nhân và của triều đình đang muốn củng cố địa vị chống lại sứ quân, lãnh chúa phong kiến uy quyền không kém. Phật giáo chưa thấm vào dân gian. Lên ngôi, vua Thánh Ðức tìm thấy trong Phật giáo yếu tố văn hóa nâng nhà vua lên địa vị cao hơn các lãnh chúa khác. Và như vậy tạo cơ sở để nhà vua thống nhất đất nước, dẹp tan các lãnh chúa.

Chính trị và luật pháp của Thánh Ðức mang âm hưởng của Phật giáo. Khi nãy, tôi vừa nói hiến chương với điều 1 về địa vị tối thượng của chữ Hòa. Hiến chương Thánh Ðức là một bộ luật đạo đức.

Ðây là điều 10: "Ðừng giận giữ, cũng đừng thù hằn người khác khi họ trái ý với mình, bởi vì ai cũng có lòng và mỗi người có mỗi quan điểm. Ðiều mà người khác cho là đúng, ta cho là sai; điều mà họ cho là sai, ta cho là đúng. Ta không hẳn là kẻ hiền, họ không hẳn là kẻ ngu. Ai cũng có thể lung lạc, sai quấy như nhau. Như vậy làm sao có người phán ra một nguyên tắc theo đó cái gì phải là đúng, cái gì phải là sai? Mọi người ai cũng vừa là khôn vừa là dại; giống như cái vòng, không có chỗ nào là đầu, không có chỗ nào là đuôi. Bởi vậy, dầu người khác buông lòng phẫn nộ với ta, ta nên sợ lầm lỗi của ta hơn và, mặc dầu ta tưởng rằng chỉ có ta biết sự thật, hãy nghe theo quần chúng và hành động như họ".

Tôi không nói cái này là hay đâu. Nhưng hãy đọc điều này trong bối cảnh lịch sử, chính trị, văn hóa của Nhật lúc đó và trong cái nhu cầu chấm dứt chiến tranh liên miên, giữa các lãnh chúa, đặt nền móng cho một quốc gia thống nhất, hòa bình - nhu cầu dựng nước. Thánh Ðức là người dựng nước.

Mà cũng đừng tưởng rằng Thánh Ðức không biết phân biệt phải trái. Vua dạy phải biết vun trồng ý thức chuộng điều thiện, ghét điều xấu. "Phạt kẻ làm ác, thưởng kẻ làm lành, đó là luật tốt thời trước. Bởi vậy, đừng che dấu những hành động tốt của bất cứ người nào và hãy trừng trị, sửa chữa những hành động xấu của họ. Quan chức nịnh hót và lừa dối... phải được xem như những khí cụ tệ hại để phá hủy nhà nước, như thanh gươm bén để chém dân tộc" (điều 6).
Khuyến thiện trừng ác: võ sĩ đạo về sau triệt để khai thác điều này, dù chết cũng không làm trái đạo.

Sách Nhật thường ví vua Thánh Ðức với vua A-dục (Ashoka) của Ấn Độ (273-232 trước TL). Lại ví vua Thánh Ðức với vua Songtsan-Gampo dựng nước Tây Tạng vào khoảng thời gian giống nhau. Songtsan-Gampo cũng ban hành đạo dụ 16 điều tương tự hiến chương 17 điều của Thánh Ðức. Dù ở Nhật, dù ở Tây Tạng, chính trị và luật hồi đó mang hình thức đạo đức, là những nguyên tắc đạo đức. Ðạo đức cho dân gian mà cũng là đạo đức mà quan chức phải theo. Ðạo Phật mang đến cho Thánh Ðức một khái niệm phổ quát về luật. Luật áp dụng cho người - dù là người Nhật - là những luật áp dụng cho mọi người, bởi vì nó đúng cho mọi người.

Thánh Ðức nói: "Hãy kính dường Tam bảo... Tam bảo là nơi nương tựa cuối cùng của mọi người và là nguyên tắc đáng kính nhất của mỗi dân tộc. Làm sao có người, ở bất cứ thời đại nào, có thể không biết sự thật đó được? Những người ác đến nỗi không sửa chữa được là rất hiếm. Nếu được giáo hóa, ai cũng có thể thấy sự thật. Bởi vậy, nếu không nương trú vào Tam bảo, làm sao có thể sửa đổi được bao nhiêu tính xấu của người?" (Ðiều 2)

Nghĩa là đối với vua, "Pháp" là nguyên tắc của mọi người; "Phật" là hiện thân của Pháp; Tăng là trí tuệ để thực hiện Pháp. Nghĩa là mọi sự vật quy tụ vào một nguyên tắc căn bản gọi là Pháp.

Hình như A-dục cũng suy nghĩ như vậy, nghĩa là cũng suy từ chữ "Pháp" (Dharma) mà ra. Chỉ có một điều khác giữa A-dục và Thánh Ðức. A-dục biết nhiều triết thuyết trước Phật giáo, và những triết thuyết đó đều xây dựng trên những nguyên tắc phổ quát. Còn Thánh Ðức không biết triết thuyết phổ quát nào trước Phật giáo, cho nên rất hả hê nhấn mạnh tính cách phổ quát của Phật giáo. Mặc dầu vậy, A-dục, Thánh Ðức và Songtsan-Gampo đều nhất thiết không hủy diệt những tín ngưỡng địa phương mặc dầu bản thân mình tôn trọng đạo Phật. Vì vậy thần đạo ở Nhật và đạo Bon ở Tây Tạng vẫn được tôn trọng. Thánh Ðức chỉ thị: "Dưới triều đại của ta tại sao lại cấm sùng bái những vị thần của thần đạo? Quan chức trong triều phải sùng bái thành thực".

Thánh Ðức chết năm 622, lúc 49 tuổi. Hoàng hậu cũng chết năm đó. Vua thành lập một nhà nước thống nhất, quyền hành tập trung vào tay Thiên Hoàng (Tennô). Nhưng khi vua mất thì sứ quân Soga thừa thế tấn công vào kinh đô, thảm sát cả gia đình nhà vua. Ðông cung thái tử Yamashiro cùng với vợ tự tử (mặc dầu gia đình Soga lại có họ hàng với gia đình Thánh Ðức). Thái tử nói trước khi chết: "Nếu ta chiêu mộ quân để tấn công Soga, có thể ta thắng. Nhưng vì quyền lợi của một người, ta không muốn hại cả dân tộc". Thái tử và vợ cùng chết trước tượng Phật. Người đời cho rằng cả gia đình Thánh Ðức đã giữ trọn câu "tất cả đều vô thường, ngoại trừ sự thật duy nhất là lời giáo huấn của đức Phật". Câu đó được thêu trên thảm và được lưu trữ. Thánh Ðức được xem như là hình ảnh sống của giáo lý đức Phật diễn tả qua chính trị, luật pháp và đời sống thực dụng. Thánh Ðức được dân Nhật sùng bái như thánh tử đạo, như Bồ-tát. Từ đó mà văn hóa Nhật nảy nở.

Nhật có "vua Phật" là Thánh Ðức; ta cũng có "vua Bụt" là Trần Nhân Tông. Thú thật, tôi chưa có thì giờ để nghiên cứu, so sánh hai vị vua; và cũng chưa biết có nên so sánh không, bởi vì hoàn cảnh lịch sử khác nhau: Thánh Đức vừa dựng lên nước Nhật thống nhất, vừa dựng lên cơ sở văn hóa Phật giáo; Trần Nhân Tông tiếp nối và làm hiển hách một văn hóa Phật giáo đã khai hoa, nở nhụy ở Việt Nam từ thời Lý. Về sức học, Trần Nhân Tông của ta tuyệt vời, tưởng như đã truyền cho ta tinh túy của đạo Phật. Về Thánh Ðức, tôi chỉ biết sơ sài, là nhà vua đã bình chú 3 tập kinh: kinh Thắng Man, kinh Duy Ma và kinh Pháp Hoa. Vua như thế cũng đã là triết gia rồi. Nếu tôi bạo dạn so sánh, thì tôi chỉ muốn nói đến một khía cạnh này mà tôi chỉ cảm thấy thôi.

Ai cũng biết câu hỏi đặt ra từ lâu và bàn cãi um sùm: tại sao Nhật canh tân được ở thế kỷ 19 (với Minh Trị) mà Trung Quốc thì không? Tại sao cùng chịu ảnh hưởng văn hóa Khổng Mạnh, mà Nhật thì thoát ra khỏi óc thủ cựu; còn Trung Quốc thì cứ vướng mắc? Bao nhiêu là câu trả lời.

Ðọc sách Nhật về Thánh Ðức, tôi thấy có một câu trả lời hay hay, đáng suy ngẫm thêm. Nhưng trước hết, phải nói ngay về câu hỏi cũng đã đặt ra: đạo Phật có làm cản trở phát triển kinh tế không? Câu hỏi đại ngu. Ngu chẳng khác gì hỏi: đạo Phật có làm cản trở gì Trần Nhân Tông trong việc chống xâm lăng không? Ði tu và đánh giặc là một. Ðó là điều kỳ lạ mà cả dân tộc ta phải suy ngẫm hoài. Tôi trích Trần Thái Tông (1218-1277) trong bài Lục thời sám hối khoa nghi (Thơ văn Lý Trần tập 2 quyển Thượng ): làm vua một nước "ở ngôi chí tôn, việc dân vất vả, việc nước bộn bề". Mà thế nào? Mỗi ngày sáu lần thắp hương, dâng hoa, niệm kinh tụng kệ trước bàn thờ Phật làm lễ sám hối. Ai tu được như vua? Bản thân tôi cứ suy niệm hoài về chuyện này: nếu các vua Lý Trần không nắm được tinh túy của Thiền trong tư tưởng và trong hành động, làm sao các vị vừa có thể là vua lớn, vừa là Phật tử lớn, mỗi ngày tụng kinh sám hối sáu lần?
Tôi không đi xa câu hỏi về kinh tế và canh tân nước Nhật đâu. Ở trên, tôi đã có nói rằng dân Nhật chuộng thực dụng, không giỏi trừu tượng, triết lý như Ấn Ðộ. Dân Nhật, lại cũng khác Ấn Ðộ, thích thực hiện những gì trước hết là ở đời này, giữa nhân quần xã hội. Bởi vậy, lý tưởng tiểu thừa không hợp với dân Nhật, mà lý tưởng đại thừa thì quá hợp, đi vào đất Nhật dễ dàng. Không phải ngẫu nhiên mà Thánh Ðức bình chú kinh Thắng Man, kinh Duy Ma và kinh Pháp Hoa. Kinh Thắng Man và kinh Duy Ma đề cao vai trò của cư sĩ, đưa ý niệm chân lý có thể nắm bắt trong cõi đời cư sĩ này. Kinh Pháp Hoa thì dạy rằng bất cứ ai (cư sĩ nào) tin một lời Phật dạy là được Niết-bàn. Sách Nhật giải thích: ý của Thánh Ðức là nhấn mạnh trên sự thực hiện lý tưởng Phật giáo ở đời này, nơi mọi người và giữa mọi người, nơi chính trong đời sống thường ngày này. Vua đặt nặng lý tưởng Bồ-tát.

Phật giáo Nhật bản sau này khai triển những ý đó. Tối Trừng nhấn mạnh: cư sĩ và tăng sĩ đều đạt giác ngộ như nhau. Theo Không Hải, người sáng lập ra phái Kim cương thừa ở Nhật, trí tuệ Bát-nhã có thể được thực hiện qua đời sống hằng ngày. Theo phái Tịnh độ chân tông, không những mọi người tin Phật đều có thể đạt Niết-bàn, mà những người lầm lỗi cũng được đức Ðại từ đại bi cứu thoát. Dưới thời Tokugawa, các thương nhân bán rong danh tiếng nhất ở Omi ("cận giang thương nhân"), chở hàng hóa bán buôn khắp mọi nơi trong nước, hầu hết là tín đồ thuần thành của phái Tịnh độ chân tông, đi khắp nước để thực hiện lý tưởng lợi tha.

Ðồng thời với tư tưởng đặt nặng lý tưởng ở cõi đời này, lại thêm tư tưởng đặt nặng trên sản xuất. Ở các đất giàu, màu mỡ hơn, sản xuất dễ, đạo đức nhấn mạnh trên phân phối, trên bố thí. Nhật là đất nghèo, sản xuất là sống chết, vì vậy đạo đức đặt nặng trên cần lao, ở mọi ngành nghề.

Ðặc điểm này được thấy ngay cả trong văn chương Thiền ở Nhật. Ðạo Nguyên, người sáng lập Thiền Tào Ðộng, dạy rằng đạo có thể được thực hiện trong đời sống nghề nghiệp. Linh Mộc Chánh Tâm khuyên giảng: hãy sống trọn với nghề nghiệp của mình, dù là võ sĩ, nông dân, thương gia, bác sĩ, minh tinh màn bạc, thợ săn hay tăng sĩ. Với nông dân, ông nói: "Cày cấy là làm công việc của Phật". Với thương gia: "Diệt dục và cứ sinh lợi một cách vô tư nhưng đừng bao giờ vui với cái lợi đó, mà trái lại, dùng lợi đó để làm điều thiện cho mọi người". Ông còn nói thêm: "Hãy làm việc khổ nhọc để chuộc nghiệp của quá khứ". (Ngay sau khi Calvin chết, một tư tưởng tương tự Calvin đã manh nha ở Nhật, không phát triển được có lẽ là tại vì giới tư sản không phát triển).

Tất nhiên, một tư tưởng thực dụng quá thì không bay lên cao được. Nhưng đó là một đặc điểm của Nhật. Và võ sĩ đạo chính là xương thịt của Thiền.

Bây giờ tôi trở lui về chuyện so sánh vua Trần với Thánh Ðức. Tôi nghĩ rằng quan tâm của các vị giống nhau: cai trị thế nào để cai trị và đi tu không khác gì nhau? Có phải từ câu hỏi đó mà Thiền đã cực thịnh ở Việt Nam thời Lý Trần? Có phải từ câu hỏi đó mà Thiền phát triển ở Nhật? Tôi chưa có thì giờ nghiên cứu, chỉ lơ mơ trực giác ở trong đầu. Khác một điều là Thiền tiếp tục sinh động ở Nhật; khác một điều là Thiền ở ta trở nên mảnh đất ít người lắm ma.

Sử sách về thời Thánh Ðức không còn bao nhiêu và sử sách về Lý Trần thì bị mất rất nhiều. Cũng vậy, tôi tiếc vô cùng khi thiếu tài liệu để viết về tương quan giữa Phật giáo và luật pháp Lý Trần. Chỉ nhắc lại ở đây vài chuyện mà ai cũng biết, gọi là để so sánh.

1 - Ðạo Phật đã bành trướng ở Nhật trước thời Kamakura (1192 hay 1185-1331), nhưng dưới sự bảo trợ của triều đình và được sùng bái nhất trong giới quý tộc.

Năm 1185, một chính phủ tướng quân được thành lập ở Kamakura (Tokyo). Vua vẫn còn ở Tokyo, nhưng chẳng còn cai trị thực sự nữa. Chế độ lưỡng đầu được thành lập ở Nhật và kéo dài cho đến 1868. Thời đại Kamakura là thời đại cực thịnh của Phật giáo. Bởi vì đây là thời đại Phật giáo phát triển ra khỏi giới quý tộc, vào sâu trong dân chúng. Giới võ sĩ thâm nhập đạo Phật, và giới võ sĩ lại rất gần nông dân (70-80% dân số). Võ sĩ, nông dân, thương gia, nghĩa là quảng đại quần chúng, không phải là quý tộc.

Tôi rất tiếc không biết tội tử hình được áp dụng thế nào dưới thời Kamakura. Nhưng tôi biết rằng, trước đó, mặc dầu vương triều du nhập luật Trung Hoa và có quy tội tử hình, trong suốt 346 năm, từ 810 đến 1156, tử tù không bao giờ bị hành quyết. Chẳng đáng ngạc nhiên hay sao?

Tôi lại đọc Lịch triều hiến chương loại chí của ta. Sử thần Phan Huy Chú triều Nguyễn chép rằng dưới thời Lý Nhân Tông, năm 1125, có chiếu: "Phàm kẻ đánh người đến chết thì đày làm khao giáp, đánh 100 trượng, thích vào mặt 50 chữ".

Sử thần họ Ngô, nhà Nho, bàn: "Sát nhân giả tử, đó là phép cổ. Sao lại có giết người mà chỉ xử nhẹ trượng với đồ?... ". Ðó là sử thần nhà Nho phê bình một chính sách chắc là chịu ảnh hưởng của Phật. Tôi không nói ai đúng ai sai. Chỉ nói rằng khuynh hướng hiện tại trên các nước văn minh là chống việc tử hình.

2 - Trên là tử hình. Bây giờ là xá tội. Ðại Việt sử ký toàn thư chép: "Năm 1129, Lý Thần Tông xuống chiếu xá những người có tội" (tr.264). Sử thần nhà Nho Ngô Sĩ Liên rất bực mình về việc các vua Lý hay xá tội vào những dịp lễ hội Phật. Ông hạ bút: "Nhân Tông thường hay nhân dịp mở hội Phật mà xá người có tội là không phải, nhưng mà mượn tiếng hội Phật. Còn như vua (nghĩa là Thần Tông) thì không có việc gì mà cũng xá. Phàm tội nhân phạm pháp có nặng có nhẹ, năm bậc hình phạt có trên có dưới, làm sao có thể tha được? Nếu nhất khái tha cả thì kẻ tiểu nhân gặp may mà được khỏi tội, đó không phải là phúc cho quân tử. Cho nên thời xưa nói về việc trị nước, tuy không thể không xá tội nhưng mà cũng lấy xá tội làm có hại. Lỗi mà tha thì được, tội mà tha thì không được. Kinh Dịch nói: tha lỗi giảm tội. Kinh Thư nói: lầm lỗi thì tha cho, cố phạm thì trị tội. Thế là phải"[4].

Khó mà bàn về lời bàn của Ngô Sĩ Liên, bởi vì sử chỉ chép một câu về việc xá tội của Lý Thần Tông, ta không có chi tiết. Không có chi tiết thì đố ai dám nói hay hay dở. Giá như thời đó có thống kê để xem tổng số tội phạm tăng hay giảm sau mỗi lần xá, hoặc xem những tội nhân được xá có tái phạm không! Nhưng đó không phải là chuyện tôi đang nói. Chuyện tôi muốn nói là lòng nhân của các vua Lý. Về lòng nhân đó, tôi trích một sử liệu thứ 3, may quá, lần này được sử thần Nho gia đồng ý.

3 - Lịch triều hiến chương loại chí chép:

"Lý Thái Tông năm Minh Ðạo thứ 1 (1042) ban bố hình thư. Buổi đầu trong nước việc hình ngục kiện cáo phiền nhiễu, pháp quan câu nệ luật văn, chuộng sự nghiêm khắc, phần nhiều oan uổng sai phạm. Thái Tông thường lấy làm thương dân, mới sai quan trung thư sửa định luật lệnh, tham chước những điều thông dụng trong thời ấy, chia làm môn loại, chép rõ điều mục, thành bộ hình thư của một đời để cho người xem dễ hiểu. Sách làm xong, có chiếu ban hành, nhân dân lấy làm tiện. Ðến đó phép xử rất rõ ràng".

Cái gì khiến Lý Thái Tông làm luật? Ðể trừng trị? Không, mục đích là vì thương dân. Làm luật cũng có thể là vì từ bi. Hãy nghe thêm: "Thánh Tông năm Long Thụy Thái Bình thứ 6 (1059), mùa hạ, tháng 4, khi vua nghe xử kiện ở điện Thiên Khánh, Ðổng Thiên công chúa đứng hầu bên cạnh, vua chỉ vào công chúa mà bảo ngục lại rằng: "Ta làm cha mẹ dân, lòng yêu dân cũng như yêu con ta đây. Nhân dân vì không biết mà sa vào hình pháp, ta rất thương. Từ nay về sau, không cứ tội nặng tội nhẹ, đều nên khoan hồng".

Sử thần Nho gia họ Ngô phê bình: "Xem đó thấy Thánh Tông thành thực thương dân, khoan hồng việc hình, cùng là vua tôi thân nhau, không ngăn cách trên dưới, khoan độ, trung hậu, dễ dãi, có thể tưởng thấy được. Cứ theo đạo ấy mà làm, thói dở đâu còn che lấp, dân tình đâu còn không thông, thiên hạ đâu còn lo chẳng thịnh trị!"[5]

Ðó là Nho gia khen vua Phật, không phải "mèo khen mèo"...

4. Tôi trích một sử liệu thứ 4, vẫn một câu thôi, nhưng tôi cho là vĩ đại. Năm 1126, vua xuống chiếu cấm nhân dân mùa xuân không được chặt cây (DVSKTT, tr.225).

Luật của cây cối là: xuân sanh, hạ trưởng, thu thâu, đông tàn.

Xuân sanh: hãy nhìn một lộc non vừa nhú lên trong mùa xuân, bao nhiêu là hạnh phúc, bao nhiêu là sức sống! Chặt cây cối trong mùa xuân là kết án tử hình sự sống! Chặt cây cối trong mùa xuân là kết án tử hình mùa xuân! Chưa bao giờ chân lý, thiện và mỹ được nâng cao lên đến mức ấy.

Tôi biết luật này của vua Lý từ thuở còn là sinh viên. Bốn mươi năm qua, bốn mươi mùa xuân, mỗi khi nhìn cây cối ra hoa nở nụ, tôi vẫn mong rằng bất cứ ai nói đến nhân quyền, nhất là Liên Hợp Quốc, hãy ghi điều luật này vào một bản tuyên ngôn như tượng trưng cho quyền thiêng liêng nhất của con người: quyền của sự sống trên sự chết, sự sống của mình nơi sự sống của người khác, nơi sự sống của mọi vật chung quanh. Cũng như một con bướm vỗ cánh ở bên kia nửa địa cầu, một nụ non bị ngắt sự sống ở đây sẽ làm nhựa cây xao xuyến khắp cả khu rừng bên đó. Nói như thế này e rằng một luật gia sẽ mỉm cười. Nhưng thi nhân sẽ không mỉm cười. Triết gia sẽ không mỉm cười. Mà thi nhân và triết gia là những người tư duy về luật trước các luật gia.



Cao Huy Thuần

Thượng Đế, Thiên Nhiên, Người, Tôi và Ta,
Trungtâm văn hóa Khuông Việt xuất bản, 1999 (tr. 114-146).

Nhà xuất bản TP Hồ Chi Minh, 2000 (tr. 140-179).

Kim giòn- giá 350k-

Kim giòn- giá 350k-ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh


Chuổi ngọc - giá 150k



Chuổi ngọc - giá 150k--ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh



Chùm nụm- giá 250k-

Chùm nụm- giá 250k--ĐT 0974548883. STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh



Hàng về Sài Gòn ( bình)


Thứ Tư, 6 tháng 7, 2016

Thừa tướng mất vẹt

Thừa tướng xứ ếch vừa bị đánh cắp con vẹt nổi tiếng nói rất là thông thạo. Ngài rất tức giận ra lệnh hình bộ phải lập tức đổ quân tìm bắt kẻ cắp thu hồi chú vẹt cưng đem về cho ngài. lệnh vừa ban ra chưa đầy một giờ thì một tên trộm rách rưới đã mang con vẹt đến cơ quan hình bộ đầu thú.

Vị quan hình bộ tra hỏi tên trộm :

- Ngươi là tên trộm Vẹt?

- Dạ thưa chính con ạ

- Có đồng phạm hay không?

-Dạ thưa rất may là chỉ có mình con ạ.

- Thế ngươi ăn cắp con Vẹt để làm gì?

- dạ để bán kiếm tiền ạ?

- Thế sao ngươi chưa bán?

-dạ con không dám đem đi bán ạ?

-Ngươi sợ bị phát hiện à?

- dạ, không phải ngàn lần không phải ạ?

- Thế con vẹt này không biết nói à?

- Không ạ, đúng như lời đồn nó nói rất thạo ạ!

- vậy sao ngươi không bán kiếm tiền xài hết rồi ra đầu thú cũng đâu có muộn.

- dạ, con biết, phải để cho hình bộ lên kế hoạch điều ta xin kinh phí và lộ diện để bị bắt cho hình bộ lập công.

- ai cha, ngươi đúng là tên trộm chuyên nghiệp rồi.

- da, thưa vâng, tuy con trôm cắp chuyên nghiệp nhưng cũng còn chút lương tâm ạ?

- ai cha, ngươi lại láo sự à? lương tâm gì ở đây chứ?

- dạ, bởi con còn có chút lương tâm nên nghe con vẹt nói con vội ra đầu thú chịu tội ạ

-ai cha, con vẹt này tài thế à? vậy nó nó gì với ngươi?

- dạ thưa, nó bảo nó nói không sót một chữ về bài phát biểu chỉ đạo " cải cách giáo dục" của Thừa tướng ạ?

- ???







Linh sam SH- giá 350k



Linh sam SH- giá 350k-ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh





https://www.facebook.com/giangtieuho/

Thứ Ba, 5 tháng 7, 2016

Lịch Sử Hình Thành Liên Bang Hoa Kỳ Và Những Điều Không Dễ Nói




Thiếu Long

Nguồn Thiếu Long's Blog



Từ thời lập quốc tới năm 1924, quân đội Hoa Kỳ đã trải qua hơn 100 cuộc chiến và hàng vạn trận chiến lớn nhỏ trong quá trình xâm lược, thôn tính, diệt tộc, chiếm đất của các lực lượng bản địa. Các chủng tộc, dân tộc bản xứ trước đó có hàng chục triệu người, sau hơn 100 cuộc chiến chỉ còn lại chừng mấy trăm ngàn người. Từ thời lập quốc đến năm 1973, quân đội Mỹ đã đàn áp và đánh dẹp khoảng 30 cuộc khởi nghĩa chống chế độ nô lệ, sưu cao thuế nặng, bất công giai cấp....



Tại nước Mỹ nếu các bạn hỏi một người Việt, hay thậm chí là một người Mỹ rằng tại sao nước Mỹ to lớn như bây giờ, quá trình bành trướng lãnh thổ của Mỹ diễn ra như thế nào, ngoài Chiến tranh Việt Nam và các cuộc chiến gần đây thì Mỹ còn đem quân đánh những nơi nào v.v., thì các bạn sẽ thấy rằng họ không biết câu trả lời. Điều đó có lẽ từ sự tránh né nói về đề tài này trong giáo dục phổ thông và trên báo chí chính thống. Rất may, các trang thông tin trên Internet và các tác phẩm nghiên cứu chuyên sâu đã trình bày, liệt kê, miêu tả những sự kiện quan trọng, những giai đoạn trong suốt quá trình bành trướng khu vực và quốc tế, mở rộng cương thổ của Hoa Kỳ. Bài viết này tổng hợp lại các thông tin, sự kiện để phần nào giải đáp câu hỏi:Tại sao nước Mỹ rộng lớn như hiện nay?

Năm 1775, tướng George Washington, vốn là một viên tướng tư lệnh người thuộc địa gốc Anh, đã từng chỉ huy trung đoàn dân quân địa phương trang bị nhẹ ở thuộc địa Virginia đánh bại nhiều bộ tộc châu Mỹ bản xứ và thực dân Pháp, cùng các chiến hữu thành lập lực lượng nổi dậy "Lục quân Lục địa", lãnh đạo quân nổi dậy của 13 thuộc địa tạo phản chống thực dân Anh. Sau tám năm chiến tranh, thực dân Anh thua, phải ký hiệp định Paris 1783 rút quân ra khỏi 13 thuộc địa. George Washington và các chiến hữu tuyên bố 13 thuộc địa độc lập, ly khai nước Anh, và thành lập liên bang Hoa Kỳ.

Từ đó, mười ba thuộc địa trở thành mười ba tiểu bang nằm trong liên bang Mỹ. Từ 13 tiểu bang nguyên thủy, Mỹ đã bành trướng lãnh thổ lên thành một nước rộng lớn với 50 bang với nhiều lãnh thổ phụ thuộc, bao gồm vùng quốc hải (Insular area), Puerto Rico, Samoa, Guam, 2 quần đảo và 9 hòn đảo.



Các khu vực thuộc địa của thực dân Anh ở Bắc Mỹ. Khu vực số 3 bao gồm 13 thuộc địa, sau này trở thành nước Hoa Kỳ với 13 tiểu bang đầu tiên.



Các tiểu bang thuộc liên bang Hoa Kỳ. Từ một quốc gia có diện tích khiêm tốn, liên bang Hoa Kỳ đã trở thành to lớn như hiện nay.

Chính sách bành trướng toàn cầu và chủ nghĩa đế quốc của Mỹ đã làm sản sinh ra những khái niệm và thuật ngữ mới trong giới khoa học chính trị quốc tế như "đế quốc Mỹ", "tiểu bang thứ 51", "vận mệnh hiển nhiên"....

Thuật ngữ "chủ nghĩa đế quốc" đầu tiên được dùng để nói về các vấn đề liên quan tới hoàng đế Napoleon của Pháp, và cũng được dùng khi nói về chính sách ngoại giao của Anh. Thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi hơn trong thế kỷ 19 và đầu tiên được sử dụng một cách phổ biến để nói về Hoa Kỳ bởi Liên minh Hoa Kỳ chống Đế quốc, được thành lập năm 1898 để chống chiến tranh Tây Ban Nha - Hoa Kỳ và sự chiếm đóng quân sự cùng những tội ác chiến tranh gây ra bởi quân đội Mỹ ở Philippines sau đó.



Trong chiến tranh xâm lược Philippines, tướng Mỹ Jacob Smith hạ lệnh "Giết tất cả người nào trên 10 tuổi" ("Kill everyone over ten"). Câu ở dưới tranh biếm họa (1902) là: "Họ là tội phạm chỉ vì họ sinh ra 10 năm trước khi chúng ta lấy Philippines" ("Criminals Because They Were Born Ten Years Before We Took the Philippines"). Jacob Smith là một kẻ bị dư luận gọi là một hung thần (monster), hắn gây rất nhiều tội ác trong các cuộc chiến ở Mỹ và Philippines và còn thường xuyên "khoe khoang" về những "thành tích" đó. Sau đó, trước áp lực dư luận thế giới, Mỹ đành phải đưa Smith ra tòa án quân sự, nhưng hắn không bị 1 ngày ngồi tù nào mà chỉ bị đề nghị, thuyết phục để tự nghỉ hưu trong danh dự.

Tư tưởng bành trướng quốc tế của Mỹ được thể hiện rõ qua khái niệm "Vận mệnh hiển nhiên" (Manifest Destiny), "vận mệnh hiển nhiên" là một niềm tin của người Mỹ rằng họ có "vận mệnh" mở rộng lãnh thổ từ duyên hải Đại Tây Dương đến Thái Bình Dương. Khái niệm này cũng được sử dụng để hô hào và biện hộ cho việc thu phục các lãnh thổ khác.

Những người theo tư tưởng này tin rằng mở rộng lãnh thổ Hoa Kỳ không chỉ tốt đẹp mà còn là "hiển nhiên" và là "vận mệnh". Ban đầu, "Manifest Destiny" là một từ có tính cách thời thế chính trị trong thế kỷ 19 nhưng dần dần nó trở thành thuật ngữ chuẩn lịch sử, thường được dùng như đồng nghĩa với việc mở rộng lãnh thổ của Hoa Kỳ khắp Bắc Mỹ.

Thuật ngữ này không được những nhà làm chính sách của Hoa Kỳ sử dụng trong đầu thế kỷ 20 nhưng một số nhà bình luận tin rằng một số khía cạnh của niềm tin "Vận mệnh hiển nhiên", đặc biệt là tư tưởng, niềm tin, chủ nghĩa đại bá quyền về một "nhiệm vụ" của người Mỹ là bành trướng thế lực, mở rộng tầm ảnh hưởng ra khắp thế giới dưới chiêu bài chính trị "khai hóa dân chủ", "khai hóa văn minh".



Tác phẩm nổi tiếng năm 1872 của họa sĩ John Gast, có tên "American Progress" (Quá trình tiến tới của Hoa Kỳ), là một sự miêu tả mang tính biểu tượng về tư tưởng "Vận mệnh hiển nhiên". Trong hình là nàng Columbia, một hình tượng được nhân cách hóa như là nước Hoa Kỳ, đi phía Tây cùng với những người định cư Mỹ vì sự nghiệp "khai hóa". Người Mỹ bản địa (Native American) cùng thú hoang bỏ chạy.



Biếm họa về tổng thống Mỹ Theodore Roosevelt và "cây roi lớn" của ông ta ở vùng Caribe, trong chiến dịch xâm chiếm Puerto Rico. Ý tưởng biếm họa này là xuất phát từ một tuyên bố "cởi mở" và đầy tự hào của Roosevelt: "Đó là vận mệnh hiển nhiên khi một quốc gia làm chủ một quần đảo giáp bờ biển của họ." ("It is manifest destiny for a nation to own the islands which border its shores.") và nếu "Bất kỳ một nước Nam Mỹ nào không ngoan ngoãn thì phải bị cho ăn đòn." ("Any South American country misbehaves it should be spanked.")

Tư tưởng nước lớn của Mỹ cũng được thể hiện qua khái niệm "Tiểu bang thứ 51" (51st state), đó là một thuật ngữ để chỉ những vùng được nghiêm túc hoặc mỉa mai cho rằng có thể trở thành một vùng đất mới của Hoa Kỳ, cộng thêm vào 50 tiểu bang sẵn có của họ. Trước năm 1959, khi Hawaii và Alaska chưa sát nhập vào liên bang Hoa Kỳ thì thuật ngữ "49th state" (tiểu bang thứ 49) đã được dùng. Gần đây nhất, Puerto Rico có khả năng thành tiểu bang thứ 51.

Cụm từ "tiểu bang thứ 51" cũng được dùng để nói về các quốc gia chư hầu, nhà nước vệ tinh, hoặc thuộc địa kiểu mới, đã hoặc đang nằm dưới sự ảnh hưởng hoặc điều khiển từ chính phủ Hoa Kỳ. Trong nhiều nước trên thế giới, nhiều người thấy rằng văn hóa, truyền thống dân tộc của họ đã bị Mỹ hóa quá nhiều, các nhóm này cũng thường sử dụng thuật ngữ "tiểu bang thứ 51" như là một cái nhìn nghiêm khắc về nước họ.

Các sự kiện tiêu biểu trong quá trình mở rộng lãnh thổ Hoa Kỳ

Cuộc trường kỳ kháng chiến bi tráng của thổ dân Mỹ

Lâu nay mỗi khi nhắc đến thổ dân bản xứ châu Mỹ thì nhiều người trong chúng ta, do ảnh hưởng từ hệ thống tuyên truyền, giáo dục, phim ảnh thời Pháp, thời Mỹ, nên đầu óc hiện lên ngay hình ảnh của những kẻ ăn lông ở lỗ, rồi gom chung lại gọi họ là "mọi da đỏ". Sự thật có phải vậy không?

Sự thật là châu Mỹ nói chung và Bắc Mỹ, Hoa Kỳ nói riêng, trước khi thực dân phương Tây đến thôn tính, đã tồn tại hàng trăm dân tộc với các văn hóa và ngôn ngữ khác nhau vô cùng đa dạng và phong phú. Người phương Tây cho rằng mình văn minh hơn nên ban đầu họ không cần biết ai là ai, họ khái quát hóa lại hết và gom hết vào gọi chung là Indian (vì nhà thám hiểm Christopher Columbus ban đầu nhầm lẫn đây là Ấn Độ), và khi thấy một vài chủng tộc có da nâu đậm hoặc một số bộ lạc có phong tục nhuộm mặt đỏ hoặc có những hình vẽ màu đỏ trên mặt để kích thích ý chí chiến đấu, thì họ gọi đó là Redskin hoặc Red Indians, và từ đó danh từ mang tính lăng mạ "mọi da đỏ" được sử dụng phổ biến.

Khi xem hình vẽ, các phim ảnh Hollywood, các truyện tranh của Mỹ, bao gồm cả các hình vẽ minh họa trong sách giáo khoa cấp phổ thông, thì người ta luôn thấy các hình ảnh thổ dân ăn mặc gần như là khỏa thân, chỉ đóng mỗi cái khố, ăn lông ở lỗ, như các dân tộc thiểu số hay con người trong thời thượng cổ, bán khai.

Thật ra nếu các bạn đến các tiểu bang phía Bắc nước Mỹ thì các bạn sẽ thấy lạnh căm, đông đá, tuyết phủ. Không cần là các bang phía Bắc, kể cả các bang phía Nam như Texas, Arizona, New Mexico, Florida khi mùa đông đến thì thời tiết khí hậu rất lạnh. Như vậy thì làm sao có thể ăn mặc ít vải gần như khỏa thân, để mình trần đóng mỗi một cái khố như trong sách và phim điện ảnh mô tả mà có thể chịu rét nổi.



Từ trên xuống dưới: Kaintwakon (biệt danh: Người trồng ngô), thủ lĩnh của người Seneca, và Thayendanegea, thủ lĩnh của người Mohawk. Hai ông là thủ lĩnh quân đội kiệt hiệt của liên minh Iroquois.

Đúng là có một ít tộc người, bộ lạc ở Nam Mỹ gần xích đạo, hoặc những ngư dân sống gần biển, dân đảo, là ăn mặc thiếu vải, bởi vì họ không có nhu cầu đó, và họ sinh hoạt chủ yếu dưới nước không cần nhiều y phục. Hoặc có khi đơn giản là một số người thích cởi trần cho mát khi sinh hoạt thường nhật, như bao nhiêu người trên thế giới ngày nay.

Hiện tượng "khái quát hóa", "mọi rợ hóa", "man di hóa" các sắc tộc, sắc dân khác của Mỹ và phương Tây cũng tương tự như người Hán ở Trung Quốc thời phong kiến từng gom chung lại gọi bốn phương quanh họ là "Đông di, Tây nhung, Nam man, Bắc địch".

Các chính phủ và hệ thống giáo dục nhà nước của Mỹ và phương Tây lâu nay luôn lẩn tránh hoặc viết lại lịch sử một cách xuyên tạc, bóp méo để chạy tội xâm lược, bành trướng, và các tội ác diệt chủng, thảm sát quy mô lớn mà các cha anh của họ đã gây ra ở châu Mỹ.

Theo ước tính của nhóm nghiên cứu đạo đức học (ethic studies) của trường đại học Colorado, thì thổ dân Bắc Mỹ có khoảng 15 triệu người khi người Tây phương bắt đầu xâm lược, chỉ còn lại chưa đầy 250 ngàn vào năm 1890. Ban đầu họ không hề là các dân tộc thiểu số, mà họ chính là những dân tộc đa số, chỉ sau khi bị quân xâm lược tiến hành những cuộc chiến tranh diệt chủng, diệt tộc, hoặc đô hộ, đồng hóa, thì họ mới bị trở thành thiểu số.

Giáo sư đại học Hawaii, sử gia David Stannard, trong sách "American Holocaust: The Conquest of the New World" (Cuộc diệt chủng Holocaust của Mỹ: Cuộc chinh phục Tân thế giới), do NXB đại học Oxford (Anh) xuất bản, đã cho biết: "Trong vòng bốn thế kỷ - từ thập kỷ 1490 đến 1890 - người châu Âu và người Mỹ trắng đã tham gia một chuỗi liên tục các chiến dịch diệt chủng chống nhân dân châu Mỹ bản xứ. Đó là hành động diệt chủng có quy mô lớn nhất trong lịch sử thế giới."

"During the course of four centuries - from the 1490s to the 1890s - Europeans and white Americans engaged in an unbroken string of genocide campaigns against the native peoples of the Americas. It was, far and away, the most massive act of genocide in the history of the world."

Trong loạt phim tài liệu "500 Nations" (500 dân tộc), nói về các nền văn minh, nhà nước, đế chế, vương quốc, dân tộc, bộ tộc, bộ lạc ở Bắc Mỹ, Trung Mỹ, và cuộc kháng chiến kiên cường bi tráng của họ trước quân xâm lược thực dân châu Âu, nhà sản xuất kiêm đạo diễn Kevin Costner đã giới thiệu:

"Từ rất lâu trước khi những người châu Âu đầu tiên đến đây, đã có chừng 500 dân tộc đã ở Bắc Mỹ. Họ bao trùm châu lục từ bờ biển đến bờ biển, từ Trung Mỹ đến Bắc Băng Dương. Có hàng chục triệu người ở đây, nói hơn 300 ngôn ngữ. Nhiều dân tộc trong số đó sinh sống trong các thành phố đẹp, thuộc loại các đô thị lớn và tân kỳ nhất trên thế giới. Phim tài liệu 500 Dân tộc nhìn lại các nền văn hóa cổ đó, họ sống ra sao, và bao nhiêu trong số họ còn sống sót.... Những gì các bạn sẽ nhìn thấy trong phim chính là những gì đã xảy ra. Những gì trong phim chỉ là một phần, không phải là tất cả những gì đã xảy ra, và không phải đoạn phim nào cũng dễ xem. Chúng ta không thể thay đổi nó. Chúng ta không thể vặn lại kim đồng hồ. Nhưng chúng ta có thể mở mắt ra và cho các dân tộc đầu tiên trên mảnh đất này sự công nhận và tôn trọng họ đáng phải được: Vị trí chính đáng của họ trong lịch sử thế giới."

"Long before the first Europeans arrived here, there were some 500 nations already in North America. They blanketed the continent from coast to coast, from Central America to the Arctic. There were tens of millions of people here, speaking over 300 languages. Many of them lived in beautiful cities, among the largest and most advanced in the world. In the coming hours, 500 Nations looks back on those ancient cultures, how they lived, and how many survived.... What you're about to see is what happened. It's not all that happened, and it's not always pleasant. We can't change that. We can't turn back the clock. But we can open our eyes and give the first nations of this land the recognition and respect they deserve: their rightful place in the history of the world."

Trong số khoảng 500 dân tộc đó có nhiều bộ tộc, thị tộc, bộ lạc hoặc liên minh bộ lạc. Và còn có những dân tộc với nền văn minh, văn hóa phát triển cao với các thể chế chính trị đã phát triển cao, bao gồm các đế quốc, vương triều, nhà nước, chính quyền, quân đội có tổ chức, hệ thống hành chính, và các quan hệ vua tôi, thần dân, họ thu thuế và sử dụng một số loại tiền riêng làm bằng đồng (Axe-monies).

Đại Liên minh phía Tây, nền văn minh Maya, Aztec, và Inca

Tại châu Mỹ trong các thời kỳ khác nhau, những lực lượng lớn mạnh nhất có thể kể đến: Tại Bắc Mỹ có liên minh chính trị quân sự "Đại Liên minh phía Tây" (Western Confederacy, phần lớn thuộc nước Mỹ và Canada ngày nay), một liên minh rộng lớn bao gồm nhiều liên minh nhỏ hơn, nhưng khá lỏng lẻo. Đại liên minh này bao gồm Liên minh Iroquois (lớn nhất trong đại liên minh), liên minh Hội đồng Tam Hỏa, liên minh 7 nước Canada (7 dân tộc bản địa ở khu vực phía Nam Canada ngày nay), Liên minh Wabash (gồm các tộc Wea, Piankashaw và nhiều nhóm khác), liên minh Illini, và 10 lực lượng lớn khác.

Tại Trung Mỹ có nền văn minh, đế chế Maya và Aztec (phần lớn thuộc Mexico ngày nay). Và tại Nam Mỹ có nền văn minh, đế chế Inca (phần lớn thuộc Peru ngày nay).

Đại Liên minh phía Tây đã bị quân đội liên bang Mỹ tiêu diệt sau trận Fallen Timbers năm 1794. Một năm sau (1795) chính thức kết thúc cuộc đấu tranh chống thực dân Mỹ ở khu vực phía Bắc. Liên minh chính thức tan rã sau hơn 10 năm thành lập để kháng chiến chống sự xâm nhập của đế quốc Mỹ lên phía Bắc.



Lãnh thổ của đế chế Maya



Kim tự tháp của nền văn minh Maya, một trong những kỳ quan thế giới.

Nền văn minh, đế chế Maya đến thế kỷ 9 thì suy tàn, quyền lực trung ương bị tan rã và chia làm nhiều phe phái, quyền lực, thế lực khác nhau. Đến năm 1511, thực dân Tây Ban Nha bắt đầu mở cuộc chinh phạt các thế lực còn lại của người Maya, bắt đầu bằng chiến dịch chinh phạt vùng Yucatán, sau đó là vùng Guatemala và Petén.

Không giống như hai đế chế Aztec và Inca, khi thực dân Tây Ban Nha chỉ cần hành quyết vua và các lãnh tụ kháng chiến là xong, các thế hệ người Maya dù các lãnh tụ của họ bị hành hình thì họ vẫn nối tiếp nhau liên tục đứng lên kháng chiến đuổi quân ngoại xâm. Sự chống cự dữ dội và thường xuyên của người Maya làm cho thực dân Tây Ban Nha tốn 186 năm mới hoàn thành bình định. Itza, vương quốc cuối cùng của dân tộc Maya chịu thất bại trước Tây Ban Nha vào năm 1697.



Lãnh thổ của đế chế Aztec



Kim tự tháp của nền văn minh Aztec

Đế chế Aztec hay còn gọi là liên minh chân vạc Aztec (Aztec Tripple Alliance - gồm 3 khu vực lớn Tenochtitlan, Texcoco, Tlacopan) là một nền văn minh rực rỡ ở Trung Mỹ. Năm 1519, tướng Hernán Cortés của đế quốc Tây Ban Nha đem 8 vạn quân Tây Ban Nha và hơn 20 vạn ngụy quân bản xứ khai hỏa chiến tranh xâm lược.

Sau 2 năm chiến tranh, Cortés san bằng kinh đô Tenochtitlan (thành phố lớn nhất đế chế Aztec và một trong những thành phố thịnh vượng và lớn nhất thế giới thời đó), đế chế Aztec bị tiêu diệt, các hoàng đế Aztec bị hành quyết, Aztec trở thành thuộc địa của thực dân Tây Ban Nha.



Lãnh thổ mở rộng của đế chế Inca theo từng thời kỳ.



Một góc phế tích của đế chế Inca huy hoàng một thời.

Đế chế Inca cũng là một nước lớn, một đế chế cực thịnh, giàu mạnh và là một nền văn minh lớn ở Nam Mỹ. Năm 1526, những người Tây Ban Nha đầu tiên đến đây. Sau một thời gian thăm dò, họ cố ý đem những người bệnh đậu mùa đến sống lẫn lộn với người dân bản địa. Bệnh đậu mùa lúc đó vốn không xa lạ gì với người châu Âu, cơ thể họ đã quen thuộc và có kháng sinh, họ còn có bác sĩ và thuốc trị. Nhưng người Inca thì không có những thứ đó vì đó là một căn bệnh mới lạ với họ. Thế là một cơn đại dịch bùng nổ và truyền nhiễm lây lan, làm hàng vạn người bệnh chết. Quốc vương Huayna Capac của Inca cũng bị nhiễm bệnh.

Năm 1528, quốc vương Huayna Capac của Inca không chống nổi nên qua đời. Do chết vì căn bệnh quái ác nên không có chuẩn bị hậu sự, thế là cuộc nội chiến Inca nổ ra giữa 2 vương tử Atahualpa và Huáscar để tranh giành ngôi báu.

Giữa lúc đó, hai tướng Francisco Pizarro và Diego de Almagro của đế quốc Tây Ban Nha dẫn quân xâm lược Inca, chia làm hai cánh quân tấn công các thành phố quan trọng. Cuộc nội chiến biến thành cuộc chiến tranh tay ba giữa quân đội Tây Ban Nha và 2 vương tử. Atahualpa đánh bại và đuổi đi Huáscar, lên ngôi vua. Thực dân Tây Ban Nha hành thích Huáscar sau đó đổ cho Atahualpa, kích động mọi người chống Atahualpa hay ít nhất không ủng hộ, giúp đỡ tân hoàng đế. Không lâu sau đó Atahualpa bị tướng Tây Ban Nha Francisco Pizarro đánh bại và hành quyết. Người Tây Ban Nha đưa vương tử trẻ Manco Inca lên làm "hoàng đế".

Năm 1536, hoàng đế Manco không cam tâm làm một con rối nữa, thì một cơ hội bằng vàng đã xuất hiện: Hai đại gia tộc Tây Ban Nha ở đây là gia tộc Pizarro và gia tộc Almagro là hai thế lực lớn tại đây và đang rạn nứt, mâu thuẫn trở súng bắn nhau. Manco thừa cơ ngầm liên lạc với các thế lực bản địa trung thành, nổi dậy bao vây thành Cusco, tướng Tây Ban Nha là Juan Pizarro tử trận, và tướng Quizo Yupanqui của Inca kéo quân tấn công thành phố đặc quyền của người Tây Ban Nha là Lima. Vua Manco thân chinh chỉ huy gần 3 vạn quân đánh bại tướng Hernando Pizarro cùng với 100 quân Tây Ban Nha và hơn 3 vạn ngụy quân trong trận Ollantaytambo, một trận đánh lớn trong chiến tranh Tây Ban Nha - Inca.

Nhưng ngay sau đó người Tây Ban Nha lập tức phục hồi, chuyển bại thành thắng và tái chiếm thành Cusco. Tướng Tây Ban Nha Rodrigo Orgonez đánh chiếm Vitcos và bắt làm con tin con trai của Manco Inca là Titu Cusi. Manco Inca đào thoát và lui vào vùng núi Vilcabamba lập thủ đô kháng chiến, từ nơi đây Manco Inca và những người nối ngôi đã trị vì thêm được 36 năm nữa. Năm 1572, cứ điểm cố thủ cuối của người Inca bị thôn tính, và vị hoàng đế cuối cùng, Túpac Amaru, bị hành quyết. Sự kiện này đã chấm dứt cuộc kháng chiến chống Tây Ban Nha của người Inca.

Sau khi hoàn thành bình định lãnh thổ Inca, người Tây Ban Nha hủy diệt thủ đô kháng chiến Vilcabamba và bắt các nô lệ trai tráng xây lại thành phố mới theo phong cách thẩm mỹ phương Tây. Những người còn lại, bao gồm cả người già, trẻ em, phụ nữ bị cưỡng bách di cư qua một thành phố Công giáo mới là San Francisco de la Victoria de Vilcabamba. Từ đó dân Inca bị bắt ép đi vào các "nhà thờ" trá hình nghe "giảng đạo", một hình thức tẩy não, nhồi sọ, đồng hóa. Việc cưỡng bách di cư ra khỏi nơi họ quen thuộc vừa là để triệt tiêu ưu thế quen thuộc địa hình của họ trong cuộc chiến tranh du kích, vừa để triệt tiêu ý chí kháng cự bảo vệ quê hương thôn xóm của họ.

Sau khi đế chế Inca hoàn toàn sụp đổ, nhiều thành phần văn hóa của Inca bị hủy diệt có hệ thống, bao gồm hệ thống nghề nông phức tạp của họ. Từ đó, mỗi một gia đình Inca phải cử 1 người lao động khổ sai ở các mỏ vàng, mỏ bạc. Khi một thành viên gia đình bị chết, điều rất thường xuyên xảy ra sau một hai năm, thì gia đình nạn nhân vẫn phải cử 1 người thay thế.

Các thảm họa, thảm cảnh trên không chỉ xảy ra riêng với người Inca, mà là xảy ra với hầu hết thổ dân châu Mỹ. Họ bị diệt chủng, diệt tộc, diệt môn, hủy diệt các nền văn minh, văn hóa. Những người sống sót thì bị cưỡng bách di cư, đày đọa họ lên Khu dành riêng cho người bản địa Mỹ (Indian reservation), vốn là những vùng sâu vùng xa, khô cằn sỏi đá. Họ còn bị tẩy não, nhồi sọ và Tây hóa, Mỹ hóa một cách có hệ thống.

Các thị tộc, gia tộc hay nhân tài ưu tú, có năng lực lãnh đạo đám đông, đều bị thực dân đế quốc Mỹ và phương Tây triển khai các chiến dịch "nhổ cỏ nhổ tận gốc", thủ tiêu, ám sát, hay thậm chí là thảm sát, chôn sống, gây ra các tội ác diệt chủng đúng nghĩa. Do đó từ đó đến nay các dân tộc đó tuy còn tồn tại như một dân tộc thiểu số, nhưng không sản sinh ra nổi một nhân vật kỳ tài kiệt xuất nào như xưa, mặc dù quá khứ của dân tộc họ rất vẻ vang.



Khu dành riêng cho người Laguna tại một nơi hẻo lánh ở tiểu bang New Mexico. Đa số các khu vực cô lập dành riêng cho thổ dân Mỹ nằm ở miền Tây Hoa Kỳ, thường trong những vùng khô cằn không hợp cho nông nghiệp.

Một vấn đề đáng nói rút ra sự kiện mất nước, vong quốc của Aztec và Inca là: Có rất nhiều dân tộc, bộ tộc, bộ lạc, thế lực chung quanh Aztec và Inca lâu nay do ghét hoặc sợ trước sự lớn mạnh của 2 đế chế cường thịnh này, hoặc bị 2 anh to con này chèn ép, bắt nạt, rồi bị người Tây Ban Nha dụ dỗ, họ liền liên minh đi theo quân Tây Ban Nha đánh anh hàng xóm to lớn kia. Và sau khi Aztec, Inca sụp đổ thì chính họ cũng bị "làm thịt" nốt. Khi thế lực mạnh nhất trong vùng đã tan rã trước kẻ thù bên ngoài, thì các thế lực nhỏ hơn cũng không thể tồn tại.

So sánh với trường hợp Việt Nam thì chúng ta có thể nhận định rằng cha ông, cha anh ta thật khôn ngoan, già dặn, lão luyện hơn nhiều so các dân tộc láng giềng của đế chế Aztec và Inca. Dù không ưa và luôn đề cao cảnh giác trước anh hàng xóm to con, nhưng trong lịch sử dân mình chưa bao giờ ủng hộ các thế lực bên ngoài xâm lược Trung Quốc, dù đó là đế chế Mông Cổ, bộ tộc Mãn Châu, Bát quốc liên quân, hay đế quốc Nhật Bản.

Các lãnh tụ nghĩa quân kháng Pháp như Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Thiện Thuật và nhiều người khác đều đã từng sang Trung Quốc nhờ giúp đỡ chống Pháp. Về sau, cách mạng Việt Nam cũng nhờ sự giúp đỡ một phần của Trung Quốc để chiến thắng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ.

Ông bà tổ tiên Việt Nam đã truyền dạy khái niệm "Bà con xa không bằng láng giềng gần" cho con cháu. Đó là sự đúc kết từ trải nghiệm ngàn năm từ thực tiễn cuộc sống thu nhỏ. Bởi vì láng giềng gần dù muốn dù không, vẫn có mối quan hệ lợi ích cộng sinh gắn kết hơn nhiều so với những người ở xa, dù đó là bà con họ hàng của chúng ta đi nữa.

Thường các cụ không dạy sai bao giờ, vì đó là từ những kinh nghiệm xương máu. Nếu tìm hiểu và xem xét lịch sử Việt Nam và thế giới, xem các kết quả, các mối quan hệ nhân quả, thì chúng ta càng thấy ông bà mình dạy đúng.

Rất tiếc lâu nay luôn có một bộ phận do không nhìn thấy hoặc không muốn nhìn thấy những đạo lý đó, nên thường hay có tư tưởng làm trái lời dạy tiền nhân, luôn muốn dựa vào những kẻ không hề là "bà con" ở cách xa nửa vòng trái đất, để chống lại tên hàng xóm to lớn ngang ngược.

Chẳng những họ không hề là "bà con", mà còn là những cựu thù có bề dày tội ác chất cao như núi ở Đông Dương, Đông Nam Á và khắp thế giới. Các "thành tích" tội ác và bành trướng của họ đã là ở tầm vóc toàn cầu và bỏ xa tên hàng xóm phía Bắc, dù rằng tên hàng xóm đó cũng chẳng phải là "thiện nam tín nữ" gì.

Chiến cuộc tại Hoa Kỳ

Năm 1776, chiến tranh Cherokee II (chiến tranh Cherokee I là cuộc chiến giữa người Cherokee và đế quốc Anh) xảy ra, lực lượng vũ trang của dân tộc bản xứ Cherokee chiến đấu tự vệ trước sự xâm lấn của Mỹ vào khu vực Đông Tennessee và Đông Kentucky của họ. Sau đó cuộc xung đột dai dẳng tiếp diễn với cuộc chiến tranh Chickamaga, khi các bộ tộc, bộ lạc bản xứ liên minh lại với nhau chống quân đội Mỹ. Năm 1794, họ thất bại hoàn toàn và khu vực này bị sát nhập vào các bang Tennessee và Kentucky của Mỹ.

Năm 1785, chiến tranh Da đỏ Tây Bắc nổ ra, một chuỗi trận đánh đẫm máu giữa nhiều bộ tộc, bộ lạc, lực lượng người Bắc Mỹ bản xứ với quân đội Mỹ, bảo vệ lãnh địa của họ ở Ohio. Mục đích của các chiến dịch xâm lược của quân Mỹ là để áp đặt quyền làm chủ thực tế của chính phủ Mỹ tại các vùng đất mới này. Chiến tranh kết thúc năm 1795 với phần thắng thuộc về Mỹ.

Năm 1810, các tộc người Mỹ bản địa ở Tây Florida tuyên bố độc lập. Tổng thống Mỹ James Madison tức tốc cho lục quân Hoa Kỳ đến xâm chiếm, tiêu diệt nhà nước non trẻ và sát nhập Tây Florida vào liên bang Mỹ.

Năm 1812, Mỹ đánh chiếm vùng Ohio (nơi các thế lực thực dân châu Âu và thổ dân Mỹ đang giành quyền kiểm soát). Năm 1814, những vùng khác ở Florida lúc này đang là thuộc địa của Tây Ban Nha. Khi Tây Ban Nha thất thế thì Anh và Mỹ xông vào giành nhau. Tướng Mỹ Andrew Jackson đánh bại quân Anh và chiếm lấy thành phố Pensacola, Florida.

Năm 1816, Florida bùng nổ cuộc chiến Seminole I, khi tướng Jackson và tướng Edmund Gaines đem quân truy bắt các nô lệ bỏ trốn. Họ viện cớ người da đỏ Seminole chứa chấp những nô lệ da đen đang ẩn náu, vi phạm hợp đồng nô lệ, và cho quân đánh thẳng vào, sát nhập lãnh thổ của người Seminole vào Bắc Florida. Sau đó Jackson và Gaines mở chiến dịch tấn công một loạt hải cảng của Tây Ban Nha và chiếm lấy, hàng ngàn công dân Anh, Tây Ban Nha, người da đen, người da đỏ đã bị hành quyết. Năm 1819, tất cả những vùng ở Florida sát nhập vào nước Mỹ.

Năm 1835 - 1842, người Seminole lần nữa nổi dậy giành lại đất của họ ở Florida nhưng đều bị lục quân Mỹ, với sự trợ giúp của hải quân, đàn áp triệt để. Chính phủ Mỹ viện nhiều cớ rồi cưỡng ép lưu đày người Seminole qua phía Tây Mississippi. Mỹ cô lập dân Seminole trong những vùng khô cằn sỏi đá, khan hiếm tài nguyên, không thể trồng trọt hay chăn nuôi. Chính phủ Mỹ đã đẩy dân tộc Seminole xa khỏi quê hương của họ, kết thúc 7 năm kháng chiến của người Seminole.

Năm 1890 xảy ra trận đánh Wounded Knee: Sư đoàn 7 Kỵ binh Hoa Kỳ giết 178 người da đỏ Sioux và Lakota trong một cuộc xô xát giữa lính Mỹ với người Lakota và người Sioux gần sông Woulded Knee. Liên quân Lakota và Sioux còn bị thương 89 người, 150 người mất tích; lục quân Hoa Kỳ bị chết trận 25 người, 39 người bị thương. Trong trận này người Lakota và Sioux đã tận dụng sự thông thạo địa hình để đột kích và phục kích kỵ binh Mỹ, và đã gây thương vong đáng kể cho quân đội Mỹ. Nhưng họ vẫn bại trận.



Lili'uokalani, nữ hoàng cuối cùng của đảo quốc Hawaii

Năm 1893, quân đội Mỹ xâm lược và đảo chính, lật đổ vương quốc Hawaii, sát nhập nước này vào liên bang Hoa Kỳ. Mỹ đồng thời xâm lược và chiếm luôn đảo Palmyra gần đó.

Ngoài ra còn có khoảng 100 cuộc chiến và hàng chục ngàn trận chiến khác đã diễn ra trên đất Mỹ từ năm 1783 đến 1924. Cuối cùng, cuộc kháng chiến bi hùng 302 năm chống thực dân phương Tây và 141 năm chống đế quốc Mỹ của thổ dân Mỹ đã thất bại hoàn toàn.

Cuộc chiến Apache tại mặt trận Tây Nam vào năm 1924 giữa kháng chiến quân của tộc Apache chống đỡ cuộc xâm lăng của quân đội liên bang Hoa Kỳ đã đánh dấu kết quả chiến bại cuối cùng và khép lại cuộc kháng chiến trường kỳ 302 năm của người Mỹ bản xứ, kể từ trận Jamestown năm 1622 giữa thực dân Anh và liên minh Powhatan ở thuộc địa Virginia.




Từ trái sang phải và từ trên xuống dưới:

Maȟpíya Ičáȟtagya (biệt danh: Chạm vào mây), thủ lĩnh của người Lakota.

Mishikinakwa (biệt danh: Rùa nhỏ), thủ lĩnh và danh tướng của người Miami.

Dưới cùng, bên phải cùng: Geronimo (biệt danh: Người ngáp ngủ), thủ lĩnh quân sự của người Apache, một trong những thủ lĩnh cuối cùng của thổ dân Mỹ trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Họ đều là những chiến tướng nổi danh của thổ dân Bắc Mỹ, đặc biệt là Mishikinakwa, là một kỳ tài quân sự hiếm có của thổ dân, đã chỉ huy quân đội thổ dân đánh thắng nhiều trận lừng danh trước quân đội Hoa Kỳ và gây cho địch những tổn thất to lớn.

Đàn áp những cuộc nổi dậy trong nước

Năm 1786 - 1787, cuộc khởi nghĩa Shays ở miền Tây bang Massachusetts để chống lại tệ nạn áp bức siết tín dụng, siết nợ của tư bản tài phiệt Mỹ. Cuộc khởi nghĩa bị dẹp sau gần 1 năm.

Năm 1791 - 1794, cuộc khởi nghĩa Whiskey chống sưu cao thuế nặng và bất công xã hội, bắt dân phải gánh nợ chiến tranh. Cuộc khởi nghĩa nổ ra sau nhiều cuộc biểu tình ôn hòa bị quân đội đàn áp bằng súng đạn. Cuộc khởi nghĩa bị dẹp sau 3 năm.

Năm 1799 - 1800, để trang trải chi phí cho cuộc hải chiến Quasi chống Pháp, chính phủ Mỹ đánh thuế nặng nề bất động sản. Cộng đồng người Mỹ gốc Hà Lan nổi dậy chống cự, hình thành cuộc nổi dậy Fries. Nhưng cuộc nổi dậy sau đó bị dẹp.

Ngoài ra còn nhiều cuộc nổi dậy khác nhưng chỉ mang tính tự phát, cô lập với quy mô nhỏ. Nói chung, từ năm 1776 đến năm 1973, quân đội Hoa Kỳ đã trấn áp và đánh dẹp khoảng 30 cuộc khởi nghĩa chống hệ thống nô lệ, sưu cao thuế nặng và bất công giai cấp.

Đánh phá châu Mỹ Latinh

Năm 1916, Mỹ đem quân viễn chinh xâm lược Cộng hòa Dominican và chính thức đô hộ thuộc địa này đến năm 1924 mới dần trao quyền lại cho người bản xứ quản lý. Năm 1965, Mỹ đưa quân vào tấn công Đảng Cách Mạng Dominican và Đảng Cách Mạng 14 tháng 6 khi hai đảng cánh tả này đang tổ chức biểu tình chống chính quyền quân sự thân Mỹ.

Năm 1983, Mỹ đem quân xâm lược đảo quốc Grenada, tiêu diệt Chính phủ Nhân dân Cách mạng Grenada. Cuối năm 1989, Mỹ đem 2 vạn quân tấn công Panama, giải tán Lực lượng Vũ trang Công lập Panama.



Trên 20.000 người dân bị mất nhà ở Panama. Khủng hoảng kéo dài hơn 2 tuần.

Năm 1991, trong bối cảnh Haiti đang là một chư hầu (nước nhỏ thần phục nước lớn) của Mỹ dưới sự cai trị của tổng thống độc tài thân Mỹ Jean-Bertrand Aristide (từng nhiều lần cho cảnh sát tấn công đàn áp các cuộc biểu tình ôn hòa của các phe đối lập), tướng Raoul Cédras là tổng tư lệnh, tổng chỉ huy quân đội Haiti, đã dẫn quân làm đảo chính lật đổ Aristide và thiết lập một chính quyền quân sự. Dưới sự can thiệp ngoại giao của Mỹ, Aristide thoát án tử hình và sống lưu vong. Năm 1994, Mỹ lấy danh nghĩa bảo vệ dân chủ, "phù Aristide diệt Cédras" đem quân xâm lược Haiti, đưa Aristide về cầm quyền.

Từ đó, ngành du lịch, nông nghiệp và các tài nguyên chủ chốt như điện và nước ở Haiti đều do các tập đoàn người Mỹ nắm giữ, đến nay Haiti là nước nghèo nhất và có mức sống thấp nhất châu Mỹ, đối diện thường trực với nạn đói, thất nghiệp, tham nhũng và kém minh bạch (nhất là các hồ sơ lao động). Tăng trưởng kinh tế cao nhất mà Haiti đạt được từ ngày bị Mỹ xâm lược là 1,8% năm 2006. Hiện nay Haiti đang bị tăng trưởng âm.

Xâm lấn Mexico

Sau cuộc chiến Hoa Kỳ - Mexico (1846-1848), Mexico thua, buộc phải ký hòa ước bất bình đẳng Guadalupe Hidalgo, chấp nhận nhiều điều khoản bất bình đẳng và "trao trả độc lập" cho Texas. Nhưng sau đó Texas được sát nhập vào Hoa Kỳ. Mexico mất Texas vào tay Mỹ.

Mỹ còn gây áp lực ép Mexico phải bán vùng đất Mexican Cession (ngày nay là vùng tây nam Hoa Kỳ) trù phú cho Mỹ với giá 15 triệu USD. Mỹ cũng tỏ thái độ "tốt bụng" và "xóa nợ" 3 triệu USD trong số tiền mà Mỹ đòi hỏi Mexico "bồi thường" chiến tranh và cáo buộc rằng Mexico "nợ" họ tiền chi phí chiến tranh.

Năm 1853, Mỹ lại ép Mexico bán rẻ lãnh thổ ở một vùng đất tiềm năng giáp ranh biên giới Hoa Kỳ - Mexico, với giá 10 triệu USD. Vùng này ngày nay là phía nam Arizona và tây nam New Mexico. Mỹ cần khu vực này để làm một dự án đường rầy xe lửa. Về sau, Mỹ phát triển và hợp nhất những vùng đã "mua" được này và hình thành hai tiểu bang Arizona và New Mexico.

Từ năm 1873 đến 1896, lính Mỹ thường xuyên vượt biên giới Mexico, xâm thực, lấn đất, phá hoại, cướp gia súc và của cải. Năm 1876, Mỹ chiếm giữ thị trấn Matamoros của Mexico.

Năm 1905, sau thỏa ước Banco, Mỹ có thêm 2 vùng đất từ Mexico ở sông Colorado giáp ranh Arizona, tổng cộng 842,4 mẫu Anh (3,409 km2). Về sau, Mexico nhượng tiếp 3 hòn đảo và 68 khu đất cho Mỹ, tổng cộng 1.275,9 mẫu Anh (5.163 km2).

Năm 1963, Mỹ và Mexico ký hòa ước Chamizal, kết thúc gần 100 năm tranh chấp đất đai giữa hai nước ở vùng nay là El Paso, Texas. Hiệp định này còn sát nhập 264 mẫu Anh (1,07km2) vào nước Mỹ.

Năm 1970, Mexico phải ký với Mỹ hiệp định biên giới sát nhập 823 mẫu Anh (3,33 km2) đất, thuộc vùng đất màu mỡ Presidio và Hidalgo vào nước Mỹ, với lý do "xây hệ thống chống bão lụt". Năm 2009, Mexico nhượng 3 hòn đảo có tiềm năng du lịch và 2 khu vực màu mỡ khác cho Mỹ, tổng cộng 63,53 mẫu Anh (0,2571 km2).

Trong vài hiệp định, Mỹ có "bù đắp" lại cho Mexico một số vùng đất nhưng đều là những vùng đất khô cằn, kém tài nguyên, không thể trồng trọt, chăn nuôi. Ngược lại, những vùng mà Mỹ được từ Mexico phần lớn là những vùng đất khá màu mỡ, có tài nguyên tốt hơn.



Trận Churubusco trong cuộc chiến tranh xâm lược Mexico của Mỹ năm 1846. Quân đội Mexico đã bị quân đội Mỹ đánh tan trong trận này.

Tham gia xâm lược Trung Quốc

Trong cuộc Chiến tranh Nha phiến lần II (1856-1860), đế quốc Mỹ đã hỗ trợ và viện trợ cho thực dân Anh - Pháp xâm lược Trung Quốc, giao tranh với quân đội nhà Thanh. Hải quân Mỹ, dưới sự chỉ huy của 2 tướng Andrew Hull Foote và James Armstrong đã đánh chìm và đánh bại thủy binh nhà Thanh trong trận sông Châu Giang (Quảng Châu).



Tàu chiến USS Portsmouth của hải quân Hoa Kỳ tham chiến trong Chiến tranh Nha phiến và trận Châu Giang

Năm 1898, trong chiến tranh xâm lược Philippines, Mỹ còn gởi khoảng 6 vạn quân từ Philippines sang Trung Quốc tham gia Bát quốc liên quân (Liên quân tám nước: Anh, Mỹ, Pháp, Đức, Ý, Nhật, Nga, đế quốc Áo-Hung), dưới sự thống lĩnh của tướng Adna Chaffee, xâm lược Trung Quốc, đánh bại quân nhà Thanh và lực lượng Nghĩa Hòa Đoàn.

Sau khi Bắc Kinh thất thủ, triều Thanh bị ép phải ký hiệp định bất bình đẳng, cắt đất cầu hòa và chịu nhượng bộ nhiều điều khoản bất bình đẳng khác. Các khu tô giới người Mỹ và khu vực đặc quyền của Mỹ được thành lập ở Trung Quốc và các vùng lãnh thổ thuộc nước này.



Một nhóm lính Mỹ dưới chân Vạn Lý Trường Thành năm 1898

Xâm chiếm Philippines

Cuộc chiến tranh giành thuộc địa giữa Tây Ban Nha và Hoa Kỳ bùng nổ vào năm 1898, sau cuộc chiến, Hoa Kỳ giành được Philippines và đảo Guam từ tay Tây Ban Nha, đồng thời xâm lược vịnh Guantanamo của Cuba, lúc này đang là thuộc địa của Tây Ban Nha, và giữ đến nay. Cùng năm, Mỹ tấn công vào Puerto Rico, 15 ngàn quân Mỹ đánh bại 8 ngàn quân Tây Ban Nha và 10 ngàn ngụy quân bản xứ, xâm chiếm Puerto Rico từ tay Tây Ban Nha và giữ đến nay. Sau khi giành 4 thuộc địa về tay, Mỹ trả lại cho Tây Ban Nha 20 triệu USD "tiền an ủi".

Tại Philippines, sau khi Tây Ban Nha bị Mỹ đá văng, Đệ nhất Cộng hòa Philippines được người Phi thành lập để chống Mỹ và giành độc lập, nhưng ngay lập tức Mỹ mở rộng chiến tranh xâm lược. Cuộc chiến giữa quân Mỹ và quân dân Philippines kéo dài 3 năm. Kết quả Mỹ chiến thắng tuyệt đối, Cộng hòa Philippines bị Mỹ giải thể, Philippines trở thành thuộc địa của Mỹ.

Năm 1946, trước áp lực và thắng lợi liên tiếp của phong trào cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc và giải phóng thuộc địa trên toàn cầu, Mỹ buộc phải nhượng bộ và tuyên bố trao trả độc lập cho Philippines trên danh nghĩa, sau gần nửa thế kỷ đô hộ Philippines theo kiểu thực dân, thuộc địa cổ điển. Đảo Guam và Puerto Rico vẫn là hai lãnh thổ phi chính thức của Mỹ.



Quân địa phương Manila của Philippines công kích một đồn quân sự Hoa Kỳ trong trận Tondo Fire.

Xâm lược Bắc Triều Tiên

Năm 1950, đại quân CHDCND Triều Tiên do nguyên soái Kim Nhật Thành đích thân chỉ huy đã vượt vĩ tuyến 38 tấn công tổng lực xuống Hàn Quốc, tốc chiến tốc thắng tiến thẳng về thủ đô Hán Thành truy đuổi Lý Thừa Vãn. Lý Thừa Vãn bị thua, lâm nguy đành khẩn cấp cầu viện Mỹ. Chính phủ Mỹ lấy danh nghĩa Liên Hiệp Quốc, cử danh tướng Douglas MacArthur - người hùng của Thế chiến II - làm tổng chỉ huy, các tướng Matthew Ridgway, Mark Wayne Clark phụ tá, sang Hàn Quốc cứu nguy Lý Thừa Vãn.

MacArthur dùng kỳ binh làm một cuộc đột kích vào khu vực Nhân Xuyên, cắt đôi quân đội Triều Tiên, làm họ đầu đuôi không thể cứu ứng nhau. Sau đó đánh bại gần 30 vạn quân Triều Tiên. Nhân cơ hội quân Triều Tiên bị vỡ trận, hỗn loạn và không còn khả năng chống cự, gần 30 vạn liên quân 16 nước đứng đầu bởi Mỹ - Anh vượt vĩ tuyến 38 xâm lược Bắc Triều Tiên, tiến về thủ đô Bình Nhưỡng truy bắt Kim Nhật Thành và gia đình. Kim và các nhân sự cao cấp của CHDCND Triều Tiên đành đào vong sang Mãn Châu, Trung Quốc và cầu viện khẩn cấp.

Trước tình hình Mỹ - Anh đã đến sát sườn và MacArthur liên tục hạ lệnh cho ném bom và pháo kích sang phía Trung Quốc để phá hủy các căn cứ quân sự biên phòng của Trung Quốc. Mao Trạch Đông phái danh tướng Bành Đức Hoài - người hùng của nội chiến Trung Quốc và chiến tranh chống Nhật - làm tổng chỉ huy, hai tướng Đặng Hoa, Dương Đắc Chí làm phụ tá, đem hơn 100 vạn quân vượt sông Áp Lục sang Triều Tiên cứu Kim Nhật Thành.

Chỉ trong vòng một thời gian rất hạn hẹp mà Bành Đức Hoài tập kết siêu tốc được nhiều quân như vậy, đó được coi là một kỳ tích khó hiểu mà đến ngày nay với khoa học kỹ thuật tiên tiến, phương tiện chuyên chở tốc độ cao cũng vẫn khó thực hiện. Điều bất ngờ đó đã làm Mỹ và liên quân bị choáng váng trong thời gian đầu, vì đến MacArthur trước đó cũng không ngờ một cuộc tập trung quân đội siêu tốc như vậy lại khả thi. Phía Mỹ và Liên Hiệp Quốc không ngờ Trung Quốc có thể xuất quân và sang đánh nhanh như vậy.

Cuộc chiến diễn ra vô cùng khốc liệt. Sau cuộc chiến, Mỹ - Anh chiếm được vài khu vực trước cuộc chiến thuộc về CHDCND Triều Tiên. Sau đó họ giao lại cho Hàn Quốc quản lý.



Vùng kiểm soát thay đổi trong cuộc chiến. Màu hồng tượng trưng cho quân đội Trung Quốc và Triều Tiên. Màu xanh lá cây tượng trưng cho liên quân Liên Hiệp Quốc.

Xâm lược Việt Nam, chiếm đóng miền Nam, tấn công miền Bắc

Cũng năm 1950, Mỹ dù đang bận rộn trên bán đảo Triều Tiên nhưng vẫn không quên các lợi ích của bán đảo Đông Dương. Họ bắt đầu đứng sau ủng hộ và giúp đỡ Pháp xâm lược tái chiếm Việt Nam. Năm 1954, Mỹ từng bước hất cẳng và thay chân Pháp, mở rộng chiến tranh xâm lược ra toàn miền Nam, tấn công những vùng giải phóng, thiết lập hệ thống thuộc địa kiểu mới trong những vùng tạm chiếm.

Từ đó, những vùng tạm chiếm ở miền Nam Việt Nam có khoảng 6 triệu người Mỹ đi khắp nơi sinh hoạt như là nhà của họ, trong đó có gần 60 vạn quân Mỹ tàn phá, bắn giết, hãm hiếp, tàn sát khắp nơi. Gần nửa triệu con lai Mỹ ra đời, khiến sau này hình thành một diện xuất cảnh chưa từng có trên thế giới là "diện con lai".

Chiến tranh kéo dài đến năm 1975. Sáng ngày 30/4/1975, 10 người lính Thủy quân Lục chiến cuối cùng của Mỹ lên trực thăng rời khỏi lãnh thổ Việt Nam, chiến tranh kết thúc. Đây là lần duy nhất trong lịch sử mà người Mỹ đã thua cuộc và thật sự trắng tay trong một cuộc chiến.



Người dân Sài Gòn ăn mừng ngày toàn thắng lịch sử 30/4/1975

Cướp phá Trung Đông và châu Phi

Năm 1801, Mỹ đem quân tấn công và cướp bóc ở vùng tam giác Bắc Phi, đánh nhau với đế chế Ottoman và vương quốc Tripoli, vùng đất của Libya ngày nay. Đến năm 1805, quân đội Mỹ đánh bại Ottoman và Tripoli, cướp đoạt tài nguyên và tài sản, ép bên kia ký hòa ước bất bình đẳng. Đồng thời họ tiện tay đánh phá Maghreb (Maroc, Algérie và Tunisia ngày nay - vùng Tây Bắc châu Phi).

Năm 2001, Mỹ cầm đầu liên quân năm nước và Liên minh phương Bắc (một thế lực lâu nay đối đầu với Taliban) công kích thẳng vào Afghanistan, đánh bại quân đội Taliban và lực lượng Hồi giáo cực đoan Al-Qaeda của thủ lĩnh Osama bin Laden, "bảo hộ" Afghanistan. Taliban và Al-Qaeda rút vào rừng núi Afghanistan tiếp tục cầm cự.

Năm 2003, Mỹ tiến hành chiến dịch "Iraq Tự do", với lý do "Saddam Hussein sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt", cầm đầu liên quân năm nước, đem gần 15 vạn quân, dưới sự chỉ huy của tướng Tommy Franks tiến công thẳng vào Iraq và tốc chiến tốc thắng tiến về thủ đô Baghdad lật đổ chính quyền Iraq và treo cổ tổng thống Saddam Hussein. Sau cuộc chiến, các nhà báo phóng viên quốc tế đổ xô vào Iraq để làm phóng sự về "vũ khí hủy diệt hàng loạt" nhưng không ai tìm thấy. Đại quân Mỹ tiếp tục chiếm đóng tại đây đến năm 2011.

Năm 2011, Mỹ và NATO đứng sau hậu thuẫn phiến quân ở Libya, bao gồm cả các tổ chức vũ trang Hồi giáo cực đoan, trong đó có tổ chức khủng bố quốc tế Al-Qaeda.

Ngày 19/3/2011, Mỹ mở chiến dịch Phiêu lưu Rạng đông (Odyssey Dawn), đem các lực lượng không quân, hải quân, thủy quân lục chiến và đội ngũ CIA cùng với các vũ khí hạng nặng tối tân (đặc biệt là các máy bay không người lái) tiến vào lãnh thổ Libya. Quân đội Mỹ đặt dưới sự chỉ huy của tổng tư lệnh quân đội Mỹ ở châu Phi, tướng Carter Ham, tướng tư lệnh liên quân Samuel Locklear, tướng chỉ huy đặc nhiệm Harry Harris, và tướng Margaret Woodward.

Ngày 31/3/2011, Mỹ trao lại quyền điều khiển, chỉ đạo chiến dịch cho NATO với tên gọi mới là chiến dịch "Bảo vệ Thống nhất". Trong các chiến dịch này, Mỹ và NATO đã không kích tan hoang Libya, dội bom vào một số khu vực dân sự, làm chết nhiều dân thường và không yểm cho lực lượng phiến quân Libya. Cuộc chiến kết thúc với sự chiến thắng của Mỹ, NATO và phiến quân, sự sụp đổ của chế độ Libya, và cái chết của lãnh tụ, đại tá Gaddafi.

Sau cuộc chiến, Libya từ một trong những nước có kinh tế và mức sống cao nhất châu Phi, điện, y tế và giáo dục miễn phí, giá xăng rẻ, mua xe được trợ cấp 50% giá, không nợ xấu v.v. đã trở thành một nước tan hoang hoàn toàn, bắn giết liên miên giữa các phe phái, nhiều khu vực trở thành vùng ly khai, tự trị, tự quản, đa phần dùng danh nghĩa trung thành với lãnh tụ Gaddafi để chiến đấu.

Hai kế hoạch đầy triển vọng của Gaddafi là làm hệ thống dẫn nước khổng lồ, lớn nhất thế giới để cung cấp nước cho toàn bộ nông thôn Libya và cải cách hệ thống tiền tệ để thay thế đồng đô la Mỹ, không còn phải lệ thuộc vào đồng USD nữa, đã hoàn toàn tiêu tan theo khói lửa chiến tranh. Các tài sản, tiền bạc, ngoại tệ, bao gồm cả USD của Libya là tiền đóng thuế từ mồ hôi lao động của nhân dân Libya và tiền họ có được từ sự bán dầu, bán tài nguyên, bán sức lao động, đã bị Mỹ và phương Tây gọi đó là "tiền riêng của cá nhân Gaddafi ăn cướp dân lành" rồi phong tỏa, chia nhau các chiến lợi phẩm.

Xâm lược và chia cắt Samoa

Từ năm 1886 đến 1894, liên quân ba nước Mỹ, Anh, Đức xâm lược vương quốc Samoa và thực dân hóa quần đảo Samoan (bao gồm 17 đảo), nô lệ hóa dân tộc Samoa. Sau đó ba nước quay sang tranh nhau, dùng cả lính đánh thuê bản địa giao chiến với nhau, các phe đảng bản xứ thân Mỹ, thân Anh, thân Đức giao tranh với nhau.

Kết quả là sau hiệp định Berlin 1899, nhà nước Samoa bị xóa sổ, Samoa bị chia đôi thành Đông Samoa và Tây Samoa. Mỹ chiếm Tây Samoa, hình thành American Samoa (Samoa thuộc Mỹ). Đức và Anh chia nhau Đông Samoa, sau đó Đức hất cẳng Anh và chiếm toàn bộ Đông Samoa, hình thành German Samoa (Samoa thuộc Đức). Trong Thế chiến I, lợi dụng sự thất thế của đế chế Đức, hải quân New Zealand, dưới sự hậu thuẫn của Mỹ và Úc, tiến chiếm Đông Samoa từ tay người Đức.



Các tàu chiến của Mỹ, Anh, Đức ở cảng Apia, Samoa, 1899.

Các hành động, chiến dịch khác ở hải ngoại

Năm 1798 - 1800, cuộc hải chiến Quasi xảy ra, đó là một cuộc chiến tranh không tuyên bố với hàng loạt xung đột dai dẳng trên biển giữa hai đế quốc Mỹ và Pháp. Kết quả là Mỹ thắng, chiến lợi phẩm là thành phố lớn Puerto Plata của Dominican, lúc đó đang là thuộc địa của Pháp.

Năm 1867, Mỹ mua lại thuộc địa Alaska từ đế chế Nga. Alaska trở thành thuộc địa của Mỹ, đến năm 1959 mới chính thức thành một tiểu bang gia nhập liên bang Hoa Kỳ.

Trong Thế chiến I, Mỹ thừa cơ chiếm quần đảo Virgin từ tay Đan Mạch trong một chiến dịch công kích chớp nhoáng, biến thành sự đã rồi. Sau đó ký hiệp định với Đan Mạch để hợp thức hóa sự kiểm soát, chiếm đóng của Mỹ trên quần đảo này. Quần đảo Virgin vốn từ lâu là lãnh thổ nằm dưới quyền quản lý của ba bộ tộc Ciboneys, Arawaks, Caribs, sau đó bị các nước thực dân phương Tây xâm lược và đô hộ. Sau thời gian dài tranh nhau và thỏa hiệp, quần đảo này trở thành thuộc địa của Đan Mạch, cho tới khi bị Hoa Kỳ giành lấy.

Năm 1947, nằm trong sự phân chia lại lợi ích thuộc địa sau Thế chiến II, Liên Hiệp Quốc, dưới sức ép của Mỹ, giao lại cho Mỹ quần đảo Marshall, liên bang Micronesia, quần đảo Bắc Mariana và Palau.

Năm 1999, Mỹ và NATO cầm đầu liên quân mười ba nước, mở cuộc không kích 78 ngày đêm vào Cộng hòa Liên bang Nam Tư. Sau cuộc chiến tranh Kosovo, Mỹ và NATO càng củng cố chắc chắn hơn sự tan rã và chia cắt của Cộng hòa Nam Tư.

oOo

Trong các cuộc chiến bành trướng gần đây của Mỹ, có thể nói quân đội, nhân dân và đất nước Mỹ trắng tay, nhưng chính phủ Mỹ, các thế lực tư bản tài phiệt và lái buôn chiến tranh của Mỹ thì không hề tay trắng. Họ đã thành công duy trì được nguồn cầu vũ khí (trước mắt là các thế lực vũ trang mới nổi, đang đánh nhau liên miên ở các nước đã bị Mỹ đánh vào như Iraq, Aghanistan, Libya....). Mỹ tiếp tục là nguồn cung vũ khí lớn nhất và đắt hàng nhất thế giới.

Về chính trị và quân sự, họ kiểm soát, khống chế được hai đầu Trung Đông, mượn Iraq chỉa súng thẳng vào Iran, tăng cường sức mạnh cho đàn em thân tín Israel. Về kinh tế và tài nguyên, họ nắm được hai nguồn dầu lớn ở Iraq và Libya, các mỏ kim loại, vàng, kim cương, đá quý, khoáng sản, và nguồn nước ngọt dồi dào ở Libya, nguồn ma túy lớn ở Aghanistan vốn lâu nay do Taliban kiểm soát. Đồng thời họ cũng kiểm soát được hệ thống tiền tệ, tài chính ở Libya, đoạn tuyệt nguy cơ đồng USD bị Gaddafi gây hại, thay thế. Như vậy, các thế lực tư bản lớn ở Mỹ như FED, tài phiệt Phố Wall và tài phiệt lái buôn chiến tranh của các tập đoàn sản xuất, phân phối vũ khí đều có lợi.

Xem lại lịch sử thì có thể thấy từ thế kỷ 15 đến nay, quá trình bành trướng lan tỏa thực dân hóa trên phạm vi toàn cầu vẫn tiếp diễn bằng hình thức này hay hình thức khác. Bình mới nhưng rượu vẫn cũ. Từ chủ nghĩa thực dân cổ điển chuyển sang chủ nghĩa thực dân mới. Khác chăng là ở hình thức xâm lược, danh nghĩa chính trị, thủ đoạn ngụy trang, mức độ can thiệp và mức độ trục lợi.

Một điểm đáng chú ý nữa là họ hầu như luôn luôn đi "xâm lược nhóm", đi đánh các nước khác theo nhóm. Từ các cuộc gây chiến tranh thôn tính châu Mỹ (các đế quốc thực dân liên kết với nhau cùng đánh, hoặc chiêu dụ các lực lượng bản xứ nhỏ cùng theo họ đánh một lực lượng bản xứ lớn), đến Bát quốc đuổi Từ Hy ở Trung Quốc, đến liên minh các nước từ các cuộc chiến lặp đi lặp lại gần đây với mọi "lý do chính đáng". Mỹ và phương Tây gần như chưa bao giờ đánh ai một mình trong các chiến dịch xâm lược lớn.

Lịch sử cận đại và hiện đại ở nước ta cũng vậy, tất cả các cuộc chiến chống Mỹ và phương Tây xâm lược từ năm 1858 đến 1975 đều như vậy. Năm 1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha đánh vào Đà Nẵng và mở đầu cuộc xâm lược lâu dài Việt Nam. Năm 1946, Pháp theo chân Anh quay lại Việt Nam. Năm 1950, Mỹ bắt đầu tăng cường hỗ trợ và viện trợ cho Pháp xâm lược tái chiếm Đông Dương. Sau đó, Mỹ thay chân Pháp, kéo vào Việt Nam các đồng minh, chư hầu.

Nhiều người ví von hiện tượng trên với hình tượng "cướp bầy", như sư tử hay loài sói luôn đi săn mồi cả bầy, và sau đó chia nhau con mồi, chia nhau chiến lợi phẩm. Bản chất của việc xâm lược theo nhóm cũng có cùng một đạo lý đó, thực chất là sự chia chác lợi ích ở các nơi bị đánh.

Tất cả đều xuất phát từ lợi ích, có lợi ích ngắn hạn, có lợi ích dài hạn, lợi ích địa chính trị, lợi ích địa kinh tế, lợi ích tài nguyên, lợi ích chiến lược toàn cầu v.v., chứ dĩ nhiên nếu không có lợi thì không ai muốn gây chiến tranh làm gì để cho máu đổ đầu rơi, hao binh tổn tướng, tốn tiền tốn của, và còn bị dư luận chống đối, bị biểu tình phản chiến.

Một cuộc chiến tranh xâm lược có thể xảy ra từ nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân sâu xa và ý nghĩa thật sự của nó vẫn là sự ăn cướp của nước đi xâm lược đối với nạn nhân bị xâm lược. Dù họ dùng danh nghĩa chính trị gì đi nữa; tôn giáo, ý thức hệ, phản kích tự vệ, trừng phạt, bảo vệ đồng minh, bảo vệ hòa bình, bảo vệ / đem tới tự do dân chủ, thì bản chất các cuộc chiến tranh đều xuất phát từ sự tranh chấp chủ quyền, tranh chấp lợi ích. Có thể đó là lợi ích dân tộc, hay lợi ích giai cấp, hay thậm chí là lợi ích phe nhóm, lợi ích cá nhân, hay lợi ích tôn giáo, nhưng nói chung đều xuất phát từ lợi ích. Do đó nếu cho rằng Mỹ và châu Âu là những "hiệp sĩ đi cứu nhân độ thế cho hành tinh này", những "chiến sĩ tự do đi phổ biến dân chủ nhân quyền khắp quả đất này", đi đánh nước này nước kia, đem bom dội lên nước đó là để "giúp đỡ" nước đó, là vì các mục tiêu tốt đẹp, là vì chính dân tộc ở nước đó, thì thật là ngây thơ vậy.

Từ thời lập quốc tới năm 1924, quân đội Hoa Kỳ đã trải qua hơn 100 cuộc chiến và hàng vạn trận chiến lớn nhỏ trong quá trình xâm lược, thôn tính, diệt tộc, chiếm đất của các lực lượng bản địa. Các chủng tộc, dân tộc bản xứ trước đó có hàng chục triệu người, sau hơn 100 cuộc chiến chỉ còn lại chừng mấy trăm ngàn người.

Từ thời lập quốc đến năm 1973, quân đội Mỹ đã đàn áp và đánh dẹp khoảng 30 cuộc khởi nghĩa chống chế độ nô lệ, sưu cao thuế nặng, bất công giai cấp.

Từ năm 1835 đến năm 1932, quân đội Mỹ đã tham chiến trong gần 10 cuộc chiến tranh, xung đột quân sự biên giới.

Trong nửa cuối thế kỷ qua, các chính phủ Mỹ và CIA đã nhúng tay giật dây lật đổ gần 50 chính quyền nước khác, phần lớn nguyên thủ quốc gia trong số đó là do dân bầu lên. Trong quá trình đó, các trọng điểm quân sự và dân sự của gần 30 quốc gia đã bị quân đội Mỹ tấn công bằng bộ binh hoặc rải bom, không kích. Trong đó, hơn 10 quốc gia đã bị Mỹ tấn công, can thiệp trực tiếp và toàn diện, chứ không chỉ riêng về quân sự.

Trong bề dày chinh chiến hơn 200 năm đó, quân đội Hoa Kỳ chỉ chịu thất bại duy nhất 1 lần, ở Việt Nam. Tôi nghĩ đó là điều mà chúng ta nên suy ngẫm, rút kinh nghiệm, rút ra những bài học, rút ra những niềm tin chiến thắng và lòng tự tin, tự hào chính đáng để vận dụng nó cho công cuộc tái thiết và kiến thiết đất nước ngày hôm nay.

Thiếu Long

---------------------------------------------------------------------

Tài liệu tham khảo

- James C. Bradford (2003). Atlas of American military history. NXB Đại học Oxford (Anh)
- John Whiteclay Chambers, Fred Anderson (1999). The Oxford companion to American military history. NXB Đại học Oxford (Anh)
- Maurice Matloff (1996). American Military History: 1775-1902. NXB Da Capo
- Maurice Matloff (1996). American Military History: 1902-1996. NXB Da Capo
- Thomas Harry Williams (1960). Americans at War: The Development of the American Military System. NXB Đại học Bang Louisiana
- Jerry K. Sweeney, Kevin B. Byrne (2006). A handbook of American military history. NXB Đại học Nebraska
- Miller, Stuart Creighton (1984), Benevolent Assimilation: The American Conquest of the Philippines, 1899-1903, NXB Đại học Yale
- J. Y. Wong (1998), Deadly Dreams: Opium, Imperialism, and the Arrow War (1856–1860) in China, NXB Đại học Cambridge (Anh)
- Smokey Forester, Jack Leustig, Gregory Harrison, Kevin Costner, Roberta Grossman, Lee Miller, Lisa Sonne, Dyanna Taylor, Debra Spidell, Rick Blue, Edgar Burcksen, Susan Crutcher (1995), phim tài liệu 500 Nations (8 phần), Discovery Channel

- Tài liệu Internet



Thiếu Long

Linh sam Sh - giá 250k

Linh sam Sh - giá 250k-ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh


Thứ Hai, 4 tháng 7, 2016

Lãnh đạo quyền biến




THÀNH NGUYỄN

Nhưng ông như Nguyễn Bá Thanh, Đinh La Thăng, Nguyên Xuân Anh là những đặc trưng của lãnh đạo quyền biến. Một cách rất tự nhiên, lãnh đạo quyền biến dị ứng với hệ thống trì trệ và hủ tục lằng nhằng. Ông Đinh La Thăng mới xin “tự quyết” cho Sài Gòn là một ví dụ.


Có bốn loại hình nhà nước phổ biến trên thế giới, đó là: 1. Lãnh đạo cá nhân vì dân, 2. Lãnh đạo cá nhân độc tài, 3. Lãnh đạo tập thể vì dân và 4. Lãnh đạo tập thể độc tài. Chưa bàn đến tài năng và quyền biến của họ, lãnh đạo tập thể vì dân được lập ra là để phòng ngừa lãnh đạo cá nhân độc tài. Tệ nhất là lãnh đạo tập thể độc tài.



Thực tế lịch sử cho thấy, lãnh đạo tập thể độc tài thường đi liền với bộ máy cồng kềnh, năng lực – các cá thể – hạn chế và bộ máy sơ cứng – thiếu quyền biến. Chủ nghĩa xa hội bị tẩy chay ở các nước Đông Âu hay sụp đổ ở Liên Xô là các luận cứ cho luận điểm này.

Vậy Việt Nam đang thiếu gì? Rõ ràng là các lãnh đạo quyền biến ở các cấp, từ địa phương đến bộ ngành, từ ngang đến dọc. Thay vì tìm kiếm những người có tài, họ tìm kiếm con cháu của những người có công, vì sự trung thành. Nhưng con cháu người có công lại ít có người tài, vì thành công quá dễ. Không có nhiều thử thách và trải nghiệm thực tế.

Lần họp thứ 3 của đại hội 12 sẽ không bàn về nhân sự, mà bàn về những việc “đặc biệt quan trọng” khác. Cũng dễ đoán thôi, vì các lãnh đạo năng lực hạn chế và tham nhũng còn nhiều, nên phải xử lý các ổng trước đã. Tài năng và quyền biến để sau!