" Cả cuộc đời ba không có gì để lại cho các con ngoài số vốn kiến thức mà ba mẹ tảo tần nuôi các con ăn học.Mong các con trở thành những người hữu ích cho xã hội" ( trích từ TT "Vững Niềm Tin")
Thứ Bảy, 8 tháng 8, 2015
Phật Giáo Việt, Phật Giáo Tàu
Huỳnh Kim Quang
Khi Mâu Tử, một tri thức Tàu, tị nạn tại Giao Châu và viết trong Lý Hoặc Luận vào cuối thế kỷ thứ 2 sau tây lịch rằng, “Đất Hán chưa chắc là trung tâm của trời đất,”[1] cho thấy tại Giao Châu lúc bấy giờ, đã là một lãnh địa hùng cứ ở phương Nam không thua kém gì nước Tàu tại phương Bắc. Sử gia Lê Mạnh Thát nhận định về điều này như sau trong bộ Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam:
“Nhận xét này của Mâu Tử phải nói là một đòn đánh chí tử vào cảm thức tự tôn dân tộc của người Hán thời bấy giờ, đặc biệt lúc mà cụm từ "Trung Quốc", nước ở giữa, trung tâm không chỉ của con người, mà còn của "trời đất", được phổ biến và lưu hành rộng rãi để xác định vị trí của người Hán đối với các dân tộc khác. Ta đã thấy, để diễn tả việc người Hán đến nước ta tỵ nạn, truyện Sĩ Nhiếp của Ngô chí 4 đã viết: "Sĩ nhân Trung Quốc đến dựa tỵ nạn lên đến số trăm". Trong khi đó, cùng mô tả sự kiện ấy, Mâu Tử xuất phát từ nhận xét trên chỉ đơn giản nói: "Dị nhân phương Bắc đều đến để ở".”[2]
Một đất nước mà hàng trăm “sĩ nhân” của nước lớn đến tị nạn và lập nghiệp thì đất nước ấy không còn là “Hồ,” là “Rợ” nữa. Đất nước ấy chính là Việt Nam, nơi mà một, hai thế kỷ trước tây lịch đã tiếp thu và phát triển đạo Phật lên đến mức hưng thịnh.
Năm 43 sau tây lịch, sau khi Hai Bà Trưng hy sinh oanh liệt vì bảo vệ giang sơn xã tắc và quân đội dưới quyền Hai Bà tan rã, các tướng tá và binh sĩ, người bị giết, người bị bắt, người trốn thoát. Một trong những vị nữ tướng của Hai Bà Trưng còn sống sót và quy ẩn nơi Thiền Môn là Bát Nàn Phu Nhân, tức là công chúa Tiên La.[3] Sự kiện này cho thấy Phật Giáo đã bén rễ rất sâu và rộng trong xã hội Việt Nam trước thời Hai Bà Trưng, vì để có chủa chiền được kiến tạo thì chắc chắn phải có sinh hoạt Phật Giáo, mà điều này thì cần thời gian không ngắn. Tức là Phật Giáo ắt hẳn đã có mặt tại Việt Nam từ ít nhất một, hai thế kỷ trước tây lịch.
“Đất nước lâm nguy, các tướng tá Hai Bà Trưng một số hy sinh bị giết, hoặc bị bắt đi đày vùng Linh Lăng. Nhưng còn một số khác đã rút về các làng quê Việt Nam sống hòa mình vào dân nơi các ngôi chùa, mà ta biết tối thiểu là Bát Nàn phu nhân, hiện còn đền thờ ở xã Tiên La. Theo thần xã, bà là công chúa Tiên La, là nữ tướng của Hai Bà Trưng, sau các trận đánh, bà bị thương, rút về chùa xã Tiên La và mất tại đó.”[4]
Trong khi đó, đến năm 67 sau tây lịch Phật Giáo từ Ấn Độ mới du nhập vào Trung Quốc với bản kinh Phật Tứ Thập Nhị Chương [Kinh 42 Bài] lần đầu tiên được dịch bởi ngài Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan và ngôi chùa được xây dựng đầu tiên ở Tàu là Chùa Bạch Mã, theo như Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa viết trong Phật Học Phổ Thông, Khóa V, Chương nói về Lịch Sử Phật Giáo Trung Hoa.
“Theo các sách sử còn truyền lại, thì dân Trung hoa đã có nghe nói đến đạo Phật lâu lắm và rải rác trong dân chúng ở phía Tây, đã có người theo đạo Phật rồi. Nhưng mãi đến đời nhà Đông hán, niên hiệu Vĩnh bình năm thứ mười (T.L 67) Vua Minh Đế sai các ông Vương Tuân, Thái Hâm, cả thảy mười tám người qua nước Đại Nhuc Chi (một nước ở phiá Tây, trên đường từ Ấn Độ sang Trung Quốc) để rước Phật về thờ và có mời được hai vị sư là Ca-Diếp Ma Đằng (Kerssoapa Matanga) và Trúc Pháp Lan (Falan) qua Trung Hoa. Vua Hán Minh Đế truyền dựng chùa Bạch Mã để thờ Phật và cho hai Ngài ở đó dịch kinh truyền Đạo. Hai Ngài đã dịch kinh Tứ Thập Nhị Chương và mười sáu quyển kinh khác.”[5]
Trong khi tại Ấn Độ, Ngài Long Thọ [Nagarjuna], xuất hiện vào khoảng từ 150 đến 200 năm sau tây lịch, sáng tác Căn Bản Trung Luận Tụng [Mùlamadhyamakakarika] và nhiều bộ luận khác để xiển dương giáo nghĩa Tính Không của Đại Thừa, thì tại Việt Nam cùng thời đó, chính xác là vào cuối thế kỷ thứ 2 đầu thế kỷ thứ 3 sau tây lịch đã phổ biến Lục Độ Tập Kinh, tức là kinh nói về Lục Độ Ba La Mật của Đại Thừa. Điều này cho thấy rằng giáo nghĩa tinh yếu của Đại Thừa mà cụ thể là Lục Độ Ba La Mật đã được truyền bá rất sớm tại Việt Nam. Thời gian này tại Trung Quốc vẫn chưa có nhiều bộ kinh được dịch và lưu truyền. Vào thế kỷ thứ 4, thứ 5 mới có ngài Nghĩa Tịnh, ngài Chân Đế và ngài Cưu Ma La Thập đến Trung Hoa để dịch các bộ kinh luận Đại Thừa. Đến thế kỷ thứ 7 sau tây lịch nhờ công trình phiên dịch kinh điển quy mô của ngài Huyền Trang thì Phật Giáo Trung Hoa mới phát triển cực thịnh.
Trước đó, giữa thế kỷ thứ 3 tức năm 247 sau tây lịch vào thời Tam Quốc, ngài Khương Tăng Hội từ Việt Nam sang Kinh Châu của Đông Ngô của Trung Quốc để giảng kinh và truyền bá Phật Pháp.
“Vào năm 247, một vài năm sau khi Chi Khiêm rời khỏi kinh đô Kiến Nghiệp, Khương Tăng Hội, một vị cao tăng gốc miền Trung Á, đã đến đây. Ngài đến từ Giao Chỉ, thủ phủ của Giao Châu ở miền cực Nam của đế quốc Trung Hoa (gần Hà nội ngày nay). Gia đình của Ngài đã sinh sống ở Ấn độ trải qua nhiều thế hệ; thân phụ của Ngài, một thương gia, đến định cư ở thành phố thương mại quan trọng này.”[6]
Nói về tình hình Kinh Phật xuất hiện tại Việt Nam vào cuối thế kỷ thứ 2 đầu thế kỷ thứ 3, tức thời đại của Mâu Tử, sử gia Lê Mạnh Thát cho biết trong Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, Chương IV, như sau:
“Sự thực, vào thời Mâu Tử không phải chỉ một mình bản Lục Độ Tập Kinh tiếng Việt lưu hành, mà còn nhiều bản kinh khác nữa mà ngày nay chúng tôi truy ra ít nhất được thêm tên tuổi 2 bản kinh. Đó là Cựu Tạp Thí Dụ Kinh cũng do Khương Tăng Hội dịch và Tạp Thí Dụ Kinh mà các kinh lục từ Cổ Kim Dịch Kinh Đồ Kỷ 1 ĐTK 2151 tờ 350b27 và Khai nguyên Thích Giáo Lục 1 ĐTK 2154 tờ 483c14 đều liệt vào loại "thất dịch" của đời Hán.”[7]
Hơn nữa, điều mà các sử liệu của Phật Giáo Việt Nam đều ghi nhận là sự có mặt rất sớm, khoảng thế kỷ thứ nhất và thứ hai trước tây lịch, của Trung Tâm Phật Giáo Luy Lâu tại Việt Nam. Theo Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, tập 1, thì:
“Các tài liệu như Hậu Hán Thư trong đó có câu chuyện Sở Vương Anh theo Phật Giáo, sách Lý Hoặc Luận của Mâu Tử viết tại Việt Nam vào hạ bán thế kỷ thứ hai, kinh Tứ Thập Nhị Chương và một số tài liệu khác, có tính cách lặt vặt hơn, cho ta thấy rằng trong đời Hậu Hán (thế kỷ thứ nhất và thứ hai) ngoài hai trung tâm Phật Giáo ở Trung Hoa, còn có một trung tâm Phật Giáo rất quan trọng khác ở Giao Chỉ, tức Việt Nam, lúc bấy giờ đang nội thuộc Trung Quốc.
“Hai trung tâm ở Trung Hoa là trung tâm Lạc Dương và trung tâm Bành Thành. Lạc Dương là kinh đô Trung Hoa vào đời nhà Hán, Hiện nay là một huyện ở tỉnh Hà Nam, còn Bành Thành thì ở về hạ lưu sông Dương Tử, hiện thuộc tỉnh Giang Tô. Ở nước ta thì có trung tâm Luy Lâu: Luy Lâu là trị sở bấy giờ của Giao Chỉ, hiện nay thuộc phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
“Trong ba trung tâm Phật Giáo đời Hán vừa kể, trung tâm nào được thành lập sớm nhất? Hiện giờ chưa có câu trả lời dứt khoát. Nhưng đứng về nguồn gốc, chỉ có trung tâm Luy Lâu tại Giao Chỉ là ta biết chắc chắn do đâu mà được thành lập. Nguồn gốc của hai trung tâm Lạc Dương và Bành Thành vẫn còn rất mờ. Có nhiều dữ kiện khiến cho chúng ta nghĩ trung tâm Luy Lâu được thành lập sớm nhất, và trung tâm này đã làm bàn đạp cho sự thành lập các trung tâm Bành Thành và Lạc Dương ở Trung Hoa.” [8]
Những gì được nói ở trên về mặt sử liệu, văn hóa và tư tưởng cho thấy rằng dù trong thời kỳ bị Tàu đô hộ khắc nghiệt nhất dân tộc Việt Nam đã tiếp nhận đạo Phật trước Tàu và vượt thoát sự nô dịch hóa của Tàu một cách kiên cường và dũng mãnh sau đó.
Trong khoảng nửa thế kỷ nay, nhất là cao trào gần đây, khi làn sóng chống chính quyền Trung Quốc bùng phát để phản đối tham vọng bá quyền của chính quyền Trung Quốc xâm chiếm lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam, nhiều người Việt trong và ngoài nước, kể cả trong giới Phật Giáo đặt vấn đề những gì liên quan đến Tàu trong văn hóa và đạo giáo của người Việt để chỉ trích và loại bỏ. Có điều cần nói ngay rằng thế lực xăm lăng đất nước Việt Nam từ xưa đến nay là các chế độ chính trị cầm quyền tại Trung Hoa thời xưa và Trung Quốc thời nay, chứ không phải là Phật Giáo Tàu. Và trong suốt chiều dài lịch sử cả ngàn năm đấu tranh chống sự xâm lược của Tàu đối với Việt Nam, Phật Giáo Việt và Phật Giáo Tàu vẫn không có mối hiềm khích nào đáng tiếc xảy ra.
Trong chiều hướng đó, có người cho rằng chữ Hán không phải là chữ Việt, chỉ có “chữ quốc ngữ” mới là chữ Việt. Lạ chưa? Nếu vậy thì mấy ngàn năm văn hiến Việt là cái gì? Nếu vậy thì mấy ngàn năm nay tổ tiên ông bà chúng ta dủng chữ gì làm chữ “quốc ngữ”? Không lẽ một dân tộc có hàng ngàn năm lịch sử lại không có “chữ quốc ngữ” cho mình sao?
Chữ mà các cố đạo Ky Tô gọi là “chữ quốc ngữ” đó là gì? Thứ nhất, nó chỉ mới được vay mượn từ ký tự La Tinh từ vài thế kỷ nay và được chính thức áp dụng toàn quốc Việt Nam khoảng 1 thế kỷ nay. Thứ hai, nếu nói chữ Hán là ký tự của người Hán, người Tàu nên không phải là “chữ quốc ngữ”, vậy thì “chữ quốc ngữ” đó cũng vay mượn ký tự La Tinh thì có thật sự đúng là “chữ quốc ngữ” của người Việt không? Thứ ba, cách gọi tên chữ viết mượn ký tự La Tinh là “chữ quốc ngữ” là cả sự hàm ý. Hàm ý thứ nhất là phủ nhận vị thế chữ quốc ngữ của tất cả các thứ chữ mà dân tộc Việt đã dùng trong quá khứ. Hàm ý thứ hai, qua đó cũng phủ nhận luôn tất cả những gì liên quan đến chữ Hán là thuộc về ngôn ngữ và văn hóa Việt, mà mục đích của hàm ý này là loại bỏ vai trò và ảnh hưởng của Phật Giáo ra khỏi lòng dân tộc, vì văn hóa và văn học Phật Giáo Việt Nam hầu hết nằm trong hệ chữ Hán. Nhìn thấy được hàm ý đó, Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, năm 2003, đã viểt trong tiểu luận “Văn Minh Tiều Phẩm” như sau:
“Nếu gạt bỏ một mảng lớn hay toàn bộ thơ văn các tiền nhân ra ngoài lịch sử văn học Việt nam, mà đại bộ phận được sáng tác bằng Hán văn, quả thật dân tộc Việt nam chỉ mới trưởng thành đây thôi, khi mà văn minh phương Tây được truyền sang thông qua ký tự La-tinh được gọi là chữ quốc ngữ, theo ý đố xâm thực bằng văn hoá – tôn giáo – chính trị.”[9]
Thực sự có đúng là nếu dùng chữ Tàu thì chúng ta bị nô lệ về chính trị, bị Hán hóa về tư tưởng và văn hóa chăng?
Xin hãy suy nghiệm một vài sự kiện lịch sử sau đây để thấy thực hư sa rao.
Các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê, Nguyễn tại Việt Nam trải dài hơn một ngàn năm vẫn luôn luôn sử dụng chữ Hán như quốc ngữ -- chữ Nôm cũng được lập ra từ xa xưa nhưng không được sử dụng phổ thông, mãi đến đời Nhà Hồ (1400-1407) mới được chính thức dùng như chữ quốc ngữ trong các văn bản nhà nước. Nhưng cũng chính trong các triều đại ấy đất nước Việt Nam mới thực sự lấy lại được quyền độc lập tự chủ, và diễn ra những cuộc kháng chiến, những trận phản công, những trận đánh quy mô chống lại và dẹp tan kế hoạch xâm lược của các triều đại Tống, Nguyên, Minh. Thanh của Tàu. Việt Nam trong suốt thời gian đó là một quốc gia độc lập với Tàu về mọi mặt.
Bài Nam Quốc Sơn Hà của danh tướng nhà Lý là Lý Thường Kiệt chẳng phải cũng được viết bằng chữ Hán đó sao? Nhưng hùng khí độc lập tự chủ dân tộc và khí phách thách thức trước âm mưu xâm lược của Tàu thì bừng bừng cao ngất có mấy ai bì kịp:
“Nam quốc sơn hà Nam Đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại Thiên Thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!”
Cụ Trần Trọng Kim dịch thơ như sau:
“Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm ?
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời!”
Năm 987 thời nhà Tiền Lê của Việt Nam, nhà Tống của Tàu sai nhà thơ Lý Giác làm sứ thần qua Việt Nam, Vua Lê Đại Hành cử thiền sư Pháp Thuận giả làm gã chèo đò để đón Lý Giác. Khi đò qua sông, Lý Giác nhìn dòng sông có mấy con ngỗng đang bơi rồi ngâm rằng, “Nga nga lưỡng nga nga, ngưỡng diện hướng thiên nha,” (Ngỗng ngỗng hai con ngỗng, ngửa mặt nhìn lên trời). Ý nói triều đình nhà Tống bên Tàu là thiên triều. Lúc đó, gã chèo đò Pháp Thuận mới gõ vào mạn thuyền mà ngâm rằng, “Bạch mao phô lục thủy, hồng trạo bãi thanh ba,” (Lông trắng phơi trên dòng nước biếc, chân hồng bơi trong ngọn sóng xanh). Ý nói nước Việt có tự do, độc lập hành xử đối sánh ngang hàng với nước Tàu ở bên cạnh. Lý Giác tâm phục khẩu phục vì thấy một gã chèo đò mà văn tài ứng đối nhậm lẹ, uyên bác và khí khái như thế thì giới tri thức sĩ phu Việt còn tài ba cỡ nào. Thiền sư Pháp Thuận cũng dùng chữ Hán để ngâm thơ đối đáp với Lý Giác mà lại làm cho Lý Giác kính nể, nêu cao chủ quyền và danh dự quốc gia, làm sáng tài năng dân Việt. Ai bảo sử dụng chữ Hán là nô lệ Tàu?
Vào thời Hậu Lê, Nguyễn Trãi dùng chữ Hán để viết Bình Ngô Đại Cáo tuyên ngôn nền độc lập tự chủ của nước nhà, ca tụng anh hùng sĩ khí của dân tộc, cổ võ tinh thần dựng nước và giữ nước, hạch tội quân Minh xâm lược, nhưng đồng thời cũng nêu cao lòng nhân nghĩa của giống nòi để sống chung với cộng đồng các lân bang hầu mưu cầu hòa bình và thịnh vượng cho đất nước.
“Cái văn:
Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân,
Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo.
Duy ngã Đại Việt chi quốc,
Thực vi văn hiến chi bang.
Sơn xuyên chi phong vực ký thù,
Nam bắc chi phong tục diệc dị.
Tự Triệu Đinh Lý Trần chi triệu tạo ngã quốc,
Dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhất phương.
Tuy cường nhược thì hữu bất đồng,
Nhi hào kiệt thế vị thường phạp.”
“Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có.” [10]
Trên thực tế, người Việt hiện nay có rất ít người biết chữ Hán, nên việc đọc các văn bản chữ Hán, kể cả Kinh Phật, cũng là vấn đề khó khăn. Việc tiếp cận nền văn hóa cổ của dân tộc và Phật Giáo Việt Nam thời trước đã không được thuận lợi lắm. Vì vậy, nhu cầu dịch chữ Hán ra chữ Việt hiện đại để mọi người có thể đọc và hiểu là cần thiết và quan trọng. Nhưng phải nhận thức rằng dù vậy, chữ Hán mà tổ tiên chúng ta ngày xưa sử dụng vẫn là chữ quốc ngữ một thời của dân tộc với đầy đủ nội hàm và sắc thái truyền thống đặc thù của Việt Nam và cần phải được tôn trọng đúng chức năng và vai trò của nó trong lịch sử.
Có người không rõ về bản sắc đặc thù của Phật Giáo Việt đối với Phật Giáo Tàu, vì vậy họ nghĩ rằng cái gì của Phật Giáo Việt cũng đều là bản sao của Phật Giáo Tàu cả. Đây là sự ngộ nhận rất lớn làm lu mờ vị thế, vai trò, chức năng và ảnh hưởng của Phật Giáo Việt đối với dòng vận hành lịch sử hơn hai ngàn năm của Phật Giáo Việt Nam.
Sử gia Lê Mạnh Thát trong Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam cho thấy rằng từ những thế kỷ đầu tây lịch, Phật Giáo Việt Nam thông qua Lục Độ Tập Kinh đã nêu bật lập trường quan điểm và cách sống khác nhau của người Việt nói chung và người Phật tử Việt Nam nói riêng đối với văn hóa Tàu. Sử gia Lê Mạnh Thát nêu ra nhiều điểm tiêu biểu của Lục Độ Tập Kinh phản kháng văn hóa Tàu và bảo vệ nét đặc thù văn hóa Việt mà nơi đây xin ghi lại 3 điều, gồm, “xây dựng một ‘hạnh’ mới, một lối sống mới, một nền văn hóa điển huấn mới,” “lý tưởng bồ tát, dám xông mình vào nơi chính trị hà khắc để cứu dân khỏi nạn lầm than,” và tư tưởng hiếu đạo khác hẳn với hiếu kinh của Tàu. Xin trích vài đoạn trong Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, tập I, Chương II như sau để người đọc tham khảo.
“Thứ nhất, thông qua các kinh sách Phật giáo, họ kêu gọi, "bỏ mình chớ không bỏ hạnh". Đấy là những khẩu hiệu trong phong trào bảo vệ ý chí độc lập toàn dân từ sau thời Bát Nàn phu nhân trở đi như truyện 10 của Lục độ tập kinh 2 tờ 6a-5 đã ghi lại. Hạnh đây là lối sống, là cách cư xử, là cung cách thể hiện tính người, thể hiện ý chí riêng cuả từng người, từng dân tộc trong việc đối phó với tự nhiên và xã hội, đối phó với nhu cầu cá nhân và đòi hỏi tập thể mà mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng người đều có. Hạnh do thế là một dạng hạnh nguyện. Cho nên, đánh mất hạnh là đánh mất văn hóa, đánh mất ý chí tự tồn, đánh mất hạnh nguyện, biến cá nhân ấy, cộng đồng ấy thành một cá nhân mới, một cộng đồng mới, sống theo một lối sống mới, một cung cách hành xử mới của một cộng đồng mới. Cho nên dân tộc ta lúc nào cũng nối tiếp nhau để kiên trì xây dựng một "hạnh" mới, một lối sống mới, một nền văn hóa điển huấn mới. Nổ lực kiên trì xây dựng này, đến thời Mâu Tử đã tỏ ra thành công hoàn toàn.”
…
“Thứ hai, họ kêu gọi toàn dân chống lại bộ máy đàn áp của người Hán, mà ngày nay ta có thể tìm thấy một số những rơi rớt trong truyện số 68 trong Lục độ tập kinh tờ 36c24-25, với chủ trương "Bồ tát thấy dân kêu ca, do vậy gạt lệ, xông mình vào nơi chính trị hà khắc để cứu dân khỏi nạn lầm than" (Bồ tát đổ dân ai hiệu vi chỉ huy lệ đầu thân mệnh hồ. Lệ chánh, tế dân nạn ư đồ thán). Đây là một chủ trương mà các kinh Phật giáo khác tồn tại ở Trung Quốc lẫn Việt Nam vào ba thế kỷ đầu sdl không thấy nói tới. Rõ ràng đây là một gởi gấm của những người Phật tử Việt Nam đói với tình hình đất nước lúc bấy giờ. Thậm chí, ngay cả khi ta nghiên cứu quá trình hình thành truyện 68 này, ta sẽ thấy điểm này không thể xuất phát từ nguồn gốc Ấn Độ được, bởi vì truyện đã nói đến phong tục địa táng và bỏ vàng vào miệng người chết. Ngay cả chi tiết bỏ vàng vào miệng người chết này, thì tục lệ Trung Quốc vào thời này không thấy nói tới.”
…
“Không những phê bình chung của đạo hiếu là nêu tên đối với hậu thế, truyện 86 còn phê phán mạnh mẽ quan niệm vô hậu mà Mạnh Tử nêu lên, đó là "bất hiếu có ba, vô hậu là lớn nhất" (bất hiếu hữu tam vô hâu vi đại). Lục độ tập kinh 8, tờ 48a7-10 viết: "Ta muốn cái đạo vô dục, ý muốn ấy mới quí. Đem đạo truyền cho thần, đem đức trao cho thánh, thần thánh truyền nhau giáo hóa rộng lớn không bao giờ hư, đó mới gọi là sự thừa tự tốt. Bây giờ các ngươi ngăn nguồn đạo, chặt gốc đức, có thể gọi là kẻ vô hậu đó vậy".
“Khẳng định có một cách thừa tự tốt, đó là đem đạo đức truyền cho nhau, và đồng thời phê phán khái niệm thừa tự hẹp hòi của quan niệm vô tư và Mạnh Tử nêu lên, hiển nhiên đã nhắm thẳng vào chính những tư tưởng Nho giáo đang lưu truyền tại nước ta, báo động cho quần chúng biết về những thiếu sót và nền văn hóa nô dịch Trung Quốc đang tìm cách thâm nhập vào đời sống dân ta.”[11]
Gần đây khởi lên một số quan điểm cho rằng thuật ngữ “84,000 pháp môn” là sản phẩm của Phật Giáo Tàu, chứ không có trong kinh điển Pali. Trong Trưởng Lão Tăng Kệ có nói đến 84,000 dharmaskandhas, là 84,000 pháp uẩn, tức là 84,000 tập hợp, nhóm, hay lời dạy của đức Phật và chư vị đại đệ tử của đức Phật.[12] Tuy nhiên, trong Từ Điển Phật Giáo Tây Tạng Ives Waldo Dictionary định nghĩa 84,000 dharmaskandhas là 84,000 cửa pháp [pháp môn] để đối trị với 84,000 phiền não.
“84,000 gates of dharma [taught by the buddha to exist as antidotes for the 84000 kleshas, from each of the three pitakas bka' sde snod gsum nyi khri chig stong re and the 4th nyi khri chig stong bcas = 84000].”(84000 cửa pháp [được đức Phật dạy như là thuốc giải độc đối với 84000 phiền não, từ mỗi tạng trong tam tạng kinh điển.]).
Trong lời giới thiệu chương trình dịch thuật tam tạng kinh điển Phật Giáo sang Anh ngữ của Tổ Chức Phật Giáo Tây Tạng “84000 Translating The Words Of The Buddha,” cũng cho rằng đức Phật đã dạy 84,000 pháp môn.
“It is said that the Buddha taught more than 84,000 methods to attain true peace and freedom from suffering. Of these teachings, only 5% have been translated into modern languages. Due to the rapid decline in knowledge of classical languages and in the number of qualified scholars, we are in danger of losing this cultural heritage and spiritual legacy.”[13] (Được biết rằng đức Phật đã dạy hơn 84,000 phương pháp để đạt tới an lạc và giải thoát khổ đau thực sự. Trong những lời dạy này chỉ có 55% là đã được dịch sang các ngôn ngữ hiện đại. Vì sự thoái bộ nhanh chóng trong kiến thức về các cổ ngữ và trong số lượng học giả có phẩm chất, chúng ta ở trong sự nguy hiểm của mất mát di sản văn hóa và di sản tâm linh này.”
Điều đó cho thấy rằng, không phải vì Phật Giáo Việt lệ thuộc vào Phật Giáo Tàu nên mới cho rằng 84,000 pháp uẩn là 84,000 pháp môn, mà Phật Giáo Tây Tạng cũng hiểu 84,000 pháp uẩn là pháp môn. Tất nhiên, ai cũng biết rằng con số 84,000 chỉ là một con số biểu tượng cho số nhiều chứ không nhất thiết là phiền não chỉ có chừng đó. Nhưng, đã có con số 84,000 phiền não biểu tượng thì con số biểu tượng 84,000 lời dạy của đức Phật như những pháp môn đối trị cũng không phải là hoàn toàn vô căn cứ, vô nghĩa. Có lẽ chính đó là lý do tại sao trải qua nhiều thế kỷ từ Tây Tạng, Trung Quốc đến Việt Nam các bậc cổ đức vẫn sử dụng con số 84,000 pháp môn để nói về 84,000 pháp uẩn. Hơn nữa, pháp môn có hiểu qua nhiều khía cạnh. Có pháp môn dùng để nghe, có pháp môn dùng để suy nghiệm và có pháp môn dùng để tu tập, thích ứng với tam học văn tư tu như là 3 nguyên tắc nhập đạo và phát triểt kiến văn và thực hành Phật Pháp. Theo ý nghĩa này, pháp môn cũng có thể hiểu là cánh cửa vào Phật Pháp qua phương thức văn, tư và tu. Khi nghe trực tiếp một lời dạy của đức Phật, hoặc khi tụng đọc và học tập giáo pháp của đức Phật từ kinh điển, từ chư thiện tri thức, người nghe cũng có thể nhờ đó mà liễu ngộ được Phật Pháp, đốn phá được vô minh và phiền não. Như vậy há không phải mỗi lời dạy, mỗi pháp uẩn là một pháp môn?
Thực tế không phải chỉ có Phật Giáo Việt, Phật Giáo Tàu có mối tương quan tương duyên chặt chẽ nhau vì đều cùng truyền thừa một nguồn cội Phật Pháp như nhau, mà ngay cả nền văn hóa Việt, văn hóa Tàu và các nền văn khác trên thế giới cũng có những tương quan tương duyên với nhau theo từng thời đại. Lịch sử tồn tại và phát triển của các nền văn minh trên thế giới từ xưa đến nay cho thấy rằng, các nền văn minh, các tôn giáo, các nền văn hóa vốn ít nhiều đều có mối tương quan tương duyên nhau. Không một nền văn minh, văn hóa và tôn giáo nào không chịu chi phối, ảnh hưởng, bắng cách này hay cách khác, các nền văn minh, văn hóa và tôn giáo khác. Phật Giáo cũng vậy, cũng không ngoại lệ. Việc Phật Giáo Việt, Phật Giáo Tàu, Phật Giáo Tạng, hay Phật Giáo Nhật, v.v… chịu ảnh hưởng ít nhiều với nhau là điều tất yếu, ngoài việc có cùng nguồn gốc Phật Pháp ra còn có mối tương quan tương duyên trong giao tiếp lân cận qua nhiều lãnh vực khác. Ngày nay, quan niệm về toàn cầu hóa đã là một sự thật phổ quát. Điều này có nghĩa là tất cả các nước trên thế giới đều chịu tương quan tương duyên và ảnh hưởng lẫn nhau, từ văn hóa, giáo dục, chính trị đến kinh tế, quân sự, v.v... Hiện nay, không một quốc gia nào trên thế giới có thể sống biệt lập với phần còn lại của xã hội loài người. Cả thế giới đã thành một ngôi làng nhỏ.
Tuy nhiên, trong cái chung của toàn cầu hóa vẫn có nét đặc thù của từng quốc gia, từng nền văn hóa, v.v... Phật Giáo cũng vậy, trong cái chung là tinh hoa cốt lỗi của Phật Pháp được đức Phật dạy mà nơi nào Phật Giáo truyền bá đến đều thấm nhuận phổ biến và duy trì, vẫn có cái riêng là nét đặc thù về hành hoạt của Phật Giáo bản địa.
Phật Giáo Việt cũng thế, cũng có những đặc điểm so với Phật Giáo Tàu. Tuy nhiên, một số Phật tử Việt Nam thời nay đôi khi chóa mắt trước những thành quả tu hành của các vị cao tăng ngoại quốc qua sự quảng bá của sách báo và kỹ thuật tin học, đã xem thường con đường thực nghiệm của Phật Giáo Việt, và đã quên rằng truyền thống hai ngàn năm Phật Giáo Việt cũng tu tập nghiêm mật các pháp môn Thiền, Tịnh, Mật như các truyền thống Phật Giáo khác trên thế giới, và đã không thiếu các vị cao tăng đắc đạo. Phật Giáo Việt có những hình ảnh sáng chói hiếm thấy trong các quốc độ Phật Giáo khác kể cả Phật Giáo Tàu như, vị vua sau khi truyền ngôi cho con thì vao chùa tu hành đắc đạo là Đệ Nhất Tổ Thiền Phái Trúc Lâm Trần Nhân Tông; vị thiền sư sống tự tại dung thông nhị đế Tuệ Trung Thượng Sĩ, thời bình thì ở chùa tu hành, hoằng pháp, thời đất nước bị ngoại bang xâm lăng thì mặc chiến bào ra trận đuổi giặc, giữ gìn bờ cõi biên cương; vị bồ tát dùng thân mình làm ngọn đuốc soi đường để thắp sáng lương tri nhân loại và lương tâm Ngô triều trước pháp nạn của Phật Giáo Việt vào đầu thập niên 1960s của thế kỷ trước là Bồ Tát Quảng Đức.
Hơn nữa, Phật Giáo Việt một thời đã là chất liệu nuôi dưỡng ý thức độc lập dân tộc và sức mạnh kiên cường đấu tranh bảo vệ quốc gia dân tộc với sự chủ đạo của một triết lý nhập thế dấn thân tích cực mà Phật Giáo Tàu không hẳn đã có. Như Lục Độ Tập Kinh đã có nói:
"Bồ tát thấy dân kêu ca, do vậy gạt lệ, xông mình vào nơi chính trị hà khắc để cứu dân khỏi nạn lầm than" (Bồ tát đổ dân ai hiệu vi chỉ huy lệ đầu thân mệnh hồ. Lệ chánh, tế dân nạn ư đồ thán)[14]
Lại nữa, cùng chịu tác động ít nhiều của phong trào chấn hưng Phật Giáo của Đại Sư Thái Hư bên Trung Hoa vào đầu thế kỷ 20, nhưng khi Phật Giáo Việt đẩy mạnh phong trào chấn hưng đến cao điểm thì thành quả khác xa với Phật Giáo Tàu. Phật Giáo Việt đã thực hiện thành công lần đầu tiên trong lịch sử Phật Giáo Thế Giới sự kết hợp hài hòa giữa hai truyền thống Nam Bắc Tông và hai giới Tăng Sĩ và Cư Sĩ trong một tổ chức thống nhất gọi là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất vào đầu năm 1964. Phật Giáo Việt đã phát triển thành công chương trình giáo dục quần chúng qua hệ thống Trường Trung Tiểu Học Bồ Đề và Đại Học Vạn Hạnh như là kết quả sáng chói của công cuộc chấn hưng Phật Giáo. Còn nhiều lắm những điểm đặc thù của Phật Giáo Việt mà nơi đây không thể nói hết.
Tóm lại, đức Phật khi đem Phật Pháp để giáo hóa chúng sinh chuyển mê, khai ngộ và thoát khổ, ngài không phân biệt giai cấp, chủng loại và quốc độ của đối tượng cảm hóa. Vì vậy, Phật Pháp đã có thể vượt biên cương quốc gia chủng tộc để lưu truyền trên khắp thế giới từ hơn hai mươi lăm thế kỷ nay.
Phật Giáo Việt và Phật Giáo Tàu có mối tương quan tương duyên đặc biệt kéo dài cả ngàn năm. Nhưng thực chất thì Phật Giáo Việt không lệ thuộc Phật Giáo Tàu. Trong quá trình lịch sử, Phật Giáo Việt mở rộng tâm và trí để tiếp thu có gạn lọc và sáng tạo những tinh hoa của Phật Giáo Tàu nói riêng và các trào lưu văn hóa nói chung để làm giàu thêm cho gia tài tâm linh quý báu của mình.
[1] Lê Mạnh Thát, Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, Chương IV2, nguồn: http://thuvienhoasen.org
[2] Sách đã dẫn trên, cùng nguồn: http://thuvienhoasen.org
[3] Sách đã dẫn trên, Chương II, nguồn: http://thuvienhoasen.org
[4] Sách đã dẫn, Chương II, nguồn www.thuvienhoasen.org
[5] Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, Phật Học Phổ Thông, Khóa v, Lịch Sử Phật Giáo Trung Hoa, nguồn www.quangduc.com
[6] E. Zurcher, The Buddhist Conquest Of China, Thạnh Xương, Đài Bắc, Đài Loan, 1959, Huỳnh Kim Quang địch, nguồn: www.thuvienhoasen.org
[7] Lê Mạnh Thát, Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, Chương IV, nguồn: www.thuvienhoasen.org
[8] Nguyễn Lang, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Tập 1, Chương 1, nguồn: www.langmai.org
[9] Thích Tuệ Sỹ, Văn Minh Tiểu Phẩm, nguồn: www.quangduc.com
[10] Nguyễn Trãi, Bình Ngô Đại Cáo, Ngô Tất Tố dịch, nguồn: www.vi.wikisource.org
[11] Lê Mạnh Thát, Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, Tập I, Chương II, nguồn: www.thuvienhoasen.org
[12] Xem Thích Nhật Từ, Đức:Phật Có Dạy 84000 Pháp Môn Hay Không, http://thuvienhoasen.org/a22455/duc-phat-co-day-84-000-phap-mon-khong ; và xem Cư Sĩ Nguyên Giác, Tu Học: Nói, Nghe, Đọc, Viết… http://thuvienhoasen.org/a22444/tu-hoc-noi-nghe-doc-viet
[13] Nguồn: http://84000.co/about/vision
[14] Lê Mạnh Thát, Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, Tập I, Chương II,
Thứ Sáu, 7 tháng 8, 2015
VÀ KHI TỈNH (THỨC), TÔI TÌM LẠI TÔI
Quán Như Phạm Văn Minh
To study the Way is to study the Self
To study the Self is to forget the Self
To forget the Self is to be enlightened by all things
Dogen Tổ Phái Thiền Tào Động, Nhật
Vào khoảng năm 1964 hay 65, Thầy Nguyễn Đăng Thục lúc đó là Khoa Trưởng Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, tổ chức một buổi hội thảo bằng tiếng Anh, có sự tham dự của viên Giám Đốc Hội Việt Mỹ, với đề tài “Who Am I?” Sinh viên rất phấn khởi vì cuộc hội thảo bằng tiếng Anh về một đề tài triết lý Đông phương. Tôi không còn nhớ chi tiết thảo luận vì trình độ tiếng Anh lúc đó chưa sạch nước cản và kiến thức về về triết học Đông Phương cũng tầm thường, chỉ đủ thi đậu chứng chỉ Triết Đông cuối năm!
Những người không ở trong ngành tưởng là đây là một câu hỏi ngớ ngẩn của những người bị bệnh lãng trí, không còn nhớ mình là ai, nhưng không phải ai cũng có thể trả lời câu hỏi này rõ ràng. Tôi là ai? Tôi là tên cha mẹ đặt hay là bút hiệu mà tôi đặt? Tôi là tiểu sử cắt ngang hay cắt dọc? Tôi là thể xác và tâm hồn? Tôi là những bằng cấp hay kiến thức mà tôi đạt được trong đời? Tôi lúc còn trẻ hay lúc đã về chiều? Tôi vẫn là tôi trong dòng đời trôi chảy hay vẫn thế không biến đổi trong vô thường? Hay tỉnh thức như Walt Whitman “I am larger better than I thought. I contain multitude”.
Thế nhưng hễ bị ai đe dọa hay khiêu khích ‘cái tôi’, hoặc khi nghĩ người khác không hiểu ‘cái tôi’đúng theo mô hình tưởng tượng mà mình ‘nghĩ sẵn trong đầu’, cái tôi không biết từ đâu lại đùng đùng nổi dậy. Cống cao ngã mạn là nguồn gốc lớn nhất của đau khổ mà chúng ta gặp trên đời .
‘Tôi’ theo cái nhìn của khoa học não bộ
Trực giác thông thường khiến chúng ta nghĩ là hễ có ý tưởng phải có người suy nghĩ. Theo Giáo Sư Wolf Singer đây là một trực giác sai lầm còn sót lại từ thời Descartes, khi triết gia này tuyên bố ‘I think therefore I am’ (Cogito Ergo Sum), chia con người thành hai phần, mở đầu cho lối suy nghĩ nhị nguyên. Các nghiên cứu hiện đại về não bộ cho chúng ta một hình ảnh hoàn toàn khác về Ngã trong não bộ con người. Không có bằng chứng cho thấy có phần đặc biệt nào trong não đứng ra chủ động phối hợp ý tưởng. Có ý tưởng nhưng không có người suy nghĩ! Các nhà tâm lý hiện đại gọi là thoughts without a thinker.
Khi trong đầu hiện ra tình cảm về ‘Tôi’, nhiều tế bào trong nhiều vùng khác nhau của não bộ trở nên năng động cùng một lúc và làm dao động hàng ngàn các tế bào não khác. Không có chỗ nào đặc biệt trong não có thể gọi là người suy nghĩ. Vô ngã không phải là lý thuyết suông của đạo Phật mà là một hiện thực trong khoa học não bộ.
Vô ngã là một trong tam pháp ấn, ba cánh cửa giải thoát. Hơn hai ngàn năm trước Đức Phật không có dụng cụ nào để đo lường não, làm sao Ngài ‘thấy’ được chuyện này? Thảo nào mà Kabat Zinn khen tặng Đức Phật là một thiên tài khoa học dù trong tay không có một dụng cụ nào để ‘đo’ tâm ngoài các phương pháp thiền định, trong đó có Thiền Chánh Niệm. Singer khẳng quyết là trực giác cho rằng có một trung tâm điều khiển ý tưởng là hoàn toàn sai lầm (Jon Kabat Zinn and Richard Davidson, The Mind’s Own Physician, p 66)
Nguồn cội khổ đau
Ngã là nguồn cội lớn nhất gây đau khổ cho chúng ta. Sau 49 ngày nhập định và giác ngộ, Đức Phật ngần ngại không muốn đem Chánh pháp truyền bá, phải nhờ có một thiên thần xuống thuyết phục và cuối cùng vì lòng từ bi đối với chúng sinh, Ngài mới chịu nhận lời. Trong ba Pháp Ấn, khổ và vô thường thì khá rõ ràng dễ được mọi người chấp nhận, nhưng vô ngã là một ý tưởng đi ngược dòng chảy trong bối cảnh văn hóa thời Đức Phật. Nhất là trong Ấn giáo, không những có ngã cá nhân mà còn có Đại ngã và Tiểu ngã. Nhất là câu hỏi theo suy nghĩ thông thường của chúng ta: nếu không có ngã thì ai tác nghiệp và ai thụ nhận nghiệp? Điều bận tâm của Đức Phật rõ ràng là lý thuyết vô ngã. Một câu nói khác thường xem là của Đức Phật do Jon Kabat Zinn dẫn chứng là: “Những điều Như Lai dạy trong 45 năm hành đạo, có thể tóm gọn vào một câu: không có cái gì gọi là Ngã để có thể bám víu vào’. (Trích lại của Jon Kabat Zinn)
Bài thuyết pháp thật ngắn cho Bahiya
Nghe tin Đức Phật đang thuyết pháp, một đạo sĩ Bà La Môn lặn lội từ xa đến nhờ Đức Phật chỉ dạy. Bahiya thưa: “Bẩm Thế Tôn, xin Ngài Ban cho con một bài Pháp”. Đức Phật trả lời: “Hiện giờ thì không được, để lúc khác” Bahiya nài nĩ : “Bẩm Thế Tôn, xin Ngài ban cho con một bài Pháp” Đức Phật cũng trả lời: “Hiện giờ thì không được, để khi khác”. Bahiya không nản lòng, tiếp tục nài nĩ: “Bẩm Thế Tôn, xin Ngài ban cho con một bài Pháp”. Theo truyền thống, Đức Phật không từ chối thuyết pháp cho những đệ tử nào xin Ngài ba lần. Có lẽ đây là một bài Pháp nhắn gọn nhất. Ngài dạy: “Bahiya, liên hệ đến các căn như nhãn, chỉ có cái thấy. Liên hệ đến các căn như nhĩ, chỉ có cái nghe. Liên hệ đến căn thiệt, chỉ có cái nói. Liên hệ đến căn ý, chỉ có cái suy nghĩ. Bahiya không có ngươi trong đó. Nếu không có ngươi trong đó, thì đau khổ còn dính vào đâu được.”
Quý vị tạm dừng một chút để suy nghĩ xem có sự khác biệt khi quý vị nghĩ trong đầu là: “Có cái đau và tôi bị đau” “Có cái buồn hiện diện và tôi buồn”, “Có ý nghĩ về…và tôi suy nghĩ về”, “Có cái bực bội trong lòng và tôi bực mình quá” Trong vế thứ hai quý vị phản ứng theo thói quen và đồng hóa mình và cảm thọ có trong tâm, dĩ nhiên là quý vị cảm thấy đau khổ. Nhớ khi đạt đến mức Xả, quý vị không phản ứng với các cảm giác hay tình cảm tích cực cũng như tiêu cực. Hay như lời Đức Phật dạy Bahiya, nếu không có ngươi trong đó, thì đau khổ còn dính vào đâu được.”
Những yếu tố khác nhau của cái Ngã giả tưởng
Khi nói ‘Tôi’ chúng ta muốn nói tôi là một hiện hữu tự thân, không thay đổi dù là tôi lúc một tuổi và cái tôi lúc về già, tôi vẫn là tôi. Điều này không đúng theo nguyên tắc vô thường. Cái tôi hôm nay không phải là cái tôi trong khoảnh khắc trước, nói gì tuần trước hay năm trước. Ngã chỉ trổi dậy mạnh mẽ khi có những ‘điều kiện’ như khi có một tình cảm thật khó chịu, hay thật vui thích, hay khi giao tiếp xã hội. Đang đi dạo thảnh thơi không để ý gì đến cái tôi, nhưng nếu có người quen biết nào nói: “chào anh Minh”, cái Tôi trở lại ngay. Cường độ của cái ngã có thể thay đổi, khi mạnh liệt, khi tế vi. Ngã không phải lúc nào cũng hiện diện trong ta và cũng giống như các hiện tượng tâm lý khác, đủ điều kiện thì hiện đó nhưng biến đó.
Chức năng của cái Ngã giả tưởng
Cái ngã tư duy-phản tỉnh: (Reflexive self) như ‘tôi đã giải quyết xong vấn đề’. Phần phụ trách suy nghĩ trong não là PFC (Pre Frontal Cortex) và ACC (Anterior Cingulate Cortex).
Cái ngã tình cảm (Emotional self) ‘Tôi bực quá, buồn quá’ thuộc trách nhiệm của phần Limbic.
Cái ngã tiểu sử (auto-biographical self) kết hợp cái ngã phản tỉnh và cái ngã tình cảm để tạo ra hình ảnh cái ngã độc đáo của chúng ta trong quá khứ và tương lai. Khi tâm an lạc cái ngã tiểu sử hầu như biến mất.
Cái ngã đối tượng (self as object) “Tại sao tôi lại do dự, thiếu quyết định đến như thế?” Ngã trở thành đối tượng của chính nó!
Căn bản nhất là cái Ngã chủ thể (Self as subject) là trãi nghiệm thông thường nhất về cái tôi và là một trong những chiến thuật tổ tiên chúng ra dùng để sống còn (phân biệt mình và thế giới bên ngoài) .
Ngã sở hữu (mine): Tiền của tôi, Nhà của tôi. Bồ của tôi. Không được đụng tới đấy nhé!
Tóm lại, theo quan điểm của các nhà Khoa học Não Bộ, chúng ta giả tưởng về một cái ngã thống nhất, tự tại và độc lập và đó là một ảo tưởng. Ngã giả tưởng do sự nhiều hệ thống tế bào não phối hợp và quan trọng nhất là không có trung tâm nào trong não để điều hướng tình cảm, ý tưởng, cảm giác khi ngã trổi dậy (Hanson The Buddha’s Brain p 211).
Ngã và cá nhân
Cá nhân là một tổng thể, gồm cả não và tâm, một hệ thống kết hợp duy nhất, tự chủ và linh động để sống trong một văn hóa và thế giới tự nhiên. Tôi là một cá nhân và anh cũng là một cá nhân. Một cá nhân có tiểu sử, giá trị và chương trình hoạt động, chịu trách nhiệm về những gì mình làm. Một cá nhân hiện hữu khi cơ thể còn sống và khi não còn nguyên vẹn. Tuy nhiên Ngã không có phần đặc biệt nào trong não bộ chịu trách nhiệm về cái Tôi. Mặc dù hình ảnh của ngã được chứa trong kho ký ức thông tin về nhận thức và ứng xử trong não, ngã chỉ là phần nhỏ của một cá nhân.
Nếu quý vị thảnh thơi thư giản sống trong dòng đời với người khác, cái ngã sẽ từ từ biến mất đàng sau. Nằm ngắm trăng sao trong đêm một mình, hay ngồi ngắm biển bao la chẳng hạn. Càng ít nghĩ về ngã quý vị càng cảm thấy an lạc.
Thế nào đến một lúc nào đó trong đời, quý vị cũng hỏi câu hỏi mà thầy Thục thảo luận với sinh viên Văn Khoa: ‘Tôi là ai?’ Không ai có thể trả lời chính xác câu hỏi này vì ngã là một cái gì dễ vuột khỏi tầm tay, nhất là khi Ngã xem xét đối tượng là chính mình!
Ngã giả tưởng như khi chúng ta nghĩ về con Kỳ Lân (Unicorn), một con vật chỉ có trong huyền thoại! Hình ảnh đại diện Kỳ Lân hiện diện trong não nhưng trên thực tế, Kỳ Lân không hề hiện hữu. Khác với khi chúng ta nghĩ về một con ngựa, hình ảnh của con ngựa hiện diện trong não và con ngựa cũng hiện hữu trong thực tế.
Vài chỉ dẫn thực tiển để khỏi bị Ngã khống chế
Sự phân biệt giữa cá nhân và ngã đề cập trên rất hữu ích giúp chúng ta sống như một cá nhân mà không cần mắc kẹt vào tự ngã. Ngã chỉ là một phần nhỏ của cá nhân. Ngã giả tưởng giúp chúng ta trong một vài trường hợp nhưng phần lớn gây đau khổ, khi chúng ta đồng hóa mình với ý nghĩ hay tình cảm về ngã. Khi chúng ta đồng hóa ngã với thân thể của mình thì khi thân thể tuân theo luật vô thường trở nên yếu đuối và chết, chúng ta sẽ đau khổ. Ý nghĩ chiếm hữu tài sản hay người khác, nên nhớ thân thể này còn không phải là của chúng ta nói chi đến những tài sản khác. Niềm vui có lúc qua đi, nhà cửa, danh vọng cũng có ngày mất đi, không có gì tồn tại mãi mãi. Nghĩ tới vô thường giúp chúng ta trở nên độ lượng hơn với người thân, láng giềng, bạn bè hay những người chung quanh.
Một yếu tố nữa khiến Ngã dễ trổi dậy là ghen tỵ, ganh ghét với người khác. Ghen tỵ kích thích các liên minh synapses làm chúng ta đau đớn cơ thể (Hanson p 216). Thay vì ghen tức chúng ta có thể tỏ ra tử tế với những người có danh tiếng và dù mình không giàu hay nổi tiếng bằng họ. Những người thành công đã cố gắng làm việc nhiều năm và cố gắng hết sức mới được danh vọng và tài sản lớn như thế. Biết đâu họ đã phải một giá đắt cho những gì mà họ thực hiện được! Nghĩa là họ xứng đáng để thành công. Thái độ tử tế như thế làm lòng mình nhẹ nhàng hơn thay vì ghen tức, vừa đau thân, vừa khổ tâm. Khi quan sát tình cảm và những đối tượng khác trong tâm, quý vị tự hỏi ai là chủ nhân của chúng. Không ai cả! Ý tưởng, tình cảm đến rồi đi mà không cần sự can thiệp của chúng ta. Nhiều khi muốn giữ lại cũng không được. Khi thực hành Chánh niệm quý vị biết điều rõ điều này hơn ai hết. Cái Tôi trổi dậy mạnh mẽ khi quý vị nghĩ mình là ‘quan trọng” và người khác phải kính trọng hay chấp nhận mình đúng mức. Khi khiêm cung, với thái độ ‘ngoài trời còn trời’, quý vị cảm thấy an lạc hơn, thảnh thơi như mây trắng! Nếu quý vị muốn đứng trên đám mây, thế nào có ngày quý vị cũng rơi xuống đất.
Khi khích động các liên minh synapses tích cực và để chúng thẩm thấu vào não bộ, quý vị sẽ cảm thấy được che chở. Nếu thiếu những tình cảm này, nhất là trong thời kỳ niên thiếu, trong tim quý vị sẽ có một lổ hổng to, vì thế những trẻ em bị bạc đãi hay hất hủi sẽ có một đời sống tình cảm khó khăn hay bất thường khi trưởng thành. Như những thực hành khác đề nghị trong các phương pháp trị liệu hay Thiền tập thường nhắc tới hai yếu tố quan trọng là từ bi và tử tế với chính mình.
Chúng ta thường thay đổi hành vi khi giao tiếp với người khác, lo ngại là không biết trong đầu họ nghĩ gì về mình. Dĩ nhiên ai cũng muốn được người khác kính trọng, chấp nhận và yêu mến, nhưng đừng tốn quá nhiều thì giờ trong việc lúc nào cũng lo người khác nghĩ sao về mình. Thay vì lo lắng như thế, cố gắng làm việc hết sức, đúng theo tiêu chuẩn đạo đức mà mình đã chọn lựa.
Nghĩ về đạo đức Phật Giáo
Thường Phật giáo nhấn mạnh đến giới cấm những điều bất thiện, nhưng Đạo Đức Phật giáo cũng bao gồm khuyến khích cổ động Phật tử làm những điều thiện (Bố thí, từ bi và nhẫn nhục). Một vài vị tôn túc khi nhắc tới Đạo Đức Phật Giáo hay đề cập tới bộ ba Chân-Thiện -Mỹ. Đây là ý niệm của Triết Lý Hy Lạp (Plato). Ngày xưa chúng ta hay nói Chùa là cái Thiện của Làng, Từ Bi là mặt trời của Đạo Đức Phật Giáo, nghĩa là trong Thiện có cả Chân và Mỹ. Tôi không có ý chẻ sợi tóc làm tư. Không làm điều Ác, chỉ làm điều thiện, thanh lọc tâm ý là tinh hoa Đạo Đức Phật giáo. Nhất là Đức Phật khiêm nhường, xem mình như một người bình thường khác, không bao giờ tự nhận ta là con đường mà xem đạo Phật là ngón tay chỉ mặt Trăng. Một Mặt Trăng nhưng có thể nhiều ngón tay chỉ. Dòng sông khổ đau cho kiếp nhân sinh chỉ có một, nhưng có thể có nhiều chiếc bè đưa chúng ta qua bờ bên kia. Đức Phật là người chỉ đường để chúng ta qua bờ bên kia. Đạo Phật không phải chỉ dành cho Phật tử mà cho tất cả người nào muốn qua bờ khổ đau. Từ ngữ Phật giáo do các nhà nghiên cứu Tây phương đặt ra và khoảng thế kỷ 19 và nếu thế, Đức Phật không phải là một Phật tử! Cũng thế, Thiền Chánh Niệm không phải chỉ dành cho Phật Tử thực tập, nói theo Jon Kabat Zinn, ai còn sống và còn thở đều thực tập được, chỉ cần một chút kiên nhẫn và tinh tấn.
So sánh yếu chỉ Đạo Đức một số tôn giáo Đông phương và Phật giáo.
Vì chú trọng đến trật tự xã hội, Khổng Tử nói: “Dĩ Trực báo Oán”, Mạnh tử nhấn mạnh đến yếu tố công bằng: “kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (Đừng làm cho người khác những gì mình không muốn họ làm cho mình). Đức Phật dạy: “Dĩ Đức báo oán. Dĩ oán báo oán, oán không bao giờ hết, đó là định luật muôn đời” Một đàng muốn bình thiên hạ, một đàng muốn trở về Tâm, để thấy cái Chân Tâm Từ bi Trí tuệ của mình, nên đặt ưu tiên khác nhau. Đó là chưa kể tới một số các tôn giáo độc thần đe dọa: “Mắt đổi mắt, răng đổi răng”. Chỉ về phương diện này quý vị có thấy là chúng ta may mắn (hay sáng suốt) chọn lựa được một tôn giáo Bất Bạo Động và không chấp nhận lòng tin mù quáng. Các khám phá của các nhà Khoa học Não bộ hiện nay, chứng minh Phật giáo là một tôn giáo có thêm một đặc tính khác: phù hợp với những phát kiến mới nhất của khoa học.
Điều này có đủ để quý vị hãnh diện khi chọn lựa Phật giáo là nguồn cỗi đạo đức của mình chưa?
TÍNH THIỆN LÀ ĐỐM LỬA KHÔNG TẮT...
GS.Cao Huy Thuần:
Linh Thoại thực hiện
Những độc giả từng yêu thích Nắng và hoa, Thấy Phật, Khi tựa gối khi cúi đầu, Chuyện trò... - những tập sách đã có một góc riêng sang trọng trên kệ sách tản văn Việt bởi góc nhìn uyên thâm, giọng văn ảo diệu của GS Cao Huy Thuần - nay vừa có thêm một tặng phẩm mới: Sợi tơ nhện.
Trở đi trở lại trong nhiều cuốn sách và đặc biệt trong Sợi tơ nhện, ông thường đề cập đến một nguyên tắc đạo đức quan trọng: không nói dối, và trước tiên phải thật với mình thì mới không dối với người. Có thể hiểu ông rất đau đáu với căn bệnh nói dối tràn lan hiện nay? Theo ông, bên cạnh gia đình, giáo dục ở nhà trường có thể làm gì thiết thực hơn để dạy mỗi đứa trẻ, mỗi công dân biết thành thật cũng là biết “làm người”?
- Nói dối là vấn đề làm đau xót xã hội hiện nay. Xung quanh chúng ta, ai cũng biết, toàn là dối. Chính ta cũng nói dối vì nói thật thì không sống được. Rồi ta lại dặn con: “Đừng nói thật con ạ, nói thật thì lỗ đấy”. Nói dối đã in sâu vào thói quen, biến văn hóa tốt đẹp thành “văn hóa” nói dối.
Nhưng chúng ta đừng mất lòng tin, dù cho tôi chẳng đề nghị được với cô một phương thức gì cụ thể để đưa nói thật vào nhà trường hiện nay. Tôi nghĩ nhà trường cũng chịu thôi. Nhưng, đừng mất lòng tin vì bất cứ ai cũng nghĩ trong lòng rằng nói dối là xấu. Đừng mất lòng tin vì tính thiện luôn luôn là ngọn nến trong lòng, đốm lửa không tắt, ánh sáng bất diệt. Lòng tin đó khiến tôi nhiều lần gợi lên vấn đề nói dối, mỗi lần dưới một khía cạnh khác nhau.
Lần này trong Sợi tơ nhện, tôi nêu vấn đề dưới khía cạnh triết lý, nhưng để đưa đến một kết luận đạo đức đơn giản có thể áp dụng trong mọi tình huống: hãy thành thật với mình. Khi nói dối, biết mình đang nói dối, biết mình đang xấu, biết hổ thẹn, biết chữa lại. Cái đáng sợ nhất nơi người nói dối là nói dối quen lưỡi, nói dối mà nghĩ rằng mình nói thật, rằng ai cũng nghĩ mình nói thật. Cái đáng sợ nhất, nói theo ngôn ngữ dân gian, là lương tri không còn biết phân biệt đâu là ma đâu là Phật, lầm ma với Phật, Phật với ma. Với lòng tin nơi sự thành thật không mất đâu cả ở trong ta, ta có thể quy y với chính ta, ai cũng có thể thệ nguyện: “Tôi nguyện giữ giới không nói dối”. Bằng cách tự thắp ánh sáng trong ta, trong mỗi người, biết đâu văn hóa nói dối cũng bớt tối tăm.
"Hãy sống như thử bao giờ cũng là khoảnh khắc cuối cùng, và hãy yêu cuộc đời như một ân huệ tối thượng mà ta phải đền đáp bằng tất cả tốt đẹp, thánh thiện trong lòng
Trích bài Hoa đào năm ngoái". (tr.102 - Sợi tơ nhện)
Bởi vậy có những câu trong sách làm người đọc giật mình chiêm nghiệm, như đọc một câu kinh. Chẳng hạn: “Cách hay nhất đối với bóng tối là ánh sáng. Cách hay nhất đối với xấu là tốt”...
- Vậy thì tôi kể thêm câu chuyện này nhé, lần này thì lấy trong kinh ra hẳn hoi. Hai ông vua lân bang gặp nhau ở biên giới. Hai xe đối đầu nhau trên một con đường hẹp, chỉ vừa một xe đi. Không ai nhường ai. Cuối cùng, hai ông giải quyết tranh chấp bằng câu hỏi: Ông dạy dân thế nào? Ông kia nói: “Cứng rắn đối cứng rắn/ Mềm mỏng đối mềm mỏng/ Thiện đức đối thiện đức/ Bất thiện đối bất thiện”. Ông này đáp: “Lấy không giận thắng giận/ Lấy thiện thắng không thiện/ Lấy thí thắng xan tham/ Lấy chân thắng hư ngụy”. Ông kia xuống xe.
Hình bìa (ảnh: Tiến Long)
Sợi tơ nhện đầy những chuyện giản dị như vậy, lắm khi tưởng là đùa mà thật là thâm thúy. Ngoài ra, cuộc sống trong những tản văn của ông luôn đầy huyền nhiệm, giúp “thắp sáng” trí óc người thật sự lắng nghe câu chuyện khiến người đọc thêm trân quý đời sống. Với riêng ông, đâu là châm ngôn sống mà ông muốn người đọc nhớ và thực tập nhất từ Sợi tơ nhện?
- Tôi quý chữ “thực tập” của cô nhưng tôi đề nghị thay chữ “châm ngôn sống” bằng “kinh nghiệm sống”. Châm ngôn là đến từ bên ngoài. Với tôi, đạo đức phải đến từ bên trong, tự tôi khám phá bằng kinh nghiệm, không luân lý nào áp đặt. Vậy, với kinh nghiệm sống của tôi, tôi tự thấy hạnh phúc là khi mình biết quên mình nhiều hơn và nghĩ đến người khác nhiều hơn. Đơn giản thôi, cô ạ. Cô nghĩ đến con của cô nhiều hơn hay nghĩ đến cô nhiều hơn? Khi cô căng thẳng với chồng, và nếu cô biết ngừng lại một chút, quên cái giận của cô một giây thôi, có phải cô cứu vãn hạnh phúc ngàn vàng của cô không? Sau đó tới thơm ông chồng một cái, trời ơi, có gì hạnh phúc hơn? Ai biết tha thứ, người đó hạnh phúc. Trong Sợi tơ nhện có một chuyện để nói lên ý đó.
Ông từng nói: “Sách của tôi thường viết là để cho giới trẻ đọc, đạo đức trong ấy là gửi cho giới trẻ”. Với Sợi tơ nhện lần này, ông có e ngại những vấn đề như “sinh tử”, “thiền ý”... khó được giới trẻ ngày nay lãnh hội, nhất là lớp trẻ VN ít được đào tạo bài bản về triết học, dễ e ngại những vấn đề còn nhiều tính triết luận?
- Ôi chao, câu hỏi này liên quan đến nhiều chuyện quá, nhưng trước hết tôi xin hỏi lại cô: thế nào là “trẻ”, thế nào là “già”? Tôi cam đoan với cô, các độc giả cụ già của tôi đọc chuyện yêu đương trong sách chẳng ai thấy mình già đâu! Tất cả nhân loại, ai chết cũng đều chết trẻ vì chẳng ai muốn mình già. Như vậy chẳng lẽ cô không tự nhận mình là “giới trẻ”? Nơi quyển Nhật ký sen trắng của tôi, dưới nhan đề lớn ấy là nhan đề phụ: “Chuyện kể cho tuổi 15 và phụ huynh”. Bởi vì phụ huynh cũng là “giới trẻ”! Không trẻ với con hoặc không biết trẻ với con thì không hiểu con được đâu, không làm đầy đủ được bổn phận của cha mẹ. Cho nên “giới trẻ” của tôi là mọi lứa tuổi, bắt đầu là tôi vì tôi không có tuổi.
Ấy là chuyện thứ nhất. Chuyện thứ hai trong câu hỏi của cô là chuyện làm tôi buồn nhất. Tôi chảy nước mắt trong nhiều sách cũng vì cái buồn ấy. Cái học của ta, cô ạ, không nhắm đến việc mở mang đầu óc suy nghĩ, phán đoán, không khai phóng những cái đầu tự chủ mà giam hãm nó trong nô lệ. Những vấn đề tôi đặt ra trong sách là to tát quá cho giới trẻ chăng? Tôi kể ra đây cho cô vài đề thi môn triết trong kỳ thi tú tài vừa rồi tại Pháp, nghĩa là cho các em 18 tuổi. “Có phải tôi là cái mà quá khứ của tôi đã làm ra tôi?”, “Chính trị có được thoát ra khỏi sự bắt buộc của sự thật?”, “Nghệ sĩ đưa ra một điều gì để hiểu chăng?”, “Phải chăng ý thức của cá nhân chỉ là phản ánh của xã hội trong đó cá nhân ấy sống?”. Họ học là học vậy, cô ạ. Học suy nghĩ. Nói nữa thì chỉ chảy nước mắt thêm mà thôi. Cô nghĩ sống chết là chuyện của các cụ già? Cô tưởng một em bé mồ côi mất mẹ không biết thốt ra một câu chứa đựng tất cả triết lý của thiên hạ: “Mẹ ơi, bây giờ mẹ ở đâu?”.
Như vậy thì chuyện “thiền” cũng không có tuổi, thưa ông?
- Luôn luôn trẻ, càng ngày càng trẻ. Cô quá biết sự bùng nổ của “thiền” trong các xã hội Âu - Mỹ đang bị stress này. Đâu đâu cũng nói “thiền”. Sinh viên ngồi thiền. Xí nghiệp ngồi thiền. Bệnh viện ngồi thiền. Thậm chí trẻ em ở tiểu học cũng được hướng dẫn ngồi im lặng trước giờ học. Tôi chỉ sợ là thiền đi quá xa trên đường thực dụng. Bởi vậy, tôi muốn đưa thiền về lại với những sự việc đơn giản nhất trong đời sống: một tiếng kêu của con ngỗng trời, một hơi thở ấm của nắng đầu xuân... Đi thì biết mình đi, ăn thì biết mình ăn, cô nghĩ giới trẻ không hiểu được chuyện đó hay sao?
Trong Sợi tơ nhện, cây roi của ông quan huyện cũng không dám đánh vào mùa xuân của tuổi trẻ vì nó cũng ý thức được mùa xuân vừa đến nơi một tác phẩm của tạo hóa. Tôi muốn “giới trẻ” làm quen với thiền như vậy, nơi bất cứ sự vật nào, nơi một câu thơ bình thường thôi, chẳng hạn câu này của Hàn Mặc Tử: “Chàng ơi, chàng ơi sự lạ đêm qua - Mùa xuân tới mà không ai biết cả”.
Cái giật mình khi chợt thấy mùa xuân đến ấy là cái giật mình của thiền. Bởi vì không phải ai cũng thấy. Mà ai thấy thì chuyện bình thường nhất cũng là “sự lạ”.
Nếu cô nghĩ rằng “giới trẻ” vẫn chưa hiểu thì tôi xin kể chuyện này. Hồi trước khi tôi còn đi dạy ở Sài Gòn, tình cờ tôi đọc được một bài thơ trong một nội san của sinh viên trường luật, bây giờ quên hết, chỉ nhớ lõm bõm mấy câu cuối, chắc là không đúng hẳn với nguyên văn: “Tôi tiếp tục gục đầu trên quyển Dân luật khái luận - Khi ngẩng lên - người yêu đi lấy chồng”.
Không biết sống trong mỗi giây phút hiện tại thì mất bồ là chuyện hiển nhiên, “giới trẻ” nào mà không biết chân lý ấy?
Linh Thoại thực hiện
(Tuổi Trẻ Online)
(Tuổi Trẻ Online)
Cơ Hội Cho Những Con Ngựa Thành Troy
Nguyễn Tiến Bắc
Trước thềm của Đại hội XII, những người yêu nước-bất đồng chính kiến” tìm cách gây ra nghi ngờ vào tiến trình Đại hội.... Tất cả những gì diễn ra trong cuộc thăm HK của TBT Nguyễn phú Trọng đơn giản chỉ là một sự thật: Hai bên đã thật sự tôn trọng lẫn nhau và vì lợi ích của hai quốc gia, - chẳng có chuyện thưởng phạt gì ở đây cả.
"Con ngựa thành Troy” là một điển tích văn học. Chuyện kể rằng: sau 10 năm đánh chiếm thành Troy không thành, quân Hy Lạp dùng kế đưa quân vào thành bằng cách làm một con ngựa gỗ lớn rồi đưa mấy binh sỹ giỏi vào trong bụng ngựa. Kế đến họ "tặng cho” nhà cầm quyền thành Troy. Quân Troy tưởng ngựa gỗ là món quà của quân Hy Lạp. Trong một đêm no say quân Hy Lạp trong bụng ngựa đã đi ra, họ mở cổng thành cho quân bên ngoài vào. Nhờ có ngựa gỗ mà quân Hy Lạp chiếm được thành Troy.
Con ngựa thành Troy ở tỉnh Canakkale, Turkey Đây là con ngựa gỗ đóng trong phim Trojan Horse năm 2004
Điển tích thú vị này khiến người ta nghĩ đến những kẻ đang tiếp tay cho các thế lực thù địch ở bên ngoài bằng cách đóng vai người yêu nước ở bên trong để chống phá chế độ, chống phá Nhà nước ta.
Sự kiện Tổng bí Thư Nguyễn Phú Trọng thăm Hoa Kỳ là một dịp để họ đánh từ trong” đánh ra. Có lẽ việc người ta đứng về lợi ích của nhà cầm quyền Bắc Kinh, và cả Hoa Kỳ để bình luận, gợi ý …tạo dư luận tác động xấu đến xã hội và phá hoại quan hệ quốc tế của Việt Nam gần đây lag một minh chứng:
Có người dựa vào The Diplomat (ngày 22/7/2015) viết bài post lên mạng tán đồng với phát biểu của Ngô Sĩ Tồn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nam Hải (Biển Đông), của Trung Quốc là một ví dụ.
Tại Hoa Kỳ, Ngô Sĩ Tồn vờ đóng vai nhà khoa học khách quan (khi phát biểu ở Trung tâm chiến lược và quốc tế Hoa Kỳ) rằng: Bắc Kinh nên cố gắng tránh đơn phương tuyên bố áp đặt ADIZ ở Biển Đông…
Đối với Hoa Kỳ, Ngô Sĩ Tồn khuyên: Washington không nên cố gắng để kiềm chế” Trung Quốc và nên có lập trường thật sự trung lập trong vấn đề này... Người Mỹ nên tiếp cận với vấn đề Biển Đông một cách tôn trọng lẫn nhau”... Hai bên cần tiến lên phía trước và tăng cường hợp tác quân sự trong tinh thần ấy”. Ông Tồn cũng kiên quyết chống đối những gì ông coi là sự can thiệp của Nhật Bản trong vấn đề Biển Đông với lập luận rằng sự tham gia ấy chỉ làm mọi chuyện xấu đi”?!
Ai cũng biết việc Hoa Kỳ và Nhận Bản chủ trương hiện diện ở Biển Đông không chỉ vì lợi ích của họ ở Biển Đông mà các nước ở khu vực này, trong đó có Việt Nam cũng cần có sự tham gia của hai nước lớn này để hạn chế sự hung hãn của TQ. Thế nên Trung Quốc đã tìm cách cản trở việc hai quốc gia này hiện diện ở Biển Đông. Ủng hộ những quan điểm đó chẳng phải là nối giáo cho giặc hay sao? Chẳng phải là những con ngựa thành Troy”?
Về quan hệ VN-HK, trong chuyến thăm của TBT Nguyễn Phú Trọng, họ lại đưa thông tin xuyên tạc, bóp méo tình hình nhân quyền VN và bôi nhọ cả Thượng khách của HK. Họ trích lời TBT: "Người dân Việt Nam chưa bao giờ được sống trong bầu không khí dân chủ như hiện nay... Tôi biết nhân quyền là vấn đề Mỹ rất quan tâm, đây cũng là vấn đề VN rất coi trọng. Bảo đảm và cải thiện quyền của công dân là ưu tiên cơ bản và chiến lược của chúng tôi”... (và phán rằng đó) chỉ là giả dối.
Nhằm "gợi ý” cho các lực lượng chống Cộng ở HK chống lại VN, họ nói: Đừng tin những gì mà Việt Nam nói…để được vào TPP, VN sẽ lại "khất vấn đề nhân quyền đó thôi…” Nhân đây xin nói thêm rằng-họ đã tính nhầm rằng Việt Nam có thể sẽ nhân nhượng với (các) cá nhân , tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật - sau chuyến thăm Hoa Kỳ của ông Trọng.
Cái mà những người "yêu nước-bất đồng chính kiến” không bao giờ quên là đả kích vào hệ tư tưởng, vào Chủ nghĩa Mác-Lênin, vai trò lãnh đạo của Đảng CS Việt Nam. Lợi dụng những bức xúc của cán bộ, Đảng viên và nhân dân VN sau vụ việc TQ xâm lấn biển đảo Quốc gia, quan hệ VN- TQ căng thẳng (Giàn khoan HD 981 hạ đặt tại vùng đặc quyền kinh tế thềm lục địa của VN tháng 4/2014), họ đẩy tới ý tưởng "thoát Trung”, với plus value (giá trị cộng thêm). Họ viết: "Thoát Trung là một điều tất yếu nếu VN muốn không trở lại thời kỳ Bắc thuộc”.
Song muốn thoát Trung, thoát giáo điều mác-xít, thoát suy thoái, thoát bế tắc, chỉ có một con đường là thức tỉnh đại khối dân tộc trong đó có đại khối đảng viên thường, không có chân trong các nhóm quan chức lợi ích riêng tư, để họ chung tiếng nói, suy nghĩ và nhất là hành động chung…” Chỉ có bằng hành động thì may ra mới có thể chuyển biến, biến đổi, chuyển hóa được họ”.
Jürgen Nagel - Cuộc biểu tình trên Alexanderplatz ở Đông Bá Linh, ngày 04 tháng 11, 1989 (DHM)
Người ta còn trắng trợn kêu gọi: cần thiết là tổ chức xuống đường đông đảo, trật tự, không bạo lực, như Gandhi đã làm, như Nelson Mendela đã làm, như dân Đông Đức ở Leipzich, Dresden, Berlin đã làm cuối năm 1989” mới có thể thay đổi được tình hình.
Trước thềm của Đại hội XII, những người yêu nước-bất đồng chính kiến” tìm cách gây ra nghi ngờ vào tiến trình Đại hội. Họ nói:
Một việc cần làm trước mắt là tất cả mọi người Việt Nam yêu nước nên theo dõi chặc chẽ các cuộc đại hội đảng các cấp, nhất là các đại hội cấp tỉnh, thành phố, Quân đội, Công an, … có bao nhiêu tỷ lệ đại biểu còn tin thật sự vào chủ nghĩa Mác- Lênin, bao nhiêu còn tin ở chủ nghĩa xã hội mác-xít, bao nhiêu còn muốn đảng mang tên Cộng Sản, bao nhiêu còn muốn đảng CS giữ độc quyền lãnh đạo, và bao nhiêu vẫn còn muốn kinh tế quốc doanh giữ quyền chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, bịt đường không cho kinh tế tư nhân tự do cạnh tranh phát triển”.
Từ đó họ suy luận vu cáo: Chẳng lẽ đến hôm nay mà đại đa số đảng viên CS, đại đa số nhân dân vẫn còn mụ mỵ, mù quáng theo Bộ Chính trị, chui đầu vào 4 cái kiên trì, 4 cái thòng lọng chết người là chủ nghĩa Mác -Lênin, CNXH mác-xít, chế độ độc đảng phi dân chủ và độc quyền quốc doanh?”.
Đối với chính phủ Hoa Kỳ, tổ chức sân sau của các lực lượng cực hữu- Human Rights Watch cho rằng, việc Tổng thống Obama tiếp TBT Nguyễn Phú Trọng ở phòng Bầu dục không chỉ là một sự kiện lạ mà còn là một thông điệp sai lầm. Họ nói: Cuộc họp này là một sự kiện kỳ lạ - một phần vì ông Trọng không phải là một người đứng đầu nhà nước, nhưng lại thay mặt cho người có vị trí cầm quyền cao nhất, theo Hiến pháp của Việt Nam hiện nay - mà phần kỳ lạ khác do Việt Nam đã nỗ lực rất ít trong thời gian gần đây để xứng đáng được phần thưởng là một cuộc họp trong phòng Bầu dục (Oval Office) của Nhà trắng… Và thông điệp đó là: "Chúng tôi muốn bạn cải cách, nhưng chúng tôi cũng sẽ tưởng thưởng cho bạn ngay cả khi bạn không cải cách gì!”.
Quả đúng như tục ngữ Việt Nam có câu: "Trứng khôn hơn vịt”.
Tất cả những gì diễn ra trong cuộc thăm HK của TBT Nguyễn phú Trọng đơn giản chỉ là một sự thật: Hai bên đã thật sự tôn trọng lẫn nhau và vì lợi ích của hai quốc gia, - chẳng có chuyện thưởng phạt gì ở đây cả.
Nguyễn Tiến Bắc
Nguồn http://kbchn.net/co-hoi-cho-nhung-con-ngua-thanh-troy-17879.html
. Đánh Giá các Tranh Luận: Đúng, Giá Trị và Hợp Lý
Thỉnh thoảng, người ta được nghe là, “nó có thể lo-gic đấy nhưng không đúng,” hoặc là “tất cả những gì đúng không phải luôn luôn lo-gic.” Cả hai cách nhìn này đều đúng, tất nhiên chúng không có nghĩa là lo-gic là không liên quan đến sự thật. Thực tế, lo- gic định nghĩa sự thật một cách nghiêm ngặt và nó tách biệt với hai khái niệm khác là hợp lý và giá trị, thỉnh thoảng nó cũng lẫn lộn với chúng trong bản gốc. Ba khái niệm này cùng nhau tạo ra một cơ sở để đánh giá bất kỳ tranh luận nào.
Aristotle, người đã thiết lập khoa học của lo-gic trong thế kỷ thứ tư trước công nguyên, là người đầu tiên phát hiện ra sự khác biệt giữa sự thật và tính hợp lý. Có lẽ đây là cống hiến quan trọng của ông đối với lĩnh vực này.
Tính chất giá trị đề cập đến tính đúng đắn mà kết luận rút ra từ những tiền đề của nó -- liệu những kết luận có phụ thuộc vào chúng hay không. Mặt khác, sự thật lại đề cập liệu những tiền đề và kết luận đó có phù hợp với thực tế không. Vì thế, có thể trong lý luận, bắt đầu với những tiền đề đúng đắn nhưng lại đạt được những kết luận sai (bởi vì chúng ta đã lập luận tồi với những tiền đề đó) hoặc là lập luận đúng, có giá trị nhưng lại không đạt được kết luận thực tế nào (bởi vì những tiền đề của chúng ta là sai). Tính hợp lý đạt được khi những tiền đề của một tranh luận là đúng và những kết luận của nó được tạo ra có giá trị từ chúng. Còn nếu không, tranh luận là không hợp lý. Đúng đắn và sai lầm, hợp lý và không hợp lý, có thể kết hợp xuất hiện rất nhiều trong những tranh luận, tạo ra bốn khả năng sau đây:
1. Chúng ta có thể có thực tế đúng (những tiền đề của chúng ta là đúng), và chúng ta có thể sử dụng chúng đúng cách (những suy diễn của chúng ta có giá trị). Trong một tình huống như thế, không chỉ có tranh luận của chúng ta là hợp lý mà kết luận cũng đúng.
Toàn bộ tranh luận sẽ có cơ sở và hợp lý.
a) Tất cả đàn ông đều sẽ chết. Socraté là một người đàn ông. Vì thế, Socrates sẽ chết.
2. Chúng ta có thể có thực tế đúng đắn (những tiền đề của chúng ta là đúng đắn), nhưng chúng ta có thể sử dụng chúng không thích đáng (lý lẽ thiếu giá trị). Trong trường hợp này, kết luận của chúng ta sẽ không hữu hiệu và toàn bộ tranh luận là không đúng.
b) Tất cả mèo đều là động vật. Tất cả lợn đều là động vật.
Vì thế tất cả lợn đều là mèo.
Trong một số trường hợp, kết luận của những tranh luận có thể ngẫu nhiên đúng, như trong trường hợp sau:
c) Tất cả mèo đều là động vật. Tất cả hổ đều là đều là động vật. Vì thế tất cả hổ đều là mèo.
Trong những trường hợp như thế này, chúng ta không thể xác định sự thật của kết luận từ tranh luận. Kết luận có thể đúng nhưng không phải là đúng trên cơ sở bảo vệ của tranh luận này.
3. Chúng ta có thể có thực tế sai (một hay nhiều tiền đề của chúng ta là sai), nhưng chúng ta có thể sử dụng chúng thích đáng (lập luận có giá trị). Trong trường hợp này, lý luân có giá trị nhưng kết luận không hợp lý.
d)Tất cả những siêu sao điện ảnh đều sống ở Hollywood. Robert Redford là một siêu sao điện ảnh.
Vì thế Robert Redford sống ở Hollywood.
Ở đây, tuyên bố thứ nhất sai rõ ràng, mặc dù lập luận có giá trị và kết luận có theo những tiền đề. Như trường hợp 2 ở trên, kết luận có thể đúng nhưng chúng ta không thể xác định tính đúng đắn của nó trong hoàn cảnh của tranh luận đó. Nó có thể đúng mặc dù tiền đề thứ nhất là sai, nói cách khác, nó có thể sai mặc dù lập luận đúng. Để đạt được kết luận mà chúng ta có thể cho là đúng, sẽ không đủ nếu chỉ lập luận đúng, chúng ta phải làm điều đó từ những tiền đề đúng đắn.
4. Cuối cùng, có tình huống mà một hoặc nhiều tiền đề của chúng ta là sai và chúng ta cũng sử dụng chúng không đúng cách (lập luận thiếu giá trị). Trong trường hợp như thế, tranh luận vừa không hợp lý và kết luận không đúng.
e) Tôi thích khoá học này
Tất cả các kỳ thi chung kết đều dễ.
Vì thế, tôi sẽ nhận được thứ hạng cao trong khoá học.
Bốn dạng của tranh luận:
Đúng đắn và sai lầm là mô tả thuộc tính của bản thân các mệnh đề.
Giá trị và thiếu giá trị đề cập đến việc lập luận và được xác định độc lập với tính đúng hoặc sai lầm của các tiền đề hoặc kết luận của tranh luận
Nếu lý luận có giá trị, một cuộc tranh luận có các tiền đề đúng, thì tranh luận đó chắc chắn có cơ sở, lý luận hợp lý. Nếu không, nó chắc chắn không có cơ sở. Vì thế, tất cả các cuộc tranh luận có cơ sở phải có tính hợp lý, nhưng những lý luận có giá trị vẫn có thể là có kết luận hợp lý hoặc là vô lý.
Một kết luận đạt được bằng các lập luận sai hoặc không giá trị có thể ngẫu nhiên đúng. Điều này không bắt buộc chúng ta phải chấp nhận -- nó vẫn không có tính hợp lý.
Từ khi chúng ta xác định chỉ có một dạng tranh luận là có kết luận chắc chắn đúng, bạn đọc sẽ băn khoăn tại sao chúng ta lại nên quan tâm đến những tranh luận mà tiền đề của chúng sai. Cho dù là tốt hơn hay xấu hơn, thỉnh thoảng chúng ta ở những tình huống mà chúng ta không biết tiền đề của chúng ta đúng hay không. Vì có thể suy diễn có giá trị, kết quả đạt được từ những tiền đề nếu đúng cho phép chúng ta đánh giá liệu chúng có đúng hay không. Tuy nhiên, bằng suy diễn hợp lý, chúng ta có thể rút ra kết luận mà chúng ta biết là sai, sau đó chúng ta có thể chắc chắn ít nhất là một trong những tiền đề của chúng ta là sai, bởi vì một kết luận sai không thể được suy diễn hợp lý từ những tiền đề đúng. Một ví dụ thú vị từ lịch sử khoa học liên quan đến thuyết ánh sáng. Lúc đầu, thuyết này cho rằng những phần tử ánh sáng phải đi trên đường thẳng xuyên qua không gian trống. Nhưng cuối cùng người ta nhận ra rằng nếu thuyết này là đúng thì các phần tử ánh sáng di chuyển qua một lỗ tròn trong một vùng mà ánh sáng không thể đi qua sẽ tạo ra một vòng ánh sáng trên một nền sau vùng đó. Tuy nhiên trong một thí nghiệm sau đó sử dụng một lỗ rất nhỏ, hình ảnh được tạo ra trên nền không phải là một vòng tròn ánh sáng, mà gồm những vòng sáng và các vòng tối đồng tâm xen kẽ nhau. Thí nghiệm đã chỉ ra rằng ánh sáng không di chuyển theo những đường thẳng mà là theo hình sóng. Thuyết ánh sáng đi thẳng đã bị thay thế bởi thuyết sóng ánh sáng. Do đó, ta biết rằng một điều gì đó được tạo ra từ một điều khác thậm chí là điều này sai thì nó vẫn có thể có ích lợi to lớn. Theo nghĩa này nếu bạn không hài lòng với một kết luận dường như là được suy ra một cách hợp lý từ một tiền đề, có thể là do bạn không hoàn toàn đồng ý với tiền đề mà kết luận được suy diễn đúng đắn từ đó. Do đó, vấn đề phức tạp có thể nằm ở tiền đề.
2. Chúng ta có thể có thực tế đúng đắn (những tiền đề của chúng ta là đúng đắn), nhưng chúng ta có thể sử dụng chúng không thích đáng (lý lẽ thiếu giá trị). Trong trường hợp này, kết luận của chúng ta sẽ không hữu hiệu và toàn bộ tranh luận là không đúng.
b) Tất cả mèo đều là động vật. Tất cả lợn đều là động vật.
Vì thế tất cả lợn đều là mèo.
Trong một số trường hợp, kết luận của những tranh luận có thể ngẫu nhiên đúng, như trong trường hợp sau:
c) Tất cả mèo đều là động vật. Tất cả hổ đều là đều là động vật. Vì thế tất cả hổ đều là mèo.
Trong những trường hợp như thế này, chúng ta không thể xác định sự thật của kết luận từ tranh luận. Kết luận có thể đúng nhưng không phải là đúng trên cơ sở bảo vệ của tranh luận này.
3. Chúng ta có thể có thực tế sai (một hay nhiều tiền đề của chúng ta là sai), nhưng chúng ta có thể sử dụng chúng thích đáng (lập luận có giá trị). Trong trường hợp này, lý luân có giá trị nhưng kết luận không hợp lý.
d)Tất cả những siêu sao điện ảnh đều sống ở Hollywood. Robert Redford là một siêu sao điện ảnh.
Vì thế Robert Redford sống ở Hollywood.
Ở đây, tuyên bố thứ nhất sai rõ ràng, mặc dù lập luận có giá trị và kết luận có theo những tiền đề. Như trường hợp 2 ở trên, kết luận có thể đúng nhưng chúng ta không thể xác định tính đúng đắn của nó trong hoàn cảnh của tranh luận đó. Nó có thể đúng mặc dù tiền đề thứ nhất là sai, nói cách khác, nó có thể sai mặc dù lập luận đúng. Để đạt được kết luận mà chúng ta có thể cho là đúng, sẽ không đủ nếu chỉ lập luận đúng, chúng ta phải làm điều đó từ những tiền đề đúng đắn.
4. Cuối cùng, có tình huống mà một hoặc nhiều tiền đề của chúng ta là sai và chúng ta cũng sử dụng chúng không đúng cách (lập luận thiếu giá trị). Trong trường hợp như thế, tranh luận vừa không hợp lý và kết luận không đúng.
e) Tôi thích khoá học này
Tất cả các kỳ thi chung kết đều dễ.
Vì thế, tôi sẽ nhận được thứ hạng cao trong khoá học.
Bốn dạng của tranh luận:
Tiền Đề + Lý Luận = Kết Luận
Đúng
|
Giá Trị
|
Hợp Lý
|
Đúng
|
Thiếu Giá Trị
|
Không hợp lý
|
Sai
|
Giá Trị
|
Không hợp lý
|
Sai
|
Thiếu Giá Trị
|
Không hợp lý
|
Đúng đắn và sai lầm là mô tả thuộc tính của bản thân các mệnh đề.
Giá trị và thiếu giá trị đề cập đến việc lập luận và được xác định độc lập với tính đúng hoặc sai lầm của các tiền đề hoặc kết luận của tranh luận
Nếu lý luận có giá trị, một cuộc tranh luận có các tiền đề đúng, thì tranh luận đó chắc chắn có cơ sở, lý luận hợp lý. Nếu không, nó chắc chắn không có cơ sở. Vì thế, tất cả các cuộc tranh luận có cơ sở phải có tính hợp lý, nhưng những lý luận có giá trị vẫn có thể là có kết luận hợp lý hoặc là vô lý.
Một kết luận đạt được bằng các lập luận sai hoặc không giá trị có thể ngẫu nhiên đúng. Điều này không bắt buộc chúng ta phải chấp nhận -- nó vẫn không có tính hợp lý.
Từ khi chúng ta xác định chỉ có một dạng tranh luận là có kết luận chắc chắn đúng, bạn đọc sẽ băn khoăn tại sao chúng ta lại nên quan tâm đến những tranh luận mà tiền đề của chúng sai. Cho dù là tốt hơn hay xấu hơn, thỉnh thoảng chúng ta ở những tình huống mà chúng ta không biết tiền đề của chúng ta đúng hay không. Vì có thể suy diễn có giá trị, kết quả đạt được từ những tiền đề nếu đúng cho phép chúng ta đánh giá liệu chúng có đúng hay không. Tuy nhiên, bằng suy diễn hợp lý, chúng ta có thể rút ra kết luận mà chúng ta biết là sai, sau đó chúng ta có thể chắc chắn ít nhất là một trong những tiền đề của chúng ta là sai, bởi vì một kết luận sai không thể được suy diễn hợp lý từ những tiền đề đúng. Một ví dụ thú vị từ lịch sử khoa học liên quan đến thuyết ánh sáng. Lúc đầu, thuyết này cho rằng những phần tử ánh sáng phải đi trên đường thẳng xuyên qua không gian trống. Nhưng cuối cùng người ta nhận ra rằng nếu thuyết này là đúng thì các phần tử ánh sáng di chuyển qua một lỗ tròn trong một vùng mà ánh sáng không thể đi qua sẽ tạo ra một vòng ánh sáng trên một nền sau vùng đó. Tuy nhiên trong một thí nghiệm sau đó sử dụng một lỗ rất nhỏ, hình ảnh được tạo ra trên nền không phải là một vòng tròn ánh sáng, mà gồm những vòng sáng và các vòng tối đồng tâm xen kẽ nhau. Thí nghiệm đã chỉ ra rằng ánh sáng không di chuyển theo những đường thẳng mà là theo hình sóng. Thuyết ánh sáng đi thẳng đã bị thay thế bởi thuyết sóng ánh sáng. Do đó, ta biết rằng một điều gì đó được tạo ra từ một điều khác thậm chí là điều này sai thì nó vẫn có thể có ích lợi to lớn. Theo nghĩa này nếu bạn không hài lòng với một kết luận dường như là được suy ra một cách hợp lý từ một tiền đề, có thể là do bạn không hoàn toàn đồng ý với tiền đề mà kết luận được suy diễn đúng đắn từ đó. Do đó, vấn đề phức tạp có thể nằm ở tiền đề.
Nói một cách khác, khi chúng ta không biết tiền đề là đúng hay sai, chúng ta xem xét cách lý luận; lý luận có giá trị hay không? Trong các lý luận có giá trị và nếu tiền đề đúng, thì kết luận là hợp lý.
Tiền Đề
|
+
|
Lý Luận
|
=
|
Kết Luận
|
Đúng
|
+
|
Giá Trị
|
=
|
Hợp Lý
|
Sai
|
+
|
Giá Trị
|
=
|
Không hợp lý
|
Ví dụ, hãy xem xét tranh luận sau:
f) Nạo thai là sự huỷ bỏ bào thai, và sự huỷ bỏ một bào thai là lấy đi sự sống của một con người. Do đó, nếu lấy đi sự sống của một con người là là tội ác thì nạo thai cũng vậy.
Cái gì là tiền đề của của tranh luận này? Cái gì là kết luận?
Kết luận có được ra hợp lý từ những tiền đề không? Làm thế nào bạn có thể phản đối tranh luận này? (TQ hiệu đính: bạn có chập nhận rằng bào thai là sự sống chưa, và ai là người định ra cái điều bào thai là sự sống? Nói cách khác, tiền đề “bào thai là sự sống” có đúng hay không?).
Mẫu những tranh luận được suy diễn có cơ sở thường rất ích. Vì vậy nếu chúng ta lập luận hợp lý từ những tiền đề đúng đắn, chúng ta cần thiết phải đạt được một kết luận đúng mà chúng ta có thể kiểm tra tính đúng đắn của nó trực tiếp hoặc không.
( Trích chương 7-
Với Lý Luận Giỏi Giới Thiệu Những
Ngụy Biện Thông Thường
Morris S. Engel)
Trinh tiết? Mi là cái gì?
Trí Không
Nhân phẩm là gì? Phải chăng là phẩm chất của cái được gọi là con người? Những phẩm chất gì của con ngườiđể phân biệt đây là một con người mà không phải là con thú? Chúng ta có thể liệt kê ra đây hàng trăm đức tính mà loài người đang ngợi khen, như biết tư duy, biết yêu thương, sống có tình có lý, sống biết trên biết dưới, sống biết trước biết sau... Nếu cứ nói chung chung như vậy, thì kể cả phụ nữ lẫn đàn ông đều cần hết.
Rồi trong số mỗi ngành nghề, mỗi chức nghiệp lại có những tiêu chuẩn đạo đức riêng, chi tiết hơn, nhằm xác định anh đang làm ngành nghề này mà không phải là ngành nghề khác. Chẳng hạn trong ngành giáo dục, anh có nhiệm vụ dạy tri thức và đạo đức cho học sinh, thì anh không được chửi bậy. Ta không nói việc chửi bậy là xấu, nhưng với chức nghiệp của một giáo viên thì việc chửi bậy là không chấp nhận được....
Rồi trong số mỗi độ tuổi, người ta lại đòi hỏi mỗi độ tuổi có những ứng xử sao cho phù hợp với tuổi tác của mình. Độ tuổi này nói câu này, cư xử kiểu này thì được; nhưng cùng câu nói đó, cách hành xử đó mà nằm ở độ tuổi khác thì lại không chấp nhận được. Ví dụ như anh còn trẻ thì việc chọc con gái đẹp người ta coi đó là vui, nhưng già cả đáng tuổi ông rồi mà còn buông những câu khiếm nhã thì người ta gọi là mất nết. Tương tự như thế, khi bạn còn trẻ mà bạn lại tập tành những câu của các cụ thì bạn sẽ bị người ta gọi là ông cụ non...
Những tiêu chuẩn đạo đức như vậy, xin nhắc lại là, chúng chẳng có tốt hay xấu, đúng hay sai gì ở đây cả, chúng chỉ là những quy ước của số đông mà thôi. Nếu đám đông quy ước rằng, việc khỏa thân là đẹp, thì lúc đó, bất cứ kẻ nào mặc quần áo đều được liệt vào đội ngũ tuyên truyền văn hóa phẩm đồi trụy hết.Tất cả những tiêu chí mà tôi vừa nêu ở trên, đều chỉ là những quy ước, và ai làm trái với quy ước ấy, đều bị đám đông coi là xấu. Nhưng kỳ thật họ không có xấu, chỉ là khác đám đông mà thôi.
...
Mỗi giới tính cũng có những tiêu chí khác nhau. Nam phải thế này thì mới được gọi là nam. Nữ phải thế này thì mới được gọi là nữ. Nếu nam mà nhõng nhẽo ẻo lả quá, ăn mặc diêm dúa quá... thì người ta không còn coi là nam nữa, ngược lại nữ mà nói năng hùng hổ quá, mạnh bạo quá... thì người ta cũng phải xem xét lại giới tính ấy. Đấy chỉ là thói quen đã được tích tụ từ nhiều đời này.
Vì là thói quen, nên chúng có thể thay đổi. Nhưng vì người ta ngại thay đổi thói quen đấy, hoặc thói quen ấy còn tốt cho việc duy trì trật tự xã hội, nên người ta nâng nó lên thành quy ước, thành hương ước, thành truyền thống văn hóa, thành pháp quy... Và khi nâng cấp thói quen ấy thành pháp quy thì người ta gắn cho cái này là tốt, là đẹp, là đúng... và cái kia là xấu, là sai, là phạm tội...
Ở phương Đông, trong xã hội phong kiến, những tiêu chuẩn dành cho phụ nữ như Tam tòng, Tứ đức... đã được nâng từ một quan điểm, một học thuyết thành những quy phạm pháp luật. Và trải qua hàng nghìn năm phong kiến ấy, người ta bám víu vào nó đến mức tưởng rằng không có những tiêu chuẩn đó thì người ta không là con người nữa.
Trong vô vàn những tiêu chuẩn dành cho phụ nữ, thì trinh tiết được coi là phẩm hạnh số 1 của họ. Nếu ai chưa có chồng mà chửa, hoặc mất trinh tiết trước khi kết hôn... đều bị coi là con gái hư hỏng. Một số nơi còn cạo đầu bôi vôi, thả bè trôi sông... hoặc chí ít chịu sự chê cười của dư luận, là nỗi xấu hổ của cha mẹ họ hàng, và trở thành nỗi nhục không thể hàn gắn trong trái tim mong manh của người phụ nữ.
Và cứ thế, từ quan niệm của một triết gia nào đó, biến nó trở thành một học thuyết chính thống, nâng nó lên thành quy phạm pháp luật, bén rễ vào não trạng của đại đa số mọi người... khiến tư tưởng về cái màng trinh tiết trở thành vô giá. Bản thân những người đàn ông, với bản chất ích kỷ, muốn mình là thằng đàn ông đầu tiên cả trong tình yêu lẫn trên cơ thể của người phụ nữ mà họ yêu, nên càng đề cao cho tư tưởng này. Những người phụ nữ, vì yêu người đàn ông, vì sợ cuộc sống không ai ngó ngàng gì tới mình, nên cũng tăng cường cổ súy cho quan niệm giữ gìn trinh tiết cho đêm động phòng... và coi đó là phần thưởng vô giá cho người chồng của mình. Từ đời này qua đời khác, thói quen ấy, tư tưởng ấy... tích tụ dần dần khiến trinh tiết trở thành thước đo duy nhất phẩm giá của người phụ nữ. Và bất kỳ ai mất trinh tiết đều bị gán cho hai chữ: hư hỏng.
Bây giờ thì bạn đã hiểu nguồn gốc về những tiêu chuẩn đánh giá phẩm hạnh của người phụ nữ xuất phát từ đâu chưa? Từ sự ích kỷ của thằng đàn ông mà thôi. Và từ sự ích kỷ ấy, cộng thêm cái quyền lực có được từ hầu hết các lĩnh vực: chính trị, tôn giáo, văn hóa, khoa học nghệ thuật...phụ họa theo, nên người phụ nữ vô tình trở thành một sản phẩm trong tay của những kẻ ích kỷ như vậy. Họ - cánh đàn ông ấy - vì hắn không có khả năng mang thai, nhưng lại sợ phải nuôi con của thằng khác - vì thế luôn đề cao trinh tiết, tôn thờ trinh tiết. Trong khi đó, ở chiều ngược lại, bản thân thằng đàn ông có khi còn chẳng biết hắn mất trinh từ khi nào.
Sống trong xã hội hiện đại, khi chế độ phong kiến đã lùi vào dĩ vãng. Chúng ta cần phải vượt qua những tàn dư của văn hóa ao làng để thâm nhập vào biển lớn. Phụ nữ ngày nay không chỉ quẩn quanh trong xó nhà, với thêu thùa may vá, với Tam tòng, với Tứ đức...Chúng ta cần phải vượt qua những khuôn khổ hạn hẹp của những tiêu chuẩn lỗi thời đã và đang kìm hãm khả thể của người phụ nữ, để một lúc nào, có thể chúng ta sẽ không nhìn nhau là nam hay nữ nữa, mà chỉ nhìn nhau là con người thôi.
Trên con đường khẳng định bản vị của chúng ta ấy, chúng ta không phủ định sạch trơn những gì của quá khứ để lại, nhưng cũng không bê nguyên xi cái của quá khứ để gắn ghép cho thời đại ngày hôm nay. Mỗi chúng ta cần phải rất tỉnh táo để phân biệt được cái gì có thể học hỏi được, cái gì cần phải vượt qua, cái gì cần phải vứt vào sọt rác...
Với tư cách là một người đàn ông , tôi thiết nghĩ rằng, dù có muốn hay không, về mặt sinh lý, vẫn có sự khác biệt căn bản. Vì vậy, đừng đòi hỏi đàn ông làm gì thì đàn bà cũng phải làm cái đó cho bằng được. Chẳng hạn, có thời, đàn ông phải cầm điếu thuốc trên tay thì mới đáng mặt đàn ông, nhưng phụ nữ cũng cầm điếu thuốc phì phò để chứng tỏ bản thân, thì trước là nhan sắc của người phụ nữ bị ảnh hưởng, sau là đứa con của họ cũng bị kéo theo... Còn nhiều việc khác lắm, nhưng đại ý, tôi chỉ muốn nói là đừng có bắt chước nhau. Mỗi giới tính có những đặc điểm khác nhau, vì thế, sự bình đẳng thực sự không phải là san bằng tất cả, mà là tùy theo sinh lý giới tính mà làm.
Riêng về vấn đề trinh tiết, nó từng có thời được coi là chuẩn mực duy nhất dành cho một phụ nữ gia giáo và đức hạnh, nhưng hôm nay nó còn hợp không?Tôi nghĩ rằng, chúng hợp một phần, nhưng không phải là tất cả. Cái sai lầm của cánh phụ nữ phương Đông chúng ta là, coi cái màng trinh tiết là tất cả cuộc đời của họ, để rồi vô tình mất nó, thì bắt đầu sống buông thả bản thân, coi mình đã chết, và những tháng ngày sau đó, sống chỉ là để trả thù cuộc đời. Điều đó rất sai, điều đó là mặt trái của một tư duy ấu trĩ.
Tôi cho rằng, cái màng trinh tiết tự nhiên ấy, nó không nói hết được cái phẩm giá của người phụ nữ. Không ai cấm một người phụ nữ khi yêu thì yêu hết mình, yêu trọn vẹn, không tính toán suy lường.Vì thế, việc giữa họ với người đàn ông họ yêu có xảy ra chuyện quan hệ tình dục tiền hôn nhân cũng là chuyện bình thường. Chúng ta không coi tiếng gọi bản năng ấy là sai trái.Nhưng sẽ rất là sai trái nếu sau khi chuyện tình ấy đổ vỡ, người phụ nữ nghĩ rằng, mình đã không còn là con gái nữa, thì sau này ai thích gì cũng chiều. Sống buông thả, không trân trọng chính mình thì cũng đừng trách vì sao xã hội không trân trọng bạn. Tôi đã từng chứng kiến khá nhiều cô gái tới gặp tôi ăn năn hối lỗi, khóc lóc sầu thảm vì chuyện phá thai. Nhưng đâu chỉ phá thai 1 lần, có người còn 3 lần, 5 lần, 7 lần... Tôi có thể thương cảm cho họ không? Tôi nghĩ rằng, với sai lầm 1 lần, người ta coi đó là vấp ngã, nhưng 5 lần thì không thể coi là vấp ngã nữa, mà phải gọi là... Tôi chỉ cảm thấy ghê tởm thôi.
Đâu mới là trinh tiết thật sự của người con gái mà tôi cảm thấy trân trọng? Tôi không nghĩ đó là một lớp màng mỏng. Lớp màng ấy chẳng có ý nghĩa gì trong mắt tôi cả. Nhưng có thứ còn quan trọng hơn cả lớp màng ấy, ấy là Tình yêu thương, sự Tự trọng. Chúng là nhân cách thực sự của người phụ nữ mà tôi ngưỡng mộ.
Thế nào là tình yêu thương?Tình yêu thương nơi người phụ nữ nó đẹp lắm. Một tình yêu không tính toán, không vị kỷ... và thường phảng phất nét ngây thơ. Và cũng vì ngây thơ như thế, nên đôi khi họ có thể vấp ngã. Nhưng tôi muốn nói với các bạn nữ rằng, đừng vì sự vấp ngã ấy mà tự mình dìm mình xuống tuyệt vọng. Không phải lớp màng trinh nói lên nhân cách của bạn, mà chính hành động hiện tại của bạn mới là cái nói lên nhân cách thực sự của bạn. Sống sao để người ta yêu, để người ta kính, để người ta trọng chứ đừng sống để người ta khinh, để người ta coi thường, để người ta phỉ nhổ.
Thế nào là sự Tự trọng? Đừng nhầm lẫn lòng tự trọng với sự kiêu ngạo. Tôi vẫn hay nói với bạn bè rằng, với phụ nữ, kiêu ngạo chính là mồ chôn thu hút sự hiếu thắng của lũ đàn ông thích chinh phục nhất. Đừng có tự làm khổ mình vì sự kiêu ngạo, vì với phụ nữ kiêu ngạo, chúng tôi chỉ thích chinh phục, bẻ hết răng nanh và bỏ đó thôi chứ chẳng có tí nào muốn yêu thương cả. Sự tự trọng thì khác, sự tự trọng làm nên vẻ đẹp của phụ nữ. Họ yêu thương chân thành, họ nghiêm túc trong hành vi và lời nói, họ tự tôn trọng chính mình nên họ không đem tình yêu ra đùa giỡn. Và đứng trước người phụ nữ như vậy, tôi cảm thấy trân trọng.
Bạn đừng tự ti vì những gì đã xảy ra trong quá khứ
Với người đàn ông thực lòng yêu bạn, họ đủ bao dung để ôm ấp nỗi đau ấy
Bạn đừng để quá khứ chi phối đời sống hiện tại của bạn
Vì cái làm nên nhân cách của bạn là Tình yêu và sự Tự trọng trong Tình yêu.
Với tư cách một người đàn ông, tôi không đánh giá bạn qua sự trinh tiết của thân thể
Nhưng Tôi sẽ bắt đầu nhìn nhận về bạn khi bạn đối diện với vấp ngã mà bạn vừa trải qua
Chỉ khi người ta vấp ngã, ấy là lúc bản chất của chúng ta được bộc lộ một cách rõ ràng
Mạnh mẽ đứng lên, phủi bụi bặm xuống chân và ngước lên trong ánh bình minh rực rỡ
Con người là vẻ đẹp cao nhất của Tồn tại
Và phụ nữ là vẻ đẹp tinh khôi nhất của loài người.
Read more:http://www.suynghiem.vn/2015/08/trinh-tiet-mi-la-cai-gi.html#ixzz3i7uo5bLk
Nhân phẩm là gì? Phải chăng là phẩm chất của cái được gọi là con người? Những phẩm chất gì của con ngườiđể phân biệt đây là một con người mà không phải là con thú? Chúng ta có thể liệt kê ra đây hàng trăm đức tính mà loài người đang ngợi khen, như biết tư duy, biết yêu thương, sống có tình có lý, sống biết trên biết dưới, sống biết trước biết sau... Nếu cứ nói chung chung như vậy, thì kể cả phụ nữ lẫn đàn ông đều cần hết.
Rồi trong số mỗi ngành nghề, mỗi chức nghiệp lại có những tiêu chuẩn đạo đức riêng, chi tiết hơn, nhằm xác định anh đang làm ngành nghề này mà không phải là ngành nghề khác. Chẳng hạn trong ngành giáo dục, anh có nhiệm vụ dạy tri thức và đạo đức cho học sinh, thì anh không được chửi bậy. Ta không nói việc chửi bậy là xấu, nhưng với chức nghiệp của một giáo viên thì việc chửi bậy là không chấp nhận được....
Rồi trong số mỗi độ tuổi, người ta lại đòi hỏi mỗi độ tuổi có những ứng xử sao cho phù hợp với tuổi tác của mình. Độ tuổi này nói câu này, cư xử kiểu này thì được; nhưng cùng câu nói đó, cách hành xử đó mà nằm ở độ tuổi khác thì lại không chấp nhận được. Ví dụ như anh còn trẻ thì việc chọc con gái đẹp người ta coi đó là vui, nhưng già cả đáng tuổi ông rồi mà còn buông những câu khiếm nhã thì người ta gọi là mất nết. Tương tự như thế, khi bạn còn trẻ mà bạn lại tập tành những câu của các cụ thì bạn sẽ bị người ta gọi là ông cụ non...
Những tiêu chuẩn đạo đức như vậy, xin nhắc lại là, chúng chẳng có tốt hay xấu, đúng hay sai gì ở đây cả, chúng chỉ là những quy ước của số đông mà thôi. Nếu đám đông quy ước rằng, việc khỏa thân là đẹp, thì lúc đó, bất cứ kẻ nào mặc quần áo đều được liệt vào đội ngũ tuyên truyền văn hóa phẩm đồi trụy hết.Tất cả những tiêu chí mà tôi vừa nêu ở trên, đều chỉ là những quy ước, và ai làm trái với quy ước ấy, đều bị đám đông coi là xấu. Nhưng kỳ thật họ không có xấu, chỉ là khác đám đông mà thôi.
...
Mỗi giới tính cũng có những tiêu chí khác nhau. Nam phải thế này thì mới được gọi là nam. Nữ phải thế này thì mới được gọi là nữ. Nếu nam mà nhõng nhẽo ẻo lả quá, ăn mặc diêm dúa quá... thì người ta không còn coi là nam nữa, ngược lại nữ mà nói năng hùng hổ quá, mạnh bạo quá... thì người ta cũng phải xem xét lại giới tính ấy. Đấy chỉ là thói quen đã được tích tụ từ nhiều đời này.
Vì là thói quen, nên chúng có thể thay đổi. Nhưng vì người ta ngại thay đổi thói quen đấy, hoặc thói quen ấy còn tốt cho việc duy trì trật tự xã hội, nên người ta nâng nó lên thành quy ước, thành hương ước, thành truyền thống văn hóa, thành pháp quy... Và khi nâng cấp thói quen ấy thành pháp quy thì người ta gắn cho cái này là tốt, là đẹp, là đúng... và cái kia là xấu, là sai, là phạm tội...
Ở phương Đông, trong xã hội phong kiến, những tiêu chuẩn dành cho phụ nữ như Tam tòng, Tứ đức... đã được nâng từ một quan điểm, một học thuyết thành những quy phạm pháp luật. Và trải qua hàng nghìn năm phong kiến ấy, người ta bám víu vào nó đến mức tưởng rằng không có những tiêu chuẩn đó thì người ta không là con người nữa.
Trong vô vàn những tiêu chuẩn dành cho phụ nữ, thì trinh tiết được coi là phẩm hạnh số 1 của họ. Nếu ai chưa có chồng mà chửa, hoặc mất trinh tiết trước khi kết hôn... đều bị coi là con gái hư hỏng. Một số nơi còn cạo đầu bôi vôi, thả bè trôi sông... hoặc chí ít chịu sự chê cười của dư luận, là nỗi xấu hổ của cha mẹ họ hàng, và trở thành nỗi nhục không thể hàn gắn trong trái tim mong manh của người phụ nữ.
Và cứ thế, từ quan niệm của một triết gia nào đó, biến nó trở thành một học thuyết chính thống, nâng nó lên thành quy phạm pháp luật, bén rễ vào não trạng của đại đa số mọi người... khiến tư tưởng về cái màng trinh tiết trở thành vô giá. Bản thân những người đàn ông, với bản chất ích kỷ, muốn mình là thằng đàn ông đầu tiên cả trong tình yêu lẫn trên cơ thể của người phụ nữ mà họ yêu, nên càng đề cao cho tư tưởng này. Những người phụ nữ, vì yêu người đàn ông, vì sợ cuộc sống không ai ngó ngàng gì tới mình, nên cũng tăng cường cổ súy cho quan niệm giữ gìn trinh tiết cho đêm động phòng... và coi đó là phần thưởng vô giá cho người chồng của mình. Từ đời này qua đời khác, thói quen ấy, tư tưởng ấy... tích tụ dần dần khiến trinh tiết trở thành thước đo duy nhất phẩm giá của người phụ nữ. Và bất kỳ ai mất trinh tiết đều bị gán cho hai chữ: hư hỏng.
Bây giờ thì bạn đã hiểu nguồn gốc về những tiêu chuẩn đánh giá phẩm hạnh của người phụ nữ xuất phát từ đâu chưa? Từ sự ích kỷ của thằng đàn ông mà thôi. Và từ sự ích kỷ ấy, cộng thêm cái quyền lực có được từ hầu hết các lĩnh vực: chính trị, tôn giáo, văn hóa, khoa học nghệ thuật...phụ họa theo, nên người phụ nữ vô tình trở thành một sản phẩm trong tay của những kẻ ích kỷ như vậy. Họ - cánh đàn ông ấy - vì hắn không có khả năng mang thai, nhưng lại sợ phải nuôi con của thằng khác - vì thế luôn đề cao trinh tiết, tôn thờ trinh tiết. Trong khi đó, ở chiều ngược lại, bản thân thằng đàn ông có khi còn chẳng biết hắn mất trinh từ khi nào.
Sống trong xã hội hiện đại, khi chế độ phong kiến đã lùi vào dĩ vãng. Chúng ta cần phải vượt qua những tàn dư của văn hóa ao làng để thâm nhập vào biển lớn. Phụ nữ ngày nay không chỉ quẩn quanh trong xó nhà, với thêu thùa may vá, với Tam tòng, với Tứ đức...Chúng ta cần phải vượt qua những khuôn khổ hạn hẹp của những tiêu chuẩn lỗi thời đã và đang kìm hãm khả thể của người phụ nữ, để một lúc nào, có thể chúng ta sẽ không nhìn nhau là nam hay nữ nữa, mà chỉ nhìn nhau là con người thôi.
Trên con đường khẳng định bản vị của chúng ta ấy, chúng ta không phủ định sạch trơn những gì của quá khứ để lại, nhưng cũng không bê nguyên xi cái của quá khứ để gắn ghép cho thời đại ngày hôm nay. Mỗi chúng ta cần phải rất tỉnh táo để phân biệt được cái gì có thể học hỏi được, cái gì cần phải vượt qua, cái gì cần phải vứt vào sọt rác...
Với tư cách là một người đàn ông , tôi thiết nghĩ rằng, dù có muốn hay không, về mặt sinh lý, vẫn có sự khác biệt căn bản. Vì vậy, đừng đòi hỏi đàn ông làm gì thì đàn bà cũng phải làm cái đó cho bằng được. Chẳng hạn, có thời, đàn ông phải cầm điếu thuốc trên tay thì mới đáng mặt đàn ông, nhưng phụ nữ cũng cầm điếu thuốc phì phò để chứng tỏ bản thân, thì trước là nhan sắc của người phụ nữ bị ảnh hưởng, sau là đứa con của họ cũng bị kéo theo... Còn nhiều việc khác lắm, nhưng đại ý, tôi chỉ muốn nói là đừng có bắt chước nhau. Mỗi giới tính có những đặc điểm khác nhau, vì thế, sự bình đẳng thực sự không phải là san bằng tất cả, mà là tùy theo sinh lý giới tính mà làm.
Riêng về vấn đề trinh tiết, nó từng có thời được coi là chuẩn mực duy nhất dành cho một phụ nữ gia giáo và đức hạnh, nhưng hôm nay nó còn hợp không?Tôi nghĩ rằng, chúng hợp một phần, nhưng không phải là tất cả. Cái sai lầm của cánh phụ nữ phương Đông chúng ta là, coi cái màng trinh tiết là tất cả cuộc đời của họ, để rồi vô tình mất nó, thì bắt đầu sống buông thả bản thân, coi mình đã chết, và những tháng ngày sau đó, sống chỉ là để trả thù cuộc đời. Điều đó rất sai, điều đó là mặt trái của một tư duy ấu trĩ.
Tôi cho rằng, cái màng trinh tiết tự nhiên ấy, nó không nói hết được cái phẩm giá của người phụ nữ. Không ai cấm một người phụ nữ khi yêu thì yêu hết mình, yêu trọn vẹn, không tính toán suy lường.Vì thế, việc giữa họ với người đàn ông họ yêu có xảy ra chuyện quan hệ tình dục tiền hôn nhân cũng là chuyện bình thường. Chúng ta không coi tiếng gọi bản năng ấy là sai trái.Nhưng sẽ rất là sai trái nếu sau khi chuyện tình ấy đổ vỡ, người phụ nữ nghĩ rằng, mình đã không còn là con gái nữa, thì sau này ai thích gì cũng chiều. Sống buông thả, không trân trọng chính mình thì cũng đừng trách vì sao xã hội không trân trọng bạn. Tôi đã từng chứng kiến khá nhiều cô gái tới gặp tôi ăn năn hối lỗi, khóc lóc sầu thảm vì chuyện phá thai. Nhưng đâu chỉ phá thai 1 lần, có người còn 3 lần, 5 lần, 7 lần... Tôi có thể thương cảm cho họ không? Tôi nghĩ rằng, với sai lầm 1 lần, người ta coi đó là vấp ngã, nhưng 5 lần thì không thể coi là vấp ngã nữa, mà phải gọi là... Tôi chỉ cảm thấy ghê tởm thôi.
Đâu mới là trinh tiết thật sự của người con gái mà tôi cảm thấy trân trọng? Tôi không nghĩ đó là một lớp màng mỏng. Lớp màng ấy chẳng có ý nghĩa gì trong mắt tôi cả. Nhưng có thứ còn quan trọng hơn cả lớp màng ấy, ấy là Tình yêu thương, sự Tự trọng. Chúng là nhân cách thực sự của người phụ nữ mà tôi ngưỡng mộ.
Thế nào là tình yêu thương?Tình yêu thương nơi người phụ nữ nó đẹp lắm. Một tình yêu không tính toán, không vị kỷ... và thường phảng phất nét ngây thơ. Và cũng vì ngây thơ như thế, nên đôi khi họ có thể vấp ngã. Nhưng tôi muốn nói với các bạn nữ rằng, đừng vì sự vấp ngã ấy mà tự mình dìm mình xuống tuyệt vọng. Không phải lớp màng trinh nói lên nhân cách của bạn, mà chính hành động hiện tại của bạn mới là cái nói lên nhân cách thực sự của bạn. Sống sao để người ta yêu, để người ta kính, để người ta trọng chứ đừng sống để người ta khinh, để người ta coi thường, để người ta phỉ nhổ.
Thế nào là sự Tự trọng? Đừng nhầm lẫn lòng tự trọng với sự kiêu ngạo. Tôi vẫn hay nói với bạn bè rằng, với phụ nữ, kiêu ngạo chính là mồ chôn thu hút sự hiếu thắng của lũ đàn ông thích chinh phục nhất. Đừng có tự làm khổ mình vì sự kiêu ngạo, vì với phụ nữ kiêu ngạo, chúng tôi chỉ thích chinh phục, bẻ hết răng nanh và bỏ đó thôi chứ chẳng có tí nào muốn yêu thương cả. Sự tự trọng thì khác, sự tự trọng làm nên vẻ đẹp của phụ nữ. Họ yêu thương chân thành, họ nghiêm túc trong hành vi và lời nói, họ tự tôn trọng chính mình nên họ không đem tình yêu ra đùa giỡn. Và đứng trước người phụ nữ như vậy, tôi cảm thấy trân trọng.
Bạn đừng tự ti vì những gì đã xảy ra trong quá khứ
Với người đàn ông thực lòng yêu bạn, họ đủ bao dung để ôm ấp nỗi đau ấy
Bạn đừng để quá khứ chi phối đời sống hiện tại của bạn
Vì cái làm nên nhân cách của bạn là Tình yêu và sự Tự trọng trong Tình yêu.
Với tư cách một người đàn ông, tôi không đánh giá bạn qua sự trinh tiết của thân thể
Nhưng Tôi sẽ bắt đầu nhìn nhận về bạn khi bạn đối diện với vấp ngã mà bạn vừa trải qua
Chỉ khi người ta vấp ngã, ấy là lúc bản chất của chúng ta được bộc lộ một cách rõ ràng
Mạnh mẽ đứng lên, phủi bụi bặm xuống chân và ngước lên trong ánh bình minh rực rỡ
Con người là vẻ đẹp cao nhất của Tồn tại
Và phụ nữ là vẻ đẹp tinh khôi nhất của loài người.
Read more:http://www.suynghiem.vn/2015/08/trinh-tiet-mi-la-cai-gi.html#ixzz3i7uo5bLk
Nguồn gốc những điểm dị biệt trong bảng chữ cái tiếng Việt ( phần 1)
Nguồn gốc những điểm dị biệt trongbảng chữ cái tiếng Việt
André-Georges HaudricourtCao Thành Việt dịch theo bản dịch tiếng Anh củaAlexis Michaud, LACITO-CNRS, Pháp.Nguyên bản: L’origine des particularités de l’alphabetvietnamien,Dân Việt Nam
Lời giới thiệu cho bản dịch tiếng Việt
Nghiên cứu chữ Quốc ngữ sẽ thật thiếu sót nếu nhưkhông nghiên cứu lịch sử của nó. Trong giới nghiên cứu lịch sửchữ Quốc ngữ ở thế kỉ XX (thế kỉ thiết lập vị thế ‘danh chínhngôn thuận’ của chữ Quốc ngữ), ta không thể không nhắc tớiA.G. Haudricourt (1911 – 1996) với bài báo nổi tiếng ‘
Nguồn gốc những điểm dị biệt trong bảng chữ cái tiếng Việt
’, đăng trên Dân Việt Nam,tập san bằng tiếng Pháp của Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp (EFEO), năm 1949 tại Hà Nội.Vào thời điểm ra đời bài báo, A.G. Haudricourt hẵng cònchưa vang danh thế giới với giả thuyết về nguồn gốc tiếng Việt cũng như thanh điệu tiếng Việt (cf. Haudricourt 1953, 1954).Tuy nhiên, phải nói rằng, ngay từ thời điểm bấy giờ, như AlexisMichaud (tác giả của bản dịch tiếng Anh) nhận xét, A.G.Haudricourt đã chứng tỏ được ‘niềm đam mê […] trong việc phục dựng nguồn gốc lịch sử của những hiện tượng phức tạp,cũng như kỹ năng thu thập các bằng chứng từ nguồn tư liệu cực kì phong phú’, mà cụ thể ở đây là với bộ chữ La-tinh của tiếng Việt.Bộ chữ La-tinh hóa này, như A.G. Haudricourt đã chỉ ra,chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các sản phẩm văn tự La-tinh hóa của các ngôn ngữ Roman vì chính những người đã tạo tác nên nó – những linh mục Công giáo dòng Tên. Cụ thể, giống như hầu hết các bộ chữ viết La-tinh của các ngôn ngữ Roman, chữ Quốc ngữ của tiếng Việt cũng chứa đựng những điểm bất đối xứng (từ của Haudricourt là ‘dị biệt’ – ‘peculiarity’) giữa âm đọc và con chữ, tức trong nhiều trường hợp một chữ cái lại tương ứng với nhiều âm đọc, hoặc ngược lại, một âm đọc lại tương ứng với nhiều chữ cái. Haudricourt đã dành phần lớn bài báo để truy tìm nguồn gốc những điểm bất đối xứng này trong chữ Quốc ngữ. Phần còn lại của bài báo, tác giả đã cố gắng giải thích nguyên lai của những kí hiệu, dấu phụ đáng chú ý trong chữ Quốc ngữ, ví dụ như tại sao ta lại viết là Đ cho phụ âm /d/,nguồn gốc dấu nón của Ô - /o/ .v.v. Những tìm tòi và khám phá của Haudricourt thực sự đáng để bất cứ nhà nghiên cứu tiếng Việt nói chung và chữ Quốc ngữ nói riêng nào tham khảo. Và trên thực tế, bài báo này vẫn được coi là một trongnhững nghiên cứu sâu sắc và có giá trị nhất về nguồn gốc văn tự tiếng Việt hiện đại’ (xem lời giới thiệu của Alexis Michaud).Đó cũng chính là động lực lớn nhất để dịch giả quyết tâm chora đời bản dịch tiếng Việt để đông đảo hơn các độc giả ở ViệtNam có điều kiện tiếp cận tới công trình giá trị này.Dịch giả xin chân thành cám ơn TS. Alexis Michaud(nghiên cứu viên CNRS và MICA, Đại học Bách Khoa Hà Nội) vìđã giới thiệu bài báo cũng như động viên dịch giả hoàn thành bản dịch. Bên cạnh đó, dịch giả cũng chân thành gửi lời cám ơn đến NCS. Phạm Thị Kiều Ly (người đang viết luận án về quátrình Latinh hóa tiếng Việt tại trường Đại học Paris 3 - Pháp) vì những góp ý giá trị của chị về bản dịch qua đối sánh với bảngốc tiếng Pháp.-Hà Nội,
Lời giới thiệu của Alexis Michaud
Đóng góp của André-Georges Haudricourt vào Đông NamÁ học trên tầm quốc tế là không thể phủ nhận (tham khảocuốn HaudricourtFestschrift(Suriya, Thomas and Suwilai1985)). Tuy nhiên, khá nhiều công trình của Haudricourt vẫn chưa được biên dịch sang Anh ngữ để đông đảo hơn các độc giả có thể tiếp cận được. Chính vì lẽ đó, một nhóm các học giả đến từ nhiều nước đang tiến hành biên dịch và sẽ sớm cho ra mắt một tuyển tập các công trình nghiên cứu quan trọng nhất của Haudricourt bằng tiếng Anh. Mục đích của nó không gì hơn là nhằm chia sẻ với cộng đồng học thuật dùng Anh ngữ các trước tác của Haudricourt mà phần nhiều trong số chúng là đề cập tới các vấn đề liên quan đến các ngôn ngữ Đông NamÁ, ngôn ngữ học và nhân học xã hội
“Nguồn gốc những điểm dị biệt trong bảng chữ cái tiếngViệt” thực chất không phải là một trong những bài báo nổi tiếng nhất của Haudricourt, bởi vậy, nó dự kiến sẽ không được đưa vào tuyển tập tiếng Anh các trước tác của Haudricourt sắp được xuất bản tới đây. Tuy nhiên, cho tới tận ngày này, bài báo này vẫn được coi là một trong những nghiên cứu sâu sắc và có giá trị nhất về nguồn gốc văn tự tiếng Việt hiện đại. Nó truy tìm nguồn gốc những kí tự dị biệt có trong chính tả của ngôn ngữ này bằng cách lần theo dấu vết của chúng trong các hệ thống chính tả của các ngôn ngữ Rô-man gần gũi với chính những người đã chế tác ra chúng. Đây là một công trình thể hiện niềm đam mê của Haudricourt trong việc phục dựng nguồn gốc lịch sử của những hiện tượng phức tạp, cũng như kỹ năng thu thập các bằng chứng từ nguồn tư liệu cực kì phong phú.Bài báo này cũng khác với hầu hết các công trình khác của Haudricourt ở việc ngay từ ban đầu, nó đã xác định cho mình đối tượng mục tiêu đó là độc giả phổ thông. Vì vậy, tính đại chúng của nó thể hiện rất rõ trong văn phong, cách dùng từ tránh những thuật ngữ quá chuyên môn. Công trình đã ra mắt độc giả trong số thứ ba, và cũng là số cuối cùng của tập san Dân Việt Nam một tập san do Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp xuất bản trong những năm 1948, 1949 tại Việt Nam. Tài liệu nguyên gốc hiện tại rất khó tiếp cận, hơn nữa, đa số độc giả có khả năng quan tâm đến vấn đề này, ngày nay, rất có thể không có vốn tiếng Pháp tốt như đối tượng độc giả của Haudricourt vào năm 1949, thời điểm xuất bản bài báo. Vì vậy,hy vọng bản dịch này có thể giúp những ai quan tâm đến tiếngViệt và vấn đề văn tự nói chung tiếp cận được dễ dàng hơn tới tài liệu này.Nhà xuất bản ở Việt Nam bấy giờ rõ ràng đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc biên tập bài báo vốn sử dụng nhiều kí tự đặc biệt này. Vì thế, bản dịch lần này cũng sẽ đính chính luôn những lỗi soạn thảo có trong tài liệu gốc. Cụ thể, C được thaythế bằng G ở trang 64; p‘, t‘, k‘ lần lượt thay thế cho pc, tc, kctrong nguyên bản .v.v. Phiên âm trong bản dịch cũng được sửachữa lại theo đúng hệ thống IPA hiện tại.( Lời chú của dịch giả được để trong ngoặc vuông hoặc đặt ở phần chú thích cuối mỗi trang.)
Dịch giả xin chân thành cám ơn Michel Ferlus vì đã giớithiệu bài báo này, cám ơn Boyd Michailovsky, MartineMazaudon đã bỏ công nhuận sắc cho bản dịch và cám ơn Jean-Michel Roynard đã giúp đỡ dịch giả trong phần minh họa.
Tóm tắt: Tóm lược nguồn gốc các chữ cái và tổ hợp chữ cái dùngđể kí âm cho tiếng Việt [chữ Quốc ngữ ]:Những người có công sáng tạo bảng chữ cái La-tinh chotiếng Việt là những nhà truyền giáo đến từ Bồ Đào Nha, Ý và Pháp. Chính vì thế, sản phẩm văn tự này thừa kế một số đặcđiểm dị biệt có nguyên lai từ những văn tự ngôn ngữ Romancủa chính những nhà truyền giáo đó.Tuy nhiên, những phụ âm bật hơi (aspirated)1 trong chữ Quốc ngữ gồm H, PH, TH, KH [IPA: /h/, /pʰ/, /tʰ/, /kʰ/] lại khôngcó trong những ngôn ngữ Roman [Bồ Đào Nha, Ý, Pháp]. Ở những ngôn ngữ này, các tổ hợp con chữ PH, TH, KH chỉ xuất hiện trong những từ có nguồn gốc Hy Lạp, tương ứng với các phụ âm đầu bật hơi trong tiếng Hy Lạp là
phi, theta, khi(φ, θ,χ). Chính vì thế mà những tổ hợp này sau đó được sử dụng đểghi các phụ âm tắc bật hơi có trong tiếng Việt.Những kí tự ghi âm tắc C, G chỉ được sử dụng trước các nguyên âm /a/, /o/ và /u/. Lí do là trong những ngôn ngữ Roman thì đó là vị trí duy nhất mà những phụ âm trên còn bảo lưu được nét cản trở (obstruent) từ ngôn ngữ mẹ - tiếng Latin;GHE, GHI thì được dùng với giá trị ngữ âm mà chúng có trong tiếng Ý; tổ hợp KE và KI thì cần được lí giải từ chữ cái K trongtiếng Hy Lạp (kappa,κ ) và các thứ tiếng German.Âm tắc môi-ngạc mềm (labiovelar) QU và GU thì đượcmượn từ văn tự tiếng Ý và tiếng La-tinh.Trong số những âm tiền ngạc (prepalatal), âm tắc vô thanhCH được lấy từ văn tự Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, những văn tự mượn tổ hợp đó từ văn tự tiếng Pháp cổ để ghi một phụ âm mới và không có trong tiếng La-tinh.Âm tắc hữu thanh D là một ký hiệu phiếm chỉ ghi lại một âm không có trong các ngôn ngữ châu Âu, nơi D luôn cùngvới T tạo thành một cặp đối lập về tính thanh. Trong tiếng Việt,đối lập với T lại được ghi bởi một chữ cái hoàn toàn mới là Đ[dùng để ghi âm tắc lợi-tiền thanh hầu hóa (preglottalisedalveolar stop): /ɗ/], với nét ngang ở giữa khiến ta liên tưởngngay đến âm T gần gũi với nó.Âm xát 2 hữu thanh GI mượn từ tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Pháp (bấy giờ J vẫn chưa được sử dụng ở châu Âu)3.
André-Georges HaudricourtCao Thành Việt dịch theo bản dịch tiếng Anh củaAlexis Michaud, LACITO-CNRS, Pháp.Nguyên bản: L’origine des particularités de l’alphabetvietnamien,Dân Việt Nam
Lời giới thiệu cho bản dịch tiếng Việt
Nghiên cứu chữ Quốc ngữ sẽ thật thiếu sót nếu nhưkhông nghiên cứu lịch sử của nó. Trong giới nghiên cứu lịch sửchữ Quốc ngữ ở thế kỉ XX (thế kỉ thiết lập vị thế ‘danh chínhngôn thuận’ của chữ Quốc ngữ), ta không thể không nhắc tớiA.G. Haudricourt (1911 – 1996) với bài báo nổi tiếng ‘
Nguồn gốc những điểm dị biệt trong bảng chữ cái tiếng Việt
’, đăng trên Dân Việt Nam,tập san bằng tiếng Pháp của Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp (EFEO), năm 1949 tại Hà Nội.Vào thời điểm ra đời bài báo, A.G. Haudricourt hẵng cònchưa vang danh thế giới với giả thuyết về nguồn gốc tiếng Việt cũng như thanh điệu tiếng Việt (cf. Haudricourt 1953, 1954).Tuy nhiên, phải nói rằng, ngay từ thời điểm bấy giờ, như AlexisMichaud (tác giả của bản dịch tiếng Anh) nhận xét, A.G.Haudricourt đã chứng tỏ được ‘niềm đam mê […] trong việc phục dựng nguồn gốc lịch sử của những hiện tượng phức tạp,cũng như kỹ năng thu thập các bằng chứng từ nguồn tư liệu cực kì phong phú’, mà cụ thể ở đây là với bộ chữ La-tinh của tiếng Việt.Bộ chữ La-tinh hóa này, như A.G. Haudricourt đã chỉ ra,chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các sản phẩm văn tự La-tinh hóa của các ngôn ngữ Roman vì chính những người đã tạo tác nên nó – những linh mục Công giáo dòng Tên. Cụ thể, giống như hầu hết các bộ chữ viết La-tinh của các ngôn ngữ Roman, chữ Quốc ngữ của tiếng Việt cũng chứa đựng những điểm bất đối xứng (từ của Haudricourt là ‘dị biệt’ – ‘peculiarity’) giữa âm đọc và con chữ, tức trong nhiều trường hợp một chữ cái lại tương ứng với nhiều âm đọc, hoặc ngược lại, một âm đọc lại tương ứng với nhiều chữ cái. Haudricourt đã dành phần lớn bài báo để truy tìm nguồn gốc những điểm bất đối xứng này trong chữ Quốc ngữ. Phần còn lại của bài báo, tác giả đã cố gắng giải thích nguyên lai của những kí hiệu, dấu phụ đáng chú ý trong chữ Quốc ngữ, ví dụ như tại sao ta lại viết là Đ cho phụ âm /d/,nguồn gốc dấu nón của Ô - /o/ .v.v. Những tìm tòi và khám phá của Haudricourt thực sự đáng để bất cứ nhà nghiên cứu tiếng Việt nói chung và chữ Quốc ngữ nói riêng nào tham khảo. Và trên thực tế, bài báo này vẫn được coi là một trongnhững nghiên cứu sâu sắc và có giá trị nhất về nguồn gốc văn tự tiếng Việt hiện đại’ (xem lời giới thiệu của Alexis Michaud).Đó cũng chính là động lực lớn nhất để dịch giả quyết tâm chora đời bản dịch tiếng Việt để đông đảo hơn các độc giả ở ViệtNam có điều kiện tiếp cận tới công trình giá trị này.Dịch giả xin chân thành cám ơn TS. Alexis Michaud(nghiên cứu viên CNRS và MICA, Đại học Bách Khoa Hà Nội) vìđã giới thiệu bài báo cũng như động viên dịch giả hoàn thành bản dịch. Bên cạnh đó, dịch giả cũng chân thành gửi lời cám ơn đến NCS. Phạm Thị Kiều Ly (người đang viết luận án về quátrình Latinh hóa tiếng Việt tại trường Đại học Paris 3 - Pháp) vì những góp ý giá trị của chị về bản dịch qua đối sánh với bảngốc tiếng Pháp.-Hà Nội,
Lời giới thiệu của Alexis Michaud
Đóng góp của André-Georges Haudricourt vào Đông NamÁ học trên tầm quốc tế là không thể phủ nhận (tham khảocuốn HaudricourtFestschrift(Suriya, Thomas and Suwilai1985)). Tuy nhiên, khá nhiều công trình của Haudricourt vẫn chưa được biên dịch sang Anh ngữ để đông đảo hơn các độc giả có thể tiếp cận được. Chính vì lẽ đó, một nhóm các học giả đến từ nhiều nước đang tiến hành biên dịch và sẽ sớm cho ra mắt một tuyển tập các công trình nghiên cứu quan trọng nhất của Haudricourt bằng tiếng Anh. Mục đích của nó không gì hơn là nhằm chia sẻ với cộng đồng học thuật dùng Anh ngữ các trước tác của Haudricourt mà phần nhiều trong số chúng là đề cập tới các vấn đề liên quan đến các ngôn ngữ Đông NamÁ, ngôn ngữ học và nhân học xã hội
“Nguồn gốc những điểm dị biệt trong bảng chữ cái tiếngViệt” thực chất không phải là một trong những bài báo nổi tiếng nhất của Haudricourt, bởi vậy, nó dự kiến sẽ không được đưa vào tuyển tập tiếng Anh các trước tác của Haudricourt sắp được xuất bản tới đây. Tuy nhiên, cho tới tận ngày này, bài báo này vẫn được coi là một trong những nghiên cứu sâu sắc và có giá trị nhất về nguồn gốc văn tự tiếng Việt hiện đại. Nó truy tìm nguồn gốc những kí tự dị biệt có trong chính tả của ngôn ngữ này bằng cách lần theo dấu vết của chúng trong các hệ thống chính tả của các ngôn ngữ Rô-man gần gũi với chính những người đã chế tác ra chúng. Đây là một công trình thể hiện niềm đam mê của Haudricourt trong việc phục dựng nguồn gốc lịch sử của những hiện tượng phức tạp, cũng như kỹ năng thu thập các bằng chứng từ nguồn tư liệu cực kì phong phú.Bài báo này cũng khác với hầu hết các công trình khác của Haudricourt ở việc ngay từ ban đầu, nó đã xác định cho mình đối tượng mục tiêu đó là độc giả phổ thông. Vì vậy, tính đại chúng của nó thể hiện rất rõ trong văn phong, cách dùng từ tránh những thuật ngữ quá chuyên môn. Công trình đã ra mắt độc giả trong số thứ ba, và cũng là số cuối cùng của tập san Dân Việt Nam một tập san do Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp xuất bản trong những năm 1948, 1949 tại Việt Nam. Tài liệu nguyên gốc hiện tại rất khó tiếp cận, hơn nữa, đa số độc giả có khả năng quan tâm đến vấn đề này, ngày nay, rất có thể không có vốn tiếng Pháp tốt như đối tượng độc giả của Haudricourt vào năm 1949, thời điểm xuất bản bài báo. Vì vậy,hy vọng bản dịch này có thể giúp những ai quan tâm đến tiếngViệt và vấn đề văn tự nói chung tiếp cận được dễ dàng hơn tới tài liệu này.Nhà xuất bản ở Việt Nam bấy giờ rõ ràng đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc biên tập bài báo vốn sử dụng nhiều kí tự đặc biệt này. Vì thế, bản dịch lần này cũng sẽ đính chính luôn những lỗi soạn thảo có trong tài liệu gốc. Cụ thể, C được thaythế bằng G ở trang 64; p‘, t‘, k‘ lần lượt thay thế cho pc, tc, kctrong nguyên bản .v.v. Phiên âm trong bản dịch cũng được sửachữa lại theo đúng hệ thống IPA hiện tại.( Lời chú của dịch giả được để trong ngoặc vuông hoặc đặt ở phần chú thích cuối mỗi trang.)
Dịch giả xin chân thành cám ơn Michel Ferlus vì đã giớithiệu bài báo này, cám ơn Boyd Michailovsky, MartineMazaudon đã bỏ công nhuận sắc cho bản dịch và cám ơn Jean-Michel Roynard đã giúp đỡ dịch giả trong phần minh họa.
Tóm tắt: Tóm lược nguồn gốc các chữ cái và tổ hợp chữ cái dùngđể kí âm cho tiếng Việt [chữ Quốc ngữ ]:Những người có công sáng tạo bảng chữ cái La-tinh chotiếng Việt là những nhà truyền giáo đến từ Bồ Đào Nha, Ý và Pháp. Chính vì thế, sản phẩm văn tự này thừa kế một số đặcđiểm dị biệt có nguyên lai từ những văn tự ngôn ngữ Romancủa chính những nhà truyền giáo đó.Tuy nhiên, những phụ âm bật hơi (aspirated)1 trong chữ Quốc ngữ gồm H, PH, TH, KH [IPA: /h/, /pʰ/, /tʰ/, /kʰ/] lại khôngcó trong những ngôn ngữ Roman [Bồ Đào Nha, Ý, Pháp]. Ở những ngôn ngữ này, các tổ hợp con chữ PH, TH, KH chỉ xuất hiện trong những từ có nguồn gốc Hy Lạp, tương ứng với các phụ âm đầu bật hơi trong tiếng Hy Lạp là
phi, theta, khi(φ, θ,χ). Chính vì thế mà những tổ hợp này sau đó được sử dụng đểghi các phụ âm tắc bật hơi có trong tiếng Việt.Những kí tự ghi âm tắc C, G chỉ được sử dụng trước các nguyên âm /a/, /o/ và /u/. Lí do là trong những ngôn ngữ Roman thì đó là vị trí duy nhất mà những phụ âm trên còn bảo lưu được nét cản trở (obstruent) từ ngôn ngữ mẹ - tiếng Latin;GHE, GHI thì được dùng với giá trị ngữ âm mà chúng có trong tiếng Ý; tổ hợp KE và KI thì cần được lí giải từ chữ cái K trongtiếng Hy Lạp (kappa,κ ) và các thứ tiếng German.Âm tắc môi-ngạc mềm (labiovelar) QU và GU thì đượcmượn từ văn tự tiếng Ý và tiếng La-tinh.Trong số những âm tiền ngạc (prepalatal), âm tắc vô thanhCH được lấy từ văn tự Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, những văn tự mượn tổ hợp đó từ văn tự tiếng Pháp cổ để ghi một phụ âm mới và không có trong tiếng La-tinh.Âm tắc hữu thanh D là một ký hiệu phiếm chỉ ghi lại một âm không có trong các ngôn ngữ châu Âu, nơi D luôn cùngvới T tạo thành một cặp đối lập về tính thanh. Trong tiếng Việt,đối lập với T lại được ghi bởi một chữ cái hoàn toàn mới là Đ[dùng để ghi âm tắc lợi-tiền thanh hầu hóa (preglottalisedalveolar stop): /ɗ/], với nét ngang ở giữa khiến ta liên tưởngngay đến âm T gần gũi với nó.Âm xát 2 hữu thanh GI mượn từ tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Pháp (bấy giờ J vẫn chưa được sử dụng ở châu Âu)3.
Âm xát vô thanh X thì được mượn từ tiếng Bồ Đào Nha và các phương ngữ tiếng Tây Ban Nha miền bắc: do trong nhữngngôn ngữ này, âm S là một âm quặt lưỡi [IPA: /ʂ/] giống như trong tiếng Việt, trong khi ở các ngôn ngữ châu Âu khác, S chỉ là một âm xuýt-tiền (anterior sibilant) giống như trong tiếng Pháp [IPA: âm lợi /s/].NH [kí hiệu âm mũi ngạc cứng /ɲ/] thì được mượn từ tiếng Bồ Đào Nha trong khi TR là một kí tự hoàn toàn không tìm thấy trong các thứ tiếng châu Âu [IPA: /ʈ/].Ô, Ê thì được mượn từ tiếng Bồ Đào Nha và đó là lí do tại sao cặp Ê, E không có được giá trị ngữ âm như chúng vốn có trong tiếng Pháp. [Trong tiếng Pháp, Ê kí hiệu cho /ɛ/, E thaythế /e/, nhưng trong tiếng Việt tình hình lại ngược lại, Ê thay thế cho /e/ và E thay thế cho /ɛ/.]
( còn tiếp)
1
ND: Các thuật ngữ tiếng Việt trong bài được dùng theo Cao Xuân Hạo –Hoàng Dũng (2005).
2
Thuật ngữ “spirant” được sử dụng trong bài báo này với nội dung tươngđương như “fricative” (xát). Xem chú thích tiếp theo để hiểu kĩ hơn về sựkhác biệt có thể có giữa “spirants” và “fricatives”.
3
ND: Về nguyên lai của GI có quan điểm khác cho rằng nó bắt nguồn từtiếng Ý. Đây chính là quan điểm của Alexandre de Rhodes và rất có thểA.G. Haudricourt đã nhầm lẫn ở đây (cf. Alexandre de Rhodes (1991),
Từđiển Annam-Lusitan-Latin
(bản dịch của Hoàng Xuân Việt, Thanh Lãng, ĐỗQuang Chính), NXB Khoa học Xã hội, TP. Hồ Chí Minh).
( còn tiếp)
1
ND: Các thuật ngữ tiếng Việt trong bài được dùng theo Cao Xuân Hạo –Hoàng Dũng (2005).
2
Thuật ngữ “spirant” được sử dụng trong bài báo này với nội dung tươngđương như “fricative” (xát). Xem chú thích tiếp theo để hiểu kĩ hơn về sựkhác biệt có thể có giữa “spirants” và “fricatives”.
3
ND: Về nguyên lai của GI có quan điểm khác cho rằng nó bắt nguồn từtiếng Ý. Đây chính là quan điểm của Alexandre de Rhodes và rất có thểA.G. Haudricourt đã nhầm lẫn ở đây (cf. Alexandre de Rhodes (1991),
Từđiển Annam-Lusitan-Latin
(bản dịch của Hoàng Xuân Việt, Thanh Lãng, ĐỗQuang Chính), NXB Khoa học Xã hội, TP. Hồ Chí Minh).
Thứ Năm, 6 tháng 8, 2015
Đừng nhìn em như thế
Lê Thị Kim
Đừng nhìn em như thế
Cháy lòng em còn gì
Sự nồng nàn của bể
Cuốn mất hồn em đi
Đừng nhìn em như thế
Khắc giờ thành thiên thu
Mắc nợ đời dâu bể
Mắc nợ đời thơ si
Em đành làm chim nhỏ
Đứng hót chơi trong chiều
Thả đôi lời hoa cỏ
Cho đời bớt tịch liêu
Bởi tình yêu có thật
Vĩnh cửu trong cuộc đời
Bởi ghen tuông có thật
Xuống mồ biết có thôi
Đừng nhìn em như thế
Sự dịu dàng nhường kia
Sẽ làm em chết ngạt
Hết một đời thơ si.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)