" Cả cuộc đời ba không có gì để lại cho các con ngoài số vốn kiến thức mà ba mẹ tảo tần nuôi các con ăn học.Mong các con trở thành những người hữu ích cho xã hội" ( trích từ TT "Vững Niềm Tin")
Thứ Bảy, 4 tháng 6, 2016
Thứ Sáu, 3 tháng 6, 2016
LUẬN VỀ CỜ
BS Nguyễn Văn Thịnh
Người Việt xưa không có khái niệm “quốc kỳ”. Bà con thường gọi “cờ vua” biểu trưng cho một hoàng triều và “cờ xí” biểu trưng cho một đạo quân. Cờ và xí thường có ký tự bằng chữ Hán. Trong các dịp lễ hội còn được trang trí bằng những lá cờ vuông ngũ sắc có diềm tua và những giải phướn đủ màu.
Sau khi Pháp bình định xong Đông Dương, lá cờ tam tài ra đời từ thời cách mạng 1789 ngạo nghễ phủ khắp xứ Đông Pháp xa xôi. Sang thế kỷ XX mới thấy xuất hiện những lá cờ biểu trưng một đoàn thể, một chính thể, một vùng lãnh thổ hay một quốc gia. Để tìm hiểu xuất sứ và ý nghĩa của những lá cờ xuất hiện trong lịch sử Việt Nam cận hiện đại, người viết sưu tra tư liệu, đọc hồi ký của nhiều nhân vật lịch sử, tham khảo ý kiến của hiếm hoi vị lão niên từng là chứng nhân qua các thời kỳ, giới thiệu với bạn đọc. Dù chưa thỏa ý nhưng chí ít cũng giúp bạn đọc hiểu được phần nào.
1/ Cờ đỏ sao vàng:
Khởi thủy, lá “cờ đỏ sao vàng” (ngôi sao năm cánh nằm chính giữa) xuất hiện trong cuộc khởi nghĩa Nam kỳ 1940 lúc ấy là xứ trực trị của Pháp. Dù bị dìm trong biển máu nhưng lá cờ thật sự là biểu tượng của truyền thống yêu nước Việt Nam, ý chí đoàn kết đấu tranh giành thống nhất non sông, độc lập quốc gia và chủ quyền dân tộc. Theo Sơn Tùng thì tác giả của lá cờ là nhà cách mạng Nguyễn Hữu Tiến, quê Nam Định, là một trong tám chiến sỹ bị giặc tử hình ở Ngã ba Giồng. Theo Lê Tú Lệ thì tác giả là nhà cách mạng Lê Quang Sô, quê Mỹ Tho. Việc xác minh những sự kiện lịch sử trong điều kiện hết sức khắc nghiệt thật vô cùng khó khăn vì sự việc phải giữ kín tuyệt đối mà chứng nhân phần lớn đã hy sinh và người còn lại thì khiêm nhường không muốn kể công mình. Cách mạng tháng Tám thành công, Quốc hội của nước Việt Nam độc lập, thống nhất họp kỳ đầu tiên vào ngày 2/3/1946, quyết định lấy tên nước là VNDCCH; cũng như sau chiến thắng vĩ đại của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Quốc hội khóa VI họp ngày 24/6/1976, quyết định đổi tên nước là CHXHCNVN và đều nhất trí lấy lá “cờ đỏ sao vàng” làm biểu tượng quốc gia và bài hát “Tiến quân ca” của Văn Cao làm quốc ca như đề xuất trước đó tại Hội nghị quốc dân họp ở Tân trào chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay ngoại bang xâm lược.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Lá cờ đỏ sao vàng đã thấm máu đồng bào ta trong Nam kỳ khởi nghĩa”. Một bài hát giải thích ý nghĩa của ngôi sao năm cánh là: “Sỹ-Nông-Công-Thương-Binh hợp lực xây nước nhà”. Dưới ngọn cờ ấy toàn dân Việt Nam “thề đem xương máu hết lòng chiến đấu cho tương lai”, đã lập nên bao chiến công kỳ tích để có được một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập hôm nay. Lúc đầu, một số người cực đoan quyết liệt phản đối, tới mức đòi tử hình người “vẽ” ra lá “cờ đỏ có sao vàng năm cánh” vì theo họ, cờ cách mạng chỉ có thể là “cờ đỏ búa liềm” (1a) biểu trưng của phong trào cộng sản quốc tế! Nhưng rồi cũng qua. Lá “cờ đỏ sao vàng” theo cao trào cách mạng từ Nam ra Bắc, lại từ Bắc vào Nam.
Vượt bao gian khó hy sinh, năm 1945, kết thúc gần một trăm năm mất nước, lá cờ tung bay trên khắp non sông Việt Nam thống nhất và độc lập; năm 1954, lá cờ được giương cao trên chiến trường Điện Biên Phủ vang động địa cầu, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp; và năm 1975, Sài Gòn ngợp trời cờ đỏ sao vàng, chứng kiến sự bất lực của đội quân viễn chinh hùng hậu nhất trong lịch sử loài người cùng với đội quân tay sai hàng triệu người thảm bại, trước sự kính phục của nhân dân yêu chuộng tự do công lý trên toàn thế giới. Trong lịch sử Việt Nam, đó là lá cờ duy nhất biểu tượng cho một nước Việt Nam thống nhất và độc lập. Trong lịch sử loài người có lá cờ nào biểu trưng cho lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh quật cường kiên trì giành độc lập tự do, lại trải qua bão táp phong ba, thăng trầm mà oanh liệt vẻ vang như thế?
2/ Cờ long tinh:
Sang đầu thế kỷ XX, sau khi bình định xong xứ viễn đông, người Pháp thành lập Liên bang Đông Dương còn gọi là Đông dương thuộc Pháp, gồm các vùng lãnh thổ: Bắc Kỳ (Tonkin), Trung Kỳ (An Nam), Nam kỳ (Cochinchine), Campuchia, Lào, và Quảng Châu Loan (nhượng địa của nhà Thanh). Hà Nội được đặt làm thủ phủ xứ Đông Pháp xa xôi này. Riêng ba vùng lãnh thổ An Nam, Campuchia và Lào, được người Pháp cho duy trì chế độ quân chủ dù chỉ là về hình thức vì trên mỗi ông vua còn có một nhiếp chính quan người Pháp gọi là Khâm sứ quyết định mọi việc kể cả đặt ai ngồi trên cái ngai hoàng đế. Họ để cho mỗi vương triều được có một lá cờ làm biểu tượng riêng. Cụ thể hoàng triều An Nam kể từ đời vua Thành Thái (1889-1907) có “long tinh kỳ” (hai giải bên màu vàng, giải giữa màu đỏ), mang ý nghĩa trên đất hoàng triều này có dòng máu của người Lạc Việt. Người viết may mắn được nghe vị giáo sư lão thành khả kính, người gốc Huế hát cho nghe một đoạn bài quốc ca “Đăng đàn cung” như sau: “Kìa núi vàng biển bạc/ Đã có sách trời định phân/ Một dòng ta gây non sông vững chắc/ Đã ba ngàn mấy trăm năm/ Nước non cùng một nhà con Hồng cháu Lạc/ Văn minh đào tạo màu phấn hoa còn đượm/ Rạng vẻ dòng giống tiên long/ Ấy công dựng từ ngàn xưa đã khó nhọc….”. Thực sự“long tinh kỳ” chỉ được thượng lên tại hoàng thành và vùng lãnh thổ Trung kỳ hoặc theo nhà vua mỗi khi xa giá, nên chỉ xuất hiện đôi lần ở Bắc kỳ, chưa từng xuất hiện ở Nam kỳ. Vì thế “long tinh kỳ” không thể là biểu trưng cho một quốc gia Việt Nam thống nhất và độc lập.
3/ Cờ quẻ ly:
Thời kỳ đầu của Thế chiến II, chính quốc Pháp mau chóng đầu hàng phát xít Đức, thì chính quyền thực dân ở Đông Pháp xa xôi cũng mở rộng cửa rước quân phát xít Nhật vào! Để rảnh tay lo việc chiến tranh, Nhật sử dụng Đông Dương như một căn cứ tiền phương mở đường hành quân và cung cấp hậu cần cho vùng Đông Nam Á. Bộ máy cai trị thực dân ở đây muốn tồn tại phải phục vụ đắc lực ý đồ của Nhật. Chính quyền tay sai bản sứ nhẫn nhục cam phận bù nhìn. Nhân dân Đông Dương lâm vào cảnh một cổ hai tròng, càng thêm điêu đứng! Vào cuối cuộc Thế chiến II, nước Pháp được quân Đồng minh giải phóng. Không chịu để bị đâm từ phía sau lưng nên ngày 9/3/1945 phát xít đảo chính thực dân. Trong thế cờ tàn, Nhật bày trò trao trả độc lập cho mấy nước Đông Dương. Hoàng đế Bảo Đại đưa ra lời tuyên cáo hão huyền thoát ly hoàn toàn khỏi mọi ràng buộc của thực dân Pháp, kiến tạo nền độc lập của cái gọi là đế quốc Việt Nam, dù trên ngài vẫn là bộ máy cai trị của Nhật thay thế hoàn toàn ách cai trị của Pháp trước kia? Ngày 17/4 dưới sức ép của Nhật, học giả Trần Trọng Kim đứng ra thành lập chính phủ. Vua nào tôi nấy, nhà nho đầy bụng chữ mà mụ mẫm ra lời tuyên cáo với đồng bào: “Quốc dân phải cố gắng sức làm việc, chịu nhiều hy sinh hơn nữa và phải thành thật hợp tác với nước Đại Nhật Bản”! Trước đó, tháng 2/1945, Thủ tướng Nhật Bản – Hoàng tử Fumimaro Konoe, đã viết thư cho Hoàng đế Hirohito, “Nhi thần rất tiếc phải kính bẩm với Đức Kim Thượng rằng thất bại của Nhật Bản là không thể tránh khỏi”! Ông Lưu Văn Lang, người mà giới trí thức Nam kỳ nể trọng như bậc đàn anh, từ chối thẳng thừng khi được mời tham gia chính phủ: “Tôi già rồi không thể làm tay sai cho ai được nữa!”.“Cờ quẻ ly” (tượng trưng cho lửa, chỉ sự sáng suốt của đấng quân vương) thay thế “cờ long tinh” cũng không cứu nổi đứa hài nhi lọt lòng lúc mẹ nó đang hấp hối! Tuy nhiên cũng có một số trí thức muốn giúp đồng bào trong lúc quốc gia hữu sự. Song lúc này, nước Nhật đã kiệt quệ lại bị người Mỹ dội hai trái bom nguyên tử đẩy nhanh quá trình suy sụp. Quân đội Mỹ đặt được chân lên đất Nhật, cùng lúc Hồng quân Liên Xô đánh tan đội quân Quan Đông, chiếm được vùng lãnh thổ Mãn Châu rộng lớn. Trong khi tại Việt Nam, thừa cơ lúc quân Pháp bỏ chạy, quân Nhật đầu hàng, chính quyền phong kiến bản địa gần như tê liệt, phong trào Việt Minh phát triển nhanh và rộng khắp, lôi cuốn nhân dân Việt Nam nhất tề đứng lên tự giải phóng mình. “Quẻ ly” (có ba sọc đỏ mà sọc giữa thì đứt ra làm hai khúc) bị người Huế biếm ngôn là “vương rút ruột”, ám chỉ một thực tế là vương triều Nguyễn lúc đó chẳng còn giá trị gì! Ngày 31/8/1945, lễ thoái vị của vua Bảo Đại tại quảng trường Ngọ môn, trước quốc dân đồng bào, nhà vua tuyên bố: “Trẫm quả quyết thoái vị để nhường quyền điều khiển quốc dân lại cho một Chính phủ dân chủ cộng hòa”. Lá “cờ quẻ ly” bị kéo xuống và thay thế bằng lá “cờ đỏ sao vàng” trước sự hân hoan phấn chấn của hàng vạn người dân, chứng kiến sự chấm dứt của chế độ phong kiến hàng ngàn năm và hàng trăm năm của một vương triều nô lệ tay sai.
1- Cờ đỏ sao vàng
1a- Cờ đỏ búa liềm
2- Cờ long tinh
3- Cờ quẻ ly
4/ Cờ Thanh niên tiền phong:
Khi Thế chiến thứ II sắp kết thúc, phát xít Nhật ngoài trò trao trả độc lập cho mấy nước Đông Dương, còn muốn nắm lực lượng thanh niên để phục vụ cho mưu đồ riêng của chúng.
Theo hồi ký của Trần Văn Giàu thì Thống đốc Nhật ở Nam kỳ là Minoda và Tổng lãnh sự là Ida mời bác sỹ Phạm Ngọc Thạch và kỹ sư Ngô Tấn Nhơn đứng ra tổ chức. Bọn Nhật hoàn toàn không biết Phạm Ngọc Thạch là đảng viên cộng sản và càng không biết đứng sau anh là Xứ ủy Nam kỳ đang tìm kiếm một hình thức tổ chức công khai trong hoạt động thể thao văn hóa của thanh niên không đi theo phương hướng Đại Đông Á, mà nằm trong phương hướng chính trị yêu nước và độc lập dân tộc. Cũng phải nói thật nếu không được Hà Huy Giáp và Trần Văn Giàu đồng ý thì bác sỹ Thạch chẳng chịu đứng ra tổ chức thanh niên Nam kỳ theo đề nghị của Nhật đâu. Mà dầu có đứng ra làm thì cũng không gây được một phong trào rộng lớn. Và nếu việc quan trọng đó không được một đồng chí có nhân cách, tài ba như Phạm Ngọc Thạch và các bạn thân thiết của anh đứng ra phụ trách, tập hợp thanh niên thì Xứ ủy cũng không biết lấy ai đảm nhiệm công việc lớn lao này. Tháng 5/1945, tại vườn Ông Thượng Sài Gòn, tổ chức Thanh niên tiền phong do Xứ ủy gợi ý ra đời với một ban lãnh đạo đầy uy tín, có nhiều khả năng. Thanh niên tiền phong tuyên bố mang “tinh thần mới, theo mục đích mới”, lấy “cờ nền vàng sao đỏ” làm biểu tượng và hoạt động rất sôi nổi, cuốn hút giới thanh niên.
5/ Cờ Thanh niên tiền tuyến:
Cùng thời gian đó, ở Trung kỳ, nhà cầm quyền Nhật cũng vận động luật sư Phan Anh và giáo sư Tạ Quang Bửu đứng ra lập thanh niên. Ông Phan là Bộ trưởng Thanh niên trong chính phủ Nam triều; ông Tạ là thầy giáo với tài năng và tinh thần yêu nước, có ảnh hưởng rất lớn trong giới học sinh ở Huế. Hai ông mở trường “Võ bị thanh niên tiền tuyến”, mời ông Phan Tử Lăng – chỉ huy lực lượng Bảo an binh ở Trung kỳ, làm Hiệu trưởng. Nhà trường kêu gọi: “Đất nước ta sẽ rất cần thanh niên có học, có hiểu biết về quân sự” và hứa: “Học xong không bắt buộc ra làm việc cho chính phủ”. Số người ghi danh vào học khá đông, có cả một số sinh viên từ Hà Nội vào theo học. Lá “cờ quẻ kiền” (nền vàng ba sọc đỏ, tượng trưng cho người quân tử), được lấy làm biểu tượng của thanh niên Võ bị. Người viết có cơ may được vị lão tướng quân đậu thủ khoa tú tài Toán tại trường Quốc học Huế năm 1945, dự học khóa đầu tiên của trường Võ bị, kể rằng:
Lúc ấy phong trào Việt Minh lan rộng khắp miền Trung. Ngày 5/8, chính phủ Trần Trọng Kim đổ, nhưng trước đó giáo sư Tạ Quang Bửu và ông Phan Tử Lăng đã tiếp xúc với Việt Minh Nguyễn Tri Phương (Huế). Trường Võ bị hầu như đã được Việt Minh hóa. Số vũ khí của nhà trường coi như đã nằm trong tay quân cách mạng. Học sinh của trường chủ yếu là con em các gia đình trong phố, có học thức, có đạo đức và hoạt động rất sôi nổi nhiệt tình, được nhân dân Huế tin tưởng, thương yêu. Cách mạng thành công, đổi tên là “Trường võ bị Thuận Hóa” và mở rộng thành phong trào “Thanh niên tiền tuyến”, góp phần đẩy mạnh phong trào “Nam tiến” sôi động trong cả nước, bổ sung tiếp ứng kịp thời cho mặt trận phía Nam. Cuộc trường kỳ kháng chiến giành thống nhất, độc lập kết thúc thắng lợi, tám học viên khóa đầu của Trường võ bị được phong quân hàm cấp tướng.
Điều cần lưu ý bạn đọc là nhiều đoàn viên tích cực của phong trào thanh niên Tiền phong và Tiền tuyến là những “tráng sinh” của tổ chứcHướng đạo sinh do nhà giáo Hoàng Đạo Thúy xuất thân từ một gia tộc nho giáo có truyền thống yêu nước, sáng lập ra từ năm 1930. Hoạt động phong phú của phong trào rất hấp dẫn giới thanh niên. Số đông thanh niên học thức này đều trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ và nhiều vị trở thành những cán bộ cao cấp trong các lĩnh vực quân sự, khoa học, văn hóa và giáo dục. Trước mắt là từ những phong trào này đã đào tạo ra nhiều cán bộ làm nòng cốt trong việc xây dựng và phát triển lực lượng võ trang cách mạng ở Nam bộ và Trung bộ hồi đầu kháng chiến.
Nước nhà vừa độc lập thì bước ngay vào cuộc kháng chiến từ Nam lan nhanh ra Bắc. Tổ chức thanh niên Tiền phong và Tiền tuyến chấm dứt vai trò lịch sử, hợp nhất vào tổ chức “Thanh niên cứu quốc” trong“Mặt trận Việt minh”.
4-Cờ Thanh niên tiền phong
5 và 6- Cờ quẻ kiền - Cờ quốc gia
7- Cộng hòa Nam Kỳ quốc
8- Cờ Hoàng triều cương thổ
9- Cờ giải phóng
6/ Cờ quốc gia:
Trước khi quân Pháp mở rộng chiến tranh xâm lược ra Bắc kỳ, cố vấn Vĩnh Thụy được cử đi công cán ở nước ngoài để tranh thủ dư luận thế giới ủng hộ Việt Nam nhưng đã đào tẩu, ở lại Hồng Kông. Chủ trương“Tốc chiến tốc thắng” thất bại, buộc quân viễn chinh phải chuyển sang đánh lâu dài với chiến lược “Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh – Dùng người Việt đánh người Việt”. Giữa năm 1948, nhằm gạt bỏ chính phủ kháng chiến Hồ chí Minh ra, tìm đại diện cho nhân dân Việt Nam theo ý của mình, Pháp ký với đại diện của Bảo Đại cái hiệp định Hạ Long, công nhận nền độc lập của Việt Nam (?) nằm trong khối Liên hiệp Pháp.
Mối tình chủ tớ gá cạp dễ hợp dễ tan! Ông chủ lôi từ tay áo ra cái chính phủ Việt Nam thống nhất lâm thời, do Nguyễn Văn Xuân làm thủ tướng. Ông tướng thuộc địa này quên hết tiếng mẹ đẻ, chỉ biết nói tiếng vợ đầm. Trong đám quân sư có người từng tham gia các phong trào thanh niên ở Sài Gòn và Huế đề xuất phục dựng lá “cờ quẻ kiền” (nền vàng có ba sọc đỏ) làm quốc kỳ và lấy bài hát “Tiếng gọi thanh niên” của Lưu Hữu Phước nghe hào hùng khí thế làm quốc ca.
Đám quân sư hưởng ứng tán vào: Màu vàng gợi nhớ thuở hoàng triều và “quẻ kiền” tượng trưng người quân tử trọng điều nghĩa hiệp! Ba sọc là ba dòng máu Bắc-Trung-Nam hợp lại, người theo Chúa thì nghĩ tới ba ngôi trong kinh Thánh… Ông Thủ tướng mất gốc chỉ biết nghe và gật. Ngồi chưa nóng chỗ, ông chủ lại đặt Bảo Đại lên ngai Quốc trưởng kiêm luôn vai Thủ tướng! Cái gọi là “Quân đội quốc gia” gấp rút được nặn ra. Với lệnh Tổng động viên, học sinh trung học ở các thành thị trong vùng tạm chiếm bị dồn vào các trường sỹ quan trù bị Nam Định, Thủ Đức và Võ bị Đà Lạt. Từng được theo học trường chính trị ở nước mẹ Đại Pháp nhưng vốn tính háo sắc, mê bài bạc và ham săn bắn, chuyện chính sự đã có “mẹ” lo, cựu vương chẳng quan tâm! Đúng như nhận xét của ông Nguyễn Cao Kỳ: “Là một người dễ dãi, ít yêu sách đòi hỏi cho quyền lợi của người Việt và nuôi vài hy vọng hão huyền, Bảo Đại hoàn toàn không có khả năng cầm quyền”. Lá “cờ quẻ kiền”đương nhiên đại diện cho chính thể quốc gia trong hoàn cảnh ấy. Từ đấy nó hết đi sau những lá “cờ tam tài” rồi lá “cờ hoa” trong những cuộc trà sát khủng bố của quân ngoại bang xâm lược trên khắp đất nước ta.
Gần ba mươi năm sau, hết trào thuộc Pháp tới trào thuộc Mỹ, hết thể chế phong kiến rồi qua thể chế cộng hòa mà chưa có văn bản pháp quy nào hợp hiến xác nhận quốc kỳ với quốc ca biểu trưng cho một quốc gia!
Lá cờ với bài ca vốn ra đời từ phong trào yêu nước sôi nổi chống ngoại xâm nhưng đã bị đánh tráo để thành phản bội mục tiêu chân chính của những chủ nhân đích thực! Bà con ta mỉa mai gọi là “cờ ba que” như cách nói nhạo báng dân gian. Chiến tranh càng kéo dài, hận thù càng sâu. Cái danh “quốc gia”, “cộng sản” càng bị ngộ nhận và xuyên tạc. Kết cục là ngày 30/4/1975, trong khi lá “cờ hoa” được viên đại sứ già xếp vội vào cặp, ôm chặt vào lòng cùng con chó cưng lên máy bay lao ra tàu đợi ở ngoài khơi, thì bà con ta ở phía nam khắp chợ cùng quê chứng kiến cảnh lá “cờ quốc gia” tả tơi nhàu nát nằm lẫn lộn trong những đống vũ khí, quân dụng, áo quần, giầy mũ… rải khắp đường mòn, lộ lớn, những bãi trống, những bến tàu xe… giữa hàng triệu sỹ quan, binh lính quân lực Việt Nam cộng hòa mình trần chân đất tranh nhau tháo chạy!
7/ Cờ Nam kỳ quốc:
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, nhân dân ta giành lại độc lập thống nhất giang sơn. Dù đã yếu thế trong khối đồng minh nhưng thực dân Pháp vẫn dã tâm tái chiếm Việt Nam. Năm 1946, trong khi đại diện chính quyền Việt-Pháp đang bàn việc kiến tạo hòa bình và nối tình hữu nghị giữa hai dân tộc thì thế lực hiếu chiến Pháp cho ra đời cái gọi là Cộng hòa Nam Kỳ quốc, với lá cờ biểu trưng “hai giải vàng kẹp giải trắng ở giữa có ba sọc xanh” đại diện cho ba con sông Tiền, sông Hậu và sông Đồng Nai – huyết mạch của vùng lục tỉnh, nơi trước đó gần một trăm năm, Phan Thanh Giản đã lừa vua dối dân cắt dâng cho giặc! Cái chính phủ này người Việt Nam coi chẳng ra gì! Chỉ sau mấy tháng, ông bác sỹ Thủ tướng chết treo ngay tại phòng mạch của mình lấy làm Văn phòng chính phủ ở giữa Sài Gòn mà chẳng ai cần biết vì lý do gì! Đầu năm 1949, ông chủ lại bày trò ký hiệp định Élysée, giải thể cái Nam kỳ quốc, trao cho Bảo Đại một quốc gia Việt Nam gọi là đã hoàn toàn thống nhất! Sự thật lịch sử là trong năm 1945, đất Nam kỳ đã ba lần đổi chủ: Đầu tháng 3, Nhật đảo chính Pháp, lấy gọn Việt Nam trong đó có cả Nam kỳ, giao cho Nam triều. Ông vua An Nam mơ được tháo cũi sổ lồng dù biết nền độc lập ấy chỉ là giả hiệu! Hai tháng sau Nhật thua trận, quân Đồng minh ở phía Nam là Anh-Ấn, ở phía Bắc là Tàu, vào giải giáp đám hàng binh Nhật đưa về cố quốc! Nhân dân Việt Nam ủng hộ và hợp tác với Đồng minh, gặp vận hội kết đoàn vùng lên tự giải phóng mình. Ngày 31/8, Tại Huế, trước thần dân trăm họ, vị hoàng đế giãi tỏ nỗi lòng: “Sau hai mươi năm ngai vàng bệ ngọc, đã biết bao ngậm đắng nuốt cay. Từ nay Trẫm lấy làm vui được làm dân tự do của một nước độc lập”. Ngày 2/9, giữa thủ đô Hà Nội, trước hàng chục vạn công chúng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân danh Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam phát lời Tuyên ngôn độc lập: “Sự thật là nhân dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp… Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập.”. Nhân dân cả nước và thế giới đều nghe. Nước Việt Nam thật sự đã là của người Việt Nam. Người Pháp không còn cơ sở pháp lý nào dính dấp đến xứ sở xa xôi này nữa. Tổng thống Pháp trao cho Quốc trưởng bù nhìn của ăn cướp mà họ không giữ được! Ngài Quốc trưởng đa tình ôm vào lòng cái bóng mỹ nhân!
8/ Cờ Hoàng triều cương thổ:
Quốc sách của quân xâm lược thời nào cũng thế: vừa dùng vũ lực vừa thực hiện chính sách chia để trị. Năm 1948, quân chiếm đóng Pháp dựng lên tại biên giới tây-bắc một khu gọi là Liên bang Thái tự trị gồm các cư dân Thái, Lôlô, Hmông… Năm 1950, sáp nhập thêm cao nguyên Trung phần, gọi chung là Hoàng triều cương thổ, lấy biểu tượng lá “cờ hai giải bên màu lam, kẹp giải trắng giữa có ngôi sao đỏ 16 cánh”. Mỗi cánh biểu thị một vùng thổ cư các sắc tộc sinh sống giữa núi rừng xa xôi trùng điệp. Cờ chỉ được treo tại mấy trại lính thổ dân vùng sơn cước. Năm 1955 khi quân Pháp rút khỏi Việt Nam thì đám tàn quân thổ phỉ này bầy đàn tan tác. Lá cờ ấy quăng ở sườn đồi khe suối nào không ai còn nghĩ tới!
9/ Cờ giải phóng:
Theo hiệp định Genève 1954, nước ta tạm chia làm hai miền, lấy vĩ tuyến 17 có sông Bến Hải làm giới tuyến và hai năm sau, hai miền Nam-Bắc sẽ tổ chức tổng tuyển cử thống nhất nước nhà. Năm 1956, chính quyền miền Nam được Mỹ hậu thuẫn, không chấp nhận hiệp thương tổng tuyển cử, mà lại ngang ngược hô hào “lấp sông Bến Hải” mở đường “Bắc tiến”. Để “giành lại chính nghĩa từ tay cộng sản”, họ ra sức đàn áp khốc liệt những người từng tham gia kháng chiến chống Pháp và đòi hòa bình thống nhất đất nước. Năm 1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, lấy biểu tượng lá “cờ giải phóng” (nửa xanh nửa đỏ, có ngôi sao vàng chính giữa), với sự hưởng ứng của nhiều nhà trí thức, tiêu biểu như Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát… Lá cờ tập hợp đông đảo dân chúng phía Nam. Được sự chia sẻ chi viện tối đa của hậu phương phía Bắc, sau 15 năm chiến đấu cực kỳ gian khổ mà anh dũng, lá cờ đã hoàn thành sứ mạng giải phóng miền Nam, hòa bình thống nhất nước nhà. Từ đây tổ quốc Việt Nam sang trang sử mới.
**Lời bàn:
Mỗi lá cờ đều có xuất xứ riêng, mang một ý nghĩa riêng và có tác động tới xã hội khác nhau. Hoàn cảnh đến dưới cờ của mỗi người một khác. Có thể là chủ động theo ý nguyện của mình, có thể là tình cờ hay do một sự đẩy đưa của số phận. Trong bối cảnh lịch sử khắc nghiệt đã qua, mỗi người không dễ chọn một lá cờ. Nhưng khi đất nước đã thống nhất độc lập rồi thì quốc kỳ không thể đại diện riêng của phe này phái nọ. Nó được định đoạt bởi quyền lực của nhân dân thông qua hiến pháp.
Dù sao những lá cờ cần được lưu giữ trong các bảo tàng như những chứng tích lịch sử, có ghi chú rõ ràng. Khi lớp người sau được biết tận tường sự tích mỗi lá cờ hẳn sẽ không có chuyện một lá cờ nào đó xuất hiện lạc lõng vô duyên giữa nơi công chúng.
Tiến sỹ vật lý Trần Chung Ngọc là một nhà khoa học chân chính mà hoàn cảnh lại trớ trêu. Nhưng ông dám nói: “Tôi là người thua cuộc nhưng khi nói Việt Nam thắng Pháp ở Điện Biên Phủ và thắng Mỹ, tôi rất tự hào!”. Tuy nhiên tại bàn làm việc của ông, ngoài tấm hình Phật Thích Ca đặt nơi trang trọng, ở một góc kệ vẫn treo lá cờ nhỏ “ba sọc đỏ nền vàng”. Đó là kỷ niệm một thời của riêng ông. Tuy vậy, thái độ ông rõ ràng dứt khoát: “Quốc kỳ là biểu tượng của một quốc gia có chủ quyền, có một lãnh thổ riêng biệt. Những người dân trong một quốc gia thường có cùng một nguồn gốc, và theo nghĩa lịch sử, có cùng tổ tiên và các hậu duệ. Vì lẽ đó lá “cờ vàng ba sọc đỏ” đã không đại diện cho bất cứ ai, khoan nói là đại diện cho hơn hai triệu người Việt di cư”. Đó là một trí thức sở học vững vàng, có bản lĩnh và nhân cách lớn.
Hai ông Trần Chung Ngọc và Nguyễn Cao Kỳ đều là học sinh cùng thời ở trường Chu Văn An Hà Nội, cùng lứa học viên khóa đầu trường sỹ quan Nam Định. Vào Sài Gòn, mỗi người một địa vị khác nhau. Sau năm 1975, định cư ở Mỹ, mỗi người một nghề. Bởi cá tính mỗi người một khác nên không bao giờ quan hệ với nhau. Tuy nhiên, hai ông có cùng một cách nhìn về một lá cờ. Trong hồi ký “Đường về”, ông Nguyễn Cao Kỳ viết: “Ngày xưa tôi đã từng phục vụ dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ. Từ Tổng thống Mỹ cho đến vua Thái Lan… đều phải đứng nghiêm chào khi lá cờ được thượng lên. Việc giữ gìn màu cờ sắc áo không phải là chuyện muốn đem cờ ra vẫy ở đâu cũng được, mà là vẫy ở chỗ nào và vẫy như thế nào? Nếu không làm tăng được giá trị của nó, tại sao không mang cất đi trong tâm khảm, trong một chỗ nào mình trân quý, có phải hay hơn không?”.
Lẽ phải bao giờ cũng có sức hấp dẫn lớn và tính thuyết phục cao. Một viên chức ở Quận Cam viết: “Bất cứ tổ chức chính quyền nào của Hoa Kỳ ủng hộ lá cờ cũ (vàng ba sọc đỏ) là lá cờ chính thức của Việt Nam đều vi phạm luật quốc tế. Những người chống Cộng quên rằng Mỹ đã coi lá cờ đó như là một cái gì expendable, muốn bỏ đi lúc nào thì bỏ. Trước khi lên án các quốc gia khác về vi phạm nhân quyền, nên nhìn vào hồ sơ nhân quyền của nước Mỹ. Kỳ thị chủng tộc chắc chắn là vi phạm nhân quyền, và kỳ thị chủng tộc thì vừa là hệ thống vừa là định chế ở nước Mỹ. Về tham nhũng thì ở Mỹ cũng không thiếu gì các viên chức tham nhũng, nhưng họ che đậy kỹ hơn. Ai cũng biết rằng phải có rất nhiều tiền, thường là từ những tổ chức đóng góp để mưu lợi, để thắng trong một cuộc bầu cử ở Mỹ”. Một sinh viên USC trao đổi với bạn: “Cuộc tranh đấu ngày nay tuyệt đối không thể là cuộc tranh đấu Quốc-Cộng như khi xưa mà phải là cuộc tranh đấu để xây dựng, cải thiện xã hội”.
Từ chuyện những lá cờ rút ra bài học: Chính là phận người, phận nước quyết định phận cờ.
Tuần báo Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh
Số 402 Thứ năm ngày 19 tháng 5 năm 2016
Tài liệu tham khảo:
- Lịch sử Quốc hội Việt Nam
- Hồi ký Trần Văn Giàu
- Hồi ký Mai Xuân Tần – Thiếu tướng QĐNDVN
- Hồi tưởng – NGND Trần Thanh Đạm
- Người vẽ cờ đỏ sao vàng – Bài viết của Sơn Tùng
- Chỉ cờ đỏ sao vàng ở lại – Bài viết của Lê Tú Lệ
- Các bài viết của Trần Chung Ngọc
- Đường về - Hồi ký Nguyễn Cao Kỳ
- Hồi ký Đỗ Mậu – Thiếu tướng QLVNCH
- Wikipedia: Hình ảnh cờ Việt Nam qua các thời kỳ
** Giới thiệu tác giả:
Bác sỹ Nguyễn Văn Thịnh, sinh năm 1940 tại Hà Nội, hội viên Hội Nhà văn TPHCM. Năm1966 tham gia kháng chiến chống Mỹ ở chiến trường Nam Bộ. Ông viết nhiều thể loại: Tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch. Có tác phẩm được giải thưởng của Thành phố và Ban tuyên giáo trung ương. Ông còn viết chính luận, phê bình văn học đăng trên các báo, được dư luận quan tâm.
Nguyễn Văn Thịnh
Hoa Tàn Nguyệt Tận
Minh Chánh
Phân biệt là một khái niệm chia chẻ hiện tượng, nên chi trong quan điểm mà ý thức hình thành, luôn chất chứa những thứ rác rưởi khiến cuộc đời trở nên chát chúa khổ đau. Hoang tàn rồi lại hoang tàn, dòng tư tưởng cứ ùa về theo kiểu ba mứa mà thực tại vốn dĩ là thế. Bến bờ sâu thẳm của nhận định cũng chỉ là khái niệm vu vơ, nó thường lấy đi tất cả những gì quý giá của hiện tượng.
Một buổi sáng, trên đồi hoang vu với tinh mơ còn vương chút nắng mới, những cánh hoa khép mình điêu tàn dưới bình minh tràn đầy nhựa sống. Tuy nhiên, cũng có những nụ hoa mới hé nở đang mơn trớn với thanh khí của đất trời giữa bao la thiên biến. Bên kia vòm trời, mây vẫn bay cho những cuộc mộng tàn phai trong từng phút giây sinh diệt. Con bướm đa tình cũng vờn dưới nắng mai giữa hoa tàn nguyệt tận của kiếp đời lưu biến. Sự sanh diệt của hiện tượng vạn hữu vẽ nên một bức tranh muôn màu cho thiên thu bất tận. Cái huyền diệu của cuộc đời hầu như phô diễn trùng trùng trước thiên di tuyệt náo. Khung trời mới của trăm nay hay nghìn năm về lại tắm gội dòng biến hiện giữa ngàn thu tuế nguyệt.
Trước những biến động của xum la vạn hữu, có cái còn sót lại, cũng có cái ra đi vĩnh viễn trong vô biên của sự thể. Những cánh hoa tàn vương vãi khắp nẻo đường về của dòng hiện khởi. Những đóa hoa chớm nở cho thiên nhiên thêm rực rở ánh hồng. Trăng tàn rồi lại khuyết theo trùng trùng duyên khởi như chưa hề có sự phân ly. Rồi trên đỉnh cao của núi đồi bạt ngàn một màu xanh vô tận, chiếc lá vàng nhường chổ cho những chồi non mơn mởn vươn ra mặc dù bản thân nó rơi đầy ngõ vắng úa tàn. Cái trùng trùng chuyển biến dường như không thiếu vắng trên bộ mặt đích thực của hiện tượng. Sự phân ly dù rằng trong khoảnh khắc cũng chưa hề lộ ra theo chiều hướng phân biệt.
Phân biệt là một khái niệm chia chẻ hiện tượng, nên chi trong quan điểm mà ý thức hình thành, luôn chất chứa những thứ rác rưởi khiến cuộc đời trở nên chát chúa khổ đau. Hoang tàn rồi lại hoang tàn, dòng tư tưởng cứ ùa về theo kiểu ba mứa mà thực tại vốn dĩ là thế. Bến bờ sâu thẳm của nhận định cũng chỉ là khái niệm vu vơ, nó thường lấy đi tất cả những gì quý giá của hiện tượng. Một nhà thơ, một nhà văn, một nhà triết học hay hiền triết đi nữa thì họ không bao giờ ghánh vác nổi cái gọi là hiện tượng vô biên. Hầu như đa phần họ đem khái niệm để nhìn về hiện tượng, nên hoàn toàn bóp méo sự thực để mặc sức bay nhảy trên diễn đàn tư tưởng mà họ cho là tuyệt đối. Con đường dẫn đến hiện tượng giới là chính bản thân nó chứ không ai khác. Chúng ta thường cho rằng mình tồn tại trong đời là do thứ này hay thứ khác, nguyên nhân này hay nguyên nhân khác, nhưng thực chất chúng ta tồn tại là tồn tại. Bởi vậy, các vĩ nhân, những người thực chứng, không bao giờ đem khái niệm của mình ra để phân định hiện tượng. Các vị luôn nhìn thấy đời mầu nhiệm dù khi cần xử lý công việc trong cuộc đời. Cái mà các vị thực hiện cho trùng trùng biến hiện ở đỉnh cao của tư tưởng là “niêm hoa vi tiếu”[1].
Tuy nhiên, cách xử lý ấy nó phải được kiểm nghiệm qua từng hành động đích xác chứ không phải dựa trên ngôn từ. Ngôn từ chẳng qua là công cụ để chuyển tải ý tưởng, nhưng chính ý tưởng vốn đã băng hoại, nên ngôn từ cũng trở thành tàn dư của băng hoại. Tôi nói, tôi viết, tôi đọc…là gì nhỉ? Là một sự lừa dối về hiện tượng. Sự lừa dối ấy cứ thiên thu vĩnh kiếp bám lấy con người mà chính bản thân con người có hề hay biết đâu. Nếu họ hay biết, thì không bao giờ để cho hiện tượng bị ý tưởng của mình áp đặt và trở thành vật tế thần của chính bản thân họ. Hơn bao giờ hết, sự bám chấp trở thành thảm họa của toàn thể nhân loại. Nó xuất hiện trong từng ngỏ ngách của hiện tượng và ngay cả tư tưởng. Bởi vậy, nó giết chết biết bao mầm móng của an vui khiến cho hoa tàn nguyệt tận.
Bám chấp là một sự lừa dối bất tận gây ra nhiều trắc ẩn thương tâm cho toàn thế giới. Bám chấp làm cho con người và hiện tượng trở nên già cỗi lụi tàn. Do vậy, nếu muốn thế giới này luôn luôn sinh động trong ý tưởng của mình, chúng ta đừng bao giờ bám chấp mà buông thả theo tự nhiên của nó. Hành trình của bám chấp trước các hiện tượng phô diễn là hệ lụy của các khái niệm bảo thủ. Chúng ta luôn luôn nắm lấy hiện tượng rồi áp đặt chúng một cách phi lý theo định kiến của mình. Tuy nhiên, cái thực chất của hiện tượng vốn vẫn thế như chưa bao giờ tuân theo các khái niệm của mình. Do vậy, khổ đau và bực bội cứ rìn rập chúng ta mà chính chúng ta là tác nhân. Muốn thoát khỏi chấp thủ, chúng ta phải nổ lực thực sự trong quá trình nhìn nhận về hiện tượng. Điều này có nghĩa đừng bao giờ áp đặt bất cứ khái niệm nào lên hiện tượng. Hãy để cho nó trôi chảy tự nhiên theo chiều hướng tự do của nó. Nếu càng bám chấp, chúng ta đánh mất tự do của chính mình.
Mỗi sớm mai thức dậy, chúng ta hãy tự quán chiếu các pháp trôi chảy mầu nhiệm theo chiều hướng tự nhiên của dòng đời để hạn chế bám chấp. Tâm chúng ta phải thực sự bình lặng trước mọi đắc thất vô thường và đừng bao giờ có khái niệm nắm bắt. Nếu cố ý nắm bắt, dù là một hạt bụi, chúng ta cũng sẽ rơi vào tình huống khổ đau. Chúng ta phải thực sự quán chiếu để tâm mình bình yên trước mọi biến cố của dòng đời. Nếu biết quán chiếu một cách sâu sắc, chúng ta sẽ nhận thức rõ hiện tượng là một dòng chảy mầu nhiệm vô biên trong từng giây từng phút. Dòng hiện tượng ấy cứ tiếp nối bất biến giữa trùng khơi sóng dội. Mọi thứ dù có lưu biến đến đâu thì nó vẫn tạo nên một vòng tròn khép kính nhường chỗ cho nhau như một dây chuyền cú liên tục hoạt động. Dù rằng trong quá trình diễn biến, có những thứ hoại diệt, nhưng sự hoại diệt ấy thể hiện một bản chất đích thực của chưa từng hoại diệt.
[1] Niêm hoa vi tiếu (zh:拈花微笑, j: nenge-mishō) nghĩa tiếng Việt: cầm hoa mỉm cười đây là một giai thoại thiền, ghi lại sự kiện Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đưa cành hoa lên khai thị, tôn giả Ca Diếp phá nhan mỉm cười.
Thứ Năm, 2 tháng 6, 2016
MCT siêu Mini( lá lớn )- giá 150k
MCT siêu Mini( lá lớn )- giá 150k-ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh
Thứ Tư, 1 tháng 6, 2016
Con chim nhỏ trong lồng.
Elena Pucillo Truong
Nguyên tác : L’uccellino in gabia
Của Elena Pucillo Truong
(Bản dịch của Trương Văn Dân)
Ngồi lên cạnh giường, đôi mắt tôi hết nhìn bàn tay khẳng khiu đặt trước bụng đến nhìn chiếc va li nhỏ mà trong đó phải bỏ vào tất cả đời mình.
– – Má chọn những thứ cần đem theo, còn việc khác cứ để con lo! Trong tai tôi còn lùng bùng giọng nói thiếu thân thiện, ngạo mạn và không chút kính nể của đứa con dâu lúc mang chiếc vali để tôi thu xếp những thứ cần thiết trước khi dời đến nhà mới.
Vậy là tôi phải vĩnh viễn rời bỏ căn nhà rộng rãi và thoáng mát, nơi mà tôi từng sống như một người vợ được yêu thương và hạnh phúc. Được yêu thương… cho tới lúc chồng còn sống… Còn sau đó… thì tôi sống mà như đã chết… sống như một kẻ lạ mặt trong nhà của mình vì đứa con dâu mới thật là bà chủ, là người quyết định, và bằng thủ đoạn tàn nhẫn và nham hiểm nó còn cướp mất lòng yêu thương của đứa con trai rồi từng ngày, từng ngày nó còn xéo nát từng mảnh tim tôi.
Khó nhọc đứng lên, tôi bước đến chiếc tủ quần áo, cảm giác như vừa mở ra cuốn album với những tấm ảnh vàng vọt bởi thời gian. Bao nhiêu là quần áo! Treo, móc đó mà bấy lâu nay tôi chưa bao giờ đụng tới! Đây rồi, hai chiếc áo sơ mi, hai chiếc quần, một bộ đồ, vài mảnh đồ lót… chỉ có thế mà chiếc vali đã đầy ứ rồi, tôi còn có thể bỏ thêm gì vào nữa?
Nhưng thực ra tôi có cần gì những thứ áo quần! Cái mà tôi cần chính là chiếc khung hình đặt trên chiếc bàn nhỏ bên giường. Bao năm rồi tôi chưng khung hình lên đó để nó là hình ảnh cuối cùng mà tôi nhìn thấy trước khi ngủ và cũng là hình ảnh đầu tiên khi tôi vừa tỉnh dậy. Đứa con dâu khốn nạn có thể lấy đi hết thảy, nhà cửa, quần áo, vàng bạc, con trai… nhưng không thể cướp đoạt những giây phút hạnh phúc của tôi và chồng đứng ôm nhau quay lưng về phía biển trong một buổi sáng rực rỡ ánh mặt trời.
Một khoảnh khắc tuyệt vời đã được giữ lại, mãi mãi, và gợi nhớ biết bao kỷ niệm.
Bao nhiêu say mê, bao nhiêu tình yêu đã từng có trong đời tôi! Tôi nhìn tôi trong tấm kiếng khi đóng lại cửa tủ, tuổi trẻ đã đi qua và mái tóc bồng bềnh như mây của tôi cũng đã điểm bạc hồi nào không hay. Trên khuôn mặt nhăn nheo chỉ còn lại đôi chút ấu vết của thời gian đó, màu biển trong mắt, nhưng khi mở ra trước sự thật tôi chỉ thấy bóng tối của nỗi cô đơn.
Hai hốc mắt của tôi vẫn còn xanh nhưng không có chút ánh sáng. Sự thiếu thốn tình cảm đã và đang dồn ép tôi vào giữa những bức tường quen biết ở nhà mình. Không ai đoái hoài gì đến tôi, chẳng ai thèm hỏi ý kiến và chẳng có ai bận tâm là tôi sẽ khổ sở biết bao khi phải sống trong căn hộ của một chung cư mà chỉ vừa nghĩ đến tôi đã thấy mình ngộp thở.
&
Và đúng như vậy, chỉ sau một tháng tôi đã thấy đời sống ở căn hộ ở tầng thứ 15 thật ngột ngạt. Với tôi, đời sống chỉ có ở bên ngoài cửa sổ, dưới đó tôi được nhìn những con người và đồ vật liên tục chuyển động giống đàn kiến hấp tấp, vội vã trước cơn mưa chiều.
Bị giam hãm giữa bốn bức tường, tôi như chết từng ngày, lặng lẽ ngồi cô đơn trên thành giường mà chẳng có căn phòng riêng nào để trú ẩn. Những tiếng động bên kia bức tường là của những người xa lạ, của những người hàng xóm không quen, lạnh lùng, vô cảm trước những nỗi đau của tôi.
Chẳng biết có chuyện gì xảy ra mà tôi thấy khó thở và không ngủ được. Nhiều đêm tôi mò mẫm đi dọc theo tường nhà, như muốn tìm một lối thoát không hề có. Sự khiếp đảm và kinh hoàng đẩy tôi qua lại giữa những chồng gạch xây cao, như con chim bị nhốt trong lồng đang tuyệt vọng tìm cách vượt qua những chấn song để tìm tự do.
Cũng như chim, ý thức về sự bất lực của mình, tôi đành phải qui hàng, rồi thẫn thờ và mệt nhọc quay lại giường ngủ. Mở to mắt, tôi trừng trừng nhìn bóng đêm rồi nước mắt cứ trào ra, ướt gối. Bằng những ngón tay run rẩy tôi siết chặt cái kho tàng của mình, phút giây chớp nhoáng của niềm hạnh phúc, như thể nó sẽ giúp tôi thoát khỏi nơi đây, giải phóng khỏi những niềm đau.
Bởi tôi chẳng còn gì khác. Đứa con dâu đã vứt bỏ tất cả những gì còn lại trong căn nhà, quần áo, vật dụng, cuộc đời… và sự phiền hà duy nhất mà tôi mang lại cho cô ấy chỉ là một bát cơm… nhưng tôi cũng chẳng còn muốn nuốt… Rồi mọi ngày đều trở nên nhọc mệt, hơi thở mỗi ngày mỗi ngắn, như có ai hay có cái gì đang thít họng, may mà có một ngụm không khí từ cửa sổ tràn vào, tôi nhìn thấy những con người và mọi vật chuyển động như đàn kiến cuồng nhiệt trước cơn mưa, hơi thở mới thoát trong một cơn khò khè.
– Đủ rồi! Con không thể nào sống như thế này được! Con còn phải đi làm và cần phải ngủ! Má phải bỏ cái tật đi lung tung khắp nhà như một mụ điên!
Thằng con trai của tôi đã hét lên như thế.
Giống tiếng kẽo kẹt từ mấy khúc xương sắp xụm, tôi ngã xệp lên chiếc ghế, toàn thân như bị băm vằm vì lời lẽ nhọn hoắc như những nhát dao. Biết bao đau đớn tôi đã sinh ra nó, một đời thương yêu và chăm sóc… thế mà giờ nó không chịu được tôi, xem như một sự phiền hà cần phải loại bỏ. Đó là lỗi tại tôi cưng chiều quá, và giờ thì tôi hiểu là mình vẫn còn có thể làm thêm một điều nữa cho nó. Và có lẽ cũng là làm cho chính mình.
Từ vài ngày qua tôi cảm thấy mình vui, đi đứng bình thường hơn giữa những bức tường và chiếc giường. Thỉnh thoảng trên môi tôi còn nở một nụ cười, nhất là lúc tôi nhớ lại những giai điệu của một bài hát tình yêu cũ… Lâu lắm rồi, tôi không còn nhớ trọn lời ca, chỉ mang máng nhớ điệp khúc nói là mùa xuân đang trở lại… và tôi cũng ước muốn có một mùa xuân mới.
Đêm nay có một vầng trăng tuyệt đẹp trên bầu trời, chỉ có một phần rất nhỏ bị che bởi một sợi mây. Tôi bỏ khung hình vào túi áo, đó là kho tàng của tôi, và từ cửa sổ tôi nhìn xuống thành phố đang ngái ngủ. Tia mắt tôi dõi theo ánh đèn màu đỏ của một chiếc xe hơi dọc theo hàng trụ đèn đường.Yên lặng quá. Từ trên cao ánh sáng chiếu xuống mềm mại như bông làm tôi có cảm giác như mình cũng đang đứng trên một cụm mây.
Chỉ vài giây thôi! Tôi nhoài người, bay qua khung cửa sổ, rơi tự do trong không khí. Trên môi tôi vẫn nở một nụ cười, thật ngọt ngào, để khỏi phải hét lên, sợ làm phiền người khác.
Elena Pucillo Truong
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)