Vũ Hạnh
Cuốn sách được NXB Cảo Thơm xuất bản năm 1965 tại miền Nam mà nguyên tác là "Per Comporedere Vietnam Il Vietnamila " tiếng Ý, tác giả A. Pazzi, Hồng Cúc dịch. Xin giới thiệu bạn đọc nội dung cuốn sách này để các bạn cùng tôi tự nhủ rằng: Đây không phải là một dân tộc tầm thường và sau tôi phải kết luận: Người Việt là một dân tộc ưu hạng, có nền văn minh riêng biệt, có lẽ không giống bất cứ nền văn minh nào trên thế giới này...
GIỚI THIỆU CUỐN SÁCH "NGƯỜI VIỆT CAO QUÝ"
Vũ Hạnh (A.Pazzi) - Hội liên hiệp VHNT TpHCM - 1992
"Người Việt cao quý" là một cuốn sách nhỏ nhắc nhở chúng ta cần có niềm tự hào được là người Việt, thấm dòng máu Việt hào hùng!
Cuốn sách được NXB Cảo Thơm xuất bản năm 1965 tại miền Nam mà nguyên tác là "Per Comporedere Vietnam Il Vietnamila " tiếng Ý, tác giả A. Pazzi, Hồng Cúc dịch. Trong lời nói đầu, dịch giả Hồng Cúc đã viết: "Thiết nghĩ, được nói về dân tộc mình là một niềm vui, nhưng được nghe người khác nói về dân tộc mình-và nói bằng những cảm tình tốt đẹp - là một niềm vui lớn lao...". Sau cùng, dịch giả bày tỏ: “Tôi xin chân thành cảm tạ nhà văn Vũ Hạnh đã hết lòng khuyến khích tôi trong bước đầu dịch thuật khó khăn, cũng như đã bỏ nhiều thì giờ tu chỉnh giúp bản dịch này".
Trong chế độ cũ nhà văn Vũ Hạnh đã từng vào tù ra khám nhiều lần, nên vì lý do chính trị và an ninh cho bản thân mình, ông đã mượn cái tên A. Pazzi (một cái tên Ý không có thật) để viết về dân tộc mình. Cuốn sách được giữ bí mật danh tính nhà văn Vũ Hạnh khá lâu, ít ai biết đó là của Vũ Hạnh. Tin đồn loan ra là có một kỹ sư hóa học người Ý thật, sống lâu năm ở Sài Gòn đã viết ra cuốn đó.
Theo lời kể của nhà văn Vũ Hạnh, những năm 60 của thế kỷ trước, sau khi Mỹ đổ bộ vào Việt Nam, xã hội miền Nam nhanh chóng du nhập lối sống Mỹ, lối sống thực dụng; điều tệ hại và nguy hiểm hơn là trong tâm lý, tình cảm một số người, đặc biệt trong giới văn nghệ có xu hướng vọng ngoại, lai căng, coi thường văn hóa truyền thống dân tộc, mặc cảm vì “giống da vàng nhược tiểu”... Vũ Hạnh nói ông viết cuốn sách này theo chỉ thị của cách mạng. Người chỉ thị trực tiếp, không ai khác là nhà chính trị, nhà văn, nhà thơ Trần Bạch Đằng. Ông Trần Bạch Đằng không “đặt hàng” để viết đề tài gì cụ thể, ông bảo viết sao có lợi cho kháng chiến, cho cách mạng, đề cao văn hóa dân tộc, con người Việt Nam là được. Hình như Vũ Hạnh ấp ủ đề tài này từ lâu, trong ông tràn dậy một niềm tự hào từ đáy lòng, như có một "linh khí" chợt trào ra ngòi bút. Vũ Hạnh viết “Người Việt cao quý” chỉ hơn một tuần và sau đó được xuất bản ngay.
27 năm sau, NXB Mũi Cà Mau mới tái bản tác phẩm "Người Việt cao quí" với đúng tên thật là nhà văn Vũ Hạnh. Xin giới thiệu bạn đọc nội dung cuốn sách này để các bạn cùng tôi tự nhủ rằng: Đây không phải là một dân tộc tầm thường và sau tôi phải kết luận: Người Việt là một dân tộc ưu hạng, có nền văn minh riêng biệt, có lẽ không giống bất cứ nền văn minh nào trên thế giới này.” (sđd trang 28). Và rằng “... Ngày nay công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam đòi hỏi chống lại tất cả các hiện tượng suy đồi, thoái hóa cũng như mọi thứ ràng buộc, áp bức, bất công.” (sđd trang cuối 105)
LỜI NÓI ĐẦU
Như đa số người dịch thuật, nguyên vọng chúng tôi là tìm mọi cách diễn đạt trở lại bằng ngôn ngữ của dân tộc., những gì có thể đóng góp hữu ích cho sinh hoạt của dân tộc. Và dù không đủ khả năng diễn tả như lòng mong mỏi, tập tài liệu có đủ tinh thần khuyến khích chúng tôi cố gắng vượt qua nhưng nỗi khó khăn thuộc trong phạm vi hiểu biết của mình.
Bản dịch đầu tiên còn nhiều thiếu sót, đã được đăng trên một tờ nhật báo từ số ra mắt, với cái tên đề Vẻ đẹp giống nòi, trong khi nguyên tác A. Pazzi gọi là Tìm hiểu người Việt, nước Việt. Sau đó, chúng tôi đã có sửa chữa cho bản dịch này được đầy đủ hơn, và lần này đem in thành tác phẩm với cái đầu đề Người Việt Cao Quý là những tiếng được trích dịch từ trong nguyên tác, có lẽ phản ảnh trung thực hơn hết chủ đích của chính tác giả.
Thiết nghĩ được nói về dân tộc mình là một niềm vui, nhưng được nghe người khác nói về dân tộc mình - và nói bằng những cảm tính tốt đẹp là một niềm vui lớn lao. Trong khi tự kiểm điểm lại để xem tác giả đã nói được gì xác thực về giống nói mình, và còn những ai thiếu sót, chúng tôi mong rằng bản dịch có thể đề nghị với các bạn đọc nhĩrng mối cảm nghĩ như vậy, hoặc là gợi được ở các bạn đọc những mối cảm nghĩ tích cực, phong phú hơn nhiều.
Ở đây tôi xin chân thành cảm tạ nhà văn Vũ Hạnh đã hết lòng khuyến khích tôi trong bước đầu dịch thuật khó khăn, cũng như đã bỏ khá thì giờ tu chỉnh giúp bản dịch này.
Sài gòn, 15 tháng 6 năm 1965
HỒNG-CÚC
Chương I - ĐÔI MẮT VÀ NỤ CƯỜI CỦA NGƯỜI VIỆT
Trên hai mươi năm sống trên đất nước Việt Nam, tôi tưởng đủ thì giờ tìm hiểu người dân khả ái, cùng cái xứ sở khá kỳ diệu này. Tôi tin chắc mình sẽ nói lên được ít nhiều sự thực, do cái tầm mắt khách quan của người ngoại địa, và mềm thiết tha của kẻ biết mình không thể dửng dưng.
Tôi cần thưa trướ với các bạn rằng, khi rời nước Ý là quê hương tôi sang nước Việt-Nam, tôi không có một ý định lưu cư dài hạn ở đây. Không khí nhiệt đới ẩm thấp, oi nồng, không làm cho sức khỏe tôi hoan hỉ. Truyền thống văn hóa Đông Phương không giúp cho sinh hoạt tôi được mọi dễ dàng. Đặt chân lên mảnh đất này, tôi phải giữ kỹ chiếc mũ trên đầu vì sợ say nắng, ngộ cảm như lời một người bạn Pháp đã nhắn nhủ tôi trong một lá thư thân tình : “ Nắng ở Việt-Nam không có cường độ như ở Châu Phi nhưng lại có sức giết người nhanh chóng gấp một trăm lần ánh lửa của sức mặt trời xích đới. Chúng ta không thể bắt chước những người bản xứ mà phơi đầu trần, trừ phi ta muốn sớm về hỏa ngục.”
Như thế, tôi đến Việt-Nam với một thái độ hết sức e dè. Nhưng trong cái nắng chói chang của ngày đầu tiên hôm ấy, tôi đã có dịp thấy người Việt-Nam, không phải qua các tranh ảnh, qua các sách báo, mà thấy hiển nhiên ở trước mắt mình. Có thể nói rằng ý nghĩ đầu tiên đến trong trí óc của tôi “ Người Việt-Nam thật đẹp”.
Sau này nhiều lần tôi có đem ý nghĩ này nói với nhiều bạn Việt-Nam, nhưng tôi chỉ gặp nơi họ những cái mỉm cười hoài nghi hoặc là gượng gạo, như tuồng họ tưởng tôi có một ẩn ý gì trong lời nói đó, hoặc cho là một cách nói xã giao để lấy cảm tình. Không, tôi không có cái ý định như thế. Tôi đã tiếp xúc khá nhiều dân tộc và tôi có dịp để quan sát hẳn hoi và so sánh họ với nhau. Ở Á Đông này, người Tàu cũng có những nét khả ái riêng biệt của họ như là người Nhật, nhưng cả người Tàu, người Nhật đều không có cái linh hoạt đặc biệt của người Việt Nam. Đôi mắt, cái miệng của người Việt- Nam có một sức sống kỳ lạ, cái duyên kỳ lạ.
Về đôi mắt họ, tôi nghĩ đó là một sức thông minh tiềm tàng trải qua nhiều đời dồn chứa thành một cái nhìn vừa mau, vừa sâu như cố nắm lấy sự việc rồi thoát ly liền, như sau mũi tên bắn mạnh người thiện xạ kia đã mất dạng rồi. Tất nhiên con mắt người Việt có nhiều hình dạng nhưng vẻ tinh anh của họ gần như chia xẻ đồng đều. Từ đứa bé con đến người tuổi tác từ kẻ nghèo khổ đến kẻ sang giàu đều có được cái ánh sáng mài nhọn cắt bén như thế. Hầu như đa số mắt của người Việt đề có hai mí, và đó cũng là một cách cấu tạo làm cho con mắt thêm phần linh động hơn nhiều. Phải nói là người Việt-Nam không biết giữ gìn con mắt và đa số bị khá nhiều bệnh mắt, tuy thế cái vẻ độc đáo trong cách họ nhìn vẫn không biến đổi. Họ nhìn hiền từ khoan dung, nhưng có vẻ gì không chịu phục tòng. Tôi nghĩ khó lòng mà nói cho hết về những ý nghĩa phóng tỏa từ đôi mắt ấy và cũng không sao mà vẽ truyền thần cho được y nguyên những vẻ sắc sảo tinh anh mà đôi mất họ có thừa. Lần đầu tiên thấy cái nhìn của họ, tôi tự nhủ rằng : “Đây không phải là dân tộc tầm thường” và sau tôi phải kết luận : “người Việt là một dân tộc ưu hạng có nền văn minh riêng biệt, có lẽ không giống với bất cứ nền văn minh nào trên thế giới này. ”
Tôi sẽ có dịp phân tích nền văn minh ấy về sau, tuy vẫn tiếc rằng không đủ phương tiện tìm hiểu sâu xa hơn nữa. Khi biết khá rõ đôi mắt người Việt tôi mới nhận biết đầy đủ hơn rằng còn những dân tộc có nhĩrng cặp mắt lờ đờ hay là thô bạo, hoặc là sỗ sàng hoặc cũng hời hợt, dễ dãi. Đa số con mắt Việt-Nam không có những tính xấu ấy. Con mắt là gương phản chiếu tâm hồn, và tâm hồn căn bản của người Việt là sự thuần thục của một dân tộc ý thức rõ rệt hoặc là ngấm ngầm về cái sức năng văn hóa của giống nòi mình. Nhiều dịp tôi đã thấy kẻ bất lương hung hăng ném những tia nhìn hằn học đục ngầu sát khí, nhưng khi ý nghĩ bạo ác tan rồi, cặp mắt của họ dịu xuống, lại trở về với cái vẻ dịu hiền sắc sảo của dân tộc mình. Dù cho đôi mắt ấy không bình thường, hay bị thương tật, cái nhìn của người Việt-Nam vẫn là cái nhìn thông minh. Trong đó có chiều sâu thẳm nền văn minh riêng biệt.
Nhưng đôi mắt của người Việt phản đượm gắn liền với cái miệng họ, hay nói đúng hơn là cái nụ cười của họ. Ở trên khuôn mặt con người, chì có đôi mắt, đôi môi là đáng lưu ý hơn cả, vì nó phản chiếu một cái thực tại linh động về tâm hồn người nói lên trình độ cảm nghĩ, khả năng đạo đức một cách cụ thể. Cái mũi là vật trung tâm và lộ hiện ấy, hầu như không có khả lăng phát biểu được gì cá biệt cho thật rõ ràng. Nhưng nụ cười Việt, cũng như hầu hết nụ cười dân tộc đông phương, có một vẻ gì bí hiếm khó mà đoán hiểu dễ dàng. Riêng người Việt-Nam, khi vành môi họ nhếch lên hay mím nhẹ lại, họ đã qui tụ cái nhìn, đôi mắt theo về hướng ấy, và trong phần tư, phần sáu nụ cười lửng lơ của họ, người ta đoán thấy một sự nhạy cảm lạ lùng đi đôi với một khiếu năng phê phán linh hoạt.
Có khi lý tưởng mà họ nói ra không có giá trị bằng cái ánh mắt và cái nụ cười ấy. Điều ấy có thể cắt nghĩa như sau : trí tuệ của họ chưa có điều kiện để được phát triển, trong khi con người của họ thừa hưởng một sự đào luyện lâu dài về giống nòi thành biểu hiện trong tiềm thức cộng đông. Chính cái tiềm thức cộng đồng của một dân tộc là cái di sản vô cùng lớn lao, không có cách gì tạo lấy dễ dàng hay thay đổi được. Nó là kết quả của bao nhiêu đời sinh hoạt, của bao nhiêu nỗi thăng trầm, vinh quang, tủi nhục thảy đều dồn tụ để chung đúc lại thành những phản ứng sâu xa trong mỗi người dân khiến lúc họ đi, họ đứng, họ nói, họ cười, cái vốn liếng ấy vẫn chi phối họ, vẫn được hiện diện cách này hay cách khác. Phải nói rằng người Việt Nam có cái tiềm thức cộng đồng khá lớn, khá sâu, chỉ eo ở những dân tộc có nền văn minh phong phú riêng biệt. Người ta có thể trách cứ một số người Việt hay thích làm dáng, hay học uốn môi, trẹo lưởi theo người ngoại quốc làm cho cái duyên tự nhiên của dân tộc họ dễ mai một đi. Nhưng tôi dám chắc là chưa có giống người nào có một nu cười ý nghĩa như là nụ cười của dân tộc họ. Phải nói rõ hơn là người Việt-Nam ít có nụ cười thật vui, cũng như trên thế giới này vẫn chưa có dân tộc nào thật sự có nụ cười tươi mười phần hoan hỉ. Nhân loại đang đi tìm nụ cười kia như một giải thoát cho mình. Riêng người Việt-Nam không biết họ có tìm thấy được nhiều khuây lãng hay không, khi nhếch mép cười, nhưng tôi tin rằng họ phải bận tâm suy nghĩ nhiều hơn trong những nụ cười như vậy. Người Việt dung hòa được sự hướng nội và sự hướng ngoại khi cười, nên đã tạo được một sự quân bình đặc biệt. Nói theo quan niệm y học thì chỉ có sự quân bình mới có sự sống, và mất quân bình là sự bệnh hoạn. Suy từ nụ cười, chúng ta thấy người Việt-Nam có được một sự quân bình đặc biệt suốt trong mọi ngành sinh hoạt khiến họ chấp nhận hợp lý được mọi quan niệm, dung hòa được mọi ý kiến dị đồng. Đời sống của dân tộc họ dù có chiến thắng vẫn không có những hân hoan tột độ, và dù chiến bại vẫn không có những bi đát tột cùng.
Sau này nghiên cứu lịch sử Việt-Nam, tôi càng thấy rõ rệt hơn điều ấy. Những lúc dẹp xong kẻ thù họ vẫn ngoan ngoãn làm người triều cống và khi bị kìm kẹp giữa gông cùm nô lệ họ vẫn thản nhiên tìm cách vươn lên. Chưa có một dân tộc nào chiến đấu oai hùng như họ trải qua lịch sử, mà họ có bản anh cùng ca nào đâu? Cũng chưa có dân tộc nào đả từng lầm than đến thế mà họ có lời kêu khóc nào đâu ? Văn chương Việt-Nam không hề có sự bi thảm, tuyệt vọng, bởi vì dân tộc của họ không thể bi thảm đến mức tuyệt vọng, dù phải sống vào bất cứ là trường hợp nào.
Nụ cười của người . Việt-Nam, nếu không phải đem lại niềm tự tin thì cũng bày tỏ một ý khoan dung rõ rệt. Điều ấy không phải là không có lý, khi nhiều lúc ta bắt gặp nụ cười vào lúc mà ta không hề chờ đợi. Nếu không tự tạo một vẻ bề trên thì nụ cười ấy cũng nói lên sức chống đối gần như thường trực. Nhiều người Việt Nam vẫn không nghĩ rằng mình cười như thế, và không ngờ rằng mình lại muốn cười như thế bao giờ. Chính sức tự vệ âm thầm bên trong của giống nòi họ đã tạo nên cách thế ấy, ngoài vòng kiểm soát ý thức.
Những người Việt-Nam mất gốc, quá chịu ảnh hưởng Tây Phương không thể nào hiểu những nét độc đáo của dân tộc học. Tôi đã có đọc một bài của một dịch giả có tài là Nguyễn văn Vĩnh nói về nụ cười của dân tộc mình và ông đã nói một cách vội vàng nên không tránh được nhiều sự sai lầm quan trọng. Ông đã lên án cái giọng cười ấy bằng một lối nhìn khinh bỉ và quan niệm người Việt-Nam đã cười một cách xấu xa, với những ẩn tình độc ác, đó là nụ cười phá hoại, nụ cười vu cáo, nụ cười kiêu ngạo rất là vô lối. Rất tiếc ông Vĩnh đã đứng trên cái quan điểm Tây Phương để mà quan sát đồng bào của mình, và trong quan điểm của ông có cái thái độ hời hợt, nghi hoặc của một tên quan thuộc địa nhìn dân bản xứ như bọn hèn kém xấu xa. Cho đến ngày nay hình như ở trong trường học người ta vẫn dạy các bài nhtr thế và chừng như các giáo sư cũng không mấy người cho rằng ông Vĩnh nói sai. Tôi nghĩ nếu quả sự thực là vậy thì người ta đây bôi nhọ dân tộc của minh rõ rệt. Và phải nhận rằng một số trí thức Việt-Nam có bằng cấp cao, có kiến thức rộng, nhưng lại không có căn bản dân tộc bao nhiêu. Họ vẫn hãnh diện vì biết nói tiếng nước ngoài, coi sự đi ra khỏi nước, dù là đi vào rừng rú châu Phi, châu Mỹ, là một vinh dự hiếm có. Những người trí thức ấy quên vun xới vườn nhà như quên linh hồn đích thực của mình và giống hệt như anh chàng ở trong cổ kịch La Mã mua được lột cái mặt nạ rẻ tiền đã vội chối từ khuôn mặt vốn có thật đẹp của mình. Bởi thế chưa có một dân tộc nào mà người trí thức lại nói pha trộn nhiều tiếng ngoại ngữ như vậy, thích dùng đồ ngoài như vậy. Nhưng may mắn thay, nếu lớp bọt bèo ở trên có những thành phần không bám được rễ xuống dưới đáy sâu thì chính đông đảo quần chúng của họ biết quí dân tộc của mình một cách rõ rệt.
Có lẽ bàn về nụ cười, tôi đã cho phép mình đi quá xa, khỏi cái giới hạn cần thiết mất rồi. Nhưng đừng quá lâu ở trên hình thức, diện mạo, chúng ta khó lòng phát hiện những cái giá trị thật sự lớn lao về một dân tộc.
Người Việt đáng lẽ phải tự hào về khuôn mặt của họ. Tôi không nói đến khuôn mặt của những con người no đủ, béo tròn, trắng phốp, hồng hào, nằm trên nhung lụa và trong bóng mát của những tiện nghi. Ở bất cứ một xứ nào, những hạng người ấy đều rất có thể giống nhau, và không có gì đáng nói nhiều hơn là cái bằng phẳng nhạt nhẽo của lòng tự mãn ích kỷ, trong đó mỗi thái độ tự thưởng thức lấy là được biểu hiện vẹn toàn. Hơn nữa, cái thời chỉ nheo một mắt để nhìn vào các giá trị bên ngoài đã qua lâu rồi. Nhân loại đã mất cả mấy ngàn năm mới rời khỏi được mảnh đất hình thức để đi vào trong lĩnh vực nội dung, lẽ nào trong sự phê phán, tìm tòi cái đẹp, người ta lại còn đồ đi, vẻ lại một kiểu cách nhìn hình thức đã lỗi thời rồi ? Do đó, vẻ đẹp trên khuôn mặt người Việt Nam là do quá trình gian khổ của dân tộc họ làm thành và sức quật cường lớn lao của dân tộc họ tạo nên. Cặp mắt họ biết quắc nhìn, giận dữ mà không tàn bạo, đôi môi họ biết mím chặt, căm hờn mà không ác tâm. Tiếng nói của họ, vốn là ngôn ngữ riêng của âm nhạc, vì có nhiều dấu, nhiều giọng khác nhau, không phải là tiếng nói của hỗn loạn và của cay nghiệt. Trên khuôn mặt người Việt Nam có cả vết hằn lịch sử của họ. Các vết hằn ấy ở nơi khóe môi, ở nơi vừng trán, ở trong ánh mắt, nụ cườỉ, ở trên màn da và trong tiếng nói.
Thật là khó lòng quan niệm người dân của một xứ nắng, của những núi rừng trùng điệp và của đầm lầy mênh mông mà lại có một màu da trắng như vỏ trứng.
Cái vẻ trắng trẻo, hồng hào không nên đòi hỏi nơi người Việt-Nam, vì nó phản lại địa lý, phản lại sinh hoạt, phản lại lịch sử họ. Nói thế, không phải là một quan điểm của bọn thực dân chỉ muốn cho người bản xứ chịu khổ suốt đời. Trái lại, trừ phi người ta thích ngồi trong nhà nghỉ mát mà lo trau giồi sắc đẹp, thì người ta không cần biết gì thêm ngoài khuôn mặt mình. Và các loại khuôn mặt này, như trên đã nói, chỉ đọc thấy sự phè phỡn no nê đầy nét hời hợt của lòng toại nguyện dễ dãi, và rất nhiều khi vẻ rực rỡ ấy lại phản chiếu thật hoàn toàn thái độ lệch kỷ đến mức tồi tàn. Không, tôi không thuộc về lớp người chỉ thích ca ngợi vẻ đẹp cao sang lộng lẫy kiểu các ông Hoàng, bà Chúa. Bởi lẽ ca ngợi như thế tức là tự tố táo sự hèn mọn trong cách cúi đầu khuất phục trước cái thế lực đã lỗi thời rồi. Người Việt Nam nào biết quan tâm đến sinh hoạt của đồng bào mình, biết sống một cách hẳn hoi, thực sự cũng không thể nào không đem mình ra dang trải nắng gió, không cùng chung những đau khổ, và những cố gắng mà dân tộc mình phải chịu. Phải nhìn nhận rằng do những biến cố lịch sử liên tiếp, do những ảnh hưởng bên ngoài đối với xứ sở, người Việt bị lâm vào cảnh nghèo khó, và phải cố gắng lâu dài họ mới hoàn toàn sung sướng. Những kẻ sớm vội hưởng lạc hãy giờ có lẽ đã bỏ dân tộc của mình mà đi. Do đó, khuôn mặt đẹp nhất của người Việt-Nam hiện tại vẫn là khuôn mặt rám nắng, khuôn mặt khắc khổ, là khuôn mặt của những âu lo và của hy vọng, khuôn mặt linh động, phong phú của những con người đang viết những trang. lịch sử lớn lao.
(Còn nữa)
Một cao tăng được mời đi dự tiệc, giữa bàn tiệc bày đầy những món ăn chay trang trí vô cùng đẹp mắt, bỗng ông phát hiện trong một đĩa có miếng thịt heo, một đệ tử đi theo cao tăng cố ý dùng cái đũa bới miếng thịt lên, ý định để cho gia chủ trông thấy, nhưng thật không ngờ vị cao tăng lại dùng đũa của mình đẩy miếng thịt che khuất đi.
Một lát sau, người đệ tử kia lại bới miếng thịt heo lên, thế là cao tăng lại phải thêm lần nữa che miếng thịt heo đi, đồng thời còn nói khẽ vào tai đệ tử: “Con mà còn lật nó lên ta sẽ ăn luôn”. Người đệ tử nghe thầy nói thế thì không dám bới miếng thịt heo lên nữa.
Tiệc xong, thầy trò cao tăng từ biệt gia chủ ra về. Trên đường về, đệ tử băn khoăn hỏi thầy: “Thưa thầy, vừa rồi rõ ràng đầu bếp biết chúng ta không ăn mặn, lại vô ý để lẫn miếng thịt heo vào trong đồ ăn chay của chúng ta? Đệ tử chẳng qua muốn gia chủ biết mà trừng phạt ông ta.”
Cao tăng từ tốn nói: “Trên đời ai cũng phạm sai lầm, dù vô tâm hay hữu ý. Nếu để người chủ thấy miếng thịt heo trong món ăn chay, ông ấy sẽ nổi giận mà trừng phạt người đầu bếp, thậm chí còn cho người đó nghỉ việc, đây không phải điều chúng ta muốn thấy. Đoạt lý đương nhiên là quan trọng, nhưng tuyệt đối tránh ‘chỉ biết lý mà bỏ quên người’, phải nhận ra chỗ nào nên bỏ qua thì cho qua.”
“Hoàn cảnh sống và quan niệm sống của mỗi người thường không giống nhau, vì thế sự khác biệt trong cuộc sống là khó tránh khỏi. Đa số người rơi vào vòng xoáy của tranh đấu thường hay “đoạt lý mà quên người”, như thế nếu có thắng cũng không khiến người ta phục, trong vòng xoáy của tranh đấu hơn thua rất nhiều khi đối phương sẽ tìm cách đánh lén sau lưng.
Con hãy xem chỗ nào bỏ qua được thì bỏ qua, không nên chỉ biết ép người một cách quái gở, phải biết cho người ta một lối thoát, vấn đề ở đây không chỉ là cho người ta con đường sống, quan trọng hơn là cho chính mình một đường lùi, đây cũng là con đường sáng để xã hội hài hòa.”
Theo NTDTV
Tinh Vệ biên dịch (Đại Kỷ Nguyên VN)
https://daikynguyenvn.com/van-hoa-nghe-thuat/vi-cao-tang-va-mieng-thit-heo.html
Quan niệm Âm Dương được triệt để áp dụng trong y học Trung Hoa.
Trước đây chúng ta đã đề cập đến ba hạng người. Dương tạng, Âm tạng, Bình tạng.
Về phương diện bệnh học, người Trung Hoa cũng phân biệt Dương bệnh và Âm bệnh.
Dương bệnh là những bệnh ngoại cảm. Âm bệnh là những bệnh nội thương. Dương bệnh nhiều khi còn được gọi là thực chứng; Âm bệnh được gọi là hư chứng.
Dương bệnh cũng là những bệnh do khí lực hư hao, hoặc thận hỏa suy. Âm bệnh là những bệnh sinh ra vì huyết Dịch hư hao, hay thận thủy suy.
Khi con bệnh đã suy kiệt Dương khí, thì y học gọi là Dương thoát. Dương thoát có những triệu chứng sau đây: Mạch hầu như đã tuyệt; Tứ chi giá lạnh; Trán vã mồ hôi; Thở hắt ra; Khó thở; Nấc; Hôn mê; Lưỡi co v.v...
Khi con bệnh mà Âm suy kiệt, huyết Dịch suy kiệt, thời y học gọi là Âm hư. Âm hư có những triệu chứng sau đây: Mạch vi, mạch khẩn; Nhiệt độ cao; Mặt đỏ, Người khô đét như củi; Vật vã; Khát nước nhiều; Mê sảng.
Khi con bệnh mà khí huyết đều hao kiệt, thời Y học gọi là Âm hư Dương Thoát. Triệu chứng như sau:
- Tứ chi giá lạnh; Trán vã mồ hôi; Hôn mê, Thở như suyển, Nấc cụt.
Nguyên tắc chữa bệnh, chính là bồi bổ Âm Dương, điều hòa Âm Dương. Dương thịnh thì bổ Âm để chế bớt ánh Dương. Âm thịnh thì bổ Dương, để làm tiêu tan cái u uất cửa Âm. (Bổ thủy dĩ chế dương quang; bổ hỏa dĩ tiêu âm ế.)
Các vị thuốc cũng chia thành Âm, Dương, hay Bình vị.
Dương dược là những thuốc nóng, có hiệu lực làm gia tăng sự tiêu hóa, thúc đẩy sự hô hấp, sự tuần hoàn, bồi bổ khí lực.
Âm dược là những thuốc mát, có hiệu lực bồi bổ huyết Dịch, làm cho con người bớt nóng, bớt háo.
Những vị thuốc bình vị, là những vị thuốc hòa hoãn, vừa bổ Dương, vừa bổ Âm.
Phương dược dùng để trị liệu điều hòa Âm Dương, khí huyết có thể toát lược như sau:
a/ Trị liệu Dương khí
1 - Khi dương khí gần thoát tuyệt, người xưa thường cấp trị bằng: Nhân sâm, hoặc Quế, Phụ.
2 - Khi dương khí hao tổn, giao động vừa phải, thời dùng:
- Bài Tứ quân (để bổ khí)
- Bài Bổ Trung Ích Khí thang, hoặc Phụ Tử Lý Trung
3 - Khi dương khí, thận khí suy tổn đã lâu, thời dùng:
- Bài Bát vị
- Bài Sinh Mạch
b/ Trị liệu Âm huyết
1 - Khi huyết dịch suy tổn thời dùng: Bài Tứ Vật, bài Qui Tì.
2 - Khi thận thủy suy tổn thời dùng bài Lục Vị.
c/ Bình bổ
Muốn bình bổ cả Âm lẫn Dương, cả khí lẫn huyết, nguời ta dùng bài Bát Trân hay Thập Toàn...
Để nhận định được tầm quan trọng của quan niệm Âm Dương đối với Y học, ta hãy đọc một đoạn của Trương Cảnh Nhạc: Phàm chẩn bệnh trị liệu, trước hết phải thẩm định Âm Dương. Đó là cương lĩnh của Y học.
Luận về Âm Dương không sai, thời trị bệnh làm sao mà sai được? Y học tuy phiền tạp, nhưng có thể bao quát bằng một câu: Âm Dương mà thôi.
Cho nên bệnh có Âm Dương, mạch có Âm Dương, thuốc có Âm Dương. Lấy bệnh mà nói, thời bệnh bên ngoài là Dương, bên trong là Âm; nhiệt là Dương, hàn là Âm; trên là Dương, dưới là Âm; khí là Dương, huyết là Âm; động là Dương, tĩnh là Âm; nói nhiều là Dương, không nói là Âm; thích sáng là Dương, ưa tối là Âm; Dương yếu không thể thở ra, Âm yếu không thể hít vào; Dương bệnh khó cúi, Âm bệnh khó ngửa. [1]
Nói về mạch, thì mạch phù, mạch mạnh, mạch hoạt, mạch xác là Dương; mạch trầm, mạch vi, mạch nhỏ, mạch rít là Âm.Nói về thuốc thì thăng tán là Dương; liễm giáng là Âm; tấn nhiệt là Dương, khổ hàn là Âm. Chạy vào khí là Dương, chạy vào huyết là Âm; tính động mà chạy là Dương, tính tĩnh mà giữ là Âm. Đó là đại pháp trong nghề thuốc...
Dương đã mạnh còn bổ Dương, thời Dương càng bốc lên mạnh, Âm càng tiêu hao. Dương đã không đủ mà lại còn dưỡng Âm, còn dùng Âm phương, thời Âm càng thịnh, mà Dương bị diệt vong vậy.
Nếu minh biện Âm Dương thời dẫu y lý tuy huyền vi, nhưng cũng đã suy ra được quá nửa rồi vậy... [2]
CHÚ THÍCH
[1] Trương Cảnh Nhạc thuyết: Phàm chẩn bệnh, thi trị, tất tu tiên thẩm Âm Dương, nãi vi Y đạo chi cương lĩnh. Âm Dương vô mậu, trị yên hữu sai? Y đạo tuy phồn nhi khả dĩ nhất ngôn tế chi giả viết Âm Dương nhi dĩ. Cố chứng hữu Âm Dương, mạch hữu Âm Dương, dược hữu Âm Dương.
Dĩ chứng nhi ngôn, tắc Biểu vi Dương, Lý vi Âm; Nhiệt vi Dương, Hàn vi Âm; Thượng vi Dương, Hạ vi Âm; Khí vi Dương, Huyết vi Âm; động vi Dương, tĩnh vi Âm; đa ngôn vi Dương, vô thanh vi Âm; hỉ minh giả vi Dương, dục ám giả vi Âm; Dương vi giả bất năng hô, Âm vi giả bất năng hấp; Dương bệnh giả bất năng phủ, Âm bệnh giả bất năng ngưỡng...
張 景 岳 說: 凡 珍 病, 施 治, 必 須 先 審 陰 陽, 乃 為 醫 道 之 綱 領. 陰 陽 無 謬, 治 焉 有 差? 醫 道 雖 繁 而 可 以 一 言 蔽 之 者 曰 陰 陽 而 已. 故 証 有 陰 陽, 脈 有 陰 陽, 藥 有 陰 陽.
以 証 而 言, 則 表 為 陽 裡 為 陰, 熱 為 陽 寒 為 陰, 上 為 陽 下 為 陰, 氣 為 陽 血 為 陰, 動 為 陽 靜 為 陰, 多 言 為 陽 無 聲 為 陰, 喜 明 者 為 陽 欲 暗 者 為 陰, 陽 微 者 不 能 呼, 陰 微 者 不 能 吸, 陽 病 者 不 能 俯, 陰 病 者 不 能 仰 .
Truyền Trung Lục, Âm Dương Thiên. (Trương cảnh Nhạc)
Nhiệm Ứng Thu, Âm Dương Ngũ Hành, trang 1.
[2] Dĩ mạch nhi ngôn tắc phù, đại, hoạt, xác chi loại giai Dương dã; trầm vi, tế, sáp chi loại giai Âm dã. Dĩ dược nhi ngôn, tắc thăng tán giả vi Dương, liễm giáng giả vi Âm; tân nhiệt giả vi Dương, khổ hàn giả vi Âm; hành khí phận giả vi Dương, hành huyết phận giả vi Âm. Tính động nhi tẩu giả vi Dương. Tính tĩnh nhi thủ giả vi Âm. Thử giai y trung đại pháp... Nhược Dương hữu dư nhi cánh thi Dương trị, tắc Dương dũ xí nhi Âm dũ tiêu. Dương bất túc nhi cánh dụng Âm phương, tắc Âm ích thịnh nhi Dương tư diệt hĩ. 以 脈 而 言 則 浮, 大, 滑, 數 之 類 皆 陽 也; 沉 微, 細, 濇 之 類 皆 陰 也. 以 藥 而 言, 則 升 散 者 為 陽, 斂 降 者 為 陰, 辛 熱 者 為 陽, 苦 寒 者 為 陰, 行 氣 分 者 為 陽, 行 血 分 者 為 陰, 性 動 而 走 者 為 陽, 性 靜 而 守 者 為 陰. 此 皆 醫 中 大 法 ... 若 陽 有 餘 而 更 施 陽 治, 則 陽 愈 熾 而 陰 愈 消. 陽 不 足 而 更 用 陰 方, 則 陰 益 盛 而 陽 斯 滅 矣 . — Trương Cảnh Nhạc, Truyền Trung Lục, Âm Dương thiên, Nhiệm Ứng Thu, Âm Dương Ngũ Hành, trang 1.
Wilhelm G. Solheim II
University of Hawaii
Ngô Bắc dịch
Tôi đã xem miền Nam Trung Hoa là một phần của Đông Nam Á, cho sự nghiên cứu của riêng tôi, kể từ khoảng năm 1962. Tôi đã hỏi ông Kwang-chih Chang, một người bạn tốt, là liệu ông ta sẽ biên soạn một phần đặc biệt trong một số báo của Tạp Chí Asian Perspectives để trình bày về thời tiền lịch sử của Đài Loan (Taiwan) hay không. Vào giữa thập niên 1950, khi gắng sức để làm quen với thời tiền sử của Đài Loan, tôi khám phá rằng hầu như mọi điều viết về đề tài này đều nằm trong các tạp chí tiếng Nhật, hay các tạp chí phi-Anh ngữ khác, và hơn nữa các tạp chí tiếng Nhật này trong thực tế không thể được tìm thấy tại Hoa kỳ. Tôi cảm thấy rằng thật quý giá để có một sự tóm lược về thời tiền sử của Đài Loan bằng Anh ngữ làm cơ sở từ đó trù hoạch cho sự nghiên cứu tương lai. Ông Chang đã đồng ý (1963a) và theo đó đã hỏi rằng liệu tôi sẽ có đóng góp một bài viết về mối quan hệ thời tiền lịch sử của Đài Loan với Đông Nam Á hay không, và tôi đã đồng ý về điều này (1963). Một ít dữ liệu mà tôi có thể nêu ra được về Đài Loan gợi ý rằng “Đa số các mối quan hệ thời tiền lịch sử giữa Formosa và Đông Nam Á, đối với tôi, không có vẻ là trực tiếp, mà là kết quả của các sự di chuyển nhỏ bé từ một nguồn gốc tổng quát chung tại miền Nam Trung Hoa và miền bắc Đông Dương, và có thể, quan trọng hơn nữa, sự phát tán các thành tố văn hóa đặc biệt từ cuối thời tân thạch (đá mới) trờ về sau” (Silhelm 1963:258).
Cùng lúc, tôi đã tổ chức một cuộc hội thảo về “Sự Di Chuyển của giống dân Malayo-Polynesians (Mã Lai-Đa Đảo): từ 1500 Trước Công Nguyên (TCN) đến 500 Sau Công Nguyên (SCN)” được triệu tập tại phiên họp hàng năm của Hội Á Châu Học (Association for Asian Studies) hồi Tháng Ba 1963. Ông Chang đồng ý với lời yêu cầu của tôi và đã đưa ra một bài viết về “các chân trời và các truyền thống văn hóa thời tiền lịch sử và thời lịch sử ban sơ tại Nam Trung Hoa” (1964). Không lâu sau cuộc hội thảo này và trước khi các bài viết của chúng tôi được ấn hành, ấn bản đầu tiên quyển Khảo Cổ Học Trung Hoa Cổ Thời (The Archaeology of Ancient China) (1963b) của ông Chang xuất hiện. Trên căn bản kiến thức của tôi về thời tiền lịch sử của Đông Nam Á và Nam Trung Hoa – sự hiểu biết về miền đất kể sau của tôi đến chính yếu từ ông Chang – tôi cảm thấy rằng mình sẽ buộc không đồng ý với ông ta về sự giải thích của ông ấy trên mối quan hệ giữa miền Nam với Bắc Trung Hoa.
Trong khi sự hiểu biết của tôi về Nam Trung Hoa hoàn toàn dựa đúng ra trên các nguồn tài liệu thứ yếu, ông Chang đã có một kiến thức khá hơn về thời tiền lịch sử Đông Nam Á và đã từng công bố hai bài viết về các vấn đề quan trọng trong thời tiền lịch sử Đông Nam Á. Vào lúc chúng được in ra, tôi đã xem chúng là các bài viết quan trọng (1962, 1974a). Không may, không bài nào trong chúng đã được lưu hành một cách rộng rãi bên ngoài Đài Loan và Ấn Độ, do đó sự hiểu biết của ông Chang về thời tiền lịch sử Đông Nam Á đã không được nhìn nhận một cách tổng quát.
Tôi trình bày tin tức nêu trên để đưa ra vài ý nghĩ về mối quan hệ của tôi với ông Chang, và kiến thức của ông về Đông Nam Á, sao cho những gì kể sau sẽ không bị xem như một sự tấn công cá nhân đối với ông ta hay công trình của ông. Tôi vẫn xem ông Chang như một người bạn và hy vọng ông còn xem tôi theo cùng cung cách. Sự việc xảy ra rằng chúng tôi đã phát triển các sự giải thích khác biệt đối với các dữ liệu về Nam Trung Hoa thời tiền lịch sử kể từ khoảng 1963 và tôi cảm thấy rằng cách thức tốt nhất cho tôi để trình bày lập luận của mình là xuyên qua sự khảo sát sự tiến hóa của sự giải thích của ông Chang liên quan với sự giải thích của tôi. Câu hỏi mà tôi đang cứu xét là liệu Nam Trung Hoa thuộc về Trung Hoa hay thuộc về Đông Nam Á trong suốt bất kỳ phân đoạn quan trọng nào của thời tiền lịch sử.
Tôi đã trình bày định nghĩa sau đây về Đông Nam Á trong một bài viết hồi năm 1967 (a): Đông Nam Á bao gồm “Đông Nam Á Lục Địa, gồm khu vực từ bắc vĩ tuyến thứ 13 (ở khoảng sông Dương Tử) đến mỏm phía nam của Mã Lai và từ bờ biển của Biển Nam Trung Hoa đến sông Irrawaddy của Miến Điện; và Đông Nam Á Hải Đảo, bao gồm tất cả các hòn đảo ngoài khơi bờ biển Đông Nam Á Lục Địa, kể cả Formosa và Indonesia về phía đông cho mãi đến vùng West Irian”. Định nghĩa này được dựa trên một nghị quyết được thông qua bởi Hội Nghị Khoa Học Thái Bình Dương (Pacific Science Congrees) lần thứ 11 tại Tokyo hồi năm 1966 (Solheim 1967b:2) với các ranh giới dự liệu cho các khu vực được nêu tên trong nghị quyết theo sau (1967b). Kể từ định nghĩa đó, tôi đã mở rộng khu vực, cho việc nghiên cứu của tôi, để bao gồm bộ phận phía bắc của luồng thoát nước của sông Dương Tử, biến rặng núi Tsinling (Tần Lĩnh) thành ranh giới phía bắc mà không có nỗ lực nào để vươn xa hơn về phía tây tại Trung Hoa.
Các sự phát biểu đầu tiên của ông Chang liên quan đến Nam Trung Hoa thời tiền lịch sử dẫn đến sự giải thích của tôi khác biệt với sự giải thích của ông đã xuất hiện trong quyển sách tuyệt hảo của ông ta (1963b), Khảo Cổ Học Trung Hoa Cổ Thời. Bằng chứng liên hệ sớm nhất từ Nam Trung Hoa là từ thời Đồ Đá Trung Kỳ (Mesolithic), nơi ông nói đến các địa điểm có công nghiệp đồ đá như Hòa Bình của Việt Nam hay ở về phía tây, và chất liệu bộ xương sườn giống dân “Negroid” từ một số nơi thuộc các địa điểm này. “Khuôn mẫu Đông Nam Á tổng quát này tự nó biểu lộ địa phương tính tại Nam Trung Hoa …” (1963b:46). Ông nhấn mạnh sự khác biệt trong dân chúng miền nam này với dân chúng thuộc Bắc Trung Hoa qua việc đề cập rằng “… các thành tố Negroid đã được chứng thực một cách rộng rãi cho giai đoạn này tại phần còn lại của Đông Nam Á, và khác biệt với các cư dân giống Mông Cổ (Mongoloid) cùng thời ở phía bắc” (1963b:49).
Vào thời điểm đó một Sơ Kỳ Đá Mới (Early Neolithic) không được hay biết tại Trung Hoa, dù miền bắc hay nam, nhưng điều được đồng ý tổng quát rằng nó sẽ được nhìn nhận bởi đồ gốm màu xám in dấu dây thừng của nó, nằm ở địa tầng bên dưới, hay một cách nào khác được nhận thức thuộc kỷ nguyên sớm hơn Trung Kỳ Đá Mới (Middle Neolithic). Thời Trung Kỳ Đá Mới này, một cách tổng quát, là Văn Hóa Ngưỡng Thiều (Yangshao Culture) của Khu Vực Hạt Nhân của Bắc Trung Hoa. Thời Hậu Kỳ Đá Mới (Late Neolithic), theo tác giả Chang, đã phát triển tại Bắc Trung Hoa với một chuỗi các văn hóa tương quan với vùng Long Sơn (Lungshan). Các nông dân Long Sơn đã di chuyển về phía đông và phía nam, mang theo việc canh tác cùng với họ vào vài khu vực thuộc Nam Trung Hoa. “Nhưng tới mức độ liên quan đến các ý tưởng và kiến thức đầu tiên của việc trồng cây và chăn nuôi gia súc, các khu vực này thuộc Nam Trung Hoa không phải là các trung tâm độc lập của các sự phát minh đầu tiên của nông nghiệp. Đây là điều cũng đúng thực cho phần còn lại của Nam Trung Hoa …” (1963b: 109). “Giai đoạn sơ kỳ Long Sơn này tiêp tục cho đến khi có sự du nhập được cảm thấy của thuật luyện kim đến từ nền văn minh Bắc Trung Hoa” (1963b: 109).
Tóm lược thời Trung Kỳ Đồ Đá và Thời Đá Mới của Nam Trung Hoa, tác giả họ Chang đã viết:
Tại Nam Trung Hoa, các dân săn bắn-đánh cá thời Sơ Kỳ Cận Đại rõ ràng là một phần của dân số phổ quát có nền văn hóa, được khám phá khắp nơi của phần Đông Nam Á Lục Địa, vẫn còn mang các sự tương đồng rõ rệt từ vùng này sang vùng khác, và thuộc nền văn hóa được đặt tên là văn hóa Hòa Bình, gọi theo địa phương của chúng … Các nông dân Long Sơn đi xuống từ thung lũng sông Hoàng Hà đã không chỉ đồng hóa hay thay thế dân chúng săn bắn-đánh cá, thu nhặt của Tây Nam Trung Hoa, mà còn rất có thể chịu trách nhiệm về sự xuất hiện của nông nghiệp tại một phần lớn miền Đông Nam Trung Hoa. (Chang 1963b: 129).
Đối với Bắc Trung Hoa, Văn Hóa nhà Thương (Shang Culture) theo sau Hậu Kỳ Đá Mới. “Nhiều phần nền văn minh nhà Thương được phát sinh một cách trực tiếp từ giai đoạn Honan (Hà Nam) thuộc thế giới Long Sơn …” (1963b: 149).
Địa hình của Nam Trung Hoa theo giả định được phát triển trực tiếp từ văn hóa Long Sơn. Ông ta cảm thấy rằng sự phát triển này được liên kết với sự phát triển của đồ gốm nặng Yin-Shang (Yên-Thương) ở phía bắc và đã tiếp tục …” … dưới sự khuyến khích liên tục của các tác động văn hóa nhà Thương và nhà Chu” (1963b: 257). “Người dân và văn hóa Bắc Trung Hoa liên tục đổ vào Nam Trung Hoa sau khi có sự bắt đầu của nông nghiệp tại Bắc Trung Hoa … Các văn hóa thời Đá Mới tại Nam Trung Hoa vẫn liên tục trong thời nhà Thương và sơ kỳ nhà Chu …” (1963b: 301).
Sự phác họa sơ lược này về thời tiền lịch sử và lịch sử ban sơ Nam Trung Hoa cho thấy ba làn sóng quan trọng của ảnh hưởng văn hóa vươn tới Nam Trung Hoa từ Miền Bắc, tức, Văn Hóa Long Sơn, Đông Chu, và của nhà Tần (Ch’in) và nhà Hán, trước khi Nam Trung Hoa trở thanh một bộ phận kết hợp của một Trung Hoa có văn hóa (1963b: 302).
Trong một bài bình luận về bài viết của họ Chang về thời tiền lịch sử và sơ kỳ lịch sử Nam Trung Hoa, tác giả Cheng Te-k’un còn đi xa hơn họ Chang về ảnh hưởng của Miền Bắc trên Nam Trung Hoa. Ông ta đã viết “Nam Trung Hoa là một bộ phận của thế giới Trung Hoa. Nó đã là một lối thoát tự nhiên cho các sự bành trướng văn hóa Trung Hoa từ Lưu Vực sông Hoàng Hà … Nói một cách đơn giản nhất, sự tăng trưởng văn hóa tại Nam Trung Hoa là một nhánh của văn minh Trung Hoa được phát triển kể từ thời Đá Mới” (Chang 1964: 385-86).
Phản ứng đầu tiên của tôi tương đối ôn hòa, cảm thấy rằng Nam Trung Hoa đã bị ước lượng thấp nhưng không viết ra. Khi chúng tôi bắt đầu có được các niên đại ban sơ cho đồ đồng từ địa điểm khảo sát của chúng tôi tại miền đông bắc Thái Lan hồi mùa hè năm 1966, các ý tưởng của tôi khởi sự phát tiển và được biểu lộ ở vài mức độ. Trong năm kế đó (1967a), chúng tôi đã không loan báo một cách công khai các niên đại sớm sủa mà chúng tôi có được cho đồ đồng tại Thái Lan cho mài đến năm 1968 (Solheim 1968) và các ý tưởng của tôi tiếp tục tiến hóa phần lớn trong một cung cách tổng quát, không cá biệt chỉ vào Nam Trung Hoa (1970: 149-58) và di chuyển trước tiên khá xa trong niềm phấn khởi vào thời điểm đó. Trong khi đó, ông Chang công bố ấn bản thứ nhì của ông (1968).
Nhiều cuộc khai quật và ấn phẩm khảo cổ đã được thực hiện tại Trung Hoa giữa ấn bản thứ nhất và thứ nhì của ông Chang và ông ta đã đưa ra các sự thay đổi quan trọng trong quan diểm của ông về Nam Trung Hoa. Đối với thời Đá Giữa (Trung Thạch: Mesolithic)/văn hóa Hòa Bình ông không đưa ra các sự thay đổi (1968: 76-77). Tuy nhiên,
Không có thắc mắc rằng các nên văn hóa Đá Mới của miền tây nam tiêp tục từ nền móng văn hóa thời Đá Giữa của khu vực, một tình trạng cũng thịnh hành tại Đông Dương (Indochina) …điều xem ra có nhiều xác xuất rằng nông nghiệp và một nền công nghiệp và văn hóa hoàn toàn thuộc thời Đá Mới đã xuất hiện tại miền tây nam từ lâu trước khi sự tác động trọn vẹn của thời cuối văn minh lịch sử Trung Hoa được cảm nhận trong vùng. Điều đáng ghi nhận rằng trung lưu Thung Lũng Dương Tử Giang đã cung cấp điểm tiếp xúc quan trọng duy nhất được hay biết trong tài liệu khảo cổ giữa Khu Vực Hạt Nhân Bắc Trung Hoa (North China Nuclear Area) và Nam Trung Hoa Đá Mới, và các sự trao đổi văn hóa giữa hai miền này – trong bất kỳ chiều hướng nào – hẳn phải có tính chất thường xuyên và quan trọng. Sự kiện rằng thời kỳ văn hóa Yangshao (Ngưỡng Thiều) sớm nhất được hay biết từ miền Tần Lĩnh (Tsinling) và rằng các địa điểm Ngưỡng Thiều tại miền tây nam Hà Nam phô bày các đặc tính “địa phương quan trọng khiến nghĩ rằng phần thượng lưu thung lũng Sông Hanshui (Hán Thủy?) và phần trung lưu sông Dương Tử tại miền tây Hồ Bắc và miền đông Tứ Xuyên đã cung cấp một con đường tiếp xúc quan trọng giữa các giai đoạn khởi đầu nông nghiệp của Bắc Trung Hoa và Đông Nam Á (1968: 175-76).
Liên quan đến Hậu Kỳ Thời Đá Mới, họ Chang đã viết:
Về mối quan hệ khởi nguyên của thế giới Long Sơn này với văn hóa Ngưỡng Thiều, hai sự giải thích khá hữu tự chúng hiển hiện. Hoặc các văn hóa này đã tạo ra một hệ thống văn hóa riêng biệt … (và bắt nguồn) tại miền đông nam Trung Hoa …, di chuyển theo hướng tây bắc để thiết lập sự tiếp xúc với văn hóa Ngưỡng Thiều và làm phát sinh ra các văn hóa Long Sơn của miền đông Bắc Trung Hoa; hay các văn hóa Long Sơn được sinh ra từ văn hóa Ngưỡng Thiều của Khu Vực Hạt Nhân, đại diện cho sự bành trướng vào các khu vực phía đông và đông nam Trung Hoa, và là tổ tiên của các văn hóa Long Sơn địa phương khác nhau. Bằng chứng khảo cổ cung ứng chưa xác định cách giải thích nào … Liên can đến bằng chứng hiện nay, có khuynh hướng nghiêng nhiều về lối giải thích thứ nhì (1968: 146-47).
Sau đó ông có viết “Sự kiện rằng văn hóa Long Sơn là tiền thân của văn hóa nhà Thương là điều chắc chắn …” (1968: 239).
Trong Tháng Năm 1973, tôi có một buổi diễn thuyết tại Hội Khảo Cổ Hồng Kông (Hong Kong Archaeological Society) trình bày các tư tưởng của tôi về cuối thời tiền sử của Nam Trung Hoa và các phản ứng đối với các sự phát biểu của ông Chang. Buổi nói chuyện này được ký âm, tôi có biên tập chút ít, và đã được ấn hành (1973). Trong bài viết này tôi đã trình bày sự tin tưởng của mình rằng cách giải thích thứ nhất được đưa ra bởi ông Chang là sự giải thích chính xác và rằng văn hóa Long Sơn có nguồn gốc tại miền đông nam Trung Hoa và đã di chuyển lên phía bắc. Tôi đã viết, “Chính vì thế, nếu một số trong các văn hóa của Long Sơn đã di chuyển từ phía nam lên phía bắc, và một hay nhiều văn hóa này đã phát sinh ra văn hóa Long Sơn, khi đó dĩ nhiên thành tố miền nam phải là nguồn cội chính yếu trong văn minh Trung Hoa thời tiền ký lịch sử [proto-historic: chỉ giai đoạn nằm giữa thời tiền sử (prehistoric) và lịch sử (history) trong đó một văn hóa hay văm ninh chưa phát triển chữ viết, nhưng sự hiện hữu đã được ghi nhận trong văn tự của các nền văn hóa khác, chú của người dịch]” (1973: 25). Theo sau lời phát biểu của họ Chang được trích dẫn bên trên “Sự kiện rằng văn hóa Long Sơn là tiền thân của văn hóa nhà Thương là điều chắc chắn …” tôi có viết tiếp “các sự đóng góp theo giả thuyết này từ Nam Trung Hoa vào miền bắc, đóng góp cho văn hóa Ngưỡng Thiều và xuyên qua Long Sơn dẫn đến văn hóa Shang-Yin (Thương-Yên), có nghĩa rằng Nam Trung Hoa ít nhất là một đối tác ngang hàng với Bắc Trung Hoa trong sự phát triển văn minh Trung Hoa” (1973: 29).
Họ Chang đã trả lời điều này khá mạnh mẽ “… nói rằng các văn hóa Long Sơn, hay một văn hóa Long Sơn của Nam Trung Hoa là tổ tiên chính yếu của văn minh nhà Thương là một lời nói hoàn toàn phi lý đối với tất cả các sự kiện đã được hay biết” (1974b: 37). Tôi nghĩ rằng tôi chỉ đơn gian ủng hộ giả thuyết thứ nhất của họ Chang, ít ra đó là điều tôi muốn làm. Trong cùng bài viết này, họ Chang tiếp tục viết:
Không có gì có tính chất tà thuyết về việc xem Nam Trung Hoa như là mộ bộ phận của Đông Nam Á vào đôi lúc nào đó trong quá khứ cho các mục đích phân loại. Giáo Sư Ling Shun-sheng, thí dụ, sẽ mở rộng khu vực văn hóa của Đông Nam Á để bao gồm Nam Trung Hoa đến tận thung lũng sông Dương Tử, hay ngay cả đến phía nam sông Hoài (Huai) và rặng núi Tần Lĩnh” … Chính cá nhân tôi đã từng phát biểu rằng “vì mục đích của một cuộc thảo luận trong lịch sử văn hóa của nó …. Đông Nam Á bao gồm một cách xác thực Nam Trung Hoa cũng như các khu vực bán đảo và hải đảo ở phía nam” (Chang 1962: 1). Hiển nhiên đôi lúc trong quá khứ các cư dân của Nam Trung Hoa rất giống nhau trong văn hóa của họ, và có lẽ có liên hệ về mặt chủng tộc, với các làng giềng của họ tại phương nam. Chấp nhận quan điểm này không ngăn cản chúng ta khỏi việc phân loại Nam Trung Hoa một cách khác biệt vì một mục đích khác biệ hay trong một thời gian khác biệt. Bởi phần lớn thời kỳ lịch sử của Trung Hoa, Nam Trung Hoa chỉ có thể được nhìn như một bộ phận của một Đại Trung Hoa, về mặt văn hóa cũng như chính trị.
Cũng không phải tà thuyết gì cả khi nói rằng Nam Trung Hoa đã đóng góp vào văn hóa Trung Hoa từ lúc khởi đầu. Trong thực tế, trong số các học giả Trung Hoa hiện đại đây là một vấn đề có sự đồng ý chung. Hơn bốn mươi năm trưóc đây, tác giả Li Chi, trong khi thảo luận các nguồn gốc của văn minh nhà Thương, đã nêu ra các thành tố “phương nam” của nó, và ông đã xem các khu vực duyên hải đông nam như một trong các nguồn cội quan trọng của văn hóa nhà Thương … Tác giả Kuo Mo-jo … đã xem có nhiều xác suất rằng sự kích thích cho sự phát triển thuật đúc đồng đến với nhà Thương từ Thung Lũng sông Dương Tử … Tác giả Ling ….còn đi xa đến mức nói rằng “văn hóa Trung Hoa có tính chất đa căn nguyên và tích lũy, và nền móng của nó là văn hóa đại dương có nguồn gốc và được phát triển tại các bờ biển của “Địa Trung Hải Á Châu”. Nói về “Địa Trung Hải Á Châu”, họ Ling đề cập đến hải phận được bao quanh bởi bờ biển đông nam Trung Hoa, Đông Dương, và các đảo Biển Nam Hải (South Sea). (Chang 1973: 35-36).
Tôi nhận thấy tất cả điều này rất hỗ trợ cho những gì tôi đang cố gắng phát biểu và có thể được nói trong một cung cách ngoại giao hơn.
Kế đó xảy đến việc ấn định niên đại bằng phương pháp xét nghiệm 14 C và các niên đại sớm hơn nhiều so với sự ước định cho nhiều địa điểm và văn hóa tại Nam Trung Hoa. Sau một vài thời khoảng để suy ngẫm điều này, ấn bản thứ ba của họ Chang đã xuất hiện (1977). Trong ấn bản này, sự trình bày văn hóa Hòa Bình/Trung Kỳ Đồ Đá vẫn y như trước. Nhưng,
Bằng chứng khảo cổ cung ứng hiện nay hướng đến hai miền nơi sự chuyển đổi từ lối sống Thời Đồ Đá Cũ (Palaeolithic) sang Thời Đồ Đá Mới (Neolithic) xảy ra, tức lưu vực sông Hoàng Hà … và các khu vực duyên hải đông nam …Ngay dù các dây liên kết chi tiết chưa được cung ứng hoàn toàn, có thể không còn thắc mắc giờ đây rằng các nền văn hóa Ngường Thiều và Ta-p’en-keng (Đại Phần Khanh) đã phát triển một cách bản địa từ các căn cứ liên hệ của chúng. Sự kiện rằng cả giai đoạn khởi sự của văn hóa Ngưỡng Thiều lẫn văn hóa Đại Phần Khanh đều được tiêu biểu bởi đồ gốm in dấu dây thừng (với các mẫu thiết kế chạm khắc) khiến nghĩ đến một số kiểu cách tương liên của hai nền văn hóa, nhưng khi nhìn dến các bản kê khai vật thể tổng quát vô cùng khác biệt, rõ ràng là không nền văn hóa nào lại có thể bi xem là một sự chuyển hóa của nền văn hóa kia. Văn hóa Ngưỡng Thiều hoàn toàn được giới hạn vào Bắc Trung Hoa, nhưng văn hóa Đại Phần Khanh trong một số khía cạnh, giống với văn hóa Hòa Bình và phần còn lại của Đông Dương, nhiều đến nỗi nhiều vấn đề có thể tùy thuộc vào một sự cứu xét đến cả hai nền văn hóa (1977: 141-42).
Trong 1977 (413-14), họ Chang vẫn còn xem đồ gốm kỷ hà học của miền đông nam Trung Hoa được liên kết với đồ gốm nhà Thương và tiếp tục được cổ vũ bởi các văn hóa nhà Thương và nhà Chu. Các niên đại gần đây hơn cho đồ gốm này khiến nghĩ rằng nếu có một dây liên kết, sự kich thích đi theo hướng ngược lại. Giờ đây chúng ta hay biết rằng đồ gốm kỷ hà học trở nên đồ gốm phổ thông quanh Hồng Kông vào khoảng 2200 TCN (Meacham 1980: 56) và có nguồn gốc nội địa vài trăm năm trước đó. Tiếp tục đến Hậu Kỳ Đá Mới,
Nhiều đặc điểm văn hóa chung được nhận thấy khắp Nam Trung Hoa, ngược với miền bắc, điều có thể chỉ cho thấy rằng các nền văn minh phương nam chứa đựng một số yếu tố thống nhất, nhiều yếu tố trong đó rõ ràng là kết quả của các sự điều chỉnh sinh thái giống nhau đến một môi trường thiên nhiên giống nhau, nhưng một số yếu tố có thể chỉ cho thấy một mức độ nào đó của sự liên hệ lịch sử. Các đặc điểm chung của Nam Trung Hoa gồm, thí dụ, nhà sàn dựng trên cột, canh tác lúa gạo, mũi khoan hình ống (the tubular borer), việc mai táng trong các chiếc thuyền và trên bờ dốc đá, và các trống hình bán cầu (kettledrums) bằng đồng. Tuy nhiên, sự phân bố các đặc điểm này và các đường nét khác, khiến ta nghĩ rằng thực sự đã có các truyền thống văn hóa song hành hơn là một khu vực văn hóa duy nhất tại Nam Trung Hoa trong thời khoảng này, và, rằng sự diễn biến phổ quát của một số đặc điểm tiêu biểu nào đó là kết quả của các sự tiếp xúc văn hóa hay các điều kiện sinh thái giống nhau (1977: 469).
Văn hóa Trung Hoa bắt đầu từ đâu, giờ đây có phải chúng ta hay biết được rằng nó đã khởi sự bằng nông nghiệp? Tôi thường nghĩ rằng văn hóa Trung Hoa chỉ khởi sự tại khu vực hạt nhân của Bắc Trung Hoa, từ đó dần dần tỏa sáng ra bên ngoài để thu hút các nền văn hóa phi-Trung Hoa tại các vùng ngoại vi của nó vào trong truyền thống Trung Hoa … Các vật liệu khảo cổ được cung ứng trong vài năm vừa qua đã bắt đầu thuyết phục tôi rằng một cái nhìn như thế trong thực tế phản ảnh một thiên kiến lịch sử. Tiến trình tỏa sáng theo đó văn hóa khu vực hạt nhân của Bắc Trung Hoa tiến tới việc đồng hóa nhiều láng giềng của nó không phải là vấn đề cứu xét. Câu hỏi liên quan đến nhãn hiệu Trung Hoa. Giờ đây chúng ta được chỉ cho thấy rằng đã có các sự phát triển song hành của các nền văn hóa thời Đá Mới tại Trung Hoa, nếu chúng ta áp dụng tiêu chuẩn tính liên tục và truy tìm văn hóa Trung Hoa hợp thời, chúng ta nhất thiết phải nhìn thấy rằng các tính liên tục văn hóa vươn tới nhiêu nơi hơn chỉ mỗi khu vực hạt nhân của Bắc Trung Hoa (1977: 480).
Họ Chang đã đi đến một kết luận trong cách kể sau:
Tôi không phải không để ý đến các sự nghịch lý lịch sử-ngữ học có liên can đến các vấn đề phân loại như thế, nhưng tuyên bố rằng bất kỳ một trong các nền văn minh này là phi-Trung Hoa và sau đó bị đồng hóa hay bị trục xuất bởi người Trung Hoa, các kẻ đến từ một khu vực hạt nhân duy nhất, là đi ngược lại bằng chứng khảo cổ trong mọi trường hợp, nơi tính liên tục với các sự biến đổi luôn luôn là quy luật … Nếu các quan điểm này có giá trị trong thực chất, khi đó chúng ta đối diện với một hiện tượng đáng kinh ngạc, tức, nền văn hóa Trung Hoa ít nhiều đã trùng hợp với khu vực của Trung Hoa như chúng ta giờ đây luôn luôn hay biết nó kể từ lúc có sự khởi đầu của lối sống nông nghiệp và có thể, mặc dù chưa được chứng minh, còn sớm hơn trước đó. Và trong khu vực này, bất kể nhiều sự trao đổi văn hóa với thế giới bên ngoài, văn hóa Trung Hoa trong hàng nghìn năm không chỉ trường tồn mà còn chứng tỏ tự căn bản có tính chất tự chế (self-contained) (1977: 481).
Sự phát biểu gần đây nhất của họ Chang về chủ đề này xảy ra trong năm 1981. Ông nói đên:
Khu vực tương tác của Trung Hoa. Nếu trong thời khoảng từ 10,000 đến 5,000 TCN, khi các nông dân đầu tiên xuất hiện tại vùng đất giờ đây được biết là Trung Hoa, đã có ít nhất hai hay ba trung tâm văn hóa riêng biệt, sau năm 5,000 TCN, các nền văn hóa tại các trung tâm riêng biệt này hẳn phải được lan truyền và tiếp xúc với nhau, trong thời gian rất lâu trước khi chúng được nối kết với nhau trong một mạng lưới chiếm cứ một khu vực có thể được thừa nhận như khu vực tương tác của một truyền thống văn hóa duy nhất. Bởi các nền văn hóa này góp phần vào sự hình hình văn minh Trung Hoa trong lịch sử, điều hợp lý để cho rằng khu vực tương tác lịch sử này là “thuộc [hay có tính chất] Trung Hoa. (1981: 154).
Tôi không đồng ý. Họ Chang đã thay đổi quan điểm của ông ta gần như 180 độ, từ ấn bản đầu tiên của quyển sách của ông ta, là hợp lý và cần thiết với sự xuất hiện của các dữ liệu mới và các niên đại theo xét nghiệm 14C mà tôi cảm thấy phù hợp với sự giải thích trước đây của tôi hơn so với sự dẫn giải của ông ta. Tôi phải cảm thấy sung sướng bởi giờ đây Nam Trung Hoa đã trở thành một đối tác bình đẳng với Bắc Trung Hoa trong hàng tổ tiên sinh ra nền văn minh Trung Hoa, nhưng trong tiến trình, nó đánh mất căn cước nguyên thủy của mình và trở thành Trung Hoa thực sự từ lúc khởi đầu. Một vài nền văn hóa của các khu vực biên giới Nam Trung Hoa vẫn còn được xem là thuộc nhóm dân tộc ít người Đông Nam Á nhưng các nền văn hóa thời tiền lịch sử của Nam Trung Hoa cũng là tổ tiên của họ không khác gì đối với văn hóa Trung Hoa. Tác giả Richard Pearson (1982) gần đây đã thực hiện một cuộc nghiên cứu so sánh đồ gốm thời tiền lịch sử của Nam Trung Hoa và Đông Nam Á. Ông đã kết luận:
Các địa điểm Đá Mới Thái Lan-Mã Lai có chia sẻ một số hình thể bồn (chậu, bình) giống nhau cùng với các địa điểm được mô tả gần đây từ Nam Trung Hoa, khác biệt khá nhiều với các địa điểm Đá Mới tại Bắc Trung Hoa được sử dụng trong các sự so sánh tổng quát trước đây. (83) [Chỉ các dữ liệu ngữ học mà tác giả nói tiếp đên] Điều này cũng khiến nghĩ rằng nhánh Austroasiatic có thể bắt nguồn tại vùng Trung Lưu sông Dương Tử, và rằng một nhánh cộng sinh Tai-Austronesian lâu đời hơn có thể đã xảy ra … Trong trường hợp này, có lẽ là một liên tục của các nền văn hóa từ sông Dương Tử dọc theo bờ biển miền nam Trung Hoa đến vùng Đông Nam Á Lục Địa. Việc ấn định niên đại vào lúc này vẫn còn là một vấn đế rất khó khăn, nhưng các sự tương đồng mạnh mẽ trong một số hình thể bồn (chậu, bình) khiến ta nghĩ đến các sự tương đồng văn hóa mạnh mẽ và sự tiếp xúc, chứ không phải sự phát triển biệt lập, tại Nam Trung Hoa và Đông Nam Á (Pearson 1982: 83-84).
Tôi có thể nói dài hơn nhiều để trình bày các sự tương đồng giữa các nền văn hóa Nam Trung Hoa thời tiền sử với các nền văn hóa Đông Nam Á nhưng không có nhiều thì giờ. Tôi muốn kết luận bằng một đoạn văn kết thúc một bài viết khác của tôi (Solheim 1979a: 200), nhưng tôi đã trích dẫn các bài viết khác trong thực tế cho toàn thể sự trình bày này. Tôi đề nghị chúng ta không gọi bất kỳ khu vực nào của Trung Hoa ngày nay là “thuộc, hay của Trung Hoa” (Chinese) trước thời nhà Hán, mà thay vào đó, sử dụng các danh xưng của các nền văn hóa khảo cổ khác nhau không chỉ cho Nam Trung Hoa mà còn cho toàn thể Trung Hoa ngày nay. Chúng ta không xem Nam Trung Hoa hoặc thuộc Đông Nam Á hay thuộc Trung Hoa, mà theo các tên gọi của chính nó, liên hệ với cả hai khu vực văn hóa chính yếu trong các cách khác nhau ở các thời gian khác nhau. [In đậm để nhấn mạnh bởi người dịch](Cũng xem Meacham 1977)./-
____
CHÚ THÍCH
*Dựa theo một bài giảng trình bày bởi tác giả tại Trường School of Oriental and African Studies, University of London, 11 Tháng Mười Một, năm 1981.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chang, Kwang-chih
1962 Major problems in the culture history of Southeast Asia, Bulletin of the Institute of Ethnology, Academia Sinica, No. 13:1-26.
1963a Special Taiwan Section. Editor. Asian Perspectives 7(2): 195-275.
1963b The Archaeology of Ancient China. New Haven: Yale University Press.
1964 Prehistoric and early historic culture horizons and traditions in South China. Current Anthropology 5(50: 359, 368-75, 399-400.
1968 The Archaeology of Ancient China, ấn bản thứ nhì, có tu chỉnh và tăng bổ. New Haven: Yale University Press.
1974a Ancient farmers in the Asian tropics: major problems for archaeological and palaeoenvironmental investigations of Southeast Asia at the earliest Neolithic period. Perspectives in Palaeoanthropology, biên tập bởi Asok K. Ghosh, Calcutta: Firma K. L. Mukhopadhyay, các trang 273-86.
1974b Comments on the interrelationship of North China, South China, and Southeast Asia in ancient times. Journal of the Hong Kong Archaeological Society 5: 34-38.
1977 The Archaeology of Ancient China, ấn bản thứ ba, có tu chỉnh và tăng bổ. New Haven: Yale University Press.
1981 In search of China’s beginnings: new light on an old civilization. American Scientist 69(2): 148-60.
Cheng Te-k’un
1964 Comment on Chang, 1984. Current Anthropology 5(5): 385-86.
Meacham, William
1987 Continuity and local evolution in the Neolithic of South China: a non-nuclear approach. Current Anthropology 18(3): 419-27, 436-40.
1980 Archaeology in Hong Kong. Hong Kong, Singapore, Kuala Lumpur: Heinemann Asia.
Pearson, Richard J.
1982 Interrelationship of mainland Southeast Asian and South Chinese prehistoric ceramic assemblages. Proceedings of the International Conference on Sinology. Section on History and Archaeology. Taipei: Academia Sinica, các trang 63-86.
Solheim, Wilhelm G. H.
1963 Formosan relationship with Southeast Asia. Asian Perspectives 7(2): 251-60.
1967a Southeast Asia and the West. Science 157(3891): 896-902.
1967b International congresses and symposia. Asian Perspectives 10: 1-8.
1968 Early bronze in northeastern Thailand. Current Anthropology 9(1): 59-62.
1970 Northern Thailand, Southeast Asia, and World Prehistory. Asian Perspectives 13: 145-62.
1973 Remarks on the Neolithic of South China and Southeast Asia. Journal of the Hong Kong Archaeological Society 4: 25-29.
1979 A look at “L’Art prébouddhique de la Chine et de l’Asie du Sud-Est et son influence en Océanie” forty years after. Asian Perspectives 22(2): 165-205.
_____
Nguồn: Wilhelm G. Solheim II, Prehistoric South China, Chinese or Southeast Asian?, Computational Analyses of Asian & African Languages, Tokyo, No. 22, March 1984, các trang 13-19.
Ngô Bắc dịch và phụ chú
13.07.2015
Nguyễn Xuân Thiệp
mùa thu
với gió. những chiếc lá vàng. trong cây
tôi đi tìm con dế
và vầng trăng
ôi. vầng trăng. từng nghe tôi đọc thơ. những ngày đói rách vừa ra khỏi trại tù. lang thang kiếm ăn trên đường phố sài gòn
và đã cùng tôi. chia nhau. củ khoai lang. buổi tối
với niềm tuyệt vọng
tôi tìm con dế
đã cùng tôi hát khúc ca chiều
bên ngôi mộ đá
bây giờ. mùa thu xứ người
cũng cô đơn và giá lạnh
tôi đi tìm lại vầng trăng
và cả con dế. ca nhân
này em
bên hiên nhà em. đêm nay. dường như cũng có vầng trăng
và tiếng con dế gáy
như trong thơ tôi
ôi. cho tôi xin lại hồn mình
và đốm lửa
Những cái tên như BBC, RFA, RFI … dường như đã quá quen thuộc với nhiều người. Vậy có ai từng đặt câu hỏi về sự ra đời của những đài này? Ai đứng đằng sau họ?Nguồn tài chính ở đâu? Và sứ mệnh của họ là gì?…
Đài BBC (British Broadcasting Corporation) là thông tấn xã quốc gia của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. BBC được thành lập năm 1922 do một nhóm các công ty viễn thông cho tới các dịch vụ tin tức phát thanh truyền hình. Buổi phát thanh truyền tin tức đầu tiên vào 14 tháng 11 năm 1922. Công ty, với John Reith là tổng quản lý, trở thành BBC năm 1927 khi nó được thừa nhận sự hợp nhất. BBC bắt đầu truyền tin bằng hình năm 1932 và trở thành dịch vụ phổ biến năm 1936. Truyền tin bằng hình ảnh bị dừng lại từ 1-9-1939 tới 7-6-1946 do Thế chiến thứ hai.
* BBC, RFA, RFI là những tổ chức phục vụ cho quyền lợi của Anh, Mỹ, Pháp, và một nhóm người Việt lưu vong đang làm việc tại đây nhằm làm suy yếu sự đoàn kết dân tộc của Việt Nam và gây bất ổn chính trị xã hội ở Việt Nam
* Sứ mệnh của BBC là gây xáo trộn xã hội để kích động quấy rối an ninh Việt Nam.
*Sứ mệnh của RFA: truyền bá những thông tin và ý tưởng nhằm phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu trong chính sách ngoại giao của Mỹ...
* Nói đến RFI là chúng ta nghĩ ngay đến sự thù hận đối với một số nước, trong đó có Việt Nam, đài này tìm mọi cách xuyên tạc, bóp méo tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa.
Mặc dù nguồn tài chính của BBC dựa vào các nguồn thu từ truyền thông, quảng cáo, nhưng thực chất bên trong họ nhận được nhiều nguồn gián tiếp tài trợ của cơ quan ngoại giao và tình báo MI6 của Vương quốc Anh. Nên BBC đành phải “cắn răng” mà chấp nhận tuân thủ “cuộc chơi” này.
BBC là một tập đoàn truyền thông lớn, họ có nhiều chuyên trang tin tức và bằng nhiều thứ tiếng. BBC Tiếng Trung và BBC Tiếng Việt là hai trang bản ngữ lớn nhất của họ. Không hiểu hai quốc gia này có phải là một thị trường tiềm năng của BBC hay không mà họ cũng rất chịu chi cho hai trang này?
BBC vẫn luôn tự nhận mình là một cơ quan báo chí, truyền thông, và luôn thực hiện đúng tôn chỉ của truyền thông là đưa tin trung thực, khách quan?… Thế nhưng, trong tất cả bài viết của đội ngũ cộng tác viên thuộc nhà đài này, ở câu kết bài BBC đều đưa ra một luận điểm: “Bài viết thể hiện quan điểm riêng và cách hành văn của tác giả…”. Thật không hiểu cái cách mà người Anh định nghĩa về truyền thông là thế nào? Nếu họ đồng ý nguyên tắc số 1 của truyền thông là đưa tin trung thực và khách quan thì cớ sao lại đưa ra luận điểm trên. Liệu có phải là sự thoái thác trắng trợn trách nhiệm của ban biên tập tờ báo này đối với những thông tin mà họ đăng tải hay không? Chỉ một câu nói, tưởng như là khách quan, trung thực nhưng thực ra lại uẩn khúc một điều không hề trung thực, khách quan!
TRÒ CHUYỆN Gia Minh Nguyễn Mạnh Tiến
ĐẶC PHÁI VIÊN ĐÀI RFA
Gia Minh Nguyễn Mạnh Tiến đầu bạc đứng thứ 5 từ trái sang phải
Trong chuyến thăm con ở New York vào cuối tháng 11 năm 2014, có ghé thăm gia đình chị Tâm Đạt ở Virginia thì được anh chị Nguyễn Mạnh Tiến mời gặp mặt tại nhà hàng SAIGON món ăn HUẾ tại Khu thương xá EDEN
Anh Tiến gốc Hà Nội liên hệ bà con xa với vợ Tâm Đạt, hình như liên hệ xa với ông ngoại Tế là dược sĩ cùng dược sĩ Nguyễn Cao Thăng mở Dược Phòng, đã trao dược phòng cho Nguyễn Cao Thăng để tập kết ra Bắc cùng với bà ngoại vợ TĐ. anh Tiến ở trọ BIỆT THỰ bà ngoại ở gần Ga Xe Lửa Huế cùng với bà chị vợ TĐ, học trường QUỐC HỌC.
Chúng tôi giới thiệu làm quen nhau, vợ TĐ vui mừng gặp lại anh Tiến hơn 40 năm cách biệt từ sau ngày THỐNG NHẤT 1975, vừa ăn vừa kể chuyện xưa.
Anh Tiến: Trước đây anh trong ban Biên tập đài Saigòn VNCH đi CẢI TẠO HỌC TẬP trên 10 năm, chị Tiến xướng ngôn viên đài VOA trên 15 năm cho đến ngày Thống Nhất 1975 [anh Tiến gọi là MẤT NƯỚC, nước VIỆT NAM còn đó do toàn dân Việt quản trị, là do HỒ CHÍ MINH lãnh đạo TOÀN DÂN và VIỆT MINH CỌNG SẢN ĐẢNG đã đánh cho PHÁP-MỸ cút và NGỤY VNCH nhào, đã Thống nhất, Độc lập, Chủ quyền và Vẻ vang cho Việt tộc, TĐ]
Hiện nay anh Tiến làm cho đài RFA đặt trách phỏng vấn những nhà đấu tranh cho Dân chủ, Nhân quyền và giải thể Đảng Cọng Sản. Đài RFA là tiếng nói trung thực, khách quan không phải là đài do chính phủ Mỹ....anh Tiến hàng ngày vào đài trước 6 AM để phỏng vấn trực tuyến những tên [PHẢN LOẠN DBHB, và RFA chi trả vài trăm dollars, mỗi lần phỏng vấn [RFA tìm được nhiều người mới], trong số những tên PHẢN LOẠN kiếm được mỗi tháng vào khoảng trên $3000.00 [3 ngàn dollars mỗi tháng] đó là tự xưng nhà báo độc lập NGUYỄN KHẮC TOÀN, nói rất bạo, càng bạo thì lợi tức càng lớn, TĐ]
Tâm Đạt: Đài RFA [Á CHÂU TỰ DO, phát thanh 9 thứ tiếng qua làn sóng ngắn và internet đến các nước Trung Quốc, Tây Tạng, Miến Điện, Lào, Campuchia, Việt Nam, và CHDCND Triều Tiên.] do Cơ quan tình báo Quốc hội Mỹ tài trợ NED, anh Tiến tái mặt ngượng ngùng [vào năm 2012, có chương tình viện trợ Y tế cho trẻ em Việt nam, ngân khoảng trên 2 triệu dollars, đài VOA, BBC, RFA cho biết Quốc hội Mỹ áp lực VN chứng tỏ NHÂN QUYỀN (sic) được tôn trọng, là thả tù những tên PHẢN LOẠN ngụy danh là những nhà tranh đấu Dân chủ-Nhân quyền-Tự do tôn giáo.v.v..., không thì trên 2 triệu dollars đó sẽ ban thưởng cho tất cả nhân viên đài RFA, thật là hoang tưởng, TĐ]
Anh Tiến: Thật đáng buồn là anh ĐIẾU CÀY vừa mới qua Mỳ vài ngày, khi đến Mỹ anh không có lời nào chống đối nhà nước VN và Đảng CSVN, mà chỉ phản đối TRUNG QUỐC xâm lăng VIỆT NAM, cũng như CÙ HUY HÀ VŨ qua Mỹ chẳng làm gì hết đối với CSVN. Họ Trần Khải Thanh Thủy- Cù Huy Hà Vũ-Điếu Cày.....và ai đó sau này qua Mỹ là xong rồi, thật ra HỌ phải kiên cường ở TÙ tại VN và đấu tranh quyết liệt mới lật đỗ CSVN phải không?
Tâm Đạt: Những nhà đấu tranh Dân chủ-Nhân quyền cho Việt Nam [Phản loạn, TĐ], họ rất mong được nhà nước VIỆT NAM nhốt họ vào TÙ để có cơ hội vận động qua Mỹ, mơ tưởng sẽ có cuộc sống huy hoàng, ai ai cũng ước mơ THIÊN ĐÀN TẠP CHỦNG QUỐC?, qua Mỹ thì biết liền đó ạ! Với tuổi già xế bóng không còn sức LAO ĐỘNG ala, ala, ala....
Anh Tiến: Không có lực lượng nào lật đỗ được Nhà nước CSVN, trong nước thì chẳng có ĐẢNG nào hết, hải ngoại nhất là ở Mỹ thì có nhiều đảng phái chẳng có đảng nào ra hồn hết thực lực, có đảng chỉ có 2 người [chồng vợ], có đảng từ 5 đến 10 người và chỉ họp nhau đấu láo cuối tuần sau 5 ngày cày kiếm cơm, tựu cho đông danh sách hàng chục đảng trong những ngày QUÂN LỰC 19/6, QUỐC HẬN 30/4, chào đón phái bộ Ngoại giao, Thương mại, Chủ tịch nước, Thủ tướng, Tổng Bí Thư nhà nước CHXHVN ....chỉ có vào khoảng từ 30 đến tối đa trên 100 tên [hiện nay, TĐ] la lới om sòm bên kia đường, mà phải trả chi phí $600.00 [6 trăm dollars?, xin giấy phép cơ quan địa phương để biểu tình chống đối, TĐ]..Chỉ có Đảng VIỆT TÂN mới có thục lưc mà thôi?
Tâm Đạt: Bật cười trong bụng khi anh Tiến nói về ĐẢNG PHỞ BÒ này, thật tội nghiệp cho anh chẳng biết gì hết. TĐ đã sống trên 40 năm ở Mỹ và biết rất rõ cái ĐẢNG PHỞ BÒ click TUYỂN TẬP: NHỮNG TRÒ BỊP BỢM “Việt Tân ‘Phở’ Đảng” , ĐÀI RFA VÀ TUYÊN TRUYỀN CHỐNG VIỆT NAM: Trần Đình Hoàng (UP DATE) , LỘT MẶT NẠ TỔ CHỨC “RSF=NHÀ BÁO KHÔNG BIÊN GIỚI” .....
Anh Tiên: Thế hệ già chúng anh sẽ hết làm đài RFA, cho nên đài đang tuyển chọn những em du sinh thay thế chúng anh, những em du sinh nói tiếng Việt rất chuẩn [đa số chọn các em du sinh gốc Hà Nội], chứ các em ở Mỹ này nói tiếng Việt ngọng ngẹo và không thông
Dễ thấy, BBC Tiếng Việt đang cố tình che đậy hết tất cả những điều tốt đẹp, những điểm sáng kinh tế của Việt Nam, mà chỉ chăm chăm giật các tít bài “xoi mói” đời sống chính trị Việt Nam? Nếu là khách quan thì bên cạnh tin tức tiêu cực (nếu đúng) sao không có bất cứ một thông tin nào là tích cực về đời sống chính trị Việt Nam? Phải chăng nền chính trị Việt Nam chỉ có cái gọi là đấu tranh vì “dân chủ”, “tự do tôn giáo”, “bất đồng chính kiến”, “tham nhũng”…? Có lẽ người đài BBC nên học lại bài học đầu tiên về tư cách người làm báo! Tiếc thay, hiện có khá nhiều người Việt Nam vì tò mò bởi những tin tức “độc, hot” nên đã vội tin vào những thông tin từ phía nhà đài BBC.
Đài RFA (Á châu tự do-Radio Free Asia) được thành lập trong thời gian Chiến tranh lạnh (1950),dưới sự quản lý của CIA, với mục tiêu chính là tuyên truyền đường lối của Mỹ bằng tiếng địa phương đến các quốc gia Mỹ xem là kẻ thù, tức các nước xã hội chủ nghĩa thời đó. Năm 1971 CIA chuyển quyền điều hành đài RFA sang cơ quan có tên là Board of International Broadcasting (BIB) do tổng thống Mỹ bổ nhiệm và chỉ đạo. Đến năm 1994, Quốc hội Mỹ thông qua dự luật truyền thông quốc tế, và RFA chính thức trở thành một công ty tư nhân. Tuy trên danh nghĩa là một công ty tư nhân, nhưng ngân sách của RFA lại được Quốc hội Mỹ tài trợ [NED, cơ quan tình báo quốc hội Mỹ, click: Sự Thật GHPGVNTN “Võ Lan Ái” Ăn Phân Tình Báo Mỹ NED , NDVN] dưới sự phân phối của Hội đồng quản trị truyền thông hay BBG (Broadcasting Board of Governors). Hiện nay, RFA phát thanh 9 thứ tiếng qua làn sóng ngắn và internet đến các nước Trung Quốc, Tây Tạng, Miến Điện, Lào, Campuchia, Việt Nam, và CHDCND Triều Tiên.
Sứ mệnh chính thức của BBG là “tiếp tục chương trình truyền thông quốc tế của Mỹ, thiết lập một dịch vụ truyền thông đến người Trung Quốc và các nước Á châu khác. Qua đó truyền bá những thông tin và ý tưởng nhằm phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu trong chính sách ngoại giao của Mỹ… Đối tượng chủ yếu mà RFA nhắm đến là Trung Quốc. Như vậy, tuy mang danh nghĩa là một công tuy tư nhân, nhưng RFA không dấu diếm rằng nó là một công cụ của chính quyền Mỹ, nhằm phục vụ lợi ích và mục tiêu của chính quyền Mỹ. Thật ra, có thể nói không ngoa rằngnhững người Việt làm việc và điều hành chương trình Việt ngữ của RFA là những người Mỹ con. Cũng không có gì quá đáng khi nói như thế vì họ là công dân Mỹ cho dù có mang dòng máu Việt Nam. Vì là Mỹ con nên chúng ta phải “thông cảm” là họ phải làm có lợi cho Mỹ, đất nước đang dung dưỡng và nuôi nấng họ.
So với các đài Việt ngữ ở nước ngoài do các nhóm người Việt ở Mỹ điều hành, đài RFA tỏ ra thông minh và “có nghề” hơn. Không như các đài Việt ngữ cực đoan chuyên hành nghề chửi bới và xuyên tạc tình hình Việt Nam một cách ngu xuẩn, đài RFA cố gắng tỏ ra có nghiệp vụ hơn: có phóng viên đến Việt Nam thu thập tin tức, phỏng vấn các quan chức trong chính phủ Việt Nam. Để tỏ ra mình là cơ quan ngôn luận nghiêm túc, RFA gọi các quan chức trong chính phủ Việt Nam bằng chức danh rõ ràng. Họ tránh tối đa sử dụng các ngôn từ cảm tính như “Cộng sản Việt Nam”. RFA cũng tránh cách nói xách mé hay xấc láo của các đài Việt ngữ khác hay dùng. Nói chung có lẽ vì do người Mỹ quản lý cho nên RFA thông minh, tinh vi, và tuyên truyền có bài bản.
Với lối làm truyền thông theo kiểu Chiến tranh lạnh, không ngạc nhiên khi phần lớn các chương trình phát thanh của RFA hoàn toàn tập trung vào mục tiêu gây bất ổn định cho Việt Nam. Những chiêu bài mà RFA đặc biệt quan tâm khai thác tối đa là tự do, dân chủ, và tôn giáo. Họ rất thích chơi bẩn Việt Nam bằng cách tung tấm hình Nguyễn Văn Lý bị bịt miệng khi la hét trước tòa, [phạm nhân Mỹ đứng trước mặt Chánh án và bồi thẩm đoàn, có hành vi la hét, đạp đỗ ghế bàn, và to mồm bất kính Chánh án, thì phạm nhân sẽ bị cột chặt chân tay và băng keo bịt miệng trên XE LĂNG, để rồi nhận bản án nhiều năm tù hơn bởi hành vi gây rối xáo động tại tòa, NDVN],nhưng lại ém nhẹm tấm hình những tù nhân trần truồng ở nhà tù Guantanamo bị chó berger dọa cắn, những bức hình mà tù nhân bị tra tấn dã man. Thậm chí, họ cũng không ngại dựng chuyện, biến từ chuyện không có thật thành những chuyện như thật. Họ không xấu hổ khi sẵn sàng nói sai sự thật. Khách quan của RFA là như thế đó?!.
Đài RFI (Radio France internationale) là một đài phát thanh trong hệ thống phát thanh của Nhà nước Pháp, phủ sóng phát thanh tại Paris và toàn thế giới. Với 45 triệu thính giả vào năm 2006, RFI là đài phát thanh quốc tế được đón nghe nhiều thứ 3 trên thế giới, sau BBC và Đài tiếng nói Hoa Kì (VOA), ngang với đài phát thanh Deutsche Welle của Đức.
Đài RFI được thành lập ngày 6-1-1975 theo một đạo luật ban hành vào tháng 8-1974 trên cơ sở các chương trình phát thanh hướng ra ngoài nước Pháp đang có sẵn, và thuộc Radio France. Theo một luật được bỏ phiếu vào ngày 30-9-1986 và được áp dụng vào ngày 1-1-1987, RFI tách khỏi Radio France và trở thành đài phát thanh độc lập, được tài trợ trực tiếp bởi Bộ ngoại giao Pháp. Mục tiêu lúc này không chỉ tập trung vào khối Francophonie mà mở rộng sang Châu Á, thế giới Ả Rập và Iran.
Đài RFI phát sóng chương trình tiếng Việt từ tháng 6-1990. Ban Việt ngữ được chính thức thành lập vào ngày 9-7-1990. Từ tháng 6-2008 trang web tiếng Việt đã được phát triển, mang nhiều thông tin so với trước đó chỉ là thông tin vắn tắt về lịch phát và nghe trực tuyến hoặc tải chương trình phát thanh. Hiện tại RFI phát thanh bằng tiếng Việt 2 giờ mỗi ngày, với chương trình 1 giờ và phát lại 1 giờ.
Nói đến RFI là chúng ta nghĩ ngay đến sự thù hận đối với một số nước, trong đó có Việt Nam, đài này tìm mọi cách xuyên tạc, bóp méo tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa. Gần đây là bài viết xuyên tạc làm xấu đi quan hệ của ba nước Việt Nam–Lào–Campuchia. Đây là một loại đài phát thanh mà đội ngũ biên tập viên chỉ dựa vào chủ yếu những nguồn tin lá cải để biên tập tin tức. Thậm chí không cần biết nguồn gốc cũng như mức độ tin cậy chính xác của nguồn tin đến đâu. Nói cách khác RFI chẳng khác gì “cái loa phường đặt bịa tạc của Châu Á”. Nói theo kiểu “tự do thả phanh”thiếu đi tính chân thực. Bao nhiêu năm ra đời cũng là bao nhiêu năm đưa tin sai sự thật, có nhiều tin tức bị định hướng chính trị của tư bản cũng như bị bơm lên để lừa bịp… Trong đó có việc RFI thường xuyên đưa tin xuyên tạc về tình hình dân chủ nhân quyền tại Việt Nam và một số nước khác nhưng không ai làm gì được. Vì thế nên cần nhìn nhận lại tất cả các bản tin mà RFI phát đi trên thế giới.
Tóm lại, đứng sau đài BBC là cơ quan Ngoại Giao và cơ quan tình báo MI6 của Vương quốc Anh; Ngân sách của RFA được Quốc hội Mỹ tài trợ dưới sự phân phối của Hội đồng quản trị truyền thông hay BBG; và RFI được tài trợ trực tiếp bởi Bộ ngoại giao Pháp. Tuy nhiên, sứ mệnh chung của cả ba đài BBC, RFA, RFI, là gây xáo trộn xã hội để kích động quấy rối an ninh Việt Nam. Ngay cả những bản tin có vẻ như là “khách quan”, nhưng kỳ thực là được phát thanh cùng với những bản tin ngụy biện và xuyên tạc khác nhằm cho người nghe thấy Việt Nam đang rất lạc hậu và sự lạc hậu là do chế độ. Cái thông điệp mà các nhà đài này hướng đến vẫn là muốn thay đổi chế độ. Thay bằng ai? Bằng những “nhà dân chủ” kiểu Lê Chiêu Thống tân thời mà Mỹ, Pháp, Anh đang cố gắng hà hơi tiếp sức nuôi dưỡng.
Bài viết này muốn nhắc nhở đến những người nào còn lầm tưởng BBC, RFA, RFI đang đấu tranh cho quyền lợi của người Việt?. Rằng BBC, RFA, RFI là những tổ chức phục vụ cho quyền lợi của Anh, Mỹ, Pháp, và có một nhóm người Việt lưu vong làm việc tại đây góp sức làm suy yếu sự đoàn kết dân tộc của Việt Nam và gây bất ổn chính trị xã hội ở Việt Nam để người nước ngoài có cơ hội “thừa nước đục thả câu”. Những người ở trong nước đã và đang cộng tác với họ hoặc do bị lừa gạt hoặc tự nguyện cần ý thức được rằng BBC, RFA, RFI -vì sứ mệnh chính trị của họ-chưa bao giờ khách quan, chưa bao giờ có thiện chí với Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Do đó, cộng tác với họ cũng đồng nghĩa với việc hợp tác với những người chống lại quyền lợi của Việt Nam.
Mộc Miên, nguyentandung.org, ngày 3/10/2013
NDVN, ngày 7/13/2015
Nhị Linh
Ta sẽ khởi đầu bằng những gì xưa nay vẫn là nổi tiếng nhất của thơ Đinh Hùng, gần như đương nhiên được coi là đặc trưng Đinh Hùng nhất. Để từ đó thấy được nét độc đáo đầu tiên, cũng đồng thời là sự trớ trêu đầu tiên (cạm bẫy đầu tiên; bởi vì thơ Đinh Hùng là thơ của cạm bẫy trùng trùng tiếp nối; thơ ấy rất đáng sợ): nổi bật không hề là đặc trưng.
Thơ Đinh Hùng, mặc dù không vô cùng nổi tiếng theo lối Xuân Diệu hay Hàn Mặc Tử, có vài bài mà phàm đã là người đọc thơ tiếng Việt không thể không biết, không lấy làm kinh ngạc sửng sốt, thậm chí tụng niệm suốt một quãng thời gian dài (thời điểm Đinh Hùng qua đời tại Sài Gòn năm 1967, quãng thời gian ngắn đầy bấn loạn và xao xuyến đáng ngạc nhiên ấy, đã có rất nhiều bài viết của văn nghệ sĩ trong đó không ít thú nhận tuổi trẻ của mình gắn liền với những bài thơ của Đinh Hùng: thơ Đinh Hùng “chạm” đến người ta mạnh và dai dẳng hơn nhiều so với vẻ bề ngoài); lừng lững nhất là mấy bài trong Mê hồn ca tức “thi phẩm đầu tiên”: “Bài ca man rợ” (Lòng đã khác ta trở về Đô Thị/Bỏ thiên nhiên huyền bí của ta xưa/Bóng ta đi trùm khắp lối hoang sơ,/Và chân bước nghe chuyển rung đồi suối), “Kỳ nữ” (Ôi mắt xa khơi! Ôi mắt dị kỳ!/Ta trông đó thấy trời ta mơ ước./Thấy cả bóng một vầng đông thuở trước,/Cả con đường sao mọc lúc ta đi,/Cả chiều sương mây phủ lối ta về,/Khắp vũ trụ bỗng vô cùng thương nhớ), “Gửi người dưới mộ” (Trời cuối thu rồi – Em ở đâu?/Nằm bên đất lạnh chắc em sầu?/Thu ơi! đánh thức hồn ma dậy,/Ta muốn vào thăm nấm mộ sâu), “Người gái thiên nhiên” (Ta đến đây làm chủ hội phong trần/Lấy hoa lá kết nên Tình Thái Cổ), “Thần tụng” (Trước ngọn thần đăng;/Chập chờn gió lốc./Lạc giữa tang thương;/Hồn nào cô độc?); và ở mức độ tương đối “thấp” hơn như “Liên tưởng” (Thùy hương phảng phất sen đầu hạ,/Lén bước trang đài tới gặp ta), “Sóng nước đồng chiêm” (Chưa khuất đầu non đã cố nhân,/Người ôi! cho núi chuyển theo gần./Vầng trăng mười bẩy rưng rưng nhớ,/Con nước đầy vơi lệ thủy ngân) hay “Trái tim hồng ngọc” (Nhớ bàn tay thẹn, mê từng ngón/Môi nhớ làn môi, vai nhớ vai/Hơi thở gọi nhau, hồn nhớ xác/Nhớ như thần phách lạc hình hài). Đặc biệt lừng danh là “Bài ca man rợ” và “Kỳ nữ”.
Nhưng dừng chân quá lâu ở “Bài ca man rợ” là một nhầm lẫn lớn, một cách thức đầy hữu hiệu ngăn chặn con đường đi tiếp vào “thi giới Đinh Hùng”. Là tác phẩm khiến cho không một người sành thơ nào phải nghi ngờ về tài năng xuất chúng của Đinh Hùng, nhưng “Bài ca man rợ” cũng chính lại là bài thơ làm người ta hiểu lầm nhiều nhất.
Đó là lần duy nhất trong thơ Đinh Hùng xuất hiện vài yếu tố ngay sau đó sẽ biến mất hẳn, không bao giờ thấy trở lại nữa. “Bài ca man rợ” là một “yếu tố lạc quẻ” trong sự nghiệp thơ Đinh Hùng, nhưng yếu tố lạc quẻ này xuất sắc đến nỗi phần lớn người đọc thơ Đinh Hùng chắc hẳn sẵn sàng chọn nó, nếu có lúc nào buộc phải làm cái công việc nhàm chán và đầy lừa phỉnh là lựa chọn bài thơ hay nhất của Đinh Hùng. Việc “Bài thơ man rợ” xuất hiện chói lọi trên báo và qua đó khẩn cấp đi vào lòng ngưỡng mộ của giới mộ điệu rồi lại nằm ở vị trí đầu tiên trong tập Mê hồn ca chỉ càng làm cho mọi thứ rối lên; từ mớ rối loạn ấy còn lóe ra một đôi chút tính chất quan trọng này của thơ Đinh Hùng: tính chất lừa mị. Thơ Đinh Hùng quyến rũ theo lối mị; điều này ta sẽ trở lại sau.
“Bài ca man rợ” không ăn nhập vào thơ Đinh Hùng nếu ta nhìn một cách tổng quát và tỉnh táo là bởi đặc điểm sau đây: đó chỉ là một lần, đầu tiên và duy nhất, Đinh Hùng nhìn ra bên ngoài nội giới của mình. Ta sẽ không bao giờ còn thấy nữa sự xuất hiện của phàm nhân, cũng chẳng khi nào còn gặp lại một tâm trạng na ná như ưu thời mẫn thế, nặng lòng với thời cuộc: “rung một trời thế sự” rồi “một lũ người vong bản”. Những điều ấy có thể quan trọng với cả nhân loại, thì với Đinh Hùng cũng không đáng quan tâm. Lần duy nhất nhìn ra bên ngoài cũng chính là lần thi sĩ vĩnh biệt luôn thế giới ấy, để quay trở về với chốn quê hương đích thực của mình.
“Kỳ nữ” là một trường hợp đặc biệt khác nữa, và còn thú vị hơn ở vài phương diện, vì lần này câu chuyện không chỉ liên quan đến riêng Đinh Hùng mà còn liên quan đến một nhân vật được xếp vào hàng cao nhất của thơ ca thời ấy: Thế Lữ.
Năm 1941, viết Trại Bồ Tùng Linh, một truyện ma sẽ còn nổi tiếng lâu dài, đến một thời điểm trong cuộc tình giữa Tuấn và người con gái hiện thân của hương hoàng lan, chợt Thế Lữ chép vào một bài thơ, và đó là “Kỳ nữ” của Đinh Hùng. Ở thời điểm này, Đinh Hùng mới ở tuổi hai mươi, chưa thực sự thành danh thi sĩ, “Bài ca man rợ” còn chưa đăng báo. Ta sẽ đi sâu phân tích câu chuyện này sau, lúc này chỉ cần nêu một lưu ý nhỏ: là một nhà thơ (lại đầy danh tiếng) chuyển sang viết truyện, nếu cảm thấy cần có một bài thơ để cho vào truyện, Thế Lữ hoàn toàn có thể tự sáng tác một cách dễ dàng, hoặc ít nhất ông cũng có thể lấy thơ của các nhân vật thuộc Tự Lực văn đoàn; nhưng ông đã không làm vậy, và điều này đã khởi đầu một số phận tráng lệ cho bài thơ “Kỳ nữ” (mở đầu bằng mấy câu vang dội: Ta thường có từng buổi sầu ghê gớm/Ở bên Em – ôi biển sắc, rừng hương!/Em lộng lẫy như một ngàn hoa sớm,/Em đến đây như đến tự thiên đường).
Ở trường hợp bài “Kỳ nữ”, sự trớ trêu nằm ở chỗ: là tác giả của một thi phẩm được hâm mộ như vậy (cho dù mọi thăng trầm của cuộc đời và sự thờ ơ tương đối của độc giả đại chúng, sau này Đinh Hùng luôn luôn sống giữa lòng hâm mộ, ngưỡng mộ, thậm chí được coi như thần tượng của một số người – cả đến Vũ Hoàng Chương cũng coi ông như một thần tượng), nhưng về cơ bản Đinh Hùng không phải là thi sĩ tiền chiến nổi tiếng. Mặc dù với “năng lực thơ” ấy, sinh năm 1920, Đinh Hùng vẫn còn kịp thời gian vươn tới hàng đầu trong số các nhà thơ được xếp vào danh mục “trước 1945” (khi mà tập Lửa thiêng của Huy Cận in năm 1940 còn tập Mây của Vũ Hoàng Chương mãi năm 1943 mới in), chuyện đã hoàn toàn không xảy ra như thế. Đây chắc hẳn là một lựa chọn hữu ý: sau này khi Đường vào tình sử được ấn hành (1961), đọc những bài thơ mà ông làm từ khi còn rất trẻ, ta có thể thấy Đinh Hùng lẽ ra đã rất dễ dàng được nêu tên bên cạnh Tế Hanh, Xuân Diệu, Huy Cận, với những câu thơ như trong bài “Khi mới nhớn” dưới đây:
Khi mới nhớn, tuổi mười lăm, mười bẩy,
Làm học trò, mắt sáng với môi tươi
……………
Ta ngồi nghe những tiếng thị thành xa,
Hồn lơ đãng mộng ra ngoài cửa lớp.
Nắng thuở đó khiến lòng ta hồi hộp,
Ta nhìn cao mới rõ bị giam cầm
……………
Ta ném bút, giẫm lên Sầu một buổi,
Xa vở bài, mở rộng Sách Ham Mê.
Đã từng phen trèo cổng bỏ trường về,
Xếp đạo đức dưới bàn chân ngạo mạn.
……………
Hỡi thành đô với linh hồn Bách Thảo!
Còn nhớ ta, chàng tuổi trẻ tóc bay,
Làm học trò nhưng không sách cầm tay,
Có tâm sự đi nói cùng cây cỏ
……………
Mê hồn ca, khi mà Đinh Hùng đã quyết định in thơ, lại xuất hiện đúng vào thời điểm 1954 ngập chìm trong tao loạn. Số phận thơ Đinh Hùng như thể, ít nhất là cho tới thời điểm Đinh Hùng đến tuổi ba mươi lăm, nhất quyết tìm mọi cách để né tránh danh tiếng rộng rãi. Dường như trong tất cả những ai từng bình luận về thơ Đinh Hùng, chưa từng có ai để ý đến việc thơ Đinh Hùng hay dùng động từ “lẩn” (bình thường thơ của ông không có nhiều động từ, cũng không có nhiều hành động đặc trưng). Nhà thơ bình thường tìm kiếm danh tiếng, còn Đinh Hùng lẩn tránh danh tiếng: đây là một điều trớ trêu nữa. Nhưng tại sao lại lẩn tránh vinh quang hiển nhiên xứng đáng với một tài năng ở tầm cỡ ấy như vậy? Nguyên do có thể nhiều, nhưng chắc hẳn phải có một phần là sự ích kỷ của thiên tài; một thế giới đặc biệt về hướng “khinh thanh” chẳng thể nào dung được quá nhiều ánh mắt của người phàm.
Một khảo sát nhỏ về từ “lẩn” trong tập thơ thứ ba cho tới nay vẫn ít được để ý, Tiếng ca bộ lạc, cho ta kết quả như sau:
Kỷ niệm vẫy tay – và Em lẩn tránh
Những kỷ niệm môi hồng chớp mắt long lanh
(7. Hơi thở dạ thần)
Xin Em nếp áo ngàn khơi:
Chút mây bay, lẩn dáng đời hôn mê.
(8. Ánh mắt giăng mưa)
Trăng nở huyền đăng, đáy mắt trao,
Đường xưa linh cảm, lối Em vào.
Hỡi hồn lăng kính, sao vây phủ!
Hoa lửa diềm mi, lẩn má đào.
(12. Lăng kính)
Ôi khuôn mặt lẩn hai chiều ánh sáng
Vai nhỏ trao nghiêng biên giới Vô Cùng
Em Mẫu Tượng của lòng anh hải cảng
Cho anh phiêu lưu biển mộng muôn trùng
(13. Những vì sao buồn giữa không trung)
Anh đã khóc khi kề vai hạnh phúc,
Khấn nguyện thầm: nước mắt hết cô đơn.
Sao rụng mông mênh sa mạc linh hồn,
Nửa mái tóc lẩn biên thùy hư thực.
(18. Tiết điệu một bàn tay)
Anh trốn sao đêm, lẩn mặt trời
Ghê từng ý gió, sợ hoa rơi
Chao ôi! mỗi cánh sương run rẩy
Nghe cũng vang âm giọng nói Người.
(20. Trái tim hồng ngọc)
Ta đã mê tìm suối tử quang
Từ trong hứa địa trái tim Nàng
Mắt Em lẩn những tia hồng ngoại
Ký hiệu vùi sâu đáy cẩm nang.
(20. Trái tim hồng ngọc)
Có thể khảo sát thêm sự xuất hiện của vài động từ khác cùng ở trong trường ngữ nghĩa với “lẩn” (như “chìm”, “tránh”…).
Sự “lẩn” của Đinh Hùng hướng đến cái đích nào? Cũng trong Tiếng ca bộ lạc, có rất nhiều “đáy”:
Xanh đáy mắt hư vô
Hồng vực thẳm làn môi
(2. Lời ca đồng thiếp)
Muôn vạn nỗi niềm chuyển thành vân vũ,
Chìm trong đáy mắt nỗi buồn thiên thanh.
(6. Tâm sự kinh đô)
Hơi thở ngây hồn hoa đáy biển
Mây chùng tóc rối, suối ôm chân.
(10. Hình tượng xuân xưa)
Đáy mắt cuồng lưu nước lạ bờ,
Diềm môi bừng đóa mộng san hô.
Đàn lên vút phím da sầu đảo,
Giấc ngủ hương chìm thể phách xưa.
(10. Hình tượng xuân xưa)
Trăng nở huyền đăng, đáy mắt trao,
Đường xưa linh cảm, lối Em vào.
Hỡi hồn lăng kính, sao vây phủ!
Hoa lửa diềm mi, lẩn má đào.
(12. Lăng kính)
Lửa cháy hoàng cung đáy mắt say.
Anh xin thiêu nốt mảnh hồn này.
(16. Hình em giả tưởng)
Bụi đỏ bờ vai, lưới nhện sa,
Đường chiều mây loạn bóng hai ta.
Trăng lên vầng trán thành hoang địa,
Đáy mắt xanh rờn ánh lửa ma.
(19. Tiếng sao tiền định)
Hãy áp môi trên phiến đá mòn
Loài hoa mộ chí cánh thoa son
Vầng trăng đáy huyệt xanh trong mắt
Nghe biển mưa sao, gió gọi hồn.
(20. Trái tim hồng ngọc)
Ta đã mê tìm suối tử quang
Từ trong hứa địa trái tim Nàng
Mắt Em lẩn những tia hồng ngoại
Ký hiệu vùi sâu đáy cẩm nang.
(20. Trái tim hồng ngọc)
Chết giữa mùa xuân, lạ cuộc đời,
Tên Em còn đượm ngát vành môi.
Lung linh sao rụng, mưa hàng chữ,
Chợt sáng hồn Em đáy mắt tôi.
(21. Nét chữ xuân thu)
Soi nghiêng nét chữ đầu mày,
Vần thơ đáy mắt kiếp này còn xanh.
(24. Âm giai áo tím)
Đinh Hùng có một thái độ rất đặc thù: luôn luôn tìm cách lẩn xuống đáy. Thái độ này không thể không làm ta nhớ tới triết lý của Baudelaire: “Au fond de l’Inconnu pour trouver du nouveau” (Xuống đến tận đáy Cái Chưa Biết để tìm ra cái mới). Xưa nay, trong những so sánh, người ta gần như tuyệt đối thấy Đinh Hùng gần với Rimbaud; câu chuyện xuất phát từ nhận xét của Mặc Đỗ, người bạn học thời nhỏ với Đinh Hùng: trên số 91 tạp chíVăn mang tên chung “Thương nhớ Đinh Hùng” ra ngay khi Đinh Hùng vừa qua đời, Mặc Đỗ trong bài “Con người tài hoa” (tên bài làm ta nhớ đến nhan đề bản dịch The Great Gatsby của Mặc Đỗ, Con người hào hoa): “con người Đinh Hùng-Rimbaud đứng ở góc hè mê mải ngó ra Hồ Gươm”. Nhưng Đinh Hùng không thuộc tạng Rimbaud, một ngôi sao băng, mà là nhà thơ kiên nhẫn đi mãi vào khám phá một thế giới mà chỉ riêng mình phát hiện được. Bằng trực cảm của mình, Đinh Hùng biết cái thế giới ấy mình còn chưa nhìn đủ, chưa đi trọn, nên trong lúc còn sống, không lúc nào thi sĩ để cho thơ của mình trở nên quá đại chúng. Nói thêm về mối liên hệ Đinh Hùng-Baudelaire: hình ảnh “Ác Hoa” đã xuất hiện ngay trong tập Mê hồn ca (“Cây Từ Bi hiện đóa Ác Hoa đầu” trong bài “Tìm bóng tử thần”), và Baudelaire dường như là nhà thơ nước ngoài duy nhất được Đinh Hùng dành trọn cho một bài tiểu luận (in trong tập Đốt lò hương cũ). Chưa cần đến những chi tiết ấy, chỉ cần nhìn vào cấu trúc chung của hình thức-nội dung thơ Đinh Hùng cũng đủ thấy con đường của thơ ông chính là con đường mà Baudelaire từng đi: hình thức thơ hoàn toàn cũ nhưng chứa đựng nội dung hoàn toàn mới, nội dung ấy là một thế giới không ngờ, thế giới của cõi ảo, bạo liệt và ma quái. Và bài thơ cuối cùng trongĐường về tình sử chẳng gợi rất rõ âm hưởng Baudelaire ư?
Cung đàn tưởng niệm
Khi anh chết, các Em về đây nhé,
Vị chút tình lưu luyến với nhau xưa.
Anh muốn thấy các em cùng nhỏ lệ,
Tay cầm hoa, xõa tóc đứng bên mồ.
Em lả lướt, Em là Buồn cố kết,
Tự ngày anh ra sống kiếp trần ai.
Em khóc cho anh mối hận tình dài,
Em nói cho anh tấm lòng cô lữ.
Và em nữa, ôi Sầu-Hoài-Thương-Nữ!
Anh thường mê tiếng hát của Em xưa.
Những ngày vui, bóng mộng mất không ngờ,
Em thân ái vẫn cùng anh tưởng nhớ.
Anh quên đấy: còn người em duyên số,
Em đã về chưa nhỉ? hỡi Đau Thương!
Nhớ cùng Em đối bóng mấy canh trường,
Tự đêm ấy cầm tay nhau không nói…
Anh tưởng niệm các Em về một buổi,
Ở bên mồ, cỏ úa sắc chiều rơi.
Ngược Sông Mê, bàng bạc nẻo luân hồi,
Sầu rũ tóc, ngậm ngùi in khóe mắt.
Anh đã thấy dáng Em Buồn cúi mặt,
Anh cảm lòng vì lệ của Thương Đau.
Các Em sang vĩnh biệt tấm thân sầu,
Các Em khóc, các Em buồn lắm nhỉ?
Phải xa anh, từ đây đường nhân thế,
Các Em đi, phiêu bạt giữa thời gian.
Và từ đây trong khe núi, bên ngàn,
Các Em dạo, làm những hồn oan khổ.
Anh bơ vơ lạc trên đường thiên cổ,
Lạnh tâm tư, mờ tỏ ánh tinh cầu.
Mất anh rồi, Các Em sẽ về đâu?
Tập Mê hồn ca ra đời vào đúng thời điểm chẳng ai có tâm trạng để đọc thơ. Tập Đường vào tình sử xuất bản bảy năm sau đó càng làm người ta khó hiểu hơn: chủ yếu đây là những bài thơ Đinh Hùng làm khi còn rất trẻ, và đương nhiên bị coi là non yếu, hay ít nhất là không thể so được vớiMê hồn ca, nhất là cái ấn tượng lớn khủng khiếp mà Mê hồn ca từng tạo ra. Con đường thơ của Đinh Hùng rất khó nhìn một cách toàn cảnh, nhất là đối với những đầu óc quá quen với quán tính trông chờ một sự “phát triển” hay “đi lên”. Ít người quan tâm nhiều đến Đinh Hùng ở bên ngoàiMê hồn ca, và trực cảm của nhà thơ Trần Tuấn Kiệt trước đây, theo đó thơ Đinh Hùng không chỉ là Mê hồn ca, hết sức lạc lõng. Nhưng đây lại chính xác là một thứ thơ nhất định phải được nhìn nhận một cách nguyên khối, những tách nhỏ, kể cả khi chọn lấy những yếu tố xuất sắc hơn cả, chỉ có thể gây hại cho việc hiểu nó.
Người ta từng nói rất nhiều về sự vắng mặt của Đinh Hùng trong Thi nhân Việt Nam. Với bản thân Đinh Hùng điều này hẳn không mấy quan trọng, thậm chí còn là một may mắn quá lớn: đền thờ của riêng cõi thơ Đinh Hùng, với bản thân tác giả, chắc chắn thiêng hơn nhiều so với đền thờ của xếp hạng thơ ca thời đại; một nhà thơ luôn tìm cách lẩn xuống đáy thế giới để lần tìm những kẽ nhỏ dẫn sang một thế giới khác không cần đến sự vinh danh như thế. Dẫu vậy, từ trường hợp Đinh Hùng, ta có thể có một nhận xét về tính chất Thi nhân Việt Nam: đã không ít người nhìn thấy sự bài trừ của Hoài Thanh đối với mọi thứ gì lấn sang tượng trưng, siêu thực, những gì mà Hoài Thanh không thẩm thấu nổi. Nhưng có thể nói rõ hơn nữa, cụ thể một cách hết sức rành mạch: mọi lựa chọn thơ của Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam đều có chung một đặc điểm: những bài thơ ấy là để học thuộc, ngâm nga, tụng niệm. Thơ Đinh Hùng không phải là thơ để thuộc. Đến đây ta lại thấy xuất hiện một điều trớ trêu, một điều trớ trêu khá ngầm, trong thơ Đinh Hùng: thơ Đinh Hùng rất nổi tiếng (trong “the happy few”) nhưng không phải là thơ để thuộc như gần như mọi thơ tiếng Việt khác. Những bài lừng danh trong Mê hồn ca dĩ nhiên là nhiều người thuộc, nhưng gói gọn thơ Đinh Hùng vào Mê hồn ca là một nhầm lẫn cơ bản, nhầm lẫn mà ta thấy ở đa số nhà bình luận thơ Đinh Hùng – điều này không quá khó hiểu, vì đó là một thứ thơ gây hoang mang, thậm chí hoảng sợ, và vẻ trác tuyệt của những bài trong Mê hồn cadường như có sức mạnh làm giảm bớt sự hoang mang chung, nên dễ đi vào “vô thức tập thể”. Để thấy thơ Đinh Hùng không phải là để thuộc, chỉ cần nhìn lại số 91 của tạp chí Văn ra ở Sài Gòn: trong bài viết của hầu hết mọi văn hữu về ông đều có trích dẫn thơ, và tuyệt đại đa số trong đó trích dẫn sai, thường là sai vài chữ, kể cả Vũ Hoàng Chương. Trong lúc vội vã (để kịp tưởng niệm), tâm thức sẽ bộc lộ: tất cả đều ngầm thú nhận mình hâm mộ thơ Đinh Hùng nhưng không thể thuộc chính xác thơ ấy; hoặc nói một cách khác, thơ Đinh Hùng chính xác không phải là thơ để thuộc, mà đi vào mỗi tâm thức cá nhân, nó sẽ được môi trường nơi ấy nhào nặn lại. Đặc điểm này dẫn tới một ý vô cùng quan trọng trong bài bình luận thơ Đinh Hùng xuất sắc nhất cho đến nay: bài của Đặng Tiến viết vào đúng lúc Đinh Hùng qua đời.
Ý chính của Đặng Tiến là “thi giới” của Đinh Hùng (ở phiên bản đầu tiên năm 1967, Đặng Tiến dùng từ “vũ trụ” chứ không phải “thi giới”) là một hư cấu, với đặc điểm nổi bật là gồm toàn “khiếm thể”, “hủy thể” và mang đặc trưng “không xương khớp”. Cho đến nay, đây vẫn là bài viết thấu hiểu thơ Đinh Hùng hơn cả. Dường như Đặng Tiến chính là “người được Đinh Hùng lựa chọn” vào thời điểm chuyển từ thế giới sống sang thế giới chết: đó là lần hiếm hoi thơ Đinh Hùng không bị gói gọn vào Mê hồn ca và cũng là thời điểm một số tính chất then chốt của thơ Đinh Hùng được chỉ ra một cách hiệu quả. Ở một lúc nào đó, Đinh Hùng đã thoát hẳn khỏi sự dùng dằng giữa hai thế giới: thực và hư, sống và chết, đặc và loãng, để bước chân hẳn vào thế giới “phía bên kia”. Đến một lúc, Đinh Hùng đã nhất định nhận lấy sứ mệnh cho thơ mình và linh hồn mình.
Năm 1967, một loạt nhân vật văn nghệ miền Nam đã viết cho số 91 của tạp chí Văn (“Thương nhớ Đinh Hùng”): Mặc Đỗ, Tạ Tỵ, Nguyễn Mạnh Côn, Đặng Tiến, Mai Thảo. Trong số các nhân vật này, Đặng Tiến là một bất ngờ với bài viết hết sức sâu sắc về thơ Đinh Hùng, còn Mai Thảo chính là người được Đinh Hùng đặt kỳ vọng sẽ viết lời bạt cho tập Mê hồn ca tái bản sau này. Nhưng bài viết của Nguyễn Mạnh Côn ít được quan tâm và nhắc đến lại rất đáng chú ý. Bài viết này khá dài, từ tr.26 đến tr.51 của số báo và mang tên “Họ Đinh, nhà thơ của vô cùng và tuyệt đối” (Nguyễn Mạnh Côn). Trong bài, Nguyễn Mạnh Côn khẳng định ngay từ đầu: “Có lẽ tôi là người bạn thân nhất của Hùng. Chắc chắn tôi là người sợ Hùng hơn cả” (tr.29), sau đó lại nhấn mạnh: “chắc chắn, phải, chắc chắn không ai hiểu Hùng bằng tôi, kể cả anh Vũ Hoàng Chương, vừa là bạn vừa là anh rể Hùng”.
Bài viết của Nguyễn Mạnh Côn hết sức bấn loạn ở thời điểm người bạn thân mới qua đời. Bấn loạn đến nỗi Nguyễn Mạnh Côn nhớ nhầm rằng Thế Lữ đã đưa bài “Kỳ nữ” vào bản dịch Con quỷ truyền kiếp (trong khi Thế Lữ đưa nó vào Trại Bồ Tùng Linh), nhưng chính trong cơn bấn loạn ấy Nguyễn Mạnh Côn lại để lộ ra một số ý tưởng kỳ dị chắc khó xuất hiện vào những lúc khác: Nguyễn Mạnh Côn nói đến tâm lý “thiên thần gẫy cánh” (tr.43) ở Đinh Hùng và liên tục có mấy nhận xét như sau: “Hùng không hề nói nhưng rõ ràng Hùng sống là để theo đuổi một mục đích. Chưa chắc mục đích ấy đã là làm thơ” (tr.46); “Tôi muốn nói rằng Hùng sống như một người chết” (tr.46); “Đã thế, Hùng rất lãnh đạm, kể cả lúc uống rượu thật nhiều […] tôi vẫn thấy nơi Hùng có một cái gì, như một cục băng giá, không bị lay chuyển” (tr.46). Trong quá khứ, Nguyễn Mạnh Côn từng có thời gian sống cùng Đinh Hùng, chứng kiến Đinh Hùng hút thuốc phiện, Đinh Hùng nằm im trong phòng như nằm trong nấm mồ suốt nhiều ngày. Ngoài ra, Nguyễn Mạnh Côn còn có một nhận xét khá đặc biệt: “Tôi muốn ví Hùng như một con hải âu, vì cánh lớn quá nên chỉ bay được và đậu được trên chỗ cao, vì mỗi lần bay lên cần có nhiều khoảng trống để vỗ cánh lấy đà” (tr.37). Đây chính là hình ảnh con “albatros” trong thơ của Baudelaire: “Le Poète est semblable au prince des nuées/Qui hante la tempête et se rit de l’archer;/Exilé sur le sol au milieu des huées,/Ses ailes de géant l’empêchent de marcher” (thi sĩ giống loài chim của những tầng không cao vợi, khi nào bị lưu đày xuống mặt đất thì đôi cánh khổng lồ sẽ khiến nó bước đi hết sức vụng về, trở thành trò cười).
Đại ý, bài viết dài, đầy bấn loạn của Nguyễn Mạnh Côn cho thấy một điều: Nguyễn Mạnh Côn hết sức sợ hãi trước Đinh Hùng, và trong hình dung của Nguyễn Mạnh Côn, hẳn Đinh Hùng ở gần cõi chết hơn là cõi sống. Điều này là chính xác: nỗi sợ mà Nguyễn Mạnh Côn cảm thấy chính là nỗi sợ ma. Hay nói một cách khác, Nguyễn Mạnh Côn lờ mờ cảm thấy Đinh Hùng sống trong một thế giới của ma.
Những người thân cận với Đinh Hùng biết điều đó: Vũ Hoàng Chương trong bài diễn văn tại trung tâm Văn bút tưởng niệm Đinh Hùng nói: “Nhưng từ chối không thể được, tôi đành phải tự nhủ: “Thận trọng đấy nhé! Thận trọng và thận trọng hơn nữa! Điều nào không thể nói ra được thì lặng im; nhưng đã nói ra điều gì, tất điều ấy phải là sự thật! Đừng chủ quan, chớ thần tượng hóa một con người, kể cả trường hợp con người ấy mình vẫn coi như thần tượng”” (bài “Nhớ Đinh Hùng” đăng trên số 112 của Văn ra ngày 15 tháng Tám 1968, “Giỗ đầu Đinh Hùng”).
“Điều nào không thể nói ra được thì lặng im”: câu này hẳn phải hiểu cả theo nghĩa không thể tiết lộ một số điều kỳ lạ ở Đinh Hùng, và theo nghĩa bản thân Vũ Hoàng Chương cũng không thực sự hiểu Đinh Hùng. Mặc dù Vũ Hoàng Chương cũng từng viết “Nửa truyện hồ ly”, nhưng cõi ấy Đinh Hùng còn đi sâu, sâu mãi vào, Vũ Hoàng Chương thì dừng lại từ rất sớm không sao đi tiếp nổi. Từ đó mà xuất hiện tâm lý thần tượng kia. Đinh Hùng làm được một số việc mà không một nhà thơ khác nào làm được. Đồng thời các nhà bình luận thơ Đinh Hùng cũng thường xuyên bị bật ngược trở ra trước thơ ấy, cõi ấy, thế giới ấy. Ngay Nguyễn Mạnh Côn đã trích lời Đinh Hùng nói chuyện: “cái khoảng chân không mà ánh sáng đi hàng tỷ năm không hết mới thật là tuyệt đối, mới thật là vô cùng” (tr.35). Khoảng chân không này đáng sợ, và sự đáng sợ lại còn xuất phát từ một vẻ đẹp trác tuyệt nữa.
Thơ của Đinh Hùng là một tòa thạch động, mà ngay ở cửa hang án ngữ một công trình siêu phàm, tuyệt đẹp: đó chính là ý nghĩa của “Bài ca man rợ”. Nhưng “Bài ca man rợ” lại cũng là thử thách lớn nhất: đa phần người đọc thơ Đinh Hùng thỏa mãn với cảnh đẹp thấy ngay ở bước đầu đó, nhưng trở lui ngay sau cơn choáng ngợp ấy, hoặc để cơn choáng ngợp ấy ám ảnh quá mạnh, người ta sẽ không còn để ý thêm được nữa. Và phải sau “phiến đá cửa ngoài” tức “Bài ca man rợ”, nếu vẫn còn tiếp tục nuôi dưỡng được sự chú tâm thiết yếu, may ra ta mới thực sự biết được cái thế giới hang động đẹp cô quạnh hoang liêu đó. Làm thơ cũng cần lòng quả cảm, và liều lĩnh, đôi khi; đọc thơ cũng vậy, dẫu đó không hoàn toàn là một sự nhất thiết.
“Bài ca man rợ” còn dễ dàng (như ta đã thấy suốt một lịch sử bình luận thơ Đinh Hùng) làm người ta xoay theo hướng chia đôi thế giới thơ Đinh Hùng thành hai nửa: đô thị-thiên nhiên (hoang dã) và hiện tại-quá khứ (cổ sơ). Khó có nhầm lẫn nào lớn hơn thế: Đinh Hùng không quan tâm đến đô thị hay thôn quê, và thế giới mà Đinh Hùng tạo ra bằng cách nhập làm một hai thế giới, thế giới ấy không có thời gian.
Giờ ta sẽ đi đến một câu hỏi tất yếu sau toàn bộ sự dẫn dắt trên đây: Cái thế giới của thơ Đinh Hùng cụ thể như thế nào?
Trước tiên, nó nằm ở đâu? Thế giới này phải nằm ở điểm tiếp giáp giữa thế giới thực và thế giới ảo. Ta gọi “thế giới thứ hai” kia là ảo, mộng, chiêm bao (“Ôi kiến trúc một chiêm bao thần bí!” là câu thơ “vỡ lòng” nếu muốn đi vào thế giới của Đinh Hùng; nhưng xưa nay người ta cứ tưởng trong câu này yếu tố quan trọng là “kiến trúc” hay “chiêm bao”, trong khi sức nặng của nó nằm ở “thần bí”), tiềm thức, nguyên thủy, thái cổ, bất kỳ tên gì cũng được, vì thực chất nó không có tên, nó gần giống một miêu tả này hay một miêu tả khác, nhưng có cố gắng đến đâu thì cũng chỉ có thể đạt đến mức gần giống. Thế giới ở giữa này chỉ mở cửa cho rất ít người. Đinh Hùng hiểu điều ấy, nên trong một thời gian rất dài, về cơ bản ông không để lộ thế giới mình bước chân vào kia cho quá nhiều người biết. Nhưng tất nhiên, đã dựng nên thì sẽ có người cảm nhận được. Thế Lữ chính là người cảm nhận được ngay từ sớm. Tới đây, ta đã có thể quay trở lại kỹ hơn cái lần Thế Lữ đưa bài “Kỳ nữ” vào Trại Bồ Tùng Linh năm 1941.
Bài thơ là một tiếng sét với Thế Lữ, không thể khác. Ta có thể hình dung như thế này: Thế Lữ cũng là một nhà thơ, tên tuổi của thơ Thế Lữ chủ yếu nằm ở khung cảnh ảo mộng của một chốn bồng lai tiên cảnh. Chỉ có điều Thế Lữ đã nhầm lẫn lớn, những gì ông chợt thoáng nhìn thấy vào một khoảnh khắc được hưởng ân điển nào đó, bởi đã không hiểu, lại không đủ kiên nhẫn, ông đã mặc nhiên coi nó là “bồng lai tiên cảnh”. Nhưng đó không phải là cõi tiên, mà là cõi của hồn ma bóng quế, linh hồn cỏ cây gỗ đá, của yêu tinh hồ ly. Bài thơ của Đinh Hùng đã làm Thế Lữ hiểu ra mình nhầm tai hại và khổ sở đến như thế nào. Thế Lữ đã không làm thơ nữa, nhưng ông viết rất nhiều truyện kỳ dị. Về phần mình, Đinh Hùng chính là một người viết truyền kỳ bằng thơ. Truyện truyền kỳ xưa nay vốn nhiều trong truyền thống văn chương Á Đông, nhưng những truyền kỳ dai dẳng tồn tại chỉ do một vài người viết ra: những người được lựa chọn. Câu chuyện về Thế Lữ và Đinh Hùng cho ta hiểu tại sao đến giờ đọc lại, thơ bồng lai tiên cảnh của Thế Lữ nhuốm quá nhiều sự làm duyên làm dáng và giả tạo, đồng thời cũng cho thấy con đường nghệ thuật có thể hiểm nghèo đến thế nào: lựa chọn sai là hỏng một sự nghiệp. Nhưng nó cũng cho thấy Thế Lữ đã nhạy cảm đến đâu, để từ bỏ hẳn một sự nghiệp thơ đang được công chúng và giới phê bình nồng nhiệt ca ngợi.
Cái thế giới mà Đinh Hùng tìm đến được, bằng cách nhập hết các thế giới khác lại để tạo khoảng giao nhau, thế giới ấy, một cách đơn giản nhất, chắc hẳn giống như một thạch động:
Ôi cửa động mù sương, mưa bay tiềm thức!
Anh theo em đi hết chuyến luân hồi.
(2. Lời ca đồng thiếp)
Non cao tròn kiếp hoang vu,
Mắt Em ngủ thiếp con đò thần giao.
Lạ lùng cửa động chiêm bao
Tiếng ca mở lối Em vào hồn anh.
(9. Dấu chân bộ lạc)
Và thể xác anh giữa cuộc đời
Tiêu ma vào thạch động làn môi
Vì trong cấm địa hàm răng ấy
Huyệt Lạnh kề bên mỗi nụ cười.
(20. Trái tim hồng ngọc)
Trăng bỗng mơ hồ, nắng cổ sơ,
Em về, nếp áo rộng hư vô.
Khói thương thạch động xa vầng trán,
Ta lạc vào trang tiểu thuyết xưa.
(21. Nét chữ xuân thu)
Em từ thủy động sơ sinh,
Bốn phương âm hưởng, lượn mình dư ba.
(24. Âm giai áo tím)
Muốn tới được “nơi ấy” thì phải biết đường. Tên hai tập thơ in khi Đinh Hùng còn sống đã chứa đựng “mật mã”: Trong Mê hồn ca quan trọng là “mê hồn” còn trong Đường vào tình sử quan trọng là “đường vào”. Muốn có “đường vào” thì phải đạt đến trạng thái “mê hồn”, hiểu cả theo hai nghĩa: đẹp mê hồn và hồn ở trạng thái mê. Để được như vậy thì cần mộng và/hoặc chết. Chưa nhà thơ Việt Nam nào như Đinh Hùng, chỉ liên tục nói đến mộng và chết, ngay từ đầu thi nghiệp.
Anh đã chết trong lời ca đồng thiếp,
Khi ngón tay Em đưa hướng linh kỳ.
Sương khói bạc chiều rừng
Thành quách bến Sông Mê
Những ngọn đèn hồn lênh đênh trôi về kiếp trước
Ôi cửa động mù sương, mưa bay tiềm thức!
(2. Lời ca đồng thiếp)
Chết ở cõi này là sự khởi đầu, chứ không phải kết thúc. Người ta hay kể về người con gái tên Liên yểu mệnh, người yêu ám ảnh cuộc đời Đinh Hùng (bài “Liên tưởng” cần hiểu là “Tưởng nhớ Liên” chứ không phải theo ý nghĩa “liên tưởng” của trường phái tượng trưng). “Gửi người dưới mộ” đã sớm để lộ ý hướng tiến sâu vào cõi chết của Đinh Hùng:
“Em đã về chưa?
Em sắp về chưa?
Trăng sao tắt, ngọn đèn mờ,
Ta nằm rỏ lệ đọc thơ gọi hồn.”
Thơ là để “gọi hồn”, để với tới miền chết lạnh lẽo. Thơ Đinh Hùng mang rất nhiều yếu tố thần chú.
Bài “Màu sương linh giác” cũng trong tập Mê hồn ca cũng nói rõ điều này:
“Từ khi thưa lạnh hương em.
Ta đem phòng làm cổ mộ,
Ta xua giấc mộng từng đêm.
Mỗi lúc hồn cây động gió.”
“Xua giấc mộng từng đêm”, nhưng giấc ngủ cũng chính là một nẻo vào khác. Thật ra ta biết gì về giấc ngủ? Rất ít, dẫu cho Sigmund Freud có viết bao nhiêu trang sách về nó. Trong văn chương, có vài nhân vật đặc biệt hiểu về giấc ngủ, chắc chắn là hơn Freud và lý thuyết của mình. Đây là một đoạn trong Bên phía nhà Swann của Marcel Proust:
“Người đang ngủ là người nắm giữ quanh mình dòng chảy của thời khắc, trật tự của tháng năm và của các thế giới. Lúc tỉnh dậy, theo bản năng, anh ta kiểm định chúng và, trong một giây đọc thấy ở đó điểm anh ta đang chiếm giữ trên trái đất, thời gian đã trôi qua cho đến khi anh ta tỉnh giấc; nhưng trình tự của chúng có thể lẫn lộn, đứt đoạn.”
Trong giấc ngủ diễn ra những chuyện gì? Ngay người nằm mộng cũng không biết được, một khi đã tỉnh, nếu không có những “hướng dẫn” hoặc được sử hữu một số năng lực đặc biệt; nhưng theo lời khẳng định của Proust, trong khi ta ngủ, “các thế giới” được sắp xếp ở ngay cạnh ta, trong tầm với của ta.
Vũ Hoàng Chương, nếu ông là người sắp xếp tập thơ Tiếng ca bộ lạc, cũng hiểu tầm quan trọng của giấc ngủ và chiêm bao trong thế giới của Đinh Hùng, nên bài đầu tiên của tập là “Nhập mộng”. Đó là “giây phút huyền vi”, khi “Điệu nhạc nghiêng mình, anh sẽ nghe/Nghìn xưa âm hưởng bước Em về./Bông hoa áo tím trôi vào mộng,/Anh sẽ tìm Em nhập giấc mê.”
Những dấu vết của giấc ngủ-lối vào ấy không ít:
Lạ lùng cửa động chiêm bao
Tiếng ca mở lối Em vào hồn anh.
(9. Dấu chân bộ lạc)
Khi đêm mở cánh nhung thần khải,
Tóc ngủ rừng trăng, gối xõa hương.
(10. Hình tượng xuân xưa)
Đường đi kiếp trước ngoài vô tận
Em lạc vào mê sẽ gặp anh.
(11. Hàng chữ chim xanh)
Và muốn tới được “nơi ấy” thì phải đợi đến kỳ. Trước tiên, hiển nhiên khung cảnh phải là đêm. Những đêm trăng sáng:
Xin Em kết nửa vòng tay,
Con trăng bóng xế nét mày trao nghiêng.
Kề môi chợt thức niềm riêng,
Thiên thu áp má đôi niềm lệ sa.
Đèn vàng lướt bánh xe qua,
Nhìn nhau sao rụng, canh tà như bay.
(4. Nỗi lòng thu nhỏ)
Em đến cùng trăng, đi với sao,
(20. Trái tim hồng ngọc)
Nhà thơ nhập giới cứ chờ đợi đến màn đêm mãi như vậy:
Nghìn lẻ một đêm, Mộng thắp đèn
Hồn đi vào giấc ngủ hoa sen.
(20. Trái tim hồng ngọc)
Dường như, dựa trên tần suất xuất hiện, khung cảnh thích hợp nhất để thế giới ấy sống dậy là những đêm thu.
Đã đúng thời điểm rồi, còn cần phải có nghi thức. Đinh Hùng không bộc lộ rõ ràng lắm ở khía cạnh này, ta chỉ lờ mờ nhận ra được một số yếu tố, ví dụ: cần có những lời khấn. Ta biết Đinh Hùng không hướng đến cách tân về hình thức, thơ của Đinh Hùng chấp nhận mọi hình thức có sẵn; nhưng có những lúc nó không như vậy nữa, đó chính là khi cần có lời khấn nguyện (có thể giả định đây là nhịp điệu của linh hồn theo đòi hỏi của nguyện cầu và nghi lễ; Đinh Hùng từng dùng những từ đầy sức gợi ý như “tiết điệu” hay “âm giai”). Thế giới ấy cần “nguyện cầu”:
Ai từng đêm vẫn nguyện cầu
Xin hào quang đóa hôn đầu đừng phai.
Xin cho khoảng cách sông dài
Nối liền một nét u hoài làn mi
(3. Khoảng cách làn môi)
Những “lời khấn” rải rác trong suốt thi nghiệp Đinh Hùng, kể cả từ rất sớm, trong tập Mê hồn ca, những khi thơ Đinh Hùng bỗng tự tước bỏ nhu cầu nghiêm ngặt về hình thức, để mặc cho những câu thơ mặc sức ngắn dài trong một nhu cầu tự tại của linh hồn.
Tư thế chủ đạo là gì? Là cầu xin. Ta bắt gặp không biết bao nhiêu lần từ “xin” trong thơ Đinh Hùng, nhất là trong tập Tiếng ca bộ lạc. Và từ “Em” gần như luôn luôn được viết hoa: đó là đối tượng mà lời khấn nguyện hướng tới; nhiều lúc nguyện cầu còn đi kèm với cả quỳ lạy.
Và khung cảnh ấy như thế nào? Có thể tưởng tượng nó thường xuyên mờ mịt hư ảo. Đặng Tiến từng nhấn mạnh vào yếu tố “mưa” trong thơ Đinh Hùng, nhưng trong cõi thơ ấy, thật ra “sao” xuất hiện nhiều hơn rất nhiều so với “mưa”. “Sao” và cả những từ thay thế cho nó như “tinh”, “đẩu”. Một đặc trưng rất lớn của các vì sao là sự lung linh của chúng, và tính chất không rõ nét: vì sao nhấp nháy nên không để ta nhìn rõ; điều này rất gần với quan điểm thị giác về “contour” ở Stendhal. Có đặc biệt nhiều vì sao rất đáng nhớ trong các bài thơ của Đinh Hùng.
Đọc kỹ một số bài trong tập Mê hồn ca và nhất là nhiều bài trong Tiếng ca bộ lạc, ta sẽ biết được nhiều chi tiết về tòa “thạch động” của Đinh Hùng. Ở đây chỉ nói đến một đặc điểm lớn rất dễ bị bỏ qua: tòa “thạch động” ấy có màu gì? Mặc dù có nhiều “hồng”, nhưng màu chủ đạo là xanh, một màu xanh lạnh lẽo và ghê rợn.
Con đường khuya huyền hoặc, trăng xanh gieo mưa.
Đêm mở cánh, ngát màu lam dạ nhạc,
(6. Tâm sự kinh đô)
Xanh trộn lẫn với một biến thể, tím:
Điệu buồn áo tím, mưa đêm xanh.
(5. Khuôn ngọc pha sương)
Và thế giới-thạch động ấy không có lòng thương xót. Bởi thế, thơ Đinh Hùng hao hao giống thơ tình và được rất nhiều người mặc nhiên coi là thơ tình, nhưng đó không phải là thơ tình.
Đặng Tiến cũng từng nhấn mạnh vào việc thi giới của Đinh Hùng không có xương khớp. Điều này hết sức quan trọng. Nó không có xương khớp là vì “Nhạc uốn mình như dải lụa đào” (1. Nhập mộng), vì ở trong nghi lễ, trung tâm là điệu múa không xương của rắn:
Tia mắt nhìn nhau buốt thịt da
Niềm đau nhập thế vút bay xa
Em không hình sắc, anh vô thể
Bốn cánh tay vươn khúc độc xà.
(20. Trái tim hồng ngọc)
Một thế giới mà ta không thể ôm người phụ nữ, bởi không có hình hài, nên có nhiều vòng tay hẫng hụt:
Vòng tay chiếm lĩnh nửa người,
Nhụy hương mười chín, nụ cười yêu tinh.
(27. Vết son phai)
Thế giới ấy của nhan sắc không dung nhan, bởi vì khung cảnh chung như sau:
Thương tuyệt trần thương, nhớ lạ lùng,
Mới kề khuôn ngực, hẫng vòng lưng.
Khi ăn niệm bóng sang ngồi cạnh,
Lúc ngủ, chiêu hồn tới ngủ chung.
(20. Trái tim hồng ngọc)
Một thế giới nồng nhiệt trong sự lạnh lẽo hoang vu vô hình vô ảnh của muôn kiếp nhập lại nhiều khi hỗn loạn:
Có những bông hoa, tiền thân là thiếu nữ,
Những mùi hương rạo rực hiện hình người.
Hương công chúa và men say hoàng tử,
Cánh bướm thời gian treo võng tóc buông lơi.
(6. Tâm sự kinh đô)
Nó hư ảo, “Nụ hôn quận chúa nồng hương xạ” (20. Trái tim hồng ngọc) và tan biến sớm:
Trắng muốt tâm linh vạt áo sầu,
Canh gà chưa rụng đã quên nhau.
(21. Nét chữ xuân thu)
Vũ Hoàng Chương từng rất có lý khi đặc biệt để ý đến bài thơ dài nhất trong tập Tiếng ca bộ lạc, “Trái tim hồng ngọc”. Đây hẳn là bài thơ để bộc lộ nhiều và rõ nhất các phương diện của thế giới thơ Đinh Hùng. Chắc hẳn cũng là bài thơ được viết ở giai đoạn rất muộn trong cuộc đời Đinh Hùng: cuối cùng thì con người sinh năm Canh Thân ấy đã không sống trọn được vòng đời thứ tư. Nhưng ở thời điểm quá đậm đặc tinh thần Phật giáo, Vũ Hoàng Chương chỉ nhìn thấy sự siêu thoát ở tâm thức của Đinh Hùng. Không hẳn là vậy: đã kết thúc một vòng tròn, những gì hư ảo cũng sắp thoát sang một giai đoạn chuyển hóa mới, Đinh Hùng không còn việc gì để làm nữa. Kiếp bướm đã đi đến điểm chung cục.
Đinh Hùng tạo ra cả một thế giới chưa từng có. Điều này rất khó hình dung, nên thơ Đinh Hùng rất khó phân tích. Nhưng thật ra cũng không khó đến mức ấy: Dante từng được chọn để miêu tả địa ngục, còn Nguyễn Du từng được chọn cho thế giới đau khổ của các âm hồn. Những thế giới kiểu như vậy bao giờ cũng đẹp, nhưng hãi hùng. Không cần cảm nhận hết sự hãi hùng cũng đã có thể thấy đẹp, nhưng dù có thế nào, bởi hãi hùng nên những thế giới ấy mới đẹp đến vậy.
Nguồn: http://nhilinhblog.blogspot.com/2015/03/tho-dinh-hung-hai-the-gioi.html
Giao khúc
Khi những ngón tay rời khỏi anh tìm lên thân em
Cũng là khi đêm mở mắt soi dấu bàng hoàng
Ta phân thân đôi vực bờ mê sảng
Em vỡ cuồng trầm uất đa mang
Đêm qua em đã khóc những gì
Bình minh răng cưa anh thấy mặt trời chẻ ngang lồng ngực
Đôi ta là những vỏ bọc đựng đầy ảo giác
Nỗi yêu thương ức chế sống-còn
Không hề có con đường nào vượt thoát
ngoài những cơn điên
Anh hiểu em cần có những giằng co
Và khi say em như chiến binh
sắc máu nụ hôn cưỡng đoạt tình
Em cần xác tín va-chạm-có-thật?
Anh biết em hiếm khi tin ở chính mình
khi em chỉ thở bằng cảm xúc
Cơn điên em đêm qua đã làm anh bùng vỡ
Những ngón tay anh văng giữa trời
giao khúc Thơ em
Ôi
Những đốt xương đã rời khỏi anh tìm qua thân em
Đêm gian nan thở tàn ảo ảnh
khúc cuối
cầm trên tay con sao biển dạt bờ
em nằm khóc trên hoàng hôn dốc
cong cánh cung cuồng rung khát vọng
ta lưỡi tên buồn rát gió
xâu đêm
con sao biển chẳng còn tái sinh
trên tay em niềm đau quấn vòi ướp giấu
muốn chôn nhau
thời khắc những vì sao tắt thở
rơi tràn biển mơ
em thét hú lời tru man dại
đắm mê cuộc sống/còn
trên tay em
con sao biển màu son
sống lịm vào cõi mất
tung cánh
ta muốn ngủ vùi trên vòm ngực gió
mặc gió bay đi
nơi bình yên không cần có nữa
trong ta vó câu cục cựa núi đồi
loài ngựa hoang mọc cánh
đáy đêm đen
bay trong hư ảo phận người
có những ngày chùng chân mỏi gối
tiếng gọi huyệt sâu tăm tối
réo âm xưa về lại níu mùa
tình thua
tung cánh trắng ta lồng lưng vào gió
cõng giấc buồn
bay hoang
không đề
(cho K)
anh thèm liếm khắp người em
như con chó con khát tìm vú mẹ
ngày vừa mở mắt
loi choi trong chiếc ổ sau nhà
anh đã sống / chết và tái sinh nhiều lần
trên thân thể em
hun hút vực sâu và núi đồi loáng nắng
anh khoét lưng trời nhét trái cấm
treo trăng
anh đã bơi trong cuộc đời biển mặn
nồng cay / tanh tưởi
con cá chết già mơ biển ngọt về đêm
anh mơ em mơ trăng trí nhớ*
trong tận cùng cơn đau hoang vọng
đã như người mất trí
anh chỉ muốn liếm khắp người em
như con chó con
đứt lưỡi
*thơ TPKỳ