Thứ Năm, 18 tháng 6, 2015

xưng tội



Trần Băng Khuê





Ngày thứ hai, máu chảy.
Ngày thứ ba, chảy máu.
Ngày thứ tư, máu lại chảy.
Ngày thứ năm, lại chảy máu.
Ngày thứ sáu, máu tiếp tục chảy.
Ngày thứ bảy, tiếp tục chảy máu.

Ngày chúa nhật. Máu. Tôi làm dấu thánh: nhân danh cha và con và thánh thần. Amen.

Những mùa chay. Chúa không cho phép con chiên ăn thịt. Tôi chỉ được ăn cá và trứng. Chồng tôi không hẳn là một con chiên ngoan đạo lắm. Anh ấy giống bố tôi như đúc. Về khuôn mặt. Tính cách. (chỉ là đang cố để học bố, chứ thật ra, anh ấy chẳng thể nào được như bố). Tôi vẫn bảo với anh ấy rằng: đừng cố bắt chước những hình mẫu đã được Chúa nặn thành vóc dáng. Mỗi con người là một linh hồn.

Nói về bố.
Bố chồng tôi.
Ông là người có đạo.
Ông chưa bao giờ đến nhà thờ.
Ông là một hình ảnh mẫu mực của người lính cách mạng, được tôi luyện qua chiến tranh. Ông giữ đúng phép tắc quân kỉ đã được rèn giũa bằng lí thuyết. Ông đã sống trọn vẹn với một cuộc đời giản dị đúng như lời người ta dạy. Ông đã làm tròn nghĩa vụ của một công dân yêu nước, yêu làng xã, yêu quê hương, yêu gia đình.
Yêu chúa. Mẹ tôi luôn luôn nhắc nhở phải cầu nguyện. Người sắp rời bỏ cuộc đời phải được cứu rỗi linh hồn. Tức là phải yêu Chúa mới được về với nước Trời. Thiên đàng. Đối với những người theo kitô giáo, linh hồn là thứ cần phải được gìn giữ, luôn luôn gìn giữ.
Bố chồng tôi, ông cũng yêu Chúa. Phải, phút cuối, khi sắp trút hơi thở ít ỏi kết thúc đời sống của xác thịt trên thế gian này.
Bố là một người lính. Bố là một con chiên. Bố là một linh hồn trong sạch. Và, lẽ dĩ nhiên, bố xứng đáng được nhận ơn cứu rỗi.

Tôi đang tập đếm những ngày trong tuần. Và, tôi cũng tập đếm nốt những ngày chảy máu trong tuần. Tôi bị chảy máu trong tuần. Từ thứ hai đến thứ bảy. Riêng chúa nhật, tôi phải dừng đếm, để làm dấu thánh. Nhân danh cha và con và thánh thần. Amen.

Sau ba năm trở thành một con chiên như lời kêu gọi của Chúa: hãy cứu lấy linh hồn. Những ngày đầu tiên bước chân vào nhà thờ, điều tôi muốn thấy đã thấy. Nhưng, điều tôi chưa muốn làm, tôi không làm, nhưng vẫn phải làm.
Tôi tiếp tục bước chân vào nhà thờ hai năm nữa. Điều tôi muốn thấy đã thấy, điều tôi muốn làm, tôi không thể làm được. Tôi bắt đầu bỏ thánh lễ ngày chúa nhật. Chồng tôi cũng thế. Anh ấy có khá nhiều việc phải giải quyết ở cơ quan. Toàn những việc nhảm nhí. Tôi thường càm ràm mỗi lần nghe anh ấy ca cẩm và bảo rằng rất chán. Nhưng, anh ấy là một con chiên của Chúa. Chúa dạy hãy bới đất nhặt cỏ. Mẹ cũng dạy mãi câu ấy. Tôi biết, lí lẽ của Chúa bao giờ cũng có những ẩn ý sâu xa, linh nghiệm. Tôi biết, mẹ đã làm theo và sống rất thanh thản. Tôi còn trẻ. Tôi khá bướng bỉnh. Tôi chưa muốn gò bó mình vào những khuôn phép nhàm chán. Tôi gào lên với anh, về việc tôi sẽ sống theo ý mình. Vài lần, mệt mỏi khi nhìn thấy thế gian mê muội. Tôi chán. Tôi, bắt đầu muốn học theo mẹ. Tôi sẽ chăm chỉ bới đất nhặt cỏ. Tôi sẽ, và tôi sẽ… Nhưng, tôi biết, mình chưa thể hát ở nhà thờ. Tôi vẫn làm dấu thánh trong lòng mỗi lần đi qua nhà thờ. Nơi tôi được rửa tội vào ngày mùng một tháng tư. Nơi tôi làm lễ cưới vào lúc năm giờ sáng. Nơi tôi đọc lời thề gắn bó với một người đàn ông.
Tôi học bố. Tôi nghĩ rằng mình có suy nghĩ và cách sống giống bố. Tôi tính toán như thế này: nếu con người ta biết cách sống tử tế hơn với thế gian, nghĩa là ta đang làm theo lời chúa. Tôi không đến nhà thờ vào ngày chúa nhật nữa. Nhưng, tôi làm dấu thánh trong lòng. Tôi làm dấu thánh khi đi ngang một nhà thờ ở bất kì thành phố nào tôi đến.
Nhân danh cha và con và thánh thần. Amen.

Chẳng ai biết, tại sao tôi cảm thấy hoang mang khi luôn luôn làm dấu thánh mỗi ngày trong lòng? Người ta sẽ không bao giờ hiểu, tại sao tôi cảm thấy bất an mỗi lần bước chân ra đường. Chẳng lẽ, Chúa không đủ quyền năng để cứu rỗi?
Dấu thánh gắn trên ngực tôi. Dấu thánh gắn trên trán tôi. Dấu thánh nằm trên hai vai tôi. Nặng như một chiếc thập giá. Tôi vác nó đi trên những con đường đầy than lửa, những miền đất vẫn còn bị bao phủ bởi lớp sương mờ dày đặc không thể nào tan đi được.

Tuần lễ chúa phục sinh.
Mẹ bắt đầu có thói quen đếm thứ tự của từng ngày trong tuần. Mẹ đếm đi đếm lại mãi. Mẹ đếm không biết mỏi mệt. Mỗi lần vợ chồng tôi về, mẹ vẫn dặn dò câu ấy: "Phải biết yêu Chúa. Phải bới đất nhặt cỏ". Tôi nhìn thấy ở mẹ một sức mạnh cao cả của người đàn bà có thừa sự ngoan đạo.

Năm chúa phục sinh thứ bảy, tôi nhớ mình đi bên cạnh một người đàn ông đã từng có ước nguyện trở thành kẻ mặc áo cổ cồn trắng, chăn dắt con chiên. Sau khi cưới, tôi vẫn đều đặn đến nhà thờ ngày chúa nhật. Bố mất, tôi không đến nhà thờ ngày chúa nhật nữa. Chẳng phải vì tôi không yêu chúa. Chẳng phải vì tôi ghét chúa. Thế gian mộng mê. Những lầm lạc vẫn hàng ngày bám riết trên thân phận con người. Tôi không đòi hỏi Chúa phải chứng minh quyền năng. Tôi có đức tin. Chắc chắn thế. Nếu không có đức tin, linh hồn con người rất dễ lạc lối. Mẹ lo lắng, trong ánh mắt mẹ tôi nhìn thấy điều đó. Mẹ lo lắng một con chiên mới sẽ không có được một đức tin mẫn cán, trọn vẹn.
Tôi chỉ làm dấu thánh khi đi ngang nhà thờ. Chồng tôi lặng lẽ. Anh vẫn cố gắng học theo cách sống của bố. Nhưng, tôi chẳng thấy anh ấy học được bất cứ điều gì. Anh vẫn thường ca cẩm về những công việc nhàm chán của mình mỗi ngày. Anh có thói quen cả nể, không thể từ chối vài việc nhảm nhí người ta ném cho anh, kể cả việc ấy không phải chuyên môn của anh. Mẹ bảo, khi bố còn sống, bố luôn làm những việc lành, nghĩa là, sẵn sàng giúp đỡ bất kì ai gặp khó khăn, hoạn nạn. Tôi bắt đầu nhìn thấy sự bao dung ở đâu đó trong ánh mắt người có đạo. Nhưng, lí lẽ của tôi tồn tại theo một cách khác, tôi nghĩ sống lời chúa không nhất thiết bằng cách hát lên những ca tụng trong thánh đường.

Lại nhắc về tuần chúa phục sinh. Mẹ tôi vẫn không quên đếm từ thứ hai đến chủ nhật. Ngày thứ năm bố tôi mất. Căn bệnh ung thư đã ăn mòn một cách đau đớn cơ thể bố tôi chỉ trong vòng ba tháng phát bệnh. Mẹ gọi. Em trai gọi. Những tiếng nấc dồn dập dâng tràn như nỗi sợ hãi muôn đời của con người khi phải đối mặt với sự sống và sự chết.

Ngày thứ hai, đào huyệt.
Ngày thứ ba, bố lên cơn mê sảng, gọi tên đồng đội, mơ về lũ pháo sáng, nghe thấy tiếng bom nổ. Ngày thứ tư, bố nhìn thấy rắn. Mẹ bảo, đó là hiện thân của satan. Mẹ gạt nước mắt, gọi đức cha làm lễ xức dầu, xưng tội để cứu lấy linh hồn của bố.
Ngày thứ năm, bố hấp hối, và trút hơi thở cuối cùng.
Ngày thứ sáu, tuần chay, không kèn trống, không được phép ăn thịt, chỉ ăn cá và trứng. Bố nằm trong một chiếc quan tài gỗ vàng tâm. Nhắm mắt. Thanh thản.
Ngày thứ bảy, đưa bố ra đồng. Người lính trận về với đất.
Người chồng, người cha về với đất.
Con chiên về với nước trời.
Linh hồn tan trong vũ trụ, hư vô.
Tôi bắt đầu học mẹ đếm ngày tháng. Nhưng, tôi đếm kĩ hơn. Tôi không bỏ phí bất cứ một giây phút nào cả. Tôi sợ thời gian cuồng quay nuốt chửng tất cả mọi khoảnh khắc tôi còn được nhìn thấy mặt trời. Chồng tôi vẫn bộn bề với những công việc không tên, và không ngừng càm ràm về sự nhảm nhí của nó. Tôi tự do. Ít ra, lúc này tôi đang cảm thấy mình khá tự do, để có thể đếm từng khoảnh khắc. Tôi thuộc nằm lòng lời của mẹ: phải bới đất nhặt cỏ.

Buổi sáng, tôi làm một cốc cafe.
Buổi trưa, tôi bắt tay vào tìm kiếm những cơ hội và viết, cho đến giờ mặt trời bắt đầu xuống gần hơn, sát với đỉnh núi, chạm những tia nắng cuối ngày xuống mặt đất, mặt sông, mặt người.
Buổi chiều tối, tôi làm một vài việc mình ưa thích. Chồng tôi vẫn cần mẫn với những cái mail không tên gửi đến, dày đặc cả inbox.
Năm thứ haikhongmotnam. Tôi ba mươi hai tuổi. Cuộc đời tôi vẫn buồn tênh, nhàn nhạt trôi qua từng ngày. Tôi phát hiện ra điều đó. Và, cảm thấy mình đang cố tình chiều lòng nó bằng cách bỏ qua sự cố nhạt nhẽo ấy. Tôi thức khuya nhiều hơn. Tôi mất ngủ nhiều hơn. Tôi chuyển sang chơi trò đếm cừu trong tuần, theo từng đêm mất ngủ. Số lượng cừu tăng lên. Tôi vẫn mất ngủ.
Một buổi trưa, tôi đang cầm con dao thái say sưa gọt vỏ quả táo đỏ, lưỡi dao sắc bén đã tỉa một đường bén ngọt trên ngón tay cái của tôi.
Máu. Tôi dán chiếc băng cá nhân vòng quanh ngón tay để cầm máu.
Một buổi trưa khác, vẫn là con dao thái đó, tôi đang gọt vỏ dưa, nó lại liếc qua một phát trên ngón tay trỏ của tôi. Máu. Tất nhiên, tôi sẽ dán chiếc băng cá nhân tiếp theo để cầm máu.
Một buổi trưa khác nữa, cũng lí do đó, cũng là con dao đó, nhưng vết thương trên tay tôi đã chuyển sang ngón giữa. Máu. Và băng cá nhân cầm máu.
Một buổi chiều, tôi quyết không cầm đến con dao thái ấy. Tôi sẽ không làm cho mình bị đứt tay và chảy máu. Dĩ nhiên, tôi thành công. Nhưng, thật bất ngờ, khi mở cánh cửa bằng nhôm, cái cạnh sắc bén của chúng đã cứa vào ngón tay đeo nhẫn của tôi. Vết thương bật máu. Tủ thuốc đã hết băng dán cá nhân. Vết xước khá sâu. Chúng rạch ngay mạch máu thì phải. Máu cứ vậy tuôn ra. Tôi rịt lại bằng cách ôm lấy ngón tay. Và đợi nó chán, sẽ tự ngừng chảy. Như một kiểu thách đố. Tôi biết, mình đang đùa, với máu. Đằng nào cũng phải đổ máu. Người ta không thể tránh né và dồn nén mãi những quả bóng mâu thuẫn. Hay là vờn nhau như chuột với mèo trên bãi biển nào đó từ tháng năm này qua tháng năm khác. Tôi biết, ngày mai, mình lại/sẽ/bị chảy máu.

Thứ sáu, một mùa chay khác.
Tuần phục sinh.
Chúng tôi chỉ ăn cá và trứng, không được phép ăn thịt. Chồng tôi đến cơ quan như thường lệ. Buổi chiều, tôi mở tủ quần áo, để lấy đồ đi tắm. Tôi lùa cả bàn tay mình vào trong mớ quần áo và lật từng cái để chọn lựa. Bất giác tôi cảm thấy ngón tay út của mình ran rát. Tôi thụt tay lại theo phản xạ và phát hiện ra cái màu đỏ quen thuộc đang nhỏ giọt long tong xuống nền nhà. Lại là máu. Lại là một vết xước từ cái tủ quần áo làm bằng nhôm. Chao ơi, tôi muốn buột miệng chửi thề. Và tôi, đã chửi thề. Mặc dù Chúa không cho phép. Con người phải nói những lời hay, lời đẹp, phải thì thầm cầu nguyện thay vì chửi thề. Mẹ tôi đã dạy. Từ lời của Chúa.

Ngày thứ hai
Ngón tay cái chảy máu.
Con sông hóa thành màu đỏ. Lũ tràn về. Tôi không biết cách để sống lời chúa vào lúc này. Tôi muốn chửi thề. Và tôi đã chửi thề.

Ngày thứ ba
Ngón tay trỏ chảy máu.
Núi rừng ngả rạp. Cây cối héo hon giữa những giờ phút nóng rẫy, hạn hán. Mùa màng chết trên từng vuông đất. Người đàn bà ê đê thõng thệu vú giữa đồi cao, hai hàng nước mắt chảy dưới trời chiều. Người đàn ông ê đê, ngửa mặt, đưa tay lên, réo gọi tên Yàng. Tôi nằm mơ về những nụ cười từ thời hoang sơ nguyên thủy. Và mặc nhiên cho máu chảy tràn trên ngón tay trỏ của mình.

Ngày thứ tư
Ngón tay giữa.
Những nguyên nhân.
Tôi gạt phắt hết chúng sang một bên. Chẳng có nghĩa lí gì. Đôi khi, người ta không muốn chứng minh để tìm ra hệ quả. Rõ ràng, máu sẽ chảy. Rõ ràng, đồi núi trập trùng, biển sông đang hóa thành lửa trước mặt tôi hàng ngày, đến quen thuộc. Ai đó thì thầm vào ngày thứ tư của tôi bằng những thanh âm u ám. Tôi đấm ngực thình thịch: lỗi tại tôi, lỗi tại tôi. Đêm ấy, mùa hè, mưa rất to. Tôi ngỡ mình nằm mơ. Nhưng, hóa ra, tất cả đều thật, thật đến kinh ngạc. Những vệt máu đã khô trên mấy ngón tay tôi. Chúng tan hòa vào nhau thành một thứ hình thù kì dị mang tên tội lỗi.

***

Ngày thứ năm
Ngày bố chồng tôi mất.
Ngày những linh hồn chính thức về với đất, và đợi mùa phục sinh.
Ngày mẹ tôi ngồi bệt giữa sân nhà khóc ròng, ôm bộ quân phục của bố khi đoạn tang ba năm.
Ngày ngón tay thứ áp út, ngón tay đeo nhẫn của tôi tiếp tục chảy máu. Và, tôi mặc kệ, không dùng băng dán cá nhân để cầm máu như mọi lần nữa.
Mẹ vẫn dặn, người theo đạo không được thất tín, không được nuốt lời, không được hoang đàng, không được đánh mất linh hồn. Nhiều lắm những lời mẹ dặn. Như lời chúa dạy. Nhiều lắm những lời chúa dạy. Nhưng, con người không phải là thánh thần cao siêu, tinh sạch. Tôi là người. Chồng tôi là người. Trong quả tim chúng tôi có nhiều mạch máu, nhiều xúc cảm mà chúng tôi không thể nào hiểu nổi. Ngón tay áp út của tôi đã chảy máu. Chồng tôi phiêu bạt trời tây. Anh ấy đã hẹn sẽ về đón tôi, vào mùa phục sinh. Anh ấy đã hứa sẽ đưa tôi đến nơi đáng sống nhất hành tinh, vào mùa phục sinh. Nhưng, ngón tay của tôi đã chảy máu biết bao mùa phục sinh. Anh ấy vẫn biến mất một cách khó hiểu. Tôi bắt đầu mệt mỏi với những ngón tay chảy máu, mệt mỏi với những mùa phục sinh. Tôi muốn quay trở lại nhà thờ. Và, tôi sẽ làm dấu thánh trước bàn thờ chúa. Dĩ nhiên, phải thế. Nhưng, tôi vẫn chưa bao giờ bước chân đến phòng kín, để xưng tội với một người ở phía bên kia bức màn. Tôi biết phải xưng tội như thế nào nhỉ? Tôi biết phải bắt đầu như thế nào nhỉ? Chúa tạo ra loài người. Chúa tạo ra tội lỗi. Chúa bảo chúng ta hãy sống ngoan đạo bằng cách đến nhà thờ và xưng tội. Tôi phải làm sao để Chúa hiểu rằng: tội lỗi đâu thể dễ dàng tha thứ đến thế? Chỉ có luật chơi tồn tại ở nhân trần này. Ai phạm lỗi phải đền tội. Ai tử tế thì nhận được ân sủng bình an, và được cứu rỗi linh hồn khi thể xác chết đi.

Ngày thứ sáu, mùa chay.
Tôi viết một bức mail gửi đi và chỉ dặn chồng việc duy nhất: không được ăn thịt, chỉ ăn trứng hoặc cá, rau củ quả.
Chồng tôi không trả lời. Inbox trống rỗng lạnh lùng. Tôi cầm con dao thái lên và đi gọt táo. Quả táo đỏ mọng. Những lớp vỏ dày lên, gồ ghề cứng như đá. Tôi vẫn lì lợm, bướng bỉnh đưa mũi dao nhọn ấn sâu vào bề mặt quả táo. Mũi dao bật ra, liếc qua ngón tay út. Phựt. Máu. Lần này, máu chảy mạnh hơn. Nhiều hơn. Tràn trề hơn. Tôi bắt đầu có cảm giác đau. Rồi đến tê. Và cuối cùng, những giọt nước mắt của tôi lăn dài xuống hai gò má. Tôi ba mươi tư tuổi. Chồng tôi vẫn biến mất một cách lạ kì. Chẳng có một dấu vết nào chứng tỏ rằng anh ấy đang tồn tại, dù chỉ là ở cách tôi hàng ngàn kilomet đường chim bay. Tôi không thể hiểu nổi điều đó. Nhiều lần, tôi tự mình tìm kiếm manh mối, hỏi han, nhưng vẫn vô vọng. Chồng tôi, sẽ không bao giờ phản bội tôi. Mẹ chồng tôi đã cấm cửa anh ấy nếu phạm lỗi. Mẹ không chấp nhận những linh hồn lạc lối. Mẹ dạy thế. Mẹ bảo phải giữ lấy linh hồn. Ánh sáng luôn luôn ở phía mẹ. Ánh sáng bay lên vũ trụ thẳm sâu khôn cùng trong đêm cuối cùng bố tôi còn ở nhà, sau tuần chay của mùa phục sinh.
Hai bàn tay tôi, đã đầy những vết sẹo ngang dọc. Máu khô dần. Tôi chỉ thấy chúng trắng hếu như bông tuyết. Tôi bắt đầu tập đếm. Tôi không đếm cừu. Tôi đếm những con số. Tôi đếm những mùa phục sinh. Tôi đếm thứ tự của tuần.
Thứ hai, máu chảy
Thứ ba, chảy máu
Thứ tư, máu lại chảy
Thứ năm, lại chảy máu
Máu không ở trên những ngón tay nữa. Máu từ đâu đó ùa về khiến lồng ngực tôi đau thắt. Thứ sáu, tôi mệt mỏi, nằm xuống chiếc giường cưới và nhắm mắt lại, tay đấm ngực thình thịch: lỗi tại tôi, lỗi tại tôi. Thứ sáu, phải rồi, ngày tôi mất đứa trẻ. Giọt máu của tôi và anh.
Thứ bảy, mẹ bảo, hãy về với mẹ, mùa này lúa trổ, mùa này nhiều hoa đỏ.
Chúa nhật, tôi quyết định đến nhà thờ, làm dấu thánh và xưng tội trong căn phòng kín. Ở phía bên kia là ai? Là đức cha nào tôi không biết. Tôi đã kể lể nhiều lắm. Câu chuyện của tôi dài lắm. Vị linh mục lặng yên lắng nghe tôi nói. Không nhân danh cha và con và thánh thần để thứ tha tội lỗi. Loài người, khi chúa tạo ra, phải chăng vốn đã quá nhiều tội lỗi. Tôi nhìn thấy một thứ ánh sáng khác trong mắt mình. Lạnh lùng và trắng như bông tuyết.

***

Một ngày cuối mùa đông. Tôi đến nhà thờ vào chúa nhật như thường lệ. Nghe vài vị quản xứ loan báo tin mừng, rằng: vừa có một đức cha từ thánh đường Vatican về rao giảng. Tôi háo hức như những con chiên ngoan đạo khác. Nhưng, khi nhìn thấy trên bục đọc sách thánh là bóng hình quen thuộc của kẻ đã biến mất không một dấu vết. Tôi giật mình, chân tay tê dại. Trên vai tôi, cây thập giá oằn xuống. Tôi khóc nấc giữa thánh đường ngày chúa nhật.
Tội lỗi hay ơn gọi? Mẹ ơi. Chúa ơi.
Người đàn ông đó là chồng tôi. Rõ ràng là anh ấy. Tôi không thể nào nhìn nhầm được. Đôi mắt to và sâu thẳm của người có đạo.
Tôi bắt đầu nghĩ về việc sẽ xưng tội đều đặn hơn mỗi ngày trong tuần.
Thứ hai, xưng tội
Thứ ba, xưng tội
Thứ tư, xưng tội
Thứ năm, xưng tội
Thứ sáu, xưng tội
Thứ bảy, xưng tội
Và chủ nhật, tôi vẫn tiếp tục đến nhà thờ đó để xưng tội.

Lịch xưng tội của tôi đều đặn đến nỗi các cha phải thay nhau trực ở căn phòng kín đã che bởi một bức vách. Những bí mật, những tội lỗi của tôi dần dần được tiết lộ ra hết. Các cha làm dấu thánh liên tục, không kịp thở và nói lời tha thứ thay chúa. Tôi muốn như thế. Tôi muốn người đàn ông mặc áo cổ cồn trắng của tôi phải lắng nghe tôi đếm những mùa phục sinh, đếm những ngày tháng tôi bị chảy máu. Ai dám chắc rằng kẻ đang đứng bên kia chưa bao giờ phạm lỗi? Ai dám chắc những người đang xưng tội như tôi sẽ không thể phạm lỗi sau khi bước chân ra khỏi nhà thờ?

Sau giờ xưng tội ở nhà thờ, tôi trở về căn nhà cũ rích, quen thuộc đến từng centimet vắng lạnh, hiu hắt. Con dao thái vẫn nằm một góc ngay bếp nấu ăn. Tôi bắt đầu nghĩ đến một trò chơi mới dành cho riêng mình. Nó sẽ tạo cảm hứng hoan hỉ, phấn khích. Nó sẽ khiến tôi bớt đau đớn hơn.

Tôi thức dậy từ rất sớm. Đi một vòng qua những con đường cũ. Đến nhà thờ lúc tám giờ. Trở về nhà sau bốn mươi lăm phút. Và, bắt đầu cầm con dao thái lan lên, gọt táo. Đều đặn mỗi ngày.

Thứ hai, tôi cắt một nhát vào vỏ táo, một nhát vào ngón tay cái. Thứ ba, tôi cắt một nhát vào vỏ táo, một nhát vào ngón tay trỏ. Thứ tư, tôi cắt một nhát vào vỏ táo, một nhát vào ngón tay giữa. Thứ năm, cũng vậy, ngón tay áp út. Chiếc nhẫn đã được làm phép thánh tôi vẫn đeo, không tháo ra. Chiếc nhẫn dính bệt máu.Thứ sáu, đến phiên ngón út. Thứ bảy, tôi vốc một nắm thuốc ngủ vào miệng và nằm xuống giường, rồi bay trong những giấc mơ.

Chúa nhật, tôi sẽ tỉnh lại và tiếp tục đến nhà thờ vào lúc bốn giờ chiều. Âm thanh của tiếng chuông nhắc nhở tôi về những mùa chay, về những tội lỗi. Tôi bỗng nhớ mẹ, nhớ bố, nhớ cánh đồng có biết bao người đã nằm xuống. Tôi bỗng nhớ mình của một thời vụng dại xa xưa. Và, tôi cũng nhớ cả giọt máu chưa thành hình của mình. Bây giờ tôi đang vác một cây thập giá khác, nặng lắm. Cây thập giá nhân sinh.

Chồng tôi không giống bố, không thể học bố. Phải, anh ấy khác bố điều đó, cái giấc mơ từ những ngày ấu thơ khi anh nói về nó với ánh mắt sáng lấp lánh kì lạ. Đôi khi, đức tin được nuôi dưỡng từ bóng hình của một vài ảo ảnh nào đó. Chỉ vì một lời hứa trước thánh đường vào lúc năm giờ sáng, mà anh ấy trở thành chồng của tôi bây giờ. Tôi nhớ lời mẹ: "Con người phải bới đất nhặt cỏ". Tôi bắt đầu bỏ thói quen gọt vỏ táo theo ngày, hoặc cắt vào từng ngón tay đến chảy máu. Người ta, có những cách để xưng tội tốt hơn ngoài việc làm dấu thánh: nhân danh cha và con và thánh thần ở nhà thờ. Tôi sẽ bới đất nhặt cỏ, sẽ vác cây thập giá của chính mình đi khắp thế gian để xưng tội cho tất cả loài người.

***

Mùa hè năm đó, khu sinh hoạt của nhà thờ dòng chúa cứu thế bị lửa bén, hơn một nửa bức tường hóa thành màu xám tro. Phòng xưng tội cũng bị cháy xém. Nơi đám đất khói bụi đen nhẻm, vẫn còn một cây bông gạo đỏ như máu. Vị linh mục trẻ hình như đã rời giáo đường. Tôi chỉ là một linh hồn lang thang cô độc giữa những con đường, vài góc kí ức vừa quen vừa lạ. Tôi lạc lõng tìm kiếm điều gì đó xa vời trong hư vô, cát bụi. Tôi vẫn đều đặn đếm thứ tự của ngày tháng vào mỗi tuần chúa phục sinh. Nhưng, chàng vẫn không hề quay về đón tôi như đã hứa. Tôi nhớ lời một cha xứ đã từng nói: "Con sẽ đi đâu, ngoài thế giới này?".

Thần cây đa, ma cây gạo. Nhưng hình như, chỉ dành cho những linh hồn chưa được cứu rỗi. Tôi trân trân đứng trước cây gạo, bất giác nhìn xuống mấy ngón tay mình, chúng bung xòe và đỏ lòm như hoa. Liệu sự sống này có phải chỉ thay đổi mà không mất đi như lời kinh cầu nguyện khi những linh hồn bắt đầu rời khỏi dương thế, như bố tôi ngày ấy? Liệu có phải Chúa chỉ tạo cho con người một thế giới khả tử mà tôi vẫn chẳng thể nào đoán định được bất cứ điều gì?

Chủ nhật cuối cùng. Ngày Chúa nghỉ ngơi. Nhà thờ chưa được xây dựng lại. Chồng tôi vẫn chưa về. Tôi quyết định rời khỏi thành phố này. Biết đâu, tôi sẽ tìm thấy một thế giới khác. Có thể nơi đó, Chúa sẽ vẫn làm việc vào ngày chủ nhật. Ngài sẽ cho tôi biết một vài dấu hiệu. Có thể nơi đó, tôi không phải đắn đo khi bắt đầu một buổi xưng tội của mình. Và, cũng có thể nơi đó, tôi chẳng bao giờ phải sợ hãi mỗ khi nhìn thấy máu.

Sự làm cho thấy rõ mặt trời

 

Những bài tập đầu tiên để làm quen với việc cho và nhận Năng lượng Cảm xạ đã dẫn đến việc sử dụng hai biểu tượng: “Cục nam châm và mặt trời”.

Để thu Năng lượng Sinh học và để tái nạp Năng lượng Cảm xạ thì biểu tượng mặt trời là một nhân tố rất mạnh. Chúng ta hãy nhớ rằng một biểu tượng có đầy đủ cái sức mạnh mà nó đại diện. Xuất phát từ nhận xét này, chúng ta có thể dễ dàng làm thấy rõ biểu tượng mặt trời để tái nạp năng lượng bằng cái hình ảnh tâm thức đó. Tại sao làm cho thấy rõ cái biểu tượng đó, trong khi chúng ta có khả năng làm cho thấy rõ bản thân mặt trời.

Làm cho thấy rõ một “Mặt trời vàng” ở trên đầu, mặt trời mà các tia sáng xuyên sâu vào 7 luân xa và tỏa đi khắp cơ thể. Sự làm cho thấy rõ này tạo ra một cảm nhận bất cứ tại đâu, ngay cả trong khi bạn đang đi trên đường. Trong trường hợp này, bạn hãy làm cho thấy rõ ”Mặt trời vàng ở trên đầu bạn” nó đi theo bạn và nạp năng lượng cho bạn.

Những sự làm cho thấy rõ khác về mặt trời vàng :
·Trong trạng thái thư giãn, làm cho thấy rõ mặt trời vàng trên bầu trời.

·Bạn hít vào : Một tia sáng (hay một xoắn) từ cái mặt trời đó đến tận luân xa 7 hoặc đến luân xa 5 (đám rối thái dương).

·Bạn nít thở: Tia sáng vàng tỏa đi khắp thân thể bạn.

·Bạn thở ra: Hơi thở bạn làm lan tỏa đi tia sáng vàng ra toàn vũ trụ.

Khi thực hành “sự làm cho thấy rõ mặt trời” người ta thường chọn mặt trời lúc giữa trưa mặt trời màu vàng kim. Đó là mặt trời ở trên đỉnh với toàn bộ sức mạnh của nó. Mặt trời lúc đang lên, là mặt trời màu trắng cũng có thể được làm cho thấy rõ. Mặt trời lúc xế chiều là mặt trời màu đỏ, ít được sử dụng trong các bài tập.

Trên đường di chuyển hàng ngày của mặt trời, nó chuyển từ màu trắng sang màu vàng kim và màu đỏ. Mặt trời đi ra từ màu đen của ban đêm. Nó là ngôi sao của Compost và hiện ra thành màu trắng. Khi tới đỉnh nó là vàng của các nhà giả kim thuật. Rồi đến màu đỏ của viên đá thử vàng, trước khi nhà giả kim thuật biến mất trong bí mật của đêm tối và bước sang một vòng quay mới.

BAO GIỜ VÀ LÀM THẾ NÀO ĐỂ SỬ DỤNG SỰ LÀM CHO THẤY RÕ

Trong thực hành sự làm cho thấy rõ đi cùng với động tác cho việc chữa bệnh bằng Năng lượng Cảm xạ. Khi chữa bệnh bằng NLCX, người ta phải nghĩ đến việc chữa bệnh và chỉ nghĩ đến việc chữa bệnh, nhưng cũng phải nhìn thấy việc mình làm điều này giúp cho không để một tư tưởng ngoại lai nào xen vào. Sự làm cho thấy rõ cho ta rất nhiều khả năng.

SỰ LÀM CHO THẤY RÕ VỚI BẢN THÂN

Để áp dụng biện pháp kỹ thuật cho người khác với cơ may thành công tối đa, tốt nhất là phải biết các kỹ thuật đó không chỉ về mặt lý thuyết mà còn phải dựa trên những kinh nghiệm cá nhân. Cơ hội để làm cho thấy rõ bản thân rất nhiều, sự làm cho thấy rõ tạo ra một sự thay đổi một sự biến đổi. Như vậy, cần biết cần biết rõ điểm xuất phát. Tức là tự biết rõ mình một cách không nhân nhượng và sáng suốt. Thật là không phải lúc nào ta cũng chấp nhận được việc tự đối chiếu với sự thật. Cần thiết phải đo được khoảng cách cụ thể giữa thực tế và mục đích phải đạt. Đó là một hành động cần có sự khiêm tốn và sự khiêm tốn sẽ tạo ra những cơ sở vững chắc với tinh thần trách nhiệm. Xuất phát từ thực tế của thời điểm hiện tại, chỉ cần làm cho thấy rõ mục đích cuối cùng. Có thể, tùy trường hợp làm cho thấy rõ liên tiếp từng chặng của sự biến chuyển dẫn đến mục đích đó, nhưng không bao giờ làm cho thấy rõ những khó khăn có thể xuất hiện trên đường đi.

Việc không cùng một lúc theo đuổi nhiều mục đích cũng quan trọng, giúp chỉ làm cho thấy rõ một vấn đề duy nhất. Tuy nhiên, có một số vấn đề có thể có cùng một nguyên nhân chung và như vậy chính cái nguyên nhân đó cần được giải quyết. Ví dụ: việc thiếu tự tin có thể là nguyên nhân về mối quan hệ, về nghề nghiệp, về tình cảm v.v… không cần phải giải quyết theo thứ tự những hệ quả của sự thiếu tự tin đó vì nó vốn là một nuyên nhân thường xảy ra.

QUÁ TRÌNH CỦA SỰ LÀM CHO THẤY RÕ

Xác định rõ mục đích cần giải quyết cho một nhu cầu thực sự và mong muốn sâu sắc.

·Bắt đầu và theo đuổi sự làm cho thấy rõ trong trạng thái vô thức, không mảy may quan tâm đến thời gian cần được thực hiện nó.

·Không ấn định một thời hạn nào, không thể quy định lượng thời gian cần có để đạt hiệu quả.

·Nhu cầu và mong muốn thúc đẩy trí tưởng để tạo ra các biểu hiện tâm thức sẽ trở thành sự thực.

·Kết quả sẽ được biểu hiện bằng một sự thay đổi thực sự sâu sắc, một sự thay đổi rõ rệt về thể chất biểu hiện qua cơ thể và sự long lanh của đôi mắt.

Nói một cách đơn giản, hình ảnh được ghi khắc trong tiềm thức sẽ dội trở lại lên tâm trí cũng như cơ thể. Sự làm cho thấy rõ làm sống lại một sự lãng quên về tâm thần và thể chất tích cực theo ý muốn.

Cần nhấn mạnh rằng sự làm cho thấy rõ không phải là một hành động theo ý muốn hay một ám thị. Không phải chỉ cần nói và nhắc lại rằng “tôi muốn” mà sự mong muốn được thực hiện, ngay cả sự ám thị mà chúng ta quan tâm cũng không dùng đến những công thức ra lệnh, khi mà sự tưởng tượng và ý chí đối đầu nhau thì trí tưởng tượng cũng thắng.

Người nào muốn đạt được kết quả, nhưng lại tự thấy mình đang thất bại thì sẽ thất bại trái với ý muốn của mình. Người nào tự thấy thành công sẽ đạt được kết quả hoàn toàn khác hoàn cảnh nói trên. Sự làm cho thấy rõ được áp dụng cho mọi nhu cầu của chúng ta và mọi mong muốn của chúng ta có liên hệ đến nghề nghiệp hay tình cảm, gia đình, kết quả thi cử đến cải thiện sức khỏe v.v… Nó chỉ có giới hạn là mục đích đặt ra phải có khả năng thực thi và tích cực.

Dư Quang Châu (Theo Bộ môn Năng lượng Cảm xạ)

Bây giờ đêm gần tới





Bây giờ đêm gần tới
Vài nhà thơ say khướt trở về khu ổ chuột
Nằm chờ bình minh tác phẩm.
Trung tâm tỏa sáng ánh tiền
đặt hy vọng sức mua đêm này đừng giảm.
Các mùa được tạo đủ tư thế
trên đám ma-nơ-canh non choẹt.
Thành phố già nua
run lên bần bật tiếng còi cảnh sát
xô vào tôi một gái điếm đang tháo chạy trên đường,
còn kịp liếc mắt đưa tình, nàng quả là hết mình thực dụng.
Rác rưởi khắp nơi, gió rét lùa đi từng đợt
Nghe như tiếng khóc lẫn trong tiếng chào của một người bán dạo
Lũ dân chơi ngổ ngáo gườm gườm,
bước chân của tôi gõ một khúc buồn như chết.

Lê Trinh

Thứ Tư, 17 tháng 6, 2015

Cái Chết Của Mekong, Dòng Sông Phật Giáo





TS Trần Tiễn Khanh, AMI Environmental, USA *





Bài tham luận này được trình bày tại Hội nghị Vesak Liên hiệp quốc từ 27-30 tháng 5 2015 tại Bangkok, Thái Lan. Bản tuyên cáo Bangkok (Bangkok Declaration) của Hội nghị đã nêu lên vấn đề Mekong và đã yêu cầu các nước trong cộng đồng ASEAN và các nước láng giềng hợp tác để giải quyết tình trạng khẩn cấp của sông Mekong và hệ sinh thái. Vấn đề Mekong cũng sẽ được đưa vào nghị trình của Đại hội đồng LHQ.

▪ Dẫn nhập

Bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng, sông Cửu Long dài 4500 km và sông dài thứ 12 trên thế giới, chảy qua sáu quốc gia bao gồm Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam. Theo dòng chảy, sông được gọi là sông Lan Thương ở Trung Quốc, Mekong ở Myanmar, Lào và Thái Lan, và cuối cùng là sông Cửu Long vì chảy ra biển qua chín cửa sông ở miền nam Việt Nam. Đúng như tên gọi của nó (Mekong có nghĩa là Sông Mẹ trong tiếng Lào), sông Mekong là nguồn sống của hơn 65 triệu dân, đa số ở các nước hạ nguồn Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam. Phần lớn các cư dân là Phật tử theo cả ba truyền thống Phật giáo: Nam Truyền ở Myanmar, Thái Lan, Lào và Campuchia; Bắc Truyền ở Trung Quốc và Việt Nam; và Kim Cương thừa ở Tây Tạng. Do đó, Mekong được gọi là "dòng sông Phật giáo"


Các đập trên sông Mekông

Hầu hết cư dân dọc theo con sông là ngư dân nghèo sống nhờ vào đánh bắt cá, hay là nông dân nghèo sử dụng nước sông và phù sa để trồng lúa. Họ cũng dùng con sông làm phương tiện giao thông và buôn bán. Trong hai thập kỷ tới, số lượng cư dân này dự kiến ​​sẽ tăng đến hơn 100 triệu. Đời sống của họ liên tục bị đe dọa bởi lũ lụt, nạn phá rừng, ô nhiễm cũng như các dự án phát triển. Hiện nay mối đe dọa lớn nhất đối với sinh kế của họ là các đập thủy điện khổng lồ được xây dựng hoặc lên kế hoạch ở tỉnh Vân Nam và các đập nhỏ hơn ở Lào và trên hạ lưu sông Mekong. Ngoài ra, Trung Quốc đã phá các thác ghềnh và mở rộng dòng sông để các tàu bè lớn có thể đi lại, kể cả các tàu vận chuyển dầu. Các dự án phát triển gây ra hậu quả kinh tế và môi trường nghiêm trọng ở các nước thuộc lưu vực sông. Tất cả những tác động môi trường sẽ được trở nên tồi tệ hơn bởi sự hâm nóng toàn cầu trong những năm tới (Khanh Tran, 2014). Với các dự án thủy điện, các nước ở thượng nguồn đã không được xem xét đến lợi ích và mối quan tâm của các nước hạ nguồn. Đây có thể là nguyên nhân dẫn đến xung đột, khủng hoảng chính trị và thậm chí chiến tranh trong một tương lai gần. Ngay cả sự tồn tại của dòng sông cũng có thể bị đe dọa nghiêm trọng trong vài thập kỷ tới. Các phần còn lại sẽ thảo luận về các đập và tác động môi trường, và một giải pháp dựa trên giáo lý Phật giáo để đảm bảo sự phát triển hòa bình và bền vững các nguồn tài nguyên của sông Mekong.

▪ Khai thác dòng sông

Trong hai mươi năm qua có một chương trình khai thác thủy điện trên sông Mekong (Richard Cronin, 2010; Scott Pearse-Smith, 2012). Tính đến năm 2014, có 26 đập thủy điện trên dòng chính, 14 đập trên sông Lan Thương (tên của thượng nguồn Sông Mekong ở tỉnh Vân Nam của Trung Quốc) và 12 đập trên hạ nguồn Mekong. Trung Quốc đã xây dựng một chuỗi đập lớn trên sông Lan Thương, bắt đầu với Manwan vào năm 1993 với sản lượng điện 1500 MW. Đập Dachaoshan được hoàn thành vào tháng 12 năm 2002 với công suất 1350 MW, chiều cao của một tòa nhà 30 tầng và một hồ chứa nước dài 88 km.


Đập NUOZHADU

Tiếp theo là đập Tiểu Loan, với công suất 4200 MW và một hồ chứa nước dài 169 km và một chi phí là 4 tỷ USD. Đập này cao nhất thế giới, với chiều cao 300 m tương đương với một tòa nhà 100 tầng. Lớn nhất và đắt giá nhất (khoảng 10 tỷ USD) trên sông Mekong cho đến nay là đập Nuozhadu, được hoàn thành vào năm 2014 với chiều cao 261 m, một hồ chứa dài 226 km và công suất 5850 MW. Ít nhất tám đập lớn khác cũng đang được lên kế hoạch ở Trung Quốc.

Bắt đầu từ năm 2006, các công ty đến từ Thái Lan, Malaysia và Trung Quốc đã tiến hành nghiên cứu khả thi của 12 đập ở hạ nguồn sông Mekong. Trong số những con đập này, Xayaburi được coi là con đập dòng chính đầu tiên nằm tại Lào và bên ngoài biên giới Trung Quốc. Với công suất 1260 MW và tổng chi phí đầu tư lên tới 3,5 tỷ USD, được tài trợ bởi bốn ngân hàng lớn của Thái Lan và công ty xây dựng có trụ sở tại Bangkok, Ch. Karnchang. Tháng 10 năm 2013, chính phủ Lào đã thông báo cho Ủy ban Sông Mekong (Mekong River Commission, MRC) quyết định xây dựng đập dòng chính thứ hai có tên là Don Sahong. Đập này nằm gần thác Khone trong khu vực của tỉnh Champasak Siphadone ở Nam Lào, chỉ cách biên giới Lào-Campuchia hai km. Công suất chỉ có 260 MW, với chiều cao 30m và chiều rộng 100m. Đập sẽ chặn kênh Hou Sahong là kênh chính cho các loài cá di cư quanh năm giữa Campuchia, Lào và Thái Lan. Kênh này đặc biệt quan trọng trong mùa khô khi hầu hết các kênh khác không còn hoạt động do mực nước thấp. Sự gián đoạn di cư của các loài cá qua các kênh quan trọng này dẫn đến sự hủy diệt của sinh hoạt thiết yếu và thủy sản trong lưu vực sông Mekong. Mặc các cuộc biểu tình dữ dội và đông đảo, chính phủ Lào vẫn có ý định theo đuổi việc xây dựng đập. Ủy ban sông Mekong (MRC) gần đây đã thông báo một cuộc họp tham vấn cộng đồng trong khu vực cho các bên quan tâm về dự án thủy điện Don Sahong xảy ra vào ngày 12 tháng 12 2014 tại Pakse, Lào (MRC, 2014).

Năm 1866, một nhóm thám hiểm Pháp gồm có Doudart de Lagrée và Francis Garnier đã đi thuyền ngược dòng sông Mekong. Các người Pháp này đã bị ngừng lại bởi những tảng đá ngầm dưới nước và ghềnh ở Thượng Lào. Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã hoàn thành việc nạo vét sông và xóa những tảng đá dưới nước và tạo một ghềnh dài 300 km, từ biên giới Miến Điện-Trung Quốc sang Lào, thuận lợi cho việc đi lại bằng thuyền lớn. Tàu thuyền lớn hơn 100 tấn có thể đi từ cảng Simao ở Vân Nam đến các cảng khác ở các nước láng giềng. Cần phải lưu ý đặc biệt là những tàu vận tải dầu vì sự cố tràn dầu có thể nhanh chóng tàn phá toàn bộ hệ sinh thái sông Mekong (MRC, 2012).

▪ Tác động môi trường

Trung Quốc và Lào đã nói rằng tất cả các dự án phát triển thủy điện và giao thông trên mang lại lợi ích lớn cho các nước hạ nguồn. Họ cũng đã khẳng định rằng bất kỳ tác động sinh thái và môi trường, nếu có, đã được giảm thiểu. Các đập sẽ giảm bớt lũ lụt trong mùa mưa và nạn hạn hán trong mùa khô. Mở rộng dòng sông thành một kênh vận chuyển sẽ tăng cường thương mại giữa Trung Quốc và các nước láng giềng và mang lại sự thịnh vượng cho tất cả. Các dự án phát triển thường được tiến hành trong vòng bí mật và rất ít chi tiết được phổ biến. Các công ty xây dựng đập thường xuyên giảm thiểu hoặc giấu kín tất cả các tác động xấu đến môi trường.

Trái với những tuyên bố của các công ty xây dựng, đập thủy điện gây ra thảm họa kinh tế và môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng đến đời sống của hàng triệu người ở các nước hạ nguồn. Lũ sông Cửu Long xảy ra hàng năm từ tháng sáu đến tháng mười với hàng trăm người bị thiệt mạng. Hầu hết các nạn nhân lũ lụt là trẻ em chết đuối do thiếu sự giám sát của người lớn tuổi trong gia đình. Có những dấu hiệu cho rằng các con đập ở Vân Nam đã tăng cường độ lũ. Khi các hồ chứa nước đã đầy, các con đập phải xả nước dư thừa và làm tăng thêm mức lũ ở hạ lưu Cửu Long. Số nạn nhân lũ lụt, thiệt hại mùa màng và nhà cửa đã tăng ở Campuchia, Thái Lan và các nơi khác.

Trong mùa khô, mực nước sông Mekong xuống thấp vì chỉ có các băng tuyết ở Tây Tạng và Vân Nam là nguồn nước chính. Tỷ lệ dòng chảy trung bình giảm từ 50000 m3/s trong mùa mưa xuống còn 2000 m3/s trong mùa khô. Mùa khô thường kéo dài từ tháng mười đến tháng năm. Nếu các đập ở thượng nguồn không tháo nước vì nhu cầu nước của các hồ chứa, hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra ở hạ lưu. Các nước hạ nguồn sẽ bị ảnh hưởng bởi sự nhập mặn và ruộng lúa ở nhiều nơi sẽ bị phế bỏ vì nước mặn hay thiếu nước để trồng trọt.

Ngoài việc thay đổi mực nước và chu kỳ tự nhiên của sông Cửu Long, các hồ chứa nước ở các đập giữ lại phù sa. Thiếu nước và phù sa sẽ làm ruộng đồng ở hạ nguồn ít màu mỡ. Sản xuất lúa gạo sẽ giảm mạnh, đặc biệt là ở vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) của Việt Nam. Trong mười năm đầu hoạt động đập Manwan Dam được ước tính đã giữ lại khoảng 35% của tổng số phù sa. Lượng phù sa có thể giảm đến 50% vì các đập thủy điện. Điều này sẽ giảm lượng sản xuất gạo ở vùng ĐBSCL là vùng sản xuất lúa gạo chính của Việt Nam. ĐBSCL chiếm 50% tổng sản lượng gạo hàng năm (28 triệu tấn) và 90% lượng gạo xuất khẩu (7 triệu tấn). ĐBSCL cũng chiếm 60% lượng tôm cá xuất khẩu từ Việt Nam. Điều này sẽ ảnh hưởng đến hàng triệu người dân ở hạ lưu sông Mekong và các nơi khác, kể cả những nơi xa như châu Phi do lượng xuất khẩu gạo và tôm cá bị suy giảm.

Trong khi ruộng đồng ở hạ nguồn thiếu phù sa, các đập ở Vân Nam được bồi lấp. Độ phù sa trôi vào đập Manwan đã tăng gấp đôi so với ước tính ban đầu. Một trong những lý do mà Trung Quốc dùng để biện hộ việc xây đập Xiaowan là đập này ở thượng nguồn đập Manwan và, do đó, có thể làm giảm lượng phù sa trôi vào đập Manwan. Tuy nhiên, Xiaowan và các đập khác sẽ bị lấp đầy bởi phù sa trong vài thập kỷ tới. Các hồ chứa nước sẽ trở thành những vùng đất hoang rộng lớn và vô dụng! Trung bình, thời gian hữu dụng của các đập sẽ bị rút ngắn xuống còn khoảng 20 năm, so với ước tính ban đầu là 70 năm.

Với 1245 loài cá, sông Mekong là con sông nhiều cá thứ hai trên thế giới, chỉ sau sông Amazon ở Nam Mỹ. Trong số này có các loài quý hiếm như cá tra khổng lồ nặng tới 300 kg và cá heo sông. Mỗi năm có khoảng hai triệu tấn được đánh bắt ở các nước hạ nguồn. Hồ Tonle Sap ở Campuchia cũng sản xuất được 400000 tấn. Các đập thủy điện ở hạ nguồn sông Mekong tuy nhỏ về sản lượng điện so với các đập của Trung Quốc, nhưng tác động sinh thái của chúng thậm chí có thể lớn hơn. Vùng Thác Khone, nơi con đập Don Sahong sẽ được xây dựng với công suất nhỏ 260 MW, được xem như là điểm quan trọng của toàn bộ hệ sinh thái của lưu vực sông Mekong.


Catfish ở sông Mekong

Ngay dưới chân Thác Khone, ta có thể tìm thấy rất nhiều loài cá nước ngọt, không chỉ nhiều nhất ở Đông Nam Á mà còn trên toàn thế giới. Nhiều chuyên gia thủy sản kết luận rằng đập sẽ có tác động nghiêm trọng đến các loài cá di cư vì đó là kênh duy nhất vào mùa khô, và quanh năm là một kênh di cư quan trọng (Ian G. Baird, 2011). Đặc biệt là sự sống còn của loài cá heo Irrawaddy vì chỉ còn 85 con được biết là tồn tại ở đoạn sông này.

Các đập Vân Nam và hạ nguồn Mekong thay đổi mực nước, nhiệt độ và chu kỳ nước sông Mekong. Tất cả những thay đổi này ảnh hưởng xấu đến sự sinh sản và phát triển của các loài cá. Nạo vét sông cũng làm cho nước sông chảy nhanh hơn và gây xói lở bờ sông. Đá ngầm là nơi sinh sản của cá đã bị phá hủy. Một số loài cá sẽ biến mất vì không thể thích ứng với những thay đổi bất thường. Ngư dân ở nhiều nơi dọc sông Cửu Long đã phàn nàn rằng lượng cá đã giảm nhiều trong những năm gần đây. Đây là một tác động có ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống và sức khỏe của hàng triệu người ở Campuchia, Lào và Việt Nam vì tôm cá là nguồn chất đạm chính của họ.

Trung Quốc ban đầu nói rằng các đập ở thượng nguồn Mekong cung cấp năng lượng và mang lại thịnh vượng kinh tế cho tỉnh Vân Nam là một khu vực tương đối nghèo. Trái ngược với tuyên bố ban đầu này, năng lượng điện được tạo ra bởi những con đập này được sử dụng bởi các thành phố lớn và các ngành công nghiệp ở miền Đông TQ. Tương tự như vậy, điện từ các đập ở Lào sẽ được bán cho Thái Lan. Ngoài ảnh hưởng sinh thái nghiêm trọng nêu trên, đập và hồ chứa còn có thể gây ra động đất. Chúng cũng thải ra một lượng lớn khí nhà kính gây ra hiện tượng hâm nóng toàn cầu, chủ yếu là methane từ phân hủy thảm thực vật và đất (International Rivers, 2007). Khí methane mạnh hơn carbon dioxide (CO2) khoảng 25 lần. Theo các nghiên cứu khoa học, ví dụ Viện Nghiên Cứu Amazon ở Brazil (INPA), nhà máy thủy điện có tác động hâm nóng toàn cầu lớn hơn nhà máy điện đốt than cho mỗi kwh! Với chi phí khoảng 10 tỷ USD, đập Nuozhadu chỉ thay thế 9 triệu tấn than đốt mỗi năm, một lượng nhỏ so với 3 tỷ tấn than dùng ở Trung Quốc trong năm 2010. Ngay cả đập nhỏ Xayaburi được ước tính trị giá khoảng 3.5 tỷ USD, một khoản đầu tư to lớn cho nền kinh tế nhỏ của Lào (2013 GDP là 11 tỷ USD). Như vậy, trái với niềm tin thông thường, thủy điện rất tốn kém và không được xem là năng lượng sạch! Phát hiện quan trọng này phù hợp với một nghiên cứu hoàn thành vào tháng 11 năm 2000 của Ủy ban Thế giới về Đập (WCD, 2000). Nghiên cứu này đã phát hiện rằng hầu hết các dự án đập lớn trên thế giới đã không dẫn đến bất kỳ lợi ích kinh tế khi so sánh với chi phí xây dựng, tái định cư cho người dân và tác động xấu đến môi trường.


Đập Xayaburi

Vào tháng bảy năm 2012, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã kêu gọi ngưng xây đập Xayaburi (Hillary Clinton, 2012). Bà còn tuyên bố rằng Mỹ đã bị nhiều sai phạm trong các dự án thủy điện và kêu gọi các quốc gia dọc dòng Mekong nên học hỏi kinh nghiệm của Mỹ. Mỹ có thể tài trợ các nghiên cứu khoa học về tác động của các đập được đề xuất. Bà nói rằng "Chúng tôi đã học được một số bài học đắt giá về những gì sẽ xảy ra khi thực hiện các quyết định về cơ sở hạ tầng và tôi nghĩ rằng tất cả chúng tôi có thể góp phần vào việc giúp đỡ các quốc gia trong khu vực Mekong tránh những sai lầm mà chúng tôi và những nước khác đã phạm phải."

▪ Một giải pháp Phật giáo

Bắt đầu từ nguồn ở Tây Tạng, các nước và các dân tộc dọc theo sông Cửu Long chủ yếu là theo Phật giáo. Các cư dân theo ba truyền thống lớn của Phật giáo: Nam truyền ở Campuchia, Lào, Myanmar và Thái Lan; Bắc truyền ở Trung Quốc và Việt Nam; và Kim Cương thừa ở Tây Tạng. Mặc dù có một số khác biệt, tất cả các truyền thống đều dựa trên các giáo lý Phật Giáo căn bản:

• Tứ Diệu Đế,

• Bát Chánh Đạo,

• Ba độc,

• Trung Đạo,

• Lý Duyên Khởi,

• Năm Giới,

• Nhân Quả và

• Đạo đức Phật giáo (bất bạo động , lòng nhân ái, từ bi, hỷ xả)

Ba độc, chủ yếu là tham lam và ngu dốt, là những nguyên nhân cơ bản của các cuộc khủng hoảng môi trường và các xung đột trên sông Mekong. Tham lam lợi nhuận và các lợi ích kinh tế khác đã thúc đẩy việc xây dựng các đập thủy điện. Đối với các đập ở Lào, lợi nhuận là động lực duy nhất vì điện sẽ được bán cho Thái Lan và các khoản nợ lớn cần thiết cho việc xây dựng các đập thủy điện là những đầu tư to lớn trong một nền kinh tế nhỏ như Lào. Lợi nhuận từ những đầu tư này cũng không chắc chắn vì suy thoái kinh tế trong những năm gần đây đã làm suy giảm nhu cầu điện. Sự thiếu hiểu biết hoặc sân si khiến chúng ta xem nhẹ sự vô thường, lợi dụng tài nguyên thiên nhiên và lờ đi các tác động môi trường nghiêm trọng. Trong ba thập kỷ qua, Trung Quốc đã áp dụng chính sách phát triển kinh tế bằng mọi giá và họ đã nhận ra rằng chính sách không khôn ngoan này đã ô nhiễm nghiêm trọng không khí, nước và môi trường. Các đập thủy điện có thể cung cấp một số lợi ích kinh tế ngắn hạn cho nền kinh tế địa phương (ví dụ, công việc xây dựng, đầu tư lớn) nhưng không thấm gì so với những đau khổ lâu dài của hàng ngàn người đã phải tái định cư (ví dụ, 43000 người phải tái định cư để xây dựng đập Nuozhadu) và hàng triệu ngư dân và nông dân nghèo, càng trở nên nghèo hơn do sản lượng thu hoạch giảm. Các đập này đã tạo ra nhiều đau khổ, đặc biệt là ở các nước hạ nguồn.

Trong khi các nước thượng nguồn được tất cả các lợi ích, các nước hạ nguồn phải chịu nhiều đau khổ, nếu không phải tất cả, do các tác động môi trường, các cuộc xung đột và thậm chí các cuộc chiến tranh cũng có thể xảy ra. Những cuộc xung đột Mekong có thể được giải quyết bằng cách áp dụng lý duyên khởi. Cho dù thượng hay hạ nguồn, chúng ta phải nhận ra rằng chúng ta đang sống trong một thế giới liên kết và phụ thuộc lẫn nhau; hành động của bất cứ ai, dù nhỏ, sẽ ảnh hưởng đến mọi người khác và ngay cả trái Đất này. Trong những năm gần đây, các giá trị đạo đức Phật giáo như lòng từ bi và lòng nhân ái cũng đã được đề xuất như là giải pháp cho sự hâm nóng toàn cầu và các khủng hoảng môi trường khác (Khanh Tran, 2014). Những đức hạnh này, cùng với hỷ xả, là những phẩm chất cơ bản của một vị Bồ-tát phát nguyện giải thoát tất cả chúng sinh khỏi đau khổ. Chúng sinh bao gồm không chỉ con người mà còn động vật, chẳng hạn như loài cá tra và cá heo sông khổng lồ đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng, và môi trường nói chung.

Các cuộc xung đột giữa các quốc gia thượng nguồn và hạ nguồn nhắc nhở chúng ta đến tranh chấp về quyền sử dụng nước sông Rohini giữa bộ tộc Sakya và tộc Koliya trong thời Đức Phật còn tại thế. Đức Phật đã can thiệp vào cuộc tranh chấp này phát sinh từ sự nghi ngờ của sự phân bố không đều của nước sông. Ngài đã giải quyết một cách hòa bình bằng cách hỏi các bên liên quan rằng những mạng người bị mất do chiến tranh có giá trị hơn nước sông hay không? Do đó Đức Phật đã dạy: "Này các vua, quan chỉ huy, binh sĩ tại sao các nguời muốn chiến đấu và giết lẫn nhau, cho một vấn đề nhỏ như phân phối nước. Nếu Ta không đến ngày hôm nay, các ngươi có thể làm sông Rohini đẩm máu. Các nguơi đã hành động một cách không thích hợp. Các nguơi sống trong thù hận. Tất cả các ngươi đã chìm sâu trong năm loại hận thù. Hãy nhìn vào Ta. Ta sống không hận thù. Cả hai bên cuộc chiến sống với lòng ác. Vì vậy, đừng ghét nhau. Sống như những người yêu hoà bình. Thù hận sẽ không giúp các ngươi đạt được gì cả. Hãy mở lòng từ bi và tử tế với mọi người" (nguồn 
http://enews.buddhistdoor.com/en/news/d/28739).

▪ Chiến lược phát triển thủy điện bền vững

Như đã đề cập ở trên, các nước thượng lưu thường giảm thiểu các tác động môi trường của các đập và phần lớn bỏ qua những lợi ích và mối quan tâm của các nước hạ nguồn. Do đó, truyền thông rộng rãi và hợp tác giữa các quốc gia cần thiết cho sự phát triển bền vững. Một đánh giá khách quan của các dự án đòi hỏi một đánh giá toàn diện về môi trường (Environmental Assessment, EA) công khai và trình bày chính xác các chi phí và lợi ích cũng như tác động môi trường. Đánh giá môi trường này cần phải xem xét đầu vào từ tất cả các bên liên quan, từ các công ty xây dựng đập đến các nông dân và ngư dân và các nước hạ nguồn. Nó phải được thực hiện một cách minh bạch và khách quan bởi các chuyên gia tư vấn độc lập, không thiên vị và nổi tiếng về chuyên môn của họ. Tác động môi trường của các dự án đập được đề xuất tại tất cả các cấp (địa phương, quốc gia và xuyên biên giới), chi phí và lợi ích của nó, các biện pháp giảm thiểu và lựa chọn thay thế dự án cần được phân tích đầy đủ trong EA. Tất cả bốn nước hạ nguồn (Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam) là thành viên của Ủy hội sông Mekong (MRC), trong khi hai nước thượng nguồn (Trung Quốc và Myanmar) đã từ chối tham gia nhưng thường xuyên gửi các quan sát viên. Theo Hiệp định Mekong 1995, dự án phát triển phải tuân theo các thủ tục của MRC bằng Thông báo, Tham vấn, và Hiệp định. Theo thỏa thuận này, nước chủ nhà của dự án phải thông báo và tham khảo ý kiến ​chính phủ của các thành viên khác. Do đó, tất cả các nước, kể cả Trung Quốc và Myanmar, nên nghiêm tuân theo phương thức của MRC này. Điều này sẽ giảm thiểu sự nghi ngờ giữa các quốc gia và nghiêm túc xem xét các lợi ích và mối quan tâm của tất cả các bên. MRC cũng cần có quyền lực để có thể chủ động tham gia giải quyết các xung đột.

▪ Chiến lược thay thế cho phát triển điện lực bền vững

Các đập thủy điện không có hiệu quả khi chi phí xây dựng và tác động môi trường được xem xét. Trái ngược với niềm tin phổ biến, chúng cũng không phải là một nguồn năng lượng sạch, vì tạo ra một lượng đáng kể các khí nhà kính. Như vậy, một cách phát triển bền vững là dùng các nguồn năng lượng tái tạo, thực sự sạch như năng lượng gió và năng lượng mặt trời. Những nguồn năng lượng sạch và tái tạo không phải chịu những tác động môi trường nghiêm trọng của các đập thủy điện.


Bản đồ năng lượng gió ở Đông Nam Á

Với số lượng lớn nhất thế giới các loại khí nhà kính, Trung Quốc gần đây đã cam kết giảm phát thải vào năm 2030 bằng cách dùng ít than đá và nhiều năng lượng tái tạo hơn. Vì điện bởi các con đập hạ lưu sông Mekong chủ yếu là xuất khẩu sang Thái Lan và Việt Nam cũng như lượng điện cung cấp cho các quốc gia này là khá khiêm tốn (7000 MW cho Thái Lan và 5000 MW cho Việt Nam vào năm 2020), việc triển khai năng lượng tái tạo ở hạ nguồn sông Cửu Long cũng có thể là một lựa chọn khả thi và bền vững. Với chi phí giảm nhanh chóng, năng lượng gió và mặt trời có thể cạnh tranh với thủy điện. Thay vì xây dựng đập Don Sahong với công suất chỉ có 260 MW, nhà máy năng lượng mặt trời hay gió với sản lượng điện tương tự chắc chắn sẽ ít tốn kém hơn. Một nghiên cứu bởi Ngân hàng Thế giới (World Bank) đã cho biết các ngọn núi của miền Trung và Nam Việt Nam, Trung Lào và miền trung và miền tây Thái Lan là những địa điểm tốt cho năng lượng gió (Ngân hàng Thế giới, 2001). Hơn nữa, nhà máy điện gió và năng lượng mặt trời không đòi hỏi những vùng đất rộng lớn và tái định cư của hàng ngàn người dân địa phương. Chúng cũng không gây ảnh hưởng bất lợi về thủy sản cũng như sản xuất lúa gạo ở các nước hạ nguồn.

▪ Chiến lược thay thế cho phát triển kinh tế bền vững

Phát triển kinh tế thường được trích dẫn là một lý do chính cho việc xây dựng các đập thủy điện. Đây là những quan tâm chính đáng vì các đập thường được xây ở những vùng nghèo và kém mở mang. Gần đây chúng tôi đã đề xuất công nghiệp nhẹ như một cách chiến lược bền vững cho phát triển kinh tế ở các nước có thu nhập thấp (Hinh Đinh et al., 2014). Dựa trên các nghiên cứu bởi các chuyên gia của Ngân hàng Thế giới, công nghiệp nhẹ như dệt may, làm đồ nội thất và làm đồ gỗ đã tạo nên các phép lạ kinh tế ở Trung Quốc, Hàn Quốc và Đài Loan. Nó có khả năng tạo ra hàng ngàn việc làm một cách nhanh chóng mà không cần đầu tư số vốn lớn và ít tác động môi trường. Không giống như các công việc tạm do xây dựng đập, việc làm của công nghiệp nhẹ lâu dài hơn và có thể cứu hàng triệu người lao động có tay nghề thấp ra khỏi đói nghèo. Các việc làm này thích hợp cho các nước có thu nhập thấp như Campuchia và Lào.

▪ Vai trò đặc biệt của Tăng già

Vì các nước và các dân tộc dọc theo sông Cửu Long đa số là Phật tử, Tăng đoàn có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc chuyển đổi việc xây dựng các đập qua năng lượng sạch, tái tạo cũng như công nghiệp sản xuất nhẹ. Ở những nước Nam truyền (Campuchia, Lào, Myanmar và Thái Lan), Tăng đoàn có ảnh hưởng rất lớn trong xã hội. Tăng đoàn có thể sử dụng ảnh hưởng của mình để hướng dẫn các chính phủ trong việc áp dụng các chính sách đúng đắn. Quan trọng hơn, họ có thể giáo dục các tín đồ và công chúng nói chung về chi phí và tác động môi trường của các đập, và những lợi ích của năng lượng sạch, tái tạo và công nghiệp nhẹ. Tất cả các Phật sự này sẽ cho quả báo tốt vì, theo một câu nói nổi tiếng ở Việt Nam, "cứu một mạng người hơn xây bảy cảnh phù đồ"!

▪ Kết luận

Các đập thủy điện, ở Vân Nam và hạ nguồn sông Cửu Long, gây ra thảm họa xã hội, kinh tế và môi trường, ngay cả ở trong nước và ở các nước hạ nguồn, đặc biệt là Campuchia và Việt Nam. Sự sống còn của các quốc gia này cũng như đời sống của hơn 65 triệu người đang bị đe dọa. Hầu hết các dự án đập đã không mang lại lợi ích kinh tế đáng kể khi so sánh với chi phí khổng lồ và các tác động xấu đến môi trường. Các nước thượng nguồn cần phải nhận ra rằng sông Cửu Long không chỉ cho họ mà còn cho những người sống ở hạ lưu. Giáo lý Phật giáo như lý duyên khởi đòi hỏi sự hiểu biết lẫn nhau, hợp tác toàn diện, tôn trọng lợi ích và mối quan tâm của người khác. Từ bi bao gồm cả con người và động vật, đặc biệt là các loài cá đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng. Tất cả các nước, trong đó có thượng nguồn Trung Quốc và Myanmar, phải hoàn toàn hợp tác và tuân thủ đúng các thủ tục của Ủy ban sông Mekong. Một thay thế khả thi và bền vững đối với các đập là năng lượng mặt trời và gió. Công nghệ nhẹ cũng đã được đề xuất như là chiến lược khả thi để phát triển kinh tế. Các nước và các dân tộc dọc theo sông Cửu Long đa số là Phật tử, Tăng đoàn có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc tác động các chính sách của chính phủ, giáo dục công chúng về các chi phí và tác động môi trường của các đập và lợi ích của năng lượng sạch và tái tạo. Những nỗ lực này có thể giảm thiểu xung đột trong tương lai, các thảm họa kinh tế và môi trường và dòng sông Phật giáo sẽ tránh được một cái chết khủng khiếp trong một tương lai rất gần!

* Xem tiểu sử của tác giả

_________________

THAM KHẢO

Hillary Rodham Clinton, 2012. Phát biểu tại Friends of Lower Mekong Ministerial, Lần thứ hai, Phnom Penh, Campuchia, ngày 13 tháng 7, 2012. http://www.state.gov/secretary/... /2012/07/194957.htm

Hinh T. Đinh, Van Thai và Khanh T. Tran, 2014. Các mục tiêu MDGs và sản xuất nhẹ: Chiến lược phát triển kinh tế ở các nước có thu nhập thấp. Trình bày tại Hội nghị của Liên Hợp Quốc Vesak (UNDV), Chùa Bái Đính, Việt Nam. http://daophatngaynay.com/... Manufacturing_695605757.pdf

Ian Baird G., 2011. Đập Don Sahong: Tác động tiềm năng di cư của cá trong khu vực, sinh kế và sức khỏe con người. Nghiên cứu Châu Á, Tập 43, số 2, 2011. http://polisproject.org/... _Don%20Sahong.pdf

Sông ngòi Quốc tế, 2007. Phát thải khí nhà kính từ các đập thủy điện. http://www.internationalrivers.org/... emissions-from-dams-faq-4064

Khanh Tran T., 2014. Vận động bỏ than đá: Một phong trào phi chính phủ để chận đứng hâm nóng toàn cầu. Trình bày tại Hội nghị Liên Hợp Quốc Vesak (UNDV), Chùa Bái Đính, Việt Nam. http://daophatngaynay.com/... Beyond_coal_campaign_877271545.pdf

Ủy ban sông Mekong, năm 2014. Hội nghị Tư vấn về dự án Don Sahong. http://www.mrcmekong.org/... public-consultation-on-don-sahong-hydropower-project/

Ủy ban sông Mekong, 2012. Vận chuyển, xử lý và lưu trữ hàng hóa nguy hiểm dọc theo sông Cửu Long - Tập 1: Phân tích rủi ro.http://www.mrcmekong.org/assets/... /NAP-Risk-Analysis-Vol-I-Full-report.pdf

Richard Cronin và Timothy Hamlin, 2010. Mekong: Đập thủy điện , an ninh con người và ổn định khu vực. The Henry L. Stimson Center, Washington, DC. http://www.stimson.org/images/uploads/research-pdfs/Mekong_Tipping_Point-Complete.pdf

Scott WD Pearse-Smith, 2012. Phát triển thủy điện hạ lưu sông Mekong và trao đổi giữa các ngành truyền thống và hiện đại: 'bỏ cái cũ, lấy cái mới'. Tạp Chí Châu Á-Thái Bình Dương, Tập 10, Số 23, số 1, tháng 4, 2012. http://www.japanfocus.org/site/make_pdf/3760

Ngân hàng Thế giới, Chương trình Năng Lượng Châu Á, 2001. Năng lượng gió của khu vực Đông Nam Á.http://siteresources.worldbank.org/... /wind_atlas_ch1-6.pdf

Ủy ban Thế giới về Đập, 2000. Đập và phát triển: Một khuôn khổ mới để quyết định . http://www.unep.org/dams/WCD/... /WCD_DAMS%20report.pdf

Death of the Mekong, River of Buddhism

Khanh T. Tran, AMI Environmental, USA

This article was presented at the United Nations Day of Vesak (UNDV) Conference from May 27-30, 2015 in Bangkok, Thailand. The Bangkok Declaration of the Conference has explicitly mentioned the Mekong river and has urged all nations in the ASEAN community and neighboring nations to work together to find a solution to the dire situation of the Mekong river and its fragile ecological system. The Mekong issues will also be presented to the UN General Assembly.

Introduction

From its origin in the high plateau of Tibet, the Mekong river is 4500 km long and the 12th longest river in the world, flowing through six countries that include China, Myanmar, Thailand, Laos, Cambodia and Vietnam. Through its long course, the river is known as Lancang in China, Mekong in Myanmar, Laos and Thailand, and finally as River of Nine Dragons because it flows out to sea through nine estuaries in south Vietnam. True to its name (Mekong means Mother River in Laotian), the Mekong river is the lifeline to more than 65 million inhabitants, mainly in downstream countries of Laos, Thailand, Cambodia and Vietnam. The majority of these inhabitants are Buddhists and all three major Buddhist traditions are practiced: Theravada in Myanmar, Thailand, Laos and Cambodia; Mahayana in China and Vietnam; and Vajrayana in Tibet. Hence, the Mekong is called the “River of Buddhism”. Most residents along the river are poor fishermen living off the river fish catch or poor farmers using the river water and rich silt to grow rice. They also use the river as their principal means of transportation. In the next two decades, the number of the basin inhabitants is expected to increase to over 100 millions. Their daily life is constantly threatened by floods, deforestation, pollution as well as ill-planned development projects. The biggest threat to their livelihood is the gigantic hydroelectric dams built or planned in Yunnan Province and the smaller dams in Laos and on the Lower Mekong. Moreover, the Chinese have cleared and enlarged the river as a navigation channel for large commercial boats including oil transport vessels. These development projects cause serious economic and environmental consequences in countries within the river basin. All these environmental effects will be worsened by global warming in coming years (Khanh Tran, 2014). In going ahead with these hydropower projects, upstream countries have not considered the interests and concerns of downstream countries. They may be the causes for conflict, political crisis and even war in the near future. Even the survival of the river may be in serious doubt in the next few decades. The remaining sections will discuss the dams and their environmental effects, and a Buddhist-inspired response to ensure the peaceful and sustainable development of the river resources.

Exploiting the River



In the last twenty years, there has been an active program to build several dams for hydroelectric power on the Mekong river. (Richard Cronin, 2010; Scott Pearse-Smith, 2012). As of 2014, there are 26 dams on the mainstream, 14 on the Lancang river (the name of Upper Mekong in China) in the Yunnan Province of China and 12 on the Lower Mekong. China has built a cascade of large dams on the Lancang, beginning with the Manwan in 1993 with an electrical output of 1500 MW. The Dachaoshan dam was completed in December 2002 with an output of 1350 MW, a height of a 30-story building and a water reservoir of 88 km in length. Next was the Xiaowan dam, with an output of 4200 MW and a reservoir of 169 km in length and a cost of 4 billion USD. This dam is the tallest in the world, with a height of 300 m similar to a 100-story building. The largest and most expensive dam (about $10 billion USD) on the Mekong so far, the Nuozhadu, was completed in 2014 with a height of 261 m, a reservoir of 226 km long and an output of 5850 MW. At least eight other big dams are also planned by the Chinese.

Starting in 2006, companies from Thailand, Malaysia, and China have conducted feasibility studies of 12 run-of-river dams in the Lower Mekong Basin. Among these dams, Xayaburi is considered the first mainstream dam located in Laos and outside of China’s borders. With an output of 1260 MW and a total investment costs of $3.5 billion USD, it is funded by four major Thai banks and a Bangkok-based company, Ch. Karnchang, is the builder. In October 2013, the Lao government notified the Mekong River Commission (MRC) of its decision to build the second mainstream dam Don Sahong. It is a run-of-river dam located near the Khone Waterfall in the Siphadone area of Champasak Province of southern Laos, only 2 km from the Laos-Cambodia border. Its output is to be small at only 260 MW, with a height of 30m and a width of only 100m. The dam would block the Hou Sahong channel, the main channel for fish migrating between Cambodia, Laos and Thailand year around. This channel is especially important in the dry season when most other channels become impassable due to low water levels. The disruption of fish migrations through blocking of this vital channel means the destruction of vital subsistence and commercial fisheries in the Lower Mekong Basin. In spite of intense and wide protests, the Lao government still intends to pursue the dam construction. The Mekong River Commission (MRC) has recently announced that a regional public consultation meeting for interested stakeholders on the Don Sahong Hydropower Project will occur on 12 December 2014 in Pakse, Lao PDR (MRC, 2014).

In 1866, a French expedition team was led by Doudart de Lagrée and Francis Garnier to sail upstream the Mekong. The French team was stopped by the underwater rocks and rapids in Upper Laos. In recent years, China has completed the dredging of the river and clear the underwater rocks and rapids on a 300-km stretch of the river, from the Burmese-Chinese border to Laos to facilitate the travel by large boats. Commercial boats larger than 100 MT can travel from the port of Simao in Yunnan to other ports in neighboring countries. Of particular note are the oil transport vessels since they pose severe dangers of oil spills which can quickly devastate the entire Mekong ecosystem (MRC, 2012).

Environmental Effects

Dam builders in China and Laos have stated that all the above hydroelectric and navigational development projects should bring large benefits to the countries downstream. They have also maintained that any ecological and environmental effects, if existed, are minimal. The hydroelectric dams should alleviate the flooding problem during the monsoon season and the drought problem during the dry season. Turning the river into a shipping channel should also increase trade between China and other neighboring countries and bring prosperity to all. These development projects are often conducted in secrecy and little details are known. The dam builders frequently minimize or hide all adverse environmental impacts.



Contrary to the findings of the builders, hydroelectric dams cause severe economic and environmental disasters, affecting the lives of millions in countries downstream. Mekong floods occur annually from June to October and hundreds have lost their life. Most of the flood victims are children who die of drowning due to lack of supervision by older members of their family. There are signs that the Yunnan dams have increased the flood intensity. Since the water reservoirs have been full, the dams have released excess water that further raised the floodwater level of the Mekong. The number of flood victims and damages to crops and homes have increased in Cambodia, Thailand and elsewhere.



During the dry season, the Mekong water level is markedly low because only the glaciers in Tibet and Yunnan remain the water sources. The average flow rate decreases from 50000 m3/s during the rainy season to only 2000 m3/s during the dry months. The dry season normally lasts from November to May. If the upstream dams do not release water because of drought or water needs of the reservoirs, serious consequences can occur downstream. All downstream countries will be affected by saltwater intrusion, and rice fields in many places will have to be abandoned because of saltwater or lack of water for growing crops.



In addition to changing the water levels and the natural cycles of the Mekong, water reservoirs at the dams retain the rich sediment. Lacking water and rich silt will render the rice fields downstream less fertile. Rice production will decrease drastically, especially in the Mekong delta of Vietnam. In the first ten years of Manwan Dam’s operation, the annual mean sediment trapped by the Manwan Dam alone was estimated to be about 35% of total sedimentation transported from Lancang Basin to Lower Mekong. The amount of rich silt may decrease up to 50% because of the dams. This will cause large crop losses since the Mekong delta is the main rice producing area of Vietnam. It accounts for 50% of total annual production of 28 MT and 90% of export of 7 MT. The delta also accounts for 60% of fish and seafood exports from Vietnam. This will affect millions of people in the Lower Mekong Basin and elsewhere, as far as Africa due to reduced rice and fish export.

While rice fields downstream lack the rich sediment, the dams in Yunnan are silted up. The rate of silt flowing into the Manwan dam has doubled compared to initial estimates. One of the reasons that the Chinese have used to justify the building of the Xiaowan dam is that this dam is upstream of the Manwan dam and, therefore, can reduce the amount of silt flowing into the Manwan dam. Nevertheless, the Xiaowan dam and all other dams will be filled by silt in the next few decades. All water reservoirs will become vast and useless wastelands! On average, the useful life of each dam will be shortened to about 20 years, compared to the initial estimate of 70 years.

With 1245 fish species, the Mekong is the second river in the world with the most fish species, just behind the Amazon in South America. Among these are rare species like the giant catfish weighing up to 300 kg and the river dolphin. Each year about two million metric tons (MT) are caught in downstream countries. Lake Tonle Sap in Cambodia alone has produced 400000 MT. The Lower Mekong dams are small in terms of power output relative to the Chinese dams, yet their ecological effects may even be larger. The section of the Mekong at the Khone Waterfall where the Don Sahong dam (with a tiny output of 260 MW) will be located is considered as the vital point of the entire ecosystem of the Mekong basin. Right at the foot of the Khone Waterfall, one can find a congregation of the largest variety of fresh water fish not only in Southeast Asia but also in the whole world. Many independent fisheries experts conclude that the dam would have a serious impact on fish migration as the channel is the only one within the Khone Falls complex that is passable to migratory fishes in the dry season, and the major migration channel year round (Ian G. Baird, 2011). Of particular note are the risks to the survival of the Irrawaddy dolphins that only 85 are known to survive along this stretch of the river.

The Yunnan, Lower Mekong and other dams modify the water levels, temperature and cycles of the Mekong river. All these changes adversely affect the birth and growth of all fish species. Dredging the river also makes its water flowing faster and cause the erosion of the river banks. Underwater rocks that are currently prime breeding sites for fish have been destroyed. Several fish species will disappear because they cannot adapt to the unnatural changes. Fishermen in several locations along the Mekong have already complained that their fish catch has drastically been reduced in recent years. This is an adverse impact affecting the livelihood and health of millions of people in Cambodia, Laos and Vietnam since fish is their primary source of protein.

The Chinese government initially stated that the Upper Mekong dams are to provide power and economic prosperity to the Yunnan Province which is a relatively poor area. Contrary to this initial statement, electrical power generated by these dams is used by large cities and industries on the Eastern coast. Similarly, electricity from the Lao dams is to be sold to Thai users. In addition to serious ecological effects shown above, dams and their reservoirs can cause earthquakes. They also emit large amounts of greenhouse gases which cause global warming, mainly methane from decaying vegetation and soil (International Rivers, 2007). Methane is known to be about 25 times more potent than carbon dioxide (CO2). According to scientific studies, e. g. those from Brazil National Institute for Amazon Research (INPA), a hydropower plant has more global warming impact per kwh than a coal-fired power plant! Costing about $10 billion USD, the new Nuozhadu dam only replaces 9 million tons of coal burned per year, a tiny amount compared to the 3 billion tons of coal used by China in 2010. Even the smaller Xayaburi dam is estimated to cost around $3.5 billion USD, a large financial investment for the small economy of Laos (2013 GDP is $11.14 billion USD). Thus, contrary to popular beliefs, HYDROPOWER IS EXPENSIVE and NOT CLEAN! This important finding is consistent with a study completed in November 2000 by the World Commission on Dams (WCD, 2000). This study has found that most big dam projects in the world have not resulted in any economic benefits when compared to the construction costs, the resettlement of people and adverse environmental impacts. In July 2012, US Secretary of State Hillary Clinton had urged a delay and further study of the Xayaburi dam (Hillary Clinton, 2012). She even stated that the US had made many mistakes in water projects and called on the Mekong nations to learn from the US experience, offering to help fund scientific studies on the impact of the proposed dams. She stated that “We’ve learned some hard lessons about what happens when you make certain infrastructure decisions and I think that we all can contribute to helping the nations of the Mekong region avoid the mistakes that we and others made.”



A Buddhist Response

Starting from its origin in Tibet, the countries and peoples along the Mekong river are predominantly Buddhist. All three major Buddhist traditions are practiced by its inhabitants: the Theravada tradition in Cambodia, Laos, Myanmar and Thailand; the Mahayana tradition in China and Vietnam; and the Vajrayana tradition in Tibet. Despite some differences, all traditions share the same following basic Buddhist teachings:
The Four Noble Truths,
The Eightfold Noble Path,
The Three Poisons,
The Middle Way,
The Dependent Origination,
The Five Precepts,
Karmic Retribution and
Buddhist Virtues (non-violence, loving-kindness, compassion, joy and equanimity)

The three poisons, mainly greed and ignorance, are the fundamental causes of the environmental crises and conflicts on the Mekong. Greed in monetary profits and other economic gains has fueled the construction of dams. For the Lao dams, profit is the sole motive since the generated power will be sold to Thai users and the large loans required for building the dams are huge investments in a tiny economy such as Laos. In any case, this monetary gain is highly uncertain as the recession in recent years has depressed electricity demands. Ignorance or delusion cause us to think the permanence of all things, to misuse natural resources and to ignore the serious environmental effects. In the last three decades, China has adopted the policy of economic development at all costs and has now realized that this unwise policy has severely polluted its air, water and environment. The dams may have offered some short-term economic benefits to the local economies (e.g., construction jobs, large investments) but these are far outweighed by the long-term sufferings of thousands who had to resettle (e.g., 43000 people resettled for building the Nuozhadu dam) and millions of poor fishermen and rice farmers who become even poorer due to reduced harvests. Dams have created widespread suffering, especially in downstream countries.

Since upstream countries are reaping all benefits and downstream countries are suffering most, if not all, environmental impacts, conflicts and even wars may arise. The Mekong conflicts can be resolved by applying the principle of dependent origination. Whether upstream or downstream, we have to realize that we live in an interconnected and interdependent world where anyone’s actions, however small, will affect everybody else and the planet as a whole. In recent years, well-known Buddhist virtues such as compassion and loving-kindness have also been proposed as response to global warming and other environmental crises (Khanh Tran, 2014). These virtues, together with sympathetic joy and equanimity, are the fundamental qualities of a Bodhisattva who vows to work tirelessly to liberate all other sentient beings from suffering. Sentient beings include not only humans but also animals, such as the giant catfish and river dolphins that are facing extinction, and the environment in general.

The Mekong conflicts between upstream and downstream countries remind us of the dispute over water rights of the Rohini river between the Sakya and Koliya clans in Buddha’s time. Buddha had intervened in this dispute which arose from the suspicions of an unequal distribution of river water. He had resolved it peacefully by asking the involved parties whether human lives lost due to war would be more valuable than the river water. Buddha spoke thus: “Great kings, ministers, commanders, soldiers why do you want to fight and kill each other, for a petty matter like the distribution of water. If I did not visit you today, you would have set flowing Rohini - A River of Blood. You have acted in an unbecoming manner. You live in enmity. You'll all indulging in the five kinds of hatred. Look at me. I live free from hatred. Both parties in the warpath, live with evil passion. Therefore, do not hate each other. Live as Peace loving people. Hatred will not take you anywhere. Be compassionate and be kind to all” (fromhttp://enews.buddhistdoor.com/en/news/d/28739).

Strategy for Sustainable Hydropower Development

As mentioned above, upstream countries often minimize the environmental impacts of the dams and largely ignore the interests and concerns of downstream countries. Thus, extensive communication and cooperation between countries are required for sustainable development. An objective evaluation of the project requires a comprehensive environmental assessment (EA) which openly and accurately presents the costs and benefits as well as environmental impacts. This environmental assessment needs to consider inputs from all stakeholders, from dam builders to local farmers/fishermen and downstream countries. It is to be performed transparently and objectively by third-party consultants that are not biased and well-known for their expertise. Environmental impacts of the proposed dam project at all levels (local, national and trans-boundary), its costs and benefits, mitigation measures and project alternatives should be fully analyzed in the EA. All four downstream countries (Thailand, Laos, Cambodia and Vietnam) are members of the Mekong River Commission (MRC), while the two upstream countries (China and Myanmar) have refused to join but have frequently sent in observers. According to the 1995 Mekong Agreement, any development project is subject to the MRC Procedures for Notification, Prior Consultation, and Agreement. Under this agreement, the host country for the project should notify and consult the governments of the other signatories. Thus, it is recommended that all countries, including China and Myanmar, strictly adhere to this MRC protocol. This will minimize the suspicions between countries and seriously consider the interests and concerns of all parties. The MRC should also be granted some enforcement authority so that it can actively participate in conflict resolution.

Alternative Strategy for Sustainable Power Development

As mentioned above, dams are not cost-effective when their building costs and environmental impacts are considered. Contrary to popular beliefs, they are also not a source of clean energy, since they generate substantial amounts of greenhouse gases. Thus, a sustainable approach would be to develop renewable energy sources which are truly clean such as wind and solar energy. These clean renewable energy sources do not suffer the severe environmental effects of the dams. As the world largest emitter of greenhouse gases, China has recently committed to reducing its emissions of greenhouse gases by 2030 by using less coal and more renewable energy. Since power generated by the Lower Mekong dams is primarily exported to Thailand and Vietnam and the electricity amounts to be supplied to these countries are rather modest (7000 MW to Thailand and 5000 MW to Vietnam by 2020), the deployment of renewable energy in the Lower Mekong basin can also be a viable and sustainable option. With costs rapidly decreasing, wind and solar plants offer competitive alternatives to dams. Instead of building the Don Sahong dam with an output of only 260 MW, solar and wind plants with the same power output will certainly be much less expensive. A modeling study conducted for the World Bank Asia Alternative Energy program has shown that good sites for wind energy are available in the mountains of central and southern Vietnam, central Laos, and central and western Thailand (World Bank, 2001). Moreover, wind and solar plants do not require vast lands and the resettlement of thousands of local peoples. They also do not cause adverse impacts on fisheries as well as rice production in downstream countries.

Alternative Strategy for Sustainable Economic Development

Economic development is often cited as a primary reason for building the dams. These economic concerns are certainly legitimate since the regions where the dams are located are mainly poor and economically depressed. We have recently proposed light manufacturing as a sustainable approach for economic development in low-income countries (Hinh Dinh et al., 2014). Based on studies conducted by experts at the World Bank, light manufacturing such as textile, furniture and wood working has been shown to be responsible for the economic miracles in China, Korea and Taiwan. It has the potential of creating quickly thousands of jobs without large capital investment and extensive environmental impacts. Unlike temporary jobs created by dam construction, light manufacturing jobs are long lasting and can lift millions of low-skilled workers out of poverty. It certainly is appropriate for low-income countries such as Cambodia and Laos.

Special Role of the Sangha

Since the countries and peoples along the Mekong river are mainly Buddhists, the Sangha can play an important role in shifting the construction of dams to clean, renewable energy and light manufacturing. In countries with Theravada tradition (Cambodia, Laos, Myanmar and Thailand), the Sangha has enormous influence in respective societies. It can use its influence to guide the government in adopting the right policies. More importantly, it can educate its lay devotees and the general public about the costs and environmental impacts of dams, and the benefits of clean, renewable energy and light manufacturing. All this Buddha’s work can be done for good karmic retribution since, according to a popular Vietnamese saying, “saving a life is worth more than building seven temples”!

Conclusions



The hydroelectric dams, both in Yunnan and the Lower Mekong basin, cause severe social, economic and environmental disasters, both locally and in downstream countries, especially Cambodia and Vietnam. The survival of these countries along with the livelihood of over 65 million people are threatened. Most dam projects have not brought any significant economic benefits when compared with their enormous costs and the adverse environmental impacts. Upstream countries need to realize that the Mekong river is not only for upstream countries but also for downstream ones. The Buddhist teaching of dependent origination requires mutual understanding, full cooperation, respect of interests and concerns of others. Compassion covers both humans and animals, especially the fish species that are facing extinction. It is recommended that all countries, including upstream China and Myanmar, fully collaborate and strictly adhere to the Mekong River Commission procedures. A viable and sustainable alternative to dams is solar and wind energy. Light manufacturing has also been suggested as the viable strategy for economic development. Since the countries and peoples along the Mekong are mainly Buddhists, the Sangha can play an important role in influencing the government policies and educating the general public about the costs and environmental impacts of dams and the benefits of clean, renewable energy. Only through these efforts can future conflicts, economic and environmental disasters be avoided and the River of Buddhism can be spared of a terrible death in a very near future!

REFERENCES

Hillary Rodham Clinton, 2012. Remarks at the Second Friends of the Lower Mekong Ministerial, Phnom Penh, Cambodia, July 13, 2012. Available at http://www.state.gov/... /2012/07/194957.htm

Hinh T. Dinh, Van Can Thai and Khanh T. Tran, 2014. The MDGs and Light Manufacturing: A Strategy for Economic Development in Low-Income Countries. Presented at the 2014 United Nations Day of Vesak (UNDV) Conference, Vietnam.http://daophatngaynay.com/vn/... The_Mdgs_And_Light_Manufacturing_695605757.pdf

Ian G. Baird, 2011. The Don Sahong Dam: Potential Impacts on Regional Fish Migrations, Livelihoods, and Human Health. Critical Asian Studies Volume 43, Issue 2, 2011. http://polisproject.org/PDFs/Baird%202009_Don%20Sahong.pdf

International Rivers, 2007. Greenhouse Gas Emissions from Dams. http://www.internationalrivers.org/... emissions-from-dams-faq-4064

Khanh T. Tran, 2014. Beyond Coal Campaign: A NGO/Grassroots Movement to Stop Global Warming. Presented at the 2014 United Nations Day of Vesak (UNDV) Conference, Vietnam. http://daophatngaynay.com/vn/... Beyond_coal_campaign_877271545.pdf

Mekong River Commission, 2014. Regional Consultation Meeting on the Don Sahong Project.http://www.mrcmekong.org/news-and-events/... don-sahong-hydropower-project/

Mekong River Commission, 2012. Carriage, Handling and Storage of Dangerous Goods along the Mekong River – Volume 1: Risk Analysis. http://www.mrcmekong.org/assets/Publications/... Risk-Analysis-Vol-I-Full-report.pdf

Richard Cronin and Timothy Hamlin, 2010. Mekong Tipping Point: Hydropower Dams, Human Security and Regional Stability. The Henry L. Stimson Center, Washington, DC. http://www.stimson.org/images/... /Mekong_Tipping_Point-Complete.pdf

Scott W. D. Pearse-Smith, 2012. Lower Mekong Basin hydropower development and the trade-off between the traditional and modern sectors: ‘Out with the old, in with the new’. The Asia-Pacific Journal, Vol. 10, Issue 23, No 1, June 4, 2012.http://www.japanfocus.org/site/make_pdf/3760

World Bank Asia Alternative Energy Program, 2001. Wind Energy Resource Atlas of Southeast Asia. Available athttp://siteresources.worldbank.org/... /wind_atlas_ch1-6.pdf

World Commission on Dams, 2000. Dams and Development: A New Framework for Decision-Making. Available at:http://www.unep.org/dams/WCD/report/WCD_DAMS%20report.pdf

ĐỊA PHƯƠNG CHÓ



Nguyễn Thị Hải Hà



Hôm trước đọc trên lốc của một bạn, thấy có một người đi ăn trộm chó. Con chó trốn thoát về nhà. Người ấy lại đến bắt trộm chó lần nữa. Lần này thì con chó bị giết làm thịt. Sau đó kết quả là người ăn trộm bị bắt bị đánh. Người ta đòi giết người ăn trộm chó.


Tại sao người Việt ăn thịt chó?


Lúc mới qua Mỹ, đọc báo thấy có người (Mỹ) tức giận mấy con sóc (squirrel) phá hoại cây cối trong vườn đã đặt bẫy sóc. Có người nhìn thấy báo cảnh sát. Thế là người ấy bị kêu ra cảnh sát, ra tòa. Hội bảo vệ thú vật biểu tình trước nhà ông ta, làm xấu hổ. Thấy vậy mình biết là mình không được làm hại cả những con thú hoang chứ đừng nói là chó mà lại là chó của người ta nuôi. Ở Mỹ có chó hoang không? Có chứ. Có người nuôi chó một thời gian, chán ghét, hay vì hoàn cảnh nào đó, mang chó đem bỏ ngoài đường cao tốc. Con chó khôn ngoan ngỡ ngàng bị chủ bỏ rơi, chạy theo xe. Người ta quay được phim đăng lên mạng. Không biết có ai bắt phạt người chủ này hay không nhưng người xem thấy tội nghiệp con chó. Hôm nọ có người dẫn chó đi rừng, thả dây xích, con chó lồng lên chạy như điên, biến mất. Chủ ngơ ngác đi tìm mặt buồn hiu. Nếu tìm không được con chó này sẽ biến thành chó hoang. Có người sẽ gọi báo cảnh sát. Người ta sẽ bắt chó đem đến một chỗ giữ thú hoang. Nếu không người nhận, không người nuôi, rồi thì con chó sẽ bị giết chết (một cách yên thấm chứ không tàn bạo hay ăn thịt.)



Tại sao người Mỹ không ăn thịt chó?


Người Mỹ không ăn thịt chó vì xã hội Mỹ không cho phép ăn thịt chó? Có luật nào ở Mỹ cấm ăn thịt chó không? Tôi biết chắc chắn là ở Mỹ, nếu người ta biết được có người giết chó, ăn thịt chó, thậm chí ngược đãi, đánh đập, bỏ đói, để chó bị bẩn sẽ bị rắc rối ngay. Rắc rối cỡ nào, ai sẽ trừng phạt những người này, và mức độ trừng phạt đến cỡ nào thì tôi không biết. Thử dùng Google để tìm hiểu, tôi biết có 44 tiểu bang không cấm ăn thịt chó nhưng tôi không biết tiểu bang nào. Chỉ thấy nói là tiểu bang New York cấm ăn thịt chó. Sống ở Mỹ lâu năm, tôi nghĩ tôi chỉ biết luật giao thông rành hơn các luật khác. Biết rành hơn những thứ luật khác ở đây không có nghĩa là tôi biết hết, biết tường tận. Chỉ biết luật giao thông giới hạn trong việc sử dụng xe thường ngày.

Có phải họ không ăn vì bị cấm không? Người Mỹ có luật lệ nào về cấm ăn thịt chó hay không? Chuyện không có gì là quan trọng nhưng đã thắc mắc thì tôi tự tìm câu trả lời.

Thường thường, hễ thấy nơi nào có bảng cấm thì biết là nơi ấy có sự vi phạm điều bị cấm. Thí dụ như đi hiking, đi rừng leo núi, trong rừng của địa phương (county park) hay của tiểu bang (state park) thấy có bảng cấm trượt băng trên một cái hồ cạn hay đầm lầy, tôi đoán là mùa đông người ta trượt băng ở đây, đã từng có tai nạn. Những bảng cấm như thế, là để bảo vệ người sử dụng rừng, và cũng để bảo vệ chính quyền. Nếu người ta vi phạm điều cấm, họ không thể kiện tụng chính quyền.

Có khi tôi thấy bảng cấm ngồi ăn trong xe, thường thì gặp bảng cấm này ở chung quanh tiệm fast food. Thấy vậy thì biết người ta có ngồi ăn trong xe.

Nhưng tôi chưa hề thấy bảng cấm bán thịt chó, hay cấm ăn thịt chó. Nghĩ cho cùng, khó mà cấm người Mỹ một điều gì nếu không chính đáng vì họ biết quyền tự do dân chủ dành cho mỗi cá nhân. Người ta bán thịt cừu, thịt bò, thịt heo, thịt gà vịt, cá, ngỗng, thỏ, gà tây, chim cút nhưng không ai bán thịt chó. Tại sao?

Đôi khi tôi tự hỏi người Mỹ có ăn thịt ngựa, thịt trâu không? Những người thích săn bắn chắc là ăn thịt nai. Mình không biết, nhưng thầm lén chắc thế nào cũng có người Mỹ ăn thịt chó. Người Mỹ sang Việt Nam có lẽ cũng có người ăn thịt chó. Chuyện gì cũng có thể xảy ra dưới ánh mặt trời, và kể cả khi không có ánh mặt trời. Ngay cả ăn thịt người thỉnh thoảng báo chí Mỹ cũng đăng, và tiểu thuyết Mỹ cũng có vài quyển nổi tiếng vì nhân vật ăn thịt người (thí dụ như the Silence of the Lambs). Thịt người mà còn có kẻ ăn thì nói gì thịt chó.

Có phải vì nước Mỹ giàu có, họ có nhiều thứ để ăn nên không ăn thịt chó? Họ không ăn vì chê chó bẩn hay là vì họ không đủ nhạy bén để khám phá cái ngon của thịt chó? Người theo đạo Hồi chê con heo bẩn không ăn. Người theo đạo Do Thái không ăn shellfish và một số loại cá. Phải chăng vì phong tục tập quán bắt nguồn từ xa xưa, và người ta sống theo thói quen nên không ăn chó? Chẳng những họ không ăn thịt chó mà họ còn yêu thương chó, mèo như những người bạn nhỏ.

Tôi đọc sơ sơ quyển Law 101 Everything You Need to Know about the American Legal System của Jay M. Feinman không thấy nói gì về luật lệ đối với thú vật, tuy nhiên Wikipedia có một trang nói về Animal Law. Animal Law xuất hiện hầu như cùng lúc với environmental law chỉ chừng ba mươi năm gần đây. Đọc trang này xong tôi tìm được hai quyển “The Animal Rights Debate – Abolition or Regulation?” của Gary L. Francione và Robert Garner; và “Just A Dog – Understanding animal cruelty and ourselves” của Arnold Arluke.

Tôi không chắc tôi sẽ tìm được câu trả lời cho những thắc mắc kỳ cục của tôi, tuy nhiên, đây là bước đầu để tìm hiểu về sự khác nhau trong văn hóa ẩm thực của Việt Nam và Hoa Kỳ. Đặc biệt là món thịt chó.


Những điều thú vị chung quanh chuyện ăn thịt chó.
Người châu Âu, có nhiều đồng cỏ nên chuyên về nuôi bò, cừu, và dê. Chó khỏe, chạy nhanh, khôn ngoan, có thể giúp chủ rất nhiều trong việc lùa đàn thú về trại hay săn tìm những con thú đi lạc. Do nhiều năm tiếp xúc với chủ nhân nên tình cảm thân thiện giữa thú và người phát triển. Tuy nhiên, ra luật bảo vệ súc vật nói chung, chó nói riêng, chưa chắc đã nhân từ và người ăn thịt chó không hẳn là người dã man.

Từ năm 1986, người Đức cấm bán hay ăn thịt chó. Tuy nhiên, vào những năm có chiến tranh hay thiếu thốn, thịt chó được bán công khai. Từ năm 1898 cho đến năm 1925, The New York Times đăng nhiều tin dân Đức bán và ăn thịt chó[1]. Những bài báo này, làm tôi tự hỏi, liệu đây có phải là một hình thức người Mỹ kỳ thị người Đức vì họ là phe đối nghịch với Hoa Kỳ. Năm 1933 cho đến năm 1938, đảng Nazi cho ban hành bộ luật bảo vệ thú vật soạn thảo rất qui mô. Bộ luật này bao gồm luật sát sanh theo phép Kosher, luật cấm săn bắn, luật chuyên chở thú vật từ nơi này đến nơi khác bằng xe hay tàu hỏa. Arnol Arluke và Boria Sax cho rằng Nazi soạn bộ luật này với âm mưu sẽ xem loài người như súc vật chứ không xem súc vật như con người.[2]

Ở Hoa Kỳ, chữ dog được dùng để chỉ sausage (thịt dồi, xúc xích). Vào năm 1845 người ta phát hiện trong thịt dồi có pha lẫn thịt chó từ đó phát xuất chữ hot dog. Việc bắt trộm chó không chỉ xảy ra ở Việt Nam mà còn ở nhiều quốc gia khác, Nhật Bản và Hoa Kỳ chẳng hạn. Những năm người ta dùng phương pháp vivisection mổ động vật có xương sống lúc đang sống để quan sát hoạt động nội tạng của động vật vẫn còn đang tiếp nhận tín hiệu của não bộ, chó thường bị bắt trộm đem bán cho các phòng thí nghiệm. Năm 1891, ở tiểu bang Indiana, môn thuốc dùng để trị bệnh lao phổi là thịt chó.

Người ta có đủ thứ niềm tin để lý luận ăn thịt chó là cần thiết. Người Ba Lan dùng mỡ chó để trị bệnh. Người Trung quốc tin là trong thịt chó có vị thuốc. Mùa Đông ăn thịt chó làm cho người ấm. Ngược lại, người Hàn quốc tin là ăn thịt chó có thể điều tiết nhiệt độ trong người, hoặc giải nhiệt. Họ ăn thịt chó nhiều nhất vào ba ngày nóng nhất trong năm.

Đa số người Nam Hàn không ăn thịt chó, nhưng có một số ít người có quan niệm chọn món ăn là quyền tự do cá nhân. Năm 1984 họ cấm bán thịt chó nhưng không kiểm soát nghiêm ngặt ngoại trừ lúc tổ chức Thế Vận Hội ở Seoul. Tháng 3/2008 một nhóm người vận động đòi được quyền công khai bán thịt chó, mở nhà hàng thịt chó nhưng không được chấp thuận. Loại chó người Nam Hàn nuôi để ăn thịt là loại chó đặc biệt thuộc giống Nureongi hay Hwangu, không phải pet.

Người miền Bắc Việt Nam ăn thịt chó nhiều hơn người miền Nam. Người ta tin là ăn thịt chó sẽ được cường dương và giải xui nhất là vào dịp cuối năm và cuối tháng âm lịch. Một con chó độ 20 kg có thể bán được 100 Mỹ kim, tương đương với một tháng lương trung bình của công nhân vì thế chó ở VN thường hay bị trộm. Không có tài liệu để kiểm chứng cụ thể, người ta nói rằng giới Công giáo thường hay ăn thịt chó nhất là vào dịp Giáng sinh. Tôi, người viết bài này, nghĩ rằng rất có thể đây là sự biến thể của nghi thức tế lễ từ thời xa xưa của người Celtic sống ở Anh đến Việt Nam theo các nhà truyền giáo. Người ta thường tế lễ bằng dê và cừu, nhưng sang đến Việt Nam thì dê và cừu biến thành nai đồng quê.

Do ảnh hưởng của Phật giáo, Thiền giáo, và Thần đạo, người Nhật không ăn thịt chó. Tuy nhiên, thịt chó rất phổ biến ở Nhật-bản mãi cho đến năm 675 sau Công Nguyên khi hoàng đế Temmu ra lệnh cấm ăn thịt chó từ tháng 4 cho đến tháng 9. Vị Hoàng đế này ra trận thường xuyên, khi đi đánh giặc ông thường mang theo con chó. Ông cho rằng ăn thịt chó sẽ mang sự xui xẻo đến cho ông. Năm 2008 nhập cảng 5 tấn thịt chó từ Trung quốc trong khi chỉ mua vào 4, 714 tấn thịt bò.

Bạn đọc thích xem phim, thế nào cũng biết phim Hachiko. Phim dựa vào câu chuyện có thật và đẹp như huyền thoại. Chủ của Hachiko là giáo sư dạy ở đại học Tokyo. Hằng ngày Hachiko theo chủ ra nhà ga Shibuya đưa ông đi làm và buổi chiều ra nhà ga đón ông về. Ông đột ngột qua đời trong lúc giảng bài (vì thế không về bằng tàu hỏa). Hachiko đợi chủ ở nhà ga hằng ngày cho đến khi qua đời, nhất định không rời nhà ga này dù vợ con của ông giáo sư tìm cách đưa chó về và dời chỗ ở. Phim này về sau được quay lại bởi đạo diễn Lasstrom và diễn viên là Richard Gere. Người ta ngưỡng mộ Hachiko đến độ đúc tượng đồng con chó này. Phim làm tôi tưởng tượng tất cả mọi người đàn ông Nhật đều đẹp trai và yêu chó như Gere vì thế hơi ngỡ ngàng khi thấy người Nhật nhập cảng thịt chó nhiều hơn thịt bò. Sau khi người Nhật đầu hàng vào năm 1945, toàn nước Nhật chỉ còn lại 16 con chó giống Akita. Đây là loại chó săn, mõm ngắn, tai vểnh, lông dày, sống ở miền bắc của Nhật, nơi gọi là xứ tuyết, rất khôn ngoan và trung thành. Vào những năm chiến tranh, thực phẩm khan hiếm, chính quyền và quân đội Nhật kêu gọi toàn dân bán chó, nộp chó, để phục vụ trong chiến tranh. Để thuyết phục người dân, tượng chó Hachiko bị hạ xuống và đem dấu đi. Bộ da chó được dùng làm lớp lót bên trong áo khoác của quân phục. Ai có chó mà không chia sẻ thịt với láng giềng bị xem là ích kỷ. Trong thời gian này chó thường bị ăn trộm hay bắt cóc.[3]

Tin một người ăn trộm một con chó hai lần để đem bán cho người ta giết lấy thịt khiến dân cư mạng bàn tán và chia thành hai phái, một bên đòi giết tên trộm, bên kia kêu lên dù gì cũng không thể lấy mạng người để trả thù cho chó. Chó có quý hơn mạng người hay không? Chó không biết nói nên mình không biết câu trả lời của nó. Giữa loài người, dù bạn đứng ở phía nào, nếu là một người có lòng nhân, trả lời câu hỏi này thế nào cũng có chút áy náy xót xa. Dĩ nhiên, tôi không đồng tình với chuyện giết người đòi mạng nhưng trộm chó là một hành động sai lầm cần phải được xét xử bằng pháp luật. Sự giận dữ của đám đông đòi xử tử người trộm chó có thể là một cách biểu lộ là người dân không còn tin tưởng vào pháp luật của chính quyền đương nhiệm. Mức độ trừng phạt phải xứng đáng với tội phạm phát nhưng như thế nào thì xứng đáng? Giá một con chó bằng một tháng lương, phạt tiền gấp đôi cộng thêm phí tổn tòa án. Mấy thằng trộm ấy làm gì có tiền mà phạt. Nhà tù ở đâu có nhiều đủ để chứa và nuôi cơm mấy tên trộm chó chứ. Ngay cả ở Hoa Kỳ, tội hành hạ súc vật cũng khó được xử lý theo đúng luật pháp vì không đủ tiền và nhân lực. Xử chuyện người còn không xuể ai hơi sức đâu mà quan tâm đến chuyện chó.

Tóm lại, không chỉ nước nghèo mới ăn thịt chó. Hàn quốc và Nhật bản là hai nước giàu mạnh về kỹ nghệ, và Nhật có truyền thống văn hóa lễ độ bậc nhất thế giới cũng tiêu thụ thịt chó. Người Mỹ không ăn thịt chó nhưng không có quyền áp đặt lên các quốc gia khác quyền tự do ăn uống. Người Việt ăn thịt chó không vì người Hàn, người Nhật, hay người Trung ăn và cũng không ăn thịt chó bởi vì bắt chước người Tây phương. Cái ý tưởng nuôi chó như nuôi cừu dê heo bò lấy thịt, thịt chó ở Việt Nam sẽ là một trong những món ngon nhất thế giới là một ý tưởng hay, có thể là một hình thức kinh doanh đắc lợi. Loài người quan niệm thú vật sinh ra là để phục vụ con người. Người ta giết gấu lấy lông lấy mật lấy bàn tay, giết voi giết tê giác lấy ngà, giết trăn và cá sấu lấy da lấy thịt. Thú vật là một kỹ nghệ lớn, chẳng những nuôi sống mà có khi còn đưa loài người đến chỗ giàu có và đầy quyền lực. Ngay cả khi yêu thú vật người ta cũng vô tình hành hạ thú vật như nhốt chim trong lồng, thiến chó thiến mèo để đoạn sản, thậm chí có người còn thuê bác sĩ thú y rút móng mèo để khỏi cào phá nệm ghế nệm giường, giết chó hoang để tránh trường hợp chó bị bệnh điên và cắn người.

Sau khi ngâm cứu loạt bài về thịt chó này tôi cũng hiểu rõ tôi hơn. Nếu thật sự yêu thú vật thì người ta nên ăn chay. Tôi không ăn chay vì vẫn còn thích ăn thịt. Tôi chưa hề ăn thịt chó nên không biết thịt chó ngon như thế nào. Có được thử món chân lợn giả cầy nhưng không thấy hấp dẫn lắm. Không thể nào biết được trước khi lâm chung tôi lại không gào thét đòi ăn một miếng thịt chó giống như một nhân vật ni cô suốt đời ăn chay lại đòi nước mắm trước khi qua đời. Với tôi, một chàng trai ôm con chó nhỏ trên tay, hay cúi người rót nước vào cái đĩa cầm trên tay cho chó uống, thấy đáng mến hơn là nhìn thấy những người mặt đỏ lựng hô hào hò hét “dzô, dzô” trước đĩa thịt chó và mắm tôm. Nếu tôi đi ngang một cửa hàng thịt chó, gia vị thơm lừng, và tôi đang đói meo thì có thể tôi sẽ cầm lòng không đậu. Bạn đọc đến đây sẽ cười bảo rằng tôi là người ba phải, nhiều trang chữ chẳng đưa đến một kết luận nào, hay đứng hẳn về phía nào. Thế viết bài này để làm gì? Để thỏa mãn tính tò mò, để biết vì sao người ta ăn hay không ăn thịt chó. Biết để làm gì. Chẳng làm gì cả. Biết thôi, bộ chẳng đủ hay sao?



[1] http://en.wikipedia.org/wiki/Dog_meat

[2] http://en.wikipedia.org/wiki/Animal_rights

[3] Sherrill, Martha, “Dog Man” – An Uncommon Life on a Farwaway Mountain, New York, The Penguin Press.



Nguyễn Thị Hải Hà

Thứ Ba, 16 tháng 6, 2015

ĐƯỜNG ĐẾN ANH EM. ĐƯỜNG ĐẾN BẠN BÈ...








 
 Duyên. Nét vẽ Đinh Cường




Có những con đường thật đẹp, tôi qua...
Đường đến anh em.
đường đến bạn bè*
Hoa ven đường, nắng long lanh. mắt.
Tim rộn ràng, gió đỡ bước chân. vui.
Lòng rộn rã, mong đường dài ngắn lại,
đưa tôi tìm về khuôn mặt cũ. mới. thân quen...
Và như thế, tôi thấy yêu cuộc đời,
bằng trái tim hồn nhiên


Đường đến anh em,
đường đến bạn bè*
Những con đường, không thể đổi tên.
đã khắc ghi trong tim của từng người,
có tôi và có bạn,
có anh chị, có em
Làm sao xoá được một điều gì,
đã giữ trong trái tim?
Thế nên,
tên đường, sẽ luôn là vĩnh cửu...


Trên đường đời có vạn lối đi...
Có gian nan, có nguy nàn,
Chúa. Phật. thử thách ta.
Có chông gai, có cạm bẫy,
của loài người?
Có thật thà, có an vui,
do lòng mình lựa chọn...


Và có con đường,
không đổi tên...


Xin mãi là anh em, xin mãi, bạn bè.
hoa mãi nở, trên ven đường, tôi đến...
cho tôi, không bao giờ, lạc mất lối đi. quen...


Duyên.


* Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui, lời nhạc Trịnh Công Sơn.