Thứ Năm, 9 tháng 4, 2015

NHƯ...








Như là một giấc mơ
Đi theo mùa lá rụng
Tỉnh ra còn lúng phúng
Lắt lay vài cọng đời

Như cánh buồm tả tơi
Ra khơi ngày biển động
Lao mình vào khát vọng
Đắm chìm trong đơn côi

Như cuộc tình nóng vội
Mây mưa vả mồ hôi
Tàn phai chưa kịp hỏi
Lời thú tội nhân đôi

Như gió về nông nổi
Nắng chết một ngày tàn
Hương trầm thơm nén nhang
Loang trên chiều vô hạn

Như cuối đường bước cạn
Hun hút vùng tối sâu
Văng vẳng tiếng kinh cầu
Em bây giờ nơi đâu?

Tính Ích Kỷ Huân Tập Mê Muội của Sinh Vật Người



"Nhà Nước là một cảnh giới (não trạng), chính tự bản thân nó, nó là não trạng bầy đàn. Vì như thế, nó chỉ có thể bị lật đổ trong trận chiến của não trạng" (The State is a state of mind; it is the herd mindset itself. As such, it can only be overthrown in the battleground of the mind. (Não Trạng Bầy Đàn- The Herd Mind))=== 

Quí vị có thể đồng ý hoặc không đồng ý về bất cứ một định nghĩa nào đó về bất cứ một sự vật, sự việc, hay một ý niệm, quan niệm nào đó. Vấn đề thuộc lãnh vực ẤN TƯỢNG CÁ NHÂN. Và quí vị cũng MONG muốn, thậm chí kêu gào lý giải, biểu tình v.v để mong tất cả mọi người đồng ý với mình khi một sự việc bất hạnh xảy ra cho bản thân của quí vị.

Chúng ta có vô số giới hạn để định nghĩa một thể chế, xã hội về tự do, hạnh phúc, nhân quyền v.v Nhưng quí vị nhận định như thế nào về một xã hội mà quân đội cảnh sát bắn giết 100 người thường dân vô tội chỉ trong một tháng, mà không ai chịu trách nhiệm hậu quả, trừ chính nạn nhân và gia đình thân nhân họ? 

Dĩ nhiên câu trả lời thường nghe là: "tôi không biết hết chi tiết, chắc phải có vấn đề gì đó" và một cái nhún vai. Hợp lý thôi. Và cũng bình thường thôi. Nhưng khi những "hợp lý" và "bình thường" này xảy ra cho chính bản thân, gia đình quí vị, thì quí vị sẽ làm gì nghĩ gì? Có phải quí vị cũng mong muốn, thậm chí kêu gào lý giải , biểu tình v.v để mong tất cả mọi người đồng ý cùng phẫn nộ với "bất hạnh", "bất công" đã xảy ra cho chính quí vị?

Cuối cùng cái bảng giá trị đo lường nền tự do, dân chủ, nhân quyền, pháp trị v.v nó nằm ở đâu? Quí vị đánh giá mức độ tự do nhân phẩm con người của xã hộin quí vị ở danh từ tên hiệu hay bằng chính đời sống của quí vĩ? Quí vị có đánh giá xã hội theo những gì xảy ra không chỉ riêng trên bản thân mà còn xảy ra với mọi người khác không? Quí vị định nghĩa XÃ HỘI theo kinh nghiệm của riêng quí vị hay là của mọi người chung quanh?

Ngay từ ngữ XÃ HỘI, quí vị có thật sự hiểu nó là gì?

Một xã hội, một nền chính trị, mà cả trăm người dân bị bắn chết vô tội vạ, và cái nền chính trị đã để nó xảy ra ở một mức độ gần như thường trực không giải quyết, thì quí vị định nghĩa cơ chế tam quyền phân lập như thế nào? Ý niệm công lý ra sao?"

Và trên hết tất cả, NHÂN QUYỀN, NHÂN PHẨM là của riêng quí vị NHƯ LÀ ĐẶC QUYỀN của MỘT GIAI CẤP, GIỚI NGƯỜI, hay là của tất cả mọi người trong XÃ HỘI ?

Cái danh xưng CỘNG HÒA, CỘNG SẢN, DÂN CHỦ, PHÁP TRỊ v.v có ý nghĩa gì hơn thực trạng xảy ra cho bản thân quí vị, mọi người chung quanh trong XÃ HỘI QUÍ VỊ.

Tây ban Nha, vừa "thông qua" đạo luật phạt nặng những ai biểu tình, phát biểu phản đối nhà nước!

Việt Nam, Trung Quốc, Arap Seoud, Âu Mỹ Úc v.v cái tên khác nhau, nhưng cùng là ĐỊNH CHẾ QUYỀN CHÍNH, và người dân cũng khác nhau, nhưng đau khổ, tù tội, đàn áp, bức hại, bắn giết cũng chỉ là một mà thôi. 

Người viết đã quan sát và chiêm nghiệm nhiều đàn vật, bầy thú, chưa có bầy nào, đàn nào căm ghét lẫn nhau, tàn sát bất kể thành phần trải dài xuyên suốt lịch sử không dứt, và nhất là hãnh diện, xiển dương, thích thú và thống khoái những hành xử thù nhau, tàn diệt nhau, càng ngày càng tinh vi tồi tệ như bầy người đã và đang tiến hành với chính họ!

Nguyên nhân từ đâu? Có lẽ Phật, Lão, Jesus lên tiếng vì biết và hiểu cái nguyên nhân này. Và hôm nay những Người Phi Quyền Chính đã hiểu thấu chăng?

Tùy quí vị vậy! 

NHÂN CHỦ



====


More Than 100 People Were Killed By Police In March Alone: State Terror w/in US Societyby Christina Coleman | April 6, 2015 7:00 pm
According to the website KilledByPolice.net[1], more than 1[2]00 people died at the hands of law enforcement[3] in the month of March.
The figure, which comes 31 days after the release of the White House Task Force on 21st Century Policing report, averages out to more than three people killed in America each day by police officers.
Out of the 111 people who died during police encounters, the majority have been unarmed men of color. Many of the victims were mentally ill. And a number were both, Think Progress[4] points out.
Despite an ongoing national conversation surrounding officer misconduct, racial profiling, and use of excessive force, the numbers seem to be steadily increasing.
In fact, March saw 36 more deaths at the hands of police than the previous month.
And if recently proposed legislation to withhold the identity of officers involved in a shooting[5] is any indication, the law is leaning away from citizens and aiding police departments in their historically non-transparent practices.
From the American Civil Liberties Union[6]:

The public needs legitimate data collection practices that promote transparency and accountability when police use unreasonable force. We need something a little more thoughtful than a Google search to give us the stats on the number of police shootings — fatal or nonfatal — in any given period of time.
As the ACLU explained to the task force, data collection and reporting is the easiest single thing any police department can do starting today. And it will offer the best depiction of what policing in the 21st century looks like.
Both the ACLU and the task force recommend data collection on a range of police and citizen encounters — from stops and arrests to nonfatal and fatal police shootings. “Policies on use of force,” the task force writes, “should also require agencies to collect, maintain, and report data to the Federal Government on all officer-involved shootings, whether fatal or nonfatal, as well as any in-custody death.” And data must be inclusive not just of race and gender but disability as well.As of April 2, two individuals have been killed by police — one in California and another in New York — according toKilledByPolice[7]. The circumstances surrounding the deaths was not specified.
For a list of those killed by law enforcement in the month of March, including Anthony Hill, Tony Robinson, andBrandon Jones, see here[8].

By Christina Coleman

http://chicagodefender.com/2015/04/02/more-than-100-people-were-killed-by-police-in-the-month-of-march/

Endnotes:

KilledByPolice.net: http://www.killedbypolice.net/
1: http://newsone.com/tag/police-brutality/
00 people died at the hands of law enforcement: http://newsone.com/tag/police-brutality/
Think Progress: http://thinkprogress.org/justice/2015/04/01/3641143/use-of-force-incidents-march/
withhold the identity of officers involved in a shooting: http://newsone.com/3103085/bill-postpone-releasing-identities-of-cops-who-shoot-people/
American Civil Liberties Union: https://www.aclu.org/blog/criminal-law-reform-free-speech-racial-justice/over-100-people-were-killed-police-march-have-po
KilledByPolice: http://www.killedbypolice.net/
here: http://thinkprogress.org/justice/2015/04/01/3641143/use-of-force-incidents-march/
Source URL: http://www.4thmedia.org/2015/04/more-than-100-people-were-killed-by-police-in-the-month-of-march/
==

Săn Bắn Người bằng Máy Từ Xa -Hunting Humans by Remote Control
Posted By Tom Engelhardt On April 7, 2015 @ 11:00 pm In Uncategorized | No CommentsOriginally posted at TomDispatch.
Drones seemed to come out of nowhere, sexy as the latest iPhones and armed to kill. They were all-seeing eyes in the sky (“a constant stare,” as drone promoters liked to say) and surgically precise in their ability to deliver death to evildoers. Above all, without pilots in their cockpits, they were, in terms of the human price of war (at least when it came to the lives that mattered to us), cost free. They transformed battle into a video-game experience, leaving the “warriors” – from pilots to generals – staring at screens. What could possibly go wrong?
As it happened, so much went wrong. It often proved hard for the drone operators to tell what exactly they were seeing on those video feeds of theirs and mistakes were regularly made. In addition, drones turned out to kill with a remarkable lack of discrimination, while putting whole rural populations that fell under Washington’s robotic gaze intoa state of what, if they had been American soldiers, we would have called PTSD. Worse yet, as recent events in Yemen indicate, drones proved remarkably effective weapons not in staunching terror outfits but in spreading terror, and so became powerful recruitment tools for extremist groups. In rural societies repeatedly attacked by the grimly named Predators and Reapers, the urge for revenge was apparent.
Drones were, that is, terror instigators. Everywhere they were sent by the last two administrations to pursue campaigns of “targeted killing” (i.e. assassination) and “signature strikes” (on suspicious patterns of “behavior” on the ground below, as judged by video from thousands of miles away), extremist groups have grown, societies have fragmented, and things have, from Washington’s point of view, gotten worse. In the process, they turned the White House with its secret “kill list” and its “terror Tuesday” meetings into a den of assassins, the CIA into assassination central, and the president into an assassin-in-chief. The drones even took an unexpected toll on their pilots waging a theoretically cost-free war.
From the point of view of drone proponents, one curious thing did go right, however – not in Pakistan or Afghanistan or Iraq or Yemen or Somalia, but here at home. Even though Americans in multiplexes had for years sided with human rebels against the inhuman gaze of robots on the prowl, they now backed the robots, as opinion polls showed, in part because their reputation here remained remarkably untarnished by their dismal and destructive track record in the distant backlands of the planet.
Now, another kind of “gaze,” another form of “constant stare,” has fallen on the drone and it comes from the least robotic of places. In his new book, A Theory of the Drone, French philosopher Grégoire Chamayou has taken a fresh look at the radically new form of warfare wreaking havoc on fundamental human categories, whether of war, legality, or sovereignty. It’s a fascinating effort to deal with a weapons and surveillance system that turns out not to have arrived out of the blue at all. Today, TomDispatch offers a taste of Chamayou’s original approach, presenting two early chapters from his book on how the drone entered our world and transformed the classic “duel” between warriors into a “hunt” in which an all-seeing, lidless eye-in-the-sky searches out distant humans below as its “prey.” In the meantime, the warriors of the past are, as Chamayou writes, morphing into the executioners of the twenty-first century. It couldn’t be a grimmer tale of post-modernity. Tom
Manhunters, Inc.
How the Predator and Extra-Judicial Execution Became Washington’s Calling Cards
By Grégoire Chamayou
The following is slightly adapted from chapters two and three of Grégoire Chamayou’s new book, A Theory of the Drone, with special thanks to his publisher, the New Press.
Initially, the English word “drone” meant both an insect and a sound. It was not until the outbreak of World War II that it began to take on another meaning. At that time, American artillery apprentices used the expression “target drones” to designate the small remotely controlled planes at which they aimed in training. The metaphor did not refer solely to the size of those machines or the brm-brm of their motors. Drones are male bees, without stingers, and eventually the other bees kill them. Classical tradition regarded them as emblems of all that is nongenuine and dispensable. That was precisely what a target drone was: just a dummy, made to be shot down.
However, it was a long time before drones were to be seen cruising above battlefields. To be sure, the idea dates back quite a while: there were the Curtiss-Sperry aerial torpedo and the Kettering Bug at the end of World War I, and then the Nazi V-1s and V-2s unleashed on London in 1944. But those old flying torpedoes may be considered more as the ancestors of cruise missiles than as those of present-day drones. The essential difference lies in the fact that while the former can be used only once, the latter are reusable. The drone is not a projectile, but a projectile-carrying machine.
It was during the Vietnam War that the U.S. Air Force, to counteract the Soviet surface-to-air missiles that had inflicted heavy casualties on it, invested in reconnaissance drones nicknamed “Lightning Bugs,” produced by Ryan Aeronautical. An American official explained that “these RPVs [remotely piloted vehicles] could help prevent aircrews from becoming casualties or prisoners… With RPVs, survival is not the driving factor.”
Once the war was over, those machines were scrapped. By the late 1970s, the development of military drones had been practically abandoned in the United States. However, it continued elsewhere. Israel, which had inherited a few of these machines, recognized their potential tactical advantages.
In 1973, the Israel Defense Forces (IDF), facing off against Egypt, ran up against the tactical problem of surface-to-air missiles. After losing around 30 planes in the first hours of the Yom Kippur War, Israeli aviation changed its tactics. They decided to send out a wave of drones in order to mislead enemy defenses: “After the Egyptians fired their initial salvo at the drones, the manned strikes were able to attack while the Egyptians were reloading.” This ruse enabled Israel to assume mastery of the skies. In 1982, similar tactics were employed against the Syrians in the Bekaa Valley. Having first deployed their fleet of Mastiff and Scout drones, the Israelis then sent out decoy planes that were picked up by enemy radar. The Syrians activated their surface-to-air missiles, to no effect whatsoever. The drones, which had been observing the scene from the sky, easily detected the positions of the antiaircraft batteries and relayed them to the Israeli fighter planes, which then proceeded to annihilate them.
The drones were used for other purposes as well:

“Two days after a terrorist bomb destroyed the [U.S.] Marine Barracks in Beirut in October 1983, Marine Commandant Gen. P.X. Kelley secretly flew to the scene. No word of his arrival was leaked. Yet, across the border, Israeli intelligence officers watched live television images of Kelley arriving and inspecting the barracks. They even zoomed the picture in tight, placing cross hairs directly on his head. Hours later, in Tel Aviv, the Israelis played back the tape for the shocked Marine general. The scene, they explained, was transmitted by a Mastiff RPV circling out of sight above the barracks.”This was just one of a series of minor events that combined to encourage the relaunch of American drone production in the 1980s. “All I did,” confessed Al Ellis, the father of the Israeli drones, “was take a model airplane, put a camera in it, and take the pictures… But that started an industry.”
At this point, however, the drones were simply machines for intelligence, surveillance, and reconnaissance. They were just eyes, not weapons. The metamorphosis came about almost by chance, between Kosovo and Afghanistan, as the new millennium began. As early as 1995, General Atomics had invented a new remote-controlled spy plane prototype, the Predator. Despite its disquieting name, the beast was not yet equipped with claws or teeth. In Kosovo, where it was deployed in 1999, the drone limited itself to filming targets and illuminating them by means of lasers, allowing the F-16 planes to strike.
But it would take a “‘different kind of war’ to make the Predator into a predator.” No more than a few months before September 11, 2001, officers who had seen the Predator at work in Kosovo had the idea of experimentally equipping it with an antitank missile. Writes Bill Yenne in his history of the drone, “On February 16, 2001, during tests at Nellis Air Force Base, a Predator successfully fired a Hellfire AGM114C into a target. The notion of turning the Predator into a predator had been realized. No one could imagine that, before the year was out, the Predator would be preying upon live targets in Afghanistan.”
Barely two months after the outbreak of hostilities in Afghanistan, George Bush was in a position to declare: “The conflict in Afghanistan has taught us more about the future of our military than a decade of blue ribbon panels and think-tank symposiums. The Predator is a good example… Now it is clear the military does not have enough unmanned vehicles.”
The Principles of Manhunting

“Individual will research and incorporate current manhunting experiences and procedures in order to provide an educational forum for manhunting issues… Must possess a SECRET level clearance and be able to obtain a TOP SECRET/SCI security clearance.” 

– Job description for a special operations manhunting program analyst in an advertisement published by the military contractor SAI in 2006In 2004, John Lockwood set up a website called Live-Shot.com. The idea was at once simple and innovative. By subscribing online for a few dollars, the Internet surfer could become a “virtual hunter.” Thanks to a camera fixed to a mobile forearm, itself connected to a remote control device, one could, without stirring from home, shoot live animals let loose for the occasion on a ranch in Texas.
When it made the news, there was a rush to condemn it. The editor-in-chief of the magazine Outdoor Life, acknowledging the profound “ethical problems” that such a venture presented, set out a fine definition of what hunting meant for him: “To me, hunting isn’t just about pulling the trigger on an animal. It’s about the total experience… Hunting is about being out there, not about pulling the trigger with the click of a mouse.”
A Wisconsin lawmaker took up the theme, giving the definition a strangely environmentalist twist: “To me, hunting is being out in nature and becoming one with nature.” Even the extremely conservative National Rifle Association expressed its opposition, joining with the American Society for the Prevention of Cruelty to Animals in an unusual alliance: “We believe that hunting should be outdoors and that sitting in front of a computer three states away doesn’t qualify as ‘hunting.’” A Houston police officer was even more adamant, saying, “It’s not hunting. It’s killing… Someone gets a computer and pushes a button and something dies for no reason.”
Lockwood protested, claiming that his foremost purpose had been to allow handicapped people who were passionate about hunting to indulge in their favorite pastime and mentioning an American soldier in Iraq who had thanked him for offering such a fine opportunity, saying that he had no idea when he might be able to go hunting again. But it was all in vain. Hunting online was forbidden. Lockwood, disappointed, tried to salvage his scheme by suggesting that his clients should fire at cardboard targets representing Osama bin Laden. However, his intended Internet audience shifted to other, no doubt more exciting, online pleasures, and the little venture that had seemed so promising collapsed.
The triggers of moral indignation are quite mysterious sometimes. While the virtual hunting of animals was almost universally condemned as scandalous, the remote-controlled hunting of human beings was at the same moment taking off without any of those same people making any objections.
In the immediate aftermath of September 11th, George W. Bush had predicted that the United States would embark upon a new kind of warfare, “a war that requires us to be on an international manhunt.” Something that initially sounded like nothing more than a catchy Texas cowboy slogan has since been converted into state doctrine, complete with experts, plans, and weapons. A single decade has seen the establishment of an unconventional form of state violence that combines the disparate characteristics of warfare and policing without really corresponding to either, finding conceptual and practical unity in the notion of a militarized manhunt.
Reaping the (Human) Prey
In 2001, U.S. Secretary of Defense Donald Rumsfeld had become convinced that “the techniques used by the Israelis against the Palestinians could quite simply be deployed on a larger scale.” What he had in mind was Israel’s programs of “targeted assassinations,” the existence of which had recently been recognized by the Israeli leadership. As Eyal Weizman explains, the occupied territories had become “the world’s largest laboratory for airborne thanatotactics,” so it was not surprising that they would eventually be exported.
But one problem remained. “How do we organize the Department of Defense for manhunts?” Rumsfeld asked. “We are obviously not well organized at the present time.” In the early 2000s, the U.S. military apparatus was not yet ready to roll out on a worldwide scale the sort of missions that normally are assigned to the police within a domestic framework: namely, the identification, tracking, location, and capture (but in actual fact the physical elimination) of suspect individuals.
Within the United States, not all the high-ranking officers who were informed of these plans greeted them with enthusiasm. At the time, journalist Seymour Hersh noted that many feared that the proposed type of operation – what one advisor to the Pentagon called “preemptive manhunting” – had the potential to turn into another Phoenix Program, the sinister secret program of murder and torture that had once been unleashed in Vietnam.
Of course, there was the additional problem of how to legally justify these hybrid operations, the enfants terribles of the police and the army. At the levels of both warfare theory and international law, they seemed to be conceptual monstrosities. But we shall be returning to this point.
In any case, a new strategic doctrine became necessary. Researchers set about defining the “manhunting theoretical principles” that could provide a framework for such operations. George A. Crawford produced a summary of these in a report published in 2009 by the Joint Special Operations University. This text, which set out to make “manhunting a foundation of U.S. national strategies,” in particular called for the creation of a “national manhunting agency,” which would be an indispensable instrument for “building a manhunting force for the future.”
The contemporary doctrine of hunting warfare breaks with the model of conventional warfare based on concepts of fronts and opposed battle lines facing up to each other. In 1916, General John J. Pershing launched a vast military offensive in Mexico in an unsuccessful attempt to lay hands on the revolutionary Pancho Villa. For American strategists who cite this historical precedent as a counterexample, it was a matter of reversing polarity: faced with the “asymmetrical threats” posed by small mobile groups of “nonstate actors,” they should use small, flexible units, either human or – preferably – remotely controlled, in a pattern of targeted attacks.
Contrary to Carl von Clausewitz’s classical definition, the fundamental structure of this type of warfare is no longer that of a duel, of two fighters facing each other. The paradigm is quite different: a hunter advancing on a prey that flees or hides from him. The rules of the game are not the same. “In the competition between two enemy combatants,” wrote Crawford, “the goal is to win the battle by defeating the adversary: both combatants must confront to win. However, a manhunt scenario differs in that each player’s strategy is different. The fugitive always wants to avoid capture; the pursuer must confront to win, whereas the fugitive must evade to win.” The hostile relationship now boils down, as in a game of hide-and-seek, to “a competition between the hiders and the seekers.”
The primary task is no longer to immobilize the enemy but to identify and locate it. This implies all the labor of detection. The modern art of tracking is based on an intensive use of new technologies, combining aerial video surveillance, the interception of signals, and cartographic tracking. The profession of manhunters now has its own technocratic jargon: “Nexus Topography is an extension of the common practice of Social Network Analysis (SNA) used to develop profiles of HVIs… Nexus Topography maps social forums or environments, which bind individuals together.”
In this model the enemy individual is no longer seen as a link in a hierarchical chain of command: he is a knot or “node” inserted into a number of social networks. Based on the concepts of “network-centric warfare” and “effects-based operations,” the idea is that by successfully targeting its key nodes, an enemy network can be disorganized to the point of being practically wiped out. The masterminds of this methodology declare that “targeting a single key node in a battlefield system has second, third, n-order effects, and that these effects can be accurately calculated to ensure maximum success.”
This claim to predictive calculation is the foundation of the policy of prophylactic elimination, for which the hunter-killer drones are the main instruments. For the strategy of militarized manhunting is essentially preventive. It is not so much a matter of responding to actual attacks but rather of preventing the development of emerging threats by the early elimination of their potential agents – “to detect, deter, disrupt, detain or destroy networks before they can harm” – and to do this in the absence of any direct, imminent threat.
The political rationale that underlies this type of practice is that of social defense. Its classic instrument is the security measure, which is “not designed to punish but only to preserve society from the danger presented by the presence of dangerous beings in its midst.” In the logic of this security, based on the preventive elimination of dangerous individuals, “warfare” takes the form of vast campaigns of extra-judiciary executions. The names given to the drones – Predators (birds of prey) and Reapers (angels of death) – are certainly well chosen.
Grégoire Chamayou is a research scholar in philosophy at the Centre National de la Recherche Scientifique in Paris. He is the author of A Theory of the Drone (excerpted above) and Manhunts: A Philosophical History. He lives in Paris.
Follow TomDispatch on Twitter and join us on Facebook. Check out the newest Dispatch Book, Rebecca Solnit’s Men Explain Things to Me, and Tom Engelhardt’s latest book, Shadow Government: Surveillance, Secret Wars, and a Global Security State in a Single-Superpower World.

==

Não Trạng Bầy Đàn- The Herd Mind


Posted By Dan Sanchez On April 7, 2015 @ 11:00 pm In Uncategorized | No Comments
“Hunting Buffalo” (1858-1860) by Alfred Jacob MillerRandolph Bourne famously wrote, “War is the health of the State.” This has long been the byword for anti-war, anti-state libertarians, and rightly so. But Bourne did not mean exactly what most libertarians take this phrase to mean. To understand the maxim’s original meaning, as Bourne used it in his great unfinished essay “The State,” one must understand his distinctions among three concepts that are often conflated: Country, State, and Government.
For Bourne, a Country (or Nation) is a group of individuals bound together by cultural affinity. A State is a Country/Nation collectively mobilized for attack or protection. As he distinguished between the two:

“Country is a concept of peace, of tolerance, of living and letting live. But State is essentially a concept of power, of competition: it signifies a group in its aggressive aspects.”And Government, according to Bourne, “is the machinery by which the Nation, organized as a State, carries out its State functions” and “a framework of the administration of laws, and the carrying out of the public force.”
What libertarians commonly refer to as “the State,” Bourne termed “the Government” instead. So, the way libertarians often interpret his famous aphorism is what Bourne would have expressed if he had written, “War is the health of theGovernment.” This also happens to be true, but it is not what he meant.
For Bourne, the State is not a distinct ruling body subsisting extractively on the ruled, i.e., a “gang of thieves writ large,” as the great Murray Rothbard incisively conceived it. Rather, he saw it as a certain orientation of a whole people: a spiritual phenomenon pervading an entire populace that animates and empowers such a ruling body. As Bourne expressed it:

“Government is the idea of the State put into practical operation in the hands of definite, con­crete, fallible men. It is the visible sign of the invisible grace. It is the word made flesh. And it has necessarily the limitations inherent in all practicality. Government is the only form in which we can en­vis­age the State, but it is by no means identical with it. That the State is a mystical conception is some­thing that must never be for­got­ten. Its glam­or and its significance linger be­hind the frame­work of Government and direct its activities.”In peacetime, Bourne explained, the State is largely relegated to the background; individuals are then more concerned with their own affairs and purposes. But during the build-up to war, and especially following its breakout, the foreign enemy looms large in the public imagination. Hence, the Country is overtaken by war fever and develops what Garet Garett called a “complex of vaunting and fear.” This hybrid mania of boastful belligerence and timorous terror (“fight-or-flight”) causes the populace to regress from a civilization to a herd. The people seek safety in numbers: in a multitude unified for a single purpose (a “great end”) and directed by a single agency. The varied dance of individuals gives way to the uniform huddle and stampede of the unitary drove, with the Government as drover.
As Bourne wrote:

“The State is the organization of the herd to act offensively or defensively against another herd similarly organized.”And in wartime, the “mystical conception” of the State “comes into its own” as the “herd-sense” becomes dominant in the Country and the “aggressive aspects” of the group come to the fore. This is what Bourne meant by, “War is the health of the State.” The dictum speaks to the flourishing of an ideal and the resulting transformation of a whole society, not merely the aggrandizement of a Government.
Yet, war is also the health of the Government, which is the single directing agency to whose banner the State-minded masses flock. Under the perceived exigencies of war, the people:

“…proceed to allow them­selves to be regimented, coerced, de­ranged in all the environments of their lives, and turned into a solid manufactory of destruction to­ward whatever other people may have, in the appointed scheme of things, come with­in the range of the Government’s disapprobation. The cit­i­zen throws off his con­tempt and indifference to Government, identifies him­self with its purposes, revives all his military memories and symbols, and the State once more walks, an au­gust presence, through the imaginations of men.”Economically, this means that the manpower and resources of the Country undergo “mobilization”: a vast redirection away from the provision of individual consumer wants and toward the all-important war effort. In this way too, the Government swells in power and grandeur, as the consumer-directed market economy is supplanted by the Government-directed “War Economy,” or even “War Socialism” (Kriegssozialismus, as the Germans called it in World War I).
In the fever of war, the individual will is sacrificed for the “General Will,” which ostensibly expresses itself through the Government. Individuals renounce their identities for the sake of uniting Voltron-like into a State, like the gestalt “Leviathan” pictured on the cover Thomas Hobbes’s book by that name.

E pluribus unum.As Bourne put it:

“War sends the cur­rent of purpose and activity flow­ing down to the lowest lev­els of the herd, and to its re­mote branches. All the activities of society are linked together as fast as possible to this central purpose of making a military offensive or military defense, and the State be­comes what in peace­times it has vainly struggled to be­come—the inexorable arbiter and determinant of men’s businesses and attitudes and opinions.”The herd is mobilized, not only against the foreign foe, but against any dissidents within the group who resist assimilation into the Borg-like hive- or herd-mind and who refuse to join the swarm or stampede into war: in other words, against “enemies foreign and domestic.”

Resistance is futile. You will be assimilated.As Bourne explained:

“The State is a jealous God and will brook no rivals. Its sovereignty must pervade every­one and all feel­ing must be run into the stereo­typed forms of romantic patriotic militarism which is the traditional expression of the State herd-feeling. (…) In this great herd-machinery, dis­sent is like sand in the bearings. The State ideal is primarily a sort of blind animal push to­wards military unity. Any interference with that unity turns the whole vast impulse to­wards crush­ing it.”The State crushes dissent through Government policies restricting civil liberties, but also through private citizens acting as “amateur agents” of the Government: who berate skeptics into silence, report critics to the authorities for “disloyalty,” or even take the security of Herd and Homeland into their own violent hands. Remember that in Bourne’s framework, the Government is by no means identical with the State. As such, the State can animate a private citizen even more than it does an officeholder. As Bourne remarked:

“In every country we have seen groups that were more loyal than the King—more patriotic than the Government—the Ulsterites in Great Britain, the Junkers in Prussia, l’Action Francaise in France, our patrioteers in America. These groups exist to keep the steer­ing wheel of the State straight, and they pre­vent the nation from ever veer­ing very far from the State ideal.”This an extremely apt description of the Fox News types who castigate Barack Obama for his lack of “patriotism” and the insufficiency of his war-making. The spirit of the State dwells within Sean Hannity even more so than it dwells within the President of the United States. What is ironic is that a war-drumming jingo like Hannity usually imagines himself a paragon of manhood; yet his dull, stampeding herd mindset marks him out as less of a man, and more of a beast.
Randolph Bourne was not a libertarian, but a dissident progressive. Still, we libertarians can learn a great deal from him. For instance, perhaps our terminology, as penetrating and illuminating as it is, has led us to focus too much on the herdsmen in office who drive, shear, milk, and butcher us, and not enough on the more fundamental problem: our society’s bovine propensity to become a manipulable herd in the first place, especially when spooked. Occasionally thinking in terms of Bourne’s typology can be a useful corrective in this regard.
Bourne’s terminology and analysis also shed light on the all-important question of how to achieve liberation. The Statelives in the minds of the Government’s victims. Simply overthrowing a Government will only spook the herd even worse. The State will not only survive such an overthrow, but it will likely even feed off of it, as the panicked herd acts even more herd-like in the crisis, granting new herdsmen even more tyrannical power than the old ones had.
The State is a state of mind; it is the herd mindset itself. As such, it can only be overthrown in the battleground of the mind. Once the State is spiritually dethroned and the populace fully transfigures from herd to civilization, the “Government,” like a shepherd without a flock, will no longer even merit its designation. It will then merely be a heavily armed, but even more heavily outnumbered, gang of rustlers writ small.
Accomplishing this becomes ever more urgent as Americans are driven into ever more calamitous wars, even after electing a “peace” candidate as President. It is increasingly apparent that breaking the spell of the State that turns men into beasts may be the only way we can avoid being driven to self-destruction by alarmist warmongers and their terrorist symbionts, like buffalo being stampeded off a cliff by herd-spooking hunters.

chốn thân thiết ấy




-the hanged man-

một lối đi
thế giới ồn, những câu chuyện lớn, những sự kiện bộn bề, mình ngồi lại cùng nhau, vắng vẻ, ánh nến phập phồng, dăm diễn đạt lẻ loi, mơ hồ, kì cục, những sợi tóc rụng trong sự quên lãng của kí ức.

đâu phải dễ dàng: lựa chọn trở nên riêng tư, thậm chí bảo bọc, nuôi dưỡng, làm nảy nở cái riêng tư ấy, không thuận chiều, không tự hoại trong những trật tự thiết lập sẵn, chịu đựng và nhất định không phải kẻ cam chịu.

người có dám đối mặt với nỗi vô vọng này: tin và kiếm tìm chiều sâu và ý nghĩa của sự sống và nghệ thuật. có gì sâu hơn bề mặt, có gì ý nghĩa hơn nỗi hư vô? có gì tha thiết hơn những kí ức chấn động, những tưởng tượng không đáy đùa chơi, những từ ngữ xa lạ mở lối, những trang viết tự cất lời?

đây, những bờ vực cheo leo, những lối nghĩ hẻo lánh, những hiện diện chực thương tổn nhưng không làm ra tội nghiệp, những tiếng nói tự từ chối thẩm quyền, từ chối gửi thông điệp, những nỗi bận bịu kháng cự sức quyến dụ của ham muốn đạt năng suất, lợi ích, sự sáng rõ của các vấn đề, sự trói buộc dễ chịu của các ý tưởng.

có thể là một lối đi: không chỉ cá nhân, nghệ thuật, thơ ca trở nên thiết thân hơn, riêng tư hơn, riêng tư hơn nữa.



nỗi sợ các ranh giới

để có cảm giác an toàn hơn, ta phải xây thêm một số bức tường. ta sẽ chỉ đi những lối đã mở, những con đường đã sáng đèn, những hướng rẽ hẳn sẽ đến được nơi nào đó.

tránh xa cuộc đi sâu hút vào cõi riêng lẻ và ngôn ngữ đẫm bóng tối này, tránh xa trải nghiệm và thể nghiệm, vì người sẽ chẳng tới nơi nào cả.

đừng khám phá điều bí nhiệm này: mọi ngôn ngữ gặp nhau nơi điểm giao cắt nối bầu trời và đại dương, ta tưởng nhìn thấy lằn ranh, nhưng lằn ranh đó luôn tự xóa dần chính nó cùng thủy triều và ánh sáng. hiện diện của thơ, ở điểm giao cắt đó, xóa đi ảo giác về các đường kẻ. thơ, ở điểm giao cắt đó, không còn bận bịu về bản gốc và bản dịch, chỉ mời gọi một sự đọc được chia sẻ giữa các ngôn ngữ, và không vẽ thêm những đường ngăn các trái tim.

tôi nghĩ xa xôi về tiếng Việt, trong nỗi hi vọng mong manh bền bỉ về điểm va chạm và giao cắt thiết yếu giữa bầu trời và đại dương ấy. một thứ tiếng Việt thơ, như mọi ngôn ngữ thơ, không chịu sự chi phối và điều khiển của những ý thức hệ mang tham vọng gia cố thẩm quyền, thậm chí độc quyền, những ý thức hệ có thể luôn nằm sẵn trong đời sống ngôn ngữ ta, đòi đóng khung ta trong những ô cửa sổ chật chội. một thứ tiếng Vệt thơ nơi người viết và người đọc nỗ lực không hiến mình vô tội cho những khuôn khổ, không ngừng tra hỏi, về chính những khuôn khổ, về khả năng rời bỏ và không thuộc về những khuôn khổ ấy.

tại sao khi nghĩ về các ranh giới, tôi luôn nghĩ về tình yêu, hay ngược lại, nghĩ về tình yêu, để nghĩ về các ranh giới. tình yêu, cùng lúc, đói khát đam mê và khao khát tự do khỏi những trói buộc xúc cảm, đòi hòi được có nhau và đòi thủ tiêu các dạng quan hệ sở hữu quyền lực, chất vấn không ngừng về các khả năng của việc xóa bỏ, vượt qua hay sống trong/ngoài/cùng các ranh giới.

khoảng chơi của những người sống cùng ngôn ngữ: nỗi cô đơn và sự can đảm đi qua các ranh giới nơi nơi sẵn bày.

có thể là một lối đi: không chỉ cá nhân, nghệ thuật, thơ ca trở nên thiết thân hơn, riêng tư hơn, riêng tư hơn nữa, để vào sâu hơn nữa.

cuộc chuyện trò bất tận
khi người phơi bày chốn riêng tư thân thiết ấy, tôi sẽ e dè: ngần ngại, thôi bước vào, để có cảm giác an toàn xa cách, hay bước vào, để nhận về nỗi lạ lẫm hồ nghi. bước vào, trở thành một hành vi vượt qua nỗi sợ không chia sẻ được, mở ra một khả năng dung nhận.

một cuộc trò chuyện có thể mở ra trong bóng tối và mở vào tiếng thầm thĩ của những kết nối lặng lẽ trong dư vị của thưởng thức. nhu cầu đối thoại [thơ] tự nó chối bỏ những dạng thức nói năng được định vị. nhiều hơn, hay đơn giản là, bày ra, gom góp vào, không gian này, một hiện tồn, một trạng huống. để làm gì, cho ai? có thể chỉ để nương náu trong đôi trái tim bè bạn, được giữ lại bởi đôi kẻ yêu thương. thơ không từ chối trò chuyện, mà từ chối tính mục đích của trò chuyện, để không bị chi phối bởi cảm hứng sửa chữa và can thiệp vào đời sống khác, không bị ám bởi tham vọng truyền bá, ảnh hưởng, để luôn là khơi gợi và mời gọi và thử thách và tự do, để không ám ảnh sứ mệnh làm mũi tên tranh đấu đòi hỏi một thứ quyền lực siêu hình nào đó.

bày ra đó, thì khả năng, tiềm năng, sự hiện hữu hoá những đối thoại đôi khi chỉ trông đợi mong manh những hiếm hoi của vô tình gặp gỡ. thậm chí, trớ trêu, luôn chỉ còn là hồi ức về những gặp gỡ hiếm hoi ấy, những khoảnh khắc tự giải thoát khỏi mọi diễn giải.

bày ra đó, tự do, trần trụi, hẳn nhiên phải ôm mang nỗi cô đơn và khả năng thương tổn. ôm mang cái không thể ôm mang.

tự do tới mức nào, trần trụi tới mức nào, cô đơn tới mức nào, đam mê tới mức nào, ngây thơ tới mức nào, để không nương bám vào đâu cả, không trông đợi vào một điểm dừng và được lang thang nhiều hơn nữa.

ta gọi là giá trị, không phải một công việc, mà một con người. không phải những đặc quyền, những tiêu chuẩn của sản phẩm mà là những trải nghiệm, những phá dỡ.

có thể là một lối đi: không chỉ cá nhân, nghệ thuật, thơ ca trở nên thiết thân hơn, riêng tư hơn, riêng tư hơn nữa, để vào sâu hơn nữa, tới trơ trọi.

đi lạc

đứa trẻ tò mò rời nhà vào rừng sâu, muốn trải nghiệm đời sống một người rừng. cậu hăm hở và háo hức. cậu vừa phiêu lưu vừa sợ hãi. cậu gọi to lên, nhưng chỉ nghe thấy tiếng vọng của mình. những bước chân mỗi lúc một bồn chồn tìm đường quay lại.

cậu bé lớn lên, không quên giấc mơ – hiện thực thơ ấu, nhưng cậu chỉ còn tìm trong kí ức, đáy tủ, những giấc mơ cũ, những giấc mơ dường như mỗi lúc một bất khả và xa xôi.

một thứ nghệ thuật cuối cùng có thể chỉ còn là giấc mơ về nghệ thuật. nhưng phải chăng giấc mơ đó – cái hiện thực đó không đáng giá, cái mơ mộng đáng giá ấy, và cả thực hành đi lạc của cậu bé như một nỗ lực phơi bày những khả thể?

một tác phẩm nghệ thuật, một bài thơ như thể mãi trôi dạt, một cái gì không bao giờ định hình dù có khối hình riêng biệt, một đám mây vừa trôi vừa đổi dạng. nó không cam kết về sự hoàn tất một tiến trình, không khởi đầu, không kết thúc, hay nó là cái khởi đầu từ chỗ khởi đầu và kết thúc ở điểm dừng của nỗi chờ đợi. nó là cái không kết thúc nổi nhưng cũng không vì thế mà không hoàn tất. nó bỏ lại đằng sau, chuyển hoá, lui vào bên trong, bay lượn, không thể nắm bắt.

sự chờ đợi là vô vọng: đừng kì vọng những kẻ viết này, hắn vẫn ở đó, mà luôn chốn khác, gương mặt đấy mỗi lần gặp lại là một gương mặt khác, hắn không bao giờ hoàn toàn lộ diện dù không ngừng phơi bày và tự phơi bày. khi ta dường như chạm vào hắn, tìm thấy hắn, thì hắn bắt đầu sợ hãi, hắn sợ bị tìm thấy, hắn sợ mất tự do, cả khi những va chạm kia có thể cũng vô ích và vô cầu như bản thân hắn vậy.

có thể là một lối đi: không chỉ cá nhân, nghệ thuật, thơ ca trở nên thiết thân hơn, riêng tư hơn, riêng tư hơn nữa, để vào sâu hơn nữa, tới trơ trọi, tới lạc lối, tới vô định.

cơ thể tôi viết

cả khi tôi ngừng viết, cơ thể tôi vẫn tỏ bày. năng lượng dư dả trữ đâu đó, dưới các múi cơ, trong máu chảy, trôi theo những tế bào chết.

tôi không hét vào khoảng trống để tự thỏa mãn mình. nghệ thuật và thơ ca, hay tình yêu, không bao giờ giản đơn là sự thỏa mãn, bởi nó không bao giờ đem lại sự thỏa mãn. bày ra đó, những đốm lửa hi vọng, những nút thắt nối của các cơ hội, những khả thể bập bềnh của tình yêu và sự cùng nhau, những cơn đói gọi những cơn đói, những cơ thể ôm ghì nhau, ôm ghì kí ức, một cuộc thoại nơi đáy vực vô đáy, ta có thể đi xa và đi sâu tới nơi nào đó, tới không nơi nào, những nỗ lực chia sẻ, cùng nhau, cô đơn cùng nhau, thậm chí, cùng đi vào bóng tối, nuôi dưỡng giấc mơ nơi bóng tối và ánh sáng hòa làm một thành bản thể ta, trọn vẹn.

thơ tự khám phá, tự phơi bày, tự tiết lộ thân phận, và mời gọi phơi bày trong ngôn ngữ, theo những cách ta chưa sẵn sàng đón đợi.

thơ, ở đó, đâu đó, chờ đợi các cơ duyên, thường khi là vô vọng, nhưng không chịu kiệt sức: mở ra một lối đi mù mịt bất định, và người cùng tôi dạo chơi trên đó.

có thể là một lối đi: không chỉ cá nhân, nghệ thuật, thơ ca trở nên thiết thân hơn, riêng tư hơn, riêng tư hơn nữa, để vào sâu hơn nữa, tới trơ trọi, tới lạc lối, tới vô định, tới sự bay bổng.

Jan, 16th, 2015
Nhã Thuyên

(bài viết mở đầu cho bản thảo tập thơ tôi vừa hoàn thành, cũng chưa biết sẽ làm gì với nó/nó được -bị làm gì:) .văn bản sớm hơn của bài viết này đã đăng trên Tia Sáng với nhan đề Chốn thân thiết, Xuân ẤT Mùi 2015. ở đây, tôi sửa sang chút.)

Bị cầm tù bởi quá khứ


Do nhu cầu làm báo, mấy chục năm liền trước khi về hưu, tôi thường phải đọc lại báo chí tiền chiến ngày Tết để làm hàng phục vụ người đón xuân thời nay.

Nay đã đến lúc đọc lại chính cái viết về Tết của thời mình – tức là các bài báo tết từ sau 1945 tới nay, nhất là từ sau 1975 --, ấn tượng chính còn lại trong đầu óc tôi là một sự khác biệt:-- người viết văn viết báo tiền chiến thường đứng trên góc độ của con người hiện đại, trở về với dân tộc hết sức thiết tha, nhưng bao giờ cũng có sự phê phán. Hoặc nếu không thì cũng cảm thấy quá khứ là một cái gì tốt đẹp nhưng đã vĩnh viễn qua rồi không bao giờ còn trở lại nữa, người ngày nay phải sống khác.

Nguyễn Công Hoan, Tú Mỡ .. là những người nói đến cùng cái tầm thường dung tục của cách ăn tết ngày xưa.

Còn Thạch Lam mở ra một cách nhận thức mẫu mực, vừa thấy nét đẹp cổ điển của Tết, vừa khẳng định rằng thời đại của những cái Tết cổ truyền đã qua xã hội đang tìm tới cách đón tết thời cũ chưa từng biết.

-- Trong khi đó, nhiều bài báo Tết thời nay gần nhau ở cái điểm phục cổ: chỉ thuần một giọng ca ngợi những cái Tết xưa, ra cái điều rằng ở đó tất cả là tốt đẹp, chúng ta phải gắng làm theo, không cần cải tiến thay đổi chi hết.

Không những đối với Tết mà với nhiều phong tục tập quán thời xưa, chúng ta cũng có thái độ như vậy.

Lý tưởng hóa quá khứ đang là khuynh hướng bao trùm tâm lý con người, chi phối sự phát triển xã hội.

Đáng lẽ phải thấy quá khứ có nhiều khuôn mặt thì ta lại chỉ cho nó có một khuôn mặt duy nhất. Trong khi giải quyết các vấn đề xã hội ta chỉ nhăm nhăm dựa vào những kinh nghiệm trong quá khứ coi đó là thư thuốc bách bệnh.

Tôi tự giải thích về tình hình ấy như sau:

Chiến tranh 
kéo chúng ta lại Sự kiện lớn nhất chi phối đời sống gần ba phần tư thế kỷ nay vẫn là chiến tranh ba mươi năm.

Trước chiến tranh, chúng ta có một xã hội đang hiện đại hóa mà do chỗ nó được tiến hành dưới sự bảo trợ của người Pháp nên chúng ta vẫn không chịu công nhận nó là văn minh tiến bộ, vẫn xem xã hội đó không phải là của mình.

Nếu được gọi sự vật bằng cái tên của nó, phải nói cuộc chiến tranh mà chúng ta tự nguyện tiến hành đã đập vỡ cái xã hội ấy ra. Chỗ này chỗ kia có thể khác, nhưng trên đại cục thì xã hội trước 1945 đã bị giải cấu trúc. Hệ thống quốc gia được tổ chức theo kiểu một đạo quân và hậu phương của đạo quân đó tuy còn gọi là xã hội song chỉ còn là cái vỏ ngoài, ngoài những bộ phận bảo đảm cho hàng ngũ người mặc áo lính chiến đấu, thì mọi thiết chế khác đều đã phá sản.
Cái xã hội đi dần sang hướng hiện đại thời Pháp thuộc bị chúng ta đơn giản hóa và đưa nó về tình trạng tiền hiện đại. Trong bộ phận chủ đạo, bộ phận sau này trở thành bên thắng cuộc, có người hiểu cái giá mình phải trả, nhưng vì nhu cầu trước mắt không thể làm khác. Mọi lý lẽ được huy động để chứng minh việc trước mắt là duy nhất đúng.

Hiểu biết 
Sau chiến tranh mặc dù tuyên bố là đặt mình vào công cuộc phát triển, nhưng thế nào là phát triển thì chúng ta không biết.
Cái khuôn mẫu mà sau chiến tranh chúng ta muốn xây dựng chỉ là khuôn mẫu mà chúng ta đã phá, thậm chí về nhiều mặt đưa tới tình trạng tiền hiện đại như trên vừa nói. Mọi sự gọi những là hội nhập là ra với thế giới chỉ là trong thế bức bách phải làm. Đội quân cũ được phân công đi làm kinh tế đi làm giáo dục. Mọi khái niệm về văn minh văn hóa chi phối con người sau chiến tranh chỉ là những cái thời tiền chiến ta còn nhớ được, cộng với những cái mới lõm bõm học được từ nước ngoài. 

Niềm tin
Không chỉ có cách sống mà cả trong tư duy, ở những con người từng hết lòng vì chiến tranh cũng thấy có sự trở lại với những khuôn khổ của cái tư tưởng đã hướng dẫn người ta làm cuộc chiến tranh. Khía cạnh thứ nhất, mà cũng là khía cạnh bao trùm trong suy nghĩ con người lúc này: quá khứ là muôn vàn tốt đẹp.
Chỉ có quá khứ có giá trị.
Tương lai sẽ giống như quá khứ, trên cái mạch của quá khứ.
Lẽ tự nhiên một tâm thế nhất quán là sự sùng bái quá khứ được hình thành. Từng con người tự nguyện sống lại quá khứ, mà cả xã hội cũng không mong mỏi gì khác.

Trong chiến tranh cả xã hội sống bằng một niềm tin trung cổ kiểu như “chân cứng đá mềm” “có công mài săt có ngày nên kim”, “Dù có bao nhiêu gian khổ, chính nghĩa sẽ thắng”.

Khi sự kiên trì giữ vững niềm tin đó được kết thúc bằng một sự kiện mà ta ao ước và gọi chung là chiến thắng thì cũng là lúc tâm trí chúng ta đã đông cứng lại trong một niềm tự tin cao độ, rất gần với sự tự lừa dối.

Ta tin tưởng rằng đã đánh nhau được thì làm gì cũng được. Vốn đã quá mệt mỏi vì chiến tranh chúng ta không muốn tìm tòi gì nhiều. Tương lai tìm trong quá khứ một hình bóng phát triển duy nhất. Mọi cảm tình được dành cho quá khứ, cái quá khứ bị lý tưởng hóa và chỉ có một nghĩa duy nhất. Một cách tự nhiên, những con người hậu chiến thực ra đã trở lại với cái nếp sống trung cổ lúc nào không biết. Mọi phương tiện được huy động để phủ lên sự nhốn nháo bên trong một vẻ ổn định bề ngoài.

Đã từng có những cách nghĩ khác Không chỉ riêng ta, nhiều cộng đồng khác, nhiều dân tộc khác, nhất là những dân tộc từng có một quá khứ anh hùng cũng đang trong một tình trạng dằng xé như vậy. Chẳng hạn như ở nước Nga. Ở bên ấy, cả trong thời xô viết lẫn thời gian sau 1991, sức níu kéo của quá khứ đều khủng khiếp. Để biện hộ cho sự trì trệ trong tư duy, người ta lớn tiếng lên án những kẻ muốn thay đổi, cho đó là sự vong ân bội nghĩa.

Và sự bảo thủ đã được đúc kết thành những câu nói có cánh. Như cái câu mà người ta thường bảo là của Rasul Gamzatov "Nếu bạn bắn vào quá khứ bằng súng lục, thì tương lai sẽ bắn vào bạn bằng đại bác" .
Trong khi đó, trong một bài bình luận chính trị gần đây, bài Những xiềng xích của lịch sử Đông Á (http://nghiencuuquocte.net/2015/01/26/nhung-xieng-xich-lich-su-cua-dong/ ) tôi thấy tác giả Brahma Chellaney dẫn lại một câu ngạn ngữ : “Quên đi quá khứ thì mù một mắt, sống trong quá khứ thì mù cả hai”.
Mà đó lại là một câu ngạn ngữ của chính người Nga.

Ở ta cũng có tình trạng tương tự. Chúng ta có một xã hội ta chỉ chấp nhận có một cách nghĩ của đa số, xem đó là cách nghĩ duy nhất, còn mọi ý tưởng xa lạ với cái chính thống đó, nếu không bị phê phán thì cũng bị bỏ qua. Cách làm lịch sử lại cũng theo kiểu đó mà tiến hành. Khi đọc lại sách báo cũ, những người làm sử hiện đại chỉ chọn ra những gì hợp với thời mình, minh họa cho “giai điệu chính” đang được mọi người công nhận. Còn như mọi ý nghĩ ngẫu nhiên bột phát có thể không đúng trong tình hình ấy song lại đúng về sau - thì chẳng ai buồn nhớ.

Với một sự sáng suốt và phục thiện tối thiểu, mọi người chúng ta -- tôi tin là vậy - đều có thể tìm ra trong ký ức của mình những điểm sáng mà lâu nay bị gọi là lạc dòng nên đẩy vào trong quên lãng. 
Phần tôi, dưới đây tôi dẫn lại một bài thơ của nhà thơ Xuân Quỳnh làm trong khoảng thời gian tạm gọi là mười năm đen tối 1975-1985.
Vào một dịp khác tôi sẽ đặt bài thơ trong quá trình phát triển của xã hội hậu chiến và sự phát triển tư tưởng của tác giả; ở đây chỉ xin nêu lên một khía cạnh chủ yếu mà nhà thơ -- trong khi bám chắc vào cách dẫn dắt của một bài thơ tình — thật ra đã chạm tới cả một vấn đề lớn làm nên định hướng của xã hội:

-- công nhận là quá khứ tốt đẹp thật nhưng trong đó rất nhiều điều ngây ngô đơn giản và nếu làm lại ta sẽ chẳng làm như thế.

-- dù quá khứ tốt đẹp đến đâu thì nó cũng không phải là cái mẫu chúng ta làm theo. Mỗi thời mỗi khác, chúng ta phải biết tự khác đi trong hoàn cảnh.

CÓ MỘT THỜI NHƯ THẾ


Có một thời vừa mới bước ra
Mùa xuân đã gọi mời trước cửa
Chẳng ngoái lại vết chân trên cỏ
Vườn hoa nào cũng ở phía mình đi.

Đường chẳng xa, núi không mấy cách chia.
Trong đáy mắt trời xanh là vĩnh viễn
Trang nhật ký xé trăm lần lại viết
Tình yêu nào cũng tha thiết như nhau.

Có một thời ngay cả nỗi đau
Cũng mạnh mẽ ồn ào không giấu nổi
Mơ ước viển vông, niềm vui thơ dại
Tuổi xuân mình tưởng mãi vẫn tươi xanh

Và tình yêu không ai khác ngoài anh
Người trai mới vài lần thoáng gặp 

Luôn hy vọng để rồi luôn thất vọng
Tôi đã cười đã khóc những không đâu
Một vầng trăng niên thiếu ở trên đầu
Một vạt đất cỏ xanh rờn trước mặt...

Mái tóc xanh bắt đầu pha sợi bạc
Nỗi vui buồn cũng khác những ngày xưa
Chi chút thời gian từng phút từng giờ
Như kẻ khó tính từng hào keo kiệt
Tôi biết chắc mùa xuân rồi cũng hết
Hôm nay non, mai cỏ sẽ già.

Tôi đã đi mấy chặng đường xa
Vượt mấy núi mấy rừng qua mấy biển
Niềm mơ ước gửi vào trang viết
Nỗi đau buồn dồn xuống đáy tâm tư

Em yêu anh hơn cả thời xưa
(Cái thời tưởng chết vì tình ái)
Em chẳng chết vì anh, em chẳng đổi
Em cộng anh vào với cuộc đời em
Em biết quên những chuyện đáng quên
Em biết nhớ những điều em phải nhớ

Hoa cúc tím trong bài hát cũ
Dẫu vẫn là cung bậc của ngày xưa
Quá khứ đáng yêu, quá khứ đáng tôn thờ
Nhưng đâu phải là điều em luyến tiếc.

Bài thơ làm 11-1984, in lần đầu trong số tết của báo Phụ nữ Việt Nam 1985 và có in lại trong các tuyển tập của tác giả, nhưng thường ít được chú ý. Ngày nay, người ta có xu hướng coi Xuân Quỳnh xa lạ với các vấn đề xã hội và chỉ là nhà thơ của tình yêu.

Vương Trí Nhàn

Phạm Thành (Bà đầm xòe) – Đứa con bất trung, bất hiếu và bất kính



Trên trang Bà Đầm Xòe của nhà văn, nhà báo Phạm Thành có bài: “Chẳng biết bậc sinh thành có đau bướm, đau buồi không?”, nói về sự kiện hôm 14/3/15 tại đài tưởng vua Lý Thái Tổ.

Không thể tưởng tượng nổi, một nhà văn, một nhà báo đã từng công tác tại VOV lại có thể có một bài tục tĩu, mất dạy đến thế. Cái mất dạy tới mức không thể chép nguyên văn vào đây. Các bạn tò mò có thể bấm vàolink này để đọc.

https://badamxoevietnam2.wordpress.com/2015/03/18/chang-biet-bac-sinh-thanh-co-dau-buom-dau-buoi-khong/

Nội dung bài viết lên án các bạn DLV “ngăn cản” những “người yêu nước” tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ Gạc Ma theo cách bọn vong nô phản quốc vẫn làm.

Trong trường hợp này, Phạm Thành cũng như Xuân Dương của báo Giáo dục Việt Nam, có mắt mà như mù hoặc giả mù để la hét chửi bới xã hội.

Phạm Thành hỏi: Không biết các bậc sinh thành ra những cháu này có đau bướm, đau buồi không khi nhìn thấy sản phẩm của mình vừa ngu, vừa dại, vừa phản bội lại Nhân dân, Tổ quốc như vậy?

Chị nghĩ, câu này phải hỏi lại những kẻ như Phạm Thành và đám tưởng niệm trá hình kia mới đúng.

Vào ngày 14/3 hôm đó, chị không biết Phạm Thành đã ở đâu mà nhìn nhận sự việc một cách hồ đồ và đưa ra những nhận xét đầy xúc phạm như vậy? Là một nhà văn, là một phóng viên, được đào tạo bài bản, đã từng kinh qua quân đội, chị chắc Phạm Thành cũng được hiểu rằng, khu vực tượng đài vua Lý Thái Tổ là không gian công cộng, là nơi tưởng niệm đức Vua Lý Thái Tổ. Xét về góc độ pháp lý, nếu các tổ chức, hội nhóm nào muốn tổ chức sự kiện thì phải có sự cho phép bằng văn bản của cơ quan quản lý, phải có người đại diện và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình. Trong trường hợp bình thường, mọi người đều có quyền tiếp cận. Phạm Thành và đồng bọn có quyền mang hoa đến để “tưởng niệm” và chị đây có quyền thắp nén nhang. Nhưng nếu hắn mang những thứ rác rưởi đến đó thì chị đây cũng sẵn sàng úp ba ba vào mặt những kẻ mất dạy đó.

Việc biết ơn, tưởng nhớ đến các AHLS là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Chúng ta tôn trọng những người thành tâm, và giúp đỡ họ hoàn thành tâm nguyện. Nhưng những người có lương tri không thể ngồi im nhìn đám “giả danh tưởng niệm” mang những thứ rác rưởi tượng đài nhà vua để gây sự với người dân và chính quyền.

Đám lưu manh mà Phạm Thành, Xuân Dương gọi là “yêu nước” đã mang những gì đến để tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ?

Phạm Thành, Xuân Dương, Võ Hải hãy to mắt ra mà nhìn, những băng rôn có nội dung xuyên tạc sự hy sinh của các Liệt Sỹ hy sinh tại Gạc Ma, bôi nhọ hình ảnh người chiến sĩ QĐNDVN, làm đau lòng thân nhân gia đình các Liệt Sỹ, ảnh hưởng đến tâm tư của các chiến sĩ đang làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ Quốc…

Chúng là lũ bất nhân, bất hiếu, bất trung và bất kính.







Là bậc làm cha làm mẹ, chị chỉ sợ các cháu si cuồng với các ngôi sao xa lạ, say sưa với văn hoá ngoại lai, sợ các cháu ăn “bánh vẽ”, sợ các cháu nhận vài đồng đô la của những thế lực đen tối ngoại bang, bán rẻ lương tâm làm những điều xấu với tổ tiên họ hàng, có lỗi với cha anh. Còn giờ thấy các biết phản ứng trước những kẻ lợi dụng xương máu các AHLS nhằm mục đích xấu, biết đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc của các thế lực đen tối, góp phần giữ bình yên cho đất nước là chị thấy vui.

Chị không xấu hổ khi sinh ra các cháu, chị ủng hộ việc làm của các cháu. Dẫu rằng, hành động của các cháu còn có điều chưa đẹp mắt, nhưng chị rất tự hào khi cháu đã dám đối đầu với cái ác, tuyên chiến với đám bất lương.

Có con như thế cũng mát lòng mát dạ.

Chị sẽ cảm thấy vô cùng nhục nhã, khi có đứa con ngỗ ngược, bất hiếu bất trung và bất kính như Phạm Thành.

Mong các bạn bỏ qua, chị nghĩ hắn chui ra từ “lìn tru”* mới có não trạng như vậy.

Nhớ bài viết của Phạm Thành, chị bất giác tự hỏi, cha mẹ Phạm Thành sẽ cảm thấy thế nào khi đứa con mình đứt ruột đẻ ra đã làm những việc ô nhục đến thế này chỉ để kiếm vài ba cắc lẻ, vả vào mồm từ đám cáy Việt Tân và đám cờ vàng ba sọc?

Ong Bắp Cày

Thứ Ba, 7 tháng 4, 2015

Bất chợt


Tác giả: Kim Dung/ Kỳ Duyên
.
.
Không muốn nhớ mà sao rất nhớ
Chút niềm riêng giấu kín trong lòng
Hệt hư ảo cánh rừng lẩn khuất
Gió bên Đoài lại thổi tận bên Đông (*)
Thu chưa tới và xuân còn rất mới
Lúng liếng chồi non lúng liếng đòng đòng
Con thuyền ấy ngày xưa lãng đãng
Để cánh buồm lúng liếng ngóng bến sông
Không muốn hỏi mà sao muốn hỏi
Chút gì xưa vẫn nguyên vẹn giữa bộn bề
Đời phiêu bạc cho hai ta thành xa lạ
Trở về rồi sau khao khát uống cạn nước sông Mê (**)
Trở về với chính ta 
sau ngộ nhận viển vông ấu trĩ huyễn hoặc con đường hoa
sau bão giông cay đắng khổ ải xót xa
Bất chợt gặp nhau lặng thầm hạnh ngộ
Mừng mừng tủi trong ráng chiều rực đỏ
Một thu xưa nở muộn giữa xuân này
Chùm sầu đông dịu nhẹ mây ngàn say…
——-
(*) Mượn ý thơ của Chế Lan Viên
(**) Mượn ý tên cuốn tiểu thuyết của nhà văn Phạm Toàn

Con Bạch Tuộc Kỹ Nghệ Chiến Tranh: Do Thái Tại Anh Quốc



Không chỉ tại Mỹ quyền lực Do Thái mới bao trùm, Nó bao trùm khối quốc gia Anh ngữ ky tô giáo (Five Eyes).Anh, Mỹ, Úc, Gia Nã Đại, và Tân Tây Lan- và xuyên suốt cả khối Âu Châu.

Ám dụ


Anh đã đi qua những giọng người trùng trùng. 
Cơn mưa cũ kỹ, bài thánh ca mang hình chuông, bóng ngày trượt ngã.
 Anh đã ngồi giải đi giải lại những bất phương trình của sự vô nghĩa, nhưng bất trắc của cuộc sống nào có báo trước điều gì.

Sáng nay những đám mây nhận được điều lệnh từ sự thay đổi thời tiết, những oi nồng mùa hè. 
Cơn viêm xoang như trúng số độc đắc hành hạ cái đầu bằng cơn đau mọc rễ trong âm u phỏng sinh cho một sự tự do mới.
 Anh đang nghĩ về một điều gì đấy của cơ hội.
 Em đang nhận lấy một cơ hội hay chỉ là một chiến binh lạc lối giữa cuộc diện này.

Khi đức tin màu đỏ đã trở nên thẫm đen như miếng tiết khô.
 Màu hoa loa kèn không còn buồn như năm ngoái, người nữ tù trở nên cô đơn trong phế tích hình hài lưu cữu.
 Em có thể chặn được bước đi của thời gian bằng một nhát thánh kiếm?
 Ân sủng chỉ là một sự dối trá và bất công bằng.

Khi sự bình an chỉ là những nốt ngộ độc làm bội thực một buổi sáng bằng tiếng chim non hót trong lá xanh trong gió say trong những vần thơ nhẹ bẫng của em.
 Những tiếng chim đã hót từ một triệu năm không bao giờ mất mặt. Đừng mở miệng trong sự băng hoại của ngôn từ khi sự thật đã chết trong những huyền ngôn như con muỗi để lại vệt máu cuối cùng.

Bài thơ anh viết lấm lem mạng nhện và xác muỗi.
 Hơi thở cũ của ngày hôm qua nấp sau chiếc khung lộng kiếng trên tường. 
Những mộng mơ không thật thà chưa bao giờ thật thà.
 Anh vẽ tình yêu vào song trắng. 
Nghe mưa cuộn sóng phai đêm. 
Nơi cơn gió ủ rũ mang lửa mặt trời.
 Mộng mơ gãy cánh. 
Những chiếc lá úp mặt khóc thầm thì để những con chữ tật nguyền mang dối trá bay lên.



Phương Uy

Ba nhà thơ nữ Hoa Kỳ



Hoàng Hưng chuyển ngữ.

Ba bài thơ giới thiệu dưới đây trích từ Tuyển tập thơ hay hàng năm của Mỹ.



Alice B. Fogel

A. B. Fogel sinh năm 1954 tại New York, dạy học tại Đại học New Hamsphire. In thơ từ 1993. Thi khôi bang New Hamsphire 2014-2019

NHU YẾU

Lũ cừu non không phải thế đâu
Chúng không ngoan ngoãn
Chúng tò mò và hoang dại,
Say đắm mùa xuân
Chúng đáng yêu
và chẳng lặng im khi đói.

Đêm nay con cừu nhỏ nhất trong đám sinh ba
Xé màn bình yên với nhu cầu của nó
Lũ anh khỏe hơn
không cho nó ăn

Tôi là người chăn, chủ trại, là mẹ nó
Tôi sẽ xuống với nó trong đêm
trong chuồng lạnh
và ôm nó vào lòng

Nhưng nó sẽ không nằm im - nó không ngoan ngoãn
Tôi sẽ đứng ở khung cửa mở
Dưới sức nặng của vầng trăng và đám cây đang quan sát, và tôi chăm nó
như đứa con rứt ruột.

Nhưng nó sẽ không yêu tôi - nó không ngoan ngoãn
Hãy uống đi, bé con. Hãy nhận những gì ta có thể cho con.
Đêm nay cả thế giới lảng vảng
quanh chu vi sự sống của con.

Sự phẫn nộ giữ cho con sống
đó là cơ may duy nhất của con
Vì thế ta biết ta phải làm gì
sau lúc cho con ăn.

Ta sẽ khuôn miệng ta theo
những từ gay gắt nhất
kể cả những từ được nuôi dưỡng trong im lặng.

Ta sẽ đâm thủng bằng lời mọi lỗ tai
chịu sức ép của không khí thoáng đãng

Ta sẽ không ngoan ngoãn.

Các người nhớ đến ta vì ta có nhu cầu
được hy vọng nhiều hơn sợ hãi
vì ta gào lên những cái tên khủng khiếp

Ta phải gào lên
như con cừu đói, gào lên
đủ đánh thức những con sói trong đêm

Không ai được phép ngủ.





Lucia Maria Perillo

Lucia Maria Perillo, sinh năm 1958 tại New York. Dạy ở Đại học Nam Illinois. "Cuộc đời nguy hiểm" (1989) là tập thơ đầu tay của bà, được giải Norma Farber của Hội thơ Mỹ. Bài "Da" được viết trong bối cảnh dư luận ồn ào quanh cuộc triển lãm ảnh táo bạo của Robert Mapplethorpe ở Cincinnati.

DA

Cho đến nay hình như bất cứ ở đâu một cô gái cởi áo quần ra là cảnh sát có thể tìm thấy cô
đằng sau các xe hơi hay bên những ao đêm tối mịt. Mở ra như một chiếc lá mới vắt ngang
đầu gối một chàng trai, da trắng và căng lên dưới trăng gần như quá kinh khủng, quá đẹp để nhìn, một cái hộp mồi lửa, dẫu cô chẳng hề hay biết.

Nhưng những kẻ đến đây
quạt những cây bấc đêm bằng ánh đèn flash và bắp đùi - họ biết.
Biết về nàng Helen, về việc một thân thể có thể gây ra sự sụp đổ của thành Troy và cái chết của một vị vua hiền như thế nào.

Vì vậy họ sẽ đọc cho chàng trai biết các quyền của chàng và xô anh vào thành xe hai chân giang ra.
Trong khi cô gái nhảy lò cò, chân trần trên nhựa đường còn nóng, choàng một chiếc chăn len cấp cứu.

Đôi khi các cô gái trốn đi để khỏi bị cha đánh, đôi chân trắng loé lên trong lúc chạy.
Và các chàng trai bị còng tận đến khi lằn cả cổ tay, được thả ra cách nhà nửa khối phố.



Trời ơi, đã bao năm tôi tin là thật sự có những đạo luật chống lại những việc như thế, những luật dành cho tuổi thành niên: không thò đầu khỏi xe la hét khi xe chạy qua đường hầm, không đi bộ chân trần,
không hát những bài điên khùng nơi công cộng.

Nếu không, họ có thể nhốt ta vào tù
hay, gần như khép ta vào tội chết, khi mách với cả hai ông cha Công giáo thế tục và thiêng liêng của ta.

Mà trong tất cả những tội ấy, khỏa thân tất nhiên là tệ hại nhất, vì sự phát sáng của da, dù mặt da có lông mượt như nhung hươu,
có thể khiến chẳng những đàn ông mà cả nền văn minh phát điên, có thể dẫn chúng ta tới những sự tàn bạo không thể nói.

Có những bậc cao niên nhờ kinh nghiệm mà hiểu những điều ấy hơn chúng ta.
Và thật thế, khi nhớ ra mình có thứ da ấy tôi bối rối gần phát rồ.

Da mà đến giờ tôi thấy thật giống một bông loa kèn trắng lớn nở xòe trong buổi sáng đầu tiên.



Sophie Cabot Black

Sophie Cabot Black, sinh năm 1958 tại New York City. Cô giảng dạy về thơ trong Chương trình Dịch vụ Công cộng. Giải thưởng John Masefield của Hội thơ Mỹ. Bài thơ "Chất vấn" (Interrogation) là một kinh nghiệm vào lúc cô "bắt đầu cuộc đấu tranh tinh thần chống sự buông thả và nghiện ngập", làm sao cho "cái tự kỷ được xếp lại để tôn vinh hoặc tồn tại cùng kẻ khác".



CHẤT VẤN

Khi anh yêu em, lúc em đứng
áp tường, cái... của em
Bỗng thành bất khả tri, những lời mới lạ
Buột ra, tên anh hai lần nhắc.

Lúc ấy mình không cẩn trọng.
Những thân xác góp tình
Triệt để đi theo những mục tiêu
Của đường thẳng, đường cong, bỗng trở nên

Tình cảm. Ta lang thang trong và ngoài
Miệng nhau. Em vẫn nghĩ rằng
Anh hỏi em gì đó. ánh sáng
Tuôn xuống, treo bên trên chúng mình như một viên đá quý.

Em quên mất những lời vừa nhớ ra để nói
Anh bóp xuyên da em tìm mạch máu, từng ngón
Từng ngón, mắt anh trắng bệch và ngây dại
Mắt em cũng bắt đầu trống rỗng, trở nên

Giống hệt mắt anh, cho đến khi tất cả là
Một con tim, mỗi tiếng đập khiến cho tiếng đập trước lặng im.