Chủ Nhật, 15 tháng 11, 2015

Luật pháp có còn tính nhân đạo hay k?




Đây là hình ảnh Ông Nguyễn Văn Vĩnh và người chị đã trên 80 tuổi, lại bị bệnh tâm thần và giờ lại tàn tật không đi đứng được. Ông Vĩnh cũng đã ngoài 70 tuổi, một mình bươn chảy chăm sóc cho người chị bệnh tật của mình nhưng ông nào được yên tâm trong cảnh nghèo, lúc nào cũng nơm nớp lo sợ bị cưỡng chế thi hành án, tháo dỡ căn nhà tạm bợ của ông để "Giao đất lộ giới" lại cho bà Ngô Thị Vân, người đã mua đấu giá phần đất mà Ngân hàng Đầu tư đã "xiết nợ" của ông Vĩnh.

Tính đến nay đã 13 năm, ông Vĩnh lao đao trong hoàn cảnh nghèo khó và kiện tụng đòi "Công Lý".

Hãy xem qua, các cơ quan ngôn luận đã viết thế nào về vụ việc của ông.



Để trả lời cho câu hỏi "Vì sao nhà nước chưa mở đường, chưa thực hiện việc đền bù giải tỏa và vụ kiện vẫn còn trong giai đoạn chờ phán quyết của Tòa án Tối cao nhưng Tòa án và chính quyền địa phương lại muốn Ông Vĩnh "di dời" đi?". Hãy nhìn vào tấm họa đồ đất này, đây là họa đồ hiện trạng khu vực đất tranh chấp mà tòa án tỉnh đã yêu cầu ông Vĩnh thực hiện việc đo đạc làm cơ sở để Tòa án tỉnh xét xử lại khi Tòa án tối cao đã "hủy bỏ" các bản án trước. Dù trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, ông Vĩnh cũng đã phải chạy vạy vay mượn để thuê Công ty đo đạc thực hiện và ông đã mất 11 triệu đồng (một số tiền không nhỏ trong hoàn cảnh của ông) với hy vọng "công lý" sẽ được thực thi.



Dễ dàng nhìn thấy, khi ông Vĩnh di dời đi thì khu đất của Bà Ngô Thị Vân sẽ tăng giá trị "ào ào" vì lộ "mặt tiền" rộng lớn ngay.

Việc "cưỡng chế thi hành án" không thành, thật "ngạc nhiên" khi Cục thi hành án tỉnh lại "thay mặt Bà vân truyền đạt ý kiến sẽ hỗ trợ cho ông Vĩnh 50 triệu đồng để ông di dời"




Mới đây, ngày 3/8/2015 Phòng Tài nguyên Môi trường huyện Hòa Thành, thực hiện theo chỉ đạo của UBND huyện đến làm việc với ông Vĩnh về việc khiếu nại của ông. Huyện dự kiến giao đất ở và xây nhà cho ông diện tích 5m x30m tại ấp Trường An, xã Trường Tây để ông di dời đi.

Ông Vĩnh không bao chiếm "lộ giới qui hoạch" mà đang ở trên đất của chính ông "được Nhà nước qui hoạch" để phục vụ công trình phúc lợi công cộng. Thế thì, khi Nhà nước chưa giải phóng mặt bằng, làm đường giao thông thì tại sao ông Vĩnh phải di dời đi?
Hẳn câu trả lời cũng đúng như suy nghĩ của ông Vĩnh: "buộc ông di dời đi để đất bà Vân "lòi" ra mặt tiền". Ông Vĩnh kiên quyết không di dời khi mà Tòa án Tối cao chưa xét xử "Giám đốc thẩm"!

Vì sao Tòa án tối cao "giám đốc thẩm" xử hủy bản án Phúc thẩm.

Vụ kiện đòi "bồi thường thiệt hại" của Ông Vĩnh đối với việc Ngân hàng Đầu tư Tây Ninh bán đấu giá tài sản của ông sai pháp luật và được tòa án tỉnh xét xử sơ thẩm và Tòa án Tối cao tại tp Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vào năm 2006 nhưng mãi đến năm 2009 thì Tòa án nhân dân tối cao mới có quyết định kháng nghị số 632/2009/DS-KN. Nội dung kháng nghị như sau:
Kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 476/2006/DSPT ngày 10/11/2006 của tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh về vụ án "Đòi bồi thường thiệt hại" giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Vĩnh với bị đơn là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, chi nhánh tỉnh Tây Ninh, người có quyền lợi liên quan, nghĩa vụ liên quan là Bà Ngô Thị Vân.
Đề nghị Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 30/2006/DSST ngày 30/6/2006 của tòa án nhân dân tỉnh Tây ninh; giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định pháp luật.





Mãi đến ngày 23/3/2011 Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tiến hành xét xử Giám đốc thẩm và Ban hành quyết định giám đốc thẩm số 14/2011/QĐ-GĐT với nhận xét như sau:
Năm 1996, ông Vĩnh vay của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, chi nhánh tỉnh Tây Ninh (gọi tắt là Ngân hàng Đầu tư tỉnh Tây Ninh) 100.000.000đ và thế chấp 7.700m2 đất đứng tên ông Vĩnh đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng năm 1995. Do không trả được nợ nên ông Vĩnh bị Ngân hàng kiện ra Tòa án. Tại quyết định số 199/HGT ngày 21/8/1997 của Tòa án nhân dân huyện Hòa thành -tỉnh Tây ninh đã công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, theo đó ông Vĩnh phải trả cho Ngân hàng Đầu tư tỉnh Tây Ninh số tiền 136.343.300đ nợ vay và lãi. Sau khi có quyết định của tòa án nêu trên ông Vĩnh không tự nguyện thi hành án nên năm 1998, cơ quan Thi hành án huyện Hòa thành làm thủ tục bán đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật, nhưng không bán được. Căn cứ quyết định số 149/2001/QĐ-TTg ngày 5/10/2001 của Thủ tướng chính phủ và Thông tư Liên tịch số 02/2002/TTLT ngày 5/2/2002 của Ngân hàng nhà nước Việt nam và Bộ Tư pháp nêu trên thì Ngân hàng Đầu tư tỉnh Tây ninh có quyền bán đấu giá diện tích đất ông Vĩnh thế chấp để thu hồi nợ.

Theo quyết định số 29/TD ngày 18/4/2002 của Ngân hàng Đầu tư tỉnh Tây ninh căn cứ quyết định thi hành án số 390 ngày 7/9/1997 của Đội thi hành án huyện hòa thành, biên bản định giá ngày 13/3/1998 của Hội đồng định giá lấy giá khởi điểm là 300.882.000đ để đấu giá diện tích 7.700m2 đất của ông Vĩnh. Tại biên bản bán đấu giá ngày 18/6/2002 do Ngân hàng Đầu tư lập thì bà Vân đã đấu giá thành với giá 385.000.000đ. Theo biên bản thông báo các chi phí phát mãi tài sản của ông Vĩnh do Ngân hàng Đầu tư tỉnh Tây Ninh lập ngày 6/10/2002, tính đến thời điểm lập biên bản ông Vĩnh phải trả nợ cả gốc, lãi và các chi phí khác do Ngân hàng Đầu tư tỉnh tính là 244.201.000đ. Biên bản này Ông Vĩnh đã yêu cầu định giá lại đất và tài sản trên đất, xem lại diện tích đất thừa và các chi phí ngoài khoản nợ.
Khi đấu giá xong, Ngân hàng Đầu tư mới đo vẽ đất của ông Vĩnh thực tế có diện tích đất 8.643m2. Tuy nhiên, năm 1998 Thi hành án đã đo vẽ đất thực tế của ông Vĩnh là 8.767m2. Như vậy diện tích đất Ngân hàng đo vẽ chênh lệch giảm 124m2 chưa lý giải.

Theo quy định của điểm 4, 5 phần 2 Thông tư liên tịch số 02/2002 nêu trên thì khi bán đấu giá Ngân hàng Đầu tư tỉnh Tây Ninh phải định giá khởi điểm theo giá thị trường tại thời điểm đấu giá. Do đất thực tế rộng hơn diện tích đất thế chấp nên trước khi bán đấu giá lẽ ra phải đo vẽ, xác định cụ thể diện tích đất đấu giá, diện tích chừa lại cho ông Vĩnh, để biết chính xác vị trí đất đấu giá, nhưng Ngân hàng đã không đo vẽ và tự ấn định diện tích 7.700m2 đất giao cho bà Vân chiếm gần hết mặt đường quốc lộ 22B, chỉ chừa  lại cho ông Vĩnh một lối đi ra quốc lộ 22B rộng 1m là không đảm bảo quyền lợi của ông Vĩnh


"
Điểm 4,5, phần 2 Thông tư Liên tịch số 02/2002/TTLT ngày 5/2/2002 của Ngân hàng nhà nước Việt nam và Bộ tư pháp

II. THỦ TỤC BÁN TÀI SẢN BẢO ĐẢM THEO QUY ĐỊNH TẠI ĐIỂM 3.1A KHOẢN 3 ĐIỀU 1 CỦA QUYẾT ĐỊNH SỐ149/2001/QĐ-TTG

4. Hội đồng xử lý tài sản có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

a) Xác định giá khởi điểm để tự bán đấu giá công khai tài sản bảo đảm trên thị trường trên cơ sở giá thị trường tại thời điểm bán.

Giá khởi điểm để bán tài sản (giá bán tài sản) có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị khoản nợ tồn đọng, giá trị tài sản được xác định khi cho vay hoặc giá tài sản do tòa án xác định trong bản án, quyết định của tòa án;


b) Chỉ định người điều hành bán đấu giá tài sản;

c) Giải quyết các khiếu nại liên quan đến việc bán đấu giá tài sản công khai trên thị trường;

d) Được sử dụng dấu của ngân hàng thương mại, công ty quản lý nợ khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tại khoản này.

5. Khi tự bán đấu giá công khai trên thị trường, ngân hàng thương mại, công ty quản lý nợ phải thực hiện các thủ tục sau đây:

a) Niêm yết, thông báo công khai việc bán tài sản tại trụ sở của ngân hàng thương mại, công ty quản lý nợ, nơi bán đấu giá và trên báo địa phương hoặc trung ương hai lần, mỗi lần cách nhau không quá ba ngày (3 ngày) ít nhất mười lăm ngày (15 ngày) trước ngày tổ chức bán tài sản các thông tin sau đây:

- Thông tin về tài sản được bán, bao gồm: loại tài sản, đặc điểm, số lượng, chất lượng của tài sản;

- Thông tin về việc bán tài sản, bao gồm: thời gian và địa điểm đăng ký mua tài sản, thời gian và địa điểm bán tài sản, phương thức bán tài sản, giá khởi điểm điều kiện đối với người mua tài sản (nếu có), thủ tục bán tài sản và các thông tin khác liên quan đến việc bán tài sản;

b) Tổ chức trưng bày tài sản, cho xem tài sản hoặc hồ sơ về tài sản theo yêu cầu của người đăng ký mua tài sản;

c) Lập biên bản xác nhận danh sách người đăng ký mua hợp lệ. Người đăng ký mna tài sản phải đăng ký mua tài sản chậm nhất là hai ngày (2 ngày trước ngày mở phiên bán đấu giá tài sản và đặt trước một khoản tiền là năm phần trăm (5%) giá khởi điểm của tài sản bán đấu giá.

Người đăng ký mua hợp lệ là người đáp ứng đủ điều kiện của người mua tài sản (nếu có), đã thực hiện việc đăng ký mua tài sản và nộp khoản tiền đặt trước, trước khi kết thúc thời hạn đăng ký mua tài sản.

Trong trường hợp mua được tài sản bán đấu giá, thì khoản tiền đặt trước được trừ vào giá mua; nếu không mua được, thì khoản tiền đặt trước được trả lại cho người đăng ký mua tài sản ngay sau khi phiên bán đấu giá kết thúc.

Trong trường hợp người đăng ký mua tài sản đã nộp một khoản tiền đặt trước nhưng sau đó đã không tham gia đấu giá, thì khoản tiền đặt trước đó thuộc ngân hàng thương mại, công ty quản lý nợ, trừ trường hợp người không tham gia đấu giá chứng minh được việc không thể tham dự phiên đấu giá là do những nguyên nhân bất khả kháng (tai nạn, ốm nặng phải nằm bệnh viện, thiên tai). Trong trường hợp này khoản tiền đặt trước được trả lại cho người không tham giá đấu giá;

d) Đối với tài sản là động sản có giá khởi điểm dưới mười triệu đồng (10.000.000 đồng) thì người tham gia đấu giá được trực tiếp tham gia đấu giá mà không phải thực hiện thủ tục đăng ký mua tài sản quy định tại điểm c khoản này."

Vì các lẽ trên, căn cứ khoản 3 Điều 297 và Điều 299 của Bộ Luật dân sự năm 2005, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã quyết định:

1. Hủy bỏ bản án dân sự phúc thẩm số 476/2006/DSPT ngày 10/11/2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự sơ thẩm số 30/2006/DS-ST ngày 30/6/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh về vụ án "Đòi bồi thường thiệt hại" giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Vĩnh với bị đơn là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, chi nhánh tỉnh Tây Ninh; người có nghĩa vụ, quyền lợi liên quan là bà Ngô Thị Vân.

2. Giao hồ sơ vụ án cho tòa án nhân dân tỉnh Tây ninh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

"
Khoản 3 Điều 297 và Điều 299 của Bộ luật dân sự năm 2005

Điều 297. Thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm

Hội đồng giám đốc thẩm có các quyền sau đây:

1. Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật;

2. Giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Toà án cấp dưới đã bị huỷ hoặc bị sửa;

3. Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại hoặc xét xử phúc thẩm lại;



4. Huỷ bản án, quyết định của Toà án đã xét xử vụ án và đình chỉ giải quyết vụ án.

Điều 299. Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị để xét xử sơ thẩm lại hoặc xét xử phúc thẩm lại

Hội đồng giám đốc thẩm ra quyết định huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị để xét xử sơ thẩm lại hoặc xét xử phúc thẩm lại trong các trường hợp sau đây:

1. Việc thu thập chứng cứ và chứng minh chưa thực hiện đầy đủ hoặc không theo đúng quy định tại Chương VII của Bộ luật này;

2. Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án hoặc có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật;

3. Thành phần của Hội đồng xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm không đúng quy định của Bộ luật này hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng."










*Thấy gì qua 2 phiên tòa "xét xử lại" ?


-Án sơ thẩm lần 2 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh

Thực hiện quyết định  giám đốc thẩm số 14/2011/QĐ-GĐT  của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh mở phiên tòa sơ thẩm xét xử lại vụ kiện vào ngày 24/4/2013. Nội vụ vẫn không có thêm tình tiết mới nhưng bất chấp cả những nhận xét của Hội đồng thẩm phán tối cao và dư luận, Tòa án tỉnh đã tuyên:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Vĩnh về việc yêu cầu hủy bỏ việc bán đấu giá tài sản ngày 18/6/2002 của NHTMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - chi nhánh Tây Ninh và yêu cầu Ngân hàng bồi thường thiệt hại.
Bà Ngô Thị vân được tiếp tục sử dụng phần đất có diện tích qua đo đạc thực tế 7.151,6m2 thuộc thửa 65, tờ bản đồ số 8 tọa lạc tại ấp Trường Huệ, xã Trường Tây- huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh, đất có tứ cận như:
Đông giáp quốc lộ 22B, đất ông Nguyễn Văn Niềm, ông Còi
Tây giáp sông Vàm Cỏ
Nam giáp đất ông Trần Quốc Toản và Nguyễn Văn Phước
Bắc giáp Công ty Đức Thành
Bà Vân được UBND huyện Hòa thành cấp giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất số 04812/QSDĐ/3067/XN/UB ngày 24/10/2002

2.Chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bà Ngô Thị Vân

Buộc ông Vĩnh phải di dời toàn bộ tài sản, cây cối và nhà trên phần đất diện tích 116,1 m2 thuộc lộ giới qui hoạch quốc lộ 22B tại số 848, tổ 9, ấp Trường Huệ, xã Trường Tây, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.
Buộc ông Vĩnh phải di dời các tài sản là nhà tắm, cây xanh, hàng rào để giao trả diện tích 172,2 m2 đất thuộc thửa 65, tờ bản đồ số 8, tọa lạc tại ấp Trường Huệ, xã Trường Tây, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh lại cho bà Vân.
Ghi nhận bà Vân đồng ý hỗ trợ cho ông Nguyễn văn Vĩnh số tiền 26.122.500đ tiền đền bù, giải tỏa, ông Vĩnh đã nhận xong.

Bản án này  hoàn toàn đi ngược lại Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cáo khi "hủy án Sơ thẩm của Tòa án tỉnh và hủy án Phúc thẩm của tòa phúc thẩm Tòa án tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh để xét xử lại với mục đích đảm bảo quyền lợi hợp lý của ông Vĩnh. Không chỉ thế, với bản án này ông Vĩnh đã trở thành người vô gia cư.

Rõ ràng, 116,1m2 đất lộ giới này Nhà nước giải tỏa, đền bù cho ông Vĩnh 26 triệu đồng. nay làm đường gần hết diện tích đất nói trên, vậy mà Tòa án lại lấy diện tích này áp lên nhà số 848 của ông Vĩnh (đang ở trên diện tích đất 110,6m2) để buộc ông Vĩnh giao lại cho bà Vân "đại gia xăng dầu" được rộng thêm 16m chiều ngang mặt tiền quốc lộ 22B để thuận tiện cho phương tiện của bà vận chuyển xăng dầu... còn bản thân chị em ông Vĩnh thì rơi vào cảnh không nhà đất, trở thành người vô gia cư. (xem lại họa đồ hiện trạng đất)


Toàn văn bản án sơ thẩm:

Bản án sơ thẩm lần này chỉ khác bản án sơ thẩm lần trước ở điều luật căn cứ để xét xử và thêm phán xử phần phản tố của Bà Vân. 
Bản án sơ thẩm lần thứ nhất căn cứ vào điều 604 và 607 của bộ Luật dân sự:


"Điều 604. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại

1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.

2. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó.

Điều 607. Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại

Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm."

Bản án sơ thẩm lần 1





Việc căn cứ vào điều 604 và 607 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh được Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố HCM kết luận là chưa chuẩn xác khi tiến hành xét xử phúc thẩm lần thứ 1. Cần phải áp dụng điều 251 Bộ Luật dân sự là: Xử lý tài sản để thực hiện nghĩa vụ của chủ sỡ hữu và các điều: 456, 457, 458, 459 Bộ luật dân sự quy định về trình tự Bán đấu giá... cho đúng quy định.


(Toàn văn bản án Phúc thẩm lần thứ 1 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tại Thành phố Hồ chí minh)








Bản án sơ thẩm lần thứ 2 đã căn cứ trên các điều luật: Căn cứ điều 256, 258, 304, 355, 336, 338 Bộ luật Dân sự và điều 34 Bộ Luật Tố Tụng Dân sự hoàn toàn khác với các điều Luật được áp dụng ở các phiên tòa trước của Tòa án tỉnh Tây ninh, Tòa Phúc thẩm tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và Giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án tối cao.

"Điều 256. Quyền đòi lại tài sản

Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 247 của Bộ luật này. Trong trường hợp tài sản đang thuộc sự chiếm hữu của người chiếm hữu ngay tình thì áp dụng Điều 257 và Điều 258 của Bộ luật này.

Điều 258. Quyền đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình

Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản, trừ trường hợp người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa


Điều 304. Trách nhiệm dân sự do không thực hiện nghĩa vụ phải thực hiện hoặc không được thực hiện một công việc

1. Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện một công việc mà mình phải thực hiện thì bên có quyền có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện hoặc tự mình thực hiện hoặc giao cho người khác thực hiện công việc đó và yêu cầu bên có nghĩa vụ thanh toán chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại.

2. Khi bên có nghĩa vụ không được thực hiện một công việc mà lại thực hiện công việc đó thì bên có quyền được quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải chấm dứt việc thực hiện, khôi phục tình trạng ban đầu và bồi thường thiệt hại.

Điều 336. Xử lý tài sản cầm cố

Trường hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện nghĩa vụ không đúng thoả thuận thì tài sản cầm cố được xử lý theo phương thức do các bên đã thoả thuận hoặc được bán đấu giá theo quy định của pháp luật để thực hiện nghĩa vụ. Bên nhận cầm cố được ưu tiên thanh toán từ số tiền bán tài sản cầm cố.

Điều 338. Thanh toán tiền bán tài sản cầm cố

Tiền bán tài sản cầm cố được sử dụng để thanh toán nghĩa vụ cho bên nhận cầm cố sau khi trừ chi phí bảo quản, bán tài sản và các chi phí cần thiết khác có liên quan để xử lý tài sản cầm cố; trong trường hợp nghĩa vụ được bảo đảm là khoản vay thì thanh toán cho bên nhận cầm cố theo thứ tự nợ gốc, lãi, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại nếu có; nếu tiền bán còn thừa thì phải trả lại cho bên cầm cố; nếu tiền bán còn thiếu thì bên cầm cố phải trả tiếp phần còn thiếu đó.

Điều 355. Xử lý tài sản thế chấp

Trong trường hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì việc xử lý tài sản thế chấp được thực hiện theo quy định tại Điều 336 và Điều 338 của Bộ luật này."


Xem xét các điều luật này thì "dường như không liên quan đến việc ông Vĩnh đòi bồi thường thiệt hại là do Ngân hàng đấu giá tài sản của ông mà không tiến hành định giá lại tài sản, bán đấu giá theo "ý của Ngân hàng" mà không có sự đồng thuận của ông!
Những điều luật nêu trên dường như để "phục vụ" cho phần "phản tố" của bà Vân thì đúng hơn!

Án Phúc thẩm lần 2 của Tòa án phúc thẩm tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ chí Minh.

Án phúc thẩm lần thứ nhất Tòa phúc thẩm tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh  đã căn cứ vào các điều luật như sau:
-Áp dụng khoản 1 điều 275 Bộ luật tố tụng dân sự. Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn Vĩnh giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Áp dụng điều 251, 456, 457, 458, 459 Bộ Luật dân sự. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Vĩnh về việc yêu cầu hủy bỏ việc đấu giá tài sản ngày 18/6/2002 của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Tây Ninh và yêu cầu Ngân hàng bồi thường thiệt hại.

"

Điều 275. Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm

Hội đồng xét xử phúc thẩm có các quyền sau đây:

1. Giữ nguyên bản án sơ thẩm;

2. Sửa bản án sơ thẩm;

3. Huỷ bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án;

4. Huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án.

"
Điều 251. Xử lý tài sản để thực hiện nghĩa vụ của chủ sở hữu

1. Quyền sở hữu đối với một tài sản chấm dứt khi tài sản đó bị xử lý để thực hiện nghĩa vụ của chủ sở hữu theo quyết định của Toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác, nếu pháp luật không có quy định khác.

2. Việc xử lý tài sản để thực hiện nghĩa vụ của chủ sở hữu không áp dụng đối với tài sản không thuộc diện kê biên theo quy định của pháp luật.

3. Quyền sở hữu đối với tài sản bị xử lý để thực hiện nghĩa vụ của chủ sở hữu chấm dứt tại thời điểm phát sinh quyền sở hữu của người nhận tài sản đó.

4. Việc xử lý quyền sử dụng đất được thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai.

Điều 456. Bán đấu giá

Tài sản có thể được đem bán đấu giá theo ý muốn của chủ sở hữu hoặc pháp luật có quy định.

Tài sản chung đem bán đấu giá phải có sự đồng ý của các chủ sở hữu chung, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.

Điều 457. Thông báo bán đấu giá

1. Người bán đấu giá phải thông báo công khai tại nơi bán đấu giá và trên phương tiện thông tin đại chúng về thời gian, địa điểm, số lượng, chất lượng và danh mục các tài sản bán đấu giá chậm nhất là bảy ngày đối với động sản, ba mươi ngày đối với bất động sản trước ngày bán đấu giá.

2. Những người có liên quan đến tài sản bán đấu giá phải được thông báo về việc bán đấu giá để tham gia định giá khởi điểm, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

Điều 458. Thực hiện bán đấu giá

1. Khi bán đấu giá, người bán đấu giá công bố giá bán khởi điểm.

2. Người trả giá cao nhất và ít nhất bằng giá khởi điểm là người được mua tài sản bán đấu giá và được coi là đã chấp nhận giao kết hợp đồng.

3. Việc bán đấu giá được lập thành văn bản và có chữ ký của người mua, người bán và hai người chứng kiến.

4. Thời hạn giao tài sản bán đấu giá, thời hạn và phương thức thanh toán được thực hiện theo quy chế bán đấu giá.

5. Người bán đấu giá không chịu trách nhiệm về giá trị, chất lượng của tài sản bán đấu giá.

6. Trong trường hợp giá mua cao nhất được công bố thấp hơn so với giá khởi điểm thì cuộc bán đấu giá xem như không thành.

Chính phủ quy định chi tiết về tổ chức và thủ tục bán đấu giá tài sản.

Điều 459. Bán đấu giá bất động sản

1. Việc bán đấu giá bất động sản được thực hiện tại nơi có bất động sản hoặc nơi do người bán đấu giá xác định.

2. Sau khi có thông báo về việc bán đấu giá bất động sản, những người muốn mua phải đăng ký mua và phải nộp một khoản tiền đặt trước. Danh sách những người đăng ký mua được công bố công khai tại nơi bán đấu giá.

3. Trong trường hợp mua được tài sản bán đấu giá thì khoản tiền đặt trước được trừ vào giá mua; nếu người mua từ chối mua thì không được hoàn trả khoản tiền đó.

4. Người bán đấu giá phải hoàn trả khoản tiền đặt trước cho những người khác đã đăng ký mà không mua được tài sản bán đấu giá.

5. Việc mua bán bất động sản bán đấu giá được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải được đăng ký, nếu pháp luật có quy định"


Bản án Phúc thẩm lần 2 ngày 30/7/2013 số 237/2013/DSPT của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cáo về nhận xét vụ kiện cũng tương tự như bản án sơ thẩm lần 2 của tòa án nhân dân tỉnh Tây ninh và chỉ đơn giản căn cứ vào Điều 275 Bộ Luật tố tụng dân sự để tuyên xử:

1/ Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Vĩnh về việc yêu cầu hủy bỏ việc bán đấu giá tài sản ngày 18/6/2002 của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt nam chi nhánh Tây Ninh và yêu cầu Ngân hàng bồi thường thiệt hại.
Bà Ngô Thị Vân được tiếp tục sử dụng phần đất có diện tích đo đạc thực tế 7.151,6m2 thuộc thửa số 65, tờ bản đồ số 6, tọa lạc tại ấp Trường Huệ, xã Trường Tây, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh (có tứ cận như bản án sơ thẩm đã xác định)
2/ Chấp nhận yêu cầu phản tố của Bà Ngô Thị Vân

- Buộc ông Vĩnh phải di dời toàn bộ tài sản, cây cối và nhà trên phần đất có diện tích 116,1m2 thuộc lộ giới quy hoạch quốc lộ 22B tại số 848, tổ 9, ấp Trường 
Huệ, xã Trường Tây, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh lại cho bà Vân
Bản án sơ thẩm lần hai của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh và bản án Phúc thẩm lần hai của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao Thành phố Hồ Chí Minh đều không hề xem xét đến "Điểm 4, 5, phần 2 Thông tư Liên tịch số 02/2002/TTLT ngày 5/2/2002 của Ngân hàng nhà nước Việt nam và Bộ Tư pháp" mà Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã căn cứ để hủy bỏ Bản án sơ thẩm lần thứ nhất của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh và Bản án phúc thẩm lần thứ nhất của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân nhân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. Phải chăng "Phép Vua đã thua Lệ Làng"?

Mặt khác việc chấp nhận phản tố của bà Ngô Thị Vân đã biến hai phiên Tòa sơ thẩm và phúc thẩm lần 2 trở thành phiên tòa xét xử Bà Vân kiện ông Vĩnh tranh chấp phần đất lộ giới qui hoạch mà ông Vĩnh đang ở. Ông Vĩnh đã không đòi được quyền lợi chính đáng của ông mà còn phải rơi vào cảnh không nơi cư ngụ. Chính điều này đã dẫn đến việc "cưỡng chế thi hành án" như đã nêu ở phần trên.

*Những lập luận không có cơ sở pháp lý của bản án sơ thẩm và phúc thẩm lần 2 trong việc ông Vĩnh kiện đòi bồi thường thiệt hại do Ngân hàng bán đấu giá không tuân thủ đúng các qui định của luật pháp.

.Thứ nhất:
 Điểm mấu chốt ông Vĩnh kiện Ngân hàng là thực hiện bán đấu giá "không định giá lại tài sản của ông mà căn cứ vào biên bản định giá từ năm 1997 làm căn cứ tính giá khởi điểm cho năm 2002 là gây thiệt hại cho ông"
Trong phần nhận xét Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao  đã xét về thủ tục phát mãi như sau:

Tháng 6/2002 Ngân hàng đứng ra tổ chức bán đấu giá tài sản của ông Vĩnh lấy giá khởi điểm là 300.875.000đ (là giá Thi hành án định năm 1997) là giá phù hợp với khung giá của UBND tỉnh tháng 12/2001 (giá đất đến 2002 không có biến động và không thay đổi).

Đây chỉ là một nhận định không có cơ sở pháp lý, mang tính áp đặt bởi giá đất của UBND tỉnh ban hành không thể xem là giá thị trường mà chỉ là giá tham khảo (chủ yếu là để làm căn cứ tính thuế đất và ngay Ngân hàng khi cho vay cũng không căn cứ vào giá đất này) nên sai trái với điểm phần II, điểm 4.a của Thông tư Liên tịch số 02/2002/TTLT ngày 5/2/2002 của Ngân hàng nhà nước Việt nam và Bộ Tư pháp:  Xác định giá khởi điểm để bán đấu giá công khai tài sản bảo đảm trên thị trường trên cơ sở giá thị trường tại thời điểm bán.

Vào thời điểm 2002 việc xác định giá đất của UBND tỉnh cũng không thể sử dụng làm căn cứ để xét xử vì mãi đến năm 2004 chính phủ mới Ban hành  nghị định số 188/2004/NĐ-CP  ngày 16/11/2004  về phương pháp xác định giá đất và khung giá đất các loại.

Trong khi đó chỉ cần xem xét giá thị trường tại thời điểm thì 16m x50m = 800m2 đất mặt tiền  QL 22B của ông Vĩnh  tại khu vực này cũng đã thừa để trả nợ cho Ngân hàng.

.Thứ hai:

 Bản án phúc thẩm lần 2 đưa ra lập luận: Sau khi trúng đấu giá bà Vân được UBND huyện Hòa thành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (24/10/2002) số 048/2/QSDĐ. Thời điểm này ông Vĩnh không có khiếu nại việc bán đấu giá, hay khởi kiện ra Tòa án để đòi hủy kết quả bán đấu giá ngày 18/6/2002.

Theo điểm 3.a điều 159:  Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước bị xâm phạm.  
Ngày 19/8/ 2004 ông Vĩnh khởi kiện thì từ 24/10/2002 đến ngày 19/8/2004 cũng chưa hết 2 năm. (Bộ Luật dân sự 2002)

Mặt khác, ngày 23/3/2011 Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tiến hành xét xử Giám đốc thẩm và Ban hành quyết định giám đốc thẩm số 14/2011/QĐ-GĐT hủy bỏ bản án dân sự phúc thẩm số 476/2006/DSPT ngày 10/11/2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự sơ thẩm số 30/2006/DS-ST ngày 30/6/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây ninh về vụ án "Đòi bồi thường thiệt hại" giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Vĩnh với bị đơn là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, chi nhánh tỉnh Tây Ninh; người có nghĩa vụ, quyền lợi liên quan là bà Ngô Thị Vân. Cũng có nghĩa là việc Mua bán đấu giá của Ngân hàng và bà Vân là giao dịch dân sự vô hiệu.

.Thứ ba

 Tài sản của ông Vĩnh được Chi cục thi hành án Hòa Thành định giá với giá khởi điểm cao hơn số nợ của ông Vĩnh đối với Ngân hàng. Điều này xác lập, tài sản đất của ông Vĩnh thế chấp đã trở thành "Tài sản chung" nên sau 2 lần Thi hành bán đấu giá không thành giao lại cho Ngân hàng Đầu tư tự bán thì Ngân hàng cũng không thể đơn phương bán đấu giá mà không có sự thỏa thuận của ông Vĩnh. Huống hồ, trước đó quyết định 199/HGT vẫn còn hiệu luật pháp luật. Ngân hàng phải thực hiện đúng pháp luật qui định về việc xử lý tài sản chung. Ngân hàng có bán đấu giá thì cũng chỉ được phép bán "một phần tài sản" đảm bảo đủ để thu hồi nợ.

Điều 223. Định đoạt tài sản chung

1. Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu của mình theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật.

2. Việc định đoạt tài sản chung hợp nhất được thực hiện theo thoả thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của pháp luật.



Tóm lại: 

Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Tây ninh và bản án phúc thẩm của tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tuyên xét xử lần 2 vụ kiện "Đòi bồi thường thiệt hại" của ông Vĩnh đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Tây Ninh là thiếu khách quan, chẳng những đã không tôn trọng bản án Giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (gồm 10 người) mà còn "thản nhiên" chấp nhận sự "Phản tố" của bà Vân  để "giải tỏa" hay "bứng" ông Vĩnh ra khỏi phần đất "lộ giới qui hoạch" làm cho đất của bà Vân "lòi" ra mặt tiền rộng hơn, tăng giá trị càng cao. Điều đó cũng giải thích sự "nhiệt tình" của chính quyền và cơ quan chức năng địa phương khi vận động Ông Vĩnh di dời đi như đã nêu ở đầu bài, trong khi vụ kiện chưa kết thúc: ông Vĩnh đang chờ Hội đồng thẩm phán Tòa án tối cao Giám đốc thẩm.
Cả hai bản án có chi tiết "được sửa đổi" cho khác đi đối với số tiền Nhà nước bồi thường khi giải tỏa một phần lộ giới cho ông Vĩnh thành tiền của Bà Vân hỗ trợ cho ông Vĩnh.


Xem thêm :



Đấu giá tài sản sai luật, chi cục thi hành án phải bồi thường

Khổ vì thi hành án

Ngoài ra, bản án này còn buộc Chi cục Thi hành án TP Biên Hòa phải bồi thường cho người mua đấu giá khối tài sản trên số tiền 1,496 tỉ đồng (gồm cả tiền mua đấu giá và tiền lãi).

Theo nội dung bản án, ông Phạm Ngọc Chương và bà Đào Thị Hào phải trả nợ cho bà Nguyễn Thị Thùy Trang, bà Nguyễn Thị Yên và bà Vũ Kim Dung 791.118.250 đồng tiền vốn và lãi vay, theo các bản án đã có hiệu lực của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai. Do ông Chương và bà Hào không có khả năng chi trả nên Chi cục Thi hành án TP Biên Hòa đã ra lệnh cưỡng chế ngôi nhà gắn liền với đất do ông bà đứng tên sở hữu tại khu phố 2, phường Tân Biên, TP Biên Hòa. Tuy nhiên, hồ sơ vụ việc cho thấy Chi cục Thi hành án TP Biên Hòa đã mang đấu giá tài sản không đúng theo quy trình, cụ thể là không gửi thông báo định giá đến người bị đấu giá, không dán thông báo tại địa phương và nơi có tài sản bị đấu giá.

Do vậy, khi căn nhà và thửa đất bị giảm giá khởi điểm để đấu giá từ 1,6 tỉ xuống chỉ còn 721 triệu đồng thì vợ chồng ông Chương, bà Hào và các con không được biết. Hơn nữa, người trúng thầu lại là bà Nguyễn Thị Thùy Trang (chủ nợ của ông Chương và bà Hào) nên càng khiến gia đình ông Chương bức xúc. Vợ chồng ông Chương khiếu nại nhiều lần đề nghị hủy bỏ quyết định thi hành án nhưng bị Chi cục Thi hành án TP Biên Hòa bác đơn dù Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai đã ra quyết định yêu cầu hủy kết quả bán đấu giá nhưng không được Chi cục Thi hành án TP Biên Hòa chấp nhận.

Theo bản án sơ thẩm lần 2 này, HĐXX tuyên buộc bà Nguyễn Thị Thùy Trang phải trả lại căn nhà cho Chi cục Thi hành án dân sự TP Biên Hòa để đơn vị này quản lý và xử lý theo Luật thi hành án dân sự.
Trước đó, bản án sơ thẩm lần 1 của Tòa án nhân dân TP Biên Hòa đã tuyên bác đơn khởi kiện của ông Chương và bà Hào nhưng tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai đã hủy bản án sơ thẩm, trả hồ sơ xét xử lại.


Cơ quan thi hành án giải quyết vụ bán đấu giá ngôi nhà thi hành án sai quy định: Đương sự không đồng tình
Sau 15 năm mòn mỏi đi tìm công lý, cuối cùng bà Đặng Thị Thông, trú phường Quang Trung - hiện tạm trú phường Nguyễn Văn Cừ (TP Quy Nhơn) cũng được Chi cục Thi hành án dân sự (THADS) TP Quy Nhơn chi trả tiền bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, đơn vị này “quên” giải quyết cho bà 1 lô đất như các cuộc họp trước đó đã thông qua.



Bà Thông trình bày vụ việc với PV Báo Bình Định.


Từ cuộc đấu giá sai quy định...

Năm 1995, bà Đặng Thị Thông vay của ông Phạm Kiều 19 chỉ vàng và 1 triệu đồng. Do bà Thông không trả nợ đúng hạn nên ông Kiều khởi kiện bà ra tòa. Năm 1998, TAND TP Quy Nhơn đưa vụ việc ra xét xử và tuyên buộc bà Thông trả đủ số tiền nợ cho ông Kiều.

Sau khi tòa xử, bà Thông rao bán ngôi nhà cấp 4 tọa lạc tại tổ 38, KV 4, phường Quang Trung, TP Quy Nhơn để lấy tiền trả nợ. Tuy nhiên, cũng trong thời gian này, Đội THADS TP Quy Nhơn (nay là Chi cục THADS TP Quy Nhơn) kê biên ngôi nhà của bà Thông để bán đấu giá.

Tháng 6.2000, Đội THADS TP Quy Nhơn tổ chức bán đấu giá ngôi nhà của bà Thông. Cuộc bán đấu giá chỉ có 2 người tham gia là ông Phạm Kiều và một người khác. Điều đáng nói, qua các lần “bỏ phiếu kín”, số tiền “đấu giá” của 2 người đều bằng nhau. Đến lần “bỏ phiếu” thứ 3, ông Kiều đã “trúng” với số tiền 14,5 triệu đồng. Sau khi đấu giá trúng ngôi nhà, ông Kiều được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất và Quyền sở hữu nhà; sau đó, ông Kiều chuyển nhượng ngôi nhà cho ông Đồng Văn Mạc.

Phát hiện dấu hiệu bất thường của cuộc đấu giá, bà Thông gửi đơn khiếu nại đến các cơ quan chức năng đề nghị điều tra, làm rõ. Kết quả, Cục Quản lý THADS - Bộ Tư pháp và Viện KSND tỉnh phát hiện những vi phạm trong việc đấu giá ngôi nhà của bà Thông. Do đó, cơ quan THADS tỉnh buộc phải ra quyết định hủy kết quả cuộc đấu giá.

Đồng thời, UBND tỉnh cũng ra quyết định hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và Quyền sở hữu nhà ở đã cấp cho ông Kiều; hủy bỏ việc chuyển nhượng đất và nhà ở mà ông Kiều thực hiện với ông Mạc. Bà Thông đã nộp đủ số tiền đã nợ ông Kiều cho Chi cục THADS TP Quy Nhơn; thế nhưng, bà Thông vẫn không được nhận lại ngôi nhà của bà, vì ông Mạc nhất quyết không trả lại nhà.



Văn bản số 1556/UBND-TN ngày 22.8.2011 của UBND TP Quy Nhơn về việc giao đất có thu tiền đối với trường hợp bà Thông.




...đến cách giải quyết hời hợt

Đến tháng 9.2007, bà Thông gửi đơn tới cơ quan THADS tỉnh yêu cầu bồi thường những thiệt hại mà THADS TP Quy Nhơn gây ra xuất phát từ việc tổ chức bán đấu giá không đúng với quy định pháp luật ngôi nhà của bà.

Sau nhiều lần làm việc, xem xét, vào năm 2011, các ngành chức năng của TP Quy Nhơn, tỉnh và Trung ương định giá giá trị ngôi nhà của bà Thông là 600 triệu đồng. Với giá trị này, bà Thông được nhà nước quy đổi bằng 1 lô đất có diện tích 58,8m2, tọa lạc tại khu quy hoạch dân cư tổ 2, KV 5, phường Nhơn Phú, TP Quy Nhơn trị giá 294 triệu đồng. Ngoài ra, bà Thông tiếp tục nhận được số tiền chênh lệch còn lại là 306 triệu đồng.

Mãi đến tháng 7.2015, các cơ quan Trung ương mới hoàn thành việc bổ sung dự toán ngân sách nhà nước số tiền trên 655,4 triệu đồng để Chi cục THADS TP Quy Nhơn bồi thường thiệt hại cho bà Thông. Ngày 12.8 vừa qua, Chi cục THADS TP Quy Nhơn mời bà Thông tới thông báo, lập thủ tục chi trả số tiền trên 655,4 triệu đồng (gồm tiền giá trị ngôi nhà và tiền thuê nhà ở từ ngày 13.10.2000 đến tháng 3.2015).

Bà Thông đồng ý nhận số tiền này, đồng thời xin nộp lại số tiền 294 triệu đồng là tiền giá trị lô đất có diện tích 58,8m2, tọa lạc tại khu quy hoạch dân cư tổ 2, KV 5, phường Nhơn Phú. Thế nhưng, Chi cục THADS TP Quy Nhơn không nhận số tiền bà Thông xin nộp lại. Do đó, bà Thông chưa đồng ý nhận tiền; việc bồi thường thiệt hại cho bà Thông chưa được giải quyết dứt điểm.

"
…Việc chấp hành viên Chi cục THADS TP Quy Nhơn bán đấu giá nhà, đất của bà Đặng Thị Thông tại tổ 38, KV 4, phường Quang Trung để bảo đảm thi hành án có thiếu sót, gây thiệt hại cho bà Thông… nên phải bồi thường, khắc phục theo luật định ...
Ông HÀ HÙNG CƯỜNG - Bộ trưởng Bộ Tư pháp"


Theo đại diện Chi cục THADS TP Quy Nhơn, thì: Chi cục không nhận số tiền bà Thông gửi theo giá trị lô đất là 294 triệu đồng. Nếu bà Thông không nhận tiền bồi thường, Chi cục THADS TP Quy Nhơn sẽ gửi tiền vào ngân hàng (gửi tiết kiệm không kỳ hạn); đồng thời, báo cáo Cục THADS tỉnh và Tổng cục THADS - Bộ Tư pháp xin ý kiến chỉ đạo thực hiện.

Bà Thông bức xúc: “Năm 2011, Hội đồng xét duyệt và xử lý nhà đất TP Quy Nhơn tổ chức họp, thống nhất giao cho tôi 1 lô đất có diện tích 58,8m2 trị giá lúc đó là 294 triệu đồng; Cùng với đó, Hội đồng yêu cầu Chi cục THADS TP Quy Nhơn có trách nhiệm nộp tiền sử dụng đất đối với lô đất này sau khi tỉnh đồng ý giao đất và phê duyệt đơn giá sử dụng đất. Sau đó, Phó Chủ tịch UBND TP Quy Nhơn Ngô Hoàng Nam (nay là Chủ tịch UBND TP Quy Nhơn - PV) có văn bản gửi Cục THADS tỉnh thông báo rõ việc này. Vậy nhưng, nay Chi cục THADS TP Quy Nhơn chỉ chi trả tiền bồi thường thiệt hại, “quên” giải quyết việc giao lô đất cho tôi. Tôi không đồng tình cách xử lý này và sẽ tiếp tục khiếu nại đến các cơ quan cấp trên”.

Có thể thấy, vụ việc đã có chủ trương của các cấp, các ngành từ TP Quy Nhơn, đến tỉnh, Trung ương, do vậy, cơ quan THADS TP Quy Nhơn và tỉnh sớm giải quyết dứt điểm cho bà Thông để bà xây dựng nhà ở, ổn định cuộc sống.

VĂN LỰC


Bán đấu giá sai Luật : Ngân hàng Công thương chi nhánh Tây ninh bị Tòa sơ thẩm buộc bồi thường hơn 9 tỉ đồng.


Mới đây, ngày 28/9/2015 Tòa án nhân dân Thành phố tây ninh mở phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ kiện " Yêu cầu tuyên bố hợp đồng bán tai sản vô hiệu" đã tuyên xử như sau :

Áp dụng điều 137,146,147 bộ Luật dân sự.
Áp dụng nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng. Thông tư liên tịc số 03/2001/TTLT-NHNN-BTP-BTC-TCĐC ngày 24/4/2001 của Ngân hàng Nhà nước, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ tài chính và Tổng cục Địa chính về hướng dẫn xử lý tài sản bảo đảm tiền vay.
Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án năm 2009
1.- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn văn Mỹ và bà Nguyễn thị Tuyết Huệ " yêu cầu tuyên bố hợp đồng bán tài sản vô hiệu" giữa Ngân hàng TMCP Công thương Việt nam chi nhánh Tây ninh đối với đất thổ cư diện tích 234m2 tọa lạc tại phường 2, thành phố tỉnh Tây ninh; Đất thổ cư diện tích 951,8m2 tọa lạc tại phường 3, thành phố Tây ninh.
-Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn văn Mỹ và bà Nguyễn thị Tuyết Huệ yêu cầu bồi thường thiệt hại bằng giá trị quyền sử dụng đất của hai phần đất trên.
-Buộc Ngân hàng TMCP Công thương Việt nam chi nhánh Tây ninh có trách nhiệm trả cho ông Nguyễn văn Mỹ và bà Nguyễn thị Tuyết Huệ số tiền là 9.336.177.600 đồng( Chín tỷ ba trăm sáu mươi sáu triệu một trăm bảy mươi ngàn sáu trăm đồng)
Toàn văn bản án

H.ĐIỆP

Nguyệt quới – loài cây cảnh có tên gọi gây nhiều tranh luận



 Thuộc họ cam – Rutaceae, từ lâu, một số loài cây đã trở thành đặc sản nổi tiếng được cả nước biết tới, đó là quýt Hương Cần, cam Mỹ Lợi, thanh trà Nguyệt Biều – Lương Quán. Trong khi nhiều gia đình trồng cây ăn quả của địa phương chăm chút bảo tồn, phát triển những loài cây ăn quả đặc sản đó như một báu vật của tiền nhân, thì nhiều nghệ nhân cây cảnh lại nâng niu một loài cây khác cũng trong họ cam là cây nguyệt quới.
Đây là một loài cây gỗ nhỏ hoặc cây bụi lớn thường xanh, cao 2-4 m, vỏ trắng hay trắng xám. Lá kép lông chim mang 7 lá chét (phụ) nhỏ thơm, trơn nhẵn. Hoa trắng, thường trổ về đêm, hương thơm ngạt ngào. Quả hình trái xoan có mũi hơi nhọn, kích cỡ cũng tương đương trái xoan (sầu đông), khi chín có màu đỏ thắm.

Nguyệt quới còn có tên là nguyệt quý, là một loài cây bản địa, thường mọc tự nhiên ở các rừng còi ở một số tỉnh phía Bắc và Thừa Thiên Huế. Nó cũng có mặt ở một số nước Đông nam Á.

Hoa và quả cây nguyệt quới
Tên khoa học của nguyệt quới là Murraya paniculata, tên tiếng Anh là orange jasmine, orange jessamine, chalcas. Trong hai tên gọi tiếng Việt vừa nêu, nguyệt quới ít gây nhầm lẫn hơn. Khi gọi nguyệt quý nhiều người biết tiếng Hán thường nghĩ về một loài hoa hồng, vì tên tiếng Hán gọi loài hoa hồng này là “nguyệt quý hoa 月季花”, tên khoa học là Rosa chinensis. Bài thơ “Vịnh nguyệt quý hoa 咏月季花” của vua Minh Mạng trong Minh Mạng sơ tập cũng mô tả loài hoa hồng này. Có lẽ vì lí do này mà dân gian đã gọi trại cây nguyệt quý trong họ Cam thành nguyệt quới nhằm tránh sự nhầm lẫn; cũng có thể do âm ngữ của miền Nam đã chuyển nguyệt quý thành nguyệt quới theo cách giải thích của học giả An Chi (http://nguoidothi.vn/…/rong-choi-mien-chu…/quoi-ma-khong-que).
Ngoài ra, trong một số tài liệu, nguyệt quới còn được gọi là nguyệt quế. Cách gọi này cũng gây nhầm lẫn, khiến nhiều người nghĩ về một loài cây cho hoa màu vàng thuộc họ long não – Lauraceae, đó là loài Laurus nobilis, có nguồn gốc ở Đông Âu, trồng làm gia vị, tiếng Hán là “nguyệt quế 月桂”.
Hiện nay, loài nguyệt quới rất quen thuộc với giới chơi cây cảnh ở nhiểu tỉnh thành trong nước và nó cũng thường được chào hàng mua bán trên mạng, trong số đó một số trang web đã dùng tên nguyệt quế, dần dần gây nhiễu thông tin khiến nhiều người vốn không có khả năng phân biệt hai cây này ngày càng rối rắm.
Đa số nghệ nhân chơi cây cảnh ở Huế đã biết rõ cây nguyệt quới và cả hai tên gọi nguyệt quới, nguyệt quý vẫn được dùng đồng hành, ít ai gọi là nguyệt quế. Nhiều tao nhân mặc khách, nhiều nhà nghiên cứu phong thủy hoặc người có thú vui chơi cây cảnh ở Huế vẫn biết nguyệt quới (quý) là cây đứng hàng thứ tư trong bộ “Sung mãn quan quới (quý)”.
Ở Huế, chúng ta rất dễ tìm gặp cây nguyệt quới, vì nó thường được trồng phổ biến ở khuôn viên các chùa Phật giáo, ở nhiều nhà vườn tư thất từ trong thành phố đến vùng nông thôn. Cây được trồng đất hay trồng chậu. Có thể nhân giống cây nguyệt quới bằng nhiều cách: gieo hạt, chiết, ghép hoặc giâm cành.
Ngoài tác dụng làm cảnh, cây còn được sử dụng làm thuốc chữa trị đòn ngã tổn thương, phong thấp đau xương, đau dạ dày, đau răng, tiêu chảy, kiết lị, sâu bọ và rắng cắn. Nhiều gia đình trồng cây nguyệt quới trước sân nhà, hằng ngày sau bữa ăn bẻ cành nhỏ để xỉa răng, cho rằng ngừa được chứng đau răng, viêm lợi.
Đỗ Xuân Cẩm

Thứ Bảy, 14 tháng 11, 2015

Dự thảo Luật Báo chí bảo hộ mạnh mẽ cho cơ quan báo chí, nhà báo



Dự thảo Luật Báo chí đang được Quốc hội thảo luận lần này bảo hộ mạnh mẽ cho cơ quan báo chí, nhà báo. Cụ thể như báo chí có quyền tiếp cận thông tin, báo chí không bị kiểm duyệt, có quyền bảo vệ nguồn tin, bảo vệ trong tác nghiệp...

Hôm nay (14.11), Quốc hội sẽ tiến hành thảo luận tổ về dự án Luật báo chí (sửa đổi và bổ sung). Thứ trưởng Bộ TT&TT Trương Minh Tuấn đã dành cho chúng tôi một cuộc trao đổi xung quanh dự luật đang được trình lên Quốc hội trong kỳ họp này.

- Xin Thứ trưởng cho biết một số điểm mới trong Dự án Luật Báo chí hiện đang được thảo luận tại kỳ họp Quốc hội lần này?

- Thứ trưởng Trương Minh Tuấn: Dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi bổ sung) trình lên Quốc hội lần này nhằm đáp ứng nhu cầu thực tế của việc phát triển báo chí; đáp ứng yêu cầu của Hiến pháp năm 2013 về quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận và tiếp cận thông tin mà Luật Báo chí năm 1999 không còn phù hợp, thiếu tính khả thi. Có rất nhiều điểm mới trong Luật Báo chí đang được thảo luận tại Quốc hội, nhưng tôi chỉ nói chung, tinh thần của dự luật này là tiến bộ. Đây là kênh hợp pháp, có hệ thống và trật tự cho việc phát triển của báo chí theo nhu cầu xã hội thông tin.

- Thưa Thứ trưởng, những tiến bộ trong Dự án Luật báo chí mà Thứ trưởng vừa đề cập đó sẽ mang lại lợi ích cụ thể gì?


- Thứ trưởng Trương Minh Tuấn: Dự thảo Luật Báo chí đang được Quốc hội thảo luận lần này bảo hộ mạnh mẽ cho cơ quan báo chí, nhà báo. Cụ thể như báo chí có quyền tiếp cận thông tin, báo chí không bị kiểm duyệt, có quyền bảo vệ nguồn tin, bảo vệ trong tác nghiệp, một số loại hình báo chí và cơ quan báo chí được liên kết… Đối tượng hưởng lợi khác là người đọc sẽ được thụ hưởng thông tin đa dạng hơn, phong phú hơn, được quyền phản biện trên báo chí… Ở tầm vĩ mô hơn, báo chí hiện nay có sự ảnh hưởng rất quan trọng nên việc mở rộng quyền sẽ mang lại nhiều lợi ích khác trong việc xây dựng một xã hội nhân văn, dân chủ, đóng góp nhiều cho lợi ích dân tộc và phát triển đất nước.

Ảnh minh họa. Nguồn Internet


- Lâu nay một số vấn đề chưa có trong luật như việc liên kết nhưng đã được các cơ quan báo chí thực hiện nhờ những văn bản dưới luật, xin Thứ trưởng cho biết khi được đưa vào luật thì có gì khác nhau không?

- Thứ trưởng Trương Minh Tuấn: Khác nhau là nó được chính thức công nhận. Liên kết sản xuất nội dung trước đây thực hiện với báo nói, báo hình và nay sẽ có thêm báo điện tử. Tôi khẳng định xã hội hoá là chủ trương đúng, mang lại nhiều nguồn lợi cho cơ quan báo chí và Nhà nước. Chủ trương này được khuyến khích và tạo điều kiện trong thời gian qua. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện nó đã bộc lộ vấn đề xung đột lợi ích cần phải điều chỉnh, nhất là đối với báo hình. Ngoài một số chương trình làm phong phú thêm nội dung, hữu ích với cộng đồng, nhiều chương trình khác đơn vị liên kết chỉ chạy theo lợi nhuận, thiếu trách nhiệm xã hội. Khán giả và báo chí đã từng kêu ca việc suốt ngày bị xem phim Trung Quốc, phim Hàn Quốc, những phiên bản games show nhảm nhí, vong bản… Luật cho phép liên kết những cũng tăng cường trách nhiệm đối với cơ quan báo chí thực hiện liên kết.

- Với tư cách là đại diện cho cơ quan quản lý nhà nước, Thứ trưởng có gửi gắm gì với các cơ quan báo chí, nhà báo khi dự án Luật Báo chí (sửa đổi bổ sung) đang được Quốc hội thảo luận và xem xét thông qua?

- Thứ trưởng Trương Minh Tuấn: Tôi hy vọng Luật Báo chí khi được thông qua sẽ là nền tảng cho sự phát triển báo chí mạnh mẽ trong thời gian tới. Báo chí Việt Nam sẽ bắt kịp xu hướng thời đại, đóng góp nhiều cho xã hội.

Đây là dự án luật quan trọng, ảnh hưởng đến quyền lợi thiết thực đối với cơ quan báo chí và nhà báo nên trong thời gian Quốc hội thảo luận, xem xét thông qua, các cơ quan báo chí tiếp tục phân tích góp ý theo tinh thần khoa học, phản biện và mang tính xây dựng. Trong thời gian thực hiện dự án xây dựng Luật Báo chí này, chúng tôi đã mở rộng toàn diện các kênh góp ý cho bản dự thảo. Quyền lợi luôn đi với nghĩa vụ và trách nhiệm, vì thế các cơ quan báo chí cần phải tăng cường trách nhiệm, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật trong thời gian tới. Tôi cũng hy vọng tình trạng lạm quyền như báo chí thay mặt toà án kết tội, xâm phạm đời tư, gây tổn hại danh dự tổ chức, cá nhân… là những nhóm vi phạm chính hiện nay sẽ bị xoá bỏ trong thời gian tới. Cơ quan báo chí hoạt động dựa vào Luật Báo chí sẽ có những phương thức ứng xử văn minh và tránh sử dụng những phương thức “rừng rú” như tình trạng lạm quyền hiện nay.

- Xin cảm ơn Thứ trưởng!

T.Anh

VỀ TRÌNH ĐỘ VĂN HÓA CỦA PHONG TRÀO DÂN CHỦ VIỆT NAM




Tôi quan ngại sâu sắc về trình độ văn hóa của phong trào dân chủ Việt Nam. Việc nó giống phong trào dân chửi hơn phong trào dân chủ thì nhiều người đã nói rồi, không cần nhắc thêm nữa. Văn hóa đấu đá nội bộ, bòn rút công quỹ, chat sex, lừa tình và đánh ghen của phong trào thì cũng đã quen thuộc. Giờ sẽ bàn về thị hiếu sách vở, cùng gu âm nhạc và thẩm mỹ của các nhà đấu tranh.

Các nhà dân chủ Việt Nam đang đọc gì? Mấy năm gần đây, có hai cuốn sách được cả phong trào săn đón, truyền tay, tụng ca và tôn sùng như kinh thánh. Đầu tiên, phải kể đến cuốn "Bên Thắng Cuộc". Khi cuốn sách này ra mắt, nhiều nhà hoạt động tai to mặt lớn đã vỗ đùi đen đét rồi viết trên mạng: "Ai chưa đọc Bên Thắng Cuộc thì chưa thể coi là thức tỉnh!", "Phải làm sao cho mọi người Việt Nam đều được đọc Bên Thắng Cuộc!", "Chưa đọc Bên Thắng Cuộc thì chưa biết Việt Nam!". Trong mọi cuộc gặp gỡ, người ta hỏi nhau "đã đọc bên thắng cuộc chưa" như một câu chào. Nhìn cảnh này, ta không khỏi nghĩ rằng Bên Thắng Cuộc là một kiệt tác hội tụ toàn sự thật và chân lý.

Nhưng thực tế ngược lại. Bên Thắng Cuộc, khách quan mà nói, chỉ là một cuốn hồi ký kèm ghi chép đồn đại về những chuyện thâm cung bí sử trong nội bộ đảng Cộng sản Việt Nam. Các nhà hoạt động chống Cộng coi truyện thâm cung bí sử của đảng Cộng sản là ngọn nguồn thức tỉnh, là cuốn sách mà mọi người Việt Nam phải đọc, đó đã là một chuyện hết sức buồn cười. Nhưng càng buồn cười hơn, khi cuốn hồi ký này được viết không khách quan cho lắm. Nhìn nội dung sách và tiến trình hoạt động của Huy Đức mấy năm gần đây, ai cũng hiểu Bên Thắng Cuộc chẳng khác gì cuốn phúc âm mà một người phe Võ Văn Kiệt viết ra để vừa rửa tội, vừa tâng bốc ông này và phe này. Tính toán chính trị của Huy Đức và phe cánh đứng đằng sau đã quá lộ liễu. Vậy mà phong trào dân chủ vẫn võ đùi hét lên "Sự thật đây rồi!", rồi tôn thờ nó là "cuốn sách mà mọi người Việt Nam đều phải đọc", thì chỉ có thể có ba trường hợp. 
Thứ nhất, là đa số các nhà dân chủ quá gà và dốt, không biết gì về chính trị, nên dễ dàng bị Huy Đức dắt mũi kéo đi. 
Thứ hai, là nhiều nhà dân chủ chiếu trên hoặc bị mua chuộc, hoặc là chân gỗ do phe Võ Văn Kiệt cài vào để giật dây phong trào. 
Thứ ba, là các nhà dân chủ biết nhưng cứ giả đò không biết.
 Bên Thắng Cuộc có phản ánh sự thực không, họ không quan tâm, họ chỉ cần biết rằng cuốn sách này cho họ cái cớ để chửi rủa và bêu xấu Cộng sản.

Trường hợp đầu tiên buộc chúng ta phải kết luận rằng các nhà dân chủ Việt Nam ngu như bò, chỉ đọc toàn những văn hóa phẩm hạng bét, nên mới gặp Bên Thắng Cuộc đã vội thờ như thánh kinh.

Trong trường hợp thứ hai, chúng ta nên đổi tên phong trào dân chủ Việt Nam thành Đoàn Thanh niên Dân chủ Võ Văn Kiệt cho đúng thực tế. Và để cho đúng thực tế, cuốn Bên Thắng Cuộc cũng nên đổi tên thành Vừa Đi Đường Vừa Kể Chuyện, hoặc Những Mẩu Chuyện Về Đời Hoạt Động Của Võ Chủ Tịch.

Trong trường hợp thứ ba, ta đành phải kết luận rằng các nhà dân chủ Việt Nam bất chấp thủ đoạn, phong trào dân chủ Việt Nam khinh rẻ sự thật và tri thức. Loại người này chuyên lấp liếm sự thật và bóp méo lịch sử để củng cố quyền lực. Và thực tế cho thấy dù còn lâu mới nắm được quyền bính, các nhà dân chủ Việt Nam đã thường lấp liếm sự thật và bóp méo lịch sử như một thói quen.

Kinh thánh thứ hai của phong trào dân chủ là cuốn Từ Dân Chủ Đến Độc Tài. Cuốn này được viết bởi một vị có cả rổ liên hệ với CIA, dựa trên lời cố vấn của một cựu sĩ quan quân đội Mỹ. Tên sách là Từ Dân Chủ Đến Độc Tài, nhưng nói một cách khách quan thì đây là sách dạy lật đổ. Nội dung chính của sách là những kỹ thuật sách động đám đông, điều khiển đám đông, và lật đổ chính quyền bằng đám đông. Ai hiểu cuốn sách, sẽ thấy những kỹ thuật này dùng để lật đổ chính quyền nào cũng được, bất kể dân chủ hay độc tài. Còn việc xây dựng một thể chế dân chủ phức tạp ra sao, thì không thấy sách phân tích mấy.

Theo tôi, những vị tôn thờ cuốn sách này nên đổi tên nó thành Từ Lật Đổ Đến Lật Đổ, hoặc để cho gọn ghẽ hơn, thành Đường Kách Mệnh.

Cá nhân tôi tin rằng so với cuốn Từ Lật Đổ Đến Lật Đổ, thì bộ sách về lý thuyết chuyển đổi chế độ mà ông Quang A đang dịch và quảng bá nhiều lần đáng đọc hơn. Nó tương đối khách quan, đa chiều và hữu dụng cho tiến trình thay đổi của đất nước. Trong khi đó, Từ Lật Đổ Đến Lật Đổ của Gene Sharp chỉ đơn thuần là một sách dạy kỹ thuật phá hoại và đóng kịch để giành chính danh. Nó dạy người Việt Nam trở thành một công cụ của Mỹ hơn là một tác nhân mang lại đổi thay tích cực và lâu dài cho đất nước.

Nếu phong trào dân chủ vẫn coi cuốn này là thánh kinh, thì ta đành kết luận rằng các nhà dân chủ Việt Nam chỉ có trình độ văn hóa của những con người công cụ.

Trong bộ bí kíp cướp chính quyền mang tên "Từ Độc Tài Đến Dân Chủ", Gene Sharp có đề cập đến việc sử dụng âm nhạc đường phố để tập hợp, sách động và điều khiển đám đông. Rập khuôn lời dạy của đức thánh hiền, phong trào dân chủ Việt Nam quyết tâm nặn ra bằng được một nghệ sĩ đường phố. Vị này, người trong phong trào đều đã quen tên: Tạ Trí Hải.

Nhưng tôi e rằng ông Hải không phải là nghệ sĩ đường phố, mà là người hát rong.

Thứ nhất, ông Hải không có kĩ năng chơi nhạc của một người nghệ sĩ thực sự. Thẳng thắn và khách quan mà nói thì ông chơi dở như hạch, không thể thưởng thức, nghe chỉ tổ hại lỗ tai. Ngay đến một yêu cầu tối thiểu là không chơi sai nốt nhạc, ông Hải cũng chưa thể làm. Vậy thì sao có thể tự phong là một nghệ sĩ?

Thêm nữa, trên mọi vỉa hè của thế giới, có lẽ chẳng có "nghệ sĩ đường phố" nào lại lạm dụng loa, và bật loa to khủng khiếp như ông Hải. So tiếng saxophone trên vỉa hè Paris với tiếng loa inh ỏi của ông Hải ở một góc hồ Hoàn Kiếm, đố ai không thừa nhận ông Hải không giống nghệ sĩ đường phố, mà giống một gã đẩy xe hàng hát rong. Tôi chẳng mong ông Hải đấu tranh cho tự do dân chủ nhân quyền, tôi chỉ ước ông đấu tranh chống ô nhiễm tiếng ồn ở Hà Nội.

Thứ hai, công việc của nghệ sĩ đường phố là mang cái đẹp đến cho mọi người. Trong những bản nhạc mà ông Hải hay chơi, tôi chưa từng thấy bài nào có giai điệu đẹp. Hơn nữa, ông Hải cũng không chơi nhạc vì cái đẹp. Theo lời quảng cáo của các nhà dân chủ Việt Nam và lời thừa nhận của chính ông Hải, thì ông chơi nhạc vì mục đích chính trị, âm nhạc chỉ là công cụ để phục vụ lí tưởng chính trị của ông. Trên điểm này, ông Hải không giống một nghệ sĩ đường phố, mà giống một cái loa tuyên truyền gào thét trên vỉa hè.

Thứ ba, người nghệ sĩ đích thực phải tạo ra cái mới. Ông Hải không sáng tác được, thì chỉ là một nhạc công chưa thạo việc thôi, không nên tự phong là một nghệ sĩ thực thụ.

Bởi vậy, thay vì nói rằng phong trào dân chủ Việt Nam có một nghệ sĩ đường phố, ta phải nói rằng nó có một cái loa tuyên truyền hát rong.

Ngoài ra, tôi thấy ông Hải không hề nổi tiếng nhờ tài năng nghệ thuật của mình. Thẳng thắn với nhau đi, chắc bạn cũng thầm cho rằng ông này nổi tiếng nhờ ăn ảnh. Hôm nọ ông Quang A thách chính quyền Việt Nam, thì giờ tôi xin học theo mà thách ông Hải. Tôi thách ông Hải cạo râu nhẵn nhụi và vĩnh viễn không đội cái mũ cao bồi của ông. Nếu chẳng còn ai chú ý đến ông sau khi ông mất râu và mũ, thì hẳn là người ta thích ông không phải vì tài năng nghệ thuật, mà chỉ vì ông có mũ đẹp dâu dài rồi. Ô hô, nghệ sĩ đường phố đích thực của phong trào dân chủ Việt Nam không phải con người, mà chỉ là một bộ râu và một cái mũ!

Chỉ như vậy mà hội này, đoàn nọ xúm xít khen hay, rồi phong làm "tiếng đàn yêu nước của dân tộc", thì gu thẩm mỹ âm nhạc của phong trào dân chủ Việt Nam quả thực đáng sợ.

Thật vậy, trong những "bài hát yêu nước" mà phong trào tua đi tua lại mỗi lần hội họp, như "Việt Nam tôi đâu" và "Triệu con tim", cả tính nghệ thuật lẫn cái đẹp đều tuyệt đối vắng bóng. Chúng là những giai điệu và ca từ kinh khủng, được chơi bằng lối hòa âm kinh khủng và giọng hát kinh khủng. So những bài hát này với vài ca khúc đỉnh cao trong kho tàng nhạc thời chiến của đảng Cộng sản, như "Người Hà Nội", "Hướng về Hà Nội", "Trường ca sông Lô" hoặc "Mùa xuân đầu tiên", ta lập tức hiểu rằng trình độ văn hóa của phong trào chống Cộng Việt Nam hẵng còn kém xa Cộng sản.

Nhưng bài hát mà các "biểu tình viên" tua đi tua lại nhiều nhất lại là một bài thơ Tố Hữu: "Dậy mà đi".

Nhưng thôi, cũng chẳng trách làm gì, vì chuyện này có lẽ họ không biết.
[Nhà Dân Chủ]

Thứ Sáu, 13 tháng 11, 2015

Bảy tội lỗi xã hội





Mahatma Gandhi là một chính khách vĩ đại, một nhà hiền triết của Ấn Độ, người được Liên hiệp quốc vinh danh. Chẳng hiểu sao mỗi khi nghĩ về hiện tình của đất nước làm tôi nhớ đến Gandhi, người đã từng cảnh báo thế giới về cái mà ông gọi là Bảy Tội Lỗi Xã Hội (Seven Social Sins) mà ông viết ra từ năm 1925, đúng 90 năm trước:



1. Làm giàu mà không nhờ lao động (Wealth without work)
2. Hưởng lạc thú mà không có lương tâm (Pleasure without conscience)
3. Có kiến thức mà không có nhân cách (Knowledge without character)
4. Làm thương mại mà không có đạo đức (Business without morality/ethics)
5. Khoa học mà không có nhân văn (Science without humanity)
6. Có tín ngưỡng mà không hi sinh (Worship without sacrifice)
7. Làm chính trị mà không có nguyên tắc (Politics without principles)





Chúng ta thử xem xét nhanh những tội lỗi này xem sao:


1. Làm giàu không nhờ lao động: 


Hiện nay, có một nhóm người làm giàu rất nhanh, không phải nhờ kinh doanh giỏi hay làm việc tốt, mà qua quan hệ và hậu duệ. Họ chỉ cần dùng mánh khoé để lôi kéo, "qui hoạch" nhân sự và thế là tạo ra tài sản. Một số thì làm giàu nhờ quan hệ nên tiếp cận được và khai thác tài nguyên thiên nhiên. Một số khác thì làm ra tiền nhờ vào lợi dụng thông tin trong để thao túng thị trường chứng khoán. Một số khác thì làm giàu nhờ tham nhũng, chẳng cần tốn công lao động gì cả. Một vị tướng đã từng nói rằng "Làm cán bộ mấy năm mà trong nhà có vài ba trăm tỉ đồng, thậm chí cả ngàn tỉ đồng thì lấy ở đâu ra nếu không tham nhũng. Có một đội ngũ giàu rất nhanh, cưỡi lên đầu nhân dân, còn kinh khủng hơn địa chủ, tư sản ngày xưa". Loại giàu nhanh mà không lao động này thì không nhiều ở VN, nhưng vì họ quá giàu nên có khả năng gây ảnh hưởng xấu đến đất nước.


2. Hưởng lạc thú mà không có lương tâm:

Đây là những người ích kỉ, lúc nào cũng muốn hưởng lợi cho cá nhân mà không quan tâm đến phúc lợi của người khác. Đối với họ, câu hỏi đầu tiên là "Tôi làm cái này sẽ có lợi gì cho tôi, việc này có giúp tôi thăng tiến trong sự nghiệp, có làm cho tôi giàu thêm", và quyết định hành động của họ cũng dựa trên câu hỏi đó. Họ không quan tâm đến người khác, không cần biết đến văn hoá "to give and to take", không cần có trách nhiệm xã hội và chẳng biết đến hiến dâng là gì. Những người này rất nhiều ở VN.


3. Có kiến thức mà không có nhân cách: 

Có ít kiến thức đã là một thiệt thòi, có khi là nguy hiểm, nhưng có nhiều kiến thức mà thiếu nhân cách thì còn nguy hiểm hơn. Chỉ học cho nhiều để có kiến thức mà không cần quan tâm đến cái nội tâm, thì chẳng khác gì đưa một chiếc xe hơi thể thao cho một thiếu niên. Điều này cũng xảy ra trong thế giới khoa bảng, nơi mà người ta thường quan tâm đến sản sinh ra tri thức mới nhưng ít khi nào để ý đến khía cạnh nhân văn của tri thức. Ở VN, có nhiều người đi học để tiếp thu kiến thức không phải vì dấn thân xã hội, mà vì muốn ăn trên ngồi trốc, muốn cưỡi lên đầu cổ nhân dân. Họ hám danh chứ không phải ham học.


4. Làm thương mại mà không có đạo đức: 

Ngay cả những nhà kinh tế học cổ điển cũng xem đạo đức là nền tảng của thành công trong kinh tế. Cách mà chúng ta đối xử với người khác trong tinh thần bác ái, phục vụ và cống hiến là nền tảng của kinh tế - xã hội.  Đã có những ý tưởng kiểu như phải cách li người nghèo khỏi người giàu, và ý tưởng này được nhiều người ủng hộ. Sự ủng hộ đó cho thấy xã hội VN đã bắt đầu loạn chuẩn. Những người nhận định như thế dựa trên quan sát rằng có những nhóm lợi ích tỏ ra tham lam vô độ, luôn luôn muốn thao túng kinh tế. Có người cho rằng các nhóm lợi ích, nhóm làm giàu bất chính đang tàn phá đất nước.


5. Khoa học mà không có nhân văn:

Kinh doanh mà không dựa trên nền tảng đạo đức xã hội và không xem trọng trách nhiệm xã hội là loại kinh doanh nguy hiểm. Tương tự, trong khoa học, tiêu chuẩn đạo đức và trách nhiệm cũng là một tiêu chí quan trọng. Một công trình nghiên cứu cho dù mang tính khả thi cao và có ý tưởng tốt, nhưng làm phương hại đến cộng đồng và xã hội vẫn không được đánh giá là đạt chuẩn mực. Chính vì bản chất đạo đức của khoa học, nhà khoa học còn phải có trách nhiệm với xã hội, vì nhà khoa học cũng chỉ là một thành viên trong xã hội, không thể nào đứng ngoài hay đứng cao hơn xã hội. Công trình tạo ra chủng virút mới của Tàu có thể đó là một thành tựu về kĩ thuật, nhưng không đạt tiêu chuẩn về đạo đức và trách nhiệm xã hội vì thành tựu đó chẳng đem lại phúc lợi gì cho xã hội hay giúp giảm sự đe dọa của một đại dịch. Ở VN, khoa học chưa phát triển, nhưng đây đó có nhiều người ta dùng khoa học để làm những chuyện thiếu đạo đức.


6. Có tín ngưỡng mà không hi sinh:

Nhìn từ ngoài và từ xa, Việt Nam là một nước ngoan đạo, với số lượng chùa chiền và nhà thờ khá nhiều. Người ta đi lễ hội và đi chùa cũng rất nhiều. Nhưng nếu nhìn kĩ thì việc viếng chùa của họ không phải là vì thờ phượng, mà chủ yếu là mê tín, và hối lộ thần thánh. Có thể nói rất nhiều người đến chùa để cầu thần thánh ban cho chức tước và hanh thông trong sự nghiệp, chứ chẳng phải để thờ phượng và hiến dâng. Ngay cả những người trụ trì trong chùa chưa chắc là người tu hành thật, mà có thể đang đóng một vai diễn nào đó để phục vụ cho một thế lực đang chống lưng họ. Có thể nói rằng cái nền tảng tôn giáo ở VN đã bị xói mòn từ hơn 40 năm qua.


7. Làm chính trị mà không có nguyên tắc: 

Đối với Gandhi, những người ham quyền lực thường hành động bất chấp nguyên lí và chân lí. Những người cố vị (nhất định bám ghế) bằng mọi giá và mọi cách là những chính trị gia không có đạo đức. Những nguyên tắc trong chính trị mà Gandhi nghĩ đến bao gồm giúp người dân đi đến những lựa chọn sáng suốt, đối xử với dân một cách công bằng, giữ lời hứa và tuân thủ những gì đã đồng ý, không được nói dối và xuyên tạc, và tôn trọng nhân quyền. Ở VN, những người như thế này thật là ... xưa nay hiếm.


Đối chiếu lại thực tế những gì đang xảy ra, có thể nói là Việt Nam đang -- không nhiều thì ít -- phạm phải tất cả 7 tội lỗi này. Một thiết chế xã hội tạo ra những con người làm giàu không nhờ lao động và bất chấp đạo đức, những người thích hưởng thụ trên sự đau khổ của đồng bào, những người bằng cấp đầy mình nhưng thiếu nhân cách, những người buôn bán và hối lộ thần thánh, những người cầm quyền mà chẳng quan tâm đến sự thật và lợi ích của xã hội và dân tộc. Bảy nhóm người này hay 7 cái tội lỗi xã hội này đang làm cho đất nước ta tiêu điều và khó sánh vai với các nước văn minh trên thế giới.

Nguyễn Văn Tuấn

Những ngôi sao thầm lặng


 hoạ sĩ Đỗ Đức

 Mẹ tôi kể: -Hồi mẹ còn bé, trước ngõ Rạnh trong làng có ông lão mù bán rượu, ông rót rượu đến là tài. Rượu đong cho khách ông ao vào cái cút nhỏ, vừa rót vừa nghe ngóng, rồi ghé miệng thôi phù đọc ra ngay lượng rượu và qui ra tiền. Có lần người qua đường nghe kháo ông tài, bèn thách nếu rót rươu được qua lỗ đồng xu đặt ở miệng chai thì ông được đồng bạc hoa xòe, còn thua sẽ mất cút rượu. Ông nhận lời và cuối cùng thắng cuộc. Em tôi kể: – Anh ơi, lái Hồng chết rồi. – Lái Hồng là ai, anh không biết. – Lái Hồng buôn trâu thịt nổi tiếng cả huyện mấy chục năm nay ở đất Đại Từ mà anh không biết à. Lái Hồng mù từ lúc còn bé do bị đậu mùa chạy hậu. Lớn lên ông theo nghề buôn trâu thịt. Trâu mua về rồi thuê người thịt bán. Mỗi lần xem trâu, ông sờ mõm vuốt sừng rồi rê tay qua cổ, vuốt qua sống lưng xoa tay qua bụng trâu …Cuối cùng vỗ đét mông trâu, phán: “Con này tạ rưỡi thịt”, “con này một tạ”. Chủ trâu nào cũng phải chịu là ông ước lượng rất chuẩn. Nhưng phải đến khi kiểm tra thợ sơn tường mới thấy ông biệt tài. Đôi tay như có mắt, ông chỉ sờ thôi mà biết chỗ nào sơn một lần, chỗ nào hai lần, chủ thầu không thể làm dối được. Rủi thay lần kiểm tra cuối, ông trượt tay khỏi lan can rơi xuống đất từ tầng bốn và tử nạn. Bạn tôi kể; -Anh ấy bị thương ở chiến trường hỏng đôi mắt. Xuất ngũ về quê không chịu ngồi yên, xoay xở mở xưởng mộc. Đi mua gỗ anh ghé mũi ngửi để nhận biết, thế mà chẳng nhầm bao giờ. Từ đinh lim sến táu trong tứ thiết mộc đến de dổi kháo sồi trong nhóm bốn, anh chỉ ngửi mà nhận ra ngay. Nhận thầu khâu mộc trong các công trình anh tự đem dây đi đo khuôn cửa về cho thợ làm theo. Vậy mà làm xong, cửa lắp khít khịt, chẳng khi nào phải sửa. Anh là ông chủ mù mà có tiền tỉ trong tay. Chuyện của tôi: Hồi còn ở Thái Nguyên tôi biết ông Hùng mũi đỏ đánh máy. Ấy là thời ngọai ngữ ít người biết, nhưng ông lại giỏi cả Anh – Pháp. Ông sống bằng đánh máy thuê. Lúc đánh máy, mắt nhìn văn bản, tay gõ phím, miệng vẫn nói chuyện với xung quanh vậy mà chẳng khi nào nhầm lẫn. Trong lúc lương đại học tháng chỉ có sáu mươi tư đồng thì vài ba tháng ông vẫn kiếm dăm dăm bảy trăm đồng tiền đánh máy thuê… Một ông nữa chẳng ai biết tên kể cả tôi, nhưng cái biệt danh “Xích khóa” thì cả thị xã biết. Khi người ta uống cà phê phin thì ông dùng ống bơ hàn thiếc chế ra cái ấm đun, cho hơi nước phun qua cà phê chảy ra ly. Nó giống như qui trình cái bình đun pha cà phê của Ý bây giờ. Ông chuyên trang trí thuê cho các hội nghị tổng kết và đặc biệt là kẻ băng rôn. Thời ấy cũng như bây giờ, băng rôn căng đầy đường. Cứ có hội họp hay tổng kết là việc đầu tiên người ta nghĩ đến băng rôn khẩu hiệu, nên việc rất nhiều. Nhận khẩu hiệu, ông đếm từng chữ cái rồi nhẩm tính sẽ kẻ một hay hai dòng. Sau đấy tấm băng rôn dài cả chục mét được ông gập gọn thành nhiều khổ đặt lên bàn. Ông ước lượng chừa đầu băng rồi bắt đầu kẻ, cứ hết khổ là gấp lại kẻ tiếp. Vậy mà kẻ xong giở ra, hai đầu băng rôn bớt lại luôn bằng nhau chằn chặn. Những năm bao cấp ấy khó khăn nhưng Xích khóa luôn dư dả tiền tiêu. Những con người tôi gặp trên đường đời đó, có người khuyết tật, có người bình thường làm những việc thông thường nhưng đều vươn tới đỉnh cao nghệ thuật của công việc. Họ đã làm nên danh giá cho bản thân mình và nuôi nổi cả gia đình . Đôi khi nghĩ về họ tôi cũng chợt thấy hổ thẹn. Mình tinh mắt, đủ hai chân tay mà làm việc còn kém cỏi. Họ mới thật là những ngôi sao!
Read more at: http://www.dongngandoduc.com/2015/07/nhung-ngoi-sao-tham-lang/

Nguyễn Huy Thiệp và việc" đưa khái niệm Nhà văn " trở về mặt đất.

Đọc tập phê bình-tiểu luận" Giăng lưới bắt chim" của Nguyễn Huy Thiệp (2008). “Một người sáng tác phải coi lý luận phê bình như sự tự ý thức của anh ta”, Nguyễn Huy Thiệp từng tự nhủ như vậy và đã làm như vậy. Dù rằng cái phần tự ý thức của tác giả còn nhiều lầm lẫn và nói chung còn là chật hẹp so với lý luận như nó phải có, song một số bài viết in trong "Giăng lưới bắt chim" có góp phần thức tỉnh nhiều người: đối với văn học mà chúng ta tưởng đã quá quen, đã đến lúc cần phải nghĩ khác.


Xuất phát từ tâm huyết

Trong giới cầm bút Việt Nam thế kỷ 20, ít thấy ai có bước vào nghề kỳ lạ như tác giả Tướng về hưu. Thoắt cái ông được tôn vinh, rồi thoắt một cái bị nếm những đòn sát thủ hiểm ác, người yếu bóng vía chắc đã không trụ nổi. Không phải ngẫu nhiên những bài gọi bằng lý luận hay nhất của Nguyễn Huy Thiệp ra đời vào mấy năm 1988 -1992. Tôi ngờ rằng trong những ngày ấy, lý luận đã trở thành bạn bầu của ông. Nó giúp ông kiểm tra lại sự trong sạch của mình mà cũng đồng thời là cái neo giúp ông giữ lấy niềm tin để tiếp tục sống và viết.
Khoảng đầu 2004, khi trong sáng tác có sự khó khăn, Nguyễn Huy Thiệp lại trở về với lý luận. Loạt bài này cũng gây ra bao khó chịu. Song khi đưa vào sách, nhà văn chỉ lược bỏ mấy câu "nặng tay", ngoài ra vẫn kiên trì những ý tưởng chính. Bởi dường như ông đã lấy cả mười mấy năm cầm bút ra để bảo đảm.


Một sự phá cách

Cho đến nay, với nhiều bạn đọc và một số đồng nghiệp, sự có mặt của văn xuôi Nguyễn Huy Thiệp vẫn là một cái gì “khạc không ra nuốt không vào”. Đọc thì có đọc, trong bụng thậm chí là say mê nữa, nhưng vẫn không muốn chính thức công nhận. Bởi so với thứ văn họ quen đọc và cái họ vẫn viết thì Nguyễn Huy Thiệp là cả một sự phá cách. Không đi theo những nền nếp cũ. Liều lĩnh. Cực đoan. Rất nhiều điều người khác chỉ thì thào nói vụng nói trộm thì ông nói buột ra, và đã nói là không hối hận.
Nhưng đó cũng chính là nhân tố làm nên chỗ mới của Nguyễn Huy Thiệp, kể cả trong các tiểu luận.

“Trừ đôi ba người thực sự xuất chúng, còn nhìn chung văn chương của các cụ ta ngày xưa và những nhà văn hiện đại ngày nay, so với các dân tộc khác, phải thừa nhận là kém cỏi” (tr. 33). Theo tập quán thông thường, những ý nghĩ như thế không ai dám viết trên mặt giấy. Nhưng Nguyễn Huy Thiệp đã viết, và nếu như không đồng ý hoàn toàn thì nhiều người đã bắt đầu thấy sự có lý của nó.
“Văn học (hôm nay - V.T.N. chú) luôn né tránh một vấn đề nan giải khó nói nhất trong xã hội: không phải khó khăn kinh tế, không phải sex, không phải là tình cảm với chiến tranh... Nó là vấn đề nhân tính. Văn học Việt Nam gần đây mất đi khả năng tưởng tượng, lãng mạn, mơ mộng và nhiệt huyết sống. Nó trở nên thực dụng ê chề lọc lõi oái oăm đôi khi đểu cáng” (tr. 272 ). “Văn học giá trị bao giờ cũng đề cao nhân tính. Một xã hội không có những tác phẩm văn học hay, không có những tác phẩm có giá trị, nghĩa là nhân tính ở đấy đang bị xói mòn đang bị mất dần đi. Trách nhiệm đó không phải chỉ ở một người nào mà nó ở toàn xã hội” (tr. 284). Vượt lên khá xa ngay cả với những lời chỉ trích nhăng nhít mà đầy ác ý, những nhận xét như thế làm nhức nhối lòng người và đặt ra những vấn đề nghiêm chỉnh bậc nhất cho việc xây dựng đời sống tinh thần hiện nay.


Đưa khái niệm nhà văn trở về với mặt đất

Không ít nhà văn ở ta tự coi mình là những đấng siêu phàm, là lương tâm của đất nước và trong những ngày tháng này đang lao động cật lực để phục vụ xã hội giáo hoá nhân dân! Tác giả Tướng về hưu đưa ra cách hiểu thực tế hơn. Những khi bàn về người làm nghề, những chữ xuất hiện dưới ngòi bút ông thường là: sơ xuất, nhầm lẫn, sự bắt chước lố bịch, vị kỷ, hư đốn, đểu cáng, bất lương - toàn những “đức tính” khiến người ta ghê ghê. Một lần khác ông nói toẹt ra: “Khoảng hơn chục năm trở lại đây trở lại đây ở Việt Nam không có những nhà văn có phong độ khí phách lớn. Đến ngay cả nỗi buồn cũng không phải là nỗi buồn lớn” (nếu lấy lại bản in trên báo thì người ta nhớ là ông còn nói đến tình trạng điên điên khùng khùng, chập cheng, hâm hấp, quá khích, vớ vẩn…). Nghe cũng dễ sốc nhưng chỉ cần tự hỏi “Làm sao mà người ta có thể nói được sự thật về xã hội trong khi sự thật về chính cái giới của mình thì lảng tránh?” sẽ thấy Nguyễn Huy Thiệp có lý.
Không phải vì chán nản trước tình trạng bê bết của nhiều đồng nghiệp mà ở nhà văn này mất đi niềm tin thiêng liêng vào sứ mệnh ngòi bút. “Nhà văn là gì? Chẳng là gì cả. Nó chỉ là một linh hồn nhỏ đầy lỗi lầm và luôn tìm cách sám hối vượt khỏi lỗi lầm ấy. Nó là con vật nhạy cảm hết sức đáng thương với các thói xấu của cả bầy đoàn. Nó viết không phải vì nó, nó viết để cả bầy đoàn rút ra từ đấy một lợi ích công cộng, một lợi ích văn hoá”. Cái tha thiết muốn vượt lên trên chính mình thường trực ở tác giả Tướng về hưu đã là yếu tố cứu vãn lại tất cả.



Chỗ giống người của kẻ khác người

Đôi khi Nguyễn Huy Thiệp cũng viết phê bình. Có những bài như Hiện tượng Vi Thuỳ Linh, ở đó ông cắt nghĩa được hiện tượng thơ trẻ hiện nay trên cơ sở một nét tâm lý xã hội đang phổ biến. Ngoài ra, nó còn cho thấy ông xa lạ với một thái độ mị dân, lấy tuổi trẻ ra để doạ người khác. Tuy nhiên, nếu trong khi nhìn chung nghề văn, vượt lên trên mớ kiến thức chắp vá, Nguyễn Huy Thiệp vẫn đàng hoàng sáng suốt thì, khi viết về từng đồng nghiệp, trong phần lớn trường hợp, ông tỏ ra khá tầm thường và tuỳ tiện.Viết như đang lè nhè giữa một đám chén chú chén anh nào đó. Viết để lấy lòng mọi người. Viết để trả nợ. Viết để ra vẻ bề trên, ban phát cho các đàn em... Hình như ông quên mất mình là một nhà văn kiểu mới, nhà văn công dân, đứng ra đối thoại với cả xã hội.
Với một tâm lý làng xã đã ăn vào tận xương tuỷ, nhà văn mình thường chỉ có những mối quan hệ chật hẹp và dễ sống theo lối kéo bè kéo cánh với nhau. Cái điều Nguyễn Huy Thiệp đã cảm thấy chán mọi người thì chính ông không thoát ra nổi. Ở đây không thể nói là đáng tiếc mà là đáng sợ, vì sức mạnh của hoàn cảnh đã khống chế không trừ một ai, kể cả những người thông minh nhất.


Đặt mình vào dòng chảy thời đại

Đọc Giăng lưới bắt chim, trước tiên tôi nhớ Nguyễn Công Hoan với cách nghĩ thực dụng và những nhận xét kiểu “trong giới không thiếu những người cầm bút nửa đời nửa đoạn” hoặc “có một dạo, người ta sợ những người là nghề cầm bút như sợ… hủi” (Xem Đời viết văn của tôi).
Tôi cũng nhớ tới Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu hồi các ông còn trẻ và đầy khao khát về nghề. Đủ điều sâu sắc từng đươc các ông nghĩ và nói ở chỗ riêng tư, tuy chỉ nói đâu để đấy, nói xong nhiều khi lại dặn bọn tôi là đừng có bép xép.
Với Nguyễn Huy Thiệp, từ nay sự phân thân (hoặc nói nôm na là tính hai mặt) không còn là định mệnh cho nghề văn ở Việt Nam, như một số người thường tự biện hộ.


Nhưng đọc Giăng lưới bắt chim tôi còn nhớ tới nhà văn Trung Quốc Vương Sóc. Người đẹp tặng ta thuốc bùa mê tổng hợp bao nhiêu vấn đề. Tác giả chê văn học Trung quốc đương thời, ngán văn chương đại chúng. Và ông lật tẩy cả những tượng đài của văn chương hiện đại, bảo họ là giả dối vụ lợi. Ở Trung Quốc Người đẹp tặng ta thuốc bùa mê đã gây ra tranh cãi. Còn ở Việt Nam, người ta lặng lẽ đọc nó với bao thích thú, vừa sung sướng được gặp các ý tưởng mình thường nghĩ, vừa không sợ tội vạ gì.
Tôi nghĩ Nguyễn Huy Thiệp cần cho chúng ta một phần là ở chỗ đó: ông nối nghề văn ở ta với nghề văn ở cả các xứ sở khác. Trong khi mang nặng cốt cách bản địa, các sáng tác cũng như tiểu luận phê bình của ông đã là một bằng chứng để những ai vốn ngần ngại trước con đường hội nhập có thể yên tâm. Bởi chỉ cần trung thực với chính mình, thì thế giới chẳng xa lạ với ta mà ta cũng chẳng xa lạ với ai cả.

Vương Trí Nhàn

Từ xưng hô và sự sa đọa của văn hóa Việt


Chu Mộng Long – Trong “túi khôn” của dân tộc Việt có hai câu đối lập về kinh nghiệm phát ngôn: 1. Lời nói không mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. 2. Thuốc đắng dã tật, Sự thật mất lòng. Câu 1 thực sự là khôn, khôn lỏi, bởi vì không phải tốn tiền mà lời nói có thể mua được lòng người, hiển nhiên kéo theo mua được mọi thứ. Câu 2, vì nói thật mất lòng, thậm chí mất nhiều thứ, kể cả mất đầu, nên nhanh chóng bị loại bỏ ra khỏi túi khôn, và tất nhiên, trong thời buổi quá nhiều kẻ khôn nói láo thì nói thật thành ngu.


Mình mua quyển sách chỉ vì cái bìa ghi Lưỡng quốc Tiến sĩ!

Cái sự sàng lọc bỏ ngu chọn khôn này lâu nay chỉ thấy được tán dương mà lẽ ra phải báo động đỏ về sự sa đọa của văn hóa Việt. Bài viết này chỉ xoay quanh thế giới của từ xưng hô, nơi thể hiện rõ nhất cái ranh giới mập mờ khôn – ngu của người Việt, và đặc biệt chính nó phản ánh sâu sắc nhất thực trạng ứng xử của giới trí thức hiện đại.


1. Tiếng Việt thuộc loại giàu có nhất về từ xưng hô. Chỉ riêng đại từ xưng hô ở ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai đã có đến cả vài mươi từ tùy theo quan hệ: Tao với mày, ta với mi, ông với tôi, bố với con, mẹ với con, ông với cháu, bác với cháu, chú với cháu, anh với em, chị với em,…, Không kể những từ vốn là đại từ thay thế, từ chỉ danh phận, chức phận, danh xưng, chức xưng… được gán vào cho đối tượng xưng hô ở ngôi thứ hai, thứ ba: cu, bướm, ông chủ, con sen, đồng chí, bí thư, thủ tướng, chủ tịch, bộ trưởng, giáo sư, v.v…, có khi tự xưng luôn ở ngôi thứ nhất: Tôi tên…, hay tôi là… Tiến sĩ, Nhạc sĩ, Nhà thơ, Nhà văn… Bùi Kim H đây!.
Tôi từng bật cười khi đọc một cái đơn viết: Tôi tên là Tiến sĩ Nguyễn AQ. Dễ nhầm tưởng anh ta họ Tiến!!!
Người lớn tự hào về sự giàu có của từ xưng hô tiếng Việt, nhưng trẻ con thì nó ứ thích, nên mới có câu đồng dao từng mỉa mai cái quan hệ cù nhầy trong cộng đồng Việt: Kì đà là cha cắc ké, cắc ké là mẹ kì nhông, kì nhông là ông kì đà, kì đà là cha cắc ké…, Chim ri là dì sáo sậu, sáo sậu là cậu sáo đen, sáo đen là em bồ các, bồ các là bác chim ri, chim ri là dì sáo sậu…
Trước khi đi vào bản chất của sự rối rắm đến thành sa đọa trong quan hệ ứng xử của người Việt qua từ xưng hô, xin bắt đầu bằng câu chuyện rất thật. 


Ngày 20 tháng 11, quý bà phụ huynh khệ nệ mang túi quà đến nhà cô giáo, trân trọng kính tặng cô. Cô giáo nhận quà vui vẻ, cám ơn và khen: chà năm nay trông chị trẻ đẹp hơn năm ngoái. Quý bà phụ huynh mới vừa nhoẻn nụ cười sung sướng thì thằng bé trong nhà lũn cũn bước ra nhìn nhìn tận mặt quý bà và nói: đẹp gì mà đẹp, con thấy mặt bà giống như mặt ngựa! Chuyện cứ như trong cổ tích Bộ quần áo hoàng đế của Andersen, nhưng khác nỗi là thằng bé lập tức bị ăn ba cái tát. Ba cái tát đầu đời ấy dạy nó, từ nay không được nói thật, phải lựa lời mà nói cho vừa lòng người ta, con ạ!
Từ xưng hô bộc lộ sâu sắc mối quan hệ phân biệt tôn ti, đẳng cấp và thái độ ứng xử của người Việt trong cộng đồng Việt: cao hay thấp, già hay trẻ, bề trên hay bậc dưới, gần gũi hay xa cách, trân trọng hay coi thường, cầu cạnh hay bất cần… Xưa, nó dừng lại ở giới hạn của sự cầu thị, tôn kính để còn được xem là văn hóa. Nay, càng ngày nó càng bộc lộ rõ sự háo danh, cầu cạnh và nịnh nọt của con người hiện đại, nhất là bọn trí thức nửa mùa trong sự sa đọa nghiêm trọng của môi trường văn hóa mới.
Xác định tôn ti, đẳng cấp trong xưng hô như thế cũng phản ánh sâu sắc truyền thống của sự độc tài, toàn trị: người được cho ở vị trí cao nhất thường trở thành trung tâm điều hành của cả một hệ thống. Ở gia đình phụ quyền, người chồng là trung tâm; ở cộng đồng làng, già làng, trưởng bản là trung tâm; rộng ra các cấp khác nhau của xã hội phi dân chủ, lãnh đạo là trung tâm. Kẻ dưới chỉ bằng lời xưng hô thiếu tôn kính chứ chưa nói đến phê phán, chỉ trích bề trên đã có thể bị xem là phạm thượng và ắt bị trừng phạt nghiêm khắc!
Tao với mày, ta với mi, ông với tôi từng thể hiện quan hệ dân chủ, bình đẳng chừng như đang dần bị cấm, mặc dù người ta đang kêu gào về quyền dân chủ và bình đẳng. Nếu lỡ mồm mà xưng hô như thế giữa công đường, lập tức phải xin lỗi vì bị quy là hỗn, hoặc vô văn hóa. Đơn giản, nếu là một cấp dưới đối với cấp trên mà chỉ xưng hô tôi với ông thôi, cấp trên đã cảm thấy khó chịu. Phải gọi là thủ trưởng, sếp, hoặc đàng hoàng hơn là gắn với đủ thứ nhãn mác của các loại chức vụ, chức danh để kính thưa: Kính thưa Bộ trưởng, Kính thưa Thứ trưởng, Kính thưa Tổng biên tập, Kính thưa Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo ưu tú, Nhà văn, Nhà thơ… (các loại nhà, cứ như buôn địa ốc vậy!).
Ngôn ngữ là bộ mặt của mọi quan hệ đời sống và trở thành diễn ngôn lịch sử. Không có cách mạng đích thực khi các hoạt động của nó bị tách ra khỏi ngôn ngữ.
Từ khi đảng Cộng sản ra đời, cách xưng hô tôi với đồng chí được xem là một cuộc cách mạng vươn tới quan hệ bình đẳng. Nó bình đẳng mà vẫn trang trọng, bắt đầu từ trong tổ chức đảng, sau mở rộng ra phạm vi toàn dân, cặp quan hệtôi – đồng chí trở thành an toàn khu cho mọi tình huống, mặc dù trong thâm tâm chẳng có gì là đồng chí đúng nghĩa, bởi vì các đồng chí vẫn chửi nhau, mạ lị nhau là chuyện thường ngày!
Cũng vì đại từ xưng hô đồng chí bình đẳng trong tính cách mạng của nó, và vì khi nó đã được toàn dân hóa thành bình dân, nên đến lúc tự nó lại bộc lộ sự phản cách mạng của nó bằng cách xóa ngay sự bình đẳng ấy. Đó là lúc nó buộc phải trang trọng hóa bằng cách đính kèm thêm chức danh, chức phận để làm sáng danh loại đồng chí nó muốn đội lên đầu: đồng chí bí thư, đồng chí chủ tịch, đồng chí bộ trưởng, đồng chí hiệu trưởng, đồng chí trưởng phòng, đồng chí giám đốc… như là để phân biệt với các loại đồng chí tầm thường khác. Thế là công cuộc cách mạng 70 năm trở về điểm xuất phát như đúng tinh thần văn hóa tôn ti, đẳng cấp truyền thống của người Việt.
Bản chất của văn hóa tôn ti này xuất phát từ tâm lí háo danh, tự ti đi liền với tự tôn từ hai phía tầng lớp dưới và bề trên trong một xã hội phân biệt đẳng cấp. Ngoài gắn nhãn chức vụ, chức danh vào tên hoặc thay thế hoàn toàn cho tên gọi để làm sang, người Việt thích dùng một danh xưng nào đó gán vào hoặc thay thế hoàn toàn cho tên gọi: Cụ Chánh, bà Hội đồng, cụ Tiên chỉ, cụ Tam nguyên, ông Lưỡng quốc trạng nguyên, (và nay tự dưng đẻ ra ông Lưỡng quốc tiến sĩ),… đến mức bây giờ một ông chủ tịch xã kí giấy tờ hành chính cũng phải gắn vào phía trước tên của mình các học vị khoa học làm cho dân quê ít học tưởng mấy ông này họ Thạc hay họ Tiến là lạ mà lâu nay họ chưa nghe; họ nghĩ có lẽ cách mạng đã giúp cho mấy ông này quên hẳn tổ tông để chuyển sang họ mới.
Đại từ xưng hô của người Việt vì thế trở thành phi lịch sử, dù có làm một trăm cuộc cách mạng thì sự thật quan hệ trong cộng đồng Việt vẫn không có gì thay đổi.

Xưng hô thế nào, hành động thế ấy!
2. Cốt yếu của vấn đề vẫn là giá trị thực dụng của sự xưng hô không mất tiền mua để được nhiều thứ này chứ không phải ý nghĩa tinh thần trên kia. Khoảng cách xưng hô càng cao, giá trị càng lớn. Người bề trên cảm thấy thật đề cao, người cấp dưới tự thấy thật hạ thấp, sự nâng tầm và hạ mình ấy sẽ đổi lấy tiền tài, danh vọng mà bề ngoài cứ lẻo lẻo về sự tự do dân chủ và bình đẳng.
Trong một cuộc họp hay một cuộc gặp gỡ với cấp trên, cách cúi đầu thưa gửi: Thưa thủ tưởng cho em xin ý kiến, thưa sếp cho em xin… một cách ngọt ngào sẽ làm cho thủ trưởng hay sếp vui, hay đúng hơn là tự hào, kiêu hãnh thì dễ mua được những cái phải mua bằng rất nhiều tiền. Trong một đại hội hay đại tiệc, giới thiệu chức danh của cấp trên theo cách: kính thưa đồng chí bí thư đảng ủy, hiệu trưởng, giáo sư tiến sĩ, nhà giáo ưu tú, nhà thơ… càng dài càng làm cho cấp trên sung sướng, tự mãn và tiếng vỗ tay càng to và giòn, để… hiển nhiên, sau này cấp trên tạo nhiều điều kiện nâng đỡ và cho không (của chùa) nhiều thứ không phải mua.
Công đường trở thành văn hóa chợ, dùng lời nói thay tiền mua bán. Tư cách công dân trong xã hội dân chủ của người Việt bị hủy diệt với kinh nghiệm và trào lưu lựa lời mà nói. Sự hủy diệt ấy bộc lộ ở sự tự ti quá mức và sự tự cao quá đáng giữa bậc thấp và bậc cao, cấp dưới với bề trên. Người ta lớn bởi vì ta quỳ xuống (Tố Hữu), thứ ngôn ngữ uốn gối khom lưng kia làm cho lãnh đạo hay bề trên trở thành những độc tài bạo chúa, còn dân đen bị khinh bỉ thành kẻ hèn hạ, ti tiện như nó đáng bị khinh bỉ bởi vị thế của sự xưng hô hèn hạ, ti tiện.
Học trò viết đơn xin nghỉ phép, vì tôn sư trọng đạo cứ phải xưng em với thầy để mong thầy gia ân. Một công dân viết đơn lẽ ra đường hoàng đề nghị giải quyết một vấn đề nào đó về quyền lợi bình đẳng theo luật định cũng cứ phải kính thưa bề trên và cúi đầu thật thấp xưng em để được chiếu cố. Gần đây, một tập thể sinh viên viết thư cho Chủ tịch nước mà cứ phải xưng hô bác với cháu, làm như cái khổ nhục kế để cầu xin ấy sẽ động lòng bề trên, để bề trên có thể bước qua mọi ranh giới pháp lí mà cho cái sự xin hèn mọn ấy?
Một thực tế sống động cho thấy tính chất thực dụng đến quên mất vị thế công dân ngay trong giới trí thức, mà trí thức cao cấp ở trường đại học. Sự tôn kính quá mức càng bộc lộ bản chất của sự ti tiện. Trong các cuộc họp, khi phát biểu về vấn đề nào đó, rất nhiều cán bộ chủ chốt xưng em với thầy Hiệu trưởng mà quên rằng đó là một hội đồng dân chủ. Mà nữa, Hiệu trưởng là một chức vụ, còn thầy là một nghề nghiệp. Làm gì có khái niệm kép: thầy Hiệu trưởng. Trong cách xưng hô này vừa cố tình tỏ ra quan hệ “tôn sư” của đạo thầy trò (mặc dù ông ta chưa từng dạy mình nửa chữ), vừa đặt mình đứng dưới thắt lưng của kẻ có chức vụ cao hơn. Khi đã xưng hô như thế thì làm sao có được tiếng nói bình đẳng, trung thực, thẳng thắn, nếu không nói chỉ là phát ngôn vuốt đuôi hoặc cầu xin nịnh nọt. Đấy cũng là chỗ chết của các sếp, ít khi nghe được lời nói thẳng. Mà chừng như sếp nào cũng tỏ ra đắc chí, vì các ông này nghĩ mình là thầy của tất cả các thầy. Và vì ảo tưởng mình là thầy của các thầy, nên các ông này rất cao ngạo coi thường những kẻ gọi mình bằng thầy để có lúc đối xử như đối xử với những kẻ ti tiện: mạt sát, sỉ mắng, xua đuổi… Tất nhiên trong số này, có những người không hề mang bản chất ti tiện, mà chỉ là nạn nhân hay công cụ của ngôn ngữ ti tiện, đúng hơn là do diễn ngôn quyền lực sắp đặt cho họ vị thế ti tiện. Không biết những người này đã bao giờ thấm thía cái giá phải trả cho sự ti tiện này chưa?
Các lãnh tụ cộng sản cho dân xem quan là “đầy tớ”, nhưng dân lại muốn đứng dưới tầm đầy tớ thì 3000 năm nữa cũng chưa có dân chủ!
3. Nên nhớ văn hóa đẳng cấp chưa hẳn đã mang lại lợi ích mà bao giờ cũng chứa nghịch lí hai mặt. Càng được cho nhiều bao nhiêu càng bị khinh hạ bấy nhiêu. Trong khi một thực tế là bọn côn đồ giả danh trí thức bắt đầu tỏ ra khôn hơn, chúng cứ gọi thủ trưởng là “ông anh” và tự xưng là “thằng em”, tuy vẫn được tiếng là có khoảng cách tôn ti, nhưng lại gần gũi đến mức, nếu cần “thằng em bắn cho ba phát đạn” là chúng lại được “ông anh” kinh sợ và cho nhiều thứ hơn, kể cả sức mạnh đè đầu cỡi cổ người khác!!! Té ra luật giang hồ có tôn ti mà lại dân chủ hơn theo cách của nó, tốt hơn là cái văn hóa dân chủ mà bọn trí thức thứ thiệt chưa hiểu đầy đủ nghĩa của từ mà đã to mồm đòi dân chủ!
Hình như từ sau vụ án Năm Cam nổi tiếng, những cách xưng hô truyền thống của phía Nam được khôi phục lại ngay trong giới chức sắc của chính quyền như một cái mode: anh Năm, anh Bảy, anh Ba… Nghe chừng gần gũi thân mật nhưng thực chất cách xưng hô đó đã giang hồ hóa bộ máy chính quyền. Đi đâu cũng nghe nhan nhản một lũ quan chức quèn loe nhoe khoe khoang vừa mới gọi điện hay nói chuyện với Năm Hà, Bảy Dương, Hai Thanh hay Sáu Hải… đang chức rất to nào đó mà rờn rợn, vì cứ như gặp phải “đàn em” nhỏ của các “đại ca” nhớn trong băng nhóm giang hồ!
Xem ra, sự sinh sôi giàu có của từ xưng hô tiếng Việt không phải do văn hóa nào quy định mà do cái lưỡi cao su của người Việt uốn éo trăm chiều đã tạo ra để làm rối loạn đời sống đúng hơn là xác lập một trật tự đúng nghĩa của sự tự do dân chủ!
Dân Việt đối mặt với ngoại xâm thì tự tôn, tự đại, nhưng đối mặt với nội xâm thì tự ti. Goethe nói: chỉ có kẻ ti tiện mới tự ti.Không bao giờ có dân chủ khi người dân vẫn mang trong mình căn bệnh tự ti. Và như vậy, món quà lớn nhất để Làm người là Dân chủ trong nghĩa tự do bình đẳng chẳng ai cho không biếu không mà phải chịu nhục cúi đầu xin xỏ. Món quà ấy phải tự giành lấy, có khi bắt đầu bằng cuộc cách mạng về sự xưng hô, ít nhất biết nhục khi rơi vào tập quán xưng hô tôn kính nhưng thực chất là biểu lộ sự ti tiện của con người mình. Bởi lẽ, con người không chỉ là chủ thể của ngôn ngữ mà còn là công cụ của ngôn ngữ, bị thói quen ngôn ngữ điều hành một cách vô thức. Thứ diễn ngôn quyền lực sắp đặt nên thứ trật tự của món văn hóa bất bình đẳng ấy đã đè lên cuộc sống bao đời nay mà người dân chúng ta chưa thoát ra khỏi nó!
Không có gì đáng tự hào khi tỏ ra ti tiện trước quyền lực. Hãy tập cho dân ta biết nhục bởi sự ti tiện mà những kẻ đứng trên đầu ta đang ung dung hưởng thụ trên sự ti tiện đó!
https://chumonglong.wordpress.com/2012/11/16/tu-xung-ho-va-su-sa-doa-cua-van-hoa-viet/#more-1980