Thứ Tư, 19 tháng 11, 2014

Xung Quanh Tác Phẩm:Món Hàng Xuất Cảng Làm Chết Người Nhất Của Mỹ: DÂN CHỦ (America’s Deadliest Export: Democracy)




Viết để:
- Tạ Ơn Tổ Tiên và Các Anh Hùng Liệt Sĩ Của Dân Tộc Việt Nam Cùng Tất Cả Những Ai Đã Góp Công Giữ Nước Và Xây Dựng Nước
- Tặng Các Nhà Dân Chủ & Các Tổ Chức HRW, RFI, RFA, AI, VOAVN, BBCVN




Với một thành tích khủng khiếp về nhân quyền, với chính sách đối ngoại mà kết quả là vi phạm nhân quyền trầm trọng ở nhiều nơi trên thế giới, với những vi phạm nhân quyền ngay trên đất Mỹ, với chính sách chính thức cho phép tra tấn tù nhân v…v… tôi nghĩ “Mỹ, hay những cá nhân Mỹ, bất kể họ là thượng nghị sĩ hay dân biểu, hay những tổ chức của Mỹ như HRW, AI, đều không có tư cách để nói về nhân quyền ở Việt Nam”. Còn những tiếng ỉ eo cất lên trong sa mạc truyền thông của dân Mít ta thì thật sự không đáng nói đến. (TCN)

Vài Lời Nói Đầu

Xin có vài lời về tôi, cái tôi đáng ghét. Cuối tháng Tư năm 1975, tôi và gia đình trở lại nước Mỹ. Năm 1980 tôi nhập quốc tịch Mỹ. Từ 1975 đến khi về hưu năm 1996, tôi đi làm đóng thuế đầy đủ. Đối với nước Mỹ, tôi không có gì phải thù hận hay chống. Tôi được học bổng đi Mỹ học. Tôi tốt nghiệp ở một đại học lớn của Mỹ. Tôi có việc làm tốt trong một đại học Mỹ. Bà xã cũng dạy học ở một trường Trung Học Mỹ. Ba đứa con đều tốt nghiệp đại học Wisconsin-Madison và có việc làm tốt. Tôi không có gì phải phàn nàn và có thể nói tôi rất biết ơn nước Mỹ. Tôi trả ơn nước Mỹ bằng cách sống xứng đáng là một công dân Mỹ tốt, dạy con sống cho đàng hoàng, đừng làm gì để mang tiếng tới người Việt Nam, tôn trọng luật pháp, đóng thuế đầy đủ và luôn luôn cố gắng tiến bộ trong nhiệm vụ của mình để cho người Mỹ khỏi khinh. Đó là cách tôi trả ơn nước Mỹ.


Tôi nghĩ, phát minh ra những vũ khí giết người như người đẹp làm bom áp nhiệt (bomb lady) Dương Nguyệt Ánh không phải là để trả ơn nước Mỹ đã cưu mang, mà thực chất chỉ là góp phần vào tội ác của Mỹ qua chính sách đối ngoại độc quyền (monopoly) của Mỹ như chúng ta sẽ thấy trong một phần sau.. Làm bom giết người để trả ơn, đó là lối suy nghĩ độc nhất vô nhị tôi chưa từng thấy ở trên đời.Sống trên đất Mỹ tổng cộng là hơn 40 năm, kể cả thời gian trước 1975, theo quan niệm của tôi, nước Mỹ có thể nói là một thiên đường hạ giới, đối với những người theo chủ nghĩa cá nhân, chỉ cần mình có đời sống thoải mái, gia đình yên ổn, và sống trong một khu gia cư ít trộm cướp, giết người.. Tôi không ham thiên đường ở trên trời, phải sống muôn đời muôn kiếp với một tên ác quỷ, theo nhận định của James A. Haught, về một Gót trong Cựu Ước. Mỹ là một nước có nhiều cơ hội để con người thực hiện hoài bão của mình, tốt cũng như xấu. Nhưng dù tốt hay xấu, ai cũng có một đời sống vật chất tương đối hơn nhiều nơi khác trên thế giới. Do đó, rất nhiều người muốn được sống ở đất Mỹ. Sau cuộc chiến, không kể đợt đầu khoảng mấy trăm ngàn người, trong đó có gia đình tôi, được Mỹ không vận sang Mỹ, không kể một số trí thức không muốn sống trong cảnh đối đãi kỳ thị của chính quyền mới đối với những người của chế độ cũ, và vì tương lai của con cái đã tìm đường vượt biên, bỏ nước ra đi, đa số thuyền nhân về sau đều thuộc diện kinh tế. Điều này không có gì đặc biệt, cũng như nhiều người dân Mexico, bất kể nguy hiểm rắn rết sa mạc, đói khổ chết ở dọc đường, vẫn tìm cách lẻn sang nước Mỹ bằng những con đường đầy gian nguy, bất trắc.. Cơ hội ở Mỹ giúp tôi tìm hiểu về kết cục cuộc chiến ở Việt Nam, điều đã luôn làm cho tôi thắc mắc. Và tôi đã đọc rất nhiều về nước Mỹ, về Cộng sản, về cuộc chiến và về Ca-tô giáo, vì Nam Việt Nam, từ 1954 đến 1975 có hai vị tổng thống là người Ca-tô. Những gì tôi viết về cuộc chiến tranh, về Ca-tô giáo và về nước Mỹ sau này đều bắt nguồn từ sự hiểu biết qua sách vở này. Chỉ trích Ca-tô là thiên Ca-tô Lẽ dĩ nhiên tôi cũng có nhiều kinh nghiệm bản thân về hai nền VNCH, về cuộc chiến, nhưng những tác phẩm của những bậc thức giả Tây phương, gồm đủ mọi lớp người, từ trí thức khoa bảng đến các vị lãnh đạo tôn giáo v…v… đã giúp tôi hiểu biết thêm rất nhiều. Noam Chomsky đã từng nói: “Nếu anh chỉ trích những tội ác của Mỹ, không phải là anh chống-Mỹ, mà là anh thiên-Mỹ” (If you're criticizing US crimes you're not anti-American, you're pro-American.). Bài viết này cũng viết trong tinh thần “thiên-Mỹ” như trên. Cho nên những bài tôi viết đưa ra những sự thật về tội ác, vô đạo đức của Ca-tô giáo không phải là tôi chống-Ca-tô mà là thiên-Ca-tô (pro-Catholic). Khoan nói đến đám tín đồ Ca-tô thấp kém, ngay cả những bậc được gọi là trí thức Ca-tô cũng không hiểu được điều này. Cho nên, vì cuồng tín, vì được nhào nặn trong vòng sợ sự thật, họ phản ứng qua những thủ đoạn nhiều khi rất hạ cấp như chụp mũ CS, bịa đặt về đời tư cá nhân, nguyền rủa, trù ẻo v…v…. cùng dùng những từ những người hiểu biết không ai dùng. Sau đây chúng ta hãy đi vào nội dung của bài

Món Hàng Dân Chủ của Mỹ





Dân chủ là món hàng xuất cảng của Mỹ được quảng cáo nhiều nhất nhưng trên thực tế đã gây tai hại nhất cho nhiều quốc gia, về sinh mạng con người cũng như về vật chất của cải, vì bao giờ món hàng này cũng có hậu thuẫn của bom đạn làm chết rất nhiều người vô tội, gồm đủ mọi lớp tuổi, từ con trẻ, phụ nữ đến các ông già bà lão, khoan kể đến những sự tàn phá bằng bom đạn trên đất nước. Lẽ dĩ nhiên, những sự tổn thất lớn lao về sinh mạng, về sự tàn phá đất nước, phần lớn là những quốc gia mà Mỹ muốn xuất cảng dân chủ đến phải gánh chịu. Sự tổn thất về phía Mỹ thường không đáng kể trước những tổn thất của các quốc gia mà Mỹ muốn phải nuốt trọn món hàng dân chủ trên đầu môi chót lưỡi của Mỹ, bình phong che đậy cho những mục đích bá đạo sâu thẳm khác của Mỹ, như sẽ được chứng minh qua những tài liệu trong một phần sau. Qua nhiều tài liệu chúng ta cũng thấy rõ sự thật về đạo đức của chính quyền Mỹ, nếu chúng ta chịu khó đọc vài cuốn sách điển hình sau đây của giới trí thức Mỹ: - The Assault on Reason của Al Gore;- American Dynasty: Aristocracy, Fortune, and the Politics of Deceit in the House of Bush và- American Theocracy: The Peril and Politics of Radical Religion, Oil, and Borrowed Money in the 21st Century của Kevin Phillips;- Big Lies: The Right-Wing Propaganda Machine and How It Distorts the Truthcủa Joe Conason;-Lies And the Liars Who Tell Them của Al Franken;-Secrets, Lies and Democracy và Deterring Democracy của Noam Chomsky;-Dark Ages America: The Final Phase of Empirecủa Morris Berman;The President of Good & Evil [mostly evil, TCN]: Questioning The Ethics of George W. Bush của Peter Singer;-Moyers on America của Bill Moyers;-CIA: Secrets of “The Company”của Mick Farren; Selling Out: How the Big Corporate Money Buys Elections, Rams Through Legislation, and Betrays Our Democracy của Mark Green;-Major Problems in American Foreign Policy: Documents and Essays của Thomas G. Paterson; Imperial America: The Bush Assault On The World Order của John Newhouse; American Politics: The Promise of Disharmony của Samuel P. Huntington v…v… Tôi đã đọc 3 cuốn sách của William Blum: - Killing Hope: U.S. Military and CIA Interventions Since World War II (Hi Vọng Trong Sự Giết Chóc: Những Cuộc Can Thiệp Của Quân Lực Mỹ Và CIA Từ Thế Chiến II—Cho Tới 2003) Common Courage Press, Maine, 1995; - Rogue State: A Guide to the World's Only Superpower (Quốc Gia Vô Nguyên Tắc: Một Hướng Dẫn Về Siêu Quyền Lực Duy Nhất Trên Thế Giới) Common Courage Press, 2000; và - America’s Deadliest Export: Democracy: The Truth About US Foreign Policy and Everything Else (Món Hàng Xuất Cảng Làm Chết Người Nhất Của Mỹ: Dân Chủ: Sự Thật Về Chính Sách Đối Ngoại Của Mỹ Và Mọi Điều Khác) Zed Books, London/ New York 2013. William Blum đã từng là một viên chức trong Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, nhưng từ chức năm 1967 để phản đối những gì Mỹ đang làm ở Việt Nam.


Ý tưởng của William Blum về nước Mỹ được gói ghém trong đoạn sau đây trong phần mở đầu cuốn “Rogue State“Rogue State..”:





“Nếu tôi là …Tổng Thống, tôi có thể chặn đứng những cuộc tấn công khủng bố trên nước Mỹ trong vài ngày. Vĩnh viễn. Trước hết tôi sẽ xin lỗi – công khai và rất thành thực - mọi góa phụ và những trẻ mồ côi, những người nghèo và những người bị tra tấn, và tất cả nhiều triệu nạn nhân khác của chủ nghĩa đế quốc Mỹ. Rồi tôi sẽ tuyên bố là các cuộc can thiệp của Mỹ trên thế giới – gồm cả những cuộc bỏ bom đã chấm dứt. Và tôi sẽ báo cho Israel biết là Israel không còn là tiểu bang thứ 51 của liên bang Mỹ mà – lạc lõng thay - là một ngoại bang. Rồi tôi sẽ giảm quỹ quốc phòng ít nhất là 90% và dùng số tiền cắt đó để đền bù cho các nạn nhân của Mỹ. Khi đó sẽ có dư tiền bạc. 330 tỷ đô-la một năm cho quỹ quốc phòng thì tương đương với hơn 18000 đô-la/1 giờ, kể từ khi Dê-su sinh ra đời. Đó là những gì tôi làm trong ba ngày đầu ở tòa nhà trắng. Ngày thứ tư, tôi sẽ bị ám sát.” (If I were president, I could stop terrorist attacks against the United States in a few days. Permanently. I would first apologize – very publicly and very sincerely – to all the widows and the orphans, the impoverished and the tortured, and all the many millions of other victims of American imperialism. I would then announce that America’s global interventions – including the awful bombings – have come to an end. And I would inform Israel that it is no longer the 51st state of the union but – oddly enough – a foreign country. I would then reduce the military budget by at least 90% and use the savings to pay reparations to the victims. There would be more than enough money. One year’s military budget of $330 billion is equal to more than $18,000 an hour of every hour since Jesus Christ was born. That’s what I’d do on my first three days in the White House. On the fourth day, I’d be assassinated.) Lẽ dĩ nhiên William Blum không vào được tòa nhà trắng, nhưng may mắn thay, ông ta cũng không bị ám sát. Cuốn America’s Deadliest Export: Democracy… là một cuốn mà những nhà dân chủ cùng những người ở hải ngoại gửi hết thỉnh nguyện thư này đến thỉnh nguyện khác cho chính quyền Mỹ, hay cho vài cá nhân trong chính quyền Mỹ, cho rằng Mỹ là một cường quốc vạn năng, để yêu cầu Mỹ can thiệp vào những chuyện nội bộ Việt Nam, cần phải đọc. Đọc để mà biết nước Mỹ và quyền năng của Mỹ trên chính trường quốc tế ngày nay.Chính quyền Việt Nam cũng nên đọc, nếu chưa đọc, ba cuốn sách trên và những bản tin hàng tháng trên The Anti-Empire Report của William Blum Các Trường Hợp Điển Hình Việt Nam “Vi Phạm Nhân Quyền” Đây là những kiến thức tối cần thiết về chính sách đối ngoại của Mỹ. Để mỗi khi có một chính khách Mỹ trịch thượng nào, thí dụ như Thượng nghị sĩ John McCain hay Dân biểu Loretta Sanchez chẳng hạn, hay Phil Robertson thuộc cơ quan HRW (Human Rights Watch), hay ngay cả các nghị viên trong Quốc Hội Âu Châu v…v…, với danh nghĩa dân chủ, nhân quyền để xía vào những chuyện lặt vặt nội bộ của Việt Nam, chưa hề làm chết một ai, như các vụ Cù Huy Hà Vũ, Lê Quốc Quân, Phương Uyên v…v… thì chỉ cần hỏi họ nhẹ một câu: - “Quý vị đã bao giờ đọc mấy cuốn sách của William Blum chưa” (Have you ever read William Blum’s three books: Killing Hope: U.S. Military and CIA Interventions Since World War II, Common Courage Press, Maine, 1995; Rogue State: A Guide to the World's Only Superpower, Common Courage Press, 2000;andAmerica’s Deadliest Export: Democracy: The Truth About US Foreign Policy and Everything Else, Zed Books, London/ New York 2013. Ngoài ra cũng có thể hỏi thêm: - “Quý vị có bao giờ nghe đến những tác phẩm của các học giả Mỹ sau đây không? Vậy thì quan niệm về nhân quyền của quý vị là như thế nào?” Cứ hỏi xem họ sẽ trả lời ra sao. - Nelson, Deborah. The War Behind Me: Vietnam Veterans Confront The Truth About U.S. War Crimes, Inside the Army’s Secret Archive of Investigation, Persus Book, New York, 2008.- Turse, Nick. Kill Anything That Moves – The Real American War in Vietnam, The Metropolitan Books, New York, 2013.- Chomsky, Noam & Edward S. Herman, The Washington Connection and Third World Fascism, The Political Economy of Human Rights: Volume I, South End Press, Boston, 1979.- Grant, Zalin. Facing the Phoenix: The CIA and the Political Defeat of the U.S. in Vietnam, W. W. Norton & Company, New York, 1991. Những người chống Cộng ở hải ngoại hay trong nước không cần phải gửi thỉnh nguyện thư, không cần phải “mách bu”, vì nếu muốn, Mỹ có trăm ngàn phương cách để Mỹ xía vào những chuyện nội bộ của bất cứ nước nào. Các nhà dân chủ cũng nên đọc Chương “Con Ngựa Thành Troie: NED” (Trojan Horse: The National Endowment For Democracy) trong cuốn “Quốc gia vô nguyên tắc..” (Rogue State…) NED là cơ quan tài trợ, cấp “fund” cho Võ Văn Ái ở Paris để hàng năm báo cáo láo về nhân quyền ở Việt Nam, và đã từng huấn luyện nhà dân chủ Lê Quốc Quân, hoặc có thể tài trợ cho một số cá nhân hay tổ chức mà chúng ta không thể biết, để tranh đấu cho “món hàng xuất cảng làm chết người nhất của Mỹ: Dân Chủ.” ở Việt Nam. Điều rất rõ ràng trong mấy chục năm gần đây là những món hàng tự do, nhân quyền, dân chủ v…v… của Mỹ xuất cảng đến đâu là có bom đạn đi theo tới đó và số người vô tội, gồm cả phụ nữ và trẻ em, chết vì bom đạn không phải là ít. Việt Nam, Iraq, Afghanistan, Lybia v…v… và v…v… là những bằng chứng lịch sử hiển nhiên nhất. Vài Điều Về Chính Sách Đối Ngoại Của Mỹ Đọc ba cuốn sách trên của William Blum, và nhiều cuốn khác, chúng ta thấy không có cách nào có thể coi Mỹ là đạo đức, tôn trọng dân chủ, nhân quyền v..v… nhất là ở những nơi ngoài đất Mỹ. Ngay cả trên đất Mỹ cũng đã có những trường hợp Mỹ vi phạm nhân quyền một cách trầm trọng, thí dụ như lùa những công dân Mỹ gốc Nhật vào trại tập trung sau khi Nhật oanh tạc Pearl Harbor; hoặc những biện pháp đối với dân Mỹ trong thời đại “hoảng sợ Đỏ” (Red scare) theo chủ thuyết của McCarthy, hoặc dựa vào Patriot Act sau 9/11 để kiểm soát mọi mặt của đời tư cá nhân của công dân Mỹ. Với tràn ngập những tài liệu trong 3 cuốn sách trên, William đã chứng minh là “Mỹ tuyệt đối không phải là một thế lực làm tốt đẹp cho thế giới - mà trái hẳn lại” (The United States is absolutely NOT a force for good in the world - quite the opposite.) Mỹ ở đây phải hiểu là tập đoàn tài phiệt, chủ xí nghiệp, giới đại gia giầu có nhưng không bao giờ thấy là đủ, và những viên chức Do Thái nằm đầy trong chính quyền Mỹ, từ Tòa Án Tối Cao xuống đến Quốc Hội, Quốc Phòng, Ngoại Giao v…v… Muốn biết ảnh hưởng của Do Thái trên mọi mặt của chính quyền Mỹ, xin quý vị hãy vào http://www.youtube.com/watch?v=0xe5cQDIbMs, coi mẩu video của David Icke: Rothschild Zionism Sau đây là sự phân phối tiền tệ và tài sản trên đất Mỹ, nhìn vào đó chúng ta thấy sự cách biệt giàu nghèo là như thế nào, và ai thực sự nắm quyền ở Mỹ.

Theo http://www2.ucsc.edu/whorulesamerica/power/wealth.html, bài “Who Rules America?”:

Nhìn vào hình trên chúng ta thấy 1% dân Mỹ nắm 36% tiền tệ và các tài sản quốc gia khác góp chung, trong khi khối 80% chỉ nắm có 11%. Nếu chỉ kể tiền tệ không thì 1% đó nắm 42% trong khi khối 80% chỉ nắm có 5%.. Và đây là thiên đường hạ giới của chủ nghĩa tư bản, tự do, dân chủ và bình đẳng trước Gót. Chính những thế lực thuộc 1% ở trên chót đã hoạch định đường lối đối ngoại của Mỹ. Người dân Mỹ, nhất là giới trung lưu, phần lớn là tốt và giầu lòng bác ái, nhưng một khi đã bầu xong tổng thống thì tất cả đều phó mặc cho chính quyền. Hơn nữa, vì sống trong nền văn hóa Ki-tô giáo, và với guồng máy tuyên truyền của Mỹ bao trùm mọi phương tiện truyền thông trong xã hội, từ báo chí, sách giáo khoa, Internet đến điện ảnh v…v… về nước Mỹ, phần lớn là tự đề cao sai sự thật, nhưng có có tác dụng làm cho người dân hãnh diện, nên đa số người dân dễ bị tuyên truyền nhồi sọ với những cái gọi là “giá trị Do Thái – Ki Tô” (Judeo-Christian values), với đạo đức của dân Chúa, với ưu thế về kinh tế và vũ khí giết người, có nhiệm vụ chinh phục thế giới cho Gót, Mỹ là một thị trấn trên ngọn đồi (a city on the hill) nhìn xuống mọi nước thấp kém ở dưới, Mỹ là cái đầu tầu kéo cả thế giới theo sau về đạo đức và tự do v…v… cho nên thường ủng hộ bất cứ chính sách nào của chính quyền Mỹ, vì tin rằng tất cả những gì Mỹ làm trên thế giới đều là vì có lòng tốt.. Chúng ta có thể đọc, trang 9: Giới lãnh đạo Mỹ đã thuyết phục được đa số dân Mỹ về chính sách đối ngoại nhân từ của họ. Có thể làm cho người Mỹ tin, cũng như vô số người khác trên khắp thế giới (lẽ dĩ nhiên có người Việt Nam) – trước tràn ngập những bằng chứng trái ngược, thí dụ như danh sách những việc làm khủng khiếp của Mỹ trên thế giới – chính quyền Mỹ đã thực hiện được trọn vẹn điều mà có thể coi là những kỳ công xuất sắc về tuyên truyền và nhồi sọ trong lịch sử thế giới. (American leaders have convinced a majority of the American people of the benevolence of their foreign policy. To have persuaded Americans of this, as well as a multitude of other people throughout the world – in the face of overwhelming evidence to the contrary, such as the lists of US international atrocities shown above - the American government has pulled off what must surely rank as one of the most outstanding feats of propaganda and indoctrination in all of history) Vì vậy, trước những luận điệu lừa dối của chính quyền để gây chiến hoặc vô cớ can thiệp vào các nước ngoài, người dân vẫn ủng hộ, như trong thời gian đầu ở Việt Nam, và sau này ở Iraq, Afghanistan, Lybia v…v…. Một thí dụ điển hình ở Iraq: “Dù không có bằng chứng nào, nhưng “Bush con” và bộ máy tuyên truyền của Mỹ cho rằng Iraq có “vũ khí giết người hàng loạt” (Weapons of Mass Destruction) và liên hệ đến al-Qaeda trong vụ 9/11, đe dọa nền an ninh của Mỹ, để tấn công, giết cả trăm ngàn người. Michael Moore nhận định, 2008: “Chiến tranh của Bush”, tôi đã từng gọi thế từ lâu. Không phải là “chiến tranh Iraq”. Iraq chẳng làm gì cả. Iraq không đặt kế hoạch cho ngày 9/11. Iraq không có vũ khí giết người hàng loạt [“Bush’s war”, that’s what I’ve been calling it for a long time. It’s not the “Iraq war”. Iraq did nothing. Iraq didn’t plan 9/11. It din’t have weapons of mass destruction.] William Blum châm biếm như sau, bản tin #120:: “Cuối cùng đã tìm thấy! Sau 10 năm tìm kiếm, cuối cùng Mỹ đã kiếm thấy vũ khí giết người hàng loạt của Iraq … ở Syria!” [Found at last! After searching for 10 years, the Iraqi weapons of mass destruction have finally been found - in Syria!] Trở về cuộc chiến ở Việt Nam trước đây, dù không có bất cứ bằng chứng nào là Hồ Chí Minh theo sự chỉ đạo của CS Nga để chống Pháp, nhưng Mỹ cứ cho là như vậy để can thiệp vào Việt Nam, giúp Pháp chống Cộng Nga ở Việt Nam, trong khi Việt Nam không có bất cứ một khả năng nào có thể gây hại cho nước Mỹ. Mỹ bảo là để chống Cộng nhưng không dám đụng đến Nga Sô hay Trung Cộng. Xin đọc: Paul Joseph, Cracks In The Empire, South End Press, Boston, 1981, trang 83: “Dù rằng thiếu bằng chứng, Washington tiếp tục cho rằng cuộc đấu tranh chống Pháp (ở Việt Nam) là do sự hứng khởi và chỉ đạo từ Liên Bang Sô Viết. Thí dụ, trong bức công điện gửi cho Thủ Tướng (Pháp) Ramadier, đại sứ Mỹ vẫn sai lầm cho rằng Việt Minh là một phong trào mà “triết lý và tổ chức chính trị đều phát khởi từ và bị kiểm soát bởi điện Kremlin. Tuy vậy tình báo Mỹ đã cố gắng, và thất bại, để kiếm ra bằng chứng là có mối liên hệ kiểm soát giữa Moscow và Hồ Chí Minh. Một công điện của Bộ ngoại giao gửi cho đại sứ Mỹ ở Trung Quốc viết “Bộ không có bằng chứng nào về sự nối kết trực tiếp giữa ông Hồ và Moscow nhưng cứ cho rằng có.” [Despite a lack of evidence, Washington continued to perceive the anti-French struggle (in Vietnam) as something inspired and directed from the Soviet Union. For example, in the cable to Premier Ramadier cited above, the American embassador falsely maintained that the Vietminh was a movement whose “philosophy and political organization emanated from and was controlled by the Kremlin.” Yet American intelligence had tried, and failed, to substantiate the existence of controlling ties between Moscow and Ho Chi Minh. A State Department cable to the US Ambassador in China read “the Department has no evidence of a direct link between Ho and Moscow but assumes it exists..] Cho nên chúng ta có thể nói về cuộc chiến hậu Geneva ở Việt Nam là : “Chiến tranh của Mỹ”. Không phải là “chiến tranh Việt Nam”. Việt Nam chẳng làm gì cả. Việt Nam không đặt kế hoạch tấn công nước Mỹ. Việt Nam không theo lệnh của Moscow kháng chiến chống Pháp. Việt Nam không chủ trương xuất cảng Cộng sản Việt Nam sang Mỹ. Việt Nam không đe dọa sự an ninh của Mỹ. Đọc William Blum chúng ta mới thấy rằng Noam Chomsky, một học giả lừng danh của Mỹ, viết không sai: “Thật ra chính sách đối ngoại của Mỹ là đặt căn bản trên nguyên tắc không liên quan gì đến nhân quyền, mà là liên quan nhiều đến sự tạo ra một bầu không khí thuận lợi cho ngoại thương” (James Speck, Editor, The Chomsky Reader, p. 331: U.S. foreign policy is in fact based on the principle that human rights are irrelevant, but that improving the climate for foreign business operations is highly relevant.) Và đúng hơn nữa là Noam Chomsky đã đưa ra nhận định về những tội ác chiến tranh trên thế giới của Mỹ: “Nếu những luật của Nuremberg (tòa án xử tội phạm chiến tranh trong Đệ Nhị Thế Chiến) được áp dụng thì sau mỗi cuộc chiến tranh, mọi tổng thống Hoa Kỳ đều đã phải bị treo cổ.” [Introducing Noam Chomsky, by John Maher & Judy Groves, Totem Books, New York, 1997, p. 156: If the Nuremberg laws were applied, then every post-war American president would have been hanged.] Trong những tổng thống Mỹ gần đây thì George W. Bush là đáng treo cổ nhất vì đã lừa dối quần chúng để phát động cuộc chiến tranh ở Iraq với nhiều tội ác của quân lực Mỹ ở đó. Muốn biết chi tiết về con người, trình độ trí thức, đạo đức v…v… của Bush, xin mời quý đọc giả đọc ít nhất là hai cuốn sách sau đây: (1) Michael Moore, Stupid White Men, Penguins Books, England, 2002; và (2) Peter Singer, The President of Good and Evil: Questioning the Ethics of George W. Bush., A Plume Book, New York, 2004. Đọc về Bush chúng ta mới thấy sự cuồng tín tôn giáo của Bush tai hại như thế nào, không thua gì sự cuồng tín của đám con chiên Việt Nam. Tai hại hơn nữa là Bush lại là tổng thống của một nước mạnh nhất thế giới. Việt Nam ta cũng may vì đám Ca-tô cuồng tín đã mất đi quyền hành sau khi nước nhà thống nhất. 9 năm dưới triều Ngô Đình Diệm ở miền Nam cũng đủ cho người dân Việt Nam thấy sự tai hại của cuồng tín Ca-tô là như thế nào. Theo giáo sư Nguyễn Mạnh Quang thì cuồng tín là tổng hợp của ngu dốt, hợm hĩnh và kiêu căng. Vì ngu dốt, hợm hĩnh, kiêu căng nên người Ca-tô mới tin rằng mình ở trong một “hội thánh” trong khi bản chất của “hội thánh” này chỉ là một “tổ chức tội phạm quốc tế” (International Criminal organization) đúng như tòa án quốc tế ITCCS đã lên án. Ngày nay, chỉ có một đầu óc bất bình thường Bush mới có thể thốt ra những lời như sau, Peter Singer, pp. X-XI:




“Tôi cũng có niềm tin này, tin chắc là tự do không phải là món quà của quốc gia này cho thế giới. Tự do là món quà của đấng Toàn Năng cho mọi người nam, nữ trong thế giới này”... “Về nhiệm vụ truyền bá tự do trên khắp thế giới là “điều mà chúng ta được [Gót] kêu gọi để làm, đó là điều mà tôi quan tâm” “Lời kêu gọi của chúng ta là liên kết tim óc và hành động của chúng ta với kế hoạch của Gót, những điều mà chúng ta có thể biết” [I also have this belief, strong belief that freedom is not this country’s gift to the world. Freedom is the Almighty’s gift to every man and woman in this world”; “Refer to the mission of spreading freedom throughout the world as “what we have been called to do, as far as I’m concerned.”; “our calling is to align our hearts and action with God’s plan, in so far as we can know it”.] Chỉ có người bị bệnh tâm thần phân liệt mới biết đến kế hoạch của Gót mà theo định nghĩa là một cái gì đó vô hình, không ai biết được, không ai hiểu được [invisible, unknowable, incomprehensible]. Cũng mê sảng và bịp bợm như giáo hoàng John Paul II trước đây, đã nói trước những kẻ xấu số, bệnh hoạn ở Nam Mỹ là hãy chịu đựng vì đó là kế hoạch kỳ diệu của Gót [God’s wondrous plan]. Nhưng những gì Bush làm chẳng phải là để vinh danh Gót mà thực tế là rập theo khuôn của Gót trong Cựu Ước như là kẻ ác ôn côn đồ, hiếp đáp kẻ yếu, không đếm xỉa gì đến công lý, nhân quyền, tự do và dân chủ. Thật vậy, theo Bush thì kế hoạch của Gót ở Iraq là gì. Peter Singer, p. XII:
Bỏ bom giết hại người dân vô tội vì những hành động của một người (Sadam Hussein) (Bombing innocent people because of one mans’s actions)
Vì có 4 thường dân Mỹ bị giết một cách khủng khiếp ở Fallujah, Iraq, quân đội Mỹ đã tấn công và giết hại 600 người hầu hết là phụ nữ, trẻ em và người già (The attack on Fallujah as a form of collective punishment for the gruesome killing of 4 American civilians in that city.. Six hundred people were killed in a week of fighting, “most of them” women, children and elderly people)

Phát ra những lời mê sảng của Bush về món quà tự do của Gót, chúng ta thấy, như hầu hết các tín đồ Ki Tô Giáo thấp kém, Bush chưa bao giờ đọc đến cuốn Thánh Kinh của Ki Tô Giáo và cũng không biết gì đến lịch sử Ki Tô Giáo ở Âu Châu và ngay cả trên nước Mỹ. Khi con người thay Gót nắm toàn quyền ở Âu Châu trong thời Trung Cổ thì quyền tự do mà Gót ban cho con người chỉ là quyền tự do duy nhất là phải tin vào Gót của Ki Tô Giáo, nếu không thì sẽ bị tra tấn, tàn sát thẳng tay, nhân danh Gót. Những cuộc thập tự chinh, những tòa án xử dị giáo, những cuộc săn lùng, tra tấn và thiêu sống phù thủy v…v… ở Âu Châu và chính sách diệt chủng dân da đỏ của Mỹ đã chứng tỏ như vậy. Chỉ cần nghe vài lời trên đầu môi chót lưỡi của Bush, chúng ta có thể thấy ảnh hưởng tai hại của niềm tin vào Gót của Ki Tô Giáo trên những người thiếu đầu óc:






Blum viết, trang 19: “Năm 2004, Bush Con nói: “Tôi tin tưởng ở những lời Gót nói với tôi, không có những lời đó, tôi không thể làm được nhiệm vụ của tôi” [“I trust God speaks to me,” said Bush the younger in 2004. “without that, I couldn’t do my job”] Bush còn nói: “Chúng tôi tin vào giá trị và phẩm cách của mọi con người” [We believe in the value and dignity of every human life.] Và Blum bình luận: “Cả hai cha con đều biểu lộ sự tin tưởng sâu xa của họ đối với Gót và cầu nguyện cả trước và trong những cuộc tàn sát tập thể của họ” (Trong hai cuộc tấn công Iraq) [Both father and son are on record expressing their deep concern for God and prayer both before and during their mass slaughters.]

Noam Chomsky viết về sự đạo đức giả của Bush:

“Nếu chúng ta thật sự có đầu óc ngây thơ , chúng ta có thể tin ngay cả điều mà George W. Bush nói với chúng ta là ông ta tôn trọng cái gì nhất trong thế giới, ông ta là một tín đồ Ki Tô sùng tín…thật ra thì mọi người lãnh đạo Mỹ đều phải nói “Tôi là người Ki-tô sùng tín”. Vậy thì, nếu ông là một người Ki-tô sùng tín, ông phải tôn trọng Phúc Âm, điều này có nghĩa là ông phải nhớ kỹ định nghĩa của sự đạo đức giả trong Phúc Âm, nghĩa là: người đạo đức giả là người áp dụng những tiêu chuẩn trên người khác nhưng không cho phép người khác áp dụng trên chính mình. Đó là đạo đức giả”

[And, if we're really simple-minded, we might even believe what George Bush tells us he reveres most in the world, he's a pious Christian ... in fact, every [US] leader has to say "I'm a pious Christian." Well, if you're a pious Christian, you must revere the Gospels, which means you must have memorized the definition of the hypocrite in the Gospels, namely: the hypocrite is the person who applies standards to others but won't allow them to be applied to himself. That's the hypocrite.]


Có lẽ chúng ta nên tự hỏi, tại sao những cuốn sách của William Blum, Noam Chomsky, Michael Moore, Peter Singer và nhiều tác giả khác viết về nước Mỹ như vậy mà chính quyền Mỹ không đưa các tác giả ra tòa. Vấn đề ở đây không phải là tự do ngôn luận. Luật của Mỹ rất rõ ràng, tự do ngôn luận không có nghĩa là bịa đặt, vu khống để hạ uy tín hay nhân cách của người khác, nhất là khi viết về tổng thống hay các nhân vật cao cấp trong chính quyền. Trong cộng đồng Việt Nam hải ngoại, đã có nhiều trường hợp vu khống người khác là Cộng sản bị tòa phạt nặng. Cho nên chúng ta phải hiểu là những tác giả như William Blum v…v… đều viết ra sự thật, có cơ sở với nhiều tài liệu chứng minh, chứ không viết láo lếu vu vơ như một số người Việt chống Cộng bất kể liêm sỉ.

Giới lãnh đạo Mỹ nắm quyền, nắm tiền trong tay và theo cấu trúc của Hiến Pháp Mỹ, mọi sự thay đổi đều phải qua Quốc Hội Mỹ, cho nên người dân tha hồ chỉ trích, phản đối từ cá nhân tổng thống đến những việc làm sai trái hay những tội ác của chính quyền Mỹ, chính quyền Mỹ vẫn hành động theo chủ trương của giới tài phiệt mà phần lớn nằm trong tay người Do Thái hay thiên Do Thái. Một phần ba tổng số ngoại viện của Mỹ, khoảng 3 tỷ đô-la một năm, là để viện trợ cho Do Thái. Điều đáng nói là những người bất đồng chính kiến với chính quyền Mỹ, không một người nào dám đặt vấn đề là phải lật đổ chính quyền, vì làm như vậy họ sẽ bị bắt vào tù ngay tức khắc. Mặt khác, tuyệt đại đa số người dân rất ít biết sự thật về những gì Mỹ làm ở ngoài quốc gia của họ, họ chỉ quan tâm đến đời sống cá nhân của họ, cho nên phần lớn vẫn tin theo những gì bộ máy tuyên truyền của chính quyền muốn họ tin, bất kể sự thật.


Sáu Luận Điểm Của William Blum



Cuốn America's Deadliest Export: Democracy của William Blum gồm 26 Chương ngoài phần Dẫn Nhập (Introduction): 1. US foreign policy vs the world; 2. Terrorism; 3. Iraq; 4. Afghanistan; 5. George W. Bush; 7. Condoleezza Rice; 8. Humanh rights, civil liberties, and torture; 9. Wilileaks; 10. Conspiracies; 11. Yugoslavia; 12. Libya; 13. Latin America; 14. Cuba; 15. The cold war and anti-communism; 16. The 1960s; 17. Ideology and society; 18. Our precious environment; 19. The problem with capitalism; 20. The media; 21. Barack Obama; 22. Patrotism; 23. Dissent and resistance in America; 24. Religion; 25. Laughing despise the empire; 26. But what can we do?.

Hiển nhiên là tôi không thể đi vào chi tiết của từng chương một. Cho nên tôi xin tự hạn trong một số vấn đề mà tôi nghĩ người Việt chúng ta cần biết về chính sách đối ngoại của Mỹ. Sau đây, chúng ta hãy điểm qua vài quan điểm của William Blum trong cuốnAmerica's Deadliest Export: Democracy. Chúng ta sẽ thấy chính sách đối ngoại của Mỹ ở khắp nơi có nhiều điểm giống ở Việt Nam:

Trong Chương I: Chính sách đối ngoại của Mỹ đối với thế giới (US Foreign Policy Vs the World) William Blum đã chứng minh 6 điểm:


1. Chính sách đối ngoại của Mỹ không có ý định tốt (US foreign policy does not “mean well”). Tác giả viết:

Từ sau Đệ Nhị Thế Chiến Mỹ đã:

Nỗ lực lật đổ hơn 50 chính quyền ngoại bang, hầu hết đã được bầu một cách dân chủ.
Can thiệp thô bạo vào sự bầu cử dân chủ của ít nhất là 30 quốc gia.
Toan tính ám sát hơn 50 người lãnh đạo ngoại quốc.
Thả bom trên dân chúng trong hơn 30 quốc gia
Toan tính dẹp một phong trào quần chúng hay quốc gia trong 20 nước.

Since the end of WWII the US has:

Endeavored to overthrow more than 50 foreign governments, most of which were democratically elected.
Grossly interfered in the democratic elections in at least 30 countries.
Attempted to assassinate more than 50 foreign leaders
Droppep bombs on the people of more than 30 countries
Attempted to suppress a populist or nationalist movement in 20 countries.

Tác giả cho rằng, trang 30: Thả bom toàn diện, xâm lược, chiếm đóng, phá hủy nhà cửa, tra tấn, dùng đạn dược có chất phóng xạ Uranium, giết cả trăm ngàn người, và hàng ngày nhục mạ con người, đàn ông, đàn bà, trẻ con, không chứng tỏ đó là có ý định tốt. [Saturation bombing, invasion, occupation, destruction of homes, torture, deplete uranium, killing a hundred thousand, and daily humiliation of men, women and children do not indicate good intention.]

Nhìn lại cuộc chiến ở Việt Nam, chúng ta hãy thử nghĩ xem, Mỹ can thiệp vào Việt Nam và với những gì Mỹ đã làm đối với người dân hai miền Nam, Bắc, có phải là với ý định tốt không? Tất cả đoạn trên đều có thể áp dụng cho trường hợp Việt Nam, mà thực chất còn tàn bạo hơn nhiều, chỉ cần thay cụm từ “dùng đạn dược có chất phóng xạ Uranium”bằng “dùng hóa chất độc hại màu da cam”. Có lẽ với chiêu bài chống Cộng thì chỉ tốt với tập thể những người chống Cộng cho Chúa, cho Vatican, và những người nhờ đó mà có nắm đô-la trên tay, và cám ơn Mỹ vì cuộc xâm lược của Mỹ đã thay đổi xã hội Việt Nam, đưa đĩ và các Cha lên tột đỉnh của bậc thang xã hội với câu truyền tụng “Nhất đĩ, nhì Cha” . Đĩ sống với đô-la của lính Mỹ với mức sống vật chất cao hơn của công chức và quân đội, không kể tướng ta tham nhũng.. Còn các Cha, thuộc hạ của Vatican, sống với đô-la viện trợ của một ngoại bang đã tạo nên Việt Nam Cộng Hòa và với những đặc quyền của các lãnh chúa, khai thác và chiếm đoạt tài sản quốc gia. Đây là sự kiện lịch sử, cấm cãi.

2. Mỹ chẳng quan tâm gì đến cái gọi là “dân chủ”, bất kể là không biết bao nhiêu lần mọi tổng thống Mỹ mỗi khi mở miệng đều nói đến từ này… Vấn đề là: những người lãnh đạo nước Mỹ nghĩ thế nào về “dân chủ”. Điều mà họ quan tâm đến ít nhất là nền kinh tế dân chủ nào đó – thu hẹp khoảng cách biệt giửa giới nghèo tận mạng và giới giầu có thừa thãi nhưng chưa thấy là đủ. Điều mà họ quan tâm đến nhiều nhất là làm thế nào để chắc rằng một quốc gia mà Mỹ nhắm tới có chế độ chính trị, tài chính, và cơ cấu hợp pháp để cho nơi đó là nơi thuận lợi cho toàn cầu hóa các công ty.

[The US is not concerned with this thing called “democracy”, no matter how many times every American president uses the word each time he opens his mouth… The question is: what do American leaders mean by “democracy” The last thing they have in mind is any kind of economic democracy– the closing of the gap between the desperate poor and those for whom too much is not enough. The first thing they have in mind is making sure the target country has the political, financial, and legal mechanism in place to make it hospitable to corporate globalization.]

3. Những kẻ khủng bố chống Mỹ không phải bị thúc đẩy bởi thù hận hay ghen tị về tự do hay dân chủ, hoặc bởi sự giầu có của Mỹ, chính phủ thế tục, hay văn hóa, mà chúng ta được bảo như vậy nhiều lần. Họ bị thúc đẩy bởi những điều kinh khủng mà Mỹ làm trên quê hương của họ trong nhiều thập niên bởi chính sách đối ngoại của Mỹ. [Anti-American terrorists are not motivated by hatred or envy of freedom or democracy, or by American wealth, secular government, or culture, as we’ve been told many times. They are motivated by decades of awful things done to their homelands by US foreign policy.]

Lẽ dĩ nhiên tuyệt đại đa số người dân Mỹ không biết đến chính sách đối ngoại của Mỹ trong nhiều thập niên qua, và những hành động của Mỹ trên khắp thế giới qua chính sách này.. Nhưng những quốc gia nạn nhân của Mỹ thì không bao giờ quên được. [But there is another major reason for anti-Americanism: the accreted residue of many years of U.S. foreign policies. These policies are unknown to most Americans. They form only minor footnotes in U.S. history. But they are the chapter titles of the histories of other countries, where they have had enormous consequences.]

Sự thù hận của người Hồi giáo đối với Mỹ bắt nguồn từ nhiều lý do. Tác giả đưa ra quan điểm của hai nhân vật Al-Marayati, một người Hồi giáo, và Raymond Imbrahim, một người Ki-tô Giáo (Coptic Christian) về tại sao Hồi giáo ghét Mỹ và Tây phương.

Mỹ kiên định ủng hộ những nhà độc tài ở Trung Đông
Mỹ khuyến khích tuyên truyền chống Hồi Giáo
Mỹ kiểm soát những ngưồn thiên nhiên và kỹ nghệ của những quốc gia Hồi Giáo
Mỹ mù quáng ủng hộ Israel chống Palestine (ngày nay chúng ta có từ “Usrael”)
Mỹ giết người Hồi Giáo bừa bãi trong những cuộc tấn công bằng máy bay không người lái (drones)
Mỹ phá hủy Iraq trong hai cuộc chiến 1991 và 2003
Mỹ duy trì sự hiện diện quân sự trên khắp Trung Đông
Tây phương ghét và thù nghịch đối với Hồi giáo
Tây phương muốn nắm quyền ở Trung Đông
Tây phương đang cướp dầu của những quốc gia Hồi giáo

The U.S. consistently supports Middle East dictators
The U.S. “sanctions” anti-Islam propaganda
Has controlled the natural and industrial resources of Muslim countries
“Blindly” supports Israel against the Palestinians
Kills Muslim civillians indiscriminately in drone attacks
“Destroyed Iraq” in both 1991 and 2003
The West hates and is hostile towards Muslims
The West wants to take over Middle East
The West is stealing Islamic countries’ oil

4. Mỹ thực sự không chống tự thân chủ nghĩa khủng bố, chỉ chống những quân khủng bố không phải là đồng minh của đế quốc (Mỹ). Có một lịch sử dài và bỉ ổi về Washington hỗ trợ nhiều quân khủng bố chống Castro, ngay cả khi những hành động khủng bố ở trên đất Mỹ…Mỹ cũng hỗ trợ cho những quân khủng bố, hoặc chiến đấu trong phía của những thánh chiến quân Hồi giáo, ở Kosovo, Bosnia, Iran, Linya, và Syria, gồm cả những kẻ được biết là liên hệ với al-Qaeda, để đẩy mạnh những mục đích của chính sách đối ngoại quan trọng hơn là chống khủng bố. (The United States is not actually against terrorism per se, only those terrorists who are not allies of the empire. There is a lenghty and infamous history of Washington’s support for numerous anti-Castro terrorists, even when their terrorist acts were committed in the US.. The US has also provided close support to terrorists, or fought on the same side of Islamist jihadists, in Kosovo, Bosnia, Iran, Libya, and Syria, including those with known connection to al-Qaeda, to further foreign policy goals more important than fighting terrorism.)

5. Iraq không phải là bất cứ sự đe dọa nào cho nước Mỹ. Về tất cả những lời nói láo bất tận về Iraq, đây là lời nói láo xảo quyệt nhất, nền tảng cần thiết cho tất cả những lời nói láo khác (Iraq was not any kind of a threat to the US. Of the never-ending lies concerning Iraq, this is the most insidious, the necessasry foundation for all the other lies.)

Tác giả mở đầu chương nói về Iraq với: Bắt đầu với những lời nói láo lớn lao. Kết cục với những lời nói láo lớn lao. Không bao giờ quên (Iraq. Began with big lies. Ending with big lies. Never forget.)

Đọc chương này chúng ta sẽ thấy dựa trên những lời nói láo để lừa dối quần chúng Mỹ đã tàn phá Iraq đến mức độ như thế nào. Tác giả viết:

Quốc gia Iraq tân tiến, hiện đại, có học thức, đã bị sa sút thành một quốc gia hầu như bị phá sản như thế nào; Mỹ, bắt đầu từ 1991, đã bỏ bom trong suốt 12 năm, với lý do bào chữa này nọ không đáng tin ; rồi xâm lược, rồi chiếm đóng, lật đổ chính quyền, tra tấn không giới hạn, giết bừa bãi như thế nào; dân chúng của đất nước khốn khổ đó đã mất đi mọi thứ như thế nào.

(How the modern, educated, advanced nation of Iraq was reduced to a quasi-failed state; how the Americans, beginning in 1991, bombed for 12 years, with one dubious excuse or another; then invaded, then occupied, overthrew the government, tortured without inhibition, killed wantonly; how the people of that unhappy land lost everything..)

Cuộc chiến tranh của Bush (Bush’s war) ở Iraq và cuộc chiến tranh của Mỹ (American war) ở Việt Nam có nhiều điểm giống nhau. Khi sự dối trá của chính quyền Bush bị phanh phui, dân chúng biết sự thật về nguyên nhân cuộc tấn công Iraq, nên khi sự đòi hỏi Mỹ rút quân ra khỏi Iraq của dân chúng và thế giới lên cao thì những người ủng hộ cuộc chiến lại viết lại lịch sử đưa ra những lời tiên đoán láo về một cuộc tắm máu ở Iraq giống như ở Việt Nam sau khi Mỹ rút lui vào tháng 3, 1973 (Those support the war are rewriting history to paint a scary picture of what happened in Vietnam after the US military left in March 1973.) William Blum viết, trang 67:

Họ nói về một cuộc “tắm máu” [ở Việt Nam] sau khi Mỹ rút quân, một từ hàm ý có sự giết chóc một số đông thường dân không ủng hộ người Cộng sản. Nhưng điều này chẳng bao giờ xẩy ra. Nếu nó đã xẩy ra thì những người ở Mỹ ủng hộ cuộc chiến chống Cộng ở Việt Nam không còn gì vui mừng hơn là quảng cáo một “cuộc tắm máu của Cộng sản”. Nó sẽ là những tít lớn trên khắp thế giới. Sự kiện là chúng ta không thể tìm thấy ở đâu chuyện như vậy chứng tỏ sự kiện là không có gì xẩy ra như là một cuộc tắm máu. Thật khó mà có thể bác bỏ điều không xẩy ra này.

Trong thực tế, thay vì một cuộc tắm máu những kẻ cộng tác với kẻ thù, người Việt Nam đưa họ đến những “trại cải tạo”, một cách đối xử văn minh hơn là ở Âu Châu sau Đệ Nhị Thế Chiến mà nhiều người cộng tác với Đức quốc xã bị bêu xấu diễn hành công cộng, cạo trọc đầu, nhục mạ nhiều cách, và/hoặc bị treo cổ ở cái cây gần nhất. Nhưng một số người bảo thủ ngày nay muốn cho chúng ta tin rằng những trại cải tạo ở Việt Nam là những tiểu Auschwitz (lò sát nhân của Đức Quốc xã).

Có một sự kiện lịch sử khác cần phải nhớ: vì chúng ta cùng chấp nhận là Mỹ đã thất trận ở Việt Nam, và vì trước đây chúng ta được bảo rằng cuộc chiến đó là cuộc chiến cho sự tự do của chúng ta, “cuộc chiến cho tự do của chúng ta” hiển nhiên là thất bại, và chúng ta phải sống trong sự chiếm đóng của quân lực Bắc Việt. Khi nào ở ngoài đường phố và anh thấy một toán lính đi tuần của Bắc Việt đi qua, xin làm ơn nói với họ là tôi có lời chào.

[They speak of the “bloodbath” that followed the American withdrawal, a term that implies killing of large numbers of civilian who didn’t support the communists. But this never happened. If it had taken place the anti-communists in the US who supported the war in Vietnam would have been more than happy to publicize a “commie bloodbath”. It would have made big headlines allover the world. The fact that you can’t find anything of the sort is indicative of the fact that nothing like a bloodbath took place. It would be difficult to otherwise disprove this negative..

In actually, instead of a bloobath of these who collaborated with the enemy, the Vietnamese sent them to “re-education” camps, a more civilized treatment than in post-World War II Europe where many of those who collaborated with the Germans were publicly paraded, shaven bald, humiliated in other ways, and/or hanged from the nearest tree. But some conservatives today would have you believe that the Vietnamese camps were virtually little Auschwitzes.

Another historical reminder: since it’s generally accepted that the US lost the war in Vietnam, and since we were told back then that the war was a battle for our freedom, the the “fight for our freedom” must have been unsuccessful, and we must be under the occupatin of the North Vietnamese Armt. Nest time you’re on the street and you see a passing NVA patrol, please wave and tell them that I say hello.]

Nếu quý vị tò mò, muốn biết những thế lực nào trên thế giới đã gây ra “cuộc tắm máu” ở Việt Nam, xin mời đọc: http://www.chomsky.info/books/counter-revolutionary-violence.htmtrong đề tài “Bạo Lực Chống Cách Mạng: Những cuộc tắm máu thực sự xẩy ra và do tuyên truyền” [Counter-Revolutionary Violence: Bloodbaths in Fact and Propaganda] trong đó có những phần quan trọng sau đây:

Constructive Bloodbaths in Vietnam

French and Diemist Bloodbaths

The Overall U.S. Assault as the Primary Bloodbath

"Operation Speedy Express"

The 43-Plus My Lais of the South Korean Mercenaries

Phoenix: A Case Study of Indiscriminate "Selective" Terror

Accelerating Bloodbath in South Vietnam

The Thieu Police State

Saigon's Political Prisoners and the Accelerating Bloodbath


6. Chưa bao giờ từng có con vật như là Cuộc Âm Mưu Của Cộng Sản Quốc Tế.Trước đây vẫn có, cũng như bây giờ vẫn đang có, là những dân tộc sống trong nghèo khổ, vùng lên để phản đối tình trạng của họ, chống một chính quyền đàn áp, một chính quyền thường được sự ủng hộ của Mỹ (There was never such animal as the International Communist Conspiracy. There were, as there still are, people living in misery, rising up in protest against their condition, against an oppressive government, a government usually supported by the US)

Thật ra, Cuộc Âm Mưu Của Cộng Sản Quốc Tế chỉ là điều tưởng tượng, bịa đặt của những đầu óc hiềm thù của những cường quốc Tây phương, những thôi thúc đế quốc thô thiển nhất của họ bị chế ngự bởi các phong trào cách mạng trên khắp thế giới thực dân thuộc địa: để đối lại những sự nổi giậy này, các cường quốc Tây phương đã liên kết một cách cẩu thả mọi phong trào giải phóng với sự đe dọa của Sô Viết, sự kinh hoàng của Đỏ… Khi đó chúng ta biết rằng điều đó không phải là sự thật(The old international communist conspiracy was a figment of the malicious minds of Western powers whose grossest imperial impulses had been tamed with revolution movements all over the colonial world: the Western powers' answer to this insurgence was to sloppily link each and every one to the Soviet Menace, the Red Scare… We knew then it wasn't true)

William Blum viết trong phần Dẫn Nhập của cuốn “Rogue State..”:

Trong cuộc chiến Việt Nam, tổng thống Johnson và nhiều viên chức chính quyền khác quả quyết với chúng ta là những người Á Đông không tôn trọng mạng sống của con người như chúng ta. Chúng ta được bảo như vậy, lẽ dĩ nhiên, vì bom Mỹ, bom napalm, hóa chất màu da cam và những súng ống từ máy bay trực thăng đang nghiền nát người Việt nam và những mạng sống mà họ rất tôn trọng.

Trong 70 năm, Mỹ đã thuyết phục hầu hết thế giới là có một cuộc âm mưu quốc tế ở ngoài đó. Một cuộc âm mưu của Cộng sản quốc tế, đang tiến hành để kiểm soát toàn thể hành tinh, cho những mục đích không có giá trị cứu vớt xã hội. Và thế giới bị làm cho tin rằng bằng cách nào đó phải cần đến Mỹ để cứu thế giới khỏi sự đen tối của Cộng sản. Washington nói: “Chỉ cần mua vũ khí của chúng tôi, hãy để cho quân đội và các xí nghiệp của chúng tôi được tự do trong đất nước của mấy người, và cho chúng tôi quyền phủ quyết về ai sẽ là những người lãnh đạo của mấy người, và chúng tôi sẽ bảo vệ mấy người.

Và nếu dân chúng của bất cứ nước nào dốt nát mà không nhận thức được rằng họ cần phải được cứu, và nếu họ không hiểu rõ giá trị của những động cơ cao cả của Mỹ, thì được cảnh báo là họ sẽ bị thiêu đốt trong hỏa ngục của Cộng sản. Hoặc một bản sao hỏa ngục Cộng sản của CIA. Tuy nhiên họ cũng sẽ được cứu.

[During the Viemam War, President Johnson and other govemment officials assured us that Asians don't have the same high regard for human life as Americans do. We were told this, of course, as American bombs, napalm, Agent Orange and helicopter gunships were disintegrating the Viemamese and their highly regarded lives.

For 70 years, the United States convinced much of the world that there was an international conspiracy out there. An International Communist Conspiracy, seeking no less than control over the entire planet, for purposes which had no socially redeeming values. And the world was made to believe that it somehow needed the United States to save it from communist darkness. "Just buy our weapons," said Washington, "let our military and our corporations roam freely across your land, and give us veto power over whom your leaders will be, and we'll protect you."

And if the people of any foreign land were benighted enough to not realize that they needed to be saved, if they failed to appreciate the underlying nobility of American motives, they were warned that they would burn in Communist Hell. Or a CIA facsimile thereof. And they would be saved nonetheless.]

Thực Chất Mục Đích Cao Cả Của Mỹ Ở Việt Nam

Chúng ta hãy đọc thêm một tài liệu trên trang nhà sau đây về thực chất mục đích cao cả của Mỹ ở Việt Nam

http://www.examiner.com/article/endless-and-contrived-us-wars-against-communism-and-terror-what-are-we-really-buying

Sau “cuộc chiến làm cho thế giới an toàn cho Dân Chủ,”, kiến nghị của Hồ Chí Minh cho một Việt Nam dân chủ bị từ chối bởi những kẻ chiến thắng Đệ Nhất Thế Chiến. Việt Nam tiếp tục ở dưới sự độc tài về kinh tế và chính trị của sự thống trị của thực dân Pháp. Mỹ ủng hộ Minh trong Đệ Nhị Thế Chiến trong chiến tranh du kích chống Nhật của ông ta, và rồi từ chối kiến nghị cho nền độc lập của Việt Nam trong giai đoạn cuối của chiến tranh. Mỹ đã đài thọ tới 80% chiến Phí cho Pháp để giữ Việt Nam trong vòng nô lệ của Pháp. Mỹ ủng hộ xóa bỏ cuộc bầu cử ở Việt Nam khi người ta thấy rõ là Minh được nhiều người ưa thích hơn đối với một lãnh đạo thân Tây Phương (Diệm) [Tài liệu của Mỹ cho thấy thực chất Diệm là con đẻ (offspring) của Mỹ do Mỹ xếp đặt làm tổng thống của một quốc gia tay sai (client state) để hành động theo những mục đích của Mỹ. Nhưng khi Diệm đi sai đường lối chống Cộng và ý muốn của Mỹ thì Mỹ trừ khử. Vấn đề chỉ đơn giản có thế, còn thắc mắc bàn cãi về chuyện Diệm yêu nước hay yêu Vatican, Diệm giỏi hay dốt, và ai giết Diệm là không hợp lẽ “irrelevant”].

Chiến tranh Việt Nam nổ tung do sự sắp xếp của McNamara phúc trình láo về biến cố ở vịnh Bắc Việt để trắng trợn tấn công Bắc Việt. Cuộc chiến leo thang với những cuộc xâm lược và tấn công vào Lào và Cam Bốt, bỏ nhiều bom hơn là bom của mọi phía trong Đệ Nhị Thế Chiến trên một đất nước nhỏ hơn California và giết hại có thể đến 10% thường dân – 3.5 triệu. Mục đích phi lý là đánh bại Cộng sản bằng cách chiếm lòng dân trong khi chúng ta giết trên 1000 người mỗi ngày, trẻ con, phụ nữ và người già qua những vụ bỏ bom từ trên cao.

[After the “War to make the World Safe for Democracy,” Ho Chi Minh’s petition for a democratic Vietnam was denied by the victors of WW1. Vietnam remained under France’s dictatorship for economic and political colonial domination. The US supported Minh during WW2 in his guerilla warfare against Japan, only to deny his petition for Vietnam’s independence at the end of the war. The US paid for up to 80% of France’s military costs to keep Vietnam enslaved by the French. The US supported the cancellation of an ELECTION in Vietnam when it became clear that Minh’s was more popular than a Western-friendly leader. The Vietnam War exploded with McNamara’s contrived reporting of the Gulf of Tonkin incident; manipulated intelligence at best, and an outright false-flag attack at worst. The war escalated with invasions and attacks into Laos and Cambodia, dropping more bombs than from all sides of WW2 combined on a country smaller than California that killed perhaps 10% of their civilian population – 3.5 million. The irrational goal was to “defeat terrorism”, excuse me, “defeat communism” by winning the hearts and minds of civilians while we killed over 1,000 civilian children, women and the elderly daily through high-altitude bombing.]

Ám Ảnh Của Mối “Hoảng Sợ Đỏ”

Về sự ám ảnh của mối “hoảng sợ Đỏ” (Red scare) sau Đệ Nhị Thế Chiến, Mỹ đã đối xử với chính dân của mình như thế nào? Trong bài Chống-Cộng vào thập niên 1950 (Anti-Communism in the 1950s) Wendy Wall viết, http://www.gilderlehrman.org/history-by-era/fifties/essays/anti-communism-1950s :

Trong thập niên 1950, chưa tới 50 ngàn người Mỹ trên tổng số dân số 150 triệu, là thành viên của đảng Cộng sản. Tuy vậy, vào cuối thập niên 1940 và đầu thập niên 1950, sự sợ hãi của Mỹ về một cuộc lật đổ nội bộ đã lên tới mức độ gần như là cuồng loạn. Những cơ quan trung thành với chính phủ điều tra hàng triệu nhân viên liên bang, hỏi họ đọc những sách báo nào, ở trong những nghiệp đoàn và tổ chức nào, và họ có đi nhà thờ hay không. Hàng trăm nhà viết chuyện phim, tài tử đóng phim, nhà đạo diễn bị cho vào sổ đen vì cho rằng họ có khuynh hướng chính trị (thiên tả), trong khi giáo sư, công nhân ngành thép, thủy thủ, luật sư, và những người làm việc xã hội mất việc vì những lý do tương tự. Hơn 39 tiểu bang bắt buộc giáo sư và công chức phải tuyên thệ trung thành. Một số thư viện cất bỏ ra khỏi những giá sách những cuốn sách mà họ cho rằng quá thiên tả. Sự “hoảng sợ Đỏ” sau Đệ Nhị Thế Chiến thường được biết là chủ nghĩa McCarthy, một trong những người nổi tiếng chống Cộng, Thượng Nghị Sĩ Joseph McCarthy.

[In 1950, fewer than 50,000 Americans out of a total US population of 150 million were members of the Communist Party. Yet in the late 1940s and early 1950s, American fears of internal communist subversion reached a nearly hysterical pitch. Government loyalty boards investigated millions of federal employees, asking what books and magazines they read, what unions and civic organizations they belonged to, and whether they went to church. Hundreds of screenwriters, actors, and directors were blacklisted because of their alleged political beliefs, while teachers, steelworkers, sailors, lawyers, and social workers lost their jobs for similar reasons. More than thirty-nine states required teachers and other public employees to take loyalty oaths. Meanwhile, some libraries pulled books that were considered too leftist from their shelves. The postwar Red Scare is often called “McCarthyism,” a name derived from one of the era’s most notorious anti-Communists, Senator Joseph McCarthy.]

Tương Lai Nước Mỹ: Phải Chăng Trên Đà Suy Thoái?
Hai cuộc chiến ở Việt Nam cách đây mấy chục năm, mới đầu là “cuộc chiến của Pháp”, sau đó là “cuộc chiến của Mỹ”, đã làm chia rẽ lòng người dân Việt, gây nên sự thù hận một chiều kéo dài cho tới ngày nay của một số những kẻ chiến bại phần lớn thuộc đám người đã nổi tiếng là “hễ đã phi dân tộc thì thể nào cũng phản bội dân tộc.”. Nhiều người cho rằng sự hi sinh lớn lao của Việt Nam không đáng, trước sau gì rồi Việt Nam cũng sẽ được độc lập, chỉ việc ngồi “há miệng chờ sung”, “bất chiến tự nhiên thành”. Đó là cách nhìn thiển cận về cục diện thế giới.

Nhìn xa hơn nữa, chúng ta phải thấy rằng ngày nay đất nước đã mở mang phát triển như thế nào, và vị thế của Việt Nam trên chính trường thế giới ngày nay ra sao, so với 50 năm trước, khi mà hầu hết thế giới chẳng biết gì đến Việt Nam, chẳng biết Việt Nam nằm ở đâu trên bản đồ thế giới, trừ một số nước liên hệ đến cuộc chiến. Đây là khía cạnh tích cực nhất của sự hi sinh của người dân Việt. Nhìn theo khía cạnh này chúng ta cần phải ghi ơn Đại Tướng Võ Nguyên Giáp và toàn thể Quân Đội Nhân Dân Việt Nam đã đưa Việt Nam lên vị thế ngang hàng với các cường quốc trên thế giới ngày nay, ít ra là về chính trị.. Từ đó người Việt Nam có thể tự hào mình là người Việt Nam, mang hộ chiếu Việt Nam, nhìn thẳng vào mắt người đối thoại, bất kể họ là ai mà không có mặc cảm. Do đó tôi viết bài này với hi vọng chúng ta hiểu rõ hơn về chính sách đối ngoại của Mỹ, từ đó chúng ta có thể cất bỏ một huyền thoại là Mỹ có ý tốt khi can thiệp vào Việt Nam để giúp dân Việt Nam có tự do dân chủ..

Một số người trong chúng ta, thường bị trói chặt trong thiên kiến, trong thù hận, vì chúng ta không biết đến sự thật, hay cố chấp bác bỏ những sự thật không phù hợp với sự hiểu biết hay thiên kiến của chúng ta. Hi vọng những sự thật trong bài viết này sẽ cởi trói cho chúng ta thoát khỏi những quan niệm cố chấp một chiều về hai cuộc chiến ở Việt Nam.


Hiểu Thêm Về Chính Sách Đối Ngoại Của Mỹ


Để hiểu thêm về chính sách đối ngoại của Mỹ, chúng ta hãy đọc thêm vài đoạn của William Blum trong cuốn America’s Deadliest Export: Democracy:

Bí quyết để hiểu chính sách đối ngoại của Mỹ là chẳng có gì là bí mật cả. Điều chính là, chúng ta phải nhận thức được rằng Mỹ cố gắng để thống trị thế giới, với mục đích này Mỹ sẵn sàng làm đủ mọi cách mà Mỹ thấy cần.

[Page 1: The secret to understanding US foreign policy is that there is no secret. Pricipally, one must come to the realization that the US strives to dominate the world, for which end it is prepared to use any means necessary.]

Tham vọng của Washington để thống trị thế giới không bắt nguồn từ lý tưởng về dân chủ hay tự do, một thế giới công bình, chấm dứt sự nghèo khổ và bạo lực, một hành tinh đáng sống trên đó, mà là từ kinh tế và hệ tư tưởng.

[Page 5: Washington’s ambition for world domination is driven not by the cause of a deeper democracy or freedom, a more just world, ending poverty or violence, or a more liveable planet, but rather by economic and ideology.]

Những viên chức Mỹ không mong muốn gì hơn là làm lại thế giới theo hình ảnh của Mỹ (Mỹ là hình ảnh của Gót), với các xí nghiệp tự do, “chủ nghĩa cá nhân”, một cái gì đó gọi là “giá trị Do Thái – Ki Tô”, một thứ khác nào đó mà họ gọi là “dân chủ” như là những yếu tố cốt cán. Những nhà lãnh đạo Mỹ tự cho rằng quyền năng đạo đức của Mỹ là tuyệt đối và không thể thách thức như là sức mạnh về quân sự của Mỹ.

[Page 6: American officials would like nothing better than to remake the world in America’s image, with free enterprise, “individualism”, something called “Judeo-Christian values”, and some other thing they call “democracy” as core elements…American leaders assume that the US moral authority is absolute and unchallengeable as US military power.]

Chúng ta cần phải nhớ rằng: Mỹ, cũng như Israel, cần có những kẻ thù. Không có những kẻ thù, Mỹ có vẻ như là một quốc gia không có mục đích đạo đức và đường hướng.

[Page 102: We have to keep this in mind: America, like Israel, cherishes it enemies. Without enemies, the US appears to be a nation without moral purpose and direction.]

Và về chuyện Mỹ và Israel đe dọa tấn công Iran vì cho rằng Iran đang tiến tới việc làm bom nguyên tử, tác giả viết:

Nhưng nếu Iran thực sự chế tạo vũ khí hạt nhân, chúng ta phải đặt câu hỏi: có đạo luật quốc tế nào nói rằng Mỹ, Anh, Nga, Tàu, Israel, Pháp, Pakistan, Ấn Dộ được quyền có vũ khí hạt nhân, nhưng Iran thì không? Nếu Mỹ biết rằng Nhật Bản có bom nguyên tử, thì Hiroshima và Nagasaki có bị tàn phá (bởi bom nguyên tử của Mỹ)không? Nhà viết quân sử Israel Martin van Creveld đã viết: “Thế giới đã thấy vì sao mà Mỹ tấn công, như đã chứng tỏ, không có lý do nào hết. Iran mà không toan tính chế tạo vũ khí hạt nhân, chắc là họ điên”

[Page 63: But if Iran is in fact building nuclear weapons, we have to ask: is there some international law that says that the US, the UK, Russia, China, Israel, France, Pakistan anh India are entitled to nuclear weapons, but Iran is not? If the US had known that the Japanese had deliverable atomic bombs, would Hiroshima and Nagasaki have been destroyed? Israeli military historian Martin van Creveld has written: “The world has witnessed how the US attacked for, as it turned out, no reason at all. Had the Iranians not tried to build nuclear weapons, they would be crazy”]

Năm 2003, John LeCarré, tác giả nhiều tác phẩm về loại gián điệp, châm biếm:

Gót bổ nhiệm nước Mỹ để cứu thế giới theo bất cứ cách nào hợp với Mỹ. Gót bổ nhiệm Israel là sự quan hệ của chính sách ở Trung Đông của Mỹ và bất cứ người nào muốn lộn xộn với ý tưởng đó là a) kẻ chống-Do Thái, b) kẻ chống-Mỹ, c) về phe kẻ thù, và d) một kẻ khủng bố.

[God appointed America to save the world in any way that suits America. God appointed Israel to be the nexus of America’s Middle Eastern policy and anyone who wants to mess with that idea is a) anti-Semitic, b) anti-American, c) with the enemy, and d) a terrorist.” – John LeCarré, London Times, January 15, 2003]

Sau Đệ Nhị Thế Chiến, Mỹ là một cường quốc bá chủ về quân sự và kinh tế, nhưng không thể nói là Mỹ cũng đứng đầu về đạo đức và tâm linh, dù Mỹ vẫn tự cho mình là như vậy. Nhưng vị thế bá chủ và độc quyền của Mỹ đã bắt đầu đi xuống khi mà Mỹ không còn là nước duy nhất có vũ khí nguyên tử hay hạt nhân. Á Đông và thế giới thứ ba đang vươn lên về kinh tế và xã hội. Năng lực của Mỹ dùng kinh tế để ép các nước nhỏ không còn hiệu lực như trước. Uy tín của Mỹ giảm vì chính sách đối ngoại của Mỹ. Kết cục của cuộc chiến ở Việt Nam đã đưa đến nhận xét của Morris Dickstein trong cuốn Gates of Eden: American Culture in the Sixties, Basic Books, New York, 1977, trang 271:

Ở Việt Nam chúng ta không chỉ thua một cuộc chiến tranh và mất đi một tiềm lục địa, chúng ta cũng còn mất đi lòng tự tin lan tràn khắp xã hội rằng vũ khí và mục tiêu của Mỹ bằng cách nào đó nối kết với công lý và đạo đức, không chỉ với sự theo đuổi quyền lực. Mỹ đã thất bại về quân sự, nhưng “ý tưởng quốc gia” của Mỹ, huyền thoại về nước Mỹ mà chúng ta ấp ủ, còn bị một cú làm cho tiêu tan hơn…Việt Nam đã tước đi mất một hình ảnh về quốc gia này mà chúng ta hết sức cần đến.

[In Vietnam we lost not only a war and a subcontinent we also lost our pervasive confidence that American arms and American aims were linked somehow to justice and morality, not merely to the quest of power. America was defeated militarily, but the “idea” of America, the cherished myth of America, received an even more shattering blow… Vietnam robbed us of an image this nation we desperately needed.]

“Ý tưởng quốc gia và hình ảnh quốc gia” mà Dickstein muốn nói đến là quan niệm “Mỹ là dân Chúa, là một thị trấn trên ngọn đồi, nhìn xuống thế giới thấp kém bên dưới, và Mỹ là một quốc gia cao cả, đạo đức, dân chủ, tôn trọng nhân quyền, được Gót trao cho nhiệm vụ khai sáng thế giới..

Trong cuốn Dark Ages America, Morris Berman viết trong phần dẫn nhập, trang 1:

“Thật vậy, đối với đa số người Mỹ, có vẻ như không có mấy nghi ngờ là Mỹ đang ở đỉnh cao của sức mạnh quân sự, có thể làm lay chuyển thế giới theo ý của mình và được trao cho nhiệm vụ mang ánh sáng của dân chủ tới những nơi tối tăm nhất trên địa cầu”

[Indeed, for the majority, there appears to be little doubt that America is at the zenith of its military power, capable of shaking úp the world as it sees fit and charge with the mission of bringing the light of democracy to the darkest corners of the globe.]

Sau đó tác giả viết:

Các đế quốc, và các nền văn minh, lên rồi xuống, qua một chuỗi những giai đoạn trong quá trình. Chúng ta đã ở trong thời kỳ mông muội xa xưa khi Ronald Regan, với tất cả sự sáng suốt của con đà điểu, đã cho đó là “buổi bình minh của Mỹ”; 20 năm sau đó, dưới thời của “hoàng đế trẻ con” George W. Bush, chúng ta đã đi vào thời đại đen tối, theo đuổi một con đường thiển cận chỉ làm tăng nhanh sự suy thoái của chúng ta. Điều mà chúng ta đang thấy là những đặc tính hiển nhiên của Tây phương sau sự sụp đổ của La Mã: sự chiến thắng của tôn giáo trên lý trí; sự hao mòn của nền giáo dục và suy nghĩ phê phán; sự hợp nhất của tôn giáo, quốc gia và bộ máy tra tấn, và chính trị và kinh tế ngoài lề của nền văn hóa chúng ta.

[Empires, and civilizations, rise and fall, and they go through a series of stages in the process. We were already in our twilight phase when Ronald Reagan, with all the insight of an ostrich, declared it to be the “morning of America”; twenty-odd years later, under the “boy emperor” George W. Bush, we have entered the Dark Ages in earnest, pursuing a short-sighted path that can only accelerate our decline. For what we are now seeing are the obvious characteristics of the West after the fall of Rome: the triumph of religion over reason; the atrophy of education and critical thinking; the integration of religion, state, and the apparatus of torture, and the political and economic marginalization of our culture.]

Nhận định về sự suy thoái của Mỹ của tác giả dựa trên nhiều luận điểm trong một cuốn sách dày gần 400 trang. Vài luận điểm điển hình của tác giả như sau:

Vì tôn giáo thắng lợi trên lý trí, và dân chủ trở thành chế độ tài phiệt, Mỹ đã đi vào giai đoạn phát triển lịch sử không thể quay đầu trở lại… Một chính sách đối ngoại tự hủy diệt, chủ nghĩa cá nhân cực độ, sự bành trướng lãnh thổ và kinh tế, và sự theo đuổi giàu sang vật chất – tất cả, như là một nghịch lý, là những cái đinh đóng vào nắp quan tài của tập thể chúng ta…

[As religion triumphs over reason, and democracy turns into plutocracy, the nation has entered a phase in its historical development from wich there is no return… A self-destruction foreign policy, extrem individualism, teritorial and economic expansion, and the pursuit of material wealth – are now, paradoxically the nails in our collective coffin.]

Sau vụ 9/11 tổng thống Bush Con đặt câu hỏi: “Tại sao họ lại ghét chúng ta. Khi mà chúng ta quá thánh thiện” (Why do they hate us. When wer’e so good?) Một câu hỏi khá ngớ ngẩn vì nếu biết về chính sách đối ngoại của Mỹ và những việc làm vô đạo đức của Mỹ trên khắp thế giới thì Bush sẽ không bao giờ đặt câu hỏi như vậy.





Mặt khác, sau biến cố 9/11, trong khi hầu như cả thế giới đều ủng hộ Mỹ để chống khủng bố, thì Bush lại huênh hoang phát ngôn láo như dùng từ “thánh chiến” (crusade) để nói về cuộc tấn công Iraq, cùng đẩy nhiều nước ra xa bằng câu “Hoặc các người về phe chúng tôi, hoặc về phe những quân khủng bố” (Either you are with us, or with the terrorists). Có thể vì chỉ số thông minh IQ của Bush chỉ là 92, và theo Michael Moore trong cuốn Stupid White Men thì Bush, trong cuộc nói chuyện với sinh viên ở đại học Yale, tự hào là



một sinh viên có điểm trung bình C cũng có thể làm tổng thống, trang 87: “And to the C students, I say you, too, can be President of the United States”, và:



một tổng thống Mỹ chẳng mấy khi đọc cái gì – gồm cả những bản tin ngắn để cho ông ta đọc – và nghĩ rằng Phi Châu là một quốc gia chú không phải là một lục địa, trang 87: (a president who rarely reads anything – including his own briefing papers – and thinks Africa is a nation, not a continent).

Lẽ dĩ nhiên, với một tổng thống trình độ như vậy thì không lạ gì chính sách đối ngoại Mỹ nằm trong tay giới tài phiệt vây quanh như Cheney, Rumsfeld, Condoleezza Rice, Colin Powell v..v… với những công ty như Haliburton, AT&T, Enron, ExxonMobil (Moore, p. 31) Và Bush không hiểu tại sao người ta ghét Mỹ? Chúng ta hãy đọc vài lý do trên: Why People Hate America


Tại Sao Người Ta Ghét Mỹ?


Đây là một bài dài với nhiều chi tiết lịch sử, tôi chỉ đưa ra vài điểm:

Người Mỹ áp đặt những giá trị của họ trên người khác (Americans impose their values on others)
Làm nhiều điều vô đạo đức chống các quốc gia khác (do many immoral things against other nations)
Là những người vị kỷ nhất và kiêu căng (are the most self serving and arrogant)
Duy trì tình trạng độc quyền của Mỹ (maintain its monopoly status)
Người Mỹ tin rằng quốc gia của họ là tốt nhất trên thế giới. Là nước dân chủ nhất. Họ nghĩ rằng các quốc gia khác đều xấu (Americans believe their country is the best of the world. It is the most democratic country. They think others nations are bad)
Mỹ muốn xía vào những chuyện của các nước khác, dùng quân đội, kinh tế và truyền thông (Americans want to interfere in other’s affairs. Americans do it by using their military, economy and media.)
Nói ngắn gọn, người ta ghét Mỹ vì Mỹ toan tính thay đổi họ vào ý muốn của Mỹ (In brief, people hate America because Americans try to change them into American way.)

Mỹ là một đế quốc và giới trí thức Mỹ đã viết nhiều về “thế giới hậu-Mỹ” (post-American world) hay “thời đại hậu-Mỹ” (post-American era), có nghĩa là đế quốc Mỹ sẽ mất đi ảnh hưởng giống như các đế quốc ở Âu Châu. Berman cho rằng chỉ trong vài thập niên nữa là Mỹ sẽ ở ngoài lề của sân khấu thế giới (Within a few decades the US will be marginalized on the world stage). Điều này có nghĩa là Mỹ không còn ở vị thế bá chủ nữa.

Thay Lời Kết

Vài Lời Với Những Nhà Tranh Đấu Cho Dân Chủ Và Nhân Quyền Ở Việt Nam:


Trước hết, quý vị đã thấy, qua phần trình bày ở trên, thực chất món hàng dân chủ của Mỹ là như thế nào. Nấp sau chiêu bài dân chủ và nhân quyền của Mỹ để gây loạn trong xã hội là con đường tự hủy diệt. Thật ra quý vị không hiểu thế nào về dân chủ vì chưa có một ai đưa ra một lộ trình dân chủ thích hợp với văn hóa, xã hội và truyền thống của Việt Nam. Phạm Hồng Sơn cóp nhặt nguyên văn dân chủ của Mỹ mà không hiểu rõ dân chủ của Mỹ có nhiều mặt và thay đổi theo đường lối chính trị của giới cầm quyền và tài phiệt, thực chất là phi dân chủ. Lê Quốc Quân cũng được NED huấn luyện về dân chủ của Mỹ.

Ở trên, Berman đã viết: Vì tôn giáo thắng lợi trên lý trí, và dân chủ trở thành chế độ tài phiệt nên thực ra không làm gì có dân chủ thực sự ở Mỹ. Berman còn viết, trang 3: Chủ nghĩa bảo thủ Ki-tô và dân chủ thì hoàn toàn đối nhau [fundamentalism and democracy are completely antithetical] Và chúng ta đã biết, giới lãnh đạo Mỹ cũng như đa số quần chúng tin rằng Mỹ đã được Gót giao phó cho nhiệm vụ thống trị thế giới, và Bush cũng tuyên bố là ông ta hành sự theo lời của Gót nói với ông ta. Như vậy thì làm gì có chuyện dân chủ, vì bản chất của Gót là độc tài, ác ôn.

Về nhân quyền thì tin Việt Nam nay chính thức là thành viên của Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc chắc chắn là làm cho quý vị không vui, vì tin đó như một cái tát vào mặt quý vị và những tổ chức, cá nhân chuyên trơ trẽn xía vào những chuyện nội bộ nhỏ nhặt ở Việt Nam, rêu rao là vấn đề nhân quyền ở Việt Nam rất tồi tệ, đặc biệt là Phil Robertson của tổ chức HRW. Những lời quý vị lên án một cách thiển cận Việt Nam vi phạm nhân quyền đã trở nên lạc lõng, lố bịch và vô giá trị.

Kết quả 184/192 quốc gia bầu cho Việt Nam vào Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc chứng tỏ thế giới đã nhận định là ở Việt Nam không có vấn đề nhân quyền như là chính sách của Nhà Nước. Nhưng quý vị không chịu mở mắt ra để nhìn vào thực tế. Đối với những người nấp sau chiêu bài dân chủ và nhân quyền để chống Cộng, hoặc vì hội chứng Việt Nam, Tây phương bị đá ra khỏi Việt Nam trong hai cuộc chiến, thì Việt Nam không xứng đáng vào Hội Đồng Nhân Quyền vì Việt Nam vi phạm nhân quyền rất trầm trọng. Trang nhà voatiengviet.com có bài “Quốc tế phản ứng về việc Việt Nam vào Hội đồng Nhân quyền LHQ” nói lên sự ngu dốt của voatiengviet, trong đó Quốc tế của voatiengviet chỉ là Phil Robertson và Võ Văn Ái. Quốc tế là các nước trên thế giới hay là hai nhân vật ngu xuẩn và đạo đức giả ở trên, hay Quốc tế là những tổ chức VOAtiengviet, BBCtiengviet, RFI, RFA, AI, HRW v…v… chuyên xía vào chuyện nội bộ của Việt Nam. Tôi nói là ngu xuẩn và đạo đức giả vì Mỹ mới chính là nước vi phạm nhân quyền vào bậc nhất trên thế giới, chứ không chỉ riêng trên đất Mỹ. HRW có vẻ như mù trước Gitmo, Guantánamo, Abu Ghraib, những trung tâm tra tấn tù nhân theo chính sách chính thức của Mỹ [xin đọchttp://www.globalresearch.ca/torture-as-official-us-policy], chỉ nhìn thấy cái kim ở Việt Nam mà không thấy cái đà đang xuyên vào mắt Mỹ. Mà Mỹ cũng đã là thành viên của Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc đương nhiệm. Nếu quý vị muốn gửi thỉnh nguyện thư hay “mách bu” thì nên tìm “bu” khác. Nhưng trên cục diện quốc tế ngày nay, không có “bu” nào có thể giúp quý vị đạt được mục đích đâu. Vài sự kiện lịch sử về nhân quyền của Mỹ cho chúng ta thấy rõ vấn đề.

Năm 1986, Mỹ là quốc gia duy nhất đã bị Tòa Án Quốc tế (World Court) kết án là khủng bố quốc tế - dùng võ lực bất hợp pháp, cho những mục tiêu chính trị (The Chomsky Reader, p. 84: In 1986, the U.S. was the only country comdemned by the World Court for international terrorism – for “unlawful use of force” for political ends) và Mỹ đã phủ quyết một nghị quyết của Hội Đồng An Ninh Liên Hiệp Quốc kêu gọi mọi quốc gia, trong đó có Mỹ, phải tôn trọng luật lệ quốc tế.

Cường Quyền Đã Thắng Công Lý

Tại sao Mỹ không dám công nhận quyền của Tòa Án Quốc Tế Le Hague? Vì nếu công nhận thì Mỹ sẽ là quốc gia đầu tiên bị đưa ra Tòa Án Quốc tế về những tội ác chiến tranh (war crimes) trong đó có những tội ác ở Việt Nam.

Đầu tháng 5, 2001, Liên Hiệp Quốc đã bỏ phiếu hất Mỹ ra khỏi Ủy Ban Nhân Quyền Quốc Tế trong đó Mỹ liên tục là một thành viên từ năm 1948, trong khi Trung Quốc, Việt Nam, Cuba đều được bầu làm thành viên. Điều này cho thấy, Mỹ chỉ có thể dựa vào ưu thế kinh tế và quân sự chứ không thể dựa vào chiêu bài “nhân quyền”. Nếu Mỹ thực sự tôn trọng nhân quyền trên nước Mỹ cũng như trên thế giới thì tại sao Mỹ lại bị loại ra khỏi Ủy Ban Quốc Tế Nhân Quyền? Nhưng Mỹ là một cường quốc mạnh nhất về quân sự và kinh tế nên Mỹ muốn làm gì cũng được, muốn nói gì cũng được, vì Mỹ biết không có nước nào có khả năng để chống Mỹ

Về biến cố này, Vince Hyaner đã viết trong bài “Những Vi Phạm Của Hoa Kỳ” (US Violations) :

“Sự loại Hoa Kỳ ra khỏi Ủy Ban Nhân Quyền là một bất ngờ cần được hoan nghênh. Trong khi các chính trị gia, ký giả và dân thường hỏi tại sao, câu trả lời ở ngay trước mắt chúng ta: Hoa Kỳ có một thành tích khủng khiếp về nhân quyền.. Hi vọng rằng sự loại Hoa Kỳ ra khỏi Ủy Ban Nhân Quyền là một dấu hiệu mà các thành viên khác của LHQ sẽ không dung dưỡng cho những hành động không hề thay đổi, đơn phương tấn công nhân quyền của Hoa Kỳ.”

(The ejection of the US from the UN Human Rights Committee is a welcome surprise. While politicians, journalists and everyday people ask why, the answer is right in front of us: The US has a horrible human rights record…It is hoped that this ejection comes as a sign that the other members of the UN will not tolerate the consistent unilateral assaults on human dignity by the US.)

Các Trường Hợp Điển Hình Việt Nam “Vi Phạm Nhân Quyền”

Vậy thì Việt Nam vi phạm nhân quyền tồi tệ như thế nào mà những cá nhân vô tên tuổi hay những tổ chức của nước ngoài cứ nhao nhao lên án là Việt Nam vi phạm nhân quyền? Sau đây là vài trường hợp điển hình nói lên những hành động vi phạm nhân quyền tồi tệ của Việt Nam, lẽ dĩ nhiên tồi tệ theo quan niệm của những người chống Cộng, hay của những tổ chức như VOAtiengviet, BBCtiengviet, RFI, RFA, AI, HRW:




Thứ nhất, Việt Nam không tôn trọng “nhân quyền chửi bậy trong tòa” của Chúa thứ hai Nguyễn Văn Lý mà lại cho công an bịt miệng ông ta thay vì vả vào miệng ông ta mấy cái vì tội nói láo trong tòa, coi thường tòa án. Vả chứ đừng có tra tấn như anh hai ở  Guantanamo.

Thứ nhì, Việt Nam không tôn trọng “nhân quyền huy động giáo dân cầu nguyện với búa, kìm và xà beng” của TGM Ngô Quang Kiệt mà lại toa rập với Vatican để đuổi ông ta ra khỏi nước, để cho ông ta được vinh hạnh mang hộ chiếu của một “tổ chức tội phạm quốc tế”, khỏi phải mang danh là ông “Tổng Kiệt nhục nhã” như lời tự nhận của ông ta.

Thứ ba, Việt Nam cho cán bộ mở cửa phòng giam tù để cho gió độc lùa vào ám sát vua tù Cù Huy Hà Vũ, không cho hắn có cơ hội ứng cử vào chức bộ trưởng và kiện tụng bảo vệ tác quyền của… Mozart và Beethoven.





Thứ tư, Việt Nam dám bắt em bé cờ vàng Phương Uyên của đám người hoài cờ vàng, hoài Ngô, hoài Mỹ, hoài đô-la rồi lại thả với lý do: “Con nhỏ này ngây thơ và dại, nó là đứa con nít cần ít đô la và cái laptop nên bị người ta xúi nó ăn cứt gà, tha cho nó để cho bọn “bọ xít” ca tụng nó là “anh thư” và để cho nó đi tế Ngô Đình Diệm”, hi vọng có thể kiếm thêm ít đô từ hải ngoại.

Thứ năm, Việt Nam chỉ bảo vệ “nhân quyền của đám Chúa thứ hai”, chuyên xúi giáo dân cuồng tín làm loạn, nhưng lại không bảo vệ nhân quyền của mấy tên giáo dân côn đồ hành hung cán bộ, ném gạch đá ở giáo xứ Mỹ Yên, dám bắt chúng bỏ tù.





Thứ sáu, Việt Nam không bảo vệ “nhân quyền trốn thuế” của tên luật sư Lê Quốc Quân mà lại mang ra xét xử, hầu như không coi Lê Quốc Quân có kí lô nào, dù rằng hắn là người mà NED đã huấn luyện, do đó có McCain và Albright chống lưng, tin rằng Phil Robertson sẽ bắt chính quyền Việt Nam phải “thả ngay lập tức”.

Gần đây, dân chống Cộng lại hồ hởi loan tin Hạ Viện Mỹ làm Luật Nhân Quyền cho Việt Nam. Thật không có gì lố bịch bằng! Đáng lẽ phải làm lại luật nhân quyền cho Mỹ. Làm luật nhân quyền cho Việt Nam rồi phái thái thú về cai trị Việt Nam, thế là vừa lòng quý vị chống Cộng. Quý vị cứ hi vọng đi, chờ đợi cho đến Tết Congo, cũng như chờ đợi sự trở lại của anh nhà quê Do Thái đã 2000 năm nay mà chẳng thấy tông tích anh ta ở đâu, và vẫn kiên trì chờ đợi.





Guantanamo: Tính đến tháng 7 năm 2005, đã có nói là hơn 500 người bị giam giữ trong trại - AP. Trong 800 tù nhân bị trải qua trại tù Vịnh Guantanamo, chỉ có 223 sống sót. Ảnh http://www.examiner.com/


Chuyện Hạ Viện Mỹ trước đây đưa ra dự luật về nhân quyền cho Việt Nam là một hình thức trịch thượng ngu xuẩn hòng áp đặt vô lối quan điểm về nhân quyền của Hạ Viện Mỹ trên quốc gia Việt Nam, một hình thức xâm phạm chủ quyền Việt Nam. Chỉ có Quốc Hội Việt Nam mới có đủ tư cách để làm luật nhân quyền cho Việt Nam. Nhưng thực chất dự luật về nhân quyền cho Việt Nam (sic) chỉ là một trong những chuyện láo lếu mà ký giả Victor Davis Hanson viết trên tờ Chicago Tribune ngày 19 tháng 10, 2007, là:Quốc Hội Nhúng Mũi Vào Những Chuyện Không Phải Nhiệm Vụ Của Họ [Congress Sticks Its Nose Where It Doesn’t Belong]. Ký giả Hanson viết rằng theo Hiến Pháp Hoa Kỳ thì Tổng Thống quyết định đường lối ngoại giao, và Quốc Hội [gồm Thượng Viện và Hạ Viện], ngoài nhiệm vụ phê chuẩn các hiệp ước hay chấp thuận quyền phát động chiến tranh, chỉ có nhiệm vụ duyệt chính sách của Tổng Thống để hoặc chấp thuận hoặc bác bỏ ngân quỹ để thi hành chính sách đó [The president establishes American foreign policy.. Then Congress oversees the president's policies by either granting or withholding money to carry them out – in addition to approving treaties and authorizing war].

Đưa ra dự luật về nhân quyền cho Việt Nam cũng như những chính sách thuộc lãnh vực ngoại giao là “nhúng mũi vào những việc không thuộc thẩm quyền của Quốc Hội”. Ký giả Hanson than phiền là “gần đây cả trăm dân biểu trong Quốc Hội đã quyết định là họ đối phó với những vấn đề ngoại giao quốc tế thích hợp hơn là Bộ Ngoại Giao”[But recently hundreds in Congress have decided that they’re better suited to handle international affairs than the State Department]. Và ký giả Hanson kết luận là những việc “nhúng mũi” của Quốc Hội này đã gây bất lợi cho chính sách ngoại giao của Mỹ, nhưng lại không có trách nhiệm giải quyết những rắc rối sinh ra bởi những hành động tự do theo ý họ về chính sách đối ngoại của Mỹ. [So they pass resolutions (thông qua các Nghị Quyết) and pontificates a lot (làm như đó là những sắc lệnh của Giáo hoàng ban cho giáo dân), but rarely have to clean up the ensuing mess of their own freelancing of American foreign policy).]

Với một thành tích khủng khiếp về nhân quyền, với chính sách đối ngoại mà kết quả là vi phạm nhân quyền trầm trọng ở nhiều nơi trên thế giới, với những vi phạm nhân quyền ngay trên đất Mỹ, với chính sách chính thức cho phép tra tấn tù nhân v…v… tôi nghĩ “Mỹ, hay những cá nhân Mỹ, bất kể họ là thượng nghị sĩ hay dân biểu, hay những tổ chức của Mỹ như HRW, AI, đều không có tư cách để nói về nhân quyền ở Việt Nam”. Còn những tiếng ỉ eo cất lên trong sa mạc truyền thông của dân Mít ta thì thật sự không đáng nói đến.

Và đây là lời kết luận của tôi để chấm dứt bài viết này.



Trần Chung Ngọc

Viết Nhân Dịp Lễ Tạ Ơn 28.11.2013
Để Tạ Ơn:

Tổ Tiên và Các Anh Hùng Liệt Sĩ Của Dân Tộc Việt Nam
Cùng Tất Cả Những Ai Đã Góp Công Giữ Nước Và Xây Dựng Nước



GS Đặng Phong nói chuyện với các bạn trẻ


GS Đặng Phong nói chuyện với các bạn trẻ
Tác giả: Lê Ngọc Sơn ghi lại (Hà Nội – Tháng 11-2008)
Viet-Studies

GS. Đặng Phong mất ngày 20.8.2010.
Điều thú vị là ông chưa hề được sắc phong giáo sư, và là giáo sư lịch sử kinh tế nhưng mọi người, nhất là giới học giả nước ngoài, đều gọi ông là giáo sư.
“GS. Đặng Phong sinh năm 1939 tại Hà Tây, tốt nghiệp khoa Lịch sử Đại học Hà Nội năm 1960 và khoa Kế hoạch Đại học Kinh tế Quốc dân năm 1964. Cuộc đời làm khoa học của ông gắn bó với công việc nghiên cứu và giảng dạy về lịch sử kinh tế. Trên cương vị nhà giáo, ông đã đào tạo hàng ngàn sinh viên với một phong cách giảng dạy độc đáo và thú vị, rất được sinh viên ưa thích. Trên cương vị nhà nghiên cứu, ông từng là chủ nhiệm nhiều đề tài cấp bộ như: Biên niên kinh tế Việt Nam, 60 năm kinh tế Việt Nam 1945-2000, Những mũi đột phá trong kinh tế Việt Nam v.v… . Đặng Phong còn là tác giả của nhiều cuốn sách về sử kinh tế, trong đó có hai cuốn rất nổi tiếng là Tư duy kinh tế Việt Nam 1975-1989 (2008) và Phá rào trong kinh tế vào đêm trước Đổi mới (2009)”. (Nat)
.
Xin đọc thêm: http://kimdunghn.wordpress.com/2014/08/17/ngon-lua-nhan-gian/
—————
- Trong vai trò là một nhà nghiên cứu về lịch sử kinh tế, GS nhận thấy điểm nổi trội nhất của tư duy kinh tế Việt Nam là gì?
.

GS Đặng Phong


Hôm nay tôi nói chuyện với các bạn trẻ tức là tôi nói với tôi 50 năm về trước. Khi nói chuyện với các bạn trẻ thì tôi nhớ lại rằng khi tôi 20 tuổi, tôi nghĩ như thế nào, tình cờ theo cách gì, tôi đọc sách báo, nghe thầy/cô giảng thì tôi nghĩ gì? Hôm nay có một bước lùi 50 năm của đời tôi, nói chuyện với các bạn khiến tôi phải hình dung như tôi nói với chính tôi trước đây 50 năm. Nói như thế thì mình khởi đầu hơi xa một chút, bởi nếu không thế các bạn trẻ sẽ không hiểu được khi đọc cuốn “Tư duy kinh tế” của tôi. Những người lớn hiểu, các bạn trẻ tôi chắc sẽ chưa hiểu được mục đích là tại sao thế hệ trước lại có nhiều cái huý kỵ như thế, lại sùng bái một số lý thuyết như kế hoạch hoá tập trung, công hữu xã hội chủ nghĩa, tại sao các cụ già mình lẩm cẩm thế, các bạn sẽ đặt câu hỏi là công xã mình tồi quá nhỉ? Tôi muốn nói để các bạn hiểu thế hệ đó không tồi và nếu không có người giải thích, các bạn trẻ sẽ hiểu mấy ông già này cuồng tín quá.

Phải trở lại với chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc; năm 1945, người Pháp đô hộ Việt Nam một cách tàn bạo vô nhân đạo khiến nền kinh tế của ta gần như không phát triển, chỉ có cướp bóc và cướp bóc. 80 năm để cho dân nước ta mù chữ, để dân phải đói khát, thiếu thốn, rách rưới, một năm giỏi lắm được 3 tháng ăn cơm còn lại ăn cháo, ăn sắn, ăn ngô… Cái nền thống trị của thực dân Pháp mà để cho nền kinh tế Việt Nam như thế à? Tuy nhiên, có như thế mới nảy sinh ra Nguyễn Ái Quốc, mới có những chàng thanh niên tuấn tú, kiên cường đi tìm con đường để giải phóng đất nước. Nếu nước Pháp đối xử với Việt Nam như bây giờ thì ai đi giải phóng đất nước làm gì. Và trong cái bế tắc ấy thì rất nhiều người đi tìm các con đường khác nhau. Phong trào Cần Vương là muốn khôi phục lại triều đại phong kiến, hay phong trào Duy Tân thì muốn học Tây, học Nhật cũng đều không thành công. Rồi đến Quốc Dân Đảng của Nguyễn Thái Học đi kiếm mấy khẩu súng sau đó định đi cướp đồn địch, vẫn không có kết quả.

Có một đội ngũ duy nhất, đông đảo tài giỏi nhất đi tìm đến với chủ nghĩa Mác-Liên Xô, đó là con đường giải phóng Việt Nam. Tôi muốn nói kỹ về việc đó để các bạn trẻ hiểu rằng, thế hệ đó không dại dột. Đó là lớp người thông minh và kiên cường nhất Việt Nam thời kỳ đó. Và sự lựa chọn hữu ý ấy có cái lý của nó. Liên Xô khi đó đánh bại phát xít Đức, trở thành một cường quốc, đó là một tấm gương. Lựa chọn Lênin, chủ nghĩa xã hội là lựa chọn của đại đa số người dân thông minh nhất Việt Nam khi đó. Tôi muốn các bạn trẻ hiểu được điều đó để kính trọng những người đi trước kể cả những sai lầm của họ. Phải hiểu những sai lầm ấy là sự trả giá cho những cái đúng. Cái cơ bản là chúng ta huy động được toàn dân để giải phóng đất nước này, dành độc lập cho nước Việt Nam. Việt Nam có thể tự hào với thế giới vì chiến thắng Điện Biên Phủ, với đại thắng mùa xuân…

Thứ hai, cũng liên quan tới các bạn, các bạn rồi cũng sẽ như tôi thì hãy cảnh giác. Có khi tuổi trẻ làm được những điều rất tốt nhưng đến một giai đoạn nào đó, tình thế đổi mới, mọi thứ khác đi mà mình vẫn dùng theo phương pháp cũ thì không được. Điều đó đã xảy ra với thế hệ của chúng tôi trước đây, tôi tin tưởng những lý thuyết đó là đúng và nó đúng, tuy nhiên trong lịch sử loài người không có bất cứ lý thuyết nào là đúng tuyệt đối với mọi thời đại cả, nó đúng ở lúc này ở chỗ này nhưng vào chỗ khác chưa chắc đúng.

Chiến thắng của chúng ta năm 1975 giúp một thế hệ rất đông trong đó có tôi nghĩ rằng mình có thể trở thành một cường quốc trên thế giới. Đi tiếp về con đường đó nhưng chúng tôi đã vấp, mô hình kinh tế đó vào thời bình không thích ứng và gây ra ách tắc như tôi đã nói. Cái ách tắc đó tôi không đổ lỗi cho riêng ai, đó là lỗi của thời đại. Có điều đáng tiếc là lúc đó chúng ta bị ám ảnh quá nhiều bởi những nguyên tắc cũ kỹ mà lẽ ra sẽ tỉnh ngộ sau 1-2 năm thì chúng ta mất 10 năm, điều đó làm chậm bước đi của chúng ta. Tôi nghĩ rằng cái đó là bài học cho thế hệ mai sau. Đến khi 30 tuổi thì chớ có nghĩ và làm như khi mình 20 tuổi mà phải làm khác đi, đừng có chủ quan và duy ý chí. Đó là một bài học giá trị.

Thứ ba, tôi muốn nói với các bạn rằng bắt đầu đổi mới kinh tế Việt Nam thì có một sự đổi mới về “nhân dụng”. Thế hệ trước chúng tôi, những người trẻ gần như không có bao nhiêu vị trí. Thế hệ mà khi những nhà lãnh đạo trong Bộ Chính trị đã 60-70 tuổi thì 40 tuổi vẫn cứ bị coi là trẻ con, trong khi ngoài 40 tuổi người ta có thể làm Tổng thống Mỹ được. Có một giai đoạn người trẻ không được trọng dụng. Tôi nhớ thời tôi có một câu hát rất thấm thía với thế hệ trẻ: Khi người ta cần già thì mình còn trẻ, khi mình còn trẻ thì người ta lại cần già. Khi người ta cần đàn bà thì mình lạ là đàn ông. Trải qua bao xuân hạ thu đông, đến khi cần trẻ thì ông đã già. Đó là cái chua chát của thế hệ chúng tôi.

Thế hệ các bạn trẻ từ sau đổi mới thì có thêm một sự đổi mới nữa về nhân lực. Có rất nhiều chuyên gia trẻ tuổi tạo dựng được một chỗ đứng do chính năng lực của họ. Trong Viện nghiên cứu của tôi ở trường ĐH có thể thấy rõ điều đó. Những em đã học ở nước ngoài về rất có bài bản, ngoại ngữ rất tốt, đọc sách rất nhiều, các cụ già trợn mắt: Ừ, thằng này giỏi, cãi nó không được. Đó là sức mạnh của các bạn, của trí tuệ và sự thật. Những thế hệ chúng tôi có học đến như thế cũng không được vì điều kiện của người ta phải là ở nhà tù Côn đảo, phải tham gia chiến tranh, phải có bao nhiêu huân huy chương cơ. Thế hệ bây giờ thì không, kiến thức là cái quyết định. Các bạn đang làm một cuộc cách mạng, từ ngày Đổi mới các bạn trẻ (mà bây giờ cũng sắp thành các cụ già rồi) đã đem lại những đóng góp rất quan trọng vào công cuộc chuyển đổi của đất nước.

Bấy giờ giới trẻ có thể làm rất nhiều việc, tôi càng ngày càng thấy giới trẻ vượt qua mình. Tôi rất thích dùng người trẻ: Nói chuyện thì với cụ già, nhưng làm việc thì phải cùng người trẻ. Ở nhà này, trong đội ngũ của tôi, làm việc là tôi dùng người trẻ vì đem lại hiệu quả rất cao và điều quan trọng là họ không kênh kiệu về thành tích của mình. Cho nên tôi bảo, họ nghe tôi rất nghiêm chỉnh, và tôi có chỗ nào không đúng thì họ cũng sẵn sàng góp ý.

Thế hệ trẻ bây giờ có những vận hội rất lớn, các bạn không bị ngăn chặn bởi một cái hiện tượng mà tiếng Tây có nghĩa là “kính lão”. Vẫn kính lão vì các bạn đến nhà tôi, kính trọng tôi vì tôi lớn tuổi, đi xe bus ở nước ngoài thì người ta nhường ghế cho tôi. Kính theo mức ấy thôi chứ không phải là kính theo kiểu ông bảo gì tôi cũng phải nghe. Họ có suy nghĩ và quan điểm của mình, có cách giải quyết của mình. Tôi đánh giá như thê là một cách kính lão hiện đại.

Điều cuối cùng tôi muốn nói với các bạn là: Tuổi trẻ có cơ hội để thâu nạp cho mình rất nhiều kiến thức. Tự tìm cho mình một chỗ đứng không cần dựa giẫm vào ai, không cần xin xỏ, bon chen. Nếu thực sự có năng lực thì sẽ có chỗ đứng trong xã hội. Cái chỗ đứng là của cá nhân, điều quan trọng hơn là góp một phần nào đó cho sự phát triển của xã hội thì các bạn cũng hoàn toàn làm được. Điều tôi muốn khuyên các bạn là phải luôn biết cảnh giác với bản thân mình.

Nhiều khi nói chuyện với rất nhiều bạn trẻ tôi phải thành thật nói rằng thầy trò chúng tôi cãi nhau rất nhiều, tuổi trẻ nghĩ mọi việc đơn giản quá. Nhiều người muốn cải cách đất nước. Tôi hỏi: Em sẽ cải cách bằng cách nào thì họ im lặng. Con đường để đưa nước Việt Nam thành một quốc gia phát triển không đơn giản như các bạn nghĩ. Cải biến một xã hội không phải là quét một cái nhà, không phải là khiêng một cái bàn với mấy cái ghế, muốn chuyển biến điều đó cần có sự chuyển biến của hàng triệu triệu con người. Muốn là một chuyện, được hay không lại là chuyện khác. Muốn mà không được thì sinh ra tức tối, chán nản. Đó là điều mà tôi khuyên các bạn nên tránh. Phải kiên nhẫn và cố gắng để hiểu xã hội này. Phải nhìn xã hội như thực thể của 80 triệu con người chứ không phải đơn giản. Mình có ý kiến như thế này, người khác lại không nghĩ thế. Làm thế nào mà có thể bắt người ta theo mình được? Chính vì vậy, ngoài mở mang kiến thức các bạn còn phải suy nghĩ rất sâu sắc.

Qua quãng thời gian nghiên cứu về tư duy kinh tế Việt Nam, ông có thể vẽ lên vài nét về đặc điểm của nó?

Tư duy kinh tế ở Việt Nam thế hệ chúng tôi có thể gọi là tư duy sách vở thì đúng mà cũng không đúng, vì sách vở thời đó chẳng có bao nhiêu, toàn bộ tư duy kinh tế xoay quanh bộ Tư bản. Nếu sách vở chỉ có thế thì làm sao có kinh tế học được. Bây giờ mới thấy kinh tế học là hàng trăm bộ sách, và một bộ sách best-seller cũng chỉ tồn tại được khỏang 10 năm và sau đó lạc hậu và lại có những cuốn khác. Tư duy kinh tế (khi đó) mà cứ nằm trong bộ Tư bản luận của Mác thì không được.

- Nghĩa là chẳng có mô hình nào là hoàn hảo cả, và bắt chước là một đại họa?
Tư duy kinh tế bây giờ là một thứ kinh tế pha tạp giữa nhiều lý thuyết khác nhau. Những năm 1992-1993 thì thấy tư duy kinh tế của Nhật Bản là quan trọng nhất. Bây giờ thì Nhật Bản hỏng rồi. Một thời thì học Thái Lan nhưng bây giờ ai sang sân bay Thái Lan để học đây? Một thời học Mỹ, mê thích Mỹ lắm nhưng khi Mỹ sa lầy ở Irắc thì ai dạy Mỹ đây? Mỹ khủng hoảng và câu hỏi đặt ra là phải làm kinh tế như thế nào vì Mỹ là đầu mối của cuộc khủng hoảng. Mỹ đã từng dạy cả thế giới, vậy thì giờ Mỹ lâm hoạ, ai sẽ dạy cho Mỹ đây?

Chúng ta đi theo sau quá nhiều nước khác nhau và đến nay thì vẫn chưa thể hình thành cho mình một hệ thống tư duy kinh tế cho chính mình. Tuy nhiên điều đó không đáng trách vì hình thành cần có thời gian, 10 năm chưa đủ. Phải có các nhà kinh tế học. Câu hỏi đặt ra là những nhà kinh tế học là ai? Họ theo định nghĩa là những người có thể đưa ra tư duy kinh tế góp phần cho sự phát triển của đất nước mình. Có một học thuyết như thế không, chúng ta tìm đi. Câu trả lời là chưa có. Chúng ta đang tìm theo cách là cứ đi sẽ đến. Như mô hình kinh tế bao cấp thời trước, bây giờ tôi tổng kết lại thì nó là cái gì? Còn bây giờ chúng ta đang vừa làm, vừa thiết kế, vừa thi công. Trong thi công, điều chỉnh cái bản thiết kế. Đó là cách của người Việt Nam. Hay nếu nói có thể vẽ một đường nét nào đó chính xác nhất cho tư duy kinh tế của Việt Nam thì đó chính là một ngôi nhà vừa thiết kế vừa thi công.

- Để hình thành lên một đội ngũ những nhà kinh tế học đúng nghĩa như mình mong muốn, thì lãnh đạo cần phải thay đổi cách nhìn nhận với khoa học, đặc biệt là khoa học kinh tế?

Thực tế trái với tư duy kinh tế đôi khi tạo nhận thức rất khác nhau. Thực tế được nhìn từ rất nhiều chiều. Tôi nhớ những năm kinh tế khủng hoảng 1978-1979, dân không có gạo phải đi ăn mày thì có người cho rằng là do địch phá hoại nên cần trấn áp, bắt bớ bọn phản động. Có người lại nhìn nó là giác ngộ của quần chúng lao động còn kém nên cần tăng cường giáo dục. Có người cho rằng trình độ quản lý kém dù đã mời 5-7 chuyên gia Liên Xô về giảng dạy. Đó là những cách chẩn bệnh của những ông lang khác nhau. Cuối cùng thì cuộc sống nó phải tự mở đường đi. Đây là bệnh của cơ chế, không phải địch phá hoại, không phải giác ngộ của quần chúng. Để tìm ra căn bệnh này chúng ta mất 10 năm. Bây giờ cũng thế, lạm phát, khủng hoảng, tham nhũng là một thực tế. Nhưng giải thích có nhiều cách khác nhau: Tại trình độ giáo dục của cán bộ kém à? Thế thời kháng chiến đói quá phải tham nhũng à? Thời chúng tôi thiếu đói mà giữ cái kho không thất thoát một hạt thóc nào cả. Thế thì giải thích bằng sự thiếu đói thì có đủ và đúng không. Đó làđiều thứ nhất.

Điều thứ hai, bây giờ không phải là nhận thức nữa mà là lợi ích. Rất nhều các nhóm lợi ích đã hình thành và chúng tác động đến mặt này mặt kia của các biện pháp. Ta cũng biết là một “đại gia” có thể ảnh hưởng tới quyết định của tỉnh và nhiều ông đã phải ra toà chính vì có nhiều nhóm lợi ích điều hành chính sách. Đến lúc đó thì không phải là đúng sai nữa mà là có lợi hay không có lợi.

- Theo quan điểm của giáo sư, những khó khăn của nền kinh tế hiện nay có phản ánh điều gì về tư duy kinh tế người Việt không?
Việt Nam là đối tượng chịu ảnh hưởng của khủng hoảng chứ không phải đối tượng gây ra nên tư duy kinh tế Việt Nam không liên quan tới cái khủng hoảng đó. Tuy nhiên vấn nạn của nền kinh tế Việt Nam hiện nay là tham nhũng, là tăng trưởng có một tỉ lệ rất ảo…

- Có vẻ như trong những năm gần đây thì tư duy kinh tế của Việt Nam có kiểu áp dụng hỗn tạp từ nhiều quốc gia khác. Nên chăng, mỗi quốc gia cần tạo cho mình một tư duy kinh tế mang bản sắc riêng?

Tôi nghĩ không nên dùng từ hỗn tạp, nó chỉ là sự pha tạp. Chúng có sự khác nhau vì hỗn tạp thì không có trật tự gì cả, bừa bãi trong khi sự pha tạp thì giống như ta làm cocktail. Chúng ta theo mô hình Nhật Bản, Thái Lan, cũng có ý kiến muốn theo mô hình Bắc Âu nhưng trong một khoảng thời gian ngắn không thể có ngay một chủ thuyết cho chính mình và đứng có yêu cầu Việt Nam phải có cái đó ngay lập tức. Tôi e rằng ai đó sẽ tham vọng quá khi nói rằng muốn đưa ra một chủ thuyết cho Việt Nam trong 1-2 năm tới. Để có được một chủ thuyết phát triển thì phải có sự phát triển đã. Trên cơ sở sự phát triển đó, mình rút kinh nghiệm từ thực tế để đưa ra lý thuyết phát triển. Hàn Quốc, Đài Loan hay Nhật Bản đều như thế. Một thuyết phát triển không phải là một cái bánh mỳ mà mình nặn rồi cho vào lò là được. Cái lò kinh tế đó cần thời gian hàng chục năm mới có thể đưa ra sản phẩm của trí tuệ. Hiện nay, chúng ta đang tìm và thế hệ các bạn phải đóng góp chất xám.

- Cái Tết năm 2006 được coi là cái Tết vui nhất của người Việt vì kinh tế phát triển chưa từng có. Tuy nhiên, từ đó mà ta thấy rằng cách chèo lái nền kinh tế Việt Nam, giống như một người trẻ mới lớn có tính cách bộc phát: nhanh chóng tự hào, say sưa vì cái thành tích mà mình đạt được?
Xét về đổi mới kinh tế Việt Nam thì đúng là từ thời kỳ đó đến nay Việt Nam là một nước trẻ, với thế giới thì giống như một chàng trai trẻ mới chập chững ra thành phố mang theo cả những thành tích. Thành tích là thật nhưng lại dễ làm người ta có những niềm vui quá đáng làm người ta quên đi mình còn rất trẻ.

Tôi chưa thấy Thủ tướng nước nào sang Mỹ gặp Tổng thống bên họ mà phải cầm giấy đọc. Mà một tổng thống thì có gì là quá ghê gớm, ngồi với George Bush cũng giống như ngồi với sinh viên, thanh niên các bạn thôi, việc gì mà phải khúm núm, khép nép đến mức không thể nói được một câu. Ông không nhớ trong đầu ông cần nói gì à mà phải cầm giấy? Thế thì ông điều hành cái đất nước như thế nào, cũng cầm giấy à? Điều đó nghĩa là chúng ta có nhiều điều đáng tự hào nhưng cũng có không ít điều đáng hổ thẹn.

- Theo ông người trẻ nên xây dựng cho mình cái lý tưởng như thế nào để có thể góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước trong tương lai?
Thế hệ các em so với chúng tôi hơn nhiều cái những cũng kém nhiều cái. Tôi cảm thấy các em không yêu nước như chúng tôi trước đây. Các em nghĩ đến nhà cửa, tài khoản (tiền), không nghĩ tới sự dấn thân cho điều gì đó dài hơi có thể gian khổ. Các em có phần nghĩ đến mình nhiều hơn trước kh nghĩ đến đất nước. Tôi miễn bình luận vì cái đó không phải lỗi của các em mà là tại lịch sử. Tiếp nữa là các em được mở cửa ra thế giới, tiếp cận với nhiều thứ và vớ được bất cứ cái gì cũng cho là của quý, của thiên hạ là nhất. Nhiều em đi học nước ngoài về, say sưa với những lý thuyết học được và nghĩ rằng có thể thay đổi đường lối của đất nước rối nhưng theo tôi thì còn lâu. Khi chụp giật được một vài cuốn sách, một vài bài báo thì nghĩ mình có thể làm thánh làm tướng đều được. Tuổi trẻ hay hấp tấp những đáng khen ở chỗ có lòng can đảm, dám nói ra chính kiến của mình. Thế hệ chúng tôi không có được điều đó.

- Gần đây, Chính phủ đã bắt đầu cảnh báo vần đề môi trường mặc dù nó đã không còn mới trên thế giới nữa. Có người nói mình đang phát triển bằng mọi giá trong đó có hy sinh môi trường cùng các yếu tố khác. Vậy suy cho cùng, nét tư duy kinh tế của mình là như thế nào trong thời điểm hiện tại, thưa ông?
Cái đó không phải là tư duy của riêng Việt Nam, Thái Lan, Indonesia cũng như thế, đặc biệt là các nước đang phát triển cần đi nhanh để đuổi kịp người khác. Nhưng hậu quả của nó là ông càng chạy nhanh bao nhiêu ông càng đi chậm bấy nhiêu. Đó là hạn chế trong tầm nhìn xa trông rộng của Việt Nam và nhiều quốc gia đang phát triển. Đừng có trách ai vì đó là quy luật chung của một nước đang phát triển.

Việt Nam và các nước đang phát triển thiếu đi một đội ngũ trí thức rất mạnh mẽ đủ sức ép đối với nhà nước. Ví dụ, Cuba là nước khó khăn về kinh tế nhưng lại có một đội ngũ trí thức tuyệt vời, luôn có nhiều ý kiến với nhà nước. Nhưng đội ngũ trí thức đó suy cho cùng thì vẫn phụ thuộc vào sự phát triển. Cho đến khi giải phóng, Cuba đã là một nước phát triển nhất châu Mỹ Latin, là tủ kính của nước Mỹ cho nên hệ thống đại học của nó rất tốt. Cuba xuất phát điểm từ sau cách mạng đã là rất cao rồi. Vấn đề môi trường suy cho cùng là vấn đề văn hoá và tri thức của một dân tộc. Ở những nước đang phát triển thì hai yếu tố này đều rất kém: Người ta có thể vứt rác, khạc nhổ, có thể xả chất thải ra sông suối rồi lại tắm rửa, bơi lội ở đó… Đó là vấn đề về văn hoá và môi trường.

- Thế làm thế nào để phát triển bền vững?
Phải nghĩ tới văn hoá. Tôi không hiểu sao có cả một Bộ về Văn hoá mà không có các chương trình ở trường học, trên TV về giáo dục môi trường, về văn hoá. Có thể nói, văn hoá đại chúng của ta rất kém, chỉ mang nặng khẩu hiệu. Trung Quốc cũng có rất nhiều vấn đề về môi trường và văn hoá những họ mạnh tay hơn. Ví dụ như tôi đi Vạn lý trường thành, không có một người nào đeo bám du khách để bán cái này cái kia cả. Họ cũng cần tiền đấy chứ! Nhưng kỷ cương của Nhà nước của họ rất chặt. Ở Việt Nam không có bất cứ ai quản lý cái đó cả. Đó là lỗi của Nhà nước chứ không phải là nền văn hoá Việt Nam. Những chuyện đó tưởng nhỏ nhưng vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, tôi thiết nghĩ để giải quyết cái đó không khó.

Văn hoá, tri thức, kỷ cương của Nhà nước, sự sắc nét trong bộ máy chính phủ là những yếu tố mà tôi nghĩ Việt Nam sẽ làm được nếu mạnh tay. Tôi nghĩ Việt Nam có một đội ngũ không tồi, vấn đề là sử dụng họ như thế nào. Văn hoá của người VIệt Nam không cao, không thấp. Còn nhớ năm 1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động chương trình “Đời sống mới” với nội dung như không được gọi vợ bằng mày, không tiểu tiện/đại tiện bậy bạ, mọi quầy bán háng phải có chỗ vứt rác,… Mọi người tuân thủ nghiểm chỉnh và sau vài tháng mang lại hiệu quả rất tích cực. Cho nên điều đó khó mà không khó nếu Nhà nước mạnh tay….

- Xin cảm ơn GS!

————-
Nguồn: Viet-Studies

Thứ Hai, 17 tháng 11, 2014

SA MẠC TÌNH YÊU



PILISZKY JÁNOS



(http://www.youtube.com/watch?v=FsoNHps5qtE)

( Một trong những bài thơ tình yêu địa ngục gây chấn động tâm can của Pilinszky János, nhan đề gợi nhớ đến cuốn tiểu thuyết của Mauirac (LE DÉSERT DE L'AMOUR) mà ông rất yêu mến, và nội dung ăm ắp cảm giác ê chề, bị sỉ nhục của giới văn nghệ sĩ Hungary phải chịu đựng những năm 1950 vì sự cấm đoán kiểm duyệt của chính quyền đương thời, làm sống lại những ấn tượng đã in khắc vào tâm trí nhà thơ khi chứng kiến những trại tập trung của Đức quốc xã, hủy diệt dân Do Thái cuối Đại chiến II.- NHN)



Một cây cầu, con đường bê tôn cháy bỏng,
nắng lột ngược mọi ngăn túi của mình,
hết thảy phô bày lần lượt.
Em - chính nỗi thờ ơ bất động giữa hoàng hôn.

Phong cảnh tựa đáy hố sâu nham nhở;
những vết sẹo rãy bỏng ảo ảnh bóng mờ.
Hoàng hôn đổ. Trân trân ánh rạng,
nắng chói chang. Mùa hạ, anh không bao giờ quên.

Là mùa hạ và nóng như chớp lửa.
Đứng im lìm, anh biết, những đôi cánh chẳng run
một đàn chim, như những thiên thần
trong lởm chởm tường gai, chuồng vây hãm.

Em còn nhớ không? Trước tiên là gió;
rồi đến đất; và rồi đến chuồng.
Lửa và phân. Đôi ngày
vài ba tiếng vỗ cánh, vài ba phản xạ.

Và cơn khát. Phút giây anh xin uống
đến hôm nay từng ngụm bỏng, anh vẫn nghe
anh gắng chịu bất lực như đá,
và dập tắt đi mọi ảo ảnh biến tan.

Tháng năm trôi, năm tháng và niềm tin-
như giữa rác rơm chiếc nồi nhôm lăn lóc.



Nguyễn Hồng Nhung dịch từ bản tiếng Hung

Thơ Hà Thủy Nguyên





Hà Thủy Nguyên



SN: 1986
Cư trú: Hà Nội
Nhà văn/Biên kịch/ Admin tại Bookhunterclub.com

Tác phẩm:

Tiểu thuyết "Điệu nhạc trần gian" NXB Phụ Nữ 2004
Tiểu thuyết "Cầm thư quán" NXB Phụ Nữ 2008
Tiểu thuyết "Thiên mã" NXB Kim Đồng 2010
Tập truyện ngắn "Bên kia cánh cửa" NXB Lao Động 2013

Phim truyền hình:
"Vòng nguyệt quế" VTV1- 2008
"Blog nàng dâu" VTV3 - 2009
"Nếp nhà" VTV1- 2010




CỨT ĐÁI

Iả..
Đái…
Thiền định…
Sáng tác
Thay đổi thế giới
Same shit different ways…

Sáng lại sáng lại sáng
Thoát khỏi cơn mơ không có thật
(Hoặc thật theo những cách khác nhau)

Tôi đã móc họng
Nôn mửa ngày hôm qua
Nhầy nhụa
Bốc mùi
Chua loét
Lẫn vài vệt máu của một kẻ tự cào xước chính mình
Không đủ

Cố rặn những cục cứt quá khứ
Não tôi sẽ toàn cứt nếu táo bón
Sáng hôm nay sẽ chỉ là đống cứt của hôm qua.

Thế giới nhiều kẻ táo bón
Chạy trốn vào các cơn điên
Lúc này ở Hồng Kông, người dân đang cần đi ỉa
Biểu tình cũng là một cuộc đi ỉa tập thể mà thôi…

Hơi cay của cảnh sát
Cú đánh rắm bức bối của những kẻ không thể ỉa được
Thế giới nơi tôi đang sống
Cuộc chiến của những kẻ ỉa chảy và những kẻ táo bón
Họ không thể ỉa theo bản năng của mình
Họ nhịn ỉa đã quá lâu

Thế giới nơi tôi đang sống
Họ chạy trốn vào Thiền định
Okay, bạn không thích từ ỉa
Hãy nhớ về cảm giác đi đái
Xè xè tuôn chảy

Mọi vận động đều dừng lại
Các bậc chứng ngộ gọi đó là dòng sông tự tuôn chảy trong mình

Thế giới nơi tôi đang sống
Nhịn ỉa là đạo đức
Nhịn ỉa là tư tưởng
Nhịn ỉa là nền văn minh
Người ta ném cứt vào mặt nhau
Rồi gọi đó là ý tưởng
(Giống như điều tôi đang làm đây)

Tôi cũng đang ném những đống cứt vào mặt các bạn và mong muốn rằng các bạn thích nó

Các bạn không khác những con ruồi
Những con ruồi cũng phải ỉa
Cứt của tôi trở thành cứt trong bạn trở thành cứt của một ai đó cứt của thế giới miên viễn cứt

Mọi người đều cần đái trong lúc ỉa
Thiền định ra đời
Iả trở nên trơn tru hơn….

Hãy ỉa theo cách của mình
Hãy đái theo cách của mình
Hãy đánh rắm theo cách của mình
Mặc kệ mùi hôi thối

Thế giới nơi tôi sống
Được tạo nên bởi xú uế
Xú uế sẽ trở về cùng xú uế
Cứt của tôi và cứt của bạn thì có khác quái gì nhau?

Ôi đống cứt này
Độc ác thay
Tôi không thể từ bỏ
Khi ngửi đống cứt của ai đó
Tôi thấy mùi của mình
Mùi của những ngày tháng nặng nhọc kéo lê chờ đợi ngày tận thế
Mùi của khát khao những cái ôm
Mùi của một cảm giác đánh mất bản thân mình
Mùi của tham vọng hủy diệt thế giới bởi quá yêu thế giới
Mùi của tôi
Hoặc đống cứt của ai đó đã vứt sang tôi

Aha!
Sung sướng thay!
Tôi ỉa ra linh hồn
Linh hồn chỉ là đống cứt vĩ đại tự khoác lên mình vỏ bọc thần thánh rồi thôi miên đám ruồi nhặng

Iả mãi sẽ đau đít
Cũng không nhiều cứt đái đến vậy
Thôi đành giật nước xả trôi
Ngày này qua ngày khác rồi lại ngày

Thế giới nơi tôi đang sống
Bao giờ hết ỉa đái
Bao giờ các vị giật nước và xả trôi sự điên rồ?
Này thì giật nước!



MẤT NGỦ





“When you have insomnia, you're never really asleep... and you're never really awake.” – Fight Club



1.

Hãy nhắm đôi mắt lại
Bóng đêm sẽ đêm hơn…
Không thể chìm trong bóng tối
Vệt sáng lôi ta vào thực tại, vỡ vụn

Bóng đêm tràn vào những lỗ chân lông
Ánh sáng chỉ còn là ký ức, thực tại nơi ta mở mắt
Nhưng ký ức có chết bao giờ
Nó vỡ vụn

Vỡ vụn
Vỡ
Vụn
Trong lỗ chân lông

Mưa cầu kinh ngoài cửa sổ
Xếp các mảnh vụn
Cấu trúc lại thực tại
Trên những lỗ chân lông
Mắt nhắm cũng như là không nhắm

2.

Sau nhiều đêm không ngủ
Bóng đêm tràn sang thực tại
Chúng ta nhìn thấy trong ánh sáng li ti đốm đen
Không còn các vật thể
Không còn bông hoa, không còn lá vàng rơi, không còn sóng nước lóng lánh
Chỉ còn những hình khối, những tinh thể xếp chồng lên nhau

Không còn hương thơm, không còn màu sắc, không còn thanh âm
Chỉ còn những luồng năng lượng luân chuyển
Không còn con người
Chỉ còn những bóng mờ lướt qua
Những gì để lại cũng chỉ là đám cặn bã đọng lại trong lỗ chân lông

Đâu mất rồi tình yêu
Đâu mất rồi tiếng cười
Đâu mất rồi niềm hứng khởi
Bầu nhiệt huyết đông cứng
Rồi lại rã rời
Rã rời

Rời
Một đống rác vĩ đại bị nghiền nát đợi ngày tái chế

3.

Ngày hôm qua như ngày hôm nay
Ngày hôm nay như ngày mai
Không có thời gian

Thực tại và cõi mơ tưởng
Bóng đêm và ánh sáng
Không có không gian

Thức tỉnh hay mê man
Chạm vào mọi thứ đều hư không
Không có tồn tại

Tôi chỉ thấy tôi trong đám cặn bã nơi lỗ chân lông,
Đám cặn bã vẫn hàng đêm khều thực tại
Thực tại ăn mòn tôi
Ăn mòn cảm xúc
Ăn mòn tư tưởng
Thành rác rưởi
Bốc mùi

Ai đó đã gọi chúng là tác phẩm
Chúng cần phân hủy
Thành phân
Hoặc là thức ăn cho loài ruồi nhặng
Hoặc là tan vào trong đất
Lắng nghe tiếng thầm thì của thực tại nẩy mầm…