Thứ Tư, 17 tháng 6, 2015

Cái Chết Của Mekong, Dòng Sông Phật Giáo





TS Trần Tiễn Khanh, AMI Environmental, USA *





Bài tham luận này được trình bày tại Hội nghị Vesak Liên hiệp quốc từ 27-30 tháng 5 2015 tại Bangkok, Thái Lan. Bản tuyên cáo Bangkok (Bangkok Declaration) của Hội nghị đã nêu lên vấn đề Mekong và đã yêu cầu các nước trong cộng đồng ASEAN và các nước láng giềng hợp tác để giải quyết tình trạng khẩn cấp của sông Mekong và hệ sinh thái. Vấn đề Mekong cũng sẽ được đưa vào nghị trình của Đại hội đồng LHQ.

▪ Dẫn nhập

Bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng, sông Cửu Long dài 4500 km và sông dài thứ 12 trên thế giới, chảy qua sáu quốc gia bao gồm Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam. Theo dòng chảy, sông được gọi là sông Lan Thương ở Trung Quốc, Mekong ở Myanmar, Lào và Thái Lan, và cuối cùng là sông Cửu Long vì chảy ra biển qua chín cửa sông ở miền nam Việt Nam. Đúng như tên gọi của nó (Mekong có nghĩa là Sông Mẹ trong tiếng Lào), sông Mekong là nguồn sống của hơn 65 triệu dân, đa số ở các nước hạ nguồn Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam. Phần lớn các cư dân là Phật tử theo cả ba truyền thống Phật giáo: Nam Truyền ở Myanmar, Thái Lan, Lào và Campuchia; Bắc Truyền ở Trung Quốc và Việt Nam; và Kim Cương thừa ở Tây Tạng. Do đó, Mekong được gọi là "dòng sông Phật giáo"


Các đập trên sông Mekông

Hầu hết cư dân dọc theo con sông là ngư dân nghèo sống nhờ vào đánh bắt cá, hay là nông dân nghèo sử dụng nước sông và phù sa để trồng lúa. Họ cũng dùng con sông làm phương tiện giao thông và buôn bán. Trong hai thập kỷ tới, số lượng cư dân này dự kiến ​​sẽ tăng đến hơn 100 triệu. Đời sống của họ liên tục bị đe dọa bởi lũ lụt, nạn phá rừng, ô nhiễm cũng như các dự án phát triển. Hiện nay mối đe dọa lớn nhất đối với sinh kế của họ là các đập thủy điện khổng lồ được xây dựng hoặc lên kế hoạch ở tỉnh Vân Nam và các đập nhỏ hơn ở Lào và trên hạ lưu sông Mekong. Ngoài ra, Trung Quốc đã phá các thác ghềnh và mở rộng dòng sông để các tàu bè lớn có thể đi lại, kể cả các tàu vận chuyển dầu. Các dự án phát triển gây ra hậu quả kinh tế và môi trường nghiêm trọng ở các nước thuộc lưu vực sông. Tất cả những tác động môi trường sẽ được trở nên tồi tệ hơn bởi sự hâm nóng toàn cầu trong những năm tới (Khanh Tran, 2014). Với các dự án thủy điện, các nước ở thượng nguồn đã không được xem xét đến lợi ích và mối quan tâm của các nước hạ nguồn. Đây có thể là nguyên nhân dẫn đến xung đột, khủng hoảng chính trị và thậm chí chiến tranh trong một tương lai gần. Ngay cả sự tồn tại của dòng sông cũng có thể bị đe dọa nghiêm trọng trong vài thập kỷ tới. Các phần còn lại sẽ thảo luận về các đập và tác động môi trường, và một giải pháp dựa trên giáo lý Phật giáo để đảm bảo sự phát triển hòa bình và bền vững các nguồn tài nguyên của sông Mekong.

▪ Khai thác dòng sông

Trong hai mươi năm qua có một chương trình khai thác thủy điện trên sông Mekong (Richard Cronin, 2010; Scott Pearse-Smith, 2012). Tính đến năm 2014, có 26 đập thủy điện trên dòng chính, 14 đập trên sông Lan Thương (tên của thượng nguồn Sông Mekong ở tỉnh Vân Nam của Trung Quốc) và 12 đập trên hạ nguồn Mekong. Trung Quốc đã xây dựng một chuỗi đập lớn trên sông Lan Thương, bắt đầu với Manwan vào năm 1993 với sản lượng điện 1500 MW. Đập Dachaoshan được hoàn thành vào tháng 12 năm 2002 với công suất 1350 MW, chiều cao của một tòa nhà 30 tầng và một hồ chứa nước dài 88 km.


Đập NUOZHADU

Tiếp theo là đập Tiểu Loan, với công suất 4200 MW và một hồ chứa nước dài 169 km và một chi phí là 4 tỷ USD. Đập này cao nhất thế giới, với chiều cao 300 m tương đương với một tòa nhà 100 tầng. Lớn nhất và đắt giá nhất (khoảng 10 tỷ USD) trên sông Mekong cho đến nay là đập Nuozhadu, được hoàn thành vào năm 2014 với chiều cao 261 m, một hồ chứa dài 226 km và công suất 5850 MW. Ít nhất tám đập lớn khác cũng đang được lên kế hoạch ở Trung Quốc.

Bắt đầu từ năm 2006, các công ty đến từ Thái Lan, Malaysia và Trung Quốc đã tiến hành nghiên cứu khả thi của 12 đập ở hạ nguồn sông Mekong. Trong số những con đập này, Xayaburi được coi là con đập dòng chính đầu tiên nằm tại Lào và bên ngoài biên giới Trung Quốc. Với công suất 1260 MW và tổng chi phí đầu tư lên tới 3,5 tỷ USD, được tài trợ bởi bốn ngân hàng lớn của Thái Lan và công ty xây dựng có trụ sở tại Bangkok, Ch. Karnchang. Tháng 10 năm 2013, chính phủ Lào đã thông báo cho Ủy ban Sông Mekong (Mekong River Commission, MRC) quyết định xây dựng đập dòng chính thứ hai có tên là Don Sahong. Đập này nằm gần thác Khone trong khu vực của tỉnh Champasak Siphadone ở Nam Lào, chỉ cách biên giới Lào-Campuchia hai km. Công suất chỉ có 260 MW, với chiều cao 30m và chiều rộng 100m. Đập sẽ chặn kênh Hou Sahong là kênh chính cho các loài cá di cư quanh năm giữa Campuchia, Lào và Thái Lan. Kênh này đặc biệt quan trọng trong mùa khô khi hầu hết các kênh khác không còn hoạt động do mực nước thấp. Sự gián đoạn di cư của các loài cá qua các kênh quan trọng này dẫn đến sự hủy diệt của sinh hoạt thiết yếu và thủy sản trong lưu vực sông Mekong. Mặc các cuộc biểu tình dữ dội và đông đảo, chính phủ Lào vẫn có ý định theo đuổi việc xây dựng đập. Ủy ban sông Mekong (MRC) gần đây đã thông báo một cuộc họp tham vấn cộng đồng trong khu vực cho các bên quan tâm về dự án thủy điện Don Sahong xảy ra vào ngày 12 tháng 12 2014 tại Pakse, Lào (MRC, 2014).

Năm 1866, một nhóm thám hiểm Pháp gồm có Doudart de Lagrée và Francis Garnier đã đi thuyền ngược dòng sông Mekong. Các người Pháp này đã bị ngừng lại bởi những tảng đá ngầm dưới nước và ghềnh ở Thượng Lào. Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã hoàn thành việc nạo vét sông và xóa những tảng đá dưới nước và tạo một ghềnh dài 300 km, từ biên giới Miến Điện-Trung Quốc sang Lào, thuận lợi cho việc đi lại bằng thuyền lớn. Tàu thuyền lớn hơn 100 tấn có thể đi từ cảng Simao ở Vân Nam đến các cảng khác ở các nước láng giềng. Cần phải lưu ý đặc biệt là những tàu vận tải dầu vì sự cố tràn dầu có thể nhanh chóng tàn phá toàn bộ hệ sinh thái sông Mekong (MRC, 2012).

▪ Tác động môi trường

Trung Quốc và Lào đã nói rằng tất cả các dự án phát triển thủy điện và giao thông trên mang lại lợi ích lớn cho các nước hạ nguồn. Họ cũng đã khẳng định rằng bất kỳ tác động sinh thái và môi trường, nếu có, đã được giảm thiểu. Các đập sẽ giảm bớt lũ lụt trong mùa mưa và nạn hạn hán trong mùa khô. Mở rộng dòng sông thành một kênh vận chuyển sẽ tăng cường thương mại giữa Trung Quốc và các nước láng giềng và mang lại sự thịnh vượng cho tất cả. Các dự án phát triển thường được tiến hành trong vòng bí mật và rất ít chi tiết được phổ biến. Các công ty xây dựng đập thường xuyên giảm thiểu hoặc giấu kín tất cả các tác động xấu đến môi trường.

Trái với những tuyên bố của các công ty xây dựng, đập thủy điện gây ra thảm họa kinh tế và môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng đến đời sống của hàng triệu người ở các nước hạ nguồn. Lũ sông Cửu Long xảy ra hàng năm từ tháng sáu đến tháng mười với hàng trăm người bị thiệt mạng. Hầu hết các nạn nhân lũ lụt là trẻ em chết đuối do thiếu sự giám sát của người lớn tuổi trong gia đình. Có những dấu hiệu cho rằng các con đập ở Vân Nam đã tăng cường độ lũ. Khi các hồ chứa nước đã đầy, các con đập phải xả nước dư thừa và làm tăng thêm mức lũ ở hạ lưu Cửu Long. Số nạn nhân lũ lụt, thiệt hại mùa màng và nhà cửa đã tăng ở Campuchia, Thái Lan và các nơi khác.

Trong mùa khô, mực nước sông Mekong xuống thấp vì chỉ có các băng tuyết ở Tây Tạng và Vân Nam là nguồn nước chính. Tỷ lệ dòng chảy trung bình giảm từ 50000 m3/s trong mùa mưa xuống còn 2000 m3/s trong mùa khô. Mùa khô thường kéo dài từ tháng mười đến tháng năm. Nếu các đập ở thượng nguồn không tháo nước vì nhu cầu nước của các hồ chứa, hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra ở hạ lưu. Các nước hạ nguồn sẽ bị ảnh hưởng bởi sự nhập mặn và ruộng lúa ở nhiều nơi sẽ bị phế bỏ vì nước mặn hay thiếu nước để trồng trọt.

Ngoài việc thay đổi mực nước và chu kỳ tự nhiên của sông Cửu Long, các hồ chứa nước ở các đập giữ lại phù sa. Thiếu nước và phù sa sẽ làm ruộng đồng ở hạ nguồn ít màu mỡ. Sản xuất lúa gạo sẽ giảm mạnh, đặc biệt là ở vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) của Việt Nam. Trong mười năm đầu hoạt động đập Manwan Dam được ước tính đã giữ lại khoảng 35% của tổng số phù sa. Lượng phù sa có thể giảm đến 50% vì các đập thủy điện. Điều này sẽ giảm lượng sản xuất gạo ở vùng ĐBSCL là vùng sản xuất lúa gạo chính của Việt Nam. ĐBSCL chiếm 50% tổng sản lượng gạo hàng năm (28 triệu tấn) và 90% lượng gạo xuất khẩu (7 triệu tấn). ĐBSCL cũng chiếm 60% lượng tôm cá xuất khẩu từ Việt Nam. Điều này sẽ ảnh hưởng đến hàng triệu người dân ở hạ lưu sông Mekong và các nơi khác, kể cả những nơi xa như châu Phi do lượng xuất khẩu gạo và tôm cá bị suy giảm.

Trong khi ruộng đồng ở hạ nguồn thiếu phù sa, các đập ở Vân Nam được bồi lấp. Độ phù sa trôi vào đập Manwan đã tăng gấp đôi so với ước tính ban đầu. Một trong những lý do mà Trung Quốc dùng để biện hộ việc xây đập Xiaowan là đập này ở thượng nguồn đập Manwan và, do đó, có thể làm giảm lượng phù sa trôi vào đập Manwan. Tuy nhiên, Xiaowan và các đập khác sẽ bị lấp đầy bởi phù sa trong vài thập kỷ tới. Các hồ chứa nước sẽ trở thành những vùng đất hoang rộng lớn và vô dụng! Trung bình, thời gian hữu dụng của các đập sẽ bị rút ngắn xuống còn khoảng 20 năm, so với ước tính ban đầu là 70 năm.

Với 1245 loài cá, sông Mekong là con sông nhiều cá thứ hai trên thế giới, chỉ sau sông Amazon ở Nam Mỹ. Trong số này có các loài quý hiếm như cá tra khổng lồ nặng tới 300 kg và cá heo sông. Mỗi năm có khoảng hai triệu tấn được đánh bắt ở các nước hạ nguồn. Hồ Tonle Sap ở Campuchia cũng sản xuất được 400000 tấn. Các đập thủy điện ở hạ nguồn sông Mekong tuy nhỏ về sản lượng điện so với các đập của Trung Quốc, nhưng tác động sinh thái của chúng thậm chí có thể lớn hơn. Vùng Thác Khone, nơi con đập Don Sahong sẽ được xây dựng với công suất nhỏ 260 MW, được xem như là điểm quan trọng của toàn bộ hệ sinh thái của lưu vực sông Mekong.


Catfish ở sông Mekong

Ngay dưới chân Thác Khone, ta có thể tìm thấy rất nhiều loài cá nước ngọt, không chỉ nhiều nhất ở Đông Nam Á mà còn trên toàn thế giới. Nhiều chuyên gia thủy sản kết luận rằng đập sẽ có tác động nghiêm trọng đến các loài cá di cư vì đó là kênh duy nhất vào mùa khô, và quanh năm là một kênh di cư quan trọng (Ian G. Baird, 2011). Đặc biệt là sự sống còn của loài cá heo Irrawaddy vì chỉ còn 85 con được biết là tồn tại ở đoạn sông này.

Các đập Vân Nam và hạ nguồn Mekong thay đổi mực nước, nhiệt độ và chu kỳ nước sông Mekong. Tất cả những thay đổi này ảnh hưởng xấu đến sự sinh sản và phát triển của các loài cá. Nạo vét sông cũng làm cho nước sông chảy nhanh hơn và gây xói lở bờ sông. Đá ngầm là nơi sinh sản của cá đã bị phá hủy. Một số loài cá sẽ biến mất vì không thể thích ứng với những thay đổi bất thường. Ngư dân ở nhiều nơi dọc sông Cửu Long đã phàn nàn rằng lượng cá đã giảm nhiều trong những năm gần đây. Đây là một tác động có ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống và sức khỏe của hàng triệu người ở Campuchia, Lào và Việt Nam vì tôm cá là nguồn chất đạm chính của họ.

Trung Quốc ban đầu nói rằng các đập ở thượng nguồn Mekong cung cấp năng lượng và mang lại thịnh vượng kinh tế cho tỉnh Vân Nam là một khu vực tương đối nghèo. Trái ngược với tuyên bố ban đầu này, năng lượng điện được tạo ra bởi những con đập này được sử dụng bởi các thành phố lớn và các ngành công nghiệp ở miền Đông TQ. Tương tự như vậy, điện từ các đập ở Lào sẽ được bán cho Thái Lan. Ngoài ảnh hưởng sinh thái nghiêm trọng nêu trên, đập và hồ chứa còn có thể gây ra động đất. Chúng cũng thải ra một lượng lớn khí nhà kính gây ra hiện tượng hâm nóng toàn cầu, chủ yếu là methane từ phân hủy thảm thực vật và đất (International Rivers, 2007). Khí methane mạnh hơn carbon dioxide (CO2) khoảng 25 lần. Theo các nghiên cứu khoa học, ví dụ Viện Nghiên Cứu Amazon ở Brazil (INPA), nhà máy thủy điện có tác động hâm nóng toàn cầu lớn hơn nhà máy điện đốt than cho mỗi kwh! Với chi phí khoảng 10 tỷ USD, đập Nuozhadu chỉ thay thế 9 triệu tấn than đốt mỗi năm, một lượng nhỏ so với 3 tỷ tấn than dùng ở Trung Quốc trong năm 2010. Ngay cả đập nhỏ Xayaburi được ước tính trị giá khoảng 3.5 tỷ USD, một khoản đầu tư to lớn cho nền kinh tế nhỏ của Lào (2013 GDP là 11 tỷ USD). Như vậy, trái với niềm tin thông thường, thủy điện rất tốn kém và không được xem là năng lượng sạch! Phát hiện quan trọng này phù hợp với một nghiên cứu hoàn thành vào tháng 11 năm 2000 của Ủy ban Thế giới về Đập (WCD, 2000). Nghiên cứu này đã phát hiện rằng hầu hết các dự án đập lớn trên thế giới đã không dẫn đến bất kỳ lợi ích kinh tế khi so sánh với chi phí xây dựng, tái định cư cho người dân và tác động xấu đến môi trường.


Đập Xayaburi

Vào tháng bảy năm 2012, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã kêu gọi ngưng xây đập Xayaburi (Hillary Clinton, 2012). Bà còn tuyên bố rằng Mỹ đã bị nhiều sai phạm trong các dự án thủy điện và kêu gọi các quốc gia dọc dòng Mekong nên học hỏi kinh nghiệm của Mỹ. Mỹ có thể tài trợ các nghiên cứu khoa học về tác động của các đập được đề xuất. Bà nói rằng "Chúng tôi đã học được một số bài học đắt giá về những gì sẽ xảy ra khi thực hiện các quyết định về cơ sở hạ tầng và tôi nghĩ rằng tất cả chúng tôi có thể góp phần vào việc giúp đỡ các quốc gia trong khu vực Mekong tránh những sai lầm mà chúng tôi và những nước khác đã phạm phải."

▪ Một giải pháp Phật giáo

Bắt đầu từ nguồn ở Tây Tạng, các nước và các dân tộc dọc theo sông Cửu Long chủ yếu là theo Phật giáo. Các cư dân theo ba truyền thống lớn của Phật giáo: Nam truyền ở Campuchia, Lào, Myanmar và Thái Lan; Bắc truyền ở Trung Quốc và Việt Nam; và Kim Cương thừa ở Tây Tạng. Mặc dù có một số khác biệt, tất cả các truyền thống đều dựa trên các giáo lý Phật Giáo căn bản:

• Tứ Diệu Đế,

• Bát Chánh Đạo,

• Ba độc,

• Trung Đạo,

• Lý Duyên Khởi,

• Năm Giới,

• Nhân Quả và

• Đạo đức Phật giáo (bất bạo động , lòng nhân ái, từ bi, hỷ xả)

Ba độc, chủ yếu là tham lam và ngu dốt, là những nguyên nhân cơ bản của các cuộc khủng hoảng môi trường và các xung đột trên sông Mekong. Tham lam lợi nhuận và các lợi ích kinh tế khác đã thúc đẩy việc xây dựng các đập thủy điện. Đối với các đập ở Lào, lợi nhuận là động lực duy nhất vì điện sẽ được bán cho Thái Lan và các khoản nợ lớn cần thiết cho việc xây dựng các đập thủy điện là những đầu tư to lớn trong một nền kinh tế nhỏ như Lào. Lợi nhuận từ những đầu tư này cũng không chắc chắn vì suy thoái kinh tế trong những năm gần đây đã làm suy giảm nhu cầu điện. Sự thiếu hiểu biết hoặc sân si khiến chúng ta xem nhẹ sự vô thường, lợi dụng tài nguyên thiên nhiên và lờ đi các tác động môi trường nghiêm trọng. Trong ba thập kỷ qua, Trung Quốc đã áp dụng chính sách phát triển kinh tế bằng mọi giá và họ đã nhận ra rằng chính sách không khôn ngoan này đã ô nhiễm nghiêm trọng không khí, nước và môi trường. Các đập thủy điện có thể cung cấp một số lợi ích kinh tế ngắn hạn cho nền kinh tế địa phương (ví dụ, công việc xây dựng, đầu tư lớn) nhưng không thấm gì so với những đau khổ lâu dài của hàng ngàn người đã phải tái định cư (ví dụ, 43000 người phải tái định cư để xây dựng đập Nuozhadu) và hàng triệu ngư dân và nông dân nghèo, càng trở nên nghèo hơn do sản lượng thu hoạch giảm. Các đập này đã tạo ra nhiều đau khổ, đặc biệt là ở các nước hạ nguồn.

Trong khi các nước thượng nguồn được tất cả các lợi ích, các nước hạ nguồn phải chịu nhiều đau khổ, nếu không phải tất cả, do các tác động môi trường, các cuộc xung đột và thậm chí các cuộc chiến tranh cũng có thể xảy ra. Những cuộc xung đột Mekong có thể được giải quyết bằng cách áp dụng lý duyên khởi. Cho dù thượng hay hạ nguồn, chúng ta phải nhận ra rằng chúng ta đang sống trong một thế giới liên kết và phụ thuộc lẫn nhau; hành động của bất cứ ai, dù nhỏ, sẽ ảnh hưởng đến mọi người khác và ngay cả trái Đất này. Trong những năm gần đây, các giá trị đạo đức Phật giáo như lòng từ bi và lòng nhân ái cũng đã được đề xuất như là giải pháp cho sự hâm nóng toàn cầu và các khủng hoảng môi trường khác (Khanh Tran, 2014). Những đức hạnh này, cùng với hỷ xả, là những phẩm chất cơ bản của một vị Bồ-tát phát nguyện giải thoát tất cả chúng sinh khỏi đau khổ. Chúng sinh bao gồm không chỉ con người mà còn động vật, chẳng hạn như loài cá tra và cá heo sông khổng lồ đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng, và môi trường nói chung.

Các cuộc xung đột giữa các quốc gia thượng nguồn và hạ nguồn nhắc nhở chúng ta đến tranh chấp về quyền sử dụng nước sông Rohini giữa bộ tộc Sakya và tộc Koliya trong thời Đức Phật còn tại thế. Đức Phật đã can thiệp vào cuộc tranh chấp này phát sinh từ sự nghi ngờ của sự phân bố không đều của nước sông. Ngài đã giải quyết một cách hòa bình bằng cách hỏi các bên liên quan rằng những mạng người bị mất do chiến tranh có giá trị hơn nước sông hay không? Do đó Đức Phật đã dạy: "Này các vua, quan chỉ huy, binh sĩ tại sao các nguời muốn chiến đấu và giết lẫn nhau, cho một vấn đề nhỏ như phân phối nước. Nếu Ta không đến ngày hôm nay, các ngươi có thể làm sông Rohini đẩm máu. Các nguơi đã hành động một cách không thích hợp. Các nguơi sống trong thù hận. Tất cả các ngươi đã chìm sâu trong năm loại hận thù. Hãy nhìn vào Ta. Ta sống không hận thù. Cả hai bên cuộc chiến sống với lòng ác. Vì vậy, đừng ghét nhau. Sống như những người yêu hoà bình. Thù hận sẽ không giúp các ngươi đạt được gì cả. Hãy mở lòng từ bi và tử tế với mọi người" (nguồn 
http://enews.buddhistdoor.com/en/news/d/28739).

▪ Chiến lược phát triển thủy điện bền vững

Như đã đề cập ở trên, các nước thượng lưu thường giảm thiểu các tác động môi trường của các đập và phần lớn bỏ qua những lợi ích và mối quan tâm của các nước hạ nguồn. Do đó, truyền thông rộng rãi và hợp tác giữa các quốc gia cần thiết cho sự phát triển bền vững. Một đánh giá khách quan của các dự án đòi hỏi một đánh giá toàn diện về môi trường (Environmental Assessment, EA) công khai và trình bày chính xác các chi phí và lợi ích cũng như tác động môi trường. Đánh giá môi trường này cần phải xem xét đầu vào từ tất cả các bên liên quan, từ các công ty xây dựng đập đến các nông dân và ngư dân và các nước hạ nguồn. Nó phải được thực hiện một cách minh bạch và khách quan bởi các chuyên gia tư vấn độc lập, không thiên vị và nổi tiếng về chuyên môn của họ. Tác động môi trường của các dự án đập được đề xuất tại tất cả các cấp (địa phương, quốc gia và xuyên biên giới), chi phí và lợi ích của nó, các biện pháp giảm thiểu và lựa chọn thay thế dự án cần được phân tích đầy đủ trong EA. Tất cả bốn nước hạ nguồn (Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam) là thành viên của Ủy hội sông Mekong (MRC), trong khi hai nước thượng nguồn (Trung Quốc và Myanmar) đã từ chối tham gia nhưng thường xuyên gửi các quan sát viên. Theo Hiệp định Mekong 1995, dự án phát triển phải tuân theo các thủ tục của MRC bằng Thông báo, Tham vấn, và Hiệp định. Theo thỏa thuận này, nước chủ nhà của dự án phải thông báo và tham khảo ý kiến ​chính phủ của các thành viên khác. Do đó, tất cả các nước, kể cả Trung Quốc và Myanmar, nên nghiêm tuân theo phương thức của MRC này. Điều này sẽ giảm thiểu sự nghi ngờ giữa các quốc gia và nghiêm túc xem xét các lợi ích và mối quan tâm của tất cả các bên. MRC cũng cần có quyền lực để có thể chủ động tham gia giải quyết các xung đột.

▪ Chiến lược thay thế cho phát triển điện lực bền vững

Các đập thủy điện không có hiệu quả khi chi phí xây dựng và tác động môi trường được xem xét. Trái ngược với niềm tin phổ biến, chúng cũng không phải là một nguồn năng lượng sạch, vì tạo ra một lượng đáng kể các khí nhà kính. Như vậy, một cách phát triển bền vững là dùng các nguồn năng lượng tái tạo, thực sự sạch như năng lượng gió và năng lượng mặt trời. Những nguồn năng lượng sạch và tái tạo không phải chịu những tác động môi trường nghiêm trọng của các đập thủy điện.


Bản đồ năng lượng gió ở Đông Nam Á

Với số lượng lớn nhất thế giới các loại khí nhà kính, Trung Quốc gần đây đã cam kết giảm phát thải vào năm 2030 bằng cách dùng ít than đá và nhiều năng lượng tái tạo hơn. Vì điện bởi các con đập hạ lưu sông Mekong chủ yếu là xuất khẩu sang Thái Lan và Việt Nam cũng như lượng điện cung cấp cho các quốc gia này là khá khiêm tốn (7000 MW cho Thái Lan và 5000 MW cho Việt Nam vào năm 2020), việc triển khai năng lượng tái tạo ở hạ nguồn sông Cửu Long cũng có thể là một lựa chọn khả thi và bền vững. Với chi phí giảm nhanh chóng, năng lượng gió và mặt trời có thể cạnh tranh với thủy điện. Thay vì xây dựng đập Don Sahong với công suất chỉ có 260 MW, nhà máy năng lượng mặt trời hay gió với sản lượng điện tương tự chắc chắn sẽ ít tốn kém hơn. Một nghiên cứu bởi Ngân hàng Thế giới (World Bank) đã cho biết các ngọn núi của miền Trung và Nam Việt Nam, Trung Lào và miền trung và miền tây Thái Lan là những địa điểm tốt cho năng lượng gió (Ngân hàng Thế giới, 2001). Hơn nữa, nhà máy điện gió và năng lượng mặt trời không đòi hỏi những vùng đất rộng lớn và tái định cư của hàng ngàn người dân địa phương. Chúng cũng không gây ảnh hưởng bất lợi về thủy sản cũng như sản xuất lúa gạo ở các nước hạ nguồn.

▪ Chiến lược thay thế cho phát triển kinh tế bền vững

Phát triển kinh tế thường được trích dẫn là một lý do chính cho việc xây dựng các đập thủy điện. Đây là những quan tâm chính đáng vì các đập thường được xây ở những vùng nghèo và kém mở mang. Gần đây chúng tôi đã đề xuất công nghiệp nhẹ như một cách chiến lược bền vững cho phát triển kinh tế ở các nước có thu nhập thấp (Hinh Đinh et al., 2014). Dựa trên các nghiên cứu bởi các chuyên gia của Ngân hàng Thế giới, công nghiệp nhẹ như dệt may, làm đồ nội thất và làm đồ gỗ đã tạo nên các phép lạ kinh tế ở Trung Quốc, Hàn Quốc và Đài Loan. Nó có khả năng tạo ra hàng ngàn việc làm một cách nhanh chóng mà không cần đầu tư số vốn lớn và ít tác động môi trường. Không giống như các công việc tạm do xây dựng đập, việc làm của công nghiệp nhẹ lâu dài hơn và có thể cứu hàng triệu người lao động có tay nghề thấp ra khỏi đói nghèo. Các việc làm này thích hợp cho các nước có thu nhập thấp như Campuchia và Lào.

▪ Vai trò đặc biệt của Tăng già

Vì các nước và các dân tộc dọc theo sông Cửu Long đa số là Phật tử, Tăng đoàn có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc chuyển đổi việc xây dựng các đập qua năng lượng sạch, tái tạo cũng như công nghiệp sản xuất nhẹ. Ở những nước Nam truyền (Campuchia, Lào, Myanmar và Thái Lan), Tăng đoàn có ảnh hưởng rất lớn trong xã hội. Tăng đoàn có thể sử dụng ảnh hưởng của mình để hướng dẫn các chính phủ trong việc áp dụng các chính sách đúng đắn. Quan trọng hơn, họ có thể giáo dục các tín đồ và công chúng nói chung về chi phí và tác động môi trường của các đập, và những lợi ích của năng lượng sạch, tái tạo và công nghiệp nhẹ. Tất cả các Phật sự này sẽ cho quả báo tốt vì, theo một câu nói nổi tiếng ở Việt Nam, "cứu một mạng người hơn xây bảy cảnh phù đồ"!

▪ Kết luận

Các đập thủy điện, ở Vân Nam và hạ nguồn sông Cửu Long, gây ra thảm họa xã hội, kinh tế và môi trường, ngay cả ở trong nước và ở các nước hạ nguồn, đặc biệt là Campuchia và Việt Nam. Sự sống còn của các quốc gia này cũng như đời sống của hơn 65 triệu người đang bị đe dọa. Hầu hết các dự án đập đã không mang lại lợi ích kinh tế đáng kể khi so sánh với chi phí khổng lồ và các tác động xấu đến môi trường. Các nước thượng nguồn cần phải nhận ra rằng sông Cửu Long không chỉ cho họ mà còn cho những người sống ở hạ lưu. Giáo lý Phật giáo như lý duyên khởi đòi hỏi sự hiểu biết lẫn nhau, hợp tác toàn diện, tôn trọng lợi ích và mối quan tâm của người khác. Từ bi bao gồm cả con người và động vật, đặc biệt là các loài cá đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng. Tất cả các nước, trong đó có thượng nguồn Trung Quốc và Myanmar, phải hoàn toàn hợp tác và tuân thủ đúng các thủ tục của Ủy ban sông Mekong. Một thay thế khả thi và bền vững đối với các đập là năng lượng mặt trời và gió. Công nghệ nhẹ cũng đã được đề xuất như là chiến lược khả thi để phát triển kinh tế. Các nước và các dân tộc dọc theo sông Cửu Long đa số là Phật tử, Tăng đoàn có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc tác động các chính sách của chính phủ, giáo dục công chúng về các chi phí và tác động môi trường của các đập và lợi ích của năng lượng sạch và tái tạo. Những nỗ lực này có thể giảm thiểu xung đột trong tương lai, các thảm họa kinh tế và môi trường và dòng sông Phật giáo sẽ tránh được một cái chết khủng khiếp trong một tương lai rất gần!

* Xem tiểu sử của tác giả

_________________

THAM KHẢO

Hillary Rodham Clinton, 2012. Phát biểu tại Friends of Lower Mekong Ministerial, Lần thứ hai, Phnom Penh, Campuchia, ngày 13 tháng 7, 2012. http://www.state.gov/secretary/... /2012/07/194957.htm

Hinh T. Đinh, Van Thai và Khanh T. Tran, 2014. Các mục tiêu MDGs và sản xuất nhẹ: Chiến lược phát triển kinh tế ở các nước có thu nhập thấp. Trình bày tại Hội nghị của Liên Hợp Quốc Vesak (UNDV), Chùa Bái Đính, Việt Nam. http://daophatngaynay.com/... Manufacturing_695605757.pdf

Ian Baird G., 2011. Đập Don Sahong: Tác động tiềm năng di cư của cá trong khu vực, sinh kế và sức khỏe con người. Nghiên cứu Châu Á, Tập 43, số 2, 2011. http://polisproject.org/... _Don%20Sahong.pdf

Sông ngòi Quốc tế, 2007. Phát thải khí nhà kính từ các đập thủy điện. http://www.internationalrivers.org/... emissions-from-dams-faq-4064

Khanh Tran T., 2014. Vận động bỏ than đá: Một phong trào phi chính phủ để chận đứng hâm nóng toàn cầu. Trình bày tại Hội nghị Liên Hợp Quốc Vesak (UNDV), Chùa Bái Đính, Việt Nam. http://daophatngaynay.com/... Beyond_coal_campaign_877271545.pdf

Ủy ban sông Mekong, năm 2014. Hội nghị Tư vấn về dự án Don Sahong. http://www.mrcmekong.org/... public-consultation-on-don-sahong-hydropower-project/

Ủy ban sông Mekong, 2012. Vận chuyển, xử lý và lưu trữ hàng hóa nguy hiểm dọc theo sông Cửu Long - Tập 1: Phân tích rủi ro.http://www.mrcmekong.org/assets/... /NAP-Risk-Analysis-Vol-I-Full-report.pdf

Richard Cronin và Timothy Hamlin, 2010. Mekong: Đập thủy điện , an ninh con người và ổn định khu vực. The Henry L. Stimson Center, Washington, DC. http://www.stimson.org/images/uploads/research-pdfs/Mekong_Tipping_Point-Complete.pdf

Scott WD Pearse-Smith, 2012. Phát triển thủy điện hạ lưu sông Mekong và trao đổi giữa các ngành truyền thống và hiện đại: 'bỏ cái cũ, lấy cái mới'. Tạp Chí Châu Á-Thái Bình Dương, Tập 10, Số 23, số 1, tháng 4, 2012. http://www.japanfocus.org/site/make_pdf/3760

Ngân hàng Thế giới, Chương trình Năng Lượng Châu Á, 2001. Năng lượng gió của khu vực Đông Nam Á.http://siteresources.worldbank.org/... /wind_atlas_ch1-6.pdf

Ủy ban Thế giới về Đập, 2000. Đập và phát triển: Một khuôn khổ mới để quyết định . http://www.unep.org/dams/WCD/... /WCD_DAMS%20report.pdf

Death of the Mekong, River of Buddhism

Khanh T. Tran, AMI Environmental, USA

This article was presented at the United Nations Day of Vesak (UNDV) Conference from May 27-30, 2015 in Bangkok, Thailand. The Bangkok Declaration of the Conference has explicitly mentioned the Mekong river and has urged all nations in the ASEAN community and neighboring nations to work together to find a solution to the dire situation of the Mekong river and its fragile ecological system. The Mekong issues will also be presented to the UN General Assembly.

Introduction

From its origin in the high plateau of Tibet, the Mekong river is 4500 km long and the 12th longest river in the world, flowing through six countries that include China, Myanmar, Thailand, Laos, Cambodia and Vietnam. Through its long course, the river is known as Lancang in China, Mekong in Myanmar, Laos and Thailand, and finally as River of Nine Dragons because it flows out to sea through nine estuaries in south Vietnam. True to its name (Mekong means Mother River in Laotian), the Mekong river is the lifeline to more than 65 million inhabitants, mainly in downstream countries of Laos, Thailand, Cambodia and Vietnam. The majority of these inhabitants are Buddhists and all three major Buddhist traditions are practiced: Theravada in Myanmar, Thailand, Laos and Cambodia; Mahayana in China and Vietnam; and Vajrayana in Tibet. Hence, the Mekong is called the “River of Buddhism”. Most residents along the river are poor fishermen living off the river fish catch or poor farmers using the river water and rich silt to grow rice. They also use the river as their principal means of transportation. In the next two decades, the number of the basin inhabitants is expected to increase to over 100 millions. Their daily life is constantly threatened by floods, deforestation, pollution as well as ill-planned development projects. The biggest threat to their livelihood is the gigantic hydroelectric dams built or planned in Yunnan Province and the smaller dams in Laos and on the Lower Mekong. Moreover, the Chinese have cleared and enlarged the river as a navigation channel for large commercial boats including oil transport vessels. These development projects cause serious economic and environmental consequences in countries within the river basin. All these environmental effects will be worsened by global warming in coming years (Khanh Tran, 2014). In going ahead with these hydropower projects, upstream countries have not considered the interests and concerns of downstream countries. They may be the causes for conflict, political crisis and even war in the near future. Even the survival of the river may be in serious doubt in the next few decades. The remaining sections will discuss the dams and their environmental effects, and a Buddhist-inspired response to ensure the peaceful and sustainable development of the river resources.

Exploiting the River



In the last twenty years, there has been an active program to build several dams for hydroelectric power on the Mekong river. (Richard Cronin, 2010; Scott Pearse-Smith, 2012). As of 2014, there are 26 dams on the mainstream, 14 on the Lancang river (the name of Upper Mekong in China) in the Yunnan Province of China and 12 on the Lower Mekong. China has built a cascade of large dams on the Lancang, beginning with the Manwan in 1993 with an electrical output of 1500 MW. The Dachaoshan dam was completed in December 2002 with an output of 1350 MW, a height of a 30-story building and a water reservoir of 88 km in length. Next was the Xiaowan dam, with an output of 4200 MW and a reservoir of 169 km in length and a cost of 4 billion USD. This dam is the tallest in the world, with a height of 300 m similar to a 100-story building. The largest and most expensive dam (about $10 billion USD) on the Mekong so far, the Nuozhadu, was completed in 2014 with a height of 261 m, a reservoir of 226 km long and an output of 5850 MW. At least eight other big dams are also planned by the Chinese.

Starting in 2006, companies from Thailand, Malaysia, and China have conducted feasibility studies of 12 run-of-river dams in the Lower Mekong Basin. Among these dams, Xayaburi is considered the first mainstream dam located in Laos and outside of China’s borders. With an output of 1260 MW and a total investment costs of $3.5 billion USD, it is funded by four major Thai banks and a Bangkok-based company, Ch. Karnchang, is the builder. In October 2013, the Lao government notified the Mekong River Commission (MRC) of its decision to build the second mainstream dam Don Sahong. It is a run-of-river dam located near the Khone Waterfall in the Siphadone area of Champasak Province of southern Laos, only 2 km from the Laos-Cambodia border. Its output is to be small at only 260 MW, with a height of 30m and a width of only 100m. The dam would block the Hou Sahong channel, the main channel for fish migrating between Cambodia, Laos and Thailand year around. This channel is especially important in the dry season when most other channels become impassable due to low water levels. The disruption of fish migrations through blocking of this vital channel means the destruction of vital subsistence and commercial fisheries in the Lower Mekong Basin. In spite of intense and wide protests, the Lao government still intends to pursue the dam construction. The Mekong River Commission (MRC) has recently announced that a regional public consultation meeting for interested stakeholders on the Don Sahong Hydropower Project will occur on 12 December 2014 in Pakse, Lao PDR (MRC, 2014).

In 1866, a French expedition team was led by Doudart de Lagrée and Francis Garnier to sail upstream the Mekong. The French team was stopped by the underwater rocks and rapids in Upper Laos. In recent years, China has completed the dredging of the river and clear the underwater rocks and rapids on a 300-km stretch of the river, from the Burmese-Chinese border to Laos to facilitate the travel by large boats. Commercial boats larger than 100 MT can travel from the port of Simao in Yunnan to other ports in neighboring countries. Of particular note are the oil transport vessels since they pose severe dangers of oil spills which can quickly devastate the entire Mekong ecosystem (MRC, 2012).

Environmental Effects

Dam builders in China and Laos have stated that all the above hydroelectric and navigational development projects should bring large benefits to the countries downstream. They have also maintained that any ecological and environmental effects, if existed, are minimal. The hydroelectric dams should alleviate the flooding problem during the monsoon season and the drought problem during the dry season. Turning the river into a shipping channel should also increase trade between China and other neighboring countries and bring prosperity to all. These development projects are often conducted in secrecy and little details are known. The dam builders frequently minimize or hide all adverse environmental impacts.



Contrary to the findings of the builders, hydroelectric dams cause severe economic and environmental disasters, affecting the lives of millions in countries downstream. Mekong floods occur annually from June to October and hundreds have lost their life. Most of the flood victims are children who die of drowning due to lack of supervision by older members of their family. There are signs that the Yunnan dams have increased the flood intensity. Since the water reservoirs have been full, the dams have released excess water that further raised the floodwater level of the Mekong. The number of flood victims and damages to crops and homes have increased in Cambodia, Thailand and elsewhere.



During the dry season, the Mekong water level is markedly low because only the glaciers in Tibet and Yunnan remain the water sources. The average flow rate decreases from 50000 m3/s during the rainy season to only 2000 m3/s during the dry months. The dry season normally lasts from November to May. If the upstream dams do not release water because of drought or water needs of the reservoirs, serious consequences can occur downstream. All downstream countries will be affected by saltwater intrusion, and rice fields in many places will have to be abandoned because of saltwater or lack of water for growing crops.



In addition to changing the water levels and the natural cycles of the Mekong, water reservoirs at the dams retain the rich sediment. Lacking water and rich silt will render the rice fields downstream less fertile. Rice production will decrease drastically, especially in the Mekong delta of Vietnam. In the first ten years of Manwan Dam’s operation, the annual mean sediment trapped by the Manwan Dam alone was estimated to be about 35% of total sedimentation transported from Lancang Basin to Lower Mekong. The amount of rich silt may decrease up to 50% because of the dams. This will cause large crop losses since the Mekong delta is the main rice producing area of Vietnam. It accounts for 50% of total annual production of 28 MT and 90% of export of 7 MT. The delta also accounts for 60% of fish and seafood exports from Vietnam. This will affect millions of people in the Lower Mekong Basin and elsewhere, as far as Africa due to reduced rice and fish export.

While rice fields downstream lack the rich sediment, the dams in Yunnan are silted up. The rate of silt flowing into the Manwan dam has doubled compared to initial estimates. One of the reasons that the Chinese have used to justify the building of the Xiaowan dam is that this dam is upstream of the Manwan dam and, therefore, can reduce the amount of silt flowing into the Manwan dam. Nevertheless, the Xiaowan dam and all other dams will be filled by silt in the next few decades. All water reservoirs will become vast and useless wastelands! On average, the useful life of each dam will be shortened to about 20 years, compared to the initial estimate of 70 years.

With 1245 fish species, the Mekong is the second river in the world with the most fish species, just behind the Amazon in South America. Among these are rare species like the giant catfish weighing up to 300 kg and the river dolphin. Each year about two million metric tons (MT) are caught in downstream countries. Lake Tonle Sap in Cambodia alone has produced 400000 MT. The Lower Mekong dams are small in terms of power output relative to the Chinese dams, yet their ecological effects may even be larger. The section of the Mekong at the Khone Waterfall where the Don Sahong dam (with a tiny output of 260 MW) will be located is considered as the vital point of the entire ecosystem of the Mekong basin. Right at the foot of the Khone Waterfall, one can find a congregation of the largest variety of fresh water fish not only in Southeast Asia but also in the whole world. Many independent fisheries experts conclude that the dam would have a serious impact on fish migration as the channel is the only one within the Khone Falls complex that is passable to migratory fishes in the dry season, and the major migration channel year round (Ian G. Baird, 2011). Of particular note are the risks to the survival of the Irrawaddy dolphins that only 85 are known to survive along this stretch of the river.

The Yunnan, Lower Mekong and other dams modify the water levels, temperature and cycles of the Mekong river. All these changes adversely affect the birth and growth of all fish species. Dredging the river also makes its water flowing faster and cause the erosion of the river banks. Underwater rocks that are currently prime breeding sites for fish have been destroyed. Several fish species will disappear because they cannot adapt to the unnatural changes. Fishermen in several locations along the Mekong have already complained that their fish catch has drastically been reduced in recent years. This is an adverse impact affecting the livelihood and health of millions of people in Cambodia, Laos and Vietnam since fish is their primary source of protein.

The Chinese government initially stated that the Upper Mekong dams are to provide power and economic prosperity to the Yunnan Province which is a relatively poor area. Contrary to this initial statement, electrical power generated by these dams is used by large cities and industries on the Eastern coast. Similarly, electricity from the Lao dams is to be sold to Thai users. In addition to serious ecological effects shown above, dams and their reservoirs can cause earthquakes. They also emit large amounts of greenhouse gases which cause global warming, mainly methane from decaying vegetation and soil (International Rivers, 2007). Methane is known to be about 25 times more potent than carbon dioxide (CO2). According to scientific studies, e. g. those from Brazil National Institute for Amazon Research (INPA), a hydropower plant has more global warming impact per kwh than a coal-fired power plant! Costing about $10 billion USD, the new Nuozhadu dam only replaces 9 million tons of coal burned per year, a tiny amount compared to the 3 billion tons of coal used by China in 2010. Even the smaller Xayaburi dam is estimated to cost around $3.5 billion USD, a large financial investment for the small economy of Laos (2013 GDP is $11.14 billion USD). Thus, contrary to popular beliefs, HYDROPOWER IS EXPENSIVE and NOT CLEAN! This important finding is consistent with a study completed in November 2000 by the World Commission on Dams (WCD, 2000). This study has found that most big dam projects in the world have not resulted in any economic benefits when compared to the construction costs, the resettlement of people and adverse environmental impacts. In July 2012, US Secretary of State Hillary Clinton had urged a delay and further study of the Xayaburi dam (Hillary Clinton, 2012). She even stated that the US had made many mistakes in water projects and called on the Mekong nations to learn from the US experience, offering to help fund scientific studies on the impact of the proposed dams. She stated that “We’ve learned some hard lessons about what happens when you make certain infrastructure decisions and I think that we all can contribute to helping the nations of the Mekong region avoid the mistakes that we and others made.”



A Buddhist Response

Starting from its origin in Tibet, the countries and peoples along the Mekong river are predominantly Buddhist. All three major Buddhist traditions are practiced by its inhabitants: the Theravada tradition in Cambodia, Laos, Myanmar and Thailand; the Mahayana tradition in China and Vietnam; and the Vajrayana tradition in Tibet. Despite some differences, all traditions share the same following basic Buddhist teachings:
The Four Noble Truths,
The Eightfold Noble Path,
The Three Poisons,
The Middle Way,
The Dependent Origination,
The Five Precepts,
Karmic Retribution and
Buddhist Virtues (non-violence, loving-kindness, compassion, joy and equanimity)

The three poisons, mainly greed and ignorance, are the fundamental causes of the environmental crises and conflicts on the Mekong. Greed in monetary profits and other economic gains has fueled the construction of dams. For the Lao dams, profit is the sole motive since the generated power will be sold to Thai users and the large loans required for building the dams are huge investments in a tiny economy such as Laos. In any case, this monetary gain is highly uncertain as the recession in recent years has depressed electricity demands. Ignorance or delusion cause us to think the permanence of all things, to misuse natural resources and to ignore the serious environmental effects. In the last three decades, China has adopted the policy of economic development at all costs and has now realized that this unwise policy has severely polluted its air, water and environment. The dams may have offered some short-term economic benefits to the local economies (e.g., construction jobs, large investments) but these are far outweighed by the long-term sufferings of thousands who had to resettle (e.g., 43000 people resettled for building the Nuozhadu dam) and millions of poor fishermen and rice farmers who become even poorer due to reduced harvests. Dams have created widespread suffering, especially in downstream countries.

Since upstream countries are reaping all benefits and downstream countries are suffering most, if not all, environmental impacts, conflicts and even wars may arise. The Mekong conflicts can be resolved by applying the principle of dependent origination. Whether upstream or downstream, we have to realize that we live in an interconnected and interdependent world where anyone’s actions, however small, will affect everybody else and the planet as a whole. In recent years, well-known Buddhist virtues such as compassion and loving-kindness have also been proposed as response to global warming and other environmental crises (Khanh Tran, 2014). These virtues, together with sympathetic joy and equanimity, are the fundamental qualities of a Bodhisattva who vows to work tirelessly to liberate all other sentient beings from suffering. Sentient beings include not only humans but also animals, such as the giant catfish and river dolphins that are facing extinction, and the environment in general.

The Mekong conflicts between upstream and downstream countries remind us of the dispute over water rights of the Rohini river between the Sakya and Koliya clans in Buddha’s time. Buddha had intervened in this dispute which arose from the suspicions of an unequal distribution of river water. He had resolved it peacefully by asking the involved parties whether human lives lost due to war would be more valuable than the river water. Buddha spoke thus: “Great kings, ministers, commanders, soldiers why do you want to fight and kill each other, for a petty matter like the distribution of water. If I did not visit you today, you would have set flowing Rohini - A River of Blood. You have acted in an unbecoming manner. You live in enmity. You'll all indulging in the five kinds of hatred. Look at me. I live free from hatred. Both parties in the warpath, live with evil passion. Therefore, do not hate each other. Live as Peace loving people. Hatred will not take you anywhere. Be compassionate and be kind to all” (fromhttp://enews.buddhistdoor.com/en/news/d/28739).

Strategy for Sustainable Hydropower Development

As mentioned above, upstream countries often minimize the environmental impacts of the dams and largely ignore the interests and concerns of downstream countries. Thus, extensive communication and cooperation between countries are required for sustainable development. An objective evaluation of the project requires a comprehensive environmental assessment (EA) which openly and accurately presents the costs and benefits as well as environmental impacts. This environmental assessment needs to consider inputs from all stakeholders, from dam builders to local farmers/fishermen and downstream countries. It is to be performed transparently and objectively by third-party consultants that are not biased and well-known for their expertise. Environmental impacts of the proposed dam project at all levels (local, national and trans-boundary), its costs and benefits, mitigation measures and project alternatives should be fully analyzed in the EA. All four downstream countries (Thailand, Laos, Cambodia and Vietnam) are members of the Mekong River Commission (MRC), while the two upstream countries (China and Myanmar) have refused to join but have frequently sent in observers. According to the 1995 Mekong Agreement, any development project is subject to the MRC Procedures for Notification, Prior Consultation, and Agreement. Under this agreement, the host country for the project should notify and consult the governments of the other signatories. Thus, it is recommended that all countries, including China and Myanmar, strictly adhere to this MRC protocol. This will minimize the suspicions between countries and seriously consider the interests and concerns of all parties. The MRC should also be granted some enforcement authority so that it can actively participate in conflict resolution.

Alternative Strategy for Sustainable Power Development

As mentioned above, dams are not cost-effective when their building costs and environmental impacts are considered. Contrary to popular beliefs, they are also not a source of clean energy, since they generate substantial amounts of greenhouse gases. Thus, a sustainable approach would be to develop renewable energy sources which are truly clean such as wind and solar energy. These clean renewable energy sources do not suffer the severe environmental effects of the dams. As the world largest emitter of greenhouse gases, China has recently committed to reducing its emissions of greenhouse gases by 2030 by using less coal and more renewable energy. Since power generated by the Lower Mekong dams is primarily exported to Thailand and Vietnam and the electricity amounts to be supplied to these countries are rather modest (7000 MW to Thailand and 5000 MW to Vietnam by 2020), the deployment of renewable energy in the Lower Mekong basin can also be a viable and sustainable option. With costs rapidly decreasing, wind and solar plants offer competitive alternatives to dams. Instead of building the Don Sahong dam with an output of only 260 MW, solar and wind plants with the same power output will certainly be much less expensive. A modeling study conducted for the World Bank Asia Alternative Energy program has shown that good sites for wind energy are available in the mountains of central and southern Vietnam, central Laos, and central and western Thailand (World Bank, 2001). Moreover, wind and solar plants do not require vast lands and the resettlement of thousands of local peoples. They also do not cause adverse impacts on fisheries as well as rice production in downstream countries.

Alternative Strategy for Sustainable Economic Development

Economic development is often cited as a primary reason for building the dams. These economic concerns are certainly legitimate since the regions where the dams are located are mainly poor and economically depressed. We have recently proposed light manufacturing as a sustainable approach for economic development in low-income countries (Hinh Dinh et al., 2014). Based on studies conducted by experts at the World Bank, light manufacturing such as textile, furniture and wood working has been shown to be responsible for the economic miracles in China, Korea and Taiwan. It has the potential of creating quickly thousands of jobs without large capital investment and extensive environmental impacts. Unlike temporary jobs created by dam construction, light manufacturing jobs are long lasting and can lift millions of low-skilled workers out of poverty. It certainly is appropriate for low-income countries such as Cambodia and Laos.

Special Role of the Sangha

Since the countries and peoples along the Mekong river are mainly Buddhists, the Sangha can play an important role in shifting the construction of dams to clean, renewable energy and light manufacturing. In countries with Theravada tradition (Cambodia, Laos, Myanmar and Thailand), the Sangha has enormous influence in respective societies. It can use its influence to guide the government in adopting the right policies. More importantly, it can educate its lay devotees and the general public about the costs and environmental impacts of dams, and the benefits of clean, renewable energy and light manufacturing. All this Buddha’s work can be done for good karmic retribution since, according to a popular Vietnamese saying, “saving a life is worth more than building seven temples”!

Conclusions



The hydroelectric dams, both in Yunnan and the Lower Mekong basin, cause severe social, economic and environmental disasters, both locally and in downstream countries, especially Cambodia and Vietnam. The survival of these countries along with the livelihood of over 65 million people are threatened. Most dam projects have not brought any significant economic benefits when compared with their enormous costs and the adverse environmental impacts. Upstream countries need to realize that the Mekong river is not only for upstream countries but also for downstream ones. The Buddhist teaching of dependent origination requires mutual understanding, full cooperation, respect of interests and concerns of others. Compassion covers both humans and animals, especially the fish species that are facing extinction. It is recommended that all countries, including upstream China and Myanmar, fully collaborate and strictly adhere to the Mekong River Commission procedures. A viable and sustainable alternative to dams is solar and wind energy. Light manufacturing has also been suggested as the viable strategy for economic development. Since the countries and peoples along the Mekong are mainly Buddhists, the Sangha can play an important role in influencing the government policies and educating the general public about the costs and environmental impacts of dams and the benefits of clean, renewable energy. Only through these efforts can future conflicts, economic and environmental disasters be avoided and the River of Buddhism can be spared of a terrible death in a very near future!

REFERENCES

Hillary Rodham Clinton, 2012. Remarks at the Second Friends of the Lower Mekong Ministerial, Phnom Penh, Cambodia, July 13, 2012. Available at http://www.state.gov/... /2012/07/194957.htm

Hinh T. Dinh, Van Can Thai and Khanh T. Tran, 2014. The MDGs and Light Manufacturing: A Strategy for Economic Development in Low-Income Countries. Presented at the 2014 United Nations Day of Vesak (UNDV) Conference, Vietnam.http://daophatngaynay.com/vn/... The_Mdgs_And_Light_Manufacturing_695605757.pdf

Ian G. Baird, 2011. The Don Sahong Dam: Potential Impacts on Regional Fish Migrations, Livelihoods, and Human Health. Critical Asian Studies Volume 43, Issue 2, 2011. http://polisproject.org/PDFs/Baird%202009_Don%20Sahong.pdf

International Rivers, 2007. Greenhouse Gas Emissions from Dams. http://www.internationalrivers.org/... emissions-from-dams-faq-4064

Khanh T. Tran, 2014. Beyond Coal Campaign: A NGO/Grassroots Movement to Stop Global Warming. Presented at the 2014 United Nations Day of Vesak (UNDV) Conference, Vietnam. http://daophatngaynay.com/vn/... Beyond_coal_campaign_877271545.pdf

Mekong River Commission, 2014. Regional Consultation Meeting on the Don Sahong Project.http://www.mrcmekong.org/news-and-events/... don-sahong-hydropower-project/

Mekong River Commission, 2012. Carriage, Handling and Storage of Dangerous Goods along the Mekong River – Volume 1: Risk Analysis. http://www.mrcmekong.org/assets/Publications/... Risk-Analysis-Vol-I-Full-report.pdf

Richard Cronin and Timothy Hamlin, 2010. Mekong Tipping Point: Hydropower Dams, Human Security and Regional Stability. The Henry L. Stimson Center, Washington, DC. http://www.stimson.org/images/... /Mekong_Tipping_Point-Complete.pdf

Scott W. D. Pearse-Smith, 2012. Lower Mekong Basin hydropower development and the trade-off between the traditional and modern sectors: ‘Out with the old, in with the new’. The Asia-Pacific Journal, Vol. 10, Issue 23, No 1, June 4, 2012.http://www.japanfocus.org/site/make_pdf/3760

World Bank Asia Alternative Energy Program, 2001. Wind Energy Resource Atlas of Southeast Asia. Available athttp://siteresources.worldbank.org/... /wind_atlas_ch1-6.pdf

World Commission on Dams, 2000. Dams and Development: A New Framework for Decision-Making. Available at:http://www.unep.org/dams/WCD/report/WCD_DAMS%20report.pdf

ĐỊA PHƯƠNG CHÓ



Nguyễn Thị Hải Hà



Hôm trước đọc trên lốc của một bạn, thấy có một người đi ăn trộm chó. Con chó trốn thoát về nhà. Người ấy lại đến bắt trộm chó lần nữa. Lần này thì con chó bị giết làm thịt. Sau đó kết quả là người ăn trộm bị bắt bị đánh. Người ta đòi giết người ăn trộm chó.


Tại sao người Việt ăn thịt chó?


Lúc mới qua Mỹ, đọc báo thấy có người (Mỹ) tức giận mấy con sóc (squirrel) phá hoại cây cối trong vườn đã đặt bẫy sóc. Có người nhìn thấy báo cảnh sát. Thế là người ấy bị kêu ra cảnh sát, ra tòa. Hội bảo vệ thú vật biểu tình trước nhà ông ta, làm xấu hổ. Thấy vậy mình biết là mình không được làm hại cả những con thú hoang chứ đừng nói là chó mà lại là chó của người ta nuôi. Ở Mỹ có chó hoang không? Có chứ. Có người nuôi chó một thời gian, chán ghét, hay vì hoàn cảnh nào đó, mang chó đem bỏ ngoài đường cao tốc. Con chó khôn ngoan ngỡ ngàng bị chủ bỏ rơi, chạy theo xe. Người ta quay được phim đăng lên mạng. Không biết có ai bắt phạt người chủ này hay không nhưng người xem thấy tội nghiệp con chó. Hôm nọ có người dẫn chó đi rừng, thả dây xích, con chó lồng lên chạy như điên, biến mất. Chủ ngơ ngác đi tìm mặt buồn hiu. Nếu tìm không được con chó này sẽ biến thành chó hoang. Có người sẽ gọi báo cảnh sát. Người ta sẽ bắt chó đem đến một chỗ giữ thú hoang. Nếu không người nhận, không người nuôi, rồi thì con chó sẽ bị giết chết (một cách yên thấm chứ không tàn bạo hay ăn thịt.)



Tại sao người Mỹ không ăn thịt chó?


Người Mỹ không ăn thịt chó vì xã hội Mỹ không cho phép ăn thịt chó? Có luật nào ở Mỹ cấm ăn thịt chó không? Tôi biết chắc chắn là ở Mỹ, nếu người ta biết được có người giết chó, ăn thịt chó, thậm chí ngược đãi, đánh đập, bỏ đói, để chó bị bẩn sẽ bị rắc rối ngay. Rắc rối cỡ nào, ai sẽ trừng phạt những người này, và mức độ trừng phạt đến cỡ nào thì tôi không biết. Thử dùng Google để tìm hiểu, tôi biết có 44 tiểu bang không cấm ăn thịt chó nhưng tôi không biết tiểu bang nào. Chỉ thấy nói là tiểu bang New York cấm ăn thịt chó. Sống ở Mỹ lâu năm, tôi nghĩ tôi chỉ biết luật giao thông rành hơn các luật khác. Biết rành hơn những thứ luật khác ở đây không có nghĩa là tôi biết hết, biết tường tận. Chỉ biết luật giao thông giới hạn trong việc sử dụng xe thường ngày.

Có phải họ không ăn vì bị cấm không? Người Mỹ có luật lệ nào về cấm ăn thịt chó hay không? Chuyện không có gì là quan trọng nhưng đã thắc mắc thì tôi tự tìm câu trả lời.

Thường thường, hễ thấy nơi nào có bảng cấm thì biết là nơi ấy có sự vi phạm điều bị cấm. Thí dụ như đi hiking, đi rừng leo núi, trong rừng của địa phương (county park) hay của tiểu bang (state park) thấy có bảng cấm trượt băng trên một cái hồ cạn hay đầm lầy, tôi đoán là mùa đông người ta trượt băng ở đây, đã từng có tai nạn. Những bảng cấm như thế, là để bảo vệ người sử dụng rừng, và cũng để bảo vệ chính quyền. Nếu người ta vi phạm điều cấm, họ không thể kiện tụng chính quyền.

Có khi tôi thấy bảng cấm ngồi ăn trong xe, thường thì gặp bảng cấm này ở chung quanh tiệm fast food. Thấy vậy thì biết người ta có ngồi ăn trong xe.

Nhưng tôi chưa hề thấy bảng cấm bán thịt chó, hay cấm ăn thịt chó. Nghĩ cho cùng, khó mà cấm người Mỹ một điều gì nếu không chính đáng vì họ biết quyền tự do dân chủ dành cho mỗi cá nhân. Người ta bán thịt cừu, thịt bò, thịt heo, thịt gà vịt, cá, ngỗng, thỏ, gà tây, chim cút nhưng không ai bán thịt chó. Tại sao?

Đôi khi tôi tự hỏi người Mỹ có ăn thịt ngựa, thịt trâu không? Những người thích săn bắn chắc là ăn thịt nai. Mình không biết, nhưng thầm lén chắc thế nào cũng có người Mỹ ăn thịt chó. Người Mỹ sang Việt Nam có lẽ cũng có người ăn thịt chó. Chuyện gì cũng có thể xảy ra dưới ánh mặt trời, và kể cả khi không có ánh mặt trời. Ngay cả ăn thịt người thỉnh thoảng báo chí Mỹ cũng đăng, và tiểu thuyết Mỹ cũng có vài quyển nổi tiếng vì nhân vật ăn thịt người (thí dụ như the Silence of the Lambs). Thịt người mà còn có kẻ ăn thì nói gì thịt chó.

Có phải vì nước Mỹ giàu có, họ có nhiều thứ để ăn nên không ăn thịt chó? Họ không ăn vì chê chó bẩn hay là vì họ không đủ nhạy bén để khám phá cái ngon của thịt chó? Người theo đạo Hồi chê con heo bẩn không ăn. Người theo đạo Do Thái không ăn shellfish và một số loại cá. Phải chăng vì phong tục tập quán bắt nguồn từ xa xưa, và người ta sống theo thói quen nên không ăn chó? Chẳng những họ không ăn thịt chó mà họ còn yêu thương chó, mèo như những người bạn nhỏ.

Tôi đọc sơ sơ quyển Law 101 Everything You Need to Know about the American Legal System của Jay M. Feinman không thấy nói gì về luật lệ đối với thú vật, tuy nhiên Wikipedia có một trang nói về Animal Law. Animal Law xuất hiện hầu như cùng lúc với environmental law chỉ chừng ba mươi năm gần đây. Đọc trang này xong tôi tìm được hai quyển “The Animal Rights Debate – Abolition or Regulation?” của Gary L. Francione và Robert Garner; và “Just A Dog – Understanding animal cruelty and ourselves” của Arnold Arluke.

Tôi không chắc tôi sẽ tìm được câu trả lời cho những thắc mắc kỳ cục của tôi, tuy nhiên, đây là bước đầu để tìm hiểu về sự khác nhau trong văn hóa ẩm thực của Việt Nam và Hoa Kỳ. Đặc biệt là món thịt chó.


Những điều thú vị chung quanh chuyện ăn thịt chó.
Người châu Âu, có nhiều đồng cỏ nên chuyên về nuôi bò, cừu, và dê. Chó khỏe, chạy nhanh, khôn ngoan, có thể giúp chủ rất nhiều trong việc lùa đàn thú về trại hay săn tìm những con thú đi lạc. Do nhiều năm tiếp xúc với chủ nhân nên tình cảm thân thiện giữa thú và người phát triển. Tuy nhiên, ra luật bảo vệ súc vật nói chung, chó nói riêng, chưa chắc đã nhân từ và người ăn thịt chó không hẳn là người dã man.

Từ năm 1986, người Đức cấm bán hay ăn thịt chó. Tuy nhiên, vào những năm có chiến tranh hay thiếu thốn, thịt chó được bán công khai. Từ năm 1898 cho đến năm 1925, The New York Times đăng nhiều tin dân Đức bán và ăn thịt chó[1]. Những bài báo này, làm tôi tự hỏi, liệu đây có phải là một hình thức người Mỹ kỳ thị người Đức vì họ là phe đối nghịch với Hoa Kỳ. Năm 1933 cho đến năm 1938, đảng Nazi cho ban hành bộ luật bảo vệ thú vật soạn thảo rất qui mô. Bộ luật này bao gồm luật sát sanh theo phép Kosher, luật cấm săn bắn, luật chuyên chở thú vật từ nơi này đến nơi khác bằng xe hay tàu hỏa. Arnol Arluke và Boria Sax cho rằng Nazi soạn bộ luật này với âm mưu sẽ xem loài người như súc vật chứ không xem súc vật như con người.[2]

Ở Hoa Kỳ, chữ dog được dùng để chỉ sausage (thịt dồi, xúc xích). Vào năm 1845 người ta phát hiện trong thịt dồi có pha lẫn thịt chó từ đó phát xuất chữ hot dog. Việc bắt trộm chó không chỉ xảy ra ở Việt Nam mà còn ở nhiều quốc gia khác, Nhật Bản và Hoa Kỳ chẳng hạn. Những năm người ta dùng phương pháp vivisection mổ động vật có xương sống lúc đang sống để quan sát hoạt động nội tạng của động vật vẫn còn đang tiếp nhận tín hiệu của não bộ, chó thường bị bắt trộm đem bán cho các phòng thí nghiệm. Năm 1891, ở tiểu bang Indiana, môn thuốc dùng để trị bệnh lao phổi là thịt chó.

Người ta có đủ thứ niềm tin để lý luận ăn thịt chó là cần thiết. Người Ba Lan dùng mỡ chó để trị bệnh. Người Trung quốc tin là trong thịt chó có vị thuốc. Mùa Đông ăn thịt chó làm cho người ấm. Ngược lại, người Hàn quốc tin là ăn thịt chó có thể điều tiết nhiệt độ trong người, hoặc giải nhiệt. Họ ăn thịt chó nhiều nhất vào ba ngày nóng nhất trong năm.

Đa số người Nam Hàn không ăn thịt chó, nhưng có một số ít người có quan niệm chọn món ăn là quyền tự do cá nhân. Năm 1984 họ cấm bán thịt chó nhưng không kiểm soát nghiêm ngặt ngoại trừ lúc tổ chức Thế Vận Hội ở Seoul. Tháng 3/2008 một nhóm người vận động đòi được quyền công khai bán thịt chó, mở nhà hàng thịt chó nhưng không được chấp thuận. Loại chó người Nam Hàn nuôi để ăn thịt là loại chó đặc biệt thuộc giống Nureongi hay Hwangu, không phải pet.

Người miền Bắc Việt Nam ăn thịt chó nhiều hơn người miền Nam. Người ta tin là ăn thịt chó sẽ được cường dương và giải xui nhất là vào dịp cuối năm và cuối tháng âm lịch. Một con chó độ 20 kg có thể bán được 100 Mỹ kim, tương đương với một tháng lương trung bình của công nhân vì thế chó ở VN thường hay bị trộm. Không có tài liệu để kiểm chứng cụ thể, người ta nói rằng giới Công giáo thường hay ăn thịt chó nhất là vào dịp Giáng sinh. Tôi, người viết bài này, nghĩ rằng rất có thể đây là sự biến thể của nghi thức tế lễ từ thời xa xưa của người Celtic sống ở Anh đến Việt Nam theo các nhà truyền giáo. Người ta thường tế lễ bằng dê và cừu, nhưng sang đến Việt Nam thì dê và cừu biến thành nai đồng quê.

Do ảnh hưởng của Phật giáo, Thiền giáo, và Thần đạo, người Nhật không ăn thịt chó. Tuy nhiên, thịt chó rất phổ biến ở Nhật-bản mãi cho đến năm 675 sau Công Nguyên khi hoàng đế Temmu ra lệnh cấm ăn thịt chó từ tháng 4 cho đến tháng 9. Vị Hoàng đế này ra trận thường xuyên, khi đi đánh giặc ông thường mang theo con chó. Ông cho rằng ăn thịt chó sẽ mang sự xui xẻo đến cho ông. Năm 2008 nhập cảng 5 tấn thịt chó từ Trung quốc trong khi chỉ mua vào 4, 714 tấn thịt bò.

Bạn đọc thích xem phim, thế nào cũng biết phim Hachiko. Phim dựa vào câu chuyện có thật và đẹp như huyền thoại. Chủ của Hachiko là giáo sư dạy ở đại học Tokyo. Hằng ngày Hachiko theo chủ ra nhà ga Shibuya đưa ông đi làm và buổi chiều ra nhà ga đón ông về. Ông đột ngột qua đời trong lúc giảng bài (vì thế không về bằng tàu hỏa). Hachiko đợi chủ ở nhà ga hằng ngày cho đến khi qua đời, nhất định không rời nhà ga này dù vợ con của ông giáo sư tìm cách đưa chó về và dời chỗ ở. Phim này về sau được quay lại bởi đạo diễn Lasstrom và diễn viên là Richard Gere. Người ta ngưỡng mộ Hachiko đến độ đúc tượng đồng con chó này. Phim làm tôi tưởng tượng tất cả mọi người đàn ông Nhật đều đẹp trai và yêu chó như Gere vì thế hơi ngỡ ngàng khi thấy người Nhật nhập cảng thịt chó nhiều hơn thịt bò. Sau khi người Nhật đầu hàng vào năm 1945, toàn nước Nhật chỉ còn lại 16 con chó giống Akita. Đây là loại chó săn, mõm ngắn, tai vểnh, lông dày, sống ở miền bắc của Nhật, nơi gọi là xứ tuyết, rất khôn ngoan và trung thành. Vào những năm chiến tranh, thực phẩm khan hiếm, chính quyền và quân đội Nhật kêu gọi toàn dân bán chó, nộp chó, để phục vụ trong chiến tranh. Để thuyết phục người dân, tượng chó Hachiko bị hạ xuống và đem dấu đi. Bộ da chó được dùng làm lớp lót bên trong áo khoác của quân phục. Ai có chó mà không chia sẻ thịt với láng giềng bị xem là ích kỷ. Trong thời gian này chó thường bị ăn trộm hay bắt cóc.[3]

Tin một người ăn trộm một con chó hai lần để đem bán cho người ta giết lấy thịt khiến dân cư mạng bàn tán và chia thành hai phái, một bên đòi giết tên trộm, bên kia kêu lên dù gì cũng không thể lấy mạng người để trả thù cho chó. Chó có quý hơn mạng người hay không? Chó không biết nói nên mình không biết câu trả lời của nó. Giữa loài người, dù bạn đứng ở phía nào, nếu là một người có lòng nhân, trả lời câu hỏi này thế nào cũng có chút áy náy xót xa. Dĩ nhiên, tôi không đồng tình với chuyện giết người đòi mạng nhưng trộm chó là một hành động sai lầm cần phải được xét xử bằng pháp luật. Sự giận dữ của đám đông đòi xử tử người trộm chó có thể là một cách biểu lộ là người dân không còn tin tưởng vào pháp luật của chính quyền đương nhiệm. Mức độ trừng phạt phải xứng đáng với tội phạm phát nhưng như thế nào thì xứng đáng? Giá một con chó bằng một tháng lương, phạt tiền gấp đôi cộng thêm phí tổn tòa án. Mấy thằng trộm ấy làm gì có tiền mà phạt. Nhà tù ở đâu có nhiều đủ để chứa và nuôi cơm mấy tên trộm chó chứ. Ngay cả ở Hoa Kỳ, tội hành hạ súc vật cũng khó được xử lý theo đúng luật pháp vì không đủ tiền và nhân lực. Xử chuyện người còn không xuể ai hơi sức đâu mà quan tâm đến chuyện chó.

Tóm lại, không chỉ nước nghèo mới ăn thịt chó. Hàn quốc và Nhật bản là hai nước giàu mạnh về kỹ nghệ, và Nhật có truyền thống văn hóa lễ độ bậc nhất thế giới cũng tiêu thụ thịt chó. Người Mỹ không ăn thịt chó nhưng không có quyền áp đặt lên các quốc gia khác quyền tự do ăn uống. Người Việt ăn thịt chó không vì người Hàn, người Nhật, hay người Trung ăn và cũng không ăn thịt chó bởi vì bắt chước người Tây phương. Cái ý tưởng nuôi chó như nuôi cừu dê heo bò lấy thịt, thịt chó ở Việt Nam sẽ là một trong những món ngon nhất thế giới là một ý tưởng hay, có thể là một hình thức kinh doanh đắc lợi. Loài người quan niệm thú vật sinh ra là để phục vụ con người. Người ta giết gấu lấy lông lấy mật lấy bàn tay, giết voi giết tê giác lấy ngà, giết trăn và cá sấu lấy da lấy thịt. Thú vật là một kỹ nghệ lớn, chẳng những nuôi sống mà có khi còn đưa loài người đến chỗ giàu có và đầy quyền lực. Ngay cả khi yêu thú vật người ta cũng vô tình hành hạ thú vật như nhốt chim trong lồng, thiến chó thiến mèo để đoạn sản, thậm chí có người còn thuê bác sĩ thú y rút móng mèo để khỏi cào phá nệm ghế nệm giường, giết chó hoang để tránh trường hợp chó bị bệnh điên và cắn người.

Sau khi ngâm cứu loạt bài về thịt chó này tôi cũng hiểu rõ tôi hơn. Nếu thật sự yêu thú vật thì người ta nên ăn chay. Tôi không ăn chay vì vẫn còn thích ăn thịt. Tôi chưa hề ăn thịt chó nên không biết thịt chó ngon như thế nào. Có được thử món chân lợn giả cầy nhưng không thấy hấp dẫn lắm. Không thể nào biết được trước khi lâm chung tôi lại không gào thét đòi ăn một miếng thịt chó giống như một nhân vật ni cô suốt đời ăn chay lại đòi nước mắm trước khi qua đời. Với tôi, một chàng trai ôm con chó nhỏ trên tay, hay cúi người rót nước vào cái đĩa cầm trên tay cho chó uống, thấy đáng mến hơn là nhìn thấy những người mặt đỏ lựng hô hào hò hét “dzô, dzô” trước đĩa thịt chó và mắm tôm. Nếu tôi đi ngang một cửa hàng thịt chó, gia vị thơm lừng, và tôi đang đói meo thì có thể tôi sẽ cầm lòng không đậu. Bạn đọc đến đây sẽ cười bảo rằng tôi là người ba phải, nhiều trang chữ chẳng đưa đến một kết luận nào, hay đứng hẳn về phía nào. Thế viết bài này để làm gì? Để thỏa mãn tính tò mò, để biết vì sao người ta ăn hay không ăn thịt chó. Biết để làm gì. Chẳng làm gì cả. Biết thôi, bộ chẳng đủ hay sao?



[1] http://en.wikipedia.org/wiki/Dog_meat

[2] http://en.wikipedia.org/wiki/Animal_rights

[3] Sherrill, Martha, “Dog Man” – An Uncommon Life on a Farwaway Mountain, New York, The Penguin Press.



Nguyễn Thị Hải Hà

Thứ Ba, 16 tháng 6, 2015

ĐƯỜNG ĐẾN ANH EM. ĐƯỜNG ĐẾN BẠN BÈ...








 
 Duyên. Nét vẽ Đinh Cường




Có những con đường thật đẹp, tôi qua...
Đường đến anh em.
đường đến bạn bè*
Hoa ven đường, nắng long lanh. mắt.
Tim rộn ràng, gió đỡ bước chân. vui.
Lòng rộn rã, mong đường dài ngắn lại,
đưa tôi tìm về khuôn mặt cũ. mới. thân quen...
Và như thế, tôi thấy yêu cuộc đời,
bằng trái tim hồn nhiên


Đường đến anh em,
đường đến bạn bè*
Những con đường, không thể đổi tên.
đã khắc ghi trong tim của từng người,
có tôi và có bạn,
có anh chị, có em
Làm sao xoá được một điều gì,
đã giữ trong trái tim?
Thế nên,
tên đường, sẽ luôn là vĩnh cửu...


Trên đường đời có vạn lối đi...
Có gian nan, có nguy nàn,
Chúa. Phật. thử thách ta.
Có chông gai, có cạm bẫy,
của loài người?
Có thật thà, có an vui,
do lòng mình lựa chọn...


Và có con đường,
không đổi tên...


Xin mãi là anh em, xin mãi, bạn bè.
hoa mãi nở, trên ven đường, tôi đến...
cho tôi, không bao giờ, lạc mất lối đi. quen...


Duyên.


* Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui, lời nhạc Trịnh Công Sơn.

VẪN TRONG MÙA PHẬT ĐẢN. CÕI PHẬT ĐÂU XA!




Đỗ Hồng Ngọc



DucPhatThichCa

Có người cắt tóc lên núi cao tìm cõi Phật. Có người khoác áo nâu sồng vào rừng sâu tìm cõi Phật. Có người xây chùa to, dựng tượng, đúc chuông lớn tìm cõi Phật... nhưng cõi Phật làm gì có trên núi cao, trong rừng sâu, trong chùa lớn?
Khi được hỏi cõi Phật ở đâu? Phật trả lời “Các loài chúng sanh là cõi Phật của Bồ tát” (chúng sinh chi loại thị Bồ-tát Phật độ). Thì ra vậy. Thì ra cõi Phật của Bồ tát không ở đâu xa. Ở nơi các loài chúng sanh thôi. Quanh ta và trong ta thôi. Đó là những chúng sanh muôn hình vạn trạng, nheo nhóc, khổ đau, chằng chịt, quấn quít, xà quần sáu nẻo luân hồi bay nhảy không ngừng sáng trưa chiều tối, kiếp này kiếp khác, quần quật không an. Bồ-tát chỉ cần “thành tựu” chúng sanh đó, tức thì cõi Phật hiện ra ngay. Không phải tìm kiếm đâu xa. Nhưng thật không dễ. Chúng sanh ngoan cường, cứng cỏi, lì lợm ở cõi Ta-bà này không dễ mà hàng phục, không dễ mà trụ lại một chỗ an vui. Nhưng cũng chính nơi cõi Ta-bà đầy gian khó này mới cần có Bồ-tát, và ngược lại, cũng là nơi Bồ-tát hoàn thiện chính mình. Không có chúng sanh cũng chẳng cần Bồ-tát! Cho nên khi Bồ-tát “thành tựu chúng sanh” thì chúng sanh cũng “thành tựu Bồ-tát” vậy.
Ý dẫn các pháp. Nhất thiết duy tâm tạo (mọi thứ do tâm tạo ra). Tâm tịnh thì Phật độ tịnh. Tìm kiếm đâu xa. Hãy quay về nương tựa chính mình. Phật đã chẳng khuyên như vậy từ khởi thủy sao? Cớ sao ta cứ mãi loay hoay, mãi chạy vạy, mãi tìm kiếm đâu đâu? Mấy ngàn năm trước, đệ tử giải Không hạng nhất của Phật đặt câu hỏi: “Vân hà ưng trụ? Vân hà hàng phục kỳ tâm?” (An trụ tâm cách nào? hàng phục tâm cách nào?). Phật nói dễ lắm, dễ lắm, chỉ cần “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (đừng có trụ cái tâm vào đâu cả!) là xong. Nhưng đâu có dễ mà “vô trụ”. Ta hết trụ thứ này thì trụ thứ kia, hết trụ người này thì trụ người khác, chỉ quên… trụ vào chính mình. Nghĩa là… trụ vào cái không của chính mình. Phải. Khi Bồ tát Quán tự tại (tức Quán Thế Âm) hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa một cách thâm sâu thì bỗng bừng ngộ thấy rõ ngũ uẩn đều không: “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”, tức khắc “độ nhất thiết khổ ách” nghĩa là đưa tất cả khổ đau ách nạn đi chỗ khác, tâm trở nên hoàn toàn thanh tịnh và như thế cõi Phật đã hiện tiền! Từ đó mà đã có thể “từ nhãn thị chúng sanh”, nhìn chúng sanh với con mắt đầy yêu thương, thấu cảm, bởi cõi Phật đó ai cũng sẵn có, chỉ vì không thấy biết mà “luân hồi sanh tử” mải miết đó thôi!


Buổi mai hôm đó, Phật vừa rời khỏi tịnh thất sau ba tháng an cư kiết hạ, đưa mắt nhìn các đệ tử mình nghiêm trang tu tập, người ngồi dưới gốc cây, người ngồi trên tảng đá, tất cả đều tinh cần, chánh niệm, tỉnh giác, tất cả đều sống một đời sống đạm bạc, kham nhẫn, tri túc đúng như lời Phật dạy, ngài rất hài lòng. Đa số các vị này đã là A-la-hán, đã tròn đầy phạm hạnh, đã đặt gánh nặng xuống và đã… vô sinh, không trở lại cõi Ta-bà ô trược này nữa. Một số vị Bồ-tát lớn thì đang rày đây mai đó, bươn chãi nơi này nơi kia, thuyết giảng cho chúng sanh con đường giải thoát còn số Bồ-tát nhỏ mới tu thì đang quét lá, dọn dẹp chỗ trú sau mùa mưa bão.
Nơi Phật an cư kiết hạ mùa này không xa thành Tỳ-da-ly dưới kia, một thành phố lớn, một đô thị giàu có, dân cư đông đúc, nơi chúng sanh người thì nheo nhóc lặn ngụp trong bao nỗi lo toan, sợ hãi, ốm đau, già nua bệnh hoạn…, người thì trọc phú huênh hoang, nứt đố đổ vách, lặn ngụp trong cảnh xa hoa, lên xe xuống ngựa, kẻ hầu người hạ, bên cạnh là các vương tôn công tử áo gấm quần hoa ăn chơi trác táng, tửu điếm trà đình, và rất nhiều thanh lâu sang trọng với những cô kỹ nữ khuynh thành đón người cửa trước rước người cửa sau và rượu, và thuốc gây nghiện tràn lan; bên cạnh đó là những bậc trí giả ngày đêm tranh luận không ngừng về những triết thuyết cao siêu huyền bí, giải thích mọi hiện tượng của vũ trụ và loài người, ai cũng cho mình đúng nhất hay nhất. Nơi thành Tỳ-da-ly đó không ít kẻ vì tranh ngôi đoạt vị mà tay không ngần ngại nhúng máu nhúng chàm, gây oán chuốc thù, chiếm đất giành dân không ngớt…
Thành Tỳ-da-ly rực rỡ ánh đèn dưới kia khiến Phật thấy đã đến lúc phải thay đổi cách tiếp cận mới mong giải thoát được chúng sinh. Làm sao mà các vị A-la-hán, các vị Bồ-tát đạo cao đức trọng đã xuất gia theo Phật bấy nay đang tĩnh tọa xung quanh Phật bây giờ lại có thể tiếp cận được với các bậc vương tôn công tử, với các quan chức, với các nhà buôn dưới kia? Làm sao mà các vị A-la-hán, các vị Bồ-tát đạo cao đức trọng đã xuất gia theo Phật bấy nay tiếp cận được với các cô nàng kỹ nữ nhan sắc kiêu kỳ ở các thanh lâu trà đình tửu điếm dưới kia? Làm sao mà các vị A-la-hán, các vị Bồ-tát đạo cao đức trọng lại có thể vào tận các ổ mại dâm, động ma túy sa đọa dưới kia để thuyết giảng lời Phật? Nhớ lại có lần một đệ tử đi khất thực suýt nữa thì rơi vào tay một kỹ nữ, Phật không khỏi băn khoăn. Ai đây có thể tiếp cận được? Cách nào đây có thể tiếp cận được? Ai đây sẵn lòng xâm nhập vào chốn bùn nhơ mà đủ năng lực giúp đỡ, hỗ trợ người khác vượt qua, không chỉ với những lời khuyên suông, lý thuyết trên mây, cao ngạo và xa cách, mà từ những thực tế của cuộc sống vì Phật đạo không xa cách thế gian, Phật đạo ở ngay trong lòng thế gian. Làm sao cho những cánh sen xanh biếc mọc lên từ chốn bùn nhơ?
Phật là một nhà sư phạm tuyệt vời, thường dùng phương pháp giáo dục chủ động, dựa vào đối tượng đích mà thuyết giảng, thế mà cũng có lúc hằng mấy ngàn thính chúng đã bỏ đi vì không thể tin, không thể hiểu được điều Phật dạy. Người ta không dễ tin có viên ngọc trong chéo áo kẻ bần cùng, không thể tin Đề-bà-đạt-đa, một người phạm tội vô gián như thế được Phật thọ ký thành Phật mai sau.


Cách tốt nhất để tiếp cận ở đây là phương pháp “tiếp cận dựa vào cộng đồng” (Community-based approach). Cộng đồng Tỳ-da-ly có những đặc thù của nó, phải tiếp cận dựa vào nó, tự trong nó. Không thể đưa các vị A-la-hán đạo cao đức trọng, phạm hạnh tròn đầy, đến thuyết phục được các bậc vương tôn công tử, doanh nhân thành đạt, các cô kỹ nữ lầu xanh... Không thể đưa các vị Bồ-tát trí huệ thâm sâu đến thuyết phục các bậc vương tôn công tử, doanh nhân thành đạt, các cô kỹ nữ lầu xanh... về nhất thiết duy tâm, vô thường vô ngã, thực tướng vô tướng…! Phải có người tại chỗ. Phải từ bùn mà sen mọc lên. Có lần các vị Bồ-tát phương xa đến cõi Ta-bà tình nguyện giúp Phật một tay, Phật từ chối và ngay lúc đó đã có vô số các Bồ-tát “tùng điạ dũng xuất”, tại chỗ, từ đất vọt lên, sẵn sàng lãnh trách nhiệm. Phương pháp tiếp cận dựa vào cộng đồng này đòi hỏi phải có sự tham gia của cộng đồng (community involvement), và có kỹ thuật học thích hợp (appropriate technology)… mới thành công. Không có sự tham gia của cộng đồng, không sử dụng kỹ thuật học thích hợp… thì các phương pháp dù hay cách mấy mà áp đặt, xa lạ, cũng trở nên vô ích, thui chột vì không hợp “thổ ngơi”!
Đối tượng đích (target population) lần này là năm trăm con nhà trưởng giả, trẻ tuổi, vương tôn công tử, đại gia, doanh nhân, trí thức của thành Tỳ-da-ly. Tất cả họ đều đã phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề (Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác) … nhưng chưa biết cách phải thực hành thế nào vì họ không thể xuất gia như các vị Bồ-tát kia.
Vấn đề là làm thế nào để các vị trưởng giả trẻ tuổi, doanh nhân, trí thức… này có thể trở thành Bồ-tát ngay tại cộng đồng của họ mà không cần phải cắt tóc, đầu tròn áo vuông của một vị sa môn?


Thực ra buổi thuyết giảng đặc biệt hôm nay của Phật tại Vườn Xoài không chỉ dành cho “đối tượng đích” nói trên mà chủ yếu còn dành cho tất cả các vị A-la-hán, Bồ-tát cùng các đệ tử gần xa của Phật, để chính họ tự nhìn lại chính mình và cũng phải tự thay đổi. Bởi thay đổi “cái nhìn” vốn là một sự thay đổi không hề dễ dàng! Phật muốn giới thiệu một phương pháp tiếp cận mới, tiếp cận dựa vào cộng đồng qua một “mô hình” Bồ-tát mới, “Bồ tát tại gia”, qua hình tượng một nhân vật kiệt xuất Duy-ma-cật ở ngay trong thành Tỳ-Da-Ly vậy.
Cho nên lần này đến Vườn Xoài của Am-ba-pa-li có đến tám ngàn Đại Tỳ-kheo, ba mươi hai ngàn vị Bồ-tát, mười ngàn Phạm Thiên Vương, mười hai ngàn vị thiên đế, chư thiên, long thần, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, thảy đều đến ngồi nơi pháp hội. Có đủ các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di.


“Trong thành Tỳ-da-ly có một chàng con nhà trưởng giả, tên là Bảo Tích, cùng năm trăm chàng con nhà trưởng giả khác, thảy đều cầm những lọng bảy báu, đến nơi Phật ngự, đầu và mặt làm lễ sát chân Phật. Mỗi chàng đều đem lọng của mình mà cúng dường Phật. Oai thần của Phật khiến cho các lọng báu hiệp thành một cái lọng duy nhất, che trùm cả thế giới tam thiên đại thiên.”


Năm trăm vị vương tôn công tử, trí thức, doanh nhân… của Tỳ-da-ly đến diện kiến Phật, ai nấy đều trình bày cái hay cái giỏi của mình, cái “logo” với cờ xí oai hùng của mình nhưng Phật đã tức khắc “khiến cho các lọng báu hiệp thành một cái lọng duy nhất”. Bởi không có gì chia chẽ ở đây. Bình đẳng tuyệt đối. Buổi thuyết giảng này là về một mô hình mới: Bồ-tát tại gia Duy-ma-cật với Pháp môn Bất Nhị, Bất khả tư nghì!

Bảo Tích thưa: ”Bạch Thế Tôn! Năm trăm chàng con nhà trưởng giả đây, thảy đều đã phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, nay muốn nghe việc được quốc độ thanh tịnh của Phật. Xin đức Thế Tôn giảng thuyết các hạnh tịnh độ của chư Bồ Tát.”

Phật dạy: “Lành thay, Bảo Tích! Ông đã vì chư Bồ-tát hỏi Như Lai về hạnh tịnh độ. Hãy lắng nghe, lắng nghe! Hãy suy nghĩ cho kỹ. Ta sẽ vì ông mà giảng thuyết.”
“Các loài chúng sinh là cõi Phật của Bồ-tát. Tại sao vậy? Bồ-tát tùy theo chỗ giáo hóa chúng sinh mà giữ lấy cõi Phật. Tùy theo chỗ điều phục chúng sinh mà giữ lấy cõi Phật. Tùy các chúng sinh muốn dùng cõi nước nào để vào trí huệ Phật mà giữ lấy cõi Phật. Tùy các chúng sinh muốn dùng cõi nước nào để phát khởi căn Bồ-tát mà giữ lấy cõi Phật. Tại sao vậy? Bồ-tát giữ lấy cõi nước thanh tịnh là vì muốn làm lợi ích cho chúng sinh. Nhưng nếu muốn xây cất nơi hư không thì không thể được. Bồ-tát cũng vậy, vì muốn giúp cho chúng sinh được thành tựu, cho nên nguyện giữ lấy cõi Phật. Việc nguyện giữ lấy cõi Phật đó, chẳng phải là việc xây cất nơi hư không.”.
“Bảo Tích! Bồ Tát tùy lòng ngay thẳng (trực tâm) mà khởi làm. Tùy chỗ khởi làm mà được lòng sâu vững (thâm tâm). Tùy lòng sâu vững mà tâm ý được điều phục. Tùy chỗ điều phục tâm ý mà làm được theo đúng như thuyết dạy. Tùy chỗ làm theo đúng như thuyết dạy mà có thể hồi hướng. Tùy chỗ hồi hướng mà có sức phương tiện. Tùy sức phương tiện mà giúp cho chúng sinh được thành tựu. Tùy chỗ thành tựu cho chúng sinh mà được cõi Phật thanh tịnh. Tùy cõi Phật thanh tịnh mà thuyết pháp thanh tịnh. Tùy chỗ thuyết pháp thanh tịnh mà trí huệ được thanh tịnh. Tùy trí huệ thanh tịnh mà tâm được thanh tịnh. Tùy tâm được thanh tịnh mà tất cả công đức đều thanh tịnh. Bảo Tích! Cho nên, nếu Bồ-tát muốn được cõi nước thanh tịnh hãy làm cho tâm thanh tịnh. Tùy tâm thanh tịnh, ắt cõi Phật thanh tịnh”.


“Muốn được cõi nước thanh tịnh hãy làm cho tâm thanh tịnh. Tùy tâm thanh tịnh, ắt cõi Phật thanh tịnh”.
Cho nên, cõi Phật đâu xa đó vậy!


Đỗ Hồng Ngọc

Loạn thánh, loạn thần’ ở VN tới mức nào?






Tác gỉa: Hoàng Xuân (Nhà báo tự do, gửi cho BBC từ Sài Gòn)


Ranh giới giữa thế nào là tôn giáo, tín ngưỡng đích thực và ‘dị đoan, mê tín’ dường như chưa được rõ ràng ở Việt Nam, theo tác giả.

Cách đây mười mấy năm, có hôm tôi đi về tối thấy trên góc phố Hàng Bột (nay là đường Tôn Đức Thắng) đoạn cắt với phố Nguyễn Thái Học, Hà Nội, ngay trên lề đường sáng trưng nhang đèn, người đông đen khấn vái xì xụp.

Hỏi thì biết đoạn ấy ngày xưa gọi là miếu hai cô, thờ hai cô gái nghe đồn là lao đầu vào xe điện chết hồi đầu thế kỷ 20. Đến tận năm ngoái, thành phố cho rước bát hương vào đền thờ và phá bục thờ ở lề đường đi, quây rào và cho người túc trực ở đó, dân vẫn đến cúng vái.

Bây giờ, không quá lời khi nói niềm tin của người Việt là tin búa xua. Xưa, cái thời y học chưa phát triển, ông bà nói “có bệnh thì vái mười phương”, cầu may trúng phương nào nhờ phương ấy.

Giờ, căn bệnh trong tâm của người Việt cũng rất nặng. Nó xuất phát từ thực trạng xã hội bất an, pháp luật không nghiêm minh tạo nên một đời sống quá nhiều bất trắc. Từ khi còn trong thai đến khi xuôi tay, người Việt luôn nơm nớp.

Bệnh viện quá tải và hay “nhầm”, thực phẩm bẩn, môi trường ô nhiễm, tai nạn giao thông cao nhất nhì thế giới, bạo lực trong xã hội tăng, thậm chí có một câu truyền miệng nghe có vẻ khoa trương nhưng hoàn toàn chính xác “sáng bước ra cửa, tối về đến nhà mới yên tâm mình còn sống”.

Ngày xưa, khi Thái tử Tất Đạt Đa rũ bỏ ngôi báu và đời sống tột đỉnh cao sang để khổ tu nhằm khuyên mọi người không thiên danh lợi, Ngài chắc không hình dung nổi ngày nay rất nhiều nhà chùa Việt Nam đã trở thành một thứ cung điện còn xa hoa hơn nhiều lần .(Hoàng Xuân)

Không biết tin vào đâu, kể cả vào những hệ thống xã hội sinh ra với mục đích bảo vệ người dân, trong khi nhu cầu được trấn an lên rất cao, vậy thì phải tin ở thánh thần. Cả xã hội nháo nhác đi tìm niềm tin, bấu víu được đâu tin nấy. Tưởng như bây giờ, bất cứ cái gì cũng là thần thánh tiềm năng cả.

Một con rắn dạn dĩ ở Hà Giang, một hòn đá hình dạng khác lạ ở huyện Phú Xuyên, Hà Nội, một cái cây mọc tán lá hiếm thấy… ngay lập tức, một đám đông từ xa lắc mò tới, vái lạy.

Thậm chí mua xe hơi cũng phải có bài cúng bài bản, gồm cả đồ chay lẫn đồ mặn và nhất thiết không được thiếu bộ quần áo tế thay người lái, tùy giới tính chủ nhân mà mua đồ nam hay nữ.

Trên một diễn đàn lớn dành cho phụ nữ, có người bán xe kể về một người mua:

“Khi đi xem xe bác ấy phải đi kèm 2 người hạp tuổi hạp mạng, đi đúng 12h trưa. Rồi do thủ tục chuyển vùng bị trục trặc nên bác ấy không lấy xe được đúng theo ngày giờ chỉ đạo của vợ. Thế là vẫn đến đúng ngày giờ ấy bác sắm sửa lễ vật trái cây nhang đèn, mượn chìa khóa xe nổ máy, hướng về phía Bắc mà khấn”. Cũng chỉ để cầu bình an.

Người nghèo vái cục đá, tán cây, con rắn nước. Người giàu đến những nơi thờ phượng ngày càng to lớn và xa hoa. Cái sau phải to lớn hơn, tốn nhiều tiền hơn cái trước. Hết chùa Bái Đính nghìn tỷ đến Văn Miếu thờ Khổng Tử xây hết trên 300 tỷ đồng ở tỉnh Vĩnh Phúc.

Ngay cả Phật giáo

Tác giả cho rằng có chuyện niềm tin tôn giáo, tín ngưỡng ‘hời hợt, hình thức bề ngoài’ trong cộng đồng ở Việt Nam.

Ngay cả Phật giáo vốn lấy sự đơn sơ làm nguyên lý tu tập thì bây giờ chùa cũng rực rỡ sang trọng.

Năm 2011, chùa Sùng Đức, quận Thủ Đức TP. Hồ Chí Minh có bốn pho tượng Phật bằng ngọc bích nguyên khối, mỗi pho khoảng 60 kg, mặt tượng dát vàng, phần áo phật cẩn gần 2.000 viên kim cương nhân tạo.

Thì năm sau, Đại hội Phật giáo Việt Nam hoan hỉ báo tin trong thời gian diễn ra đại hội sẽ trưng bày bức tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông cũng từ một khối ngọc bích nặng 4, 5 tấn nhập về từ Canada, phần đầu cũng thếp vàng toàn bộ, tạo tác xong còn trên 2 tấn. Dường như tượng càng to, càng đắt tiền thì chùa càng được tiếng là giàu phật tính, danh tiếng nhà chùa càng vang xa.

Ngày xưa, khi Thái tử Tất Đạt Đa rũ bỏ ngôi báu và đời sống tột đỉnh cao sang để khổ tu nhằm khuyên mọi người không thiên danh lợi, Ngài chắc không hình dung nổi ngày nay rất nhiều nhà chùa Việt Nam đã trở thành một thứ cung điện còn xa hoa hơn nhiều lần.

Con đường chánh niệm đã bị rời xa. Bản thân không ít những người tu hành mê lầm nên không đảm đương được vai trò hướng dẫn niềm tin cho cộng đồng được nữa. Bù lại, những “tôn giáo” mới đẻ ra với đủ thứ quái dạng.

Có “đạo” xui người ta mua đồ cúng tốn hết vài chục triệu, mua cả con heo quay rồi đào hố chôn tất, không được ăn miếng nào. Đồ dùng trong nhà phải dỡ ra bán sạch, lấy tiền góp cho đạo chủ. Không được làm việc.

Từ nhiều năm nay, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn được vận động làm theo ‘tấm gương đạo đức’ Hồ Chí Minh. Nhưng ‘tấm gương’ này xa quá (Hoàng Xuân)

Có “đạo” bắt người mẹ đẻ dùng kim và dùi nóng chích vào đứa con mới mấy tháng tuổi của mình đến thủng lỗ to trên người, chỉ vì nó hay khóc, “có ma nhập vào người”. Vậy mà vẫn có nhiều người tin theo, chính quyền dẹp lên dẹp xuống nhiều lần không dứt.

Tại chùa Vân Tiêu, Yên Tử (Quảng Ninh) nơi Phật hoàng Trần Nhân Tông tu tập, người ta từng đặt cúng hai chiếc lộc bình trên có đôi câu thơ tả cảnh ân ái theo điến tích tình dục nổi tiếng của Trung Hoa:

Nhất chi hồng diễm lộ ngưng hương
Vu sơn vân vũ uổng đoạn trường”
 (“Một nhành hồng thắm móc ngưng hương
Chuyện mây mưa ở Vu Sơn vốn đoạn trường”
 – Tiến sĩ Trần Trọng Dương, Viện nghiên cứu Hán Nôm dịch nghĩa).

“Phật hoàng ngồi ở đỉnh Vân Tiêu chơi cánh diều. Cụ chơi diều chứ chơi gì những cái Vu Sơn Vu Giáp ấy!”-ông Dương nói.

Niềm tin hời hợt
Nhưng mặc dù bề ngoài có vẻ cuồng nhiệt, thực ra niềm tin vào thần thánh ở Việt Nam là niềm tin hời hợt và nông cạn. Nói đúng hơn, những người sắm lễ hậu đi van vái vé số rơi vào đầu, đối thủ bị triệt hạ hay được phù hộ thăng chức… cũng y như đi hối lộ. Họ mặc cả, đi đêm với thánh thần và sẵn sàng ngoảy đi tìm thần thánh khác linh thiêng hơn, hoặc khi sự cầu mong của mình không được đáp ứng.

Theo tác giả lâu nay ở Việt Nam nhà nước muốn người dân đặt niềm tin và làm theo ‘tấm gương đạo đức’ của cố Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhưng ‘tấm gương này’ lại ‘quá xa’.

Nhiều người nhận xét Việt Nam đang ở ‘thời mạt pháp’. Ngay những việc tốt nho nhỏ thường ngày cũng bị nghi ngờ và ném đá. Hai chữ “niềm tin” xuất hiện khắp nơi trên báo chí, diễn đàn xã hội và cả những nghị quyết của Đảng theo nghĩa phải làm gì để tìm lại nó.

Nhưng ai làm, và làm như thế nào?

Từ nhiều năm nay, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn được vận động làm theo ‘tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh’.

Nhưng tấm gương này xa quá. Người ta thấy việc hạch sách bắt chẹt và tham nhũng ở các tấm gương – cũng là đảng viên- gần hơn rất nhiều: từ cô nhân viên làm giấy tờ ở phường, thuế, cảnh sát giao thông, hải quan sân bay đến những người có quyền cấp phép kinh doanh, làm dự án, cho đến những cấp cao hơn thế.

Cũng có người bị phát hiện và trừng phạt, nhưng dân gian Việt Nam có câu an ủi “Trời kêu ai nấy dạ”, việc ‘các đồng chí bị lộ’ xem ra chỉ do xui xẻo chứ không phải là hậu quả tất yếu của hành vi sai trái lẽ ra phải bị pháp luật trừng trị.

Còn các ‘đồng chí chưa bị lộ’ thì ai cũng giàu lên cực nhanh, vậy việc gì phải kiêng khem cho khổ?

Thôi thì trong thời hỗn quân hỗn quan, mình cứ đụng đâu lạy đó, cho lành!

LOA



Cái loa, dù "nói" những lời thông thái vẫn chỉ là cái loa. Phát mãi, quên mất mình là loa. Nghe mãi, nhiều người tưởng loa là người. Thế là tiếp tục nói lại những gì loa đã phát.
Cứ thế, đến một lúc không thể phân biệt được loa và người, cả hai đều chỉ biết nghe và phát. Chẳng còn có sự “đối thoại” nào cả.
Ai có thể đối thoại với (những) cái loa?

Nguyễn Thị hậu

Tình và Nghĩa



Trong tiếng Việt có chữ Tình 情 và chữ Nghĩa 義. Chữ Nghĩa rất là khó dịch ra tiếng Pháp, tiếng Anh. Chữ Tình mà viết ra chữ Hán thì có chữ tâm忄 tức là trái tim phía bên trái. Bên phải có chữ thanh 青 là màu xanh, trái tim màu xanh. Ban đầu thì màu xanh mà về sau nó có thể biến thành màu khác, nhưng làm sao đừng để nó thành màu đen.

Tình ban đầu thường rất bồng bột, nóng bỏng, có tính đam mê. Khi con người bị năng lượng của tình chiếm cứ thì họ không được an ổn lắm. Ăn không an mà ngủ cũng không an, họ như đang bị đốt cháy. Tình là ngọn lửa. Người nào qua cầu rồi thì mới hay. Vướng vào chữ tình rồi thì khó an trú trong hiện tại lắm. Cứ nghĩ tới giây phút mình sẽ được gặp người đó, được ngắm người đó, ngồi ngắm đủ no rồi, khỏi ăn. Càng nhiều trở ngại chừng nào thì đam mê đó càng lớn. Trở ngại là chất liệu làm cho tình càng lớn. Dễ dàng quá thì tình không lớn mạnh.

Ngày xưa khi chưa có e-mail, chưa có téléphone, đôi khi mình đợi một lá thư tình cả tuần này sang tuần khác. Đáng lý hôm qua lá thư tới rồi, nhưng sao nó chưa tới?

Mình đợi suốt hai mươi bốn giờ đồng hồ cho đến lúc ông phát thư đi ngang trước ngõ. Ông thường đến lúc mười giờ sáng, thì chín giờ mình đã bắt đầu đứng đợi. Ông phát thư sáng nay sao đi trể quá, đi chậm quá, mình đếm từng bước của ông đi. Nếu ông đi ngang mà không dừng lại thì mình buồn lắm, lại phải đợi thêm hai mươi bốn giờ đồng hồ nữa. Tây Phương họ ví khi yêu như bị té (tombé d’amour), đang đi bình thường tự nhiên té xuống. Người Việt Nam thay vì nói bị té thì nói ốm. Tây Phương cũng nói ốm. Nguyễn Bính có hai câu thơ :

Gió mưa là bệnh của trời.
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.

Trời đẹp thì không có bệnh mà hể có gió, có mưa là bị bệnh. Tương tư tức nhớ nhau, không làm ăn được gì hết. Tình thường thường không được thỏa mãn là tình sầu. Sầu tình. Ốm là ốm tương tư, tương tư là nhớ nhau. Tình yêu là một cơn bệnh, ốm tương tư tức là nhớ quá. Nhưng nếu tình yêu đó được thỏa mãn dễ dàng, nó bùng lên rất nhanh nhưng rồi nó chết cũng rất mau.

Đam mê nó lên như một ngọn lửa cao và khi rơi xuống thì cũng rất là mau, tình yêu tàn lụi rất là mau. Một cặp ở với nhau được lâu dài, cái đó không phải là nhờ tình yêu mà nhờ yếu tố thứ hai. Đó là nghĩa, tình nghĩa. Cái tình nó đưa tới cái nghĩa. Nếu cái tình đàng hoàng, nếu mình biết yêu cho đàng hoàng, thì tự nhiên nó đưa tới cái nghĩa. Chính nghĩa là keo sơn gắn chặt hai người, để hai người có thể sống được với nhau. Cho nên phải có cái nghĩa để bổ sung cái tình. Người ta không thể sống trăm năm bên nhau với tình được. Bởi tình là một ngọn lửa tàn rất mau, nghĩa trái lại nuôi dưỡng lửa tình âm ỉ cháy.

Chữ nghĩa thường đi đôi với chữ ơn: ơn nghĩa. Ơn đầu tiên mà mình nhận được là ý thức rằng : Có bao nhiêu người con gái, anh ấy không chọn mà anh chọn riêng mình? Biết bao nhiêu người con trai có bằng cấp, địa vị nàng không chọn mà nàng lại chọn mình? Ý thức đó là ơn. Tình yêu này nó không chỉ trong vòng nam nữ. Bạn bè cũng vậy, Cha mẹ cũng vậy, Thầy trò cũng vậy. Mình sinh ra một đứa con và đứa con đã chọn mình làm mẹ, chọn mình làm cha. Tại sao nó không sinh ra ở nhà khác?

Cha mẹ có thể biết ơn đứa con, sự ra đời của đứa con có thể đem lại ánh sáng và hạnh phúc cho cuộc đời còn lại, nên cha mẹ yêu thương con. Cũng như thầy trò, tại sao có nhiều thầy, người đó có thể tới quy y mà người ta chọn thầy này. Người thầy cũng biết ơn người đệ tử. Ơn đó là yếu tố của hạnh phúc. Tại sao anh không chọn người khác? Sự lựa chọn đó là do đâu mà có? Nếu chỉ là sự ham muốn sắc đẹp thôi, không đủ, phải có cái gì đó.

Ở bên Mỹ có anh chàng đó rất đẹp trai, tài ba, tốt nghiệp đại học thuộc hàng ưu tú và có việc làm lương rất lớn lại có rất nhiều cô bạn gái thật là xinh đẹp. Bà mẹ rất là ngạc nhiên khi thấy anh thân với một cô gái không phải là đẹp nhất. Cô này hơi thấp và nước da hơi đen, mà sao con trai của mình có vẻ thích cô này hơn các cô khác. Hôm đó hai mẹ con ngồi với nhau, bà hỏi có bao nhiêu người con không chọn, mà sao con chọn con nhỏ này vừa đen vừa thấp.

Anh chàng không biết trả lời làm sao hết, anh chàng chưa suy nghĩ nên khi bị hỏi bất ngờ, anh không trả lời mẹ được. Nhưng ít lâu sau anh ta quán chiếu và tìm ra câu trả lời, cô này mỗi khi anh nói chuyện thì cô lắng nghe. Anh là nhà khoa học nhưng anh cũng ưa làm thơ. Mỗi khi anh đọc thơ, cô lắng nghe và cô chứng tỏ hiểu được thơ của anh. Còn những cô gái kia cũng nghe thơ anh nhưng mà nghe do phép lịch sự thôi, bị nghe thơ chứ không thích. Cô này thì khác, cô thích thơ, cô thưởng thơ, cô tham gia thơ và cô trở thành tri kỷ của anh chàng. Trên cuộc đời này có thể tìm được một người có thể hiểu mình được thì mình là người có hạnh phúc. Món quà quý nhất mà người kia có thể tặng cho mình là hiểu được mình.

Có những người sống trong cuộc đời này nhưng chưa bao giờ tìm được một người có thể gọi là hiểu mình cả. Mà nếu mình là một người con trai hay một người con gái và trong cuộc sống này mình có thể tìm được một người có khả năng lắng nghe mình, có thể hiểu được mình, hiểu những khó khăn những khổ đau những ước vọng của mình, thì mình tìm thấy nơi người đó một tâm hồn tri kỷ.

Đời một người là để đi tìm một người tri kỷ, một người biết được mình. Tìm ra được người đó thì hạnh phúc vô cùng. Ngày xưa có một người chơi đàn rất là hay, bạn hữu không có ai hiểu được tài năng của ông ta. Người này làm quan và chưa bao giờ trong giới quan chức bạn bè thân thuộc mà tìm được người có thể hiểu được tài ba của mình.

Vì vậy mỗi lần đánh đàn ông thường đem theo vài người hầu cận lên trên núi, tìm một chỗ rất là đẹp, trải chiếu ra, pha trà, đốt trầm lên. Không khí trang nghiêm lúc đó ông mới chơi đàn. Ông cảm thấy như chỉ có suối, cây, mây, gió mới hiểu được tiếng đàn của ông. Một hôm đang đàn thì tự nhiên dây đàn bị đứt. Thay dây mới vừa đàn thêm một câu nữa thì nó đứt nữa. Ông ta nghĩ chắc có người đang nghe lén tiếng đàn. Ông đứng lên nói lớn có vị nào đang nghe lén tôi đàn xin bước ra, làm như vậy không có dễ thương. Thì tự nhiên có một anh tiều phu xuất hiện, anh tiều phu này đã nghe lén.

Anh tiều phu này có lỗ tai rất là hay, nghe và hiểu được tất cả những cái hay, cái đẹp, cái quý, cái tài ba của người đàn. Vì vậy cho nên dây đàn bị đứt. Anh chàng tiều phu tên là Chung Tử Kỳ và người đánh đàn là Bá Nha. Bá Nha lần đầu tiên tìm ra được người hiểu được tiếng đàn của mình. Tử Kỳ chấp nhận làm bạn với Bá Nha nhưng không muốn về kinh đô, chỉ muốn làm tiều phu.

Lâu lâu Bá Nha nhớ bạn, hẹn với bạn cùng uống trà, nghe đàn. Bá Nha đã tìm được người tri kỷ. Tình bạn đó lưu truyền cho tới ngày hôm nay với tên của hai người: Bá Nha và Tử Kỳ. Hồi thầy mới mười tám tuổi, thầy đã làm một bài thơ ca tụng tình bạn của Bá Nha, Tử Kỳ. Trên đời của mình mà có một người lắng nghe được mình, hiểu được mình thì mình là người may mắn nhất. Anh chàng ở Cali mới trả lời câu hỏi của mẹ, tại sao má biết không, tại vì người đó hiểu con.

Đời người mà tìm ra được một người hiểu mình, thật là hạnh phúc vô cùng.

Con mà hiểu cha, đệ tử mà hiểu thầy cũng làm cho cha, cho thầy hạnh phúc. Người mà hiểu được mình thì mình biết ơn người đó. Cảm ơn em đã hiểu được anh, cảm ơn con đã hiểu được cha, cảm ơn cha đã hiểu được con. Tu tập là làm thế nào để có thể hiểu được người khác. Muốn hiểu thì phải lắng nghe, phải quan sát mới hiểu được. Khi sống với một người có khả năng hiểu mình thì hạnh phúc lắm, vì hiểu là nền tảng của thương. Không hiểu thì không thể nào thương được.

Cho nên trong tình yêu đôi lứa phải cẩn thận. Mà tình yêu đôi lứa mình chỉ cần làm vài cái test thì mình biết là người đó hiểu mình hay là không. Nếu người đó không hiểu được mình thì dù người đó có bằng cấp cao, lương tiền lớn, ô tô đẹp, có nhà cửa, bảnh trai, hay là có sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành, cưới người đó mình cũng sẽ khổ suốt đời, gọi là khổ sai chung thân. Đó là một nhà tù, tình yêu là một nhà tù.

Người nào mà khi mình mới nói đã cắt lời, thích khoe khoang cái riêng của họ, không có khả năng hiểu được những khó khăn, khổ đau của người khác, không biết lắng nghe mình, thì chỉ cần vài ba phút là mình có thể nhận ra được. Đừng để bị hấp dẫn bởi bề ngoài, những bóng sắc bên ngoài, địa vị danh lợi, xe hơi, nhà cửa, tiền lương, bằng cấp. Đừng để những cái đó làm mờ mắt mình. Hai mắt mình phải tỉnh táo để thấy rằng người con gái đó hay người con trai đó là một người có thể hiểu được mình và hiểu được mình thì sẽ thương mình, rõ ràng như vậy.

Trong xã hội mới phát triển của chúng ta, một cô gái có thể đánh mất tiết trinh của mình để đánh đổi lấy một chiếc xe gắn máy. Thật là dễ sợ, đạo đức suy đồi đến như thế đó. Tại vì muốn thoát ra khỏi thân phận nghèo khổ, vì muốn có một chiếc xe giống như người khác họ đã đánh mất cái quý giá nhất của đời mình. Chuyện đó đã xảy ra, nó đang xảy ra.

Trong đạo Phật, cái thương đích thực nó được làm bằng cái hiểu, không hiểu thì không có thương. Cha mà nếu không hiểu con thì càng thương con, con càng khổ. Vợ không hiểu chồng càng thương chồng, chồng càng khổ. Hiểu là nền tảng của tình thương. Sống với nhau như thế nào để càng ngày mình càng hiểu được nhiều hơn và người kia càng ngày càng hiểu được mình nhiều hơn. Nếu cái hiểu không lớn lên, thì cái thương nó cũng không lớn lên, nó dẫm chân tại chỗ.

Nếu quý vị thấy tình thương của mình đang dẫm chân tại chỗ thì quý vị biết rằng quý vị không tu, bởi cái hiểu không lớn nên cái thương không thể lớn. Khi mà tình thương không lớn thêm thì từ từ nó co rút lại cho đến khi trở thành một cục cứng ngắt. Tình yêu có thể chết nếu mình không biết nuôi dưỡng nó bằng cái hiểu và cái thương. Còn khi người kia hiểu mình thì mình biết ơn người đó, biết ơn suốt đời. Chính cái ơn đó là chất liệu nuôi dưỡng mình và người đó cho đến suốt đời, cái đó là nghĩa. Không phải là cái bồng bột lúc ban đầu, cái tình, không phải là ngọn lửa nuôi dưỡng đâu.

Ở Việt Nam ngày xưa người ta không nấu cơm bằng gas hay là bằng điện mà nấu bằng rơm và rơm cháy rất mau. Có cách để làm cho nó cháy chậm lại, mình cần một chiếc đủa. Đặt một nắm rơm vô bếp, lấy cái đủa đè xuống thì rơm sẽ cháy từ từ. Ngày xưa miền quê Việt Nam còn dùng trấu. Trấu tức là vỏ hạt lúa. Nhiều nhà không có hộp quẹt nên phải nuôi lửa. Muốn nuôi lửa lâu mình đổ vào bếp một ít trấu. Trấu cháy ngún, cháy lâu. Nó không cháy bùng như rơm mà cháy chầm chậm suốt đêm. Sáng mai mình khơi ra thì còn lửa ở trong đó, gọi là lửa trấu. Lửa rơm thì mau cháy, mau tàn. Đó là ngọn lửa tình. Còn nghĩa là lửa trấu, nó cháy suốt đêm dài.

Ngày xưa Việt Nam còn có truyền thống đi xin lửa, vì không có hộp quẹt và cũng không có đèn dầu. Mỗi khi nấu cơm mình phải qua hàng xóm xin lửa, nếu mà nhà mình không có trấu. Các cháu có thể là chưa thấy con cúi. Con cúi không phải là một sinh vật mà mình vẫn gọi là con. Người ta lấy rơm bện lại thành ra một con rắn rất chặt và đốt một đầu, đầu kia để tay cầm. Nó cứ cháy ngún từ từ và cháy được nhiều giờ. Mỗi khi cần lửa nấu cơm thì mình tới con cúi lấy lửa. Còn nếu không có con cúi và cũng không có lửa trấu thì mình phải đi xin thôi.

Đi xin lửa thì mình phải biết cầm một nắm rơm. Tới bếp của người ta, mình đừng có quấy động cái bếp vì người ta đang nuôi lửa ở trong đó. Cầm nắm rơm của mình, dúi vào chỗ lửa trấu đang còn cháy và đợi. Chừng hai ba chục giây, mình thấy khói lên tức là biết rằng nắm rơm của mình đã được lửa bén vào rồi. Mình chỉ cần thổi một hơi thở nhẹ là lửa cháy lên rồi lấy một nắm rơm khác nắm lại, đem về thì nó tiếp tục cháy. Quý vị biết rằng ngày xưa xin lửa là chuyện mỗi ngày. Lửa có hai thứ một là lửa rơm hai là lửa trấu. Lửa trấu ngún cháy cả ngày đêm rất lâu. Lửa rơm được ví cho tình yêu, cho tình. Lửa trấu tượng trưng cho nghĩa.

Ân nghĩa là cái tiếp nối của chữ tình. Cái tình bắt đầu cho khéo để từ từ nó đi tới cái nghĩa. Ân nghĩa là chất liệu nuôi dưỡng một cặp vợ chồng cho tới khi đầu bạc và răng long. Nghĩa là sự thực tập về tình yêu, mỗi ngày mình phải làm cho cái tình của mình lớn lên và nó biến thành nghĩa. Mỗi ngày mình phải xây dựng cái ơn và cái nghĩa. Mỗi lời nói mỗi cử chỉ săn sóc đều tạo ra ơn và nghĩa hết.

Chính cái đó là keo sơn, nó giúp cho một cặp vợ chồng sống với nhau suốt đời. Tình bạn cũng vậy, tình bạn thì không có sự cháy bùng, không có sự đam mê như là tình yêu. Cho nên tình bạn nó dễ hơn nhiều. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã nói rất rõ là tình bạn lâu dài bền chắc, nó nuôi dưỡng mình nhiều hơn tình yêu. Vì vậy bí quyết là mình phải biến tình yêu lúc ban đầu trở thành tình bạn.

Hai người ban đầu là hai người yêu nhưng mà từ từ sẽ trở thành hai người bạn. Khi trở thành hai người bạn thì đó là tình yêu đang còn. Còn nếu tình yêu không trở thành tình bạn được thì tình yêu sẽ chết, sẽ không thành công. Mà sở dĩ tình yêu trở thành tình bạn được là vì mình phát khởi được cái ơn và cái nghĩa. Ơn nghĩa đó như đã nói ở trên, nó bắt đầu từ chỗ ý thức được rằng tại sao giữa bao nhiêu người con trai người đó lại chọn mình, nên mình biết ơn người con gái đó.

Giữa bao nhiêu người con gái đẹp mà mình chọn một người thôi thì cái đó là bắt đầu từ chọn. Cái chọn này không phải là nhất thời, cái chọn này là phải xãy ra trong một quá trình nào đó với trí tuệ của mình chứ không phải chỉ với đam mê mà thôi. Nếu tình chỉ chỉ có đam mê thì mình sẽ hối hận, phải có trí tuệ và phải biết lắng nghe. Lắng nghe bạn bè, lắng nghe cha mẹ, lắng nghe các em của mình. Tại vì họ cũng có cái thấy mà cái thấy của họ đôi khi khách quan hơn mình. Mình đam mê rồi thì mình không còn thấy được sự thật rõ ràng bằng những người khác.

Xin quý vị giúp dịch chữ nghĩa ra tiếng Pháp, tiếng Anh. Nghĩa đi đôi với chữ ơn: Ơn nghĩa. Khi thương thì ranh giới giữa cá nhân không còn nữa. Hai người trở thành một. Mình không đi tìm cái hạnh phúc riêng của mình. Hạnh phúc phải là hạnh phúc chung. Ở làng Mai mình nói hạnh phúc chưa bao giờ là hạnh phúc của riêng một mình con, đó là bài hát của sư cô Giải Nghiêm.

Hạnh phúc hay đau khổ trong tình yêu không còn là vấn đề riêng của một người nữa mà của cả hai người. Đó là yếu tố thứ tư ( từ, bi, hỹ, xả ) của tình yêu trong đạo Phật, tức là không phân biệt tôi khác, anh khác. Hai người là một thôi. Cho nên không có chuyện ông ăn chả bà ăn nem, ông đi tìm thú vui riêng của ông, bà đi tìm thú vui riêng của bà. Cái vui của ông cũng là cái vui của bà.

Tuần thứ ba trong khóa tu, có một thiền sinh Tây phương hỏi một câu rất đáng thương. Ông nói rằng, con khổ quá đi. Con rủ nhà con đi tới khóa tu, bà không chịu ở, bà cứ đòi con phải đi, bây giờ con phải làm sao. Thay vì nói rằng vì bà chưa thấy được sự cần thiết của tu học thì tôi trả lời rằng tại vì ông mà ra hết. Tại những gì bà thích ông đã không thích. Nếu ông thích và ông yểm trợ bà những gì bà thích thì chắc chắn bà sẽ thích cái ông thích. Sở dĩ bà đòi đi là vì ông không chú trọng tới bà. Ông không để tâm tới, ông không hiểu được bà. Những gì bà yêu mến, bà mong ước, ông không để ý tới. Vì vậy cho nên bà cũng không để ý tới ông. Những thứ ông thích thì bà ghét, những thứ ông ghét thì bà lại thích cho biết tay. Thường thường nó xảy ra như vậy. Vì vậy vấn đề hạnh phúc cũng như khổ đau trong tình yêu chân thật không còn là vấn đề của cá nhân nữa mà là của chung. Chúng ta phải có thì giờ quan tâm.

Tác giả: Thích Nhất Hạnh

Chủ Nhật, 14 tháng 6, 2015

Em để dành câu hát dỗ ta vui


 Vũ Xuân Chinh




Trước sau gì
Xuân cũng về thôi
Sao em thao thức hoài
không ngủ
Cứ để
những chuyện buồn năm cũ
đủ ngậm ngùi
ra đi
Ơi ! cái giây phút sau cùng
đã gửi gấm điều gì
Cho khoảnh khắc đầu tiên
chào năm mới
Ta đã sáu mươi mấy lần
chờ đợi
Vẫn bồn chồn
nuối tiếc
tuổi trôi qua
Trước sau gì
mai cũng ra hoa
Em cứ để
Cho lòng mình nói hết
Hẹn với ga đời
Có người không đến kịp
Đón chuyến tàu hạnh phúc
ghé sang đây
Trước sau gì
cũng có một ngày
Ta bật khóc
trước tình em dịu vợi
Tiếng đàn ai
lạc trong đêm vũ hội
Em để dành câu hát
dỗ ta vui

Nhật Ký Biển Đông: Việt Nam: Trọng Tâm Của Kế Hoạch Xoay Trục?



Nhật Ký Biển Đông:

Việt Nam: Trọng Tâm Của Kế Hoạch Xoay Trục?

Đào Văn Bình


...Qua lời cảnh báo mạnh mẽ của Bộ Trưởng Quốc Phòng Ashton Carter ngày 27/5/2015, chúng ta thấy nếu Trung Quốc không dừng tay lại thì một cuộc đụng độ quân sự chắc chắn sẽ xảy ra. Lúc đó Mỹ rất cần một đồng minh quân sự nằm ngay trên chiến trường. Đó là Việt Nam. ... (ĐVB)

A. Những chuyển biến quan trọng:

Nhật Ký Biển Đông hai tuần cuối Tháng Năm ghi nhận những chuyển biến quan trọng như sau:





- VnTimes ngày 15/5/2015: “Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Ban Ki-moon và phu nhân thăm Việt Nam từ ngày 22 đến 23/5, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Hải Bình thông báo hôm qua. Dự kiến, ông Ban Ki-moon sẽ chào Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, dự lễ khánh thành Ngôi nhà chung của LHQ, gặp gỡ các cơ quan của LHQ tại Việt Nam và nói chuyện tại Quốc Hội.” Theo tin AP gửi đi từ Hà Nội ngày 22/5/2015, “Trong chuyến viếng thăm Việt Nam, Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc kêu gọi một giải pháp hòa bình cho những tranh chấp lãnh thổ tại Biển Đông mà sự khăng khăng của Trung Quốc đã khiến các quốc gia láng giềng nhỏ bé lo sợ. Ô. Ban Ki-moon cũng nói với báo chí rằng Chủ Tịch Trương Tấn Sang của Việt Nam cũng đã trình bày với ông những lo lắng về an ninh khu vực và Biển Đông. Ô. Ban Ki-moon cũng có cuộc nói chuyện tại Quốc Hội Việt Nam.”

- VOA tiếng Việt ngày 16/5/2015: Ông David Shear, Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ nói, “Chúng ta khẳng định quyền tự do đi lại tại những khu vực như thế và chúng ta hành xử quyền này thường xuyên tại Biển Đông cũng như trên toàn thế giới, và chúng ta sẽ tiếp tục hành xử quyền này trên mặt biển cũng như trên không.” Còn Ô. Daniel Russel Phụ Tá Ngoại Trưởng nói, “Chúng ta phải ngăn chặn thái độ thách thức như thế.”

- Reuters ngày 18/5/2015: “Theo phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Việt Nam, quyết định cấm đánh cá ở Biển Đông từ ngày 16 Tháng 5 tới ngày 1 Tháng 8 của Trung Quốc là vi phạm luật pháp quốc tế và thẩm quyền tài phán của Việt Nam và phía Việt Nam kiên quyết phản đối quyết định này.” [China's May 16-Aug. 1 fishing ban violated international law and Vietnam's sovereignty and jurisdictional rights, Vietnam's foreign ministry said in a statement on its website.]



- Sputnik News ngày 18/5/2015: “Ông Lý Khắc Cường- Thủ Tướng Trung Quốc lần đầu tiên đến Mỹ La-tinh với tư cách người đứng đầu chính phủ. Ông mang tới Brazil 50 tỷ USD dưới dạng vốn đầu tư và khoản vay ưu đãi. Cụ thể là cấp kinh phí cho tuyến đường sắt do Trung Quốc xây dựng từ bờ biển Đại Tây Dương sang Thái Bình Dương thông qua Brazil và Peru. Thỏa thuận về việc này là phần then chốt của chuyến công cán.” Còn theo VnExpress ngày 23/5/2015, “Trung Quốc và Peru đồng ý nghiên cứu tính khả thi của dự án xây dựng đường sắt xuyên lục địa dài 5.300 km, nối bờ Thái Bình Dương của Peru với bờ Đại Tây Dương của Brazil. Thỏa thuận về dự án đường sắt được đưa ra khi Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường tới Peru, chặng dừng chân thứ ba trong chuyến công du Nam Mỹ..”

- VnExpress ngày 19/5/2015: “Trung Quốc và Thái Lan ký biên bản ghi nhớ xây dựng Kênh Đào Kra Isthmus, được mệnh danh là ”Kênh Đào Panama của Châu Á” ở miền nam Thái Lan, nhằm rút ngắn hải trình của tàu bè Trung Quốc từ Trung Đông về Quảng Châu khoảng 1200 km và không cần thông quá Eo Biển Malacca.”



Nếu kênh đào hoàn tất và đưa vào xử dụng, thế giới sẽ chứng kiến một sự thay đổi ngoạn mục về địa lý chính trị. Vị trí của Thái Lan sẽ vô cùng quan trọng vì là quốc gia quản trị kênh đào. Nhưng người hưởng lợi rất nhiều là Phú Quốc. Kiên Giang sẽ thay thế vị trí của Singapore vì sẽ là nơi nghỉ ngơi của thủy thủ, tiếp liệu hoặc sửa chữa cho các thương thuyền sau chuyến đường dài phát xuất tử Đài Loan, Nhật Bản, Nam Hàn, Trung Quốc và Nga (từ Vladivostok). Đó là lý do tại sao Tân Gia Ba kịch liệt phản đối và tìm cách ngăn chặn dự án này. Nhưng việc hình thành hải lộ chiến lược mới cũng đặt ra vấn đề an ninh cho Việt Nam. Phú Quốc sẽ trở thành một căn cứ hải quân lớn để bảo vệ an ninh trên biển.

Thế mới hay sự đời không ai lường hết được. Nhưng chính sự cạnh tranh quyền bá chủ thế giới hoặc khuynh hướng sinh tồn và phát triển đã làm thay đổi hoặc phá hủy hành tinh này.

- VOA tiếng Việt ngày 21/5/2015: “Ông Hans Kristensen là giám đốc của Dự án Thông tin Hạt nhân của Liên đoàn Khoa học Mỹ nói: Một phúc trình của Bộ Quốc Phòng Mỹ cho biết Trung Quốc đang nâng cấp khả năng phi đạn của mình bằng cách đặt nhiều đầu đạn hạt nhân thu nhỏ trên các phi đạn đạn đạo. Trung Quốc đã có khả năng làm việc này từ thập niên 1990, nhưng các động thái gần đây nhằm hiện đại hóa lực lượng phi đạn đã khơi ra những quan ngại về một cuộc chạy đua vũ trạng khu vực ở Châu Á.”

- CNS News ngày 22/5/2015: “Theo Nha Thống Kê, năm 2014, Hoa Kỳ đã chịu một khiếm ngạch ngoại thương là $24,858,700,000 với Việt Nam. Hoa Kỳ bán $5,724,900,000 hàng hóa cho Việt Nam, trong khi Việt Nam bán cho Hoa Kỳ $30,583,600,000.” Cũng theo bản tin này,Ô. Obama đang thương thảo về Hiệp Định Hợp Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) với Việt Nam và 11 quốc gia khác, nhằm loại bỏ thuế nhập cảng và những rào cản không phải là thuế nhập cảng giữa các quốc gia.”

- Báo Đất Việt ngày 22/5/2015: “Hãng trực thăng AgustaWestland của liên doanh Anh - Italia tiết lộ rằng, công ty này đang đàm phán sơ bộ với Hải quân Việt Nam để cung cấp máy bay trực thăng săn tàu ngầm theo nhu cầu.”

- VnPlus ngày 23/5/2015: “Nhận lời mời của Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ Manohar Parrikar, đoàn đại biểu quân sự cấp cao Việt Nam do Đại tướng Phùng Quang Thanh - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng dẫn đầu thăm hữu nghị chính thức Ấn Độ từ ngày 23-26/5. Tháp tùng còn có chín vị tướng bao gồm hầu hết các quân-binh chủng. Chuyến thăm lần này của đoàn nhằm trao đổi quan điểm về các vấn đề an ninh quốc tế, khu vực của mỗi nước, đồng thời bàn các biện pháp nhằm đưa quan hệ quốc phòng song phương thời gian tới lên bước phát triển mới, toàn diện và hiệu quả hơn. Hai bên đã ký “Tuyên bố tầm nhìn chung về quan hệ quốc phòng Việt Nam-Ấn Độ giai đoạn 2015-2020”

- Sputnik News ngày 24/5/2015: “Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang Thái Lan yêu cầu Lầu Năm Góc/Ngũ Giác Đài trong vòng năm ngày phải rút khỏi Đảo Phuket các máy bay không quân và lực lượng Mỹ tham gia cuộc tập trận chống hạm Guardian Sea kết thúc từ hôm 20 tháng 5. Theo báo Bangkok Post đưa tin, trích dẫn một nguồn từ Bộ Quốc phòng Thái Lan. Washington đã nhiều lần đề nghị Thái Lan cho phép sử dụng sân bay Phuket phục vụ hoạt động cứu hộ người Rohindja trên biển - những người theo Hồi giáo ở Myanmar bỏ chạy khỏi đất nước do xung đột với cộng đồng Phật giáo.” Đây có thể là phản ứng của giới quân nhân lãnh đạo Thái Lan trước việc Hoa Kỳ cứ can thiệp vào công việc nội bộ của nước họ.

- BBC tiếng Việt ngày 26/5/2015: Trung Quốc vừa công bố Bạch Thư Quốc Phòng mà theo VOA,

”Trung Quốc sẽ tập trung vào tăng cường sự hiện diện quân sự bên ngoài lãnh hải, theo một văn bản chiến lược mới công bố. Chiến lược quân sự của Trung Quốc cũng nói lực lượng không quân sẽ chuyển ưu tiên từ phòng vệ không phận lãnh thổ thành tấn công và phòng vệ với khả năng quân sự rộng lớn hơn.”



Theo Bạch Thư này thì chiến lược quân sự của Trung Quốc chuyển từ phòng ngự sang tấn công, mở rộng chu vi phòng thủ, tiến ra biển lớn để tranh giành ảnh hưởng với Hoa Kỳ và đưa chiến tranh ra ngoài lãnh thổ Trung Quốc giống như quan niệm của Mỹ là “phòng thủ từ xa”. Muốn thế thì hải quân phải thật mạnh và có nhiều căn cứ quân sự đóng ở nước ngoài. Nếu Trung Quốc làm được thế thì chu vi phòng thủ từ xa của Mỹ co cụm lại và chiến tranh có thể nổ ra trên đất Mỹ chứ không còn ở xa như trước nữa.

- AP ngày 27/5/2015: “Lính hải quân Việt Nam và Phi Luật Tân đá bóng và vui chơi trên Đảo Song Tử Đông (Northeast Cay) là hòn đảo hiện do Phi Luật Tân chiếm đóng để bày tỏ sự thân thiện giống như cuôc gặp gỡ, vui chơi, uống bia giữa hai bên trên Đảo Song Tử Tây (Southwest Cay) thuộc chủ quyền của Việt Nam vào Tháng Sáu năm ngoái.”

Rõ ràng đây là hành động liên kết để chống lại sự lấn chiếm và bắt nạt của Trung Quốc. Hai bên Việt-Phi không chính thức công bố nhưng ngầm công nhận chủ quyền của nhau trên các hòn đảo này, đống thời chấp nhận thông qua thương thảo và luật pháp quốc tế để giải quyết các tranh chấp về chủ quyền biển đảo trong khu vực Trường Sa.

-Bloomberg News ngày 27/5/2015: “Bộ Trưởng Quốc Phòng Ashton Carter đưa ra lời cảnh báo mạnh mẽ nhất về những hành động của Trung Quốc tại Biển Đông, đòi hỏi phải ngưng ngay sự biến cải những bãi đá ngầm và cam kết rằng Hoa Kỳ vẫn duy trì sức mạnh hàng đầu tại Á Châu trong những thập niên tới. Hoa Kỳ sẽ bay, dong tàu và hoạt động ở bất cứ nơi nào mà luật pháp quốc tế cho phép và chúng tôi sẽ làm như vậy khắp thế giới. ” [Defense Secretary Ashton Carter delivered the strongest U.S. warning yet against China’s moves in the South China Sea, demanding a halt to land reclamation in disputed waters and vowing that the U.S. will remain Asia’s leading power “for decades to come.”... “There should be no mistake about this: The United States will fly, sail and operate wherever international law allows, as we do all around the world,” said Carter, who has ordered the military to develop options for more assertive U.S. demonstrations of its right to transit the region.]

- AFP ngày 27/5/2015: “Tại Hạ Uy Di (Hawaii), Ô. Carter- Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ đã nói với người đồng cấp Phi Luật Tân rằng cam kết bảo vệ các quốc gia trong Thái Bình Dương của Hoa Thinh Đốn vẫn son sắt và kêu gọi chấm dứt việc biến cải các bãi đã ngầm ở Biển Đông.”

- BBC tiếng Việt ngày 29/5/2015: “Chiều tối (ngày) 29/5, tại Kazakhstan, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cùng thủ tướng các nước thành viên bao gồm Nga, Armenia, Belarus, Kazakhstan và Kyrgyzstan đã dự lễ ký Hiệp Định Thương Mại Tự Do giữa Việt Nam và Liên Minh Kinh tế Á-Âu. Việt Nam ca ngợi đây là hiệp định “Có ý nghĩa chiến lược mở ra trang mới trong quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á-Âu”.

Hiệp định bao gồm các Chương chính về Thương mại hàng hóa, Quy tắc xuất xứ, Phòng vệ thương mại, Thương mại dịch vụ, Đầu tư, Sở hữu trí tuệ, Các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS), Quy tắc xuất xứ, Thuận lợi hóa hải quan, Phòng vệ thương mại, Hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT), Công nghệ điện tử trong thương mại, Cạnh tranh, Pháp lý và thể chế. Hàng thủy sản Việt Nam sẽ được mức thuế suất 0%.

- VOV ngày 29/5/2015: “Đối Thoại Shangri La vừa khai mạc cách đây vài tiếng đồng hồ tại Singapore với sự tham dự của khoảng 30 đoàn Bộ Quốc phòng các nước, trong đó đoàn Trung Quốc lần đầu tiên có một Đô đốc Hải quân, Phó Tổng Tham mưu trưởng Tôn Kiên Quốc đến dự và đoàn Mỹ cũng hùng hậu không kém khi có mặt cả Bộ trưởng Quốc phòng Ashton Carter lẫn Chủ tịch Ủy ban Quân vụ của Thượng viện John McCai. Đoàn Việt Nam do Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng dẫn đầu.”

- Reuters ngày 29/5/2015: “TNS John McCain đề nghị một dự luật cung cấp khoảng 425 triệu đô-la trong vòng năm năm cho những quốc gia như Nam Dương, Mã Lai, Phi Luật Tân, Thái Lan và Việt Nam để trang bị, tiếp liệu, huấn luyện và xây dựng quân sự trên quy mô nhỏ để đối phó với những thách thức về chủ quyền trên biển của Trung Quốc.” [Republican Senator John McCain, chairman of the Senate Armed Services Committee, made the proposal in an amendment to the 2016 U.S. Defense Authorization Act expected to be passed later this year, entitled the South China Sea Initiative. It allows for the provision of up to $425 million over five years to countries including Indonesia, Malaysia, the Philippines, Thailand and Vietnam for "equipment, supplies, training and small-scale military construction."]

Cũng theo Reuters, trong một cuộc họp báo tại HCM City, Ô. John McCain nói rằng,

“Hoa Kỳ sẽ thi hành một số biện pháp làm Trung Quốc chùn bước/nản chí để không cón có những hành động như vậy.”[told a news conference in Ho Chi Minh City the United States needed to "take certain measures which will be a disincentive to China to continue these kinds of activities."] Còn trong cuộc họp báo bên lề Đối Thoại Shangri-la, TNS John McCain cho biết trong tuần tới ông và các thượng nghị sĩ sẽ đề nghị nới lỏng thêm lệnh cấm vận vũ khí sát thương đối với Việt Nam.

- Sputnik News ngày 30/5/2015: Về việc Trung Quốc vừa cho bố trí hệ thống pháo binh di động trên các đảo nhân tạo, Tướng Nguyễn Chí Vịnh tuyên bố, “Nếu điều đó thực sự xảy ra, thì sẽ là một dấu hiệu xấu trong tình hình vốn đã không đơn giản ở Biển Đông," Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh cho biết trong một cuộc phỏng vấn với Reuters bên lề Diễn đàn an ninh ở Singapore. Ông cũng bày tỏ hy vọng cộng đồng quốc tế có biện pháp nhằm ngăn chặn các hành động khiêu khích của Trung Quốc.”

B. Nhận Định:

Kể từ khi Mỹ công bố kế hoạch “Xoay Trục” năm 2009 nhằm hướng toàn bộ sức mạnh quân sự của Mỹ về Á Châu để đối phó với sự “trỗi dậy” - nay gọi là bành trướng- của Trung Quốc làm cả thế giới giật mình và người ta liên tưởng tới viễn ảnh như sau:

- Có thể vài ba hàng không mẫu hạm tối tân cỡ như Washington và vài chục chiến hạm cỡ như Fort Worth sẽ ào ào tiến vào Biển Đông, khiến Trung Quốc nghẹt thở và không dám ho he gĩ nữa. Thế nhưng sau sáu năm “Xoay Trục”, Trung Quốc - từ việc công bố thành lập cái gọi là “Thành Phố Tam Sa” để xác định chủ quyền trên Quần Đảo Hoàng Sa cưỡng chiếm của Việt Nam năm 1974, tiến tới việc ban hành lệnh đánh cá, cho tàu hải giám, tàu ngư chính nghênh ngang ngăn chặn hay đâm húc tàu đánh cá, giết hại ngư dân Việt Nam, đâm húc tàu chiến Mỹ khiến tàu chiến Mỹ phải né tránh, tiến chiếm Bãi Cạn Scaborough (Hoàng Nham) (*) của Phi Luật Tân, phong tỏa tàu mắc cạn BRP Sierra Madre không cho tàu Phi Luật Tân tiếp tế cho binh sĩ tại đây - dù tàu Sierra Madre nắm trong lãnh hải của Phi Luật Tân, đem giàn khoan Haiyang 981 tới thăm dò dầu khí trong Khu Đặc Quyền Kinh Tế của Việt Nam và biến cải sáu bãi đá ngầm thành đảo nhân tạo trên đó xây dựng các căn cứ quân sự, cho xây hai ngọn hải đăng trên Đảo Gạc Ma và Châu Viên nằm trong Quần Đảo Trường Sa của Việt Nam.

Nói tóm lại, Mỹ càng cảnh cáo, càng “Xoay Trục” thì Trung Quốc càng làm mạnh hơn cho dù máy bay thám thính, tàu chiến và tầu ngầm Mỹ đã hiện diện và tuần tra trong vùng.

- Lúc đó các nhà quan sát đểu nghĩ rằng, trước mắt và về lâu về dài, Úc Châu, Tân Gia Ba sẽ là trọng tâm của kế hoạch “Xoay Trục” bởi vì sau khi công bố kế hoạch mới, Ô. Obama hối hả đưa thủy quân lục chiến vào căn cứ Darwin, Úc Châu và chiến hạm tối tân tới Tân Gia Ba. Thế nhưng sau sáu năm thử nghiệm, từ “Xoay Trục” biến thành “Tái Cân Bằng Lực Lượng” dường như các chiến lược gia Hoa Kỳ đã thay đổi chiến thuật.

Nước Mỹ có “thói quen” hay “quan niệm” là nếu một chiến lược, một kế hoạch không thành công thì lập tức họ thay đổi chứ không ù lì để chịu chết. Giờ đây, có thể không phải Úc Châu hay Tân Gia Ba mà Việt Nam mới là trung tâm điểm của kế hoạch “Xoay Trục”. Tại sao thế? Có ba yếu tố gần như quyết định:

1) Úc Châu và Tân Gia Ba chỉ là căn cứ phòng thủ từ xa. Hơn thế nữa Úc Châu và Tân Gia Ba không có tranh chấp biển đảo cho nên khó lôi kéo họ trực diện với Trung Quốc khi một cuộc xung đột quân sự nổ ra giữa Mỹ và Trung Quốc. Ấy là chưa kể khi đụng độ với Trung Quốc nền kinh tế của hai quốc gia này sẽ xụp đổ - điều Úc Châu và Tân Gia Ba luôn tìm cách né tránh.

2) Trong vòng năm hay mười năm nữa, khi Kênh Đào Kra hoàn tất, Eo Biển Malacca trở nên thứ yếu và vai trò của Úc Châu trở nên vô dụng. Lúc đó lại nổi bật lên vai trò của Thái Lan và Việt Nam là quốc gia chủ nhà và quốc gia nằm trên cửa ngõ ra vào của kênh đào chiến lược do Trung Quốc đầu tư.

3) Nếu mạnh thêm về hải quân, Việt Nam có thể đương đầu với Trung Quốc tại Biển Đông và gây cho Trung Quốc những thiệt hại nặng nề với những giàn hỏa tiễn phòng thủ bờ biển di động, tàu ngầm Kilo Hố Đen, khu trục hạm tàng hình Gepard, điều mà Phi Luật Tân, Singapore và Úc Châu không làm được, dù về hải quân Úc Châu mạnh hơn Việt Nam rất nhiều nhưng vì “viễn chinh” tức chiến đấu ở xa nên Úc mất uy thế. Hơn thế nữa, Úc Châu hay Tân Gia Ba không thể chiến đấu đơn độc mà phải có Mỹ đi kèm.

Theo tờ Tuổi Trẻ ngày 31/7/2014, Đô Đốc Hải Quân Việt Nam Nguyễn Văn Hiến tuyên bố “Hải Quân Việt Nam đủ sức đánh bại mọi cuộc tấn công trên biển”. Chắc chắn đây không phải là lời khích lệ tinh thần binh sĩ hoặc cưởng điệu trước một đối thủ khổng lồ Trung Quốc có sức mạnh hải quân nhì, ba thế giới.

Cứ nhìn vào những chuyến thăm Việt Nam dồn dập của những nhân vật hàng đầu Hoa Kỳ trong tuần lễ vừa qua chúng ta thấy tầm mức quan trọng của Việt Nam và có thể đó là sự chuyển đổi trong sách lược “Xoay Trục” của Mỹ.

- Ngày 24/5/2015, AP cho biết, “TNS McCain thuộc Đảng Cộng Hòa, cựu tù binh trong chiến tranh Việt Nam – Chủ Tịch Ủy Ban Quốc Phòng Thượng Viện còn TNS Reed của Tiểu Bang Rhode Island thuộc Đảng Dân Chủ sẽ viếng thăm Việt Nam và Tân Gia Ba. Văn phòng của TNS Reed cho hay, phái đoàn sẽ gặp gỡ các giới chức lãnh đạo tại Hà Nội và HCM City để thảo luận về các vấn đề an ninh, kinh tế trong vùng Châu Á Thái Bình Dương.” Theo BBC tiếng Việt ngày 29/5/2015, Ô. John McCain đã gặp TBT Nguyễn Phú Trọng, Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng, Bộ Trưởng Quốc Phòng Phùng Quang Thanh và Bộ Trướng Công An Trần Đại Quang và tiếp xúc với một số nhà hoạt động xã hội dân sự trong nước. Rồi BBC tiếng Việt ngày 25/5/2015 cho hay, “Ô. Carter- Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ tới Việt Nam vào ngày 31/5 từ Singapore, nơi ông tham dự diễn đàn an ninh khu vực Đối thoại Shangri-La. Chi tiết chuyến thăm còn được giữ kín, nhưng ông được tin sẽ ở thăm Việt Nam hai ngày.”

Theo tin Reuters gửi đi từ Hải Phòng ngày 31/5/2015: “Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Carter cam kết viện trợ 18 triệu Mỹ Kim để Việt Nam mua tàu tuần tra ngay sau khi đi đi xem một tầu tuần duyên của Việt Nam bị tàu Trung Quốc đâm húc trong cuộc đụng độ tại giàn khoan Haiyang 981. “ Tại Hải Phòng, Ô. Carter tuyên bố, “Chúng ta cần canh tân/hiện đại hóa quan hệ hợp tác. Sau 20 năm, có rất nhiều việc chúng ta có thể làm chung.”(We need to modernize our partnership. Carter told reporters during a visit to the northern city of Hai Phong. After 20 years, there is more we could do together.)



Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ash Carter, phải, với đối tác Việt Nam của ông Tướng Phùng Quang Thanh trước khi đàm phán tại Hà Nội vào ngày 01 tháng 6 (AP Photo)

Rồi vào ngày 27/5/2015, VOA tiếng Việt loan tin Phụ Tá Bộ Trưởng Đặc Trách Kinh Tế và Thương Mại Mỹ Charles Rivkin thăm Hà Nội và thành phố HCM trong 4 ngày, từ 26 tháng 5 tới ngày 30 tháng 5, để củng cố các quan hệ kinh tế, để làm nền tảng cho các quan hệ vững mạnh nói chung của Mỹ với các nền kinh tế này của Châu Á.”

Cộng thêm với những biến chuyển ngoại giao dồn dập, theo Bloomberg News ngày 21/5/2015, “Trong một cuộc phỏng vấn tại Hà Nội hôm Thứ Năm 21/5/2015, Đại Sứ Ted Osius nói rằng, “Chính những thủ đoạn chiếm đoạt lãnh thổ của Trung Quốc tại những vùng còn đang tranh chấp ở Biển Đông đã làm cho người láng giềng cộng sản Việt Nam xích lại gần hơn với Hoa Kỳ.” Ô. Osius còn nói thêm, “ Sự hợp tác giữa Hoa Kỳ và Việt Nam sâu rộng thêm từng tuần, nếu không muốn nói là từng ngày.”

Qua lời cảnh báo mạnh mẽ của Bộ Trưởng Quốc Phòng Ashton Carter ngày 27/5/2015, chúng ta thấy nếu Trung Quốc không dừng tay lại thì một cuộc đụng độ quân sự chắc chắn sẽ xảy ra. Lúc đó Mỹ rất cần một đồng minh quân sự nằm ngay trên chiến trường. Đó là Việt Nam.

Đây có thể là toan tính mới của các chiến lược gia Hoa Kỳ sau sáu năm thử thách kế hoạch “Xoay Trục” không đi đến đâu, mà một số nhà bình luận cho rằng Ô. Obama đã làm theo kiểu “đánh trống bỏ dùi”. Về vấn đề Trung Quốc biến cải các bãi đá ngầm thành căn cứ quân sự, trong cuộc gặp gỡ riêng với Ngoại Trưởng Hoa Kỳ John Kerry, Ngoại Trưởng Vương Nghị không tỏ dấu hiệu nhượng bộ nào cho dù Ô. John Kerry đã thúc giục Trung Quốc giảm bớt căng thẳng ở Biển Đông. Ô. Vương Nghị nói rằng quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc không gì lay chuyển được. Bằng cớ là vào ngày 29/5/2015 báo chí Mỹ loan tin Hoa Lục đã cho đặt các hệ thống pháo binh di động trên các hòn đảo nhân tạo này.

Tình hình rõ ràng là khẩn cấp, nước Mỹ bình luận và báo động loạn cả lên trong khi Trung Quốc đe dọa nếu Hoa Kỳ còn can dự vào chuyện Biển Đông thì Thế Chiến III sẽ không tránh khỏi. Vào ngày 30/5/2015, tạp chí Forbes loan tin, Tuần Dương Hạm Shiloh của Mỹ trang bị hỏa tiễn hành trình đang thấy tiến vào Quân Cảng Subic Bay nằm ở đông bắc Manila.



Tàu Tuần Dương Hạm USS Shiloh _ CG67 (Ảnh của KAZUHIRO NOGI/AFP/GettyImages)

Đúng vậy, thế chiến đang ở vào tình huống có thể nổ ra bất cứ lúc nào, nhưng chưa biết Việt Nam - dù về phần minh đã chuẩn bị rất kỹ lưỡng - sẽ can dự trong liên minh quân sự với Mỹ tới mức độ nào. Chúng ta chờ xem.



Đào Văn Bình

(California ngày 1/6/2015)

________________________

(*) Chính Mỹ đã làm mất bãi cạn Scarborough của Phi Luật Tân năm 2012 khi đứng ra làm trung gian để hai bên cùng rút quân. Phi Luật Tân nghe lời Mỹ rút quân, nhưng quân Trung Quốc vẫn ở lại. Nguyên do cũng chỉ vì lúc đó, dù đã “Xoay Trục” nhưng Mỹ lại không muốn đối đầu với Trung Quốc nhưng nay lại phải đối đầu với nguy cơ lớn hơn. Đúng là “tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa”. Lịch sử thế giới cho thấy nhiều đại cường dù binh hùng tướng mạnh nhưng thất bại cũng chỉ vì do dự, không quyết đoán. Đánh thì không đánh, lùi thì không lùi là đại kỵ trong binh pháp.