Thứ Năm, 4 tháng 6, 2015

Kiểm tra năng lượng tồn dư




 Nhận thức sóng tồn dư lưu lại trên nữ trang (Cảm nhận bằng sóng rung động) Chuẩn bị :Nâng khí và Thanh lọc (Thác nước và tẩy rửa năng lượng xấu).Ngồi đối diện với người cùng tập. Chuẩn bị một tư trang nhỏ bằng vàng, bạc hoặc cẩm thạch để dùng cho việc kiểm tra.

Nhận định:Trong bài tập này giúp bạn cảm nhận năng lượng màu sắc hay cảm xúc trong một tư trang bằng cách cảm nhận sóng rung động. Qua đó bạn học cách đọc những năng lượng màu sắc và cảm xúcđược lưu lại trên nữ trang.

Bài tập này nhằm giúp phát triển khả năng thực hiện một cuộc truyền phát năng lượng và đồng thời phát triển khả năng kiểm soát bức xạ tồn dư trên vật chứng. Trong giai đoạn đầu, người cùng tập tìm hiểu các diễn tiến của sự cảm nhận về tinh thần, sau đó phân biệt các màu sắc và cảm xúc tốt hay xấu, cuối cùng nhận rõ phản ứng từ người phát cũng như các màu sắc cảm xúc của nó.

Bước 1: Cảm nhận màu sắc và cảm xúcThực hiện bài tập này ít nhất 4 lần

Hướng dẫn cho người phát: Chọn một màu sắc hay cảm xúc mà bạn có thể chia sẻ. Chú tâm một cách mãnh liệt giống như: tình thương hay hận thù, kinh sợ hay hạnh phúc (xem phần tiêu cực và tích cực trong 7 khu vực của cơ thể, tập trung một vực đó và tạo sự rung động tại đó và phát ra với người cùng tập). Bạn và người cùng tập bắt đầu việc tập luyện. Hãy làm sống lại các xúc cảm và đặc tính màu sắc của khu vực tương ứng, tạo sóng rung động tại khu vực đó và chuyển sự rung động đó chạy dọc cánh tay bạn đến tư trang bạn đang cầm trong lòng bàn tay. Như bạn đã biết sóng năng lượng chuyển tải cảm xúc cũng như màu sắc của bạn được truyền vào tư trang. Đưa tư trang cho người cùng tập. Tẩy rửa tay sau mỗi lần tập. Khi người cùng tập với bạn cảm nhận sóng rung động rõ ràng về năng lượng màu sắc trong tư trang, họ cho biết rõ niềm cảm xúc nào mà bạn đã đưa vào, và ghi vào nhật ký.

Hướng dẫn cho người cùng tập: Cầm tư trang trong tay (không siết chặt). Khép mắt, thở sâu và đều, nâng khí lên đến màu vàng kim. Sau đó, cảm nhận thông tin mà món nữ trang đang lưu giữ. Khi bạn cảm nhận sóng rung động theo khu vực tương ứng một cách rõ ràng thì bạn bắt đầu việc nhận dạng và giải mã các cảm nhận của bạn. Nên rửa tay và tẩy rửa năng lượng đang lưu giữ trên tư trang cho những lần tập kế tiếp để các tín hiệu cũ và mới không trộn lẫn vào nhau (xoay ngược theo chiều kim đồng hồ là có thể tẩy rửa năng lượng lưu giữ trên nữ trang).

Khi cả hai xác định rõ ràng màu sắc và cảm xúc qua sóng rung động của người kia, ghi các nhận xét vào nhật ký. Khởi tập bước 2

Nếu có vấn đề đặt ra: Tất cả chúng ta đều nhạy cảm đối với các màu sắc và cảm xúc do năng lượng tồn dư trong các vật chứng. Vấn đề là phải biết cách thu nhận thông tin, hiểu và giải đoán các thông tin ấy. Sự cảm nhận của chúng ta đang trong giai đoạn kém phát triển kể cả địa hạt giải đoán. Do đó cần luyện tập nhiều để biết cách nắm bắt các tín hiệu phát xuất từ cơ thể của chúng ta (để có thể nhạy cảm hơn bạn nên tập luyện sự rung động thư giãn trên từng khu vực trong các tình huống mà trong ngày chúng ta tiếp xúc nghe radio, xem truyền hình, đối thoại.

Dị biệt: Có một phương pháp khác để đọc các tín hiệu lưu lại trên tư trang (vật chứng). Đó là đặt chúng vào giữa trán thay vì nắm trong bàn tay và cho sự tưởng tượng phát triển tự nhiên.

Bước 2: Phân biệt giữa năng lượng màu sắc và cảm xúc tốt - xấuThực hiện bài tập ít nhất 6 lần

Hướng dẫn cho người phát: Đặt một cảm xúc mãnh liệt và rõ ràng trên tư trang (rung động khu vực - xem bài tập 7). Giữ kín sóng màu sắc và cảm xúc mà bạn đã đặt nó vào trong vật chứng. Nhất là là không cung cấp thông tin về năng lượng màu sắc và cảm xúc qua sự biểu lộ trên gương mặt hay thông điệp trên cơ thể.

Đối với những cảm xạ viên, sau khi tạo sóng năng lượng màu sắc và cảm xúc, bạn đặt câu hỏi năng lượng màu sắc này tốt phải không?, cơ thể chuyển động theo chiều kim đồng hồ, và nếu xấu thì ngược lại.

Hướng dẫn cho người cùng tập: Sau khi cảm nhận sóng năng lượng màu sắc và cảm xúc là tốt hay xấu và cảm nhận của bạn đến với người phát năng lượng vào vật chứng bằng sự dao động thuận hay nghịch chiều của cơ thể.

Thay đổi vị trí và làm lại. Ghi các nhận xét vào nhật ký. Khi tin chắc rằng bạn đã có khả năng cảm nhận được màu sắc và cảm xúc khác nhau được lưu trong vật chứng, thì sang bước 3.

Bước 3: Cảm nhận màu sắc và cảm xúc đặc biệtLập lại bài tập ít nhất 6 lần

Hướng dẫn cho người phát: Chọn một màu sắc và cảm xúc (phát năng lượng màu sắc và cảm xúc - bài tập 7) đưa nguồn năng lượng đó vào món nữ trang (chuyển sóng rung động và tạo hình ảnh lên trên khu vực cao nhất). Lưu ý không nên để lộ các dấu hiệu cũng như tính chất của năng lượng và cảm xúc của bạn để người cùng tập có thể đoán ra.

Hướng dẫn cho người cùng tập: Nâng khí lên điểm cao nhất và cảm nhận sóng năng lượng màu sắc và cảm xúc đang lưu trên nữ trang (cảm nhận tự nhiên không thông qua sóng rung động). Đừng quên rửa tay và thực hiện việc tẩy rửa năng lượng bám trên nữ trang sau các lần tập.

Thay đổi vị trí và làm lại bài tập. Ghi các nhận xét vào nhật ký.

Dị biệt: Rất có thể bạn muốn thử nghiệm khả năng cảm nhận của bạn. Bịt mắt người cùng tập không cảm nhận bằng 5 giác quan bình thường (mà sử dụng giác quan thứ 6). Bạn cũng có thể áp dụng với người đồng tập ở một gian phòng bên cạnh, có một vách ngăn. Sau đó đọc màu sắc và cảm xúc của người đồng tập trong khi người phát ở khác phòng.

Biểu đồ đặc tính màu sắc theo từng khu vựcCó 7 màu sắc tốt và 7 màu sắc xấu từ màu Đỏ đến màu Chàm nằm trong 7 khu vực trong cơ thể:

Khu vực 1 : Vùng bộ phận sinh dục nam và nữ. Tương ứng với màu Đỏ.

Khu vực 2 : Vùng rốn. Tương ứng với màu Vàng.

Khu vực 3 : Vùng thượng vị. Tương ứng với màu Cam.

Khu vực 4 : Vùng ngực. Tương ứng với màu Xanh Lục.

Khu vực 5 : Vùng cổ, tai, mũi, họng. Tương ứng với màu Tím.

Khu vực 6 : Vùng đầu não. Tương ứng với màu Xanh da trời.

Khu vực 7 : Vùng phía trên đỉnh đầu. Tương ứng với màu Chàm.

Đừng bám víu vào một niềm tin một cách mù quáng




Một trong những cảm xúc tuyệt vời nhất trên đời, là có thể chứng minh rằng mình đúng – người khác sai. Tương tự đó, một trong những cảm xúc tệ nhất, là bị người khác chỉ ra rằng, mình sai còn họ đúng.

Tôi kể bạn nghe, thế giới chúng ta đang sống, đã và đang xảy ra những chuyện như thế này:

Từ ngàn xưa, trước khi thế giới chuyển sang chế độ phụ hệ (và duy trì đến ngày nay) thì chúng ta đã từng ở trong chế độ mẫu hệ. Là chế độ mà người nữ nắm mọi quyền hành trong gia đình và xã hội. Người nam không gì khác hơn chỉ là những “nhân vật phụ” với hai loại công việc chính là cùng với những người nữ tạo ra đứa trẻ và làm những công việc chân tay nặng nhọc. Chấm hết. Thậm chí, họ bị cả xã hội mặc định là ngu ngốc, là không đủ thông minh và sáng suốt nên mới không cho bất cứ chút quyền nào trong việc cai trị đất nước. Đó là chuyện của chế độ mẫu hệ.

Thế rồi trải qua quá trình hàng trăm ngàn năm, người nam bắt đầu được giao nhiều việc hơn, nhiều trọng trách hơn và kéo theo họ cũng đòi hỏi nhiều quyền lợi hơn. Cứ thế dần đến một ngày, như ngày nay, khi người nam cậy vào sức mạnh của mình trấn áp tất cả, cho mình cái quyền được nắm giữ mọi công việc quan trọng, ra mọi quyết định lớn nhỏ và nắm giữ tất cả những trọng trách to lớn trên thế giới. Thì những người nữ, họ lại phải lui về hậu phương, làm những công việc lặt vặt, bị những người nam trấn áp, trở thành lớp người như những người nam thời mẫu hệ – sinh đẻ và làm những việc tủn mủn trong nhà.

Thế giới hiện đại ngày nay vẫn còn tồn tại những dân tộc, những tộc người duy trì chế độ mẫu hệ. Hãy nhìn xem:

Bộ tộc Mosuo

Sinh sống ở vùng núi phía Tây Nam Trung Quốc với dân số khoảng 40.000 người, người dân ở đây gần như không có khái niệm nào về vai trò của người chồng hay người cha. Trong suốt 2.000 năm qua, phụ nữ là người quyết định mọi việc quan trọng trong gia đình, từ việc sở hữu đất đai, nhà cửa, giữ trách nhiệm chăm sóc, dạy dỗ những đứa trẻ trong bộ tộc.

Đặc biệt hơn, những phụ nữ Mosuo có quyền ngủ với bất cứ đàn ông nào họ muốn từ khi lên tuổi 13. Những đứa bé sinh ra sẽ được nuôi dạy bởi người phụ nữ, cha của đứa trẻ sẽ không được công nhận và chỉ được gọi chung là “chú” hay “bác”. Không chỉ vậy, những người đàn ông sẽ không bao giờ được phép tranh luận hay can thiệp gì về vấn đề này. Tất cả đàn ông và phụ nữ cùng nhau chăm sóc những đứa trẻ cho tới khi chúng lớn lên.

Bộ tộc Minangkabau, Indonesia
Cư trú trên hòn đảo phía Tây Sumatra, tại đây người phụ nữ làm chủ gia đình và thừa kế tài sản, trong khi đó đàn ông chỉ có nhiệm vụ… duy trì nòi giống. Theo phong tục của người Minangkabau, khi lấy vợ, người đàn ông chỉ được ân ái vợ mình vào ban đêm. Ban ngày, họ sẽ phải về nhà mẹ đẻ để phụ giúp gia đình. Nếu một người đối xử tệ bạc với vợ, ngay lập tức người đàn ông đó sẽ bị đuổi ra khỏi nhà vợ và bị cả cộng đồng tẩy chay.

Bộ tộc Garos

Sinh sống ở Meghalaya, Ấn Độ và các khu vực lân cận của Banglades.

Theo truyền thống của người Garos, người con gái út sẽ được thừa hưởng toàn bộ gia tài từ mẹ. Trong khi đó, người con trai trong gia đình sẽ phải rời bỏ cha mẹ từ khi bắt đầu tuổi dậy thì để đến nhập học tại trường ký túc xá của bộ tộc.

Khi đến tuổi kết hôn, những cô gái Garos sẽ đến ngôi trường này để tuyển chọn chồng cho mình.

Sau khi kết hôn, người chồng sẽ chung sống ở nhà vợ và trong quá trình sống cùng thì người chồng luôn phải thông qua ý kiến của người vợ trước khi làm bất cứ gì liên quan tới tài sản trong gia đình. Với người Garos, cuộc hôn nhân không phải là một bản hợp đồng ràng buộc đến trọn đời. Nếu như người chồng không thể nhân số tài sản đó lên, anh ta có thể bị “sa thải” và nhận lấy sự kỳ thị của cộng đồng.

Bộ tộc Nagovisi

Sinh sống ở phía Tây đảo New Guinea, người phụ nữ Nagovisi là người giữ vai trò lãnh đạo, điều hành các nghi lễ – đây được coi là một trong những niềm tự hào lớn nhất.

Theo truyền thống của người Nagovisi, người phụ nữ sẽ chịu trách nhiệm chăm sóc, cai quản mẫu đất trồng thực phẩm của gia đình. Do đó, một trong những yêu cầu đầu tiên mà những bố mẹ cô dâu lựa chọn chồng cho con gái mình là chàng trai đó phải khỏe mạnh, rắn rỏi, thông minh… để có thể khai hoang và mở rộng ruộng đất…



Nếu như xã hội hiện đại cho rằng một nền văn hóa văn minh là khi người phụ nữ được tôn trọng và trở nên bình đẳng với đàn ông. Thế thì chẳng phải những bộ lạc thiểu số trên sẽ được coi như văn minh hơn cả nền văn hóa hiện đại của chúng ta, văn minh hơn cả những nước hiện đang được xem là văn minh đấy sao?

Nên nhớ, chế độ mẫu hệ được duy trì ở những bộ lạc này từ hàng ngàn năm rồi chứ không phải mới đây. Đó là bằng chứng cho một quá khứ xa lắc nơi mà phụ nữ nắm quyền hành trên tất cả. Đó không phải là thế giới tưởng tượng đâu.

Và nếu những người dân thuộc các bộ lạc kia có dịp tiếp cận thế giới bên ngoài, hẳn họ sẽ sửng sốt và thấy vớ vẩn lắm, khi người phụ nữ hiện đại đa phần sống cuộc sống như bị giam lỏng trong nhà với đủ loại việc tủn mủn, dạy dỗ con cái, kiếm sống, trong khi vừa phải cúi người phục vụ ông chồng say xỉn gác chân xem tivi miệng không ngừng chửi bới…

Ấy thế mà, chúng ta vẫn có thể tự nhận mình văn minh hơn các dân tộc thiểu số sao? Chúng ta vẫn có thể tự tin mặc định rằng đàn ông thì giỏi giang hơn phụ nữ trong việc điều hành thế giới sao?

Cho nên, điều mà chúng ta cứ luôn tin tưởng trước giờ, không chắc đúng đâu.

Xa xôi một chút như câu chuyện về nguồn gốc loài người. Tất cả chúng ta đều được dạy rằng loài người được tiến hóa từ loài khỉ. Người ta đưa ra rất nhiều bằng chứng minh chứng cho thuyết này. Nhưng không phải tất cả mọi người đều tin vào điều đó, chúng ta không tin, nhưng không thể nào nói lại cái thuyết được cả tỷ người công nhận. Thế rồi, tin đại cho xong vì không tin thì biết tin cái gì?

Mọi người đều quên rằng, đây chỉ là một học thuyết, một thuyết của một người, điều đó không có nghĩa là chân lý. Như ngày xưa mọi người đều tin trái đất là trung tâm của vũ trụ, ngay cả mặt trời cũng quay quanh trái đất. Thế rồi Galileo đã bị xử treo cổ vì tội dám đưa ra thuyết trái đất quay quanh mặt trời.

Bạn thấy chưa, một điều tất cả mọi người đều tin đều chưa chắc đúng. Nếu người tiến hóa từ khỉ thật thế thì đáng lẽ tất cả loài vượn người, loài khỉ đều phải biến mất rồi mới đúng, có loài nào tiến hóa mà giữ cả giống mới lẫn giống cũ đâu. Và nếu đúng theo tiến hóa, tại sao từ khi loài người tiến hóa thành người lại không tiến hóa nữa? Cơ thể hiện tại là tối ưu rồi chăng?

Tôi nghi ngờ điều đó, thuyết cho rằng loài khỉ hay vượn người là do một nhánh loài người bị hoang hóa mà thành theo tôi còn có lý hơn. Cứ thả một người từ nhỏ vào sâu trong rừng thẳm đi, nếu anh ta không chết thì theo thời gian anh ta cũng thành người rừng, leo trèo bơi lội chẳng thua gì loài khỉ. Nếu theo tiến hóa thì anh ta vẫn là người chứ sao lại quay về như khỉ được nhỉ?

Nếu bạn đang muốn tìm một học thuyết khác cho nguồn gốc loài người, có thể bạn sẽ muốn đọc cuốn “Chúng ta thoát thai từ đâu” của tác giả Ernst Muldashev. Đó là một cuốn sách hay, hơi khó đọc nhưng có thể cho bạn một nhận thức hoàn toàn mới, đập vỡ đi tất cả những niềm tin cũ kỹ đang chứa đầy trong đầu bạn lúc này.

Sơ lược rằng loài người chúng ta đang sống thuộc nền văn minh thứ 5 trên hành tinh này. Các nền văn minh trước phát triển hơn chúng ta rất nhiều đều đã bị xóa sổ trong những cơn hồng thủy và động đất (cơn hồng thủy này được các tôn giáp kể lại dưới thuyết con tàu Noah và trận động đất nhấn chìm nền văn minh Atlantis báo chí vẫn thường nhắc đến).

Hành tinh sơ khai ngập tràn năng lượng vô hình, chính các năng lượng vô hình sau nhiều ngàn năm cô đặc lại trở nên hữu hình và tạo thành các chủng người đầu tiên. Loài người hiện tại là chủng loài có phần thể xác hữu hình được cô đặc nhất quanh khối năng lượng gốc (linh hồn) như hiện nay, cũng là loài nhỏ bé nhất, yếu ớt nhất, kém cỏi nhất. Chúng ta không hề đạt đỉnh văn minh như ta tưởng đâu các bạn à.

Tuy nhiên, khi tiếp cận những học thuyết mới mẻ này, bạn hoàn toàn có quyền tin hay không tin, dần dần thời gian sẽ trả lời cho bạn khi các học thuyết cũ kỹ bị đập vỡ tan tành. Tôi chọn tin vào thuyết duy tâm (ý thức có trước tạo nên vật chất) này. Vì sao? Vì sau khi tiếp cận thuyết này, tất cả những bài viết có tựa đề “những bí ẩn khoa học không thể giải thích nổi” đối với tôi đều trở nên đơn giản, dễ hiểu đến không ngờ.

Từ những bí ẩn như phát hiện mẫu động cơ như chiếc Bu-ji cổ hàng triệu năm khi loài người còn chưa xuất hiện, việc phát hiện hóa thạch dấu chân người cùng lúc với dấu chân khủng long, những dấu chân khổng lồ, tam giác quỷ giữa biển khơi, những kỳ quan thế giới tự nhiên nhưng nhìn như có sự sắp đặt (cột đá chồng, ghềnh đá, tượng khổng lồ…), những hình mẫu được để lại trên các cánh đồng lúa mạch chỉ sau một đêm, kim tự tháp được xây thế nào… vân vân và vân vân, gần như tất cả những bí ẩn mang mác khoa học không thể giải thích tôi đều có thể tự tìm câu trả lời chỉ nhờ mỗi việc tin vào một thuyết khác về nguồn gốc và sự tiến hóa của loài người.

Tôi không nói tôi đúng bạn sai hay ai đúng ai sai, chúng ta có quyền tự chọn niềm tin cho mình. Việc bạn chắc chắn bạn được tiến hóa từ vượn, có tổ tiên là vượn sẽ không làm suy chuyển niềm tin của tôi rằng không đời nào tôi chịu có nguồn gốc từ vượn đâu.

Thế thì, một lần nữa, niềm tin của chúng ta rất có thể chẳng đúng tí nào cả. Đừng bám víu vào một niềm tin nào đó một cách mù quáng. Bởi không ai dám khẳng định sự thật là gì!

Đó là về nguồn gốc loài người, giờ tôi sẽ đi sâu chi tiết vào một chút về tôn giáo của chúng ta – những niềm tin vốn không hoàn mỹ và chứa đầy những rối rắm.

Đạo Thiên Chúa từng có những luật rằng, ăn thịt trong ngày thứ 6 là mắc trọng tội. Luật ấy từ xưa rồi và bây giờ thì đã được gỡ bỏ do Hội Thánh đã nói rằng giờ người ta được phép ăn thịt trong ngày thứ 6. Ơ, một thứ được xem là tội bỗng không còn là tội nữa. Thật lạ. Đó chỉ là việc ăn thịt, còn những việc khác thì sao?

Roma từng là một đế chế tôn giáo tham quyền, dùng danh nghĩa Thánh Chiến để đi xâm lược và gây chiến với các nước khác tạo ra bao đau thương đổ máu. Ấy thế mà họ có thể ra luật cấm người khác giết người? Thật mâu thuẫn.

Và rồi thì sách Kinh Thánh – cuốn sách được cho là lời của Chúa – được cho biết rằng đã tái bản rất nhiều lần và mỗi lần đều được Hội Thánh sửa chữa nội dung cho phù hợp với thời cuộc. Cho nên những luật mà bạn tin là của Chúa, vốn không phải của Chúa đâu, của Hội Thánh cả đấy, tức là của con người tự viết ra nhân danh Thiên Chúa. Nếu biết được về bản chất những luật này, liệu bạn còn có tin?

Bạn không theo đạo Hồi nên bạn sẽ cho những điều luật của tôn giáo này là vớ vẩn, nào là không được nô đùa trên bãi biển, không được hở bất cứ phần thân thể nào trước mặt đàn ông kể cả tay và mặt, không được có những cử chỉ tình cảm khi đang yêu nhau, một người được phép giết vợ và nhân tình của cô ta nếu phát hiện vợ ngoại tình, đàn ông thì có toàn quyền với đàn bà do Chúa sinh ra đàn ông cao quý hơn…

Chắc chắn rồi, bạn sẽ cho đây là luật nhảm nhí đơn giản vì nó không phải là điều bạn được dạy và tin. Nhưng này, cả triệu người Hồi giáo vẫn đang tin và sống những điều luật nhảm nhí ấy mỗi ngày với lòng thành kính cao nhất đấy nhé.

Ngoài ra còn có Ấn Độ giáo có ngụy thuyết tắm nước sông Hằng để rửa sạch tội lỗi, thờ đủ thứ hình tượng, thú vật…; Phật giáo thì mang tượng Phật ra đường, thêu dệt nên các huyền thoại, tôn Thích Ca là Chân lý của vũ trụ, hay đấng đạo sư cao hơn cả Trời và người; cho kinh Phật là lời Phật nói, buộc tín đồ phải tin vào Tam bảo… Tôn giáo nào cũng cho mình là đúng nhất, là chân lý, là duy nhất, sao lại có nhiều cái duy nhất đến thế? Nếu bạn có thể nghiên cứu và tìm hiểu rõ bản chất của tôn giáo, hẳn bạn sẽ không còn muốn theo một tôn giáo nào nữa đâu.

Chợt nhớ lại câu chuyện khi một người hỏi Osho rằng, các bậc chân sư đều xuất thân từ Ấn Độ rất nhiều, liệu phải chăng vì Ấn Độ là vùng đất thánh thiêng? – và Osho đã trả lời: “Một căn nhà mà có nhiều bác sĩ hay ra vào, thì hẳn do nhà đó đang chứa rất nhiều bệnh. Và cũng thế thôi, Ấn Độ là nơi xuất hiện nhiều Chân sư nhất, không phải vì nó thánh thiêng, nhưng vì nó là nơi u mê nhất cần được khai sáng.”

Thế đó, khoảng cách giữa nơi thánh thiêng nhất và nơi u mê nhất thật mong manh. Chắc chắn trong con mắt của nhiều người dân Ấn, họ vô cùng tự hào vì là nơi sinh ra của nhiều bậc Thánh nhân vĩ đại, mà không cảm nhận được sự u mê cuồng tín của chính mình.
Thêm những chuyện lặt vặt khác:

Ở đa phần các quốc gia, mãi dâm là tội lỗi, nhưng chỉ cần vượt ra khỏi ranh giới quốc gia đó mà đến những nơi mãi dâm được hợp thức hóa, thì nó lại chẳng phải là tội lỗi gì, nó lại đơn thuần được xem như một nghề nghiệp chân chính có người bán và người mua. Thế thì một lần nữa, tội lỗi chỉ đơn thuần là do quan niệm của một nền văn hóa, chả có gì bản chất là tội lỗi cả.

Ngay cả việc hệ trọng như việc giết người. Giết người đa phần được coi là tội lớn, nhưng nếu giết có lý do thích hợp thì lại chẳng phải là tội nữa. Các lý do để nó không phải là tội thì vô vàn: ngộ sát, chiến tranh, giết người để tự vệ, giết người đang có mưu đồ xấu, giết người trong trạng thái vô thức, giết người vì họ phạm tội nào đó vân vân… Cùng một hành động lấy đi mạng sống, nhưng có cái là tội, có cái không? Thế thì vấn đề nằm ở đâu? Nó nằm ở chỗ quan niệm của con người mà ra thôi. Không có gì về bản chất là tội cả.

Ngày xưa phụ nữ có bầu trước khi cưới thì trở thành tội lớn, bị khinh rẻ, bị xa lánh, bị chửi bới, xỉ nhục. Ngày nay việc này ngày càng phổ biến thì nó không còn là vấn đề lớn lao nữa. Nhưng cứ nghĩ xem, cứ đà người vô sinh nhiều như hiện nay thì tương lai, việc có em bé trước khi cưới hẳn còn được hoan nghênh và ủng hộ. Người ta sẽ phải gieo giống rồi đợi xem cô gái nào có thể mang được một em bé thì mới cưới người đó. Ngày đó rất có thể sẽ đến. Ai biết được.

Mọi chuyện đều có thể thay đổi, nhất là quan niệm và niềm tin. Những lễ hội lớn được mong chờ xưa kia giờ trở thành những lễ hội man rợ bị tẩy chay. Những thứ được cho là văn hóa, là đẹp đẽ cũng đều bị thay đổi, phế truất và biến mất. Quan niệm cứ thay mới mỗi ngày, niềm tin cũng bị đổi khác mỗi ngày. Thế nên những gì giờ bạn cho là đúng mai sau có lẽ sẽ không còn đúng nữa. Những gì bạn cho là sai, cũng không hẳn là sai. Một quan niệm tự bản chất không hoàn toàn đúng cũng không hoàn toàn sai, đó hoàn toàn chỉ là một quan niệm.

Thay vì bám víu và ôm khư khư những quan niệm cũ, hãy nhận biết, học hỏi cả những quan niệm mới, chấp nhận nó như chấp nhận một mùi hương kiểu hương sầu riêng, chưa quen thì thấy thúi nhưng khi ghiền rồi thì không có loại trái cây nào thơm bằng.

Chấp nhận và học hỏi những điều mới mẻ để chọn ra những gì thích hợp với thời đại. Hơn là bấu víu vào những gì mình được dạy và đã tin. Chỉ có những cái mới, mới làm cho thế giới và nhân loại tiến hóa, cả trên khía cạnh văn hóa, nhận thức lẫn tâm linh.

Đừng tự hào khi mình là người cũ kỹ.



Phi Tuyết

Cách thức phân biệt người quân tử và kẻ tiểu nhân của người xưa




Ngụy Hi – người được xưng là “Thanh sơ tam đại gia” (một trong ba nhà văn lớn hàng đầu của triều đại nhà Thanh) đã từng nói: “Ta không hiểu biết như thế nào là người quân tử, nhưng nhìn vào khả năng “chịu nhận phần thiệt” trong mỗi sự việc của người ấy là sẽ biết. Ta không biết được như thế nào là kẻ tiểu nhân, nhưng nhìn vào việc “tranh giành phần lợi” của người ấy là sẽ biết.”

Điển tích Hàn Tín chịu nhục chui háng (Ảnh: internet)




Suy ngẫm kỹ càng, thật đúng nó là quanh co như vậy. Có thể chịu thiệt quả là không phải một việc dễ dàng. Cần phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng lớn mới có thể chịu thiệt thòi một cách cam tâm tình nguyện. Tiêu biểu là phải khoan dung độ lượng, chịu nhẫn nhục, co được giãn được (tức là biết ứng phó thích hợp với tình hình cụ thể) thì chính là một quân tử. Chẳng trách mà người xưa dùng tiêu chuẩn “có hay không có khả năng chịu thiệt” là yếu tố đầu tiên để nhận biết người quân tử và kẻ tiểu nhân.
Ngày xưa, có một vị thượng thư tên Lâm Thoái Trai, ông ta phúc đức rất nhiều, con cháu đầy đàn. Lúc ông ta sắp lâm chung, con cháu quỳ gối trước mặt ông xin thỉnh cầu lời giáo huấn. Lâm Thoái Trai nói: “Ta không có lời nào khác, chỉ khuyên bảo các con học “chịu thiệt” là được rồi”.

Những người già Trung Quốc cũng thường hay nói “chịu thiệt là phúc”, bởi vì họ biết rõ “Phúc, Lộc, Thọ” ở thế gian con người đều là đổi từ đức mà ra, mà chịu thiệt lại có thể tích đức. Xưa nay, rất nhiều anh hùng, cũng đều do có thể chịu nhịn nhục, chịu thiệt mà làm lên đại sự. Nổi danh nhất chính là Hàn Tín có thể chịu nhục chui háng, có thể nói đó là “chịu thiệt” đến cực điểm, bởi vậy sau này Hàn Tín đăng đàn bái tướng, được Lưu Bang phong làm Tam Tề Vương.
Trái lại, nếu như luôn luôn khiến cho người khác phải chịu hại chịu thiệt, như thế thì người này chẳng phải là mất đức rồi sao? Làm nhiều việc xấu còn bị trời trừng phạt, thật sự là cái được không bù nổi cái mất.
Biên dịch: Mai Trà

Con rùa nói lên lời

 Tấn Nghĩa


Chuyện tiền thân Kachapa (chuyện số 215, phẩm
Đám cỏ thơm [biranatthambahaka]) nói về cái hại của việc nói nhiều.

Chuyện kể rằng:

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba- la-nại, Bồ-tát sanh ra trong gia đình một đại thần; lớn lên, ngài trở thành vị cố vấn của vua về thánh sự và thế sự. Nhưng vua có tánh nói nhiều. Khi vua nói, không ai cơ hội xen vào. Và Bồ-tát muốn ngăn chặn vua nói nhiều, nên cố tìm một cơ hội.

“Nói” là hành vi cơ bản của con người. Hành vi này xuất phát từ việc phát âm những ngôn từ trong suy nghĩ và dùng để truyền đạt các ý nghĩ từ cá nhân này đến cá nhân khác. Nếu xét về mặt mục đích, khi bàn về việc“nói”, người ta không chỉ đề cập đến hành vi phát âm theo một ngôn ngữ nào đó mà có thể chỉ chung cho các cách truyền đạt bằng ngôn từ. Chẳng hạn, viết sách là một cách “nói”, chat trên mạng cũng là một cách “nói”. Ngày nay, việc thanh thiếu niên nghiện lướtweb, chơi facebook cũng ở dạng “nói nhiều” mặc dù họ chỉ bấm phím hay kéo chuột. Ngoài ra, mọi người còn có các cuộc “độc thoại”trong đầu mình, đó cũng là hành vi “nói”. Hành vi này có đặc điểm là chẳng cần có đối tượng để truyền đạt thông tin, chỉ cần “một mình mình biết, một mình mình hay”.

Lúc bấy giờ, trong khu vực Tuyết Sơn, một con rùa sống ở một hồ nước. Hai con ngỗng trời trẻ đi tìm mồi, đến kết thân với con rùa ấy. Dần dần, chúng trở thành rất thân thiết. Một hôm ngỗng trời con nói với rùa:

– Này bác rùa, chỗ chúng tôi ở tại Tuyết Sơn, trên cao nguyên núi Cittakùta, trong một cái hang bằng vàng, trú xứ rất đẹp. Hãy đi với chúng tôi nhé!

– Làm sao tôi đi được?

– Chúng tôi sẽ đưa bác đi, nếu bác có thể giữ gìn cái miệng của bác và đừng nói một điều gì hết.

– Ðược, tôi sẽ giữ gìn. Hãy đem tôi đi.

Chúng chấp thuận,bảo con rùa ngậm một cây gậy, còn chúng cắn vào hai đầu gậy, rồi bay lên hư không.

Yêu cầu của hai con ngỗng trời là con rùa phải ngậm miệng, nghĩa là không được nói bằng cách phát âm. Con rùa cảm thấy điều này cũng dễ nên đồng ý ngay. Thật ra, việc này rất khó. Nếu ai thực hành “tịnh khẩu”, im lặng trong một thời gian sẽ thấy việc này hoàn toàn không dễ dàng.

Bọn trẻ con trong làng thấy con rùa được các con ngỗng trời trẻ đưa đi như vậy, liền la lên:

– Hai con ngỗng trời mang con rùa lên cái gậy!

Con rùa muốn nói lên: Nếu bạn ta đưa ta đi thì có can hệ gì đến các ngươi, đồ vô loại kia?

Chắc là bọn trẻ con chỉ trỏ lên con rùa, có thể có đứa rắn mắt còn ném đá hay bắn sỏi… Các câu reo hò của bọn trẻ làm cho con rùa bực mình. Nó thầm nghĩ trong đầu: nếu bạn ta đưa ta đi thì có can hệ gì đến các ngươi, đồ vô loại kia. Các ý nghĩ này chính là “lời nói”, mặc dù nó chưa được phát âm ra. Lỗi của lời nói có bốn loại. Loại đầu tiên là nói dối. Loại thứ hai là nói ác. Loại thứ ba là nói lời gây chia rẽ. Loại thứ tư là nói chuyện phiếm hay nói lời vô ích. Con rùa khi nghĩ trong đầu “nếu bạn ta đưa ta đi thì có can hệ gì đến các ngươi” là đang phạm vào lỗi nói lời vô ích. Còn việc mắng thầm lũ trẻ “đồ vô loại kia” phạm vào lỗi nói ác. Một người vi phạm điều khoản không nói lời vô ích nếu có đủ hai phần:

– Có ý muốn nói lời vô ích.

– Đã nói những chuyện vô ích.

Lời nói vô ích là lời nói không đem lại lợi ích gì cho bản thân và cho người khác.

Đức Phật dạy: “Này các Tỷ-kheo, đối với các thầy, khi gặp mặt nhau có hai việc nên làm là: nói về việc tự điều chỉnh hay nên im lặng như các bậc thánh”. Nói lời vô ích gồm cả việc bàn tán những tin tức trên báo chí, tivi, radio, internet khi nó không dính dáng tới bản thân mình và mình cũng không có khả năng gây một tác động nào làm biến chuyển tình hình ấy. Một số lời nói vô ích cụ thể gồm các chuyện tầm phào về: Vua, Chủ tịch, Tổng thống, Quan chức, Chính phủ, Trộm cướp, Quân đội, Tai họa, Chiến tranh, Cơm gạo, Đồ uống, Vải vóc, quần áo, Loại hoa, vòng hoa, Chỗ ở, chỗ nằm, Mùi thơm, dầu thơm, Bà con, dòng họ, Xe cộ, Xóm làng, Quận huyện, Thành phố, Vùng quê, Đàn bà, Đàn ông, Chàng trai, Cô gái, Các cuộc đấu bóng đá, Thể thao, Sự can đảm, Đường sá, Bến nước, Bà con quá cố, Nhảm nhí, Sự tạo thiên lập địa, Số phận, luân hồi, Đại dương, Rừng, núi, Sông, biển…

Nói lời vô ích gồm cả việc không thực hiện những lời đã hứa hoặc việc đặt kế hoạch lớn lao rồi không tiến hành, không theo dõi để cho kế hoạch hoàn thành. Hiện tượng này xảy ra trong các hội nghị, khi mà người ta thảo luận các sự kiện và các giải pháp không có thực tế làm nền tảng: nhiều người đều biết như vậy nhưng vẫn tham gia phát biểu. Sự nói lời vô ích cũng bao gồm các cuộc tự thoại trong đầu vào mọi lúc, từ lúc thức dậy tới lúc đi ngủ và ngay cả trong giấc mơ. Cách điều chỉnh chính là giữ im lặng (với các câu chuyện bên ngoài) và thực tập một hình thức làm ổn định suy nghĩ (tự thoại bên trong).

Những người phạm lỗi nói lời vô ích cũng bao gồm cả những người làm nghề sáng tác văn học, kịch bản, những người diễn kịch, đóng phim… với các nội dung phục vụ sự tranh đoạt, bạo lực, tình dục, vì họ làm cho người khác tiêu khiển, say mê mà không đem lại ý thức tự điều chỉnh cho người khác.

Trong khi ấy, hai con ngỗng trời đã bay mau đến khoảng trên cung điện vua trong thành Ba-la-nại. Con rùa vừa nhả cây gậy định nói, liền rơi xuống trong sân trống và bị vỡ làm hai.

Con rùa đã nói thầm trong đầu từ trước. Theo quán tính, các câu nói thầm đó sẽ được phát âm ra để cho đối phương biết. Khi mở miệng, con rùa bị rơi xuống vỡ làm đôi. Đấy là hậu quả thấy ngay của việc không giữ gìn lời nói. Lỗi lời nói vô ích là lỗi nhẹ nhưng nó lại được tích lũy thường xuyên và có khuynh hướng phát triển thành một loại bệnh: nghiện nói. Do đó, lỗi nói lời vô ích cũng dẫn đến những hậu quả nặng. Nếu hậu quả nhẹ cũng là:

– Nhiều người không tin lời tâm huyết mà mình nói.

– Nhiều người không có cảm tình với mình.

– Không được kính trọng.

– Không thể nói cho người khác tin.

– Nghèo khổ.

– Không có quyền lực.

– Suy nghĩ không sâu.

Trở lại với câu chuyện, khi thấy con rùa rơi xuống sân thì tiếng ồn ào nổi lên. Chuyện kể tiếp:

Vua đem theo Bồ-tát cùng với các đại thần vây quanh, đi đến chỗ ấy, thấy con rùa, hỏi Bồ-tát:

– Này bậc Hiền trí, vì sao con rùa này rơi xuống?

Bồ-tát suy nghĩ: ‘Chờ đợi đã lâu, ta muốn giáo huấn vua và đang tìm một phương tiện. Nay thời cơ đã đến. Chắc con rùa này kết thân với những con thiên nga, được chúng đưa đi đến Tuyết Sơn. Chúng bảo rùa ngậm cây gậy và đưa nó đi giữa hư không, rồi có lẽ con rùa nghe lời ai đó nói, không thể giữ gìn cái miệng, nó muốn nói nên nhả cái gậy ra, liền rơi từ hư không xuống như vậy, và đi đến chỗ chết’. Và Bồ-tát thưa với vua:

– Thưa Ðại vương, những ai lắm mồm miệng, nói không dừng nghỉ, đều phải gặp tai họa như vậy. Rồi Bồ-tát đọc bài kệ này:

Con rùa nói lên lời, Lời nói tự hại mình,

Tuy khéo ngậm cái gậy, Mở miệng tự sát hại. Hãy thấy rõ điều này, Bậc Nhân chủ vĩ đại, Hãy nói lên vừa phải, Cẩn thận nói đúng thời. Kẻ nào nói nhiều lời, Như con rùa gặp nạn.

Lời nói thiện là lời nói lợi mình, lợi người, lợi cho môi trường. Nó có các đặc tính:

– Không phạm vào bốn lỗi của lời nói (dối, ác, chia rẽ, vô ích).

– Nói đúng thời điểm.

– Nói lời hòa dịu.

– Nói lời có lợi ích.

– Nói lời thông cảm thương xót (từ bi).

Trong kinh Vương tử Vô Úy (kinh số 58 thuộc Trung Bộ), Đức Phật phân tích rõ các trường hợp nên nói hoặc không nên nói; trong đó có bốn trường hợp không nên nói và hai trường hợp nên nói.

Bốn trường hợp không nên nói, theo Đức Phật dạy, có thể được diễn giải như sau:
Điều tự thân mình biết là không chân thật, không đem lại lợi ích, và khiến người nghe không ưa thích.
Điều tự thân mình biết là chân thật nhưng không đem lại lợi ích và khiến người nghe không ưa thích.
Điều tự thân mình biết là không chân thật cũng không đem lại lợi ích, mặc dù khiến người nghe ưa thích.
Điều tự thân mình biết là chân thật nhưng không đem lại lợi ích, mặc dù lời nói ấy khiến người nghe ưa thích.

Chỉ có hai trường hợp nên nói là:
Điều chân thật và đem lại lợi ích, mặc dù người nghe không hài lòng. Điều này cần phải nói đúng nơi, đúng lúc.
Điều chân thật, đem lại lợi ích, người nghe hài lòng. Vua biết Bồ-tát vì mình kể chuyện này, nói rằng: Thưa bậc Hiền trí, có phải vì tôi mà bậc Hiền trí nói? Bồ-tát trình bày rõ ràng và trả lời: Đại vương hay người khác nếu nói quá nhiều đều gặp nạn như vậy. Nhà vua từ đấy trở đi từ bỏ tánh nói nhiều và trở thành người ít nói.

Văn học đổi mới, hay là sự thức tỉnh nửa vời của một lớp nhà văn?





(Tham luận tại hội thảo “Sáng tác văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới: Thực trạng và triển vọng”, do Viện Văn học tổ chức, Hà Nội, 28/5/2015)


LẠI NGUYÊN ÂN


Đối với đời sống văn học những năm 1986-1995 mà ngày nay thường được gọi là “văn học đổi mới”, tôi vừa là người trong cuộc, vừa là người quan sát. Tôi cũng đã công bố ít nhiều tư liệu và suy nghĩ riêng về văn học những năm này, − đó là bộ sưu tập tư liệu “Đời sống văn nghệ thời đầu đổi mới”, thực hiện năm 2006 cùng nhà giáo-nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Bình, và cuốn “Trong thoáng xuân Hà Nội” (e-book, 2014, Nxb. Hội Nhà Văn & Cty sách Phương Nam), nhưng đó hoặc là một sưu tập mới chỉ đưa một phần lên mạng, hoặc chỉ là sách điện tử, hẳn chưa có nhiều người tìm đọc.
Tại hội thảo này, tôi xin nêu một số hồi ức và suy nghĩ.


Về mặt phân kỳ, người ta có thể khuôn “văn học đổi mới” trong giới hạn mấy năm cao trào 1986-1990, thậm chí ngắn hơn, chỉ từ sự kiện cuộc gặp mặt của Tổng Bí thư ĐCSVN Nguyễn Văn Linh với gần 100 văn nghệ sĩ (6 và 7/10/1987) đến sự kiện Đại hội IV Hội nhà văn VN (28/10 – 1/11/1989), hoặc có thể kéo dài đến sự kiện báo “Công an Tp.HCM” triển khai một đợt phê phán kịch liệt đối với tiểu thuyết “Thân phận tình yêu” (tức “Nỗi buồn chiến tranh”) của Bảo Ninh (tháng 8 – tháng 11/1995), – sự kiện có thể xem như nỗ lực dập tắt hoàn toàn xu hướng đổi mới. Nhưng, cũng có thể ước lệ là toàn bộ 15 năm cuối cùng của thế kỷ XX (1986-2000) đều thuộc thời kỳ “văn học đổi mới”.
Về lực lượng văn học, đặc điểm khá nổi bật của thời kỳ này, theo tôi, là sự thức tỉnh bước đầu – một sự thức tỉnh mà tôi gọi là “nửa vời” – của một thế hệ nhà văn, từ chỗ là một “đội ngũ” dường như “thống nhất” trong cả một thời gian dài trước đó, đến chỗ nảy sinh sự khác biệt, dẫn tới những xung đột, chia rẽ, ly khai giữa họ.


Nói lực lượng nhà văn trước thời đổi mới dường như là một “đội ngũ thống nhất” – là có những tiền đề lịch sử.
Đó hầu hết là gồm những nhà văn được tập hợp trong Hội văn nghệ Việt Nam (từ 1948), Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam (từ 1957), Hội nhà văn Việt Nam (từ 1957),… Sự tập hợp lực lượng này là nỗ lực của Đảng CSVN, nhằm tạo ra một lực lượng nhà văn thống nhất về tư tưởng và tổ chức, phục vụ sự nghiệp của Đảng. Để đứng vào hàng ngũ hội đoàn này, những nhà văn từng có những thành tựu văn học từ trước 1945 (hoặc trước 30/4/1975 ở miền Nam) phải tự gột bỏ một loạt quan điểm xã hội và nghệ thuật trước đó mình từng có, thậm chí phủ định một số thành tựu trước đó của mình, còn những nhà văn bước vào văn học trong thời gian của chế độ này thì cũng phải gạt bỏ hoặc được cảnh báo đừng mắc phải những quan điểm xã hội và nghệ thuật mà đảng cầm quyền không chấp nhận, không dung thứ. Để tạo ra sự thống nhất đó, Đảng và cán bộ đảng lãnh đạo các hội văn nghệ đã tiến hành hàng loạt những cuộc chỉnh huấn, những cuộc đấu tranh tư tưởng, mà nổi bật là cuộc đấu tranh chống Nhân văn – Giai phẩm (1956-58) và các cuộc học tập chính trị được tiến hành hầu như thường xuyên hằng năm.


Chính những nội dung đổi mới mà Đảng CSVN nêu ra (tại ĐH VI của Đảng) như “đổi mới tư duy”, “nhìn thẳng vào sự thật” – đã khích lệ giới nhà văn thay đổi cách nhìn cách viết: nhìn thẳng vào xã hội của mình, văn học của mình, mạnh dạn nói lên sự thật về xã hội, về tình trạng văn học, văn hóa, từ đây nêu lên yêu cầu phải thay đổi.
Sự kiện Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh gặp gỡ trên 100 văn nghệ sĩ cho thấy: chính Đảng CSVN đã kêu gọi nhà văn tự đổi mới mình, đổi mới văn học, và đồng thời kêu gọi nhà văn lên tiếng ủng hộ công cuộc đổi mới vừa mở ra của Đảng. Trong những năm 1986-1988, Ban Văn hóa – văn nghệ của Trung ương Đảng đo Trần Độ là Trưởng ban, đã đóng vai trò đại bản doanh của phong trào đổi mới trong văn hóa văn nghệ.


Có thể tóm tắt sự chuyển biến của giới nhà văn (và văn nghệ sĩ nói chung) thời kỳ đổi mới được thể hiện ở một số phương diện sau.
Một là những phát biểu mang tính chính luận hưởng ứng chủ trương đổi mới của ĐCSVN và nêu yêu cầu đổi mới toàn diện, từ kinh tế xã hội đến văn hóa.
Hai là những sáng tác, trước hết là văn xuôi tự sự (ký, tiểu thuyết, truyện ngắn) theo các xu hướng tìm tòi khác nhau, hoặc “hiện thực tố cáo” (từ các bút ký như Cái đêm hôm ấy đêm gì?của Phùng Gia Lộc, đến những tiểu thuyết như Thời xa vắng của Lê Lựu, Những thiên đường mùcủa Dương Thu Hương, Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn, v.v.), hoặc các kiểu phúng dụ (Thiên sứ của Phạm Thị Hoài), giả truyền thuyết (một số truyện ngắn, truyện vừa Nguyễn Huy Thiệp), hoặc pha trộn tả thực với “dòng ý thức” (Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh), v.v.
Ba là những thảo luận, tranh luận về các vấn đề lý luận văn nghệ.
Có khá nhiều vấn đề được đề cập, từ chính trị và văn nghệ đến văn nghệ với hiện thực, “phương pháp” hiện thực xã hội chủ nghĩa, v.v.
Các vấn đề ấy hầu như đều đã được đề cập trong suốt quá trình thành hình và tồn tại các hội đoàn văn nghệ do Đảng tổ chức như hội Văn hóa cứu quốc (1943-1948), Hội Văn nghệ VN (từ 1948), Hội nhà văn VN (từ 1957), trước hết là vấn đề văn nghệ và chính trị, đến thời “văn học đổi mới” này lại được đem ra luận bàn. Không ít ý kiến muốn giữ nguyên những nội hàm đã định hình trong thời bao cấp, nhưng cũng có rất nhiều ý kiến mới và mạnh mẽ, trong đó vấn đề “văn nghệ – chính trị” được những người cấp tiến đưa dần ra khỏi “mê lộ” để thấy đó chỉ là vấn đề quan hệ giữa người làm văn nghệ với nhà cầm quyền, với những phạm vi được khuyến khích và những chế tài về kiểm duyệt, cấm đoán nhất định ở mỗi thời đoạn cụ thể; và việc này là độc lập với tự do sáng tác của nhà văn.
Chính là trong không khí của cao trào đổi mới, ý niệm “tự do sáng tác” đã ít nhiều lấy lại được hàm nghĩa thực, dần dần khôi phục lại dãy khái niệm tương liên mật thiết: “tự do sáng tác” – “tự do tư tưởng” – “tự do ngôn luận”; phía quản lý cũng không dám sỗ sàng phủ nhận nữa, chỉ nhấn vào sự song hành: “tự do sáng tác đi đôi với trách nhiệm công dân”.


Khi đề cập trở lại vấn đề văn học với hiện thực, nhiều người đã dám nói ra sự ngờ vực ngấm ngầm lâu nay của họ đối với cái gọi là “phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa”: nó là gì? có hay không “phương pháp sáng tác”? Không lập tức giải đáp được những câu hỏi tương tự, nhưng dần dà người ta hiểu rằng trong thực chất, “hiện thực xã hội chủ nghĩa” cũng chỉ là một trong những phương thức gắn bó, ràng buộc nhà văn vào cơ chế văn nghệ, cơ chế ý thức hệ do Đảng chỉ đạo.
Như đã biết, thời gian của cao trào “đổi mới” trong văn nghệ là rất ngắn. Sau cuộc gặp mặt của Tổng Bí thư ĐCSVN Nguyễn Văn Linh với gần 100 văn nghệ sĩ (6 và 7/10/1987), tinh thần “nhìn thẳng sự thật”, nói thẳng nói thật bộc lộ mạnh mẽ bằng các phát ngôn chính luận, bằng một số sáng tác đăng trên tuần báo “Văn nghệ”.


Nhưng người ta đã sớm tạo ra sự xung đột ngay trong giới nhà văn, coi những người cộng tác chặt chẽ với báo “Văn nghệ” là nhóm đổi mới cực đoan, đối lập với số đông còn lại, đồng thời người ta hỗ trợ hình thành một lực lượng phản công lại các phát ngôn và các tác phẩm mang tính cấp tiến kể trên. Xung đột ấy được nuôi cho lớn dần, trở thành xung đột ngay trong ban chấp hành Hội nhà văn, dẫn đến việc Ban chấp hành rút (thực chất là cách chức) Nguyên Ngọc khỏi tòa soạn báo “Văn nghệ” (đầu tháng 12/1988) thay bằng một ban điều hành gồm nhiều thành viên, dẫn dắt tờ báo theo hướng giảm liều lượng, giảm mức độ cấp tiến, thậm chí dần dần đi ngược lại xu hướng đổi mới ban đầu trong các nội dung đăng tải trên tờ “Văn nghệ”.


Ở cấp cao hơn, người ta đưa Trần Độ rời khỏi vị trí Trưởng ban văn hóa-văn nghệ trung ương, ngừng hoạt động của Ban văn hóa-văn nghệ trung ương, rồi sau đó sáp nhập ban này vào Ban tuyên giáo trung ương, tiếp đó đổi tên Ban tuyên giáo trung ương thành Ban tư tưởng văn hóa trung ương, với những nhân sự khác hẳn ở vị trí lãnh đạo.
Động thái này, ở một phương diện khác, còn liên quan đến việc định hình một mô hình đổi mới Việt Nam, mang tính chỉnh sửa so với ban đầu; đó là chỉ đổi mới các mặt kinh tế-xã hội (công nhận 5 thành phần kinh tế, chấp nhận mở cửa với kinh tế bên ngoài…) nhưng giữ nguyên xu hướng chính trị, văn hóa, quản lý xã hội như thời trước đổi mới, và kiên quyết cự tuyệt các đề xuất đa nguyên chính trị. Mô hình này càng rõ nét hơn từ sau năm 1990, sau khi Đảng và nhà nước Việt Nam tái lập quan hệ với Đảng và Nhà nước Trung Quốc, dần dần tiếp nhận mô hình Trung Quốc.
Nếu đặt trong quỹ đạo đời sống văn nghệ đã định hình từ những năm 1960 ở miền Bắc, thì một loạt những biểu hiện cấp tiến trong đời sống văn nghệ mấy năm cao trào đổi mới sẽ có thể bị xem như một trong số các “vụ” (như vụ Nhân văn, vụ “nghị quyết 9”, vụ “đề dẫn” và “phải đạo”…), nghĩa là sẽ có những tổng kết, nêu ra những lỗi lầm, nhất là những lỗi nặng nhất, kèm theo những xử phạt cụ thể.


Song, khác với những gì có thể xảy ra theo quỹ đạo cũ, thì với một vài xử lý kể trên (mà tập trung ở việc cách chức Nguyên Ngọc), phong trào đổi mới trong văn nghệ chỉ bị “hạ nhiệt” chứ không bị dập tắt; và ở quy mô xã hội-kinh tế, thì đổi mới vẫn đang được tiếp tục.
Đối với lực lượng văn nghệ đã ở trong “đội ngũ thống nhất” kể trên, cao trào đổi mới đã khiến “đội ngũ thống nhất” này mau chóng bị tách làm đôi, tạo thành hai cực, với số đông ở giữa. Một số không ít hướng theo những người cấp tiến (tự nhận là “phái vui tươi” tại đại hội nhà văn IV). Một số khá đông vẫn ứng xử như thể trước sau chưa có biến động gì, vẫn hoạt động trong các hoạt động do hội tổ chức. Một số tương đối ít thì năng nổ tham gia những hoạt động được gọi là “bảo vệ nguyên tắc” tức những giáo điều cũ. Đó là chưa nói tới việc mạng internet đi vào đời sống, can dự và làm thay đổi các quy trình viết và lưu chuyển bản thảo tác phẩm, khiến lực lượng nhà văn bị “thanh lọc” thêm một lần nữa, kể từ cuối những năm 1990s.


Ở nhan đề bài này tôi hình dung văn học đổi mới như sự thức tỉnh nửa vời của một lớp nhà văn. Chỉ của “một lớp nhà văn” thôi, chỉ những nhà văn được tập hợp trong “đội ngũ thống nhất” mà thôi.
Sao lại nói là thức tỉnh và thức tỉnh nửa vời?
Đây rõ ràng là một sự thức tỉnh.
Một lớp người đã được Đảng tập hợp thành “đội ngũ thống nhất”, sau bốn chục năm, lại được Đảng hô gọi “đổi mới”, thay đổi, nhất là “đổi mới tư duy”, “nhìn thẳng sự thật”, “nói đúng sự thật”… Họ đã tự thay đổi, nhìn sâu vào đời sống, nhìn ra và nói lên nhiều loại “sự thật” khác nhau; họ trở nên khác nhau cả trong cách nhìn cuộc sống lẫn cách thể hiện văn chương nghệ thuật.


Sau những năm cao trào đổi mới, nhiều vấn đề không còn được đưa ra “quán triệt” như xưa nữa. “Tính đảng” không còn được đưa ra như nguyên tắc để truy cứu mỗi nhà văn nữa. “Hiện thực xã hội chủ nghĩa” cũng không còn được dùng để chất vấn “định hướng nghệ thuật” của nhà văn nữa. Vẫn có một vùng cấm gồm một số phạm vi bị coi là nhạy cảm, không được đụng bút tới, và giới lãnh đạo mỗi thời kỳ vẫn muốn cài cắm thêm những nội hàm “định hướng” nhất định. Song, về không ít đề tài hoặc trong vùng cấm hoặc bị coi là nhạy cảm – người ta vẫn có thể đem ra tranh luận mỗi khi ai đó đụng bút tới và gặp phải những phản đối từ những người khác.


Vậy là từ phía tự mình đổi mới, thay đổi, lẫn từ phía lãnh đạo gỡ bớt mức độ trói buộc, kể từ thời đổi mới, 1986 trở đi, các nhà văn trong “đội ngũ thống nhất” đã được thức tỉnh và đã thức tỉnh.
Từ chỗ đứng trong “đội ngũ thống nhất” cũ, từ nay mỗi người phải tìm ra và làm ra sự khác biệt của mình. Từ sau đổi mới, văn học ngày càng được tính bằng những tên tuổi và tác phẩm cụ thể, không phải bằng thành tựu chung chung của một “đội ngũ thống nhất”.
Nhưng sao lại nói là thức tỉnh nửa vời?
Thiết nghĩ, không phải ai cũng muốn và nhất là cũng có thể thoát ra khỏi nếp sống và viết như đã quen trong “đội ngũ thống nhất” cũ. Việc không ít người rốt cuộc hoặc vẫn tiếp tục kiểu “viết để phục vụ” rồi buông bút, chấm dứt đời văn, – chứng tỏ điều đó.


Tuy nhiên, tôi nghĩ nhiều đến một trong những khiếm khuyết đáng nói nhất, ấy là, ngay những người cấp tiến trong giới nhà văn, vào hồi cao trào đổi mới, đã thúc đẩy gỡ bỏ không ít tiêu chí trói buộc (tính đảng, văn nghệ phục vụ chính trị, hiện thực xã hội chủ nghĩa), đã thúc đẩy nhà văn viết để tố cáo những sự thật phi nhân bản, phản xã hội, v.v. Song chính họ lại không tính đến cách đứng chỗ đứng của mình và của mỗi người viết văn trong những tương quan cuộc sống sẽ đổi thay do kết quả “đổi mới”; ngược lại, vẫn ngây thơ tin rằng dường như vẫn cứ đứng trong cái “đội ngũ thống nhất” cũ mà hành động là ổn rồi!


Họ đã được Đảng hô hào cùng “đổi mới”, được Đảng gỡ bỏ cho ít nhiều những ràng buộc, trói buộc quá đáng, lỗi thời; nhưng họ đã quên tính đến một thứ khế ước, công ước rất thiết yếu cho sự hành nghề trong tương lai. Khi không còn (và cũng không cần) “đội ngũ thống nhất” nữa, sẽ cần những định chế mang tính toàn dân, toàn xã hội như thế nào đó về việc hành nghề văn chương nghệ thuật, cần những định chế mang tính toàn dân, toàn xã hội về việc lập hội, cần những quy chế nhà nước về việc tài trợ cho sự nghiệp văn học nghệ thuật.
Cho đến hiện tại, xét trên mặt bằng các chế định luật pháp, các cơ quan nhà nước đã có đủ công cụ để quản lý những gì cần quản lý đối với những người viết văn: đó là luật báo chí, luật xuất bản. Hiện nay, người viết ra tác phẩm văn học chỉ có thể công bố trên báo, tạp chí, hoặc in sách; và tất cả đã có luật báo chí và luật xuất bản điều chỉnh. Không nhất thiết phải buộc từng người viết văn là thành viên những hội đoàn văn nghệ được chỉ định thì nhà nước mới quản lý được.


Hệ thống các hội đoàn văn học nghệ thuật trung ương và địa phương đang tự chứng tỏ là những định chế gắn với quá khứ nhiều hơn là hiện tại. Trong thời trước đổi mới, ở nước ta cũng như các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa, các hội đoàn nghề nghiệp, trong đó có hội đoàn của các giới văn nghệ sĩ, đều được tổ chức thành một kiểu cơ quan tương đương cơ quan nhà nước, các nhân sự đứng đầu các hội đó được hưởng các quyền lợi như cán bộ trung, cao cấp. Điều này ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển văn nghệ, biến sự tranh đua về tài năng thành những đấu đá về lợi ích giữa các quan chức.


Tình trạng đáng buồn là sau ba chục năm, hệ thống các hội đoàn văn học nghệ thuật hầu như vẫn giữ nguyên trạng như trước ngày diễn ra công cuộc đổi mới. Nó vẫn mang hai thuộc tính cố hữu: tính chất độc quyền, và tính chất nhà nước hóa. Mỗi ngành chỉ được phép có một hội, đó là biểu hiện tính độc quyền. Các hội vẫn hoạt động gần như những cơ quan nhà nước, được cấp vốn từ ngân sách – tức tiền thuế của dân; đó là biểu hiện tính chất nhà nước hóa.


Trong khung cảnh hiện tại, hệ thống các hội đoàn văn học nghệ thuật đó không khác gì hệ thống các tập đoàn doanh nghiệp độc quyền nhà nước, ít sinh lãi, dễ tham nhũng, đang được nhà nước gấp rút chuyển sang cổ phần hóa để đỡ tiêu tốn vốn ngân sách, đỡ gây quá tải cho kinh tế quốc dân.
Hệ thống các hội đoàn văn học nghệ thuật, theo tôi, hiện đang là di sản cũ kỹ nhất của cơ chế bao cấp xưa kia mà công cuộc đổi mới còn chưa kịp thanh lý. Đây là di chứng cho thấy tính chất nửa vời của cuộc đổi mới văn nghệ, là di chứng về sự thức tỉnh nửa vời của một lớp người viết trên thực tế vẫn chưa tự mình giải thoát mình ra khỏi “đội ngũ thống nhất” cũ, không hiểu rằng thực ra “đội ngũ” ấy đã vỡ thành nhiều mảnh và đã biến dạng.


Hà Nội, 28/5/2015

Mồ côi




Hôm nay, ta đã là đứa mồ côi. Nói theo kiểu truyền thống. Bố mẹ, anh cả, anh hai, đã chết. Đích thực mồ côi.

Nhưng ta không cảm thấy mồ côi. Ở ta, bố mẹ và anh vẫn còn sống :

Bố : chỉ tin lý trí của mình thôi.

Mẹ : phải biết thương người.

Anh : chí hiếu.

Chắc gì ta để lại được cho con ta những giá trị ấy ? Làm người đời nay nó vậy.


PHĐ

Phải chi đời người ai cũng thế







Nụ – Búp



Nở



Rộ




Héo



Tàn



Chết




lúc nào cũng đẹp !


Phan Huy Đường

Bây giờ đêm gần tới





Bây giờ đêm gần tới
Vài nhà thơ say khướt trở về khu ổ chuột
Nằm chờ bình minh tác phẩm.
Trung tâm tỏa sáng ánh tiền
đặt hy vọng sức mua đêm này đừng giảm.
Các mùa được tạo đủ tư thế
trên đám ma-nơ-canh non choẹt.
Thành phố già nua
run lên bần bật tiếng còi cảnh sát
xô vào tôi một gái điếm đang tháo chạy trên đường,
còn kịp liếc mắt đưa tình, nàng quả là hết mình thực dụng.
Rác rưởi khắp nơi, gió rét lùa đi từng đợt
Nghe như tiếng khóc lẫn trong tiếng chào của một người bán dạo
Lũ dân chơi ngổ ngáo gườm gườm,
bước chân của tôi gõ một khúc buồn như chết. 


Lê Trinh


BÍ MẬT CỦA NHÀ VĂN





Dino Buzzati



Phế truất và hạnh phúc.

Tuy rằng chưa đụng sát đáy giếng, hãy còn một nấc nhỏ nữa để mất, và tôi rất hy vọng được thưởng thức nó trọn vẹn. Vả chăng, đã cao tuổi rồi nên có thể tôi chẳng còn sống bao lăm nữa.

Từ nhiều năm nay tôi đã nổi tiếng – thứ tiếng tăm được xác định dần dần – là một nhà văn hết thời mà sự xuống dốc đích thị hoàn toàn và không cứu vãn được. Cứ mỗi tác phẩm in ra, thiên hạ cho rằng, hay ít nhất nghĩ rằng tôi lại bước xuống một bậc nữa. Và cứ tiếp tục rơi như vậy cho đến vực thẳm hiện tại.

Tất cả những trò đó là sản phẩm của tôi. Kết quả thảm hại này tôi đã nghiền ngẫm với lòng kiên trì bền bỉ trong hơn ba mươi năm, theo một chương trình thiết lập trước rất bài bản.

Nhưng mà – các bạn hỏi – sự thất bại này là chính ông muốn à?

Đúng vậy, thưa quý bà quý ông. Với tư cách nhà văn tôi đã mang về nhiều thành công phi thường, hưởng thụ sự ca tụng rộng khắp, tóm lại tôi là người thành đạt. Nhưng còn có thể tiến xa hơn nữa, chỉ cần tôi muốn là đạt tầm vinh quang quốc tế không khó khăn gì.

Vậy mà không! Tôi không muốn.

Trái lại, ở điểm đã đạt đến – một sườn dốc tuyệt vời, một đỉnh cao, có thể nói Monta Rosa nếu không là Hy Mã Lạp Sơn – tôi thích bước xuống mỗi ngày một ít, đi lại lần nữa song ngược chiều con đường từng trải qua bằng những bước nhảy vọt, tận sống mỗi giai đoạn của sự suy đồi đáng thương hại; chỉ đáng thương hại bề ngoài thôi các bạn ạ, bởi vì từ đó tôi đã rút tỉa được mọi niềm an ủi. Và chiều nay, trên những trang giấy này – mà tôi sẽ tuồn vào phong bì niêm kín chỉ mở ra sau khi chết đi – tôi giải thích mọi chuyện bằng cách tiết lộ cái bí mật lâu năm của đời mình.

Thời bốn mươi tuổi, tôi đã lái chiếc thuyền buồm căng phồng trên biển thành công. Rồi một hôm ánh sáng len lỏi vào tôi bất ngờ. Số phận mà tôi tự chuẩn bị và đã hoàn thành, một số phận vinh quang tầm quốc tế – xin nhắc lại – những khẳng định giật gân, vinh dự, sự mến chuộng đại chúng, thắng lợi được xác định khắp hoàn cầu, đã hiện ra trước mắt tôi trong tất cả nỗi đau buồn khốn khổ của nó.

Yếu tố vật chất của vinh quang, tôi không quan tâm bởi vì đã giàu có hơn mong ước. Còn lại là gì? Tiếng ồn ào vỗ tay, niềm say sưa chiến thắng, hào quang quyến rũ mà biết bao người đàn ông đàn bà đã bán linh hồn cho quỷ để đạt được ư? Mỗi lần nếm một mẩu cỏn con của nó, tôi chỉ còn lại dư vị chua chát và khô khốc trong miệng. Rốt cuộc – tôi tự nhủ – biểu hiện tột bực của vinh quang là cái quái gì? Giản dị là cái này đây: có người đi trên phố và thiên hạ quay đầu lại thì thầm: Bạn thấy không? chính ông ấy đấy! Chỉ vậy thôi, không gì khác nữa! Ôi, quả là một sự hài lòng đẹp đẽ! Và điều đó – xin nhớ cho – chỉ xảy ra trong trường hợp ngoại lệ, với các nhân vật chính trị tiếng tăm hay nữ nghệ sĩ cực kỳ nổi danh. Nếu chỉ đơn giản là nhà văn, thời buổi chúng ta rất hiếm khi thiên hạ nhận biết ông ta trên phố.

Nhưng còn có khía cạnh tiêu cực nữa. Và không phải là vô số trò độc hại thường nhật – như thư từ, điện thoại của người ái mộ, hẹn hò, bó buộc, phỏng vấn, họp báo, chụp ảnh, phát sóng, v. v… – đã làm tôi bực bội, mà chính là điều mỗi thành công của tôi, dù chỉ mang lại quá ít mãn nguyện bản thân, đã gây nên sự bất mãn sâu xa cho rất nhiều người. Ôi, mặt mày của đám bạn và đồng nghiệp trong những ngày huy hoàng của tôi! chúng khiến tôi đau lòng quá chừng! Đó là những người tốt, chân thật và chăm chỉ mà tôi quyến luyến do liên hệ tình cảm và thói quen, vậy thì tại sao phải làm cho họ đau khổ dường ấy?

Tôi bất giác đo lường toàn bộ đau khổ đã truyền tải chung quanh do chứng cuồng nhiệt thành đạt khôi hài của mình. Tôi thú tội rằng mình chưa bao giờ nghĩ đến điều ấy. Và cảm thấy thật ân hận.

Tôi chợt hiểu rằng, theo đuổi con đường của mình, tôi cũng sẽ gặt hái thêm nhiều vòng nguyệt quế mới và luôn phong phú hơn, song ngược lại, sẽ khiến bao con tim đau đớn dù không xứng đáng bị đau. Thế giới quá giàu bao nỗi đau đủ loại, nhưng vết cắn của lòng ghen tỵ thuộc về thứ thương tích đẫm máu nhất, sâu xa nhất, rất khó lành và nhìn toàn bộ thì thật đáng thương hại.

Sửa sai, đấy là điều tôi phải làm. Và tôi lấy ngay cái quyết định quan trọng trong đời. Từ đỉnh cao đạt được, tôi thừa khả năng, tạ ơn Chúa, làm lắm điều lành. Trước kia tôi càng đè bẹp đồng loại bằng thành công của mình bao nhiêu, thì bây giờ tôi càng phải biếu tặng họ niềm an ủi bằng sự thất bại của mình bấy nhiêu. Thực vậy, vui thú là gì nếu không phải là ngừng đau khổ? Và sự thích thú há không trực tiếp tỷ lệ thuận với nỗi đau trước nó hay sao?

Cho nên tôi cần tiếp tục viết, nhịp làm việc không được trì trệ, không gây ra cảm giác tự nguyện về hưu, điều này chỉ là niềm an ủi nho nhỏ cho bạn đồng hội, nhưng bằng một sự lừa phỉnh tuyệt vời, che giấu tài năng đang hồi đơm hoa của mình, viết những điều bớt đẹp hơn, giả đò sa sút trong khả năng sáng tạo. Và cung cấp cho kẻ chờ đợi ở tôi những cú tàn bạo mới nỗi ngạc nhiên thích thú về sự sụp đổ.

Việc thực hiện chương trình bề ngoài có vẻ giản dị, bởi vì làm những điều vô nghĩa hay xấu xí thường chẳng khiến ta mệt mỏi gì, trên thực tế lại khó vì hai lẽ.

Trước hết, phải bấu cho được những phán xét tiêu cực từ các nhà phê bình. Bây giờ tôi đã thuộc hàng nhà văn lỗi lạc, được đánh giá vững vàng trên thị trường mỹ học. Việc ca ngợi tôi từ nay đã đi vào thói thời thượng được tuân thủ chặt chẽ. Và ai cũng biết rằng các nhà phê bình, một khi đã lôi nghệ sĩ nào ra khảo sát thì muốn làm họ thay đổi ý kiến là cả một vấn đề.

Tóm lại, giả dụ rằng các nhà phê bình nhận thấy tôi bắt đầu viết tàm nham – liệu họ có nhận thấy điều ấy không? – nhưng rủi họ vẫn giữ vững lập trường, tiếp tục bao che tôi bằng những lời ca tụng thì sao?

Lẽ thứ hai: máu không phải là nước, và điều đó khiến tôi phải cố gắng kinh khủng để kìm hãm sự thúc đẩy không cưỡng được của tài năng thiên bẩm. Giữa các giòng, ngay cả khi tôi phải tự gò ép vào điều nhạt nhẽo và tầm thường, thứ ánh sáng của quyền lực bí hiểm này vẫn luồn lách vào được. Đối với một nghệ sĩ, giả dạng làm nhân vật khác là một gánh nặng, ngay cả với ý định là chỉ làm một mô phỏng tồi.

Tuy nhiên rồi cũng đạt được. Tôi đã kìm hãm bản chất mãnh liệt của mình trong nhiều năm: tôi biết che giấu, với một sự tinh tế mà chỉ riêng nó thôi cũng đủ để làm chứng cho tầm vóc thiên tài của mình; tôi đã viết nhiều quyển sách chẳng giống tôi, càng lúc càng yếu, hụt hơi, không đầu không đuôi, tình tiết nghèo nàn, cá tính nhân vật rời rạc, văn phong khó chịu. Một cuộc tự sát văn chương chầm chậm.

Cứ mỗi quyển sách mới ra, vẻ mặt bạn bè cùng đồng nghiệp lại có vẻ thanh thản tươi tắn hơn một chút. Tôi từ từ làm nhẹ gánh nặng lo âu vì ganh tỵ cho họ, những kẻ thật đáng tội nghiệp đó! Họ lấy lại tự tin, họ tìm lại bình an trong cuộc sống, họ lại bắt đầu cảm thấy thiện cảm thực sự với tôi. Họ rạng rỡ trở lại. Trong thời gian quá dài tôi đã là cái giằm đâm sâu vào tận cùng da thịt họ. Bây giờ tôi đang gắp nhẹ nhàng chiếc gai tẩm thuốc độc ấy ra, và họ cảm thấy hoàn toàn thư giãn.

Những tràng pháo tay yếu đi, bóng tối trùm lên tôi, tuy nhiên tôi sống sung sướng hơn hẳn, không cảm thấy hơi hám nhập nhằng của lòng ái mộ chung quanh mình nữa, mà là một luồng sóng ấm áp từ tâm với lòng biết ơn. Tôi tìm lại trong tiếng nói của bạn đồng hội âm hưởng rõ ràng, tươi tắn, hào phóng của thời xưa, khi mà còn trẻ trung ta không biết chút gì về những khốn khổ của cuộc đời.

Nhưng mà – các bạn hỏi – ông chỉ viết cho vài chục đồng nghiệp thôi sao? Đó là tất cả thiên hướng của ông ư? Còn quần chúng? vô số những kẻ đồng thời và hậu sinh mà ông có thể an ủi con tim họ? Nghệ thuật của ông vậy thì có quá bủn xỉn không?

Tôi sẽ trả lời: đúng vậy, món nợ mà tôi cho rằng thiếu đối với bạn bè và đồng nghiệp chỉ là một sự ngu xuẩn so với món nợ mà tôi mắc với toàn nhân loại. Nhưng tôi không đánh cắp gì của người chung quanh, tôi không tước đoạt gì của quần chúng vô danh rải rác khắp mặt địa cầu, của thế hệ năm 2000. Ẩn trong bóng tối, tôi đã làm những gì Đấng Toàn Năng áp đặt cho mình trong các năm này; trên đôi cánh của cảm hứng linh thiêng, tôi đã viết những quyển sách thực sự là của tôi, loại kiệt tác đã có thể nâng tôi lên chín tầng mây của vinh quang. Tôi đã viết và giấu kín chúng trong chiếc rương lớn trong phòng ngủ. Mười hai quyển tất cả. Các bạn sẽ đọc chúng sau khi tôi chết. Lúc đó, bạn bè tôi sẽ không còn lý do than vãn nữa. Người ta sẵn sàng tha thứ hết cho người chết, ngay cả đã sáng tạo những tác phẩm bất tử. Bạn bè tôi, họ sẽ bật cười, lắc đầu hỷ xả. “Hắn lừa được mình rồi, con lạc đà già này! Trong khi mình thì cứ tưởng hắn ta rơi về tuổi thơ…!”.

Dù sao, tôi…

Tới đây bản viết tay ngừng lại. Ông văn sĩ già không thể đi xa hơn vì thần chết bất thần tóm được ông rồi. Người ta tìm thấy ông ngồi ở bàn viết. Chiếc đầu trắng phau nằm gục bất động, trong tư thế rũ bỏ tuyệt đối, bên cạnh chiếc bút đã gãy trên trang giấy.

Sau khi đọc, thân nhân ông đi mở chiếc rương. Nó đựng mười hai bìa giấy lớn: mỗi bìa mấy trăm tờ. Trên đó không có một dấu hiệu nào.



Miêng

Paris, Nov. 2009

Dịch theo bản tiếng Pháp: Le secret de l’écrivain, trong “Le K”, do Jacqueline Remillet dịch từ tiếng Ý. - Paris, B. Lafont, 1967.

Thứ Ba, 2 tháng 6, 2015

1. Ý NGHĨA TỔNG QUÁT CỦA TRIẾT LÝ HIỆN SINH






Từ kinh nghiệm đến triết lý

Tư trào hiện sinh khởi sắc từ kinh nghiệm sống mãnh liệt của những thế hệ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Khoa học và kỹ thuật không ngừng cải tiến, hứa hẹn. Kinh tế phát triển. Tài chánh gia tăng theo nhịp điệu khám phá vàng bạc và các nguồn lợi ở thuộc địa. Riêng Đức quốc, sau trận giặc 1870, nhờ Bismark, đã trở nên một cường quốc số một ở Âu Châu về kinh tế và kỹ thuật. Nhưng đồng thời người ta thấy tình trạng bất an ngày càng gia tăng. Âu Châu chờ đợi một sự trả thù của người Đức. Đệ nhất thế chiến quả nhiên xảy đến và kết thúc. Hòa ước Versailles không biện hộ cho bên nào cả: dân tộc của Bismark vẫn cho là mình có lý, đồng minh cũng không quên dành lẽ phải về phía những kẻ sống bên này sông Rhin. Hòa ước Versailles là một tờ giấy vô nghĩa kết thúc bốn năm máu chảy thịt rơi của hàng triệu con người hy sinh cho tử thần và không cho một chính nghĩa nào cả. Nhưng điều làm cho chiến sĩ đau lòng hơn cả là trong hoàn cảnh chiến tranh như đệ nhất thế chiến, con người cơ hồ thấy mình biến thành con số vô danh hay những tấm thẻ vô hồn trong guồng máy chiến tranh. Thú tính hoặc cơ tính đã thay thế cho nhân tính. Kinh nghiệm đau buồn ấy G. Marcel đã ghi vội lại bằng những nét đậm sau đây:

Tôi thấy mình bắt buộc phải chú ý đến những kẻ bị mất tích, và liên tục thấy rõ trong trí óc một trong những cảnh tượng ghê sợ nhất, đau thương nhất cho tâm trí, đó là sự xáo trộn mà mình đành phải đóng vai kẻ bàng quang, uất hận… Nhưng chưa hết. Tôi không thể nghi ngờ được nữa rằng việc tìm kiếm người mất tích đã khiến tôi suy nghĩ đến những điều kiện của mọi công cuộc điều tra, thẩm vấn, và từ đó một cách gián tiếp khiến tôi phân vân tự hỏi không biết có cách nào khác hơn là cứ theo thứ tự in sẵn mà hỏi và trả lời[1].

Nói chung cơ cấu xã hội bị lung lay đến tận gốc rễ. Luật pháp, chính trị, chỉ là những trò múa rối, lừa đảo. Thậm chí luân lý, tôn giáo cơ hồ như không còn được kiêng nể. Xã hội bày ra quá nhiều thảm cảnh bi thương. Người ta mất hết tin tưởng. Như chiếc thuyền không lái, xã hội phó mặc cho những áp lực vô danh đưa đẩy, không định hướng. Người ta nghi ngờ hết mọi giá trị. Cuộc đời vì thế là một chán nản, buồn nôn, phi lý. Sau thế chiến, thanh niên không còn muốn nghĩ đến những gì nghiêm chỉnh, và đa số tìm thú vui buông trôi trụy lạc, bù lại những kìm hãm khe khắt, bó buộc vô nghĩa của những tháng ngày loạn ly.

Tại sao lại có tình trạng ấy? Đâu là nguyên nhân? Dĩ nhiên rằng chiến tranh gây ra tình trạng ấy. Nhưng tại sao lại chiến tranh? Tại sao chiến tranh gia tăng và mở rộng theo nhịp tiến phát của khoa học kỹ thuật? Tại sao, thay vì hoàn thiện hơn lên như thế kỷ ánh sáng và thế kỷ của ý thức hệ đã khẳng định, nhân loại càng ngày càng rơi vào hỗn loạn của chủ nghĩa bi quan hoài nghi?

Đó là những câu hỏi được đặt ra trong hoàn cảnh chiến tranh đầu thế kỷ 20. Sau đây là ý kiến của các triết gia hiện sinh:

Bất lực của khoa học chủ nghĩa
Song song với phát triển của khoa học nhất là ở thế kỷ 19, một tư trào xuất hiện, chủ trương rằng khoa học là vạn năng, giải đáp tất cả vấn đề nhân sinh, và không có gì huyền nhiệm trong vũ trụ. Dưới ánh sáng dẫn đạo của khoa học và kỹ thuật, nhất định con người sẽ được thỏa mãn về mọi phương diện, tinh thần cũng như vật chất. Lý trí khoa học là chiếc đũa thần khai mở kiến thức cho người và nhờ khả năng bất tận của nó, sẽ đem dần nhân loại đến hạnh phúc. Đó là khoa học duy lý chủ nghĩa, có thể nói rằng bắt đầu khởi sắc với Condorcet (trong cuốn Esquisse d’un tableau historique de l’esprit humain, 1794). Tư trào ấy đã gây được một niềm tin tưởng trong dân gian: người ta ngưỡng mộ khoa học và nhìn nhận đó là thần cứu tinh của nhân loại. Auguste Comte tưởng như muốn chấm dứt lịch sử nhân loại ở giai đoạn này của đế quốc khoa học.

Nhưng lịch sử đã chứng minh ngược lại. Chiến tranh 1870, thế chiến 1914 và, giữa hai cuộc chiến tranh đó, nhiều cuộc tranh chấp nóng, lạnh khác giữa các quốc gia hoặc giai tầng xã hội, cộng với những suy đồi tinh thần khác, cho thấy rằng sự phát triển xã hội không đồng nhịp, nhiều khi còn ngược chiều, với sự tiến tới của khoa học. Những biện pháp của lý trí không đem lại sự cải thiện nhân sinh. Nói khác đi lý trí khoa học không đồng điệu với lý trí nhân loại. Có một dị biệt giữa thiên nhiên và con người. Sự lạc quan trong phạm vi nhiên học không thể mở rộng cho phạm vi nhân học. Người không thể giản lược thành lý trí, kém hơn nữa, lý trí thực nghiệm.

Người ta có thể chấp nhận và chứng minh khoa học giải phóng con người. Nhưng đó là một giải phóng riêng phần, giới hạn. Tham vọng của duy lý thực nghiệm chủ nghĩa là hệ thức hóa con người toàn diện, và do đó đã thất bại. Mặt khác, lý trí không hẳn cố định như thế kỷ 18, 19 tin tưởng. Lý trí ấy đã đúc ra một chân lý cứng nhắc, thiên kiến và hẹp hòi, không linh động ứng đáp với sự thay đổi của thời cuộc.

Sự nứt rạn của lý trí khoa học cũng không mấy chờ đợi để gieo nghi ngờ trên quyền binh của nó. Những năm cuối thế kỷ 19, khoa học rơi dần vào một cuộc khủng hoảng còn kéo dài mãi đến ngày nay. Khủng hoảng nền tảng. Thuyết Quan-ta của Planck, thuyết Tương đối của Einstein, thuyết Bất-xác của Heisenberg… tất cả đều nói lên sự phi lý của lý trí thực nghiệm. Không thể loại bỏ sự hiện diện của con người khỏi mọi công trình nghiên cứu khoa học. Chủ quan tính là một yếu tố cấu tạo nên sự kiện khách quan khoa học.

Lý trí khoa học bị lịch sử tố cáo nhược điểm, bị những người đại diện tên tuổi của nó miệt thị và sửa sai. Lý do chính yếu là vì lý trí ấy đã nhìn con người như một hiện tượng vật lý không hơn không kém, nghĩa là đã không thấy vai trò của con người trong việc thẩm định mọi giá trị. Phải trở về với con người và lý tính của chủ thể nhận thức khoa học.

Khủng hoảng triết lý

Như thế nghĩa là sự hiểu biết khoa học không phải là ưu tiên luân lý đối với mọi kiến thức khác. Khoa học không phải là thủy và chung của nhận thức. Trái lại, kiến thức khoa học vốn đã dựa trên những tiền kiến đúc sẵn của người. Những tiền kiến ấy bản chất như thế nào?

Trong toàn bộ, triết học từ Platon đến Hegel vốn dựa vào uy quyền của lý trí, lấy lý trí làm tiêu chuẩn duy nhất trong việc tìm hiểu và giải thích vũ trụ, nhân sinh. Đối tượng của Triết học là khả tri. Đối tượng ấy là thực tại khách quan. Thực tại khách quan là thực tại lý tính, khách quan và lý tính là hai từ ngữ liên giao. Những gì không có lý tính (Platon, Aristoteles) không phải là đối tượng triết học. Vũ trụ, Thượng đế, Linh hồn, v.v… là những thực tại khách quan vì có lý tính.

Tư tưởng nhân loại trong vấn đề lý trí, từ sau Descartes chia làm hai ngả. Một tiến về hướng khoa học thực nghiệm, và lý tính sẽ đồng nhất với lý tính khoa học. Con đường rẽ thứ hai đưa đến việc Hegel tuyệt đối hóa lý trí trong cố gắng quy tất cả về lý tính. Vũ trụ, theo nguyên tắc, là khả tri và khả lý. Quan điểm thứ hai này gặp duy lý khoa học ở điểm cả hai đều tôn thờ lý trí như thần độc nhất, nhưng khác nhau ở chỗ lý của Hegel thuộc thứ hạng thuần lý, và lý của khoa học thuộc thứ hạng thực nghiệm hay toán học.

Lý tính khoa học thất bại như đã nói. Lý tính duy tâm cũng không thành công. Thực vậy, thực tại không thiết yếu là khách quan. Thực tại còn là chủ quan, hiểu theo nghĩa của chủ thể nhận thức và các hoạt động của chủ thể ấy. Nói rộng ra, người là một thực thể từ chối mọi cố gắng vật hóa bản chất của mình. Vì người không phải là một đồ vật hay một hiện tượng vật lý đồng hạng với các sự vật khác. Người là chủ thể của lý tính khoa học cũng như triết học. Lý tính dưới mọi hình thức nhằm ngoại vật chứ không vật hóa được chủ thể của mình. Trong mọi động tác nhận thức, toàn thể người được quan niệm như là thực sự hiện diện.

Lý trí chỉ là một động tác hay một thái độ nhận thức. Lý trí tự nó chỉ là một “khả năng” thuần túy. Không chất liệu, lý trí muôn đời trống rỗng, nghèo nàn. Đó là nói theo lý thuyết. Trong thực tế, người được cấu tạo bằng kinh nghiệm tiền-luân lý, kinh nghiệm sống. Do đó, không làm gì có bàu trăng (Tabula rasa) của nội tâm như Locke nói, hay biểu ngữ ấy phải được hiểu theo nghĩa thuần túy luân lý của nó. Và, cũng do đó, có một ưu tiên hiện sinh của kinh nghiệm sống. Hoài nghi của Descartes không những chỉ có tính cách phương pháp mà hơn nữa chỉ là giả tạo. Hoài nghi là việc của tư tưởng, nhưng trước tư tưởng, con người Descartes đã sống bao nhiêu kinh nghiệm về sự hiện hữu của mình. Có một tiền-giả định của hoài nghi Descartes. Công việc của triết gia là phải tìm đến ngọn nguồn, cho nên phải khai thác, phân tách, liên hệ hiện sinh trước khi bàn đến liên hệ suy luận, vì suy luận không thể có trên hư vô, mà chỉ có thể có trên những sự kiện. Những sự kiện tiền luân lý là gì? Đó là cảm giác, cảm xúc, v.v… tất cả những gì thuộc đời sống tình cảm. Mặt khác, cảm giác hoặc tình cảm, cũng là những động tác nhận thức, nhiều khi còn thâm thúy, hữu hiệu và đích thực hơn nhận thức lý trí, và lý trí không làm sao hiểu được. Nhưng nói đến cuộc sống cảm giác hay tình cảm, không thể không nói đến vai trò và ý nghĩa của thân thể. Thân thể hiện diện và là nền tảng của mọi nhận thức. Người ta không thể vật hóa một thân thể sống động của một chủ thể hoạt động trong thân thể ấy. Đó là vấn đề tự thân, một trong những mục quan trọng của triết lý hiện sinh. Người trước hết là thân thể.

Triết lý cổ điển như bị ngoại giới thôi miên, cứ tưởng rằng giá trị luân lý nằm ngay trong ngoại vật và định hướng cho mọi phán đoán. Không, mọi đánh giá phải được quy chiếu vào người và lấy người làm khởi điểm. Một cách tổng quát, người là trọng tâm của triết lý vì hai lý do:

1. Người là nguồn gốc của mọi thẩm giá, và là giá trị cao cả nhất trong vạn vật.

2. Người đóng vai trò quyết định trong mọi nhận thức.

Tuy nhiên, đó chưa phải là quan niệm đặc hữu của thuyết hiện sinh về người. Quan niệm ấy đã gặp thấy nơi nhiều triết gia duy nghiệm hoặc duy lý. Thực vậy, cái phân biệt thuyết hiện sinh chính là quan niệm cho rằng danh từ hiện sinh chỉ áp dụng cho người. Chỉ có người và không một vật nào khác gọi được là hiện sinh.

Hai ngã đường của thuyết hiện sinh
Để cố định ý tưởng, có thể định nghĩa hiện sinh vừa là kinh nghiệm sống cụ thể của người do chính người tạo trong thời gian, vừa là kết quả của kinh nghiệm sáng tạo ấy. Hiện sinh là một kiếp sống của một người (hay của giống người) có ý thức về nguyên ủy, nền tảng và ý nghĩa của kiếp sống ấy, và tự động chấp thuận thể hiện kiếp sống ấy theo ý mình. Nói vắn lại, hiện sinh là một động tác tự khẳng định của hữu ngã cá nhân trong vũ trụ. Như vậy hiện sinh là một lập trường hay thái độ sống của kẻ sinh ra để làm người hoặc muốn làm người, lập trường ấy không có nền tảng hay giải thích nào khác hơn là chính sự tự khẳng định bản ngã mình. Và thuyết hiện sinh gồm tất cả những học thuyết mà triết lý nhằm phân tách và mô tả hiện sinh cụ thể hiểu theo nghĩa ấy.

Tại sao gọi đời là một kiếp sống? Tư ngữ kiếp ở đây không đồng nghĩa với danh từ kiếp theo nghĩa luân hồi.Một cách chung, “kiếp” nói lên một quãng sinh sống trong thời gian. Nhưng chữ “kiếp” ngụ ý rằng đối với người sự sinh ra dưới ánh sáng mặt trời, là một sự bất đắc dĩ. Hiện sinh là một sa ngã, một bỏ rơi. Cho nên hiện sinh là một đau khổ từ khởi thủy. Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra… Phát sinh trong hoàn cảnh chiến tranh, triết lý hiện sinh khởi sắc bằng một nhận định yếm thế, tương tự như quan điểm sinh, bệnh, lão, tử trong Phật học.

Từ nhận định căn bản ấy, hai định hướng được vạch ra. Một định hướng đưa đến kết luận rằng đời người là vô nghĩa, phi lý, buồn nôn. Đó là nhận định của J. P. Sartre và các người theo ông. Lịch sử triết học gọi thuyết hiện sinh này là hiện sinh vô thần. Định hướng thứ hai gọi là hiện sinh hữu thần, do G. Marcel chủ xướng. Vô nghĩa và phi lý là dấu hiệu của những gì siêu vượt tuy không đạt đến bằng lý trí một cách trực tiếp, nhưng có thể thực nghiệm hay suy diễn (Jaspers). Do đó, đời nếu đáng sống, thì không phải là do ý muốn không cội rễ của tự do (Simone de Beauvoir, Sartre) mà do ý chí muốn trả lời cho tiếng gọi của một giá trị trác-việt (Marcel).

Phương pháp của triết lý hiện sinh

Cả hai đều khai thác hàm súc hiện sinh theo chiều hướng của mình. Trong sự khai thác ấy, hiện tượng luậnđược sử dụng một cách ganh tị. Thân phận làm người được phân tách mổ xẻ, quay lật đủ chiều và về mọi phương diện. Một trong những ý hướng của hiện tượng luận là trở về với chính sự vật. Muốn tìm hiểu và lột trần hiện sinh, người ta phải quay lưng lại với phương pháp biểu tượng. Quan niệm này là của duy lý: Sự vật chỉ được nhìn đến qua hình dung của nó. Thậm chí, sự vật đã thành thụ tạo của trí tuệ. Trong cả hai trường hợp, khách và chủ vẫn cách biệt: ngoại vật hoặc bị phủ nhận, hoặc bị xuyên tạc, biến hình qua suy luận hình thức của người nhận thức. Người đã bị suy niệm hình dung làm lu mờ, sai lệch hoặc cắt đứt với hoàn cảnh cụ thể, do đó người không được xuất hiện dưới bộ mặt đầy đủ của nó.

Người là ai? Muốn trả lời, trước hết ta phải cho vào ngoặc tất cả những quan niệm trừu tượng, nhân tạo, duy lý, trên ba bình diện liên hệ đến người: lịch sử, khoa học và triết lý. Đâu đâu và suốt hàng bao thế kỷ - nhất là từ sau Descartes - người và những gì của người, do người, những gì định nghĩa người trên ba bình diện ấy, đã đến với nhân loại, như những bộ xương lột da, như những bóng ma, hình nộm, không sao nhận được là con người cụ thể bằng xương, bằng thịt của địa phương, của thời cuộc. Hiện sinh đã bị lý tưởng hóa, hoặc giản lược thành những ý niệm trừu tượng toán học, những bộ phận lý hóa sinh để rồi cuối cùng phá giá kinh khủng như ta thấy ngày nay trong các chế độ bàn giấy võ đoán, độc tài, tàn bạo. Hãy trở về với con người cụ thể, lịch sử của nó, để biết nó là gì, là ai, là con người với tất cả tâm tư cố hữu, cá biệt của nó. Hãy trở về với bản ngã để thấy rằng người không phải là đồ vật, trái lại, người là trọng tâm xuất phát mọi thẩm giá đối với ngoại giới, là đầu tiên và căn bản trên đó mọi xây dựng lý trí sẽ được hình thành.

Người không thể chỉ là lý trí, và bị lý trí giản lược. Phải chăng triết lý hiện sinh khi kêu gọi trở về tình trạng đầu tiên của con người cảm giác, tri giác và tình cảm, đã phủ nhận suy niệm triết lý và cổ vũ một chủ nghĩa phi lý tính? Cần phải trả lời ngay rằng lời kêu gọi ấy không có nghĩa là giao phó kinh nghiệm và triết lý cho tình cảm và phi lý. Hiện tượng luận được triết gia hiện sinh áp dụng để tìm cho kỳ được lý trí hoạt động trong công tác của người và trong sự vật (liên hệ đến người), bằng cách đưa người trở về tình trạng nguyên ủy của người. Tình trạng ấy lý trí sẽ phải chấp nhận mà không thực sự nghi ngờ hoặc đặt thành vấn đề, vì là một tình trạng khai sinh ra mọi vấn đề và không thể bị một vấn đề nào phủ nhận, vượt qua được.

Ta đừng ngộ nhận rằng trở về tình trạng nguyên ủy có nghĩa là lôi ra hiển nhiên cái gì cổ sơ nhất nơi người, theo nghĩa nhân chủng học, nhân loại học hoặc tâm lý học khai triển cá nhân hay chủng loại. Mô tả hiện tượng luận không quan tâm đến ý nghĩa trở về ấy. Trở về là trở về với tình trạng sống, được coi như là tất yếu đi trước và chống đỡ cho mọi kinh nghiệm. Nói khác đi, bất cứ một kinh nghiệm nào hiện tại đều bắt nguồn ở những cái lý hiện sinh có trước ý nghĩa một tư tưởng, một hành động nào của người: ý nghĩa ấy diễn tả dưới bất cứ biểu tượng nào, đều đã được như vậy là nhờ có những tiền ngụ (présuppositions) có thực, không chối cãi hay hủy diệt đi được. Từ tiền ngụ này đến tiền ngụ khác, người ta tiến dần đến tận cùng cội rễ của mọi kinh nghiệm nhân loại. Tận cùng cội rễ ấy là toàn bộ vị trí và luận đề làm nên cái lý hiện sinh mà duy lý cổ điển không ngờ tới hoặc không đặt ra. Chính những vị trí và luận đề ấy định nghĩa cho hành động nhân loại, chứ không phải chỉ có một mình lý trí suy luận về sau.

Vị trí và luận đề cội rễ ấy dĩ nhiên do suy niệm mà đạt được. Nhưng đó là những thực tại hiện sinh khách vật, những tự khẳng định của bản ngã nhân loại, vì thế không phải là điều kiện luận lý của khả thể trong phương pháp hồi khứ cổ điển. Phương pháp hồi khứ được Descartes thánh hóa trong tiến trình tìm kiếm Cogito của ông. Như mọi người đã biết, Cogito Descartes nói lên nội dung được suy tư và từ đó kết luận đến chủ thể suy tư, nhưng chủ thể này chỉ là điều kiện luân lý do suy tư đòi hỏi, thế thôi. Nói khác đi, Descartes đã đặt định sự bất khả thể luận lý của một khẳng định ngược lại. Suy tư tức là phải có kẻ suy tư. Nhưng Descartes đã ly khai chủ thể nhận thức với sự vật được nhận thức, nói đúng hơn, đã thay thế sự vật bằng hình dung luân lý của nó. Husserl không muốn theo Descartes và đi sâu vào con đường ấy, Cogito của Descartes gắn liền với cái được Cogitatum. Husserl gặp Descartes ở chỗ cả hai cùng tìm một nền tảng khoa học cho triết lý. Husserl muốn cho vào ngoặc (một hình thức phương pháp hoài nghi của Descartes) tất cả những “thành kiến” của kiến thức đương thời để thanh thoát và vô tư vươn lên một ý niệm gì khả dĩ làm nền tảng thâm đế cho công trình xây dựng triết lý về sau. Đó là ý nguyện của một triết học như là khoa học nghiêm xác. Nhưng ông sớm thấy rằng Cogitatum, điều được suy tư, của ý thức suy tư không thể là một ý niệm trừu tượng luân lý. Một bế tắc của Descartes cần phải tránh. Nói ý thức tức là nói đến vật ý thức. Ý thức là ý thức về một cái gì nguyên không là ý thức nhưng hiện đang được ý thức trông thấy. Nói ý thức về hay nói sự hướng về của trí tuệ cũng là một ý nghĩa. Sự hướng về ấy của trí tuệ, Husserl gọi là ý hướng của trí tuệ. Nói khác đi trí tuệ hoạt động được là nhờ có ý hướng tính của mình. Tuy nhiên đều khám phá quan trọng của Husserl là ở chỗ chủ thể và khách vật không còn ly khai cách biệt, mà cả hai đã làm thành một trong động tác ý hướng hay nhận thức. Người ta có thể ghi nhận rằng về điểm ấy Husserl chỉ khác Aristoteles và St. Thomas về phương diện từ ngữ học. Nhưng đó là một việc khác. Từ đó Husserl nhận định rằng ý hướng tính tự nó là hồn nhiên, tiền lý luận, tiền phản tính. Ý hướng tính có thể gặp trong cảm giác, tri giác, v.v… Do đó, trở về với sự vật tức là trở về với những tiền ý ngụ trong ý hướng tính hay trong ý thức nguyên ủy của con người, nói theo kiểu hiện sinh, là tìm đến những tự khẳng định bản ngã trước mọi suy luận duy lý. Dĩ nhiên đừng lầm tưởng rằng cái thực (le réel), đối tượng của ý hướng, cũng đồng nghĩa với cái thực thường nghiệm như ta quen hiểu. Lý do rất dễ hiểu, như đã nói, là những kinh nghiệm này đã bị hoen ố bởi thành kiến, và cần phải cho vào ngoặc.

Nhờ sự trở về được thực hiện theo phương pháp hiện tượng luận, các nhà hiện sinh đã đi đến những nhận định siêu hình quan trọng. Tôi là ai? Người là gì? Người không còn là một “sinh vật có lý trí” theo nghĩa cổ điển. Người cũng không phải là một ý niệm hình dung như trong học thuyết duy lý của Descartes. Người cũng không phải là do những liên hệ luân lý làm nên theo thuyết siêu nghiệm duy tâm. Người không phải là mộtthành phần hay một lúc khai triển Logos của Hegel. Người, trái với tất cả những ý niệm ấy, là một cá nhân tự khẳng định trên mặt đất này với tất cả những đặc hữu chủ quan từ chối mọi cố gắng duy lý hóa.

Người chính là kiếp sống khai triển theo mọi chiều hướng trước gió bốn phương của hoàn cảnh. Người là một hiện sinh, theo nghĩa triết học của phong trào, và chỉ có người mới gọi là hiện sinh. Người hiện sinh là gì? Là người tự tạo. Người, theo định nghĩa, không phải là một ý niệm đúc sẵn và cụ thể hóa trong thời gian. Người chỉ có thể được xác định qua việc làm của nó. Không làm gì có một nhân tính hiểu theo nghĩa cổ điển duy lý. Theo Sartre thì mẫu số chung trong quan niệm về người của triết lý hiện sinh là: tính cách chủ thể của người. Tự người làm cho mình thành người.

Sartre gọi sự tự khẳng định ấy là chọn lựa căn bản của một tự do bất đắc dĩ. Người sinh ra và bị trầm luân trong kiếp tự do, không có tính cách nào khác. Heidegger gọi thân phận làm người là một ruồng bỏ. G. Marcel quan niệm người là kẻ lữ hành, homo viator, nghĩa là người được hình thành trong quãng đường phải đi.

Đó là một vài ý niệm sơ khởi về người, về con người hiên sinh tự mình tạo ý nghĩa người cho mình. Có những điểm dị biệt căn bản giữa con người hiện sinh vô thần và con người hiện sinh hữu thần.

Hữu thể luận

Giờ đây chúng ta nhấn mạnh rằng, do những nhận định trên đây về người, triết gia hiện sinh đi đến kết luận: hiện hữu có trước bản thể. Chúng tôi nói hiện hữu thay vì hiện sinh, vì đó là một quan điểm triết học của họ áp dụng chung cho vạn vật. Phân tích đến cùng, phái vô thần phủ nhận mọi ý niệm tiên thiên đi trước vật hóa của ý niệm ấy. Do đó không làm gì có những ý niệm vĩnh cửu về người hay vật “trong” Thượng đế, nghĩa là không làm gì có Thượng đế.

Từ mô tả hiện tượng luận, triết gia hiện sinh đi đến hữu thể luận. G. Marcel gọi hữu thể luận này là một hữu thể luận cụ thể. Theo Sartre và hệ phái của ông thì hiện hữu (chung cho vạn vật) là một ngẫu nhiên triệt để. Thế nào là ngẫu nhiên triệt để? Là một xuất hiện đã có hay sẽ có, mà không một giải thích nào khả dĩ chứng minh nguyên ủy triết học của nó. Sự bất khả giải thích là do bản chất ngẫu nhiên của sự vật. Ngay cả sự ngẫu nhiên cũng vậy. Ngẫu nhiên là ngẫu nhiên. Ngẫu nhiên hữu thể luận. Tính cách thứ hai của sự vật là hạn giới tính. Bất cứ một vật nào đều bị giới hạn trong thời và không gian, một giới hạn tính bất khả giản lược. Ta đừng giải thích sự giản lược ấy quy chiếu theo một vô hạn nào cả. Nói giới hạn cũng là có ý nói cụ thể tính hiện tạicủa sự vật.

Trong khi Sartre tiến đến lập trường Mác Xít và Heidegger theo hướng Hữu thể, thì Marcel tiến lên với Hữu huyền nhiệm, và Jaspers nhìn về Siêu vượt. Cả bốn cùng đi từ một hữu thể luận cụ thể để rồi mỗi người nhìn đến một phương hướng. Nhưng đó là trên bình diện vũ trụ nói chung.

Riêng đối với người, thì mặc dầu các triết gia hiện sinh, như đã nói, đồng ý rằng người tự kiến tạo trong thời gian và bằng hoạt động của mình, nhưng họ cũng khác nhau theo ba phương hướng vừa nói.

Bởi vì Sartre là người được coi là đại diện số một cho chủ nghĩa hiện sinh (nên nhớ rằng đó là quan điểm của độc giả nhiều hơn là của Sartre, và hiện nay không một ai muốn mang danh hiệu triết gia hiện sinh) và chịu ảnh hưởng của Heidegger nhiều nhất, nên những ý kiến sau đây đặc biệt áp dụng cho Sartre và Heidegger.

Người là một hiện hữu giữa các hiện hữu, người không biết một vị sáng tạo nào cả. Người sinh ra là một ngẫu nhiên tuyệt đối. Nhưng người hữu thủy hữu chung. Người là một sinh vật bị giới hạn. Tuy nhiên người khác vạn vật ở tại chỗ người là một tự do. Tự do chọn lựa. Người không lệ thuộc ai cả mà chỉ lệ thuộc mình. Nếu cần định nghĩa người thì nói rằng đầu tiên người không là gì cả (phủ nhận nhân tính), về sau có thành cái gì là do sự lựa chọn của tự do. Tự do là hữu, là bản thể của hiện hữu nhân loại, của cá nhân. Hiện hữu của người được tạo tác bởi tự do cho nên gọi là hiện sinh. Hiện sinh, do đó, là một lịch sử. Đừng lầm tưởng ý nghĩa lịch sử ở đây. Lịch sử tính không có nghĩa phụ thuộc như trong triết học cổ điển. Trái lại, lịch sử tính do sử tính, sử tính là bản chất cụ thể có đặc hữu tạo tác nên người. Sử tính ấy liên hệ đến ý hướng của tự do, của dự phóng. Heidegger gọi là thời gian tính của hữu, với ý nghĩa sáng tạo hơn là trôi chảy hay triền miên trong học thuyết Héraclite hay Bergson. Ta có thể nói rằng đối với người, theo Heidegger và Sartre, không có thời gian tính thì không có tự do và ngược lại.

Cơ cấu thời gian tính đã được Husserl mô tả trong phân tách ba chiều của nó: lưu trú, chú ý và dự liệu. Heidegger đem áp dụng vào ý niệm hữu, còn Sartre và các triết gia khác, cho tự do của người. Tuy nhiên đang khi Heidegger lúng túng cố gắng tìm nền tảng cho hữu, thì Sartre không ngần ngại tuyên xưng sự phi lý cội rễ của chính tự do. Sartre, kể ra, trước sau không mâu thuẫn với mình ở điểm ấy. Khi đã thừa nhận ngẫu nhiên triệt để của vạn vật và phủ nhận mọi ý niệm về nguồn sáng tạo, ông phải thừa nhận ngay cả sự ngẫu nhiên không kém phi lý của tự do.

Thành ra, có một tiền định của tự do: Tôi bị tuyên án phải sống tự do. Tôi không muốn tự do. Tự do có trước mọi ý muốn. Người ta có thể tự hỏi phải chăng nơi Sartre, tự do và ngẫu nhiên là một, và tự do thuộc thứ hạng nào, phổ biến hay đặc thù, nếu tự do có trước mọi ý muốn cá nhân? Hơn nữa, sự lựa chọn, mà có lần ông đồng nhất với thể tính căn bản của tự do, phải chăng là một hệ luận thiết yếu của tự do? Về sau Sartre chấp nhận chủ nghĩa Mác xít, liệu quan điểm tự do của ông có phù hợp với định luật sắt thép của chủ nghĩa này không, cả về phương diện khoa học lẫn nhân sinh xã hội? Chúng ta sẽ có dịp trở lại vấn đề này.

Ngay bây giờ cần ghi chú rằng sự thống nhất tự do với phi lý của ngẫu nhiên không ngăn cấm Sartre thấy được trong mỗi người một cái gì chung cho mọi người, cái gì ấy ông gọi là nhân tính. Mỗi hành động của cá nhân liên hệ đến người khác. Người ta thấy ngay rằng ý niệm liên hệ đòi một ý niệm đi trước về tương quan giữa nhiều cá tận. Phải chăng ý niệm không nói ra ấy, là một ý niệm nào đó về mẫu số chung của mọi người, của nhân tính?

Thực vậy, Sartre nói đến trách nhiệm và liên đới trách nhiệm. Người có trách nhiệm vì có tự do, và ngược lại, Tự do, tuy căn bản là phi lý, nhưng phải được thể hiện và bảo đảm bằng hành động. Hành động xây dựng. Không thể có tự do suy niệm. Để khỏi dài dòng trong phần đại cương này, ta nói rằng Sartre sẽ không ra khỏi vòng lẩn quẩn khi ông muốn lấy trách nhiệm biện chính cho tự do trên bình diện người với người. Trừ phi ông chấp nhận nhân tính hoặc phủ nhận ngẫu nhiên tính của tự do.

Hiện sinh không thể là hiện hữu được quan niệm hóa, không thể là một ý niệm trừu tượng. Hiện sinh là một kinh nghiệm sống, một ý thức sống. Từ đó, triết gia hiện sinh lần tới quan điểm hiện sinh có trước bản thể và bản thể học nếu đó chính là khoa học về hiện sinh. Léon Brunschvicg nói ý niệm là đối cước của thực hữu. Nhưng theo triết gia hiện sinh, hiện sinh làm cho ý niệm trở thành khả tri. Không có hiện sinh, mọi ý niệm đều không thể có. Ngược lại ý niệm làm cho hiện sinh trở thành vô nghĩa, nghĩa là bất khả tri trong thực chất tạo thành của hiện sinh. Hiện sinh tự nó là dày đặc, ánh sáng lý trí không bao giờ chọc thủng thành trong suốt. Quan điểm ấy, như ta đã biết được biện chính bởi sự bất lực của duy lý triết học cũng như khoa học – trong mọi phạm vi thiên nhiên và nhân sự.

Kể ra, thì không phải mãi đến thế kỷ 20 người ta mới đề cao phần tình cảm của người hay mới thấy bất lực của lý trí. Từ trước Aristoteles, Héraclite đã nói đến trực giác vào lòng người và bản chất vũ trụ. Chính Aristoteles cũng không quên khía cạnh mờ đục của cảm giác. Nhưng nhất là Plotin và Thánh Augustin. Plotin và trường phái của ông là hiện thân đầu tiên của thần bí chủ nghĩa mà ý nghĩa là dấn toàn thân vào chiêm ngưỡng những gì vượt khỏi lý trí suy luận. Thánh Augustin cho thấy vai trò của thân thể trong nhận thức và trong giá trị. Sau nhiều thế kỷ lu mờ trước tư trào Aristoteles nhất là trong suốt thời trung cổ, những quan điểm ấy có dịp sống lại thời phục hưng vào thế kỷ 17, đặc biệt nhất ở Pascal. Có người quả quyết rằng Pascal là ông tổ của triết lý hiện sinh. Hai câu nói bất hủ của ông: “Chân lý bên này rặng Pyrénées là ngộ nhận bên kia” và “Con tim có những lý lẽ mà chính lý trí không thể đạt được”, có thể kể như là tóm lược tất cả ý kiến của ông về vai trò chủ quan tình cảm của người trước vũ trụ. Thêm vào đó là trường duy nghiệm của Đảo Anh Quốc, bắt từ Bacon, Hobbes và kiện toàn bởi John Locke, Berkeley và nhất là Hume. Locke đề cao giác quan tính như là nguồn gốc của mọi ý niệm hóa. Berkeley đi xa hơn, nhấn mạnh rằng cái có là cái được tri giác và cái có là tri giác. Cả hai khẳng định nhuốm màu sắc chủ quan, nhấn mạnh đến ý nghĩa của chủ thể trong nhận thức luận và bản thể luận. David Hume còn đi xa hơn khi ông loại bỏ mọi ý niệm siêu hình ra khỏi nhận thức. Tất cả là do kinh nghiệm bản thân, nghĩa là do tập quán. Lý trí bất lực trong việc định giải vũ trụ. Tinh thần duy nghiệm vẫn tiếp tục tác động trong mọi lĩnh vực, qua trung gian của những nhà lý thuyết như Bentham, Stuart Mill, W. James, John Dewey…

Trở về với lục địa người ta không thể bỏ qua Kant, ở thế kỷ 18. Quan điểm của ông về tầm hạn của lý trí, về ý nghĩa kinh nghiệm, đã đánh dấu và quyết định chuyển hướng của nền tư tưởng Âu Châu, nhất là trong triết học. Ảnh hưởng nhiều trên lập trường thuyết hiện sinh[2].

Với những ảnh hưởng xa gần, trực tiếp hoặc gián tiếp ấy, hiện sinh xuất hiện với những đặc trưng ta đã trình bày và có thể thâu tóm vào năm điểm sau đây:

1. Chống lại mọi hình thức chủ lý xem suy lý lý học như là con đường độc đạo duy nhất dẫn đến chân lý toàn diện.

2. Chống lại mọi quan điểm nhìn con người như một đồ vật nghiên cứu và sử dụng, và từ đó phản đối mọi hình thức độc tài xã hội và chính trị.

3. Dành ưu tiên cho chân lý chủ thể đối với chân lý khách vật, và theo lý tưởng đó, tái lập địa vị của tiếng nói tình cảm và tư thân trong việc thẩm định ngoại giới.

4. Nhìn nhận và khai thác triệt để lưỡng tính nội tại của con người, lưỡng tính của tự do chọn lựa, của mâu thuẫn trong quyết định, của căng thẳng giữa thiện ác, giữa hữu hạn và vô hạn, giữa cố gắng và buông trôi, giữa quá khứ và tương lai, và nhất là lưỡng tính giữa thú tính và nhân tính: người không là con vật mà cũng chẳng phải như Thượng đế.

5. Cái phân biệt triết lý hiện sinh chính là dấn thân hăng say đương đầu với thử thách của cuộc sống với một ý thức thấm thía về những phiêu lưu, những thất bại, những chân tướng cao độ, do thiện chí giải quyết vấn đề nhân sinh sẽ đặt ra một cách cần thiết và cấp thời.

6. Sau hết, triết thiết hiện sinh chính là hiện tượng luận áp dụng cho việc tìm hiểu con người trong mọi khả thể của nó. Nói cách khác, năm đặc điểm của chương trình hiện sinh trên đây đã được nghiên cứu và diễn tả một cách hiện tượng luận. Vì thế mà chúng tôi đã đặt cho công trình biên khảo của chúng tôi cái tên: Hiện tượng luận về hiện sinh.

(xem tiếp kỳ 2)

Nguồn: Lê Thành Trị. Hiện tượng luận về hiện sinh. Trung tâm học liệu – Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên, 1974. Phiên bản điện tử do triethoc.edu.vn thực hiện.




[1] G. Marcel, Regard en arrière, Paris, Plon, 1947, P. 312.


[2] Ngoài ra một số tư tưởng hiện sinh còn được tiên báo trong các học thuyết như của J. G. Fichte, F. G. J. Schelling hay Hegel và K. Marx trẻ (xem A. B. Fallico, The Quest for Authentic Existence, Stockton, California: College of the Pacific Publication in Philosophy, 1958).